intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan các thuyết vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị và định hướng ứng dụng tại Việt Nam

Chia sẻ: ViUzumaki2711 ViUzumaki2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

55
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này thể hiện tổng quan về các thuyết vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị, chỉ ra những định hướng cho việc ứng dụng chúng vào hoạt động nghiên cứu và hoạt động quản trị kinh doanh tại các doanh nghiệp Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan các thuyết vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị và định hướng ứng dụng tại Việt Nam

TỔNG QUAN CÁC THUYẾT VẬN DỤNG TRONG<br /> NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ ĐỊNH HƯỚNG<br /> ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM<br /> Nguyễn Thị Thanh Thúy1<br /> <br /> Tóm tắt: Bài viết này thể hiện tổng quan về các thuyết vận dụng trong nghiên<br /> cứu kế toán quản trị, chỉ ra những định hướng cho việc ứng dụng chúng vào hoạt động<br /> nghiên cứu và hoạt động quản trị kinh doanh tại các doanh nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở<br /> đó, bài viết chứng tỏ rằng những thuyết như: thuyết ngẫu nhiên, thuyết đại diện, thuyết<br /> khuyếch tán, thuyết tâm lý, thuyết xã hội được xem là nền tảng cơ sở cho việc nghiên<br /> cứu KTQT về nhiều khía cạnh: cung cấp thông tin ra quyết định, hoạch định chiến lược<br /> kinh doanh cho doanh nghiệp, các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ vận dụng KTQT tại<br /> doanh nghiệp,… trong nhiều bối cảnh khác nhau. Tuy nhiên, các thuyết vẫn có sự khác<br /> biệt trong ứng dụng vào thực tiễn. Khả năng vận dụng kế toán quản trị ở các nước có nền<br /> kinh tế chuyển đổi đang ngày càng phát triển nhanh, trong đó có Việt Nam.<br /> Từ khoá: Kế toán quản trị, thuyết ngẫu nhiên, thuyết đại diện, thuyết khuyếch tán,<br /> thuyết tâm lý, thuyết xã hội<br /> 1. Giới thiệu<br /> Luật Kế toán Việt Nam ban hành từ năm 2003 đã thừa nhận rằng hệ thống kế toán<br /> trong một doanh nghiệp bao gồm kế toán tài chính và kế toán quản trị (KTQT). Hệ thống<br /> kế toán tài chính được các cơ quan quản lý nhà nước ban hành, về cơ bản đã tuân theo<br /> những thông lệ và chuẩn mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên KTQT lại không bắt buộc sử<br /> dụng trong các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì nó<br /> dường như không tồn tại. Với sự hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế<br /> thị trường, buộc các doanh nghiệp Việt Nam “chuyển mình” và dần dần vận dụng kế toán<br /> quản trị vào quản trị doanh nghiệp. Mức độ vận dụng kế toán quản trị là khác nhau đối<br /> với mỗi doanh nghiệp. KTQT là tập hợp các kỹ thuật hỗ trợ các chức năng quản lý khác<br /> nhau với mục tiêu tổng quát là đem lại giá trị tối ưu cho doanh nghiệp. Khác với các công<br /> tác khác trong hoạt động kế toán, hoạt động KTQT được điều khiển bởi nhu cầu quản<br /> trị hơn là do các bên liên quan khác. Sự thừa nhận và ứng dụng KTQT bị tác động bởi<br /> các nhân tố tổ chức, hành vi, kinh tế và xã hội. Để hiểu được cách thức các nhân tố này<br /> 1. ThS. Khoa Kinh tế, trường ĐHQN<br /> <br /> 113<br /> <br /> TỔNG QUAN CÁC THUYẾT VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN...<br /> tác động lên hoạt động KTQT, có nhiều thuyết như: thuyết ngẫu nhiên, thuyết đại diện,<br /> thuyết khuyếch tán, thuyết xã hội và thuyết tâm lý được áp dụng trong hoạt động KTQT.<br /> Ứng dụng các thuyết này giúp nhà nghiên cứu tìm hiểu KTQT theo nhiều ngữ cảnh khác<br /> nhau, để đo lường ảnh hưởng của nhiều kỹ thuật KTQT và cải thiện hoạt động KTQT<br /> trong tương lai. Mục tiêu của bài viết này là trình bày tổng quan các thuyết này trong<br /> nghiên cứu KTQT và định hướng cho việc vận dụng vào các doanh nghiệp Việt Nam.<br /> 2. Các thuyết vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị và định hướng ứng<br /> dụng tại Việt Nam<br /> 2.1. Các thuyết vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị<br /> 2.1.1. Thuyết ngẫu nhiên (contingency theory)<br /> Thuyết ngẫu nhiên là cách tiếp cận để nghiên cứu hành vi tổ chức nhằm giải thích<br /> cách thức mà những yếu tố ngẫu nhiên như công nghệ, văn hoá và môi trường bên ngoài<br /> ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của tổ chức. Thuyết ngẫu nhiên trong KTQT là<br /> “không có một hệ thống kế toán thống nhất nào có thể áp dụng cho tất cả các doanh<br /> nghiệp trong mọi ngữ cảnh” (Otley, 1980, tr.413). Nói một cách khác, một hệ thống<br /> KTQT thích hợp với doanh nghiệp lệ thuộc vào đặc điểm của doanh nghiệp, cũng như<br /> môi trường hoạt động của doanh nghiệp (Otley, 1980; Gordon, 2000). Các lý thuyết ngẫu<br /> nhiên đã được phát triển từ các thuyết chức năng luận xã hội của cấu trúc xã hội như sự<br /> tiếp cận các cấu trúc về nghiên cứu xã hội bởi Reid và Smith (2000), Chenhall (2003) và<br /> Woods (2009). Lý thuyết ngẫu nhiên cung cấp cho các học giả một khuôn khổ lý thuyết<br /> cho việc thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm trong lĩnh vực KTQT trong suốt 20 năm<br /> qua.<br /> Theo thuyết ngẫu nhiên, KTQT được coi là thành phần của cơ cấu tổ chức. Việc<br /> thông qua thuyết ngẫu nhiên để nghiên cứu KTQT là quá trình điều chỉnh sự phù hợp<br /> giữa KTQT cụ thể với các biến theo ngữ cảnh trong một tổ chức. Một vài nghiên cứu sử<br /> dụng lý thuyết ngẫu nhiên để kiểm chứng mối quan hệ giữa hệ thống thông tin KTQT hay<br /> việc sử dụng các công cụ KTQT và các nhân tố ngẫu nhiên ảnh hưởng đến doanh nghiệp.<br /> Những nhân tố ngẫu nhiên bao gồm: môi trường hoạt động (Merchant, 1990; Chapman,<br /> 1997; Hartmann, 2000), cấu trúc của doanh nghiệp (Chenhall và Morris, 1986; Chia,<br /> 1995), công nghệ (Ittner và Larcker, 1995; Sim và Killough, 1998; Mia, 2000), qui<br /> mô doanh nghiệp (Merchant, 1981), chiến lược (Merchant, 1990; Chenhall và Morris,<br /> 1995) và văn hoá (Vance và cộng sự , 1992; Harrison, 1993, O’Conner, 1995).<br /> Thuyết ngẫu nhiên cũng được áp dụng cho cấp độ thấp của hành vi tổ chức. Hayes<br /> thẩm định sự thích hợp của kế toán quản trị để đo lường hiệu quả của những bộ phận<br /> khác nhau trong một tổ chức lớn và thấy rằng các yếu tố ngẫu nhiên là những công cụ dự<br /> báo chủ yếu cho hiệu quả của các bộ phận sản xuất. Hayes cũng ủng hộ việc dùng thuyết<br /> ngẫu nhiên trong nghiên cứu sự đánh giá tổ chức và định giá doanh nghiệp. Nghiên cứu<br /> 114<br /> <br /> Nguyễn Thị Thanh Thúy<br /> của Hayes cho rằng ba sự ngẫu nhiên chủ yếu tác động đến sự thể hiện của doanh nghiệp:<br /> nhân tố bên trong, yếu tố phụ thuộc lẫn nhau và yếu tố môi trường.<br /> Shank (1989) áp dụng lý thuyết ngẫu nhiên trong việc điều tra nghiên cứu ứng<br /> dụng hệ thống kế toán quản trị và thông tin theo hướng chiến lược. Banker, Datar và<br /> Kemerer xem xét ảnh hưởng của các nhân tố kết cấu và thấy rằng doanh nghiệp thực<br /> hiện chương trình đúng thời hạn (JIT) hay các phân xưởng thường cung cấp thông tin<br /> liên quan đến năng suất cho công nhân.<br /> 2.1.2. Thuyết đại diện (Agency theory)<br /> Theo học thuyết về đại diện, quan hệ giữa các cổ đông và người quản lý công ty<br /> được hiểu như là quan hệ đại diện. Mối quan hệ này được coi như là quan hệ hợp đồng<br /> mà theo đó các cổ đông (những người chủ - principals), bổ nhiệm, chỉ định người khác,<br /> người quản lý công ty (người đại diện - agents), để thực hiện việc quản lý công ty cho<br /> họ mà trong đó bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của<br /> công ty. Thuyết đại diện liên quan đến việc giải quyết các vấn đề mà có thể tồn tại trong<br /> mối quan hệ đại diện; đó là, giữa các chủ doanh nghiệp (như cổ đông) và các nhà quản<br /> lý của chủ doanh nghiệp (ví dụ, giám đốc điều hành công ty). Hai vấn đề mà thuyết đại<br /> diện đề cập đến là:<br /> Thứ nhất: Các vấn đề nảy sinh khi những nhu cầu hay mục tiêu của cổ đông và nhà<br /> quản lý có mâu thuẫn, và cổ đông không thể xác minh (vì nó khó khăn và/hoặc tốn nhiều<br /> chi phí để làm như vậy) được những gì các nhà quản lý đã thực sự làm.<br /> Học thuyết về đại diện nhấn mạnh rằng, các cổ đông cần phải sử dụng các cơ chế<br /> thích hợp để có thể hạn chế sự phân hoá lợi ích giữa cổ đông và người quản lý công ty,<br /> bằng cách thiết lập những cơ chế đãi ngộ (comensation mechanisms) thích hợp cho các<br /> nhà quản trị, và thiết lập cơ chế giám sát (supervisory mechanisms) hiệu quả để hạn chế<br /> những hành vi không bình thường, tư lợi của người quản lý công ty.<br /> Thứ hai: Các vấn đề phát sinh khi cổ đông và nhà quản lý có thái độ khác nhau<br /> đối với rủi ro. Bởi vì mức độ chấp nhận rủi ro, thứ tự ưu tiên đối với rủi ro là khác nhau<br /> nên cổ đông và nhà quản lý có thể có những hành động khác nhau.<br /> Kosnik (1987) kiểm nghiệm cơ chế thông tin về chủ nghĩa cơ hội của quản lý, ban<br /> giám đốc. Sử dụng cả hai thuyết lãnh đạo (hegemony) và thuyết đại diện (agency), bà<br /> liên hệ các đặc trưng của lãnh đạo khi nào thư xanh (greenmail1) thực sự được trả (chi trả<br /> thư xanh không được thừa nhận trong lợi ích của cổ đông) và áp dụng dù vàng (Phụ cấp<br /> <br /> 1. Greenmail: Thư xanh - Một biệt ngữ chỉ thông lệ mà những người ngoài mua cổ phiếu của một công<br /> ty sau đó buộc công ty phải mua lại các cổ phiếu đó với giá ưu đãi để tránh bị chiếm quyền kiểm soát.<br /> <br /> 115<br /> <br /> TỔNG QUAN CÁC THUYẾT VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN...<br /> thôi việc - Golden parachutes1). Như được dự báo trong thuyết đại diện (Fama & Jensen,<br /> 1983), lãnh đạo DN chống lại thư xanh có tỷ lệ cao hơn so với các giám đốc bên ngoài<br /> và tỷ lệ cao hơn giám đốc thừa hành bên ngoài.<br /> Argawal and Mandelker (1987) khảo sát khi nào các cổ đông thừa hành của công<br /> ty chứng khoán hạn chế các vấn đề đại diện giữa cổ đông và nhà quản lý. Đặc biệt, họ<br /> nghiên cứu mối quan hệ giữa cổ phiếu và quyền chọn cổ phiếu chứng khoán; khi nào<br /> quyết định sáp nhập2 và tài chính phù hợp với lợi ích cổ đông. Nói chung, nhà quản lý<br /> thích việc sáp nhập có rủi ro thấp và việc huy động vốn vay (Debt Financing) thấp hơn.<br /> 2.1.3. Thuyết khuyếch tán (Diffusion theory)<br /> Theo Rogers, thuyết khuyếch tán được định nghĩa là tiến trình mà “cái mới” được<br /> truyền đi thông qua những kênh nhất định theo thời gian trong một nhóm người của hệ<br /> thống xã hội. (Rogers, 1983, p.5; 2003, p.11). Khuyếch tán là một dạng đặc biệt của<br /> truyền thông, có liên quan với sự phân tán của tin tức được coi là ý tưởng mới.<br /> “Cái mới” có thể là một ý tưởng, một công cụ hay một đối tượng được xem là mới<br /> đối với một nhóm người (Rogers, 1983). Thuật ngữ “mới” ở đây cần được hiểu theo<br /> một nghĩa rộng. Một ý tưởng cũ được ứng dụng trong một hoàn cảnh mới hay áp dụng<br /> lại trong cùng ngữ cảnh nhưng ở thời điểm sau đó vẫn được xem là “cái mới” (Ax và<br /> Bjornenak, 2005).<br /> Rogers (2003) cho rằng những cảm nhận về đặc tính của “cái mới” ảnh hưởng đến<br /> tỉ lệ áp dụng nó. Ông đã chỉ ra 5 đặc tính chính của cái mới đó là: sự thuận lợi (relative<br /> advantage), sự so sánh (compatibility), sự phức tạp (complexity), khả năng có thể dùng<br /> thử (trialability) và sự quan sát (observability).<br /> Sự thuận lợi được đo lường thông qua việc người dự định áp dụng “cái mới” thấy<br /> được nó tốt hơn cái đang tồn tại. Khi sự thuận lợi của “cái mới” được nhìn nhận càng cao,<br /> thì khả năng “cái mới” được áp dụng càng lớn.<br /> Sự so sánh được đo lường thông qua việc cảm nhận mức độ “cái mới” tương ứng<br /> với kinh nghiệm, cái đã tồn tại. Khi sự so sánh được cảm nhận càng cao thì mức độ áp<br /> dụng cái mới càng lớn.<br /> Sự phức tạp được đo lường thông qua việc cảm nhận mức độ dễ sử dụng và dễ<br /> hiểu. Mức độ phức tạp của cái mới càng cao thì khả năng áp dụng cái mới càng thấp.<br /> 1. Golden parachute: Dù vàng (Phụ cấp thôi việc) - Một hợp đồng mang lại những lợi ích hào phóng cho<br /> các giám đốc từ chức. Cũng liên quan đến các biện pháp chống việc bị mua quyền kiểm soát vì nhiều<br /> thỏa thuận mang lại lợi ích to lớn cho những giám đốc bị buộc phải rời công ty sau khi bị mua lại và<br /> những hợp đồng như thế khiến cho việc mua lại quá tốn kém.<br /> 2. Hoạt động mua lại một phần nào đó của một công ty bởi một công ty khác, phần được mua lại có thể<br /> là các tài sản, một phần hay toàn bộ công ty.<br /> <br /> 116<br /> <br /> Nguyễn Thị Thanh Thúy<br /> Khả năng có thể dùng thử được đo lường thông qua việc trải nghiệm mà không<br /> gặp nhiều trở ngại. Nếu khả năng có thể dùng thử càng lớn thì khả năng “cái mới” được<br /> áp dụng càng cao.<br /> Sự quan sát là mức độ mà cái mới có thể nhìn thấy được đối với người khác. Nếu<br /> mức độ quan sát được càng cao thì khả năng “cái mới” được áp dụng càng cao.<br /> KTQT đã vận dụng khuôn khổ của lý thuyết về sự khuếch tán để giải thích cách<br /> thức và phương thức khuếch tán của các công cụ KTQT hiện đại như thẻ điểm cân bằng,<br /> tính giá dựa trên cơ sở hoạt động; như nghiên cứu của Bjørnenak (1997), Malm (1999),<br /> Lapsley và Wright (2004), Ax và Bjørnenak (2005), Alcouffe và cộng sự (2008) …<br /> Nhiều nhà nghiên cứu đã vận dụng thuyết khuyếch tán vào việc xác định những<br /> nhân tố nào trong nhóm năm nhân tố sự thuận lợi, sự so sánh, sự phức tạp, khả năng có<br /> thể dùng thử và sự quan sát, sẽ thúc đẩy hoặc hạn chế việc áp dụng các công cụ KTQT ở<br /> các nước có nền kinh tế chuyển đổi hoặc các nước đang phát triển.<br /> 2.1.4. Lý thuyết xã hội (Sociological theories)<br /> Lý thuyết xã hội tập trung vào cách mà doanh nghiệp được thành lập thông qua sự<br /> tương tác giữa con người, tổ chức, và xã hội. Covaleski và cộng sự (Et al.) cho rằng sự<br /> tồn tại của một tổ chức yêu cầu phải phù hợp với các quy tắc xã hội về các hành vi chấp<br /> nhận được thêm vào để đạt được hiệu quả sản xuất ở mức độ cao.<br /> Lý thuyết xã hội xem hệ thống KTQT là hoạt động xã hội hơn là một công cụ cho<br /> việc ra quyết định nội bộ và hiệu quả tổ chức. Khi đó, hoạt động KTQT phản ánh khả<br /> năng và đời sống chính trị của cấu trúc xã hội. Wildavsky và Caiden (2003) nhấn mạnh<br /> rằng hệ thống ngân sách nên được sử dụng cho mục đích hơn là kiểm soát. Tổ chức có<br /> mâu thuẫn nguồn vốn có thể dùng ngân sách để thiết lập và duy trì quan hệ quyền lực và<br /> bản chất chính trị của ngân sách được theo dõi trong suốt vòng đời của tổ chức.<br /> Quan điểm quá trình lao động cơ bản nằm trong tác phẩm của Carl Marx, nhấn<br /> mạnh sự phân chia giai cấp trong xã hội, mâu thuẫn giữa lao động tiền lương và nhà tư<br /> bản, sự khai thác lao động và sự nổi dậy của giai cấp vô sản. Từ quan điểm quá trình<br /> lao động, lao động cần được giảm thiểu và tối đa hoá giá trị thặng dư, không giống như<br /> các yếu tố khác của sản xuất. Do đó các nhà đầu tư phải kiểm soát được lao động cũng<br /> như quá trình lao động. Quan điểm quá trình lao động được thừa nhận trong tác phẩm<br /> của Hopper và Armstrong (1991), Knights và Collinson (1987) và Oakes và Covaleski<br /> (1994), họ đều khẳng định rằng thông tin chi phí và KTQT là những công cụ khai thác<br /> hiệu quả sản xuất.<br /> Lý thuyết xã hội cho thấy hệ thống KTQT trong doanh nghiệp không còn là những<br /> vấn đề mang tính nội bộ mà nó chịu tác động ảnh hưởng trong một bối cảnh xã hội chung,<br /> liên quan đến các chế độ, chính sách hiện hành và giải quyết các mối quan hệ với người<br /> 117<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2