intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan chính sách thu hút FDI bền vững ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

45
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Tổng quan chính sách thu hút FDI bền vững ở Việt Nam phân tích tổng quan những chính sách thu hút và sử dụng FDI của Việt Nam trong thời gian vừa qua dưới góc nhìn của phát triển bền vững. Dựa trên ba trụ cột của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường, bài viết làm rõ những bất cập trong các chính sách hiện hành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan chính sách thu hút FDI bền vững ở Việt Nam

  1. TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TS. Trần Toàn Thắng TS. Nguyễn Đoan Trang Trung Tâm Thông tin và Dự báo KT - XH Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tóm tắt Bài viết này phân tích tổng quan những chính sách thu hút và sử dụng FDI của Việt Nam trong thời gian vừa qua dưới góc nhìn của phát triển bền vững. Dựa trên ba trụ cột của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường, bài viết làm rõ những bất cập trong các chính sách hiện hành. Kết quả phân tích cho thấy, Việt Nam chưa có chính sách đủ hữu hiệu để gắn kết khu vực trong nước với khu vực FDI, qua đó tận dụng hiệu ứng lan tỏa từ dòng vốn này. Ngoài ra, những ưu đãi đầu tư dành cho doanh nghiệp FDI dẫn đến thất thu, kém bền vững ngân sách và hiện tượng chuyển giá. Cùng với đó là những quy định về môi trường chưa chặt chẽ, khiến doanh nghiệp FDI lợi dụng để chuyển giao những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Hơn thế nữa, các chính sách hướng tới cải thiện năng lực hấp thụ dòng vốn này chưa được hoàn thiện, thể hiện ở việc đầu tư cho giáo dục và hạ tầng chưa đạt yêu cầu. Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý và nâng cao năng lực thực thi chính sách để việc thu hút FDI thực sự gắn liền với phát triển bền vững. Từ khóa: FDI, phát triển bền vững, môi trường, chính sách ưu đãi đầu tư, chuyển giao công nghệ 1. GIỚI THIỆU Qua 30 năm cải cách và mở cửa, bên cạnh những thành tựu to lớn của khu vực FDI mang lại cho nền kinh tế, thời gian gần đây nhiều ý kiến đặt ra những lo ngại về thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam đặc biệt dưới góc độ phát triển bền vững. Những lo ngại này tập trung ở hai nhóm vấn đề: (1) Khu vực FDI đang hoạt động một cách độc lập với phần còn lại của nền kinh tế, thể hiện qua sự hợp tác, mối liên kết sản xuất rất yếu với doanh nghiệp trong nước, đồng thời vẫn cạnh tranh về sử dụng nguồn lực đầu vào như lao động, đất đai với khu vực trong nước. Hệ quả là trong khi Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào tăng trưởng và xuất khẩu của khu vực FDI, lợi ích từ tăng trưởng, xuất nhập khẩu này người dân không nhiều. Tính bền vững trong tăng trưởng, thương mại vì vậy cũng bị giảm đi. 3
  2. (2) Lợi thế thu hút FDI của Việt Nam dựa vào lao động giá rẻ và ưu đãi thuế đem đến nhiều hệ lụy. Nguồn thu ngân sách từ thuế bị giảm đi do ưu đãi dài, trên diện rộng; các doanh nghiệp FDI ít có động lực áp dụng công nghệ tiên tiến. Hệ quả là phân bổ thu nhập cho lao động thấp, tiềm năng ô nhiễm môi trường cao. Trong thực tế, những vấn đề nêu ở trên không mới, tồn tại dai dẳng và cũng đã được bàn thảo nhiều tại các diễn đàn, đặc biệt khi Việt Nam khẳng định chủ trương phát triển bền vững. Bài viết này được thực hiện nhằm tổng quan lại những chính sách thu hút và sử dụng FDI trong thời gian vừa qua dưới góc nhìn của phát triển bền vững. Dựa trên ba trụ cột (bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường), bài viết sẽ làm rõ những bất cập trong các chính sách hiện hành, từ đó, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện khung khổ luật pháp, chính sách với khu vực FDI nhằm nâng cao tính bền vững của khu vực này cũng như đóng góp nhiều hơn cho phát triển bền vững của cả nền kinh tế. Bài viết gồm 3 phần: Phần 1, thảo luận về một số khái niệm liên quan và gắn với FDI, làm rõ một số chỉ tiêu sử dụng dưới góc độ đánh giá chính sách; Phần 2, tổng quan các chính sách hiện hành và trước đây làm rõ hàm lượng “phát triển bền vững gắn với thu hút FDI” đồng thời đưa ra những khoảng thiếu hụt về mặt chính sách; Phần 3 đưa ra một số kiến nghị điều chỉnh chính sách thu hút FDI từ góc độ tổng quan chính sách hiện hành. 2. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ FDI BỀN VỮNG 2.1. Khái niệm và chỉ số Hiện đã có khá nhiều khái niệm về phát triển bền vững ở mức độ rộng hẹp khác nhau, hay được sử dụng là “Phát triển bền vững là một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế hệ trong tương lai (ADB)”. Với khái niệm này, từ góc độ thu hút và sử dụng FDI, phát triển bền vững của khu vực FDI sẽ gắn với hai vấn đề: (1) phát thải môi trường của khu vực FDI; (2) khai thác và sử dụng tài nguyên. Tuy nhiên, với vai trò là một luồng vốn bổ sung từ bên ngoài vào nền kinh tế, nội hàm phát triển bền vững của FDI nếu chỉ đề cập đến môi trường, khai thác tài nguyên là chưa đủ. Những nghiên cứu gần đây đưa ra khái niệm “FDI bền vững”, được cho là khái niệm phù hợp hơn. Theo UNESCAP , có hai cách hiểu và thực tế cũng chưa có sự đồng thuận về cả hai cách hiểu này. Cách thứ nhất: FDI bền vững là FDI đóng góp vào sự phát triển bền vững của một quốc gia nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội, kinh tế về môi trường; Cách thứ hai: FDI vẫn đảm bảo tạo ra lợi nhuận để duy trì sự tham gia 4
  3. tích cực của doanh nghiệp mà không làm tổn hại tới lợi ích kinh tế của nước nhận đầu tư, đồng thời vẫn tạo ra những lợi ích cho các mục tiêu phát triển dài hạn của quốc gia đó. Trong bài này, chúng tôi thiên về cách hiểu thứ hai với quan điểm cho rằng, các tác động tích cực của FDI tới mục tiêu dài hạn chỉ tồn tại khi bản thân FDI tồn tại, nói cách khác, mục tiêu của nhà đầu tư phải được đáp ứng trước khi nhắm đến các mục tiêu dài hạn khác. Trong thực tế sẽ luôn có xung đột giữa hai mục tiêu, đặc biệt là trong ngắn hạn, vì vậy, các chính sách gắn với FDI bền vững sẽ là những chính sách nhằm kích thích các tác động tích cực cũng như hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực của hai mục tiêu kể trên. Mặc dù chưa có sự đồng thuận hoàn toàn giữa hai cách hiểu về FDI bền vững, điều quan trọng hơn trong thực tiễn là những biểu hiện hoặc những chỉ số nào phản ảnh luồng vốn này là bền vững? Nếu như phát triển bền vững nhấn mạnh đến ba trụ cột: bền vững về kinh tế, bền vững về môi trường và bền vững về xã hội, thì FDI bền vững sẽ phải tính đến cả tác động lan tỏa của những biểu hiện này (có thể cả tiêu cực lẫn tích cực) tới các luồng vốn còn lại trong nền kinh tế. Như vậy, FDI bền vững có thể bao gồm những thành tố như trong hình dưới đây, yếu tố “quản trị tốt” được đưa vào nhằm đảm bảo tính bền vững và lan tỏa của các yếu tố còn lại. Nguồn: UNESCAP Những chỉ số cụ thể có thể bao gồm như sau: (1) Quản trị tốt: tính minh bạch, quản lý, tương tác giữa các chủ thể (Nhà nước, nhà đầu tư trong nước, người lao động), giải pháp tiếp cận thị trường, các tiêu chuẩn về chuỗi cung ứng. (2) Bền vững về kinh tế: xuất khẩu, lao động, liên kết sản xuất, vốn, nộp thuế, chuyển giao công nghệ, hạ tầng. (3) Bền vững về môi trường: kiểm soát ô nhiễm, nguồn gốc carbon, chuyển giao kỹ thuật kiểm soát môi trường, sử dụng nước và quản lý nước. (4) Bền vững về xã hội: quyền lao động, nâng cao kỹ năng, không phân biệt đối xử, y tế cộng đồng, phát triển cân bằng. 5
  4. Với những biểu hiện này của FDI bền vững, mục tiêu thu hút FDI bền vững cũng sẽ thay đổi so với thông thường, từ việc chỉ tập trung vào các yếu tố kinh tế như vốn, lao động, xuất khẩu, chuyển giao công nghệ… thu hút FDI bền vững tập trung vào nhiều yếu tố hơn, ngoài các yếu tố kể trên còn bao gồm: thu hút FDI nhằm nâng cao vị trí trong chuỗi giá trị hoặc để xây dựng kinh tế tri thức (ví dụ R&D, công nghệ cao, kiến thức nước ngoài), thu hút FDI để xây dựng nền kinh tế các bon thấp, bền vững về môi trường (ví dụ công nghệ năng lượng tái tạo, xử lý nước), thu hút FDI vào những ngành hạ tầng cụ thể (ICT, năng lượng, hạ tầng giao thông, hạ tầng nước…) Từ góc độ phát triển bền vững, những cấu thành và chỉ số ở trên cho thấy, FDI không chỉ là một dòng vốn có thể kích thích tăng trưởng kinh tế, mà còn bao gồm các tài sản như vốn dài hạn, công nghệ, tiếp cận thị trường, bí quyết và kỹ năng. Như vậy, FDI có thể đóng góp cho sự phát triển bền vững bằng cách cung cấp các nguồn tài chính vào những nơi mà nguồn lực này còn khan hiếm; tạo việc làm; tăng cường năng lực xuất khẩu; chuyển giao kỹ năng và phổ biến công nghệ; tăng GDP thông qua đầu tư và giá trị gia tăng; và tạo ra doanh thu tài chính. Ngoài ra, FDI có thể hỗ trợ đa dạng hóa và nâng cấp ngành công nghiệp, tăng năng suất ngành nông nghiệp và tăng cường năng lực sản xuất, gồm cả cơ sở hạ tầng. Quan trọng hơn, FDI có thể đóng góp cho sự phát triển của doanh nghiệp trong nước thông qua mối liên kết với các nhà cung cấp và giúp các doanh nghiệp trong nước tham gia vào các chuỗi giá trị GVC. Những tác động phát triển tích cực này của FDI không phải lúc nào cũng thành hiện thực, do vậy cần tác động chính sách. Bên cạnh đó, tác động của FDI cũng có thể là tiêu cực. Ví dụ, nó có thể dẫn đến việc dịch chuyển các nguồn tài chính ra ngoài dưới dạng thu nhập chuyển về nước; trong một số trường hợp, FDI có thể lấn át đầu tư trong nước và doanh nghiệp trong nước; làm giảm việc làm bằng cách áp dụng các phương thức làm việc hiệu quả hơn hoặc thông qua các cơ cấu lại; FDI có thể dẫn đến tăng nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu (hoặc mang lại lợi nhuận xuất khẩu ròng hạn chế), ví dụ như trong trường hợp hoạt động đầu tư đòi hỏi đầu vào trung gian hoặc đầu tư tìm kiếm thị trường; phổ biến công nghệ có thể không diễn ra, hoặc chỉ diễn ra với chi phí cao (ví dụ: thông qua phí cấp phép) và sự phát triển công nghệ trong nước có thể bị chậm lại; chuyển giao kỹ năng có thể bị giới hạn bởi bản chất của công việc được tạo ra; lợi nhuận có thể bị hạn chế bởi các chương trình tránh thuế dành cho các nhà đầu tư quốc tế, bao gồm cả chuyển giá. 2.2. Các chính sách liên quan Tổng kết từ các nghiên cứu quốc tế về chính sách cho FDI bền vững cho thấy, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững từ FDI hệ thống chính sách là khá tổng hợp, ngoài chính sách về đầu tư cần có các chính sách khác như thương mại, thuế, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, điều tiết thị trường lao động, chính sách môi trường, các vấn đề xã hội và tiếp cận đất đai. Thúc đẩy phát triển bền vững và tăng trưởng toàn diện thông qua FDI 6
  5. đòi hỏi phải có sự cân bằng giữa thúc đẩy (xúc tiến) đầu tư và các quy định về quản lý đầu tư. Chính sách phát triển nguồn nhân lực và trình độ kỹ năng: Mục tiêu của chính sách này đó là tăng khả năng thu hút được FDI bền vững, đồng thời cũng làm cho FDI có tính bền vững hơn. Sự sẵn có của nguồn lao động có kỹ năng và năng suất cao và mức chi phí cạnh tranh sẽ là lực hút lớn đối với các nhà đầu tư tìm kiếm hiệu quả. Do vậy, giáo dục và phát triển nguồn nhân lực có thể coi là yếu tố then chốt đối với chính sách đầu tư. Chính sách liên quan đến công nghệ và tri thức: Một chính sách FDI quan trọng để hướng tới phát triển bền vững là khuyến khích phổ biến công nghệ và tác động lan tỏa về công nghệ. Ví dụ, Chính phủ có thể thúc đẩy phát triển các cụm công nghệ để thúc đẩy R&D trong một ngành cụ thể và có thể giúp nâng cấp các hoạt động công nghiệp bằng cách quy tụ các doanh nghiệp công nghệ, các nhà cung ứng và các viện nghiên cứu. Nhóm chính sách này cũng gồm những công cụ nhằm đảm bảo kích thích được các hoạt động sáng tạo thông qua bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ. Chính sách về cơ sở hạ tầng: Bên cạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm thu hút các nhà đầu tư chiến lược vào các ngành sản xuất, chính sách về cơ sở hạ tầng còn nhằm mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng trong nước có thể đòi hỏi các khoản đầu tư lớn mà các công ty trong nước không thể thực hiện được nếu không có nguồn vốn bên ngoài. Phát triển cơ sở hạ tầng cũng yêu cầu một số kỹ năng và bí quyết công nghệ nhất định mà các doanh nghiệp trong nước không có (ví dụ trong lĩnh vực viễn thông, năng lượng, thăm dò tài nguyên thiên nhiên ở vùng sâu vùng xa). Tương tự, việc chuyển sang nền kinh tế các bon thấp thường sẽ đòi hỏi phải nâng cao năng lực công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài. Các nước đang phát triển, đặc biệt là kém phát triển, tiếp tục bị thiếu hụt lớn về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là điện, nước, giao thông và viễn thông. Do tiến bộ công nghệ và những thay đổi về thái độ pháp lý, nhiều quốc gia đã thành công trong việc sử dụng đầu tư của khu vực tư nhân (nước ngoài) và cạnh tranh trong những lĩnh vực từng là độc quyền của khu vực công, ví dụ viễn thông di động hoặc sản xuất điện. Để tăng cường đóng góp của khu vực FDI trong xây dựng cơ sở hạ tầng chất lượng cao, các quốc gia nên xem xét mở cho đầu tư tư nhân (nước ngoài) vào một số ngành hoặc phân ngành nhất định có thể được cân bằng giữa việc cung cấp dịch vụ công cộng, khả năng chi trả và khả năng tiếp cận. Chính sách liên quan đến phát triển doanh nghiệp: Chính sách phát triển doanh nghiệp nhằm mục tiêu tăng cường lợi ích của đầu tư, tập trung vào tăng cường năng lực để hấp thụ và thích nghi với công nghệ và tri thức, hợp tác với các công ty đa quốc gia để có thể cạnh tranh quốc tế. Một nhiệm vụ chính sách quan trọng khác là thúc đẩy các 7
  6. mối liên kết và tác động lan tỏa giữa đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Đảm bảo chính sách thúc đẩy đầu tư định hướng vào những ngành có thể tác động lớn nhất xét về mặt tạo ra các liên kết ngược và liên kết xuôi, và đóng góp vào việc tạo ra những việc làm trực tiếp cũng như gián tiếp. Nhóm chính sách này cũng bao gồm những chính sách công nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ hoặc các ngành nhạy cảm khác mà nước chủ nhà thấy cần hạn chế đầu tư nước ngoài. Chính sách liên quan đến môi trường và tài nguyên: Một phần có sự giao thoa với nhóm chính sách về công nghệ, tuy nhiên tập trung vào kích thích nhóm công nghệ tiêu tốn ít năng lượng và thân thiện với môi trường. Nhóm này cũng bao gồm các chính sách kiểm soát môi trường, kiểm soát khai thác tài nguyên của khu vực FDI. Những ví dụ cụ thể như chính sách bảo lãnh đầu tư, thuế các bon, khuyến khích tài chính cho các dự án thân thiện với môi trường, dỡ bỏ trợ cấp đối với nhiên liệu hóa thạch…. 3. TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM Hệ thống chủ trương, chính sách pháp luật về phát triển bền vững ở Việt Nam tương đối nhiều cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên ít có nhóm chính sách nhằm vào riêng doanh nghiệp FDI do Việt Nam đã tham gia nhiều cam kết quốc tế và quy tắc không phân biệt đối xử (MFN và NT) được áp dụng khá rộng rãi. 3.1. Chủ trương, định hướng, chiến lược tổng thể Chủ trương có tính bao trùm hiện nay là Chiến lượng phát triển bền vững quốc gia (Quyết định 432/QĐ-TTg ngày 12/04/2012), Chiến lược tăng trưởng xanh (Quyết định 1393/QĐ-TTg ngày 25/09/2012), Nghị quyết 103/NQ-CP ngày 29/08/2013 về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng FDI. Trong những văn bản có tính chiến lược này, vai trò của FDI như một chủ thể thực hiện chưa được chỉ rõ (ngoại trừ văn bản cuối). Ví dụ: Chiến lược phát triển bền vững nhằm vào những mục tiêu vĩ mô rất tổng quát của phát triển bền vững, ví dụ (1) Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các cân đối lớn; giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu; từng bước thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế các bon thấp. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả mọi nguồn lực; (2) Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, tinh thần, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển quan trọng. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; (3) Giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường. Khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, thiên nhiên, 8
  7. đặc biệt là tài nguyên không tái tạo. Phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng. Trên cơ sở mục tiêu và các định hướng ưu tiên, các giải pháp cần thực hiện bao gồm các giải pháp về hoàn thiện hệ thống thể chế về phát triển bền vững; về tài chính; về tuyên truyền giáo dục và đào tạo; về đẩy mạnh đổi mới công nghệ; về phát triển nguồn nhân lực; về tăng cường sự tham gia các bên có liên quan; về tăng cường năng lực quản lý; về mở rộng hợp tác quốc tế. Một chiến lược gắn nhiều hơn với FDI là Chiến lược tăng trưởng xanh. Với mục tiêu là: “tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính”. Chiến lược có bốn trụ cột chính (thể chế chính sách, thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; xanh hóa sản xuất và xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững), trong đó trụ cột liên quan nhiều đến FDI là trụ cột về xanh hoá sản xuất, bao gồm 25 hoạt động theo 04 nhóm sau: (điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch; sử dụng hiệu quả nguồn lực tự nhiên và phát triển kinh tế xanh; phát triển kết câu hạ tầng bền vững; thúc đẩy phong trào doanh nghiệp bền vững). Tuy nhiên, có thể thấy rằng, Chiến lược tăng trưởng xanh tập trung chủ yếu vào khía cạnh môi trường hơn là các khía cạnh khác của FDI bền vững. Nghị quyết 103/NQ-CP ngày 29 tháng 8 năm 20013 của Chính phủ về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới là một chủ trương trực tiếp cho dòng vốn này nhằm khắc phục các yếu kém trong thu hút FDI ở giai đoạn trước đó. Nghị quyết 103 đưa ra bốn định hướng lớn giải quyết một phần về thu hút FDI bền vững vào Việt Nam đó là: (1) Thu hút FDI theo hướng chọn lọc các dự án có chất lượng, có giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp; phát triển kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu và phát triển, dịch vụ hiện đại... (2) Thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm có tính cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, từ đó xây dựng, phát triển hệ thống các ngành, doanh nghiệp phụ trợ; khuyến khích các dự án công nghiệp chuyển dần từ gia công sang sản xuất; lựa chọn các nhà đầu tư lớn, có uy tín đầu tư phát triển thị trường tài chính; đồng thời, chú trọng đến các dự án có quy mô vừa và nhỏ phù hợp với từng ngành kinh tế, từng địa phương; (3) Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với nhau và với các doanh nghiệp trong nước; (4) Quy hoạch thu hút FDI theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với lợi thế của từng vùng, từng ngành để phát huy hiệu quả đầu tư của từng địa phương, từng vùng, phù 9
  8. hợp với quy hoạch chung, đảm bảo lợi ích tổng thể quốc gia và tái cấu trúc nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng mới. Mặc dù được đánh giá là khá đồng bộ, Nghị quyết 103 cũng chưa hoàn toàn đặt FDI trong bối cảnh phát triển bền vững mà mới chỉ tập trung khắc phục những yếu kém trong công tác xúc tiến đầu tư, và có phần thiên về các mục tiêu kinh tế nhiều hơn. Mặt khác, cũng đưa ra dưới góc độ của nước nhận đầu tư, hơn là trên góc độ cân bằng với lợi ích của nhà đầu tư khi đánh giá về lợi thế thu hút và sử dụng FDI của Việt Nam, vì vậy, góc độ “bền vững” của nhà đầu tư chưa được giải quyết thỏa đáng. Gần đây nhất là Nghị quyết của Bộ Chính trị (Nghị quyết 50/NQ-TW ngày 20/8/2019) định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Nghị quyết đưa ra một góc nhìn khá cân bằng và bền vững về thu hút FDI, trong đó nhấn mạnh đến tạo điều kiện phát triển lâu dài, đảm bảo hài hòa lợi ích nhà đầu tư, Nhà nước và người lao động; thu hút có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, môi trường là các tiêu chí đánh giá chủ yếu; ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Đây là văn bản định hướng ở cấp cao nhất và cũng thể hiện định hướng FDI bền vững cao nhất từ trước đến nay, thể hiện yêu cầu với cả 4 góc độ: quản trị, kinh tế, môi trường, lao động và xã hội. Một số văn bản chủ trương định hướng lớn khác nằm ở các khía cạnh công nghệ và môi trường. Có thể kể đến Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu (Quyết định số 2139/QĐ-TTg, ngày 05 tháng 12 năm 2011) trong đó có một phần liên quan đến các giải pháp giảm thiểu hướng đến nền kinh tế các bon thấp, tăng trưởng xanh và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; Chiến lược sử dụng công nghệ sạch (Quyết định 2612/QĐ-TTg ngày 30/12/2013) với mục tiêu nhằm thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, tài nguyên, phát thải thấp trong sản xuất công nghiệp, hướng đến tăng trưởng xanh, giảm nhẹ biến đổi khí hậu và nâng cao đời sống cộng đồng; Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2050 (Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 27/12/2007). Nhìn chung các chiến lược này khá đồng bộ, và có phần trùng lặp, không định hướng rõ ràng vào khu vực FDI, tuy nhiên vơi vai trò là một chủ thể thực hiện, các chủ trương lớn đó có ảnh hưởng nhất định đến FDI bền vững ở Việt Nam. 3.2. Những chính sách cụ thể Trên cơ sở của những chủ trương, định hướng lớn kể trên, Việt Nam ban hành khá nhiều chính sách trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến FDI bền vững. Có một số đặc điểm chung cho các chính sách này như sau: 10
  9. Về mục tiêu chính sách: Nhìn chung, các chính sách liên quan đều thể hiện khá rõ các mục tiêu của phát triển bền vững, bao gồm: hướng vào các ngành thân thiện môi trường, tiêu tốn ít năng lượng, sử dụng nhiều lao động; khuyến khích chuyển giao công nghệ, tạo liên kết doanh nghiệp; hướng vào các vùng khó khăn, thiếu vốn đầu tư để tạo cân bằng trong phát triển; hướng vào các ngành đang thiếu vốn và công nghệ như nông nghiệp, xử lý môi trường… Về công cụ chính sách: Sử dụng rất nhiều các công cụ về tài chính (ưu đãi thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu, hỗ trợ hạ tầng, hỗ trợ đào tạo, thuê đất…) để hướng FDI vào các ngành, lĩnh vực hoặc địa bàn mục tiêu; Về tính đồng bộ, tổng thể của chính sách: Các chính sách liên quan đến các lĩnh vực khác nhau như nhân lực, kỹ thuật, công nghệ, hạ tầng, môi trường, tài nguyên, quản trị nhìn chung khá đầy đủ. Về thực thi và hiệu lực chính sách: Ngoại trừ các chính sách về môi trường, tài nguyên có tính bắt buộc, một số chính sách mang tính khuyến khích nhiều hơn. Thực thi các chính sách, vì vậy, không có nhiều tác động đến thay đổi hành vi của doanh nghiệp FDI. Bộ máy tổ chức thực hiện chủ yếu nằm ở các địa phương, sự phối hợp giữa các cơ quan tương đối kém. Về kết quả và hiệu quả chính sách: Nhìn chung hiệu quả kém thể hiện ở việc rất ít đạt được mục tiêu theo ngành và lĩnh vực ưu tiên. Thu hút vào các ngành công nghệ cao, các lĩnh vực như nông nghiệp, hoặc vùng miền núi dân tộc… vẫn rất thấp. Mặc dù các chính sách có thể được phân nhóm như trong mục 2.2, để thuận tiện với thông lệ phân loại chính sách ở Việt Nam, có thể phân làm những nhóm sau đây: a) Chính sách ưu đãi đầu tư Với mục tiêu hướng FDI vào những ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn mục tiêu, chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu và sử dụng đất đối với các dự án đầu tư trong hệ thống các văn bản pháp lý của Việt Nam đã thể hiện rõ mục tiêu khuyến khích thu hút FDI gắn với phát triển bền vững. Phần lớn những ngành nghề, lĩnh vực được ưu tiên thu hút FDI theo Luật Đầu tư 2014 đều là những lĩnh vực liên quan đến phát triển bền vững. Ví dụ, theo Điều 16, Khoản 1 của Luật Đầu tư 2014, các ngành nghề được ưu đãi đầu tư bao gồm những ngành liên quan đến công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, đầu tư vào thu gom và xử lý chất thải, đầu tư vào giáo dục, y tế, phát triển hạ tầng. Những dự án FDI trong các lĩnh vực này đáp ứng tiêu chuẩn “FDI xanh” theo định nghĩa của OECD và UNCTAD, hoặc FDI bền vững theo định nghĩa của UNESCAP. Về hình thức áp dụng ưu đãi: Quy định những hình thức áp dụng ưu đãi đối với những lĩnh vực được ưu tiên thu hút đầu tư bao gồm: (i) Áp dụng mức thuế suất thuế 11
  10. thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; (ii) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư; và (iii) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất (Điều 15, Khoản 1b của Luật Đầu tư 2014). Về mức ưu đãi: Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm được áp dụng thuế suất 10% trong thời gian 15 năm (so với mức thông thường 23%); Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường được áp dụng thuế suất 10%; (iii) Đối với dự án cần đặc biệt thu hút đầu tư có quy mô lớn và công nghệ cao thì thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi có thể kéo dài thêm (Điều 13, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2013). Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm; doanh nghiệp thành lập mới hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường được miễn thuế tối đa không quá bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá chín năm tiếp theo. Điều 16 Luật Thuế xuất nhập khẩu 2016 quy định về miễn thuế nhập khẩu, trong đó có các hàng hóa là nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để gia công hoặc sản xuất hàng hóa xuất khẩu; nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được để sản xuất cho các dự án đầu tư thuộc danh mục ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư. Về đất và các khoản liên quan: quy định miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với trường hợp sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư hoặc địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và đất xây dựng kết cấu hạ tầng cảng hàng không, sân bay; đất xây dựng cơ sở, công trình cung cấp dịch vụ hàng không Điều 110, Khoản 1a và 1đ của Luật Đất đai 2013. Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết về việc miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong thời gian 3 năm đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư. Đánh giá chung, các chính sách ưu đãi về thuế và sử dụng đất là công cụ quan trọng để thu hút FDI, đặc biệt là FDI bền vững. Tuy nhiên, việc có nhiều đối tượng được miễn giảm thuế thu nhập cũng dẫn đến giảm nguồn thu thuế của Nhà nước, ảnh hưởng tới chi đầu tư phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam sẽ phải thực hiện nhiều lộ 12
  11. trình cắt giảm thuế trong các hiệp định FTA những năm tới. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp với 3 mức thuế suất ưu đãi căn cứ vào ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư đã khiến cho chính sách ưu đãi của Việt Nam trở nên dàn trải. Theo tiêu chí ngành nghề, có tới 90% số lượng các ngành kinh tế cấp II và 33% các ngành kinh tế cấp III được hưởng ưu đãi thuế. Theo tiêu chí địa bàn đầu tư, có tới 32% địa phương thuộc diện ưu đãi và 24% số địa phương thuộc diện ưu đãi đặc biệt (Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự, 2015). Việc áp mức thuế ưu đãi gặp khó khăn do việc quy định lĩnh vực ưu đãi/khuyến khích đầu tư không rõ ràng. Ví dụ: nếu quy định áp dụng mức thuế ưu đãi đối với lĩnh vực công nghệ cao như điện tử, nhưng không định nghĩa rõ thế nào là công nghệ cao mà chỉ xếp theo tên nhóm ngành sẽ có thể dẫn tới việc thu hút FDI vào lắp ráp điện tử. Trong khi đó Hàn Quốc xác định ngành công nghệ cao dựa theo mức độ tác động của công nghệ đối với nền kinh tế, hoạt động đầu tư có tạo liên kết trước sau hoặc lan tỏa về công nghệ thông qua đào tạo nhân lực và di chuyển lao động. Việc giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào và hàng hóa trung gian có tác động tích cực là giảm chi phí cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến tình trạng nhập siêu với những nước đầu tư FDI tại Việt Nam, đồng thời giảm động lực đối với phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong nước. Thực tế cho thấy nhập siêu của Việt Nam với Hàn Quốc đã tăng mạnh trong những năm gần đây (năm 2017 nhập siêu 32 tỷ USD từ Hàn Quốc, tăng 55% so với năm 2016), khi Hàn Quốc đẩy mạnh đầu tư và trở thành nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam, do phần lớn hàng hóa trung gian sử dụng cho các dự án FDI được nhập khẩu từ Hàn Quốc. b) Chính sách phát triển nguồn nhân lực và kỹ năng Nguồn lao động có kỹ năng và năng suất cao ở mức chi phí cạnh tranh là lực hút lớn đối với các nhà đầu tư tìm kiếm hiệu quả (UNCTAD)1. Do vậy, giáo dục và phát triển nguồn nhân lực có thể coi là yếu tố then chốt đối với chính sách thu hút FDI bền vững. Tại Việt Nam, chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện tại nhiều văn bản pháp lý như Luật Giáo dục 2015, Luật Giáo dục 2019 (có hiệu lực từ 1/7/2020), Luật Giáo dục Đại học 2018, Nghị quyết 77 của Chính phủ, ngày 24 tháng 10 năm 2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục Đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017. Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020, Quyết định số 630/QĐ-TTg ngày 29 tháng 5 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020, Luật 1 UNCTAD (2015), Investment Policy Framework for Sustainable Development. 13
  12. Khoa học công nghệ 2013, và Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 04 tháng 05 năm 2017 về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng 4.0. Chính sách của Việt Nam ưu tiên dành nguồn lực ngân sách lớn cho giáo dục. Luật Giáo dục 2015 (Điều 102) quy định dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ tăng chi ngân sách giáo dục hàng năm cao hơn tỷ lệ tăng chi ngân sách nhà nước. Điều 91 của Luật Giáo dục 2019 quy định cụ thể dành tối thiểu 20% chi ngân sách nhà nước để đầu tư cho giáo dục, khuyến khích xã hội hóa giáo dục đầu tư vào giáo dục, đào tạo. Luật Giáo dục Đại học 2018 định hướng phát triển nhân lực trình độ cao, dành ưu đãi thuế, tín dụng và đất đai cho phát triển giáo dục đại học, ưu tiên đầu tư cho các cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao, tầm cỡ khu vực và quốc tế, kêu gọi xã hội hóa giáo dục đại học. Chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ cũng được chú trọng hơn trong thời gian gần đây, thể hiện qua Luật Khoa học và công nghệ 2013 và Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 04 tháng 05 năm 2017 về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng 4.0. Luật Khoa học và Công nghệ 2013 quy định cụ thể về chính sách khuyến khích, ưu đãi trong việc đào tạo, sử dụng nhân lực, nhân tài KHCN tại các Điều 19, Điều 22, Điều 23. Nghị định số 40/2014/NĐ-CP được ban hành ngày 12 tháng 05 năm 2014 đã hướng dẫn chi tiết các điều này. Ngoài ra, Chính phủ cũng đưa ra nhiều chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển đối với giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực, như Quyết định số 579/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020, và Quyết định số 630/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020. Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 có mục tiêu tổng quát đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới. Chiến lược cũng đưa ra một số mục tiêu cụ thể như tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 40% vào năm 2015 và 55% vào năm 2020, số trường dạy nghề đạt đẳng cấp quốc tế đạt trên 10 trường vào năm 2020… Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020 có mục tiêu là đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ đào tạo; chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ các nước phát triển trong khu vực ASEAN và trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; phổ cập nghề cho người lao động, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập, giảm nghèo vững chắc, 14
  13. đảm bảo an sinh xã hội. Chiến lược cũng đề ra những chỉ tiêu cụ thể cần đạt được đến năm 2020 về tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề, số trường cao đẳng nghề, số giáo viên dành nghề và số lượng các chương trình, giáo trình cho các nghề trọng điểm quốc gia. Các chính sách giáo dục của Việt Nam nhìn chung tạo thuận lợi cho giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, việc thực thi chính sách còn bất cập khiến cho chất lượng đào tạo không đáp ứng yêu cầu.2 Chất lượng giáo dục, đào tạo của Việt Nam không được cải thiện nhiều trong những năm qua. Tỷ lệ học sinh, sinh viên thất nghiệp khi ra trường lớn (hàng trăm ngàn người mỗi năm), không chỉ đặt ra những thách thức cho người được lao động mà còn lãng phí nguồn lực xã hội dành cho phát triển giáo dục. Cho tới nay, xuất khẩu lao động của Việt Nam chủ yếu là lao động kỹ năng tay nghề thấp, trong khi phải nhập khẩu nhân lực chất lượng cao từ bên ngoài. Điều này đã phần nào phản ánh những thất bại trong đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam. Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo còn chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội. Phần lớn các chỉ tiêu đề ra trong các chiến lược giáo dục đào tạo và dạy nghề đều không đạt được. c) Chính sách liên quan đến công nghệ và tri thức Việt Nam bắt đầu tham gia với cộng đồng quốc tế về vấn đề sở hữu trí tuệ (SHTT) khá sớm. Từ năm 1949, Việt Nam đã tham gia Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa. Đến năm 1976, Việt Nam tham gia Công ước Stockholm về thành lập tổ chức SHTT thế giới. Nhưng quá trình tham gia và xác lập quyền SHTT của Việt Nam mới đi vào thực chất kể từ khi nền kinh tế Việt Nam tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là khi Việt Nam bắt đầu thực hiện tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo đó, nhiều các văn bản, quy phạm pháp luật đã được ban hành nhằm hiện thực hóa việc xác lập quyền SHTT trong điều kiện Việt Nam. Bộ Luật Dân sự năm 1995 đã dành phần IV với 61 điều đề cập đến vấn đề SHTT và chuyển giao công nghệ, tiếp đó là hàng loạt các văn bản pháp quy về SHTT đã được ban hành. Nghị định 63/CP của Chính phủ ban hành ngày 24/10/1996 về việc bảo hộ sáng chế, các giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu cũng như xuất xứ hàng hóa; Nghị định số 76/CP 2 Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém, dẫn đến nhiều bất cập kéo dài trong giáo dục, làm giảm chất lượng nguồn nhân lực. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chương trình giáo dục còn coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức. Hệ thống giáo dục thiếu tính liên thông giữa các trình độ đào tạo và các phương thức giáo dục, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế; Chưa gắn đào tạo với sử dụng và nhu cầu của thị trường lao động. 15
  14. ngày 29/11/1996 nhằm giải thích các quy định nêu tại phần IV bộ Luật Dân sự; Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 quy định về việc bảo hộ bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp; Nghị định 06/2001 ngày 01/2/2001 của Chính phủ bổ sung các quy định về đăng ký quyền đối với sở hữu công nghiệp (kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, các phát minh, sáng chế, tên gọi xuất xứ hàng hóa); Nghị định 13/2001/NĐ- CP ngày 20/4/2001 về bảo hộ giống cây trồng mới; Công ước Berne chính thức có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam từ ngày 26/10/2004… Cho đến hiện nay, nếu so với yêu cầu của TRIPS thì về cơ bản hệ thống bảo hộ quyền SHTT của Việt Nam đã được hình thành tương đối đầy đủ, Luật SHTT được ban hành năm 2005, có hiệu lực từ 01/7/2007 đã thay thế toàn bộ các Nghị định và văn bản hướng dẫn về từng lĩnh vực của SHTT trước đó, đồng thời cũng thống nhất và tập hợp các quy định riêng lẻ đó vào trong Luật SHTT với sự phân định rõ ràng thành 3 lĩnh vực: bản quyền, sở hữu công nghiệp và giống cây trồng. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực thi quyền SHTT còn nhiều hạn chế, hiệu lực của hệ thống các quy định về bảo hộ quyền SHTT còn thấp, tính minh bạch và sự nghiêm minh trong thực thi luật còn nhiều vấn đề cần xem xét… dẫn đến trình trạng vi phạm, xâm phạm quyền SHTT đang diễn ra khá phổ biến. Hầu như mọi chủng loại sản phẩm hàng hóa đều có hàng nhái, hàng có chứa yếu tố vi phạm quyền sở hữu... Do vậy, vấn đề đặt ra là cần có một định hướng rõ ràng, hiệu quả nhằm nâng hiệu lực của việc thực thi quyền SHTT trong thực tế. d) Khuyến khích chuyển giao công nghệ Khuyến khích chuyển giao công nghệ được quy định nhiều trong các Luật Đầu tư, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Công nghệ cao. Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 (Khoản 5 Điều 3) quy định về Chính sách của Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, trong đó có nội dung: “Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao từ nước ngoài vào Việt Nam; khuyến khích chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài; thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nước; chú trọng lan tỏa công nghệ tiên tiến, công nghệ cao từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang doanh nghiệp trong nước”. Đến nay, Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ với những quy định cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam nói riêng. Việt Nam đã áp dụng mức ưu đãi cao nhất trong các Luật hiện hành của Việt Nam đối với các dự án ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, Luật Đầu tư quy định doanh nghiệp công nghệ cao là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư; hoạt động công nghệ cao là ngành, nghề ưu đãi đầu tư và khu công nghệ cao là địa 16
  15. bàn ưu đãi đầu tư. Điều này thể hiện sự nhất quán trong hoạch định chính sách về đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ cao, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam. Mặc dù đã có khuôn khổ pháp lý khá đầy đủ cho chuyển giao công nghệ vào Việt Nam và FDI vào Việt Nam lớn, nhưng theo đánh giá, mức độ chuyển giao công nghệ của khu vực FDI đến với khu vực kinh tế trong nước còn rất thấp so với các quốc gia trong khu vực và thậm chí ngày càng giảm. Xếp hạng về FDI và chuyển giao công nghệ năm 2018 trong chỉ số GCI 2017 - 2018 của Diễn đàn kinh tế thế giới cho thấy Việt Nam không những ở vị trí thấp, đứng thứ 89/137 nền kinh tế mà còn tụt hạng so với năm 2016 - 2017 (vị trí 83). Sự chênh lệch này cho thấy thực tế tụt hậu công nghệ của Việt Nam ngay cả khi dòng FDI thu hút tăng mạnh, chính sách của Việt Nam chưa tạo động lực chuyển giao công nghệ từ FDI. Như vậy, khâu chuyển giao công nghệ đang là điểm nghẽn lớn nhất trong các dự án FDI tại Việt Nam. Xét trên khuôn khổ điều chỉnh chính sách, Việt Nam tuy có những điều chỉnh về pháp luật liên quan đến chuyển giao công nghệ, nhưng lại thiếu đồng bộ. Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Bảo vệ môi trường ở Việt Nam tuy đã có hiệu lực pháp lý, nhưng hiệu lực thực thi chưa cao, các biện pháp nghiêm cấm/hạn chế chuyển giao công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường mới chỉ dừng ở xử phạt hành chính, chưa có những công cụ răn đe mạnh. e) Chính sách về phát triển hạ tầng Hiện nay, bên cạnh việc ưu tiên sử dụng tối đa các nguồn lực nhà nước, Chính phủ cũng đã quan tâm thúc đẩy, thu hút đầu tư tư nhân, đặc biệt thông qua phương thức đầu tư công - tư (PPP). Ngày 14/2/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP, trong đó quy định rõ về lĩnh vực, điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện đầu tư theo hình thức PPP. Ngày 4/5/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2018/NĐ-CP thay thế Nghị định số 15/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các Nghị định này, có sự “vênh” với quy định của nhiều Luật khác nhau như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Quản lý nợ công... Hiện tại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang dự thảo Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) để hoàn thiện, nâng cấp hơn nữa các quy định về PPP. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay, Việt Nam đã thu hút khoảng 150 dự án đầu tư theo hình thức PPP (không tính các dự án đầu tư theo hình thức BT), với tổng mức đầu tư trên 1 triệu tỷ đồng (khoảng 50 tỷ USD)3. Những dự án đầu tư với nguồn lực từ khu vực tư nhân quan trọng này đã góp phần cải thiện rõ rệt chất lượng CSHT của Việt Nam. 3 Theo Thời báo Ngân hàng, tháng 1/2019. 17
  16. Nhìn chung, bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách thu hút đầu tư vào phát triển hạ tầng ở Việt Nam còn nhiều thách thức. Quy mô nền kinh tế không lớn, khả năng tích lũy hạn chế dẫn đến việc tiếp tục duy trì mức đầu tư cao từ ngân sách nhà nước cho phát triển hạ tầng sẽ tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm cân đối vĩ mô, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn nền kinh tế. Bên cạnh đó, áp lực của trần nợ công tăng cao, trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình (đồng nghĩa với việc nguồn vốn vay nước ngoài dành cho phát triển kết cấu hạ tầng ngày càng giảm và sẽ phải vay vốn ưu đãi với mức lãi cao hơn, áp lực trả nợ lớn hơn) cũng khiến nguồn lực dành cho đầu tư cơ sở hạ tầng khó khăn hơn. Chính sách thu hút đầu tư dưới hình thức PPP trong thời gian qua còn nhiều bất cập trong việc thực thi. Do vậy, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, cải cách thủ tục hành chính để cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng vẫn là định hướng mà Chính phủ cần quan tâm trong thời gian tới. f) Chính sách phát triển doanh nghiệp Để thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI, Việt Nam đã có chính sách phát triển doanh nghiệp phụ trợ. Luật Đầu tư 2014 và Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư: sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được đưa vào danh mục lĩnh vực được đặc biệt ưu đãi đầu tư; Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế, đã bổ sung các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ quy định 06 ngành nghề được hỗ trợ, ưu đãi bao gồm: dệt - may, da - giày, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao. Ngoài ra, trong năm 2017, Chính phủ tiếp tục ban hành các Quyết định phê duyệt các Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ sau: (i) Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025; (ii) Quyết định số 10/2017/QĐ-TTg ngày 03 tháng 4 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và thực hiện Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ. Nhìn chung các chính sách phát triển CNHT đã điều chỉnh phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới, có nhiều giải pháp thực chất. Tuy nhiên, một số chính sách hỗ trợ mang tính chất hỗ trợ trực tiếp một cách thụ động, chưa xác định rõ thời điểm dừng hỗ trợ, có khả năng gây ra phản ứng ngược: doanh nghiệp ỷ lại vào chính sách hỗ trợ. Mặt khác, chính sách phát triển CNHT hiện nay còn thiếu các cơ chế đủ hữu hiệu để gắn kết giữa doanh nghiệp cung ứng và doanh nghiệp chế tạo; chưa có chính sách tận dụng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp chế xuất (chủ yếu 18
  17. là doanh nghiệp FDI) để nâng cao giá trị gia tăng trong nước của sản phẩm chính và phát triển chuỗi cung ứng tại ngay chính thị trường nội địa; chính sách thu hút đầu tư FDI vào (theo Báo cáo tổng kết 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Các doanh nghiệp CNHT trong nước mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất các chi tiết, linh kiện đơn giản có kích cỡ cồng kềnh với công nghệ sản xuất không phức tạp, cơ cấu giá trị nội địa hóa rất nhỏ. Nguyên nhân cơ bản là do các doanh nghiệp CNHT trong nước có trình độ công nghệ thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp CNHT FDI và so với trình độ công nghệ của doanh nghiệp CNHT các nước; năng lực tổ chức sản xuất, quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu của chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI. g) Chính sách liên quan đến năng lượng Thu hút FDI vào năng lượng tái tạo đã được thể hiện rõ trong các chính sách, chiến lược và văn bản pháp lý của Nhà nước. Việt Nam có chủ trương phát triển năng lượng tái tạo từ lâu, được nêu trong Điều 11 Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, Điều 33 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và Điều 4 Luật Điện lực năm 2004. Tuy vậy, nhìn chung, trước năm 2005, chính sách năng lượng mới chỉ mới chú trọng đến các yếu tố về an ninh năng lượng, thị trường năng lượng. Sau năm 2005, các quy định cụ thể nhằm thực hiện chủ trương phát triển năng lượng tái tạo mới xuất hiện nhiều trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2050 (theo Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015) nêu rõ Nhà nước sẽ ưu tiên phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học và điện hạt nhân. Chỉ tiêu cụ thể được đưa ra là tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo sẽ tăng lên khoảng 3% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010; khoảng 5% vào năm 2020, và khoảng 11% vào năm 2050. Quan điểm này tiếp tục được thể hiện cụ thể hơn trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020, có xét đến năm 2030. Cụ thể, tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo để phát điện tăng từ 3,5% năm 2010 lên 4,5% năm 2020 và 6,0% năm 2030. Sự chuyển biến trong chính sách năng lượng của Việt Nam có thể được nhìn nhận rất rõ qua việc so sánh các Quy hoạch phát triển điện lực trong từng thời kỳ. Năm 2007, Chính phủ ban hành Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006 - 2015 có xét đến năm 2025 với dự định đến năm 2020, 85% lượng điện năng tại Việt Nam có nguồn gốc nhiệt điện. Đến Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 được phê duyệt vào năm 2011, sự phụ thuộc vào nhiệt điện đã giảm xuống còn 70,8% vào năm 2030. Phát điện từ các nguồn năng lượng khác tăng đáng kể. Ví dụ, điện gió sẽ đạt 1.000MW vào năm 2020 và 6.200MW vào năm 2030; điện sinh khối cũng phấn đấu đạt 500MW và 2.000MW vào các năm đó; điện hạt nhân sẽ đạt 10.700MW vào năm 2030. 19
  18. Chính sách về thuế bảo vệ môi trường cũng cho thấy mục tiêu hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch, từ đó thúc đẩy đầu tư vào năng lượng tái tạo. Ngày 15/11/2010, Quốc hội đã ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường số 57/2010/QH12 quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế bảo vệ môi trường. Nghị định 67/2011/NĐ-CP ra đời ngày 8/8/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế bảo vệ môi trường 2010. Nghị quyết về Biểu thuế bảo vệ môi trường chính thức được thông qua ngày 26/9/2018, thay thế các Nghị quyết gồm Nghị quyết số 1269/2011/UBTVQH12, Nghị quyết số 888a/2015/UBTVQH13. Theo đó, từ ngày 01/01/2019, mức thuế bảo vệ môi trường sẽ tăng đối với hàng loạt mặt hàng thuộc nhóm xăng - dầu - mỡ nhờn và than đá. Xăng dầu được xem là mặt hàng tăng thuế cao nhất, lên đến 4.000 đồng/lít. Hệ thống các văn bản pháp lý của Việt Nam nhìn chung tạo thuận lợi cho thu hút FDI vào lĩnh vực năng lượng tái tạo thông qua ưu đãi, trợ cấp, trợ giá cho đầu tư vào năng lượng tái tạo và hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch, từ đó mở rộng khả năng phát triển của năng lượng tái tạo. Mặc dù được đánh giá là có tiềm năng lớn về nguồn năng lượng tái tạo (NLTT), nhưng sự phát triển các dự án điện từ NLTT tại Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Cho đến thời điểm hiện tại, trên phạm vi cả nước mới chỉ phát triển thủy điện nhỏ là chủ yếu, còn các nguồn điện gió, mặt trời, sinh khối không đáng kể (hiện mới chỉ có 159 MW điện gió và một số tổ phát điện sinh khối tại các nhà máy đường). Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng các dự án NLTT kém phát triển trong thời gian qua là do theo quy định trước đây, giá mua điện từ các dự án này còn thấp, không hấp dẫn các nhà đầu tư (Nguyễn Mạnh Hiển, 2019). Từ khi có quy định mới của Chính phủ về giá mua điện NLTT, trong đó với điện mặt trời là 9,35cent/kWh, đặc biệt là quy định mới về giá điện gió trên đất liền là 8,5 cent/kWh và trên biển là 9,8 cent/kWh, số lượng các dự án điện mặt trời và gió tăng lên đáng kể. Tính đến cuối năm 2018 đã có hơn 11.000 MW điện mặt trời đăng ký đầu tư.4 Những quy định này được kỳ vọng sẽ thúc đẩy thu hút FDI vào năng lượng tái tạo tại Việt Nam trong thời gian tới. h) Chính sách về bảo vệ môi trường Ngoài các chính sách khuyến khích đầu tư vào năng lượng tái tạo, hệ thống văn bản pháp lý của Việt Nam còn có những quy định về bảo vệ môi trường liên quan đến xử lý môi trường tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao; ưu đãi thuế xuất nhập khẩu đối với các hàng hóa bảo vệ môi trường; khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực bảo 4 Theo thông tin từ Bộ Công Thương. 20
  19. vệ môi trường; áp thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng gây ô nhiễm môi trường (xăng dầu, than và khí đốt). Luật Bảo vệ môi trường 2014, Điều 65 đến Điều 68 quy định về bảo vệ môi trong khu kinh tế, khu công nghiệp, chế xuất, khu công nghệ cao, khu cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung. Đây là những nơi tập trung nhiều doanh nghiệp FDI ngành chế biến chế tạo, do vậy các quy định này sẽ ảnh hưởng nhiều tới vấn đề môi trường của các dự án FDI vào Việt Nam. Các quy định chủ yếu là yêu cầu ban quản lý khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao phải có bộ phận chuyên trách về môi trường, phối hợp với chính quyền tỉnh trong việc xử lý các vấn đề về môi trường; các khu, cụm này cần có hạ tầng để thu gom và xử lý nước thải, rác thải theo đúng quy định. Tại các Điều 104, Điều 112, Điều 148, Điều 160 và Điều 168 của Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định các vấn đề liên quan đến xử lý vi phạm môi trường như xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, trách nhiệm khắc phục sự cố môi trường, phí bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về môi trường. Tuy nhiên, các quy định này còn chung chung, chưa có biện pháp răn đe cụ thể và công cụ phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường hiệu quả. Đây là một nguyên nhân lớn dẫn đến việc nhiều dự án FDI ở Việt Nam có mức độ phát thải lớn, giá trị gia tăng thấp, có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái môi trường do có lượng chất thải gồm nước thải, khí thải và chất thải rắn lớn, có nồng độ các chất ô nhiễm cao. Nhiều doanh nghiệp FDI đã nhập khẩu công nghệ, thiết bị máy móc cũ, lạc hậu, thiếu giải pháp công nghệ xử lý chất thải. Việt Nam cũng đã có quy định về thuế bảo vệ môi trường để đánh thuế đối với những hàng hóa gây ô nhiễm môi trường như xăng, dầu, than và khí đốt theo Luật Thuế bảo vệ môi trường 2010. Thuế bảo vệ môi trường giúp hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và thu hút FDI vào năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, thuế môi trường không áp dụng đối với các hoạt động phát thải các bon nên chưa hạn chế được phát thải các bon. Việc cắt giảm phát thải các bon được coi là điều kiện tiên quyết để chống lại biến đổi khí hậu và những tác động của biến đổi khí hậu. Do vậy, có nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam nên tính tới phương án đánh thuế phát thải các bon vì hai lý do: Thứ nhất, đây là loại thuế được đề xuất áp dụng với các nguồn năng lượng sản sinh các bon, vì thế nó chỉ nhắm vào năng lượng hóa thạch như than, xăng dầu mà không áp dụng với các loại năng lượng tái tạo. Thứ hai, hiện nay giá nhiên liệu và năng lượng phần lớn không bao gồm các chi phí bù đắp cho ảnh hưởng tới biến đổi khí hậu mà chỉ quan tâm tới vấn đề bảo vệ môi trường khỏi ô nhiễm. Điều này đang ngăn cản nỗ lực triển khai các giải pháp giảm phát thải các bon, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo. Mặc dù loại thuế này có thể gây ra một số tác động tiêu cực về kinh tế, nhưng vì mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam vẫn nên cân nhắc để đối phó với biến đổi khí hậu. 21
  20. 4. KẾT LUẬN Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những cải cách pháp lý quan trọng theo hướng thúc đẩy thu hút FDI gắn với phát triển bền vững. Các biện pháp khuyến khích ưu đãi FDI chủ yếu dành cho các lĩnh vực liên quan đến phát triển bền vững. Việt Nam cũng đã đưa ra những ưu tiên cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút FDI chất lượng cao. Chính sách phát triển năng lượng tái tạo đã góp phần tăng cường thu hút FDI vào năng lượng tái tạo. Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, những bất cập trong các chính sách FDI của Việt Nam vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng tới phát triển bền vững. Quá nhiều lĩnh vực được ưu đãi đầu tư dẫn đến thất thu ngân sách, kèm bền vững về ngân sách và hiện tượng chuyển giá. Những quy định về môi trường đối với các dự án đầu tư chưa chặt chẽ, khiến nhiều doanh nghiệp FDI lợi dụng để chuyển giao những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường; Chưa có chính sách đủ hữu hiệu để gắn kế giữa doanh nghiệp cung ứng trong nước với doanh nghiệp FDI. Các chính sách mới như tăng cường thu hút đầu tư vào phát triển hạ tầng dưới hình thức PPP (dự thảo luật PPP) và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017 nhìn chung còn sơ khai và chưa đủ thời gian để đánh giá hiệu quả. Bên cạnh đó, việc thực thi chính sách còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp lý về SHTT đã tương đối đầy đủ, nhưng năng lực thực thi yếu khiến cho việc bảo vệ quyền SHTT ở Việt Nam còn yếu, chưa khuyến khích đầu tư FDI vào công nghệ cao và chuyển giao công nghệ. Đầu tư cho giáo dục đào tạo luôn được ưu tiên, nhưng việc sử dụng nguồn lực đầu tư còn kém hiệu quả khiến cho chất lượng nguồn nhân lực chưa đạt yêu cầu. Một số chính sách đi đúng hướng, như tăng cường đầu tư cho phát triển hạ tầng, nhưng do hạn chế về quy mô kinh tế nên nguồn lực đầu tư còn thấp, đòi hỏi tiếp tục tăng cường xã hội hóa. Bên cạnh đó, tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư cũng dẫn đến chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu. Do vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý và nâng cao năng lực thực thi chính sách để đẩy mạnh thu hút FDI gắn với phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Báo cáo tổng kết 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2. Bloomberg (2017), “Vietnam among Asia's biggest spenders on infrastructure”, tháng 3/2017. 22
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0