Tổng quan một số vấn đề kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long - Trần Hữu Hiệp
lượt xem 59
download
Đồng bằng sông Cửu Long nằm giữa khu vực kinh tế năng động và phát triển, liền kề với TP. Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích gần 40 nghìn km 2, dân số khoảng 18 triệu người, có hơn 340 km đường biên giới trên bộ giáp Campuchia, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp giáp Biển Đông và Biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển quốc gia.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tổng quan một số vấn đề kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long - Trần Hữu Hiệp
- TỔNG QUAN MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Trần Hữu Hiệp Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ I. “Định vị” đồng bằng sông Cửu Long trong “bản đồ” kinh tế - xã hội đất nước Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm 13 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. ĐBSCL nằm giữa khu vực kinh tế năng động và phát triển, liền kề với TP. Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích gần 40 nghìn km 2, dân số khoảng 18 triệu người, có hơn 340 km đường biên giới trên bộ giáp Campuchia, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp giáp Biển Đông và Biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển quốc gia; hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và quần đảo, đặc biệt là đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam; gần tuyến hàng hải Đông – Tây, là luồng hài hải quốc tế sôi động nhất, hiện diện nhiều nền kinh tế lớn của thế giới. ĐBSCL không chỉ là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, trái cây, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản của cả nước, mà còn được xác định là „vùng nông sản lớn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu”1; là “vùng có tiềm năng, thế mạnh phát triển công nghiệp năng lượng, công nghiệp thực phẩm, phát triển du lịch và là vùng sản xuất lương thực trọng điểm quốc gia”2. II. Thành tựu và hạn chế của vùng ĐBSCL: A. Thành tựu: 1. Kinh tế các tỉnh, thành vùng ĐBSCL phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, hiệu quả sản xuất được nâng cao, môi trường đầu tư được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân toàn vùng giai đoạn 2001-2010 đạt khoảng 11,5%/năm (năm 2012 đạt gần 10% so cả nước tăng hơn 5%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Năm 2000: tỉ trọng khu vực I (nông - lâm nghiệp và thủy sản) chiếm 53,5%, khu vực II (công nghiệp - xây dựng): 18,5% và khu vực III (dịch vụ): 28%. Nhưng đến năm 2012, khu vực I: 38,26% (giảm 15,24%), khu vực II: 25,85% (tăng 7,35%), khu vực III: 35,89% (tăng 7,89%). Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu toàn vùng năm 2012 đạt 14,27 tỉ USD (chiếm khoảng 9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Trong đó, xuất khẩu đạt 10,07 tỉ USD, nhập khẩu: 4,2 tỉ USD, xuất siêu 5,87 tỉ USD. Năm 2012, thu nhập bình quân đầu người đạt 32,33 triệu đồng người/năm (tương đương 1.525 USD), gần bằng bình quân chung của cả nước, cao hơn vùng Tây Bắc, Tây Nguyên. Môi trường đầu tư vùng ĐBSCL ngày càng tốt hơn, chỉ số năng cạnh tranh (PCI) của các tỉnh, thành trong vùng các năm qua nhìn chung được cải thiện khá tốt, hầu hết đều 1 Quyết định số 1581/QĐ-TTg ngày 09-10-2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Qui hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến 2050. 2 Kết luận số 28-KL/TW ngày 14-8-2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh – quốc phòng vùng ĐBSCL, thời kỳ 2011-2020.
- nằm trong nhóm khá, tốt và rất tốt. Riêng năm PCI 2012, vùng ĐBSCL có 3 tỉnh trong nhóm 5 và 6 tỉnh trong nhóm 10 tỉnh, thành dẫn đầu; đặc biệt, có Đồng Tháp đứng đầu 63 tỉnh, thành cả nước. 2. Nông, lâm, ngư nghiệp phát triển toàn diện, từng bước hình thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực của vùng (lúa gạo, thủy sản, trái cây), thể hiện vai trò trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản của cả nước. Giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp tăng từ 56.292 tỉ đồng năm 2001 lên 101.000 tỉ đồng năm 2010, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2010 đạt 6,9%/năm. Riêng năm 2012 đạt 122.506 tỷ đồng. Hiệu quả thu nhập trên mỗi ha đất sản xuất nông nghiệp trong vùng tăng từ 20,2 triệu đồng/ha vào năm 2000 lên gần 38 triệu đồng/ha năm 2010, khoảng 41 triệu đồng/ha năm 2012. Sản xuất lúa, trái cây, thủy sản phát triển nhanh về sản lượng, là các ngành hàng chủ lực của vùng. ĐBSCL đã hình thành các mô hình tập trung chuyên canh lúa, cây ăn trái và thủy sản, áp dụng công nghệ cao, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn. Các Viện, Trường, Trung tâm nghiên cứu tại vùng ĐBSCL đã tham gia tích cực vào việc lai tạo, cung ứng cây, con giống, vật nuôi và sản xuất các chế phẩm sinh học, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp. Năng suất lúa tăng từ 42,2 tạ/ha năm 2001 lên 54,3 tạ/ha năm 2010 và 60 tạ/ha năm 2012; nâng sản lượng lúa từ 16 triệu tấn năm 2001 lên 21,6 triệu tấn năm 2010 và 24,3 triệu tấn năm 2012 (chiếm 55,62% sản lượng lúa cả nước – 43, 6 triệu tấn). Năm 2012 xuất khẩu trên 7,2 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch trên 3,2 tỷ USD, chiếm 92% kim ngạch xuất khẩu gạo cả nước. Cây ăn trái phát triển nhanh, đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với nhu cầu thị trường, một số giống có thương hiệu như xoài cát Hòa Lộc, bưởi Năm Roi, bưởi Da Xanh, vú sữa Lò Rèn… Cuối năm 2012 toàn vùng có hơn 300.000 ha cây ăn trái, chiếm 40% diện tích cả nước, đạt 3,6 triệu tấn năm 2012, tăng hơn 1 triệu tấn so năm 2001, chiếm khoảng 70% sản lượng trái cây cả nước. ĐBSCL là vùng nuôi, đánh bắt thủy sản lớn nhất nước, chiếm 70% diện tích nuôi, 58% sản lượng thủy sản cả nước. Trong đó, cá tra, tôm trở thành sản phẩm chủ lực quốc gia. Năm 2012 diện tích nuôi cá tra đạt 5.500 ha, cho sản lượng 1,5 triệu tấn, xuất khẩu đạt 1,8 tỷ USD); sản lượng tôm chiếm 80%, đóng góp 60% kim ngạch xuất khẩu tôm cả nước. Khai thác thuỷ sản chuyển từ gần bờ sang chủ động nuôi trồng, kết hợp đánh bắt xa bờ. 3. Công nghiệp được chú trọng phát triển, đi dần vào khai thác các thế mạnh của vùng về công nghiệp chế biến nông sản, bước đầu tập trung đầu tư phát huy lợi thế về công nghiệp dầu khí, năng lượng, nhiệt điện và cơ khí. Giá trị sản xuất công nghiệp vùng ĐBSCL tăng bình quân giai đoạn 2001-2010 là 18,8%/năm, năm 2012 giá trị sản xuất công nghiệp (giá cố định 1994) đạt 157.665 tỷ đồng, tăng 15,13% so năm 2011. Các mặt hàng có sản lượng tăng khá và góp phần giữ vững mức tăng trưởng chung của ngành là chế biến thủy sản đông lạnh, công nghiệp giày, phân bón, xi măng. Sản phẩm chế biến thủy sản phát triển mạnh với hơn 60 chủng loại mặt hàng, cung cấp cho cả nước khoảng 60% sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho khoảng 6 triệu lao động. Một số ngành công nghiệp như năng lượng, hóa chất, dược phẩm có bước phát triển khá. Đã hình thành các khu công 2
- nghiệp tập trung cấp vùng và quốc gia như như Trung tâm khí – điện – đạm Cà Mau, Trung tâm nhiệt điện Ô Môn (Cần Thơ), nhà máy điện Duyên Hải 1 & 2 (Trà Vinh), Nhà máy nhiệt điện Long Phú (Sóc Trăng), đường ống dẫn khí Lô B – Ô Môn. Toàn vùng hiện có 78.931 cơ sở kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực công thương. Đến nay, đã hình thành hệ thống 51 khu công nghiệp và khu chế xuất, thu hút 366 doanh nghiệp, tỷ lệ lấp đầy hơn 50%, tạo việc làm khoảng 61.000 lao động. 4. Thương mại, dịch vụ, du lịch có bước phát triển khá, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ và đời sống nhân dân. Là một trong những ngành kinh tế phát triển khá nhanh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng từ 43,5 ngàn tỷ đồng năm 2001 lên 279 ngàn tỷ đồng năm 2010, tăng bình quân 20,8%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ toàn vùng năm 2012 đạt 428.877 tỷ đồng, tăng 17,2% so năm 2011. Toàn vùng hiện có 1.857 chợ; trong đó, có 1.797 chợ hạng 3 (chiếm tỷ lệ 87,82%), 51 siêu thị, 09 trung tâm thương mại. Bước đầu hình thành trung tâm thương mại cấp vùng ở Cần Thơ và các trung tâm cấp tỉnh. Các địa phương có đường biên giới với Campuchia đã khai thác lợi thế để phát triển kinh tế biên mậu và các khu kinh tế cửa khẩu, các loại hình siêu thị miễn thuế, đã hình thành các khu kinh tế cửa khẩu ở Kiên Giang, An Giang và Đồng Tháp. Về du lịch, các địa phương đã chú ý phát huy tiềm năng, thế mạnh, liên kết chặt chẽ với thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong việc khai thác, phát huy lợi thế sông nước, biển đảo. Du lịch phát triển ngày càng đa dạng và phong phú các loại hình du lịch sinh thái, sông nước miệt vườn; đầu tư tạo ra nhiều điểm du lịch mới. Các điểm du lịch tại Đất mũi Cà Mau, du lịch biển ở Kiên Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu, Tiền Giang, Bến Tre, du lịch sinh thái ở Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang; du lịch di tích văn hóa ở An Giang và du lịch biển đảo Phú Quốc đã góp phần làm thay đổi nhanh chóng cơ cấu du lịch, dịch vụ trong vùng. Ngoài ra, du lịch và dịch vụ du lịch ở các địa phương ven biển, biên giới còn gắn với công tác quốc phòng, an ninh trên biển, vùng biên giới. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch được chú trọng đầu tư, nâng cấp, đặc biệt tại các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL (Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau). Năm 2012, toàn vùng thu hút hơn 21,8 triệu lượt khách du lịch (trong đó có khoảng 2 triệu lượt khách quốc tế), tăng 6% so năm 2011, doanh thu đạt 4.456 tỷ đồng. 5. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có nhiều cố gắng. Hạ tầng giao thông có nhiều chuyển biến, gắn kết với thủy lợi. Toàn vùng cơ bản hoàn thành mục tiêu xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ, các đô thị được đầu tư, nâng cấp. Hạ tầng giao thông, thủy lợi có bước phát triển, gắn kết giao thông liên vùng, góp phần làm thay đổi nhanh diện mạo đô thị, nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bước đầu đáp ứng nhu cầu đầu tư, phát triển và an sinh xã hội. Hệ thống giao thông huyết mạch, nhiều cầu vượt sông lớn giảm ách tắc giao thông liên tỉnh, liên vùng. Đến cuối năm 2012 đã hoàn thành việc nâng cấp, mở rộng tuyến Quốc lộ 1A từ Mỹ Thuận - Cần Thơ, tuyến tránh thành phố Bạc Liêu, dự án thành phần 2 đường 2 cầu Cổ Chiên; tổng vốn đã bố trí là 1.817 tỷ đồng. Triển khai đầu tư 34 dự án và tiểu dự án thuộc vốn trái phiếu Chính phủ với tổng vốn đã bố trí là 18.151 tỷ đồng. Đối ứng vốn cho các dự án ODA (dự án đường hành lang ven biển phía Nam đoạn Rạch Giá - Cà Mau, các hạng mục bổ sung của dự án cầu Cần Thơ…) với số tiền 2.341 tỷ đồng. Nâng cấp tuyến đường tỉnh 931, 937 trên địa phận tỉnh Hậu Giang và tỉnh lộ 42 trên địa phận tỉnh Sóc Trăng thành tuyến quốc lộ 61B nối từ Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang) đến đường Quản lộ Phụng Hiệp - địa phận Sóc Trăng. Khánh thành, đưa vào khai thác sân bay quốc tế Phú Quốc, cầu Đầm Cùng, hợp 3
- phần A dự án WB5 đoạn qua thành phố Trà Vinh và đoạn Long Vĩnh - Đại An. Ngoài ra, đã khởi công xây dựng cầu Năm Căn và dự kiến hoàn thành trong năm 2014. Hệ thống thủy lợi và cụm, tuyến dân cư, nhà ở vùng ngập lũ được quan tâm đầu tư. Đã huy động tổng nguồn vốn trên 4.600 tỷ đồng xây dựng các công trình kiểm soát lũ, hoàn thành 35 công trình thủy lợi vừa và lớn, trong đó có 12 công trình phục vụ trên 2.000 ha đất nông nghiệp, 20 công trình kiểm soát lũ ở vùng Tứ giác Long xuyên và Đồng Tháp Mười, dự án chống ngập các thành phố và dự án Ô Môn-Xà No, Quản Lộ-Phụng Hiệp; hoàn thành 148 cống cấp 1,2; nạo vết hoàn thành 2.000 km kênh cấp 1,2; đã xây dựng hơn 754 km đê sông và đê biển và nhiều công trình thủy lợi đã phát huy tác dụng, mở rộng diện tích khai hoang, tăng vụ, hình thành những vùng sản xuất mới. Một số dự án thủy lợi lớn thuộc vùng bán đảo Cà Mau, Nam Măng Thít có tác dụng quan trọng, gắn ngọt hóa với việc nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ. Đã cơ bản hoàn thành giai đoạn I chương trình cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ, hoàn thành đắp bờ bao 798 dự án khu dân cư, đạt 100%; xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu đạt 96%. Đang tiếp tục triển khai giai đoạn 2, gồm 7 địa phương (thành phố Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang). Xây dựng, phát triển đô thị được quan tâm đầu tư, Chính phủ đã ban hành Qui hoạch chung xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, các địa phương trong vùng tập trung triển khai có hiệu quả. Đã hoàn thành việc nâng cấp thành phố Cần Thơ thành đô thị loại I, thành phố trực thuộc Trung ương; thành lập mới 10 thành phố thuộc tỉnh, 4 thị xã. Đến nay, 100% tỉnh lỵ trong vùng là thành phố. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các thành phố, thị xã, thị trấn được phát triển khá, các công trình kè sông như kè sông Xà No (Hậu Giang), Bến Tre, khu lấn biển Rạch giá làm đẹp đô thị. 6. Giáo dục - đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc y tế có nhiều tiến bộ. Giáo dục-đào tạo và dạy nghề là lĩnh vực được quan tâm đầu tư, góp phần phát triển dân trí, chất lượng nguồn nhân lực của vùng. Đã thành lập mới và mở rộng, nâng cấp nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các cơ sở đào tạo nghề, Đại học Cần Thơ trở thành trường trọng điểm cấp vùng và quốc gia. Mạng lưới trường, lớp mầm non, phổ thông phát triển rộng khắp các địa bàn dân cư, phân bố ngày càng hợp lý hơn. Toàn vùng có 12 trường cao đẳng nghề (tăng 01 trường so năm 2011), 37 trường trung cấp nghề (tăng 04 trường), 124 trung tâm dạy nghề và 170 cơ sở dạy nghề khác; tổng số giáo viên dạy nghề là 5.046 người, trong đó giáo viên có trình độ sau đại học chiếm 8,25%, trình độ đại học và cao đẳng chiếm 69,06%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của vùng năm 2012 đạt 28%. Trong năm 2012 đã giải quyết việc làm cho 394.178 người, giảm được 1,29% hộ nghèo so năm 2011, hiện còn 412.023 hộ nghèo (chiếm tỷ lệ 10%) và 286.780 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04%. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt được những thành tựu quan trọng. Mạng lưới y tế trong vùng được tăng cường, cơ sở vật chất bệnh viện tỉnh, huyện, trạm y tế xã được đầu tư nâng chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Xây dựng mới bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ 700 giường, xây dựng mới bệnh viện đa khoa Hậu Giang 500 giường, nâng cấp nhiều bệnh viện tỉnh như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre, Kiên Giang, ... cơ bản hoàn thành nâng cấp bệnh viên đa khoa tuyến huyện. Chủ trương xã hội hoá trong lĩnh vực y tế đã thu hút đông đảo sự tham gia của cộng đồng, hiện toàn vùng 4
- có trên 10 bệnh viện đa khoa tư nhân hoạt động. Công tác y tế dự phòng được chú trọng, phòng ngừa, kiềm chế và dập tắt kịp thời các loại dịch bệnh xảy ra. 7. Thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, kiện toàn hệ thống chính trị Từ năm 2001 đến nay, việc triển khai thực hiện các chính sách dân tộc, các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã mang lại những kết quả quan trọng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo được cải thiện rõ nét. Ý thức tự lực, tự cường vượt qua đói nghèo trong đồng bào được nâng lên, nhiều hộ đã thoát nghèo vươn lên đủ ăn, có hộ trở thành giàu có, nhiều nơi xuất hiện mô hình tập thể, cá nhân dân tộc thiểu số làm kinh tế giỏi. Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo được các cấp ủy, chính quyền quan tâm nhiều hơn. Các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng đều được tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi, chính sách, pháp luật về tôn giáo từng bước được hoàn thiện. Hầu hết các tôn giáo trong vùng hoạt động đúng luật pháp; nhiều cơ sở thờ tự, các chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện. B. Một số tồn tại, hạn chế 1. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, yếu tố rủi ro còn cao, chưa tương xứng tiềm năng của vùng. Nông nghiệp có lợi thế, nhưng công tác qui hoạch sử dụng đất trồng lúa, nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn trái … thực hiện còn chậm hoặc đã có qui hoạch nhưng nhất lượng chưa tốt, thực hiện qui hoạch chưa nghiêm; chưa khai thác tốt tiềm năng và đạt hiệu quả các mặt hàng nông sản chủ lực. Nền kinh tế nông nghiệp quy mô nhỏ, rủi ro cao, bị đe dọa ảnh hưởng biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Quy mô công nghiệp nhỏ, giá trị gia tăng thấp, chủ yếu công nghiệp địa phương; công nghiệp chế tác, cơ khí phục vụ nông nghiệp và công nghiệp công nghệ cao chưa phát triển. Các doanh nghiệp trong vùng hầu hết là doanh ngiệp vừa và nhỏ (chiếm hơn 90%). Tỷ trọng công nghiệp trong GDP của khu vực còn thấp. Thu hút đầu tư chưa nhiều, nhất là đầu tư nước ngoài. Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi tuy được tập trung đầu tư trong các năm qua, nhưng cơ bản vẫn còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Một số công trình trọng điểm về giao thông được xác định trong Nghị quyết 21 như cầu Vàm Cống, tuyến đường cao tốc Trung Lương-Cần Thơ, tuyến đường sắt TP. Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho, đường ô tô đến trung tâm xã (hiện còn khoảng 140 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã), các cảng nằm dọc trên tuyến sông Tiền, sông Hậu; cảng biển Đại Ngãi, Hòn Chông chưa được đầu tư xây dựng. Về thuỷ lợi, chương trình ngọt hóa bán đảo Cà Mau và dự án thủy lợi Ba Lai (Bến Tre) đầu tư chưa đồng bộ. Về thu ngân sách, cả vùng chỉ có thành phố Cần Thơ số thu có tỷ lệ điều tiết về ngân sách Trung ương, các tỉnh còn lại phải nhận bổ sung cân đối từ Trung ương. Tổng thu mới đáp ứng khoảng 70% tổng chi ngân sách địa phương. 2. Giáo dục-đào tạo, dạy nghề, văn hóa – xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém so với các vùng, miền khác. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đạt yêu cầu, các chỉ số giáo dục-đào tạo và dạy nghề trong vùng còn thấp so với các vùng khác. Tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đào tạo và dạy 5
- nghề còn thấp, chiếm 18% cuối năm 2010 so chỉ tiêu 20%, có 135 sinh viên/1 vạn dân, mới đạt 90% chỉ tiêu Quyết định số 20 của Thủ tướng Chính phủ. Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia thấp, tỷ lệ huy động học sinh trung học phổ thông mới đạt 44,3%; học sinh phổ thông bỏ học trong năm học còn cao; bình quân mới có 85 sinh viên/1 vạn dân. Trang thiết bị giảng dạy thiếu, lạc hậu, giáo viên dạy nghề thiếu về số lượng, chất lượng chưa cao, chủ yếu là dạy nghề ngắn hạn. Xuất khẩu lao động chưa đạt kế hoạch cả về số lượng và thu nhập. Số xã có bác sĩ còn thấp, mới đạt 71% (chỉ tiêu Nghị quyết 21 là 100%). Thực hiện Quyết định 134, Quyết định 33, Quyết định 74 và Chương trình 135 của Thủ tướng Chính phủ ở một số tỉnh còn chậm. Phát hành các ấn phẩm văn hóa bằng tiếng Khmer còn hạn chế. Thời lượng phát thanh, phát hình bằng tiếng Khmer có tăng nhưng vẫn còn thấp so yêu cầu công tác tuyên truyền và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của đồng bào; cơ sở vật chất, kinh phí, đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc còn thiếu. Tình trạng xây dựng, sửa chữa các cơ sở thờ tự của các tôn giáo không xin phép, hoặc thực hiện sai giấy phép còn xảy ra ở một số địa phương trong vùng. 3. Lĩnh vực quốc phòng – an ninh còn tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định cần tập trung giải quyết. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định; các thế lực thù địch, tổ chức phản động tiếp tục tuyên truyền kích động, lôi kéo đồng bào và sư sãi Khmer, một bộ phận đồng bào Chăm bằng nhiều hình thức. Công tác quản lý địa bàn, quản lý hộ khẩu, quản lý đối tượng có nơi chưa chặt; một số trường hợp bị địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, chính sách mở cửa của ta cài cắm bọn phản động thâm nhập địa bàn, tuyên truyền, kích động gây chia rẽ, móc nối xây dựng tổ chức. Một số nơi, địch đã móc nối chọn số trẻ, trí thức đưa ra nước ngoài đào tạo xong đưa về mang danh nghĩa người chức sắc, tôn giáo để nắm dân, phục vụ ý đồ chống đối của chúng. Công tác vận động quần chúng và xây dựng nòng cốt trong các vị chức sắc tôn giáo và những người có uy tín trong đồng bào dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu. Tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội tuyến biên giới, biển, đảo, vùng nước lịch sử có thời điểm còn diễn biến phức tạp. Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân ở một vài địa phương còn tồn đọng do qui định pháp luật có liên quan còn thiếu nhất quán. Một số trường hợp trong Thiên Chúa và Tin Lành tiếp tục khiếu kiện “đòi lại” nhà, đất, còn xảy ra điểm nóng trong đồng bào dân tộc Khmer. Việc đầu tư xây dựng phòng thủ tuyến biên giới và trang thiết bị cần thiết để giữ vững vùng biển, hải đảo, vùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc chưa đảm bảo yêu cầu tối thiểu. 4. Xây dựng hệ thống chính trị còn những hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở Đảng trong vùng còn yếu kém; công tác lãnh đạo ở một số nơi còn lúng túng về phương thức và nội dung, chỉ đạo thiếu tập trung, dàn trải, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhất là công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan và ở cơ sở từng lúc, từng nơi còn hình thức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ đầu ngành có trình độ cao, chuyên sâu về quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế ... còn nhiều hạn chế, tình trạng hụt hẫng cán bộ vẫn còn diễn ra. Hệ thống chính trị ở cơ sở nhìn chung còn nhiều mặt yếu kém. Việc qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị còn có mặt bất cập. 6
- III. Một số định hướng, giải pháp phát triển KT-XH, giai đoạn đến 2020 1. Mục tiêu chủ yếu: Kết luận số 28-KL/TW ngày 14-8-2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng ĐBSCL, thời kỳ 2011-2020 xác định: “Xây dựng và phát triển ĐBSCL thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hoá theo hướng hiện đại, phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ cho nông nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Phát triển mạnh kinh tế biển. Xây dựng ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia có qui mô lớn, hiện đại, sức cạnh tranh cao. Phát triển mạnh ngành dịch vụ - du lịch thành ngành kinh tế then chốt của vùng. Chủ động hội nhập, hợp tác kinh tế với các nước, trước hết là các nước khu vực Đông Nam Á”. Theo đó, các yêu cầu và mục tiêu chủ yếu là. 1.1. Xây dựng vùng ĐBSCL tiếp tục là vùng trọng điểm nông nghiệp, thủy sản, là một trong những trung tâm năng lượng cả nước. Trên cơ sở đó, tập trung xây dựng vùng ĐBSCL trở thành vùng phát triển năng động về kinh tế, các mặt văn hoá, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước; chủ động thích ứng với biển đổi khí hậu và nguy cơ nước biển dâng; tập trung xây dựng nông thôn mới. 1.2. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011-2020 của vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 12%; tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP giảm xuống còn khoảng 30%, công nghiệp xây dựng tăng lên khoảng 36%, khu vực dịch vụ khoảng 34%. Thu nhập GDP bình quân đầu người phấn đấu đến năm 2015 đạt khoảng 50 triệu đồng (tương đương 2.130 USD) và khoảng 70 triệu đồng (tương đương 3.200 USD) vào năm 2020. 1.3. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. 2. Nhiệm vụ, giải pháp: 2.1. Khai thác tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và vùng, phát triển toàn diện, hiệu quả, tiếp tục tập trung đầu tư phát triển bền vững nông nghiệp, phát triển mạnh kinh tế biển, tập trung đầu tư Vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL, xây dựng Cần Thơ thành trung tâm vùng, xây dựng đảo Phú Quốc thành đặc khu hành chính – kinh tế, trung tâm dịch vụ, du lịch của khu vực; xây dựng hợp lý các khu, cụm công nghiệp tập trung, vận dụng tốt các chính sách thu hút, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước. 2.2. Tiếp tục đầu tư mạnh cho kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông và thủy lợi. Ưu tiên tập trung cho hệ thống giao thông huyết mạch liên vùng đối với giao thông đường bộ, đường thủy, hàng không và hệ thống các cảng biển, nghiên cứu xây dựng một cảng nước sâu cho vùng. Triển khai xây dựng các công trình trọng điểm của vùng, như nhà máy điện sử dụng than, khí thiên nhiên tại Trung tâm điện lực Ô Môn (Cần Thơ), các nhà máy nhiệt điện than tại Trung tâm Điện lực Kiên Lương (Kiên Giang), Trung tâm điện lực Duyên Hải (Trà Vinh), Trung tâm điện lực Long Phú (Sóc Trăng), Trung tâm điện lực Sông Hậu (Hậu Giang); xây dựng hoàn thành đường cao tốc Trung Lương-Cần Thơ; tuyến N2, N1; tuyến đường ven biển, luồng cho tàu có trọng tải lớn vào các cảng trong Vùng ĐBSCL; các cầu Cổ Chiên, Vàm Cống, Cao Lãnh, Đại Ngãi. Qui hoạch xây dựng các cụm tuyến dân cư, vừa tránh tự phát làm mất đất nông nghiệp, vừa gắn qui hoạch xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội. Xây dựng hệ thống thủy lợi, nhà ở phù hợp với xu 7
- hướng biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. 2.3. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực theo các mô hình phù hợp như theo đơn đặt hàng, địa chỉ sử dụng, hợp đồng hợp tác... nhằm xây dựng nguồn nhân lực trẻ, năng động, hiện đại có trình độ cao; gắn phát triển kinh tế với xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, tạo việc làm, giảm chênh lệch về phát triển xã hội giữa các khu vực và giữa dân tộc Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. 2.4. Tăng cường liên kết vùng, phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, có các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, đảm bảo phát triển bền vững. Phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ an ninh - quốc phòng, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Sắp xếp tổ chức, củng cố kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, gần dân, sát dân hơn; đặc biệt là ở những vùng có đông đồng bào dân tộc, đồng bào theo đạo. Một số giải pháp chủ yếu: (1) - Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển: Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, xúc tiến du lịch trong nước và ở nước ngoài; huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư của các thành phần kinh tế. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và sản xuất, kinh doanh phát triển. (2) - Đẩy mạnh thực hiện liên kết vùng trong nông nghiệp, nông dân, gắn với xây dựng nông thôn mới: Triển khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục nghiên cứu ban hành các cơ chế chính sách riêng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long, ưu tiên các chính sách đặc thù thu hút đầu tư, phát triển nông nghiệp và nguồn nhân lực. Nghiên cứu xây dựng và ban hành Chính sách hợp tác liên tỉnh trong vùng, hợp tác với các vùng và các nước trong khu vực; giữa vùng Đồng bằng sông Cửu Long với vùng Đông Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh; tăng cường hợp tác với Campuchia và các nước trong khu vực. Thí điểm, nhân rộng các mô hình sản xuất tiên tiến, phù hợp trong điều kiện mới, tạo được giá trị gia tăng cao, làm thay đổi về chất theo sự phát trển của toàn vùng. (3) - Tập trung mọi nguồn lực phát triển nhanh và đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội: Hình thành một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại là một đột phá chiến lược để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Trước mắt cần tập trung rà soát và hoàn chỉnh các quy hoạch kết cấu hạ tầng các địa phương trong mối liên kết vùng ĐBSCL, có phân công, phân vai, bảo đảm khai thác tối đa lợi thế và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả của nền kinh tế. Huy động cao nhất các nguồn lực đầu tư để hoàn thiện cơ bản mạng lưới giao thông vận tải thiết yếu đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách. Đẩy mạnh đầu tư nâng cấp, bảo trì các công trình hiện có và xây dựng mới các công trình kết cấu hạ tầng giao thông mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội (đường cao tốc, nạo vét luồng Định An, đào kênh Quan Chánh Bố, cảng biển cho tàu lớn…). Đầu tư phát triển hệ thống giao thông vận 8
- tải đối ngoại, hoàn thiện đường vành đai biên giới. Xây dựng hệ thống các cầu vượt sông để tạo điều kiện đi lại cho nhân dân. Từng bước hoàn thiện hệ thống giao thông đô thị giải quyết tình trạng ách tắc giao thông ở các đô thị lớn. Đồng thời phát triển đồng bộ hệ thống giao thông vận tải địa phương, phấn đấu đến năm 2020 có 100% xã có đường ôtô đến trung tâm. Rà soát, cập nhật chiến lược và các quy hoạch chuyên ngành cho phù hợp với định hướng Chiến lược phát triển kinh tế xã hội cña vùng ĐBSCL, giai đoạn 2011-2020. Chú trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch, môi trường và các lĩnh vực khác theo hướng tập trung và nâng cao hiệu quả sử dụng công trình. Đồng thời đẩy mạnh việc xã hội hóa huy động nhiều nguồn vốn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển để bổ sung và phát huy hiệu quả đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước. Từng bước phát triển đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống thuỷ lợi, chú trọng xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, các công trình ngăn mặn... Phát triển hệ thống cung cấp nước sạch và hợp vệ sinh cho đô thị, khu công nghiệp và dân cư nông thôn. Giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước và xử lý nước thải ở các đô thị. Ưu tiên đầu tư ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng. (4) - Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, gắn với công tác bảo vệ môi trường: Tổ chức thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng đối với vùng ĐBSCL; gắn với tuyên truyền nâng cao ý thức người dân. Quy hoạch và xây dựng các công trình thủy lợi, giao thông, xây dựng các cụm tuyến khu dân cư vượt lũ giai đoạn II phải được tính toán phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ tài nguyên môi trường. Tiếp tục thực hiện định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. (5) - Thực hiện tốt chủ trương đoàn kết dân tộc, các chính sách an sinh xã hội, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân: Tăng cường quán triệt nhận thức về đoàn kết dân tộc, chính sách dân tộc. Thực hiện đồng bộ các giải pháp chính sách tạo thêm việc làm mới bao gồm các giải pháp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện thành lập các doanh nghiệp mới, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động; phát triển thị trường lao động; tăng cường cho vay giải quyết việc làm; duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. (6) - Đảm bảo giữ vững ổn định chính trị - xã hội vùng ĐBSCL, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của cả nước. Tiếp tục thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác tốt đẹp với Campuchia, thúc đẩy nhanh hơn tiến độ phân giới cắm mốc Việt Nam – Campuchia. 9
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ ăn uống tại khách sạn Sài Gòn Morin–Huế
102 p | 1697 | 323
-
Đề tài “Một số vấn đề về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cầu 75 thuộc Tổng công ty công trình giao giao thông 8 - Bộ Giao Thông Vận tải”.
61 p | 447 | 209
-
Đề tài: Nghiên cứu về OFDM và vấn đề đồng bộ trong hệ thống OFDM và mô phỏng hệ thống OFDM
87 p | 220 | 55
-
Luận văn :"Một số vấn đề về kế toán cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương"
59 p | 158 | 53
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ kinh doanh và quản lý: Một số giải pháp Marketing phát triển dịch vụ giá trị gia tăng của Công ty dịch vụ viễn thông Vinaphone
22 p | 217 | 44
-
Khóa luận tốt nghiệp: Một số vấn đề đặt ra đối với việc thực thi luật đầu tư Việt Nam năm 2005 sau khi Việt Nam gia nhập WTO
91 p | 169 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật âm nhạc: Một số vấn đề đào tạo Trung cấp Thanh nhạc tại trường Đại học Văn hoá Nghệ thuật Quân đội
59 p | 176 | 25
-
Một số vấn đề cơ học đất đá- nền móng, địa vật lý và ứng dụng trong xây dựng công trình giao thông
21 p | 161 | 25
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật viễn thông: Một số vấn đề trong thiết kế tuyến cáp quang biên trục Bắc Nam
26 p | 127 | 22
-
Chuyên đề tốt nghiệp: Nghiên cứu một số vấn đề tấn công lớp mạng của mạng tùy biến không dây
69 p | 93 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý nhà nước về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội từ thực tiễn thành phố Hà Nội
103 p | 88 | 13
-
Nghiên cứu một số vấn đề xã hội liên quan đến quy hoạch môi trường vùng đồng bằng sông Hồng
51 p | 75 | 12
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Cơ kỹ thuật: Nghiên cứu, ứng dụng bộ chương trình OpenFOAM trong tính toán động lực học dòng chảy không có/có chuyển pha
26 p | 62 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Toán học: Bất đẳng thức Muirhead và một số vấn đề liên quan
51 p | 19 | 5
-
Luận văn thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
142 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Quản trị đa văn hóa tại Công ty Atotech Việt Nam
125 p | 9 | 4
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Một số vấn đề về đa thức đối xứng và bất đẳng thức liên quan
24 p | 65 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn