intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tràng Giang Của Huy Cận

Chia sẻ: Thanhvien Thanhvien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:35

553
lượt xem
85
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Anh (chị) hãy phân tích bài tràng giang của huy cận để thấy được bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ diển mà vãn gần gũi thân thuộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tràng Giang Của Huy Cận

  1. Tràng Giang Của Huy Cận Đề : Anh (chị) hãy phân tích bài tràng giang của huy cận để thấy được bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ diển mà vãn gần gũi thân thuộc. Gợi ý: 1. Vẻ đẹp cổ điển được:
  2. - Đề tài và điểm nhìn cảnh vật: tả buổi chiều hoàng hôn trên sông dài rộng mênh mông, những gian bao quát toàn cảnh vật. - Búp pháp miêu tả: lấy điểm tả diện: qua cảnh củi khô, bên cô liêu, cánh chim nhỏ để tả không gian bao la, hoang vắng. - Cảm xúc: con người như thăng hoa, lẫn vào cảnh vật, vào không gian, thời gian. Mượn cảnh gợi tình, cảnh sông nước Tràng Giang của Huy Cận gợi nhớ đến cảnh sông
  3. nước Tràng Giang của thơ Đường trong Thơ Đỗ Phủ, Thôi Hiệu. Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn tạo ra nhịp điệu thơ như trong thơ xưa. 2. Vẻ đẹp hiện đại: Tuy vậy, Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn 1932 - 1945.
  4. - Bút pháp hiện đại thể hiện với những chi tiết, hình ảnh thơ cụ thể, sống sít đời thường, chân thực với cành củi khô, cồn cát, cánh bèo, cánh chim nhỏ. Nói chung là quá nhiều hình ảnh, chi tiết được đưa vào bài thơ dường như ngẫu nhiên, tình cờ, không theo trình tự không gian, thời gian. - Tâm trạng thơ, là một cái tôi của thế hệ thanh niên sống trên đất nước bị thực dân Pháp thống trị, một cái tôi cô đơn, lạc lõng, vô định giữa không gian bao la, muốn hoà nhập nhưng bất lực, bế tắc.
  5. - Càng nhớ nhà, nhớ quê hương vì vậy sâu nặng, phát xuất tự đáy lòng nhà thơ chứ không cần ngoại cảnh như trong thơ xưa. 3. Bài làm tham khảo Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ - Đây là một hồn thơ buồn, nỗi buồn của một con người gắn bó với đất nước, quê hương, nhưng cô đơn bất lực, thường tìm đến những cảnh mênh
  6. mông bát ngát, hoang vắng lúc chiều tà và đem đối lập nó với những sự vật gợi lên hình ảnh những thân phận nhỏ nhoi, tội nghiệp, bơ vơ trong tàn tạ và chia lìa. Bài thơ Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu cho những đặc điểm phong cách vừa cổ điển vừa hiện đại. 1/ Tràng giang nghĩa là sông dài. Nhưng hai chữ nôm na “sông dài” không có được sắc thái trừu tượng và cổ xưa của hai âm Hán Việt “tràng giang”. Với hai âm Hán Việt,
  7. con sông trong thơ tự nhiên trở thành dài hơn, trong tâm tưởng người đọc, rộng hơn, xa hơn, vĩnh viễn hơn trong tâm tưởng người đọc. Một con sông dường như của một thuở xa xưa nào đã từng chảy qua hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và in bóng trong hàng nghìn áng cổ thi. Cái cảm giác Tràng giang ấy lại được tô đậm thêm bởi lời thơ đề là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” (Nhớ hờ - Lửa thiêng) 2/ Khổ một:
  8. Ở hai câu đầu, cảnh vật thực ra tự nó không có gì đáng buồn. Nhưng lòng đã buồn thì tự nhiên vẫn thấy buồn. Đây là cái buồn tự trong lòng lan tỏa ra theo những gợn sóng nhỏ nhấp nhô “điệp điệp” với nhau trên mặt nước mông mênh. Cũng nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền xuôi mái lặng lẽ để lại sau mình những rẽ nước song song. Ở hai câu sau, nỗi buồn đã tìm được cách thể hiện sâu sắc hơn trong nỗi buồn của cảnh: ấy là sự chia lìa của “thuyền về nước lại” và nhất là cảnh ngộ của một cành củi
  9. lìa rừng không biết trôi về đâu giữa bao dòng xuôi ngược. Thử tưởng tượng: một cành củi khô gầy guộc chìm nổi giữa bát ngát tràng giang... Buồn biết mấy! 3/Khổ hai: Bức tranh vẽ thêm đất thêm người. Cái buồn ở đây gợi lên ở cái tiếng xào xạc chợ chiều đã vãn từ một làng xa nơi một cồn cát heo hút nào vẳng lại. Có thoáng hơi tiếng của con người đấy, nhưng mơ hồ và chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, chia lìa. Hai câu cuối của khổ thơ đột
  10. ngột đẩy cao và mở rộng không gian của cảnh thơ thêm để càng làm cho cái bến sông vắng kia trở thành cô liêu hơn: Nắng xuống, trời lên sâu chót vót. Sông dài, trời rộng, bến cô liêu 4/Khổ ba: Cảnh mênh mông buồn vắng càng được nhấn mạnh hơn bằng hai lần phủ định:
  11. Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật... Không có một con đò, không có một cây cầu, nghĩa là hoàn toàn không bóng người hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn qua lại gặp gỡ nhau nơi sông nước. Chỉ có những cánh bèo đang trôi dạt về đâu: lại thêm một hình ảnh của cô đơn, của tan tác, chia lìa.
  12. 5/Khổ bốn: Chỉ có một cánh chim xuất hiện trên cảnh thơ. Xưa nay thơ ca nói về cảnh hoàng hôn thường vẫn tô điểm thêm một cánh chim trên nền trời: Chim hôm thoi thóp về rừng (Nguyễn Du) Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
  13. (Bà Huyện Thanh Quan) Chim mỏi về rừng tìm chốn trú (Hồ Chí Minh) Bài thơ Huy Cận cũng có một cánh chim chiều nhưng đúng là một cánh chim chiều trong “thơ mới”, nên nó nhỏ nhoi hơn, cô đơn hơn. Nó chỉ là một cánh chim nhỏ (chim nghiêng cánh nhỏ) trên một nền trời “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Và cánh chim nhỏ đang sa xuống phía chân trời xa như một tia nắng chiều rớt xuống.
  14. Người ta vẫn nói đến ý vị cổ điển của bài thơ. Nó thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình trước vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người. Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm thêm bằng một tứ thơ Đường. Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Tác giả Tràng giang tuy nói “không khói hoàng hôn”
  15. nhưng chính là đã bằng cách ấy đưa thêm “khói hoàng hôn Thôi Hiệu” vào trong bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ của người lữ thứ trước cảnh tràng giang. 6/ Mỗi người Việt Nam đọc Tràng giang đều liên tưởng đến một cảnh sông nước nào mình đã đi qua. Có một cái gì rất quen thuộc ở hình ảnh một cành củi khô hay những cánh bèo chìm nổi trên sóng nước mênh mông, ở hình ảnh
  16. những cồn cát, làng mạc ven sông, ở cảnh chợ chiều xào xạc, ở một cánh chim chiều. Một nhà cách mạng hoạt động bí mật thời Pháp thuộc mỗi lần qua sông Hồng lại nhớ đến bài Tràng giang. Tình yêu đất nước quê hương là nội dung cảm động nhất của bài thơ. Còn “cái tôi Thơ mới”, tất nhiên là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng buồn. Buồn thì cảnh không thể vui. Huống chi lại gặp cảnh buồn. Nhưng trong nỗi cô đơn của nhà
  17. thơ, ta cảm thấy một niềm khát khao được gần gũi,hòa hợp, cảm thông giữa người với người trong tình đất nước , tình nhân loại - niềm khát khao có một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu thân mật nối liền hai bờ sông nước Tràng giang. Đề : Phân tích khổ đầu bài thơ "Tràng Giang" - Huy Cận. Lời đề tự “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang” đã
  18. khắc chạm vào thời gian và hồn người hơn nửa thế kỷ qua. “Tràng giang” là bài thơ kiệt tác trong tập thơ “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buỏi chiều thu năm 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm sông Hồng mênh mông lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ lặng ngắm cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Khổ thơ đầu nói về “sóng gợn”, con thuyền và cành củi
  19. khô trôi trên dòng sông: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song”. Tràng giang – sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang… ở đây là dòng sông Hồng Hà thân yêu, dòng sông “đỏ nặng phù sa”. Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp “buồn điệp điệp”, như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo “nước song song”. Cặp từ láy: “điệp điệp”, “song song” gợi tả một nơi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. hình ảnh cành củi khô vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý
  20. nghĩa tượng trưng. “Củi một cành khô” nhỏ bé tầm thường, từ rừng xa xôi trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên “cái ý vị mới mẻ” của “Thơ mới”. Nó biểu tượng cho một kiếp ngời phù du, bé nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu, về đâu? Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành kho lạc mấy dong” Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vãn cân xứng, hài hoà. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng tràng gian. Huy Cận nói đến nhiều “vạn cổ sầu”, “buồn thiên thu”, ở đây ông lại viết
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2