28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TRIẾT LÝ CỦA CƯ DÂN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ<br />
VỀ SỰ SỐNG VÀ CON NGƯỜI<br />
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM<br />
<br />
Nguyễn Thị Ngọc<br />
Trường Đại học Y Hà Nội<br />
<br />
Tóm tắt: Vấn đề con người luôn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và<br />
của các nhà tư tưởng trong lịch sử triết học. Trong truyện cổ tích Việt Nam, các tác giả<br />
dân gian đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cũng là chủ thể của các truyện cổ tích, đã rút ra<br />
nhiều triết lý sâu sắc về sự sống, cái chết, linh hồn và vấn đề số phận của con người.<br />
Từ khóa: Cư dân Bắc Bộ, cuộc sống, con người, truyện cổ tích<br />
<br />
Nhận bài ngày 24.5.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 20.6.2019<br />
Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Ngọc; Email: nguyenngochmu@gmail.com<br />
<br />
<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
<br />
Truyện cổ tích là thể loại văn học dân gian chứa đựng trong đó nhiều yếu tố triết lý rất<br />
sâu sắc. Những triết lý này đã phản ánh tư tưởng, quan điểm của người Việt nói chung<br />
cũng như của cư dân đồng bằng Bắc Bộ nói riêng về các vấn đề của đời sống xã hội như<br />
thế giới, con người, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Đặc biệt thông qua<br />
truyện cổ tích, các tác giả dân gian đã đúc rút những triết lý sâu sắc và toàn diện về cuộc<br />
sống của con người như như triết lý về sự sống, cái chết, linh hồn, vấn đề số phận của con<br />
người.. Tuy chưa đạt đến tầm triết học và tính phổ quát; tính trừu tượng hóa và khoa học<br />
của các triết lý nhân sinh này chưa cao, nhưng đó là những bài học quí cần được suy ngẫm,<br />
nghiên cứu một cách nghiêm túc.<br />
<br />
2. NỘI DUNG<br />
<br />
2.1. Triết lý về sự sống của con người<br />
Trong suốt quá trình lịch sử tồn tại phát triển lâu dài của dân tộc Việt Nam, người Việt<br />
nói chung và cư dân đồng bằng Bắc Bộ nói riêng luôn tìm mọi cách để nhận thức và lý giải<br />
về sự sống, sự tồn tại của chính mình. Trong điều kiện nhận thức của con người còn nhiều<br />
hạn chế, khoa học tự nhiên chưa phát triển thì cách giải thích và nhận thức của người Việt<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 32/2019 29<br />
<br />
xưa về sự sống chỉ chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, mang tính chất phỏng đoán kết hợp với<br />
trí tưởng tượng phong phú. Thông qua các truyện cổ tích, tác giả dân gian đã cố gắng lý<br />
giải về sự sống, sự tồn tại của con người; từ đó xây dựng những triết lý sơ khai, mộc mạc<br />
đầu tiên của người Việt về cuộc sống của con người.<br />
Cư dân đồng bằng Bắc Bộ đã xây dựng nên triết lý vạn vật tương quan, họ cho rằng<br />
giữa con người và vạn vật, vũ trụ có liên quan mật thiết với nhau. Bằng trí tượng tượng sơ<br />
khai, họ chỉ ra rằng, cõi trần chính là nơi mà con người sống (hạ giới). Ngoài cõi trần còn<br />
có Thượng giới (cõi Trời) do Ngọc Hoàng Thượng đế cai trị, Thủy Phủ (cõi Nước), Âm<br />
Phủ (cõi Âm), ba thế giới này có ảnh hưởng chi phối thế giới loài người, ảnh hưởng đến<br />
cuộc sống của con người.<br />
Với tín ngưỡng như thế, người Việt Nam nói chung và cư dân đồng bằng Bắc Bộ nói<br />
riêng tin rằng vũ trụ không phải tự nhiên mà có như các nhà vô thần quan niệm, mà nó<br />
được tạo nên bởi một Đấng sáng tạo. Người sáng tạo ra con người cũng như muôn vật trên<br />
trần gian đó là ông Trời (hay Ngọc Hoàng Thượng đế). Cơ sở của quan điểm duy tâm này<br />
là do vũ trụ quan tự phát của nhân dân kết hợp với những biến chuyển mới trong nhận thức<br />
và tư duy người xưa đã chuyển hóa thành một vũ trụ quan mới trong tưởng tượng của dân<br />
chúng. Hệ thống những quan niệm có tính thần bí ấy về vũ trụ là sản phẩm của một kiểu tư<br />
duy còn chất phác, hồn nhiên của người bình dân; nhưng cũng thể hiện thái độ sống hòa<br />
mình với thiên nhiên tạo vật, nâng niu trân trọng những dạng thức khác nhau của sự sống<br />
xung quanh mình.<br />
Mặc dù nhận thức của người Việt xưa về nguồn gốc sự tồn tại của con người còn chưa<br />
thực sự chính xác; tuy nhiên, về cơ bản, cư dân đồng bằng Bắc Bộ đã đề cập, phản ánh,<br />
khái quát được nhiều triết lý sâu sắc khi chỉ ra được sự sống cũng như sự tồn tại của con<br />
người luôn gắn liền với tự nhiên, con người muốn tồn tại được thì không thể tách rời khỏi<br />
giới tự nhiên. Trong truyện Sự tích quả dưa hấu, Mai An Tiêm vì phạm thượng mà bị vua<br />
cha đẩy ra ngoài hoang đảo. Nhờ sự cần cù chăm chỉ, cả gia đình Mai An Tiêm đã biết dựa<br />
vào tự nhiên, tận dụng những thứ mà giới tự nhiên ban cho như nước uống, thức ăn, hạt<br />
giống do loài chim mang tới... để có thể tồn tại được trên hoang đảo. Trong hầu hết các<br />
truyện cổ tích, tự nhiên luôn xuất hiện và đồng hành với hoạt động sống, sinh hoạt, lao<br />
động sản xuất vật chất, và chiến đấu chống ngoại xâm của con người. Vì vậy mà các tác<br />
giả dân gian thường khuyên con người phải hành động hợp với tự nhiên. Triết lý này của<br />
cư dân đồng bằng Bắc Bộ có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của chủ nghĩa Mác -<br />
Lênin về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Mác đã từng viết: “Giới tự nhiên…<br />
là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên… và con người là một<br />
bộ phận của giới tự nhiên” [3, tr.135].<br />
Từ góc độ triết học, có thể nói, triết lý của cư dân đồng bằng Bắc Bộ về sự sống của<br />
con người mang đậm yếu tố duy tâm khách quan khi cho rằng nó chịu ảnh hưởng và bị chi<br />
30 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
phối bởi một lực lượng siêu nhiên mà dân gian vẫn gọi là ông Trời. Tuy nhiên bên cạnh đó,<br />
họ cũng thấy được mối quan hệ biện chứng và mật thiết giữa cuộc sống của con người với<br />
tự nhiên. Giới tự nhiên là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người, đặc<br />
biệt là với cuộc sống của cư dân đồng bằng Bắc Bộ khi người dân của vùng đất này chủ<br />
yếu sống bằng nghề nông.<br />
<br />
2.2. Quan niệm về cái chết và sự tồn tại của linh hồn<br />
Trong quan niệm của cư dân đồng bằng Bắc Bộ, sự sống và cái chết nằm ngoài mong<br />
muốn, ước nguyện hay sự can thiệp của con người. Sống chết cũng như họa phúc, là một<br />
quy luật tự nhiên. Truyện cổ tích Nguồn gốc sinh tử đã thể hiện rất rõ quan điểm này:<br />
“sống chết là lẽ thường, hễ có sanh là có tử”; chỉ có điều, cái chết thường bất thình lình,<br />
không có cơ hội trải nghiệm. Người ta tin rằng sau khi chết con người sẽ phải xuống Ðịa<br />
ngục, nơi đó có quỷ sứ, có Diêm Vương định luận, phán xét những việc mà họ đã làm trên<br />
dương gian. Truyện cổ tích Người họ Liêu và Diêm vương kể về một người họ Liêu vì<br />
muốn biết tại sao dòng họ nhà anh ta ai cũng chết non năm ba mươi tuổi, nhưng lại có ông<br />
lão họ Lã sống đến hơn ba trăm tuổi mà vẫn chưa chết, nên anh ta chấp nhận chết để xuống<br />
âm phủ, yết kiến Diêm Vương xin người phân xử cho dòng họ mình. Người họ Liêu đó đã<br />
gặp quỷ sứ, gặp Diêm Vương, được chứng kiến cõi âm, nơi mà con người ta đến sau khi<br />
chết, song chuyện tuyệt nhiên không nói thêm về việc anh chàng này có được “đầu thai”<br />
hay không hay làm cách nào để hóa giải định mệnh. Câu chuyện đơn giản, thể hiện sự tò<br />
mò, trí tưởng tượng phong phú của dân gian về cõi âm cũng như những quan điểm của họ<br />
về cái chết, về thế giới bên kia.<br />
Mặc dù cư dân đồng bằng Bắc Bộ cũng như mọi người dân ở các vùng miền khác đều<br />
quan niệm rằng, sự sống và cái chết của con người đều được định đoạt bởi Diêm Vương và<br />
cách lý giải này về cái chết rõ ràng mang tính chất duy tâm thần bí; song trong ý thức của<br />
họ, cái chết không phải là sự chấm dứt vĩnh viễn, mà nó còn là khởi đầu cho một cuộc sống<br />
mới của con người ở một thế giới khác, dưới một hình hài khác. Theo truyện Thần Tử và<br />
Thần Sinh thì hai vị Nam Tào Bắc Ðẩu ngoài trọng trách trông nom loài người cũng như<br />
loài vật lúc sinh đến lúc chết, còn qui định số mạng giàu nghèo, lành dữ của mỗi người và<br />
sau khi chết sẽ đầu thai kiếp gì. Người dân Bắc Bộ tin tưởng ở sự đầu thai của con người<br />
người ở một kiếp khác theo luật nhân quả luân hồi của đạo Phật.<br />
Bên cạnh quan niệm về cái chết, trong triết lý nhân sinh về con người của cư dân đồng<br />
bằng Bắc Bộ còn có những lí giải khá trừu tượng, thần bí về sự hiện diện của linh hồn. Với<br />
quan niệm thế giới vạn vật hữu linh, người Việt cho rằng, người - trời tương thông, mọi vật<br />
tuần hoàn theo vòng quay luân hồi và luôn tồn tại một thế giới vĩnh hằng, bất tử vượt thoát<br />
ra ngoài mọi lẽ thường tình của nhân gian. Xác thịt con người chẳng qua chỉ là chỗ trú ngụ<br />
của linh hồn. Cái chết làm cho thân xác con người tan rữa, nhưng linh hồn vẫn tiếp tục<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 32/2019 31<br />
<br />
sống một cuộc đời khác, ở một thế giới khác. Người dân đồng bằng Bắc Bộ quan niệm mỗi<br />
người sống có thể xác và có linh hồn. Họ ý thức về sự tồn tại của linh hồn sau khi chết.<br />
Bên cạnh những quan niệm về cõi Trời, về sự hiện hữu của Thượng đế, về đời sống sau khi<br />
chết, người bình dân thời xưa còn tin rằng linh hồn là bất tử. Truyện Hồn Trương Ba, da<br />
Hàng thịt thể hiện rất rõ quan niệm về linh hồn của con người. Truyện chỉ ra rằng linh hồn<br />
phải có thể xác mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không<br />
rữa nát. Tuy vậy, có lẽ trong truyện này, các tác giả đã tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn<br />
mà coi nhẹ thể xác, nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt để nhập<br />
vào thì hiển nhiên, từ ý thức, tình cảm, bản tính và thói quen sinh hoạt thường ngày, anh ta<br />
vẫn giữ nguyên như hồi còn đang sống. Từ đây dẫn đến những khiếu kiện, tranh chấp nhân<br />
sinh bi hài, vượt cả ra ngoài phạm vi những mối quan hệ gia đình, chồng vợ muôn đời<br />
muôn thuở. Cũng có lẽ vì thế, nên ngay cả sau này khi cố nhà viết kịch Lưu Quang Vũ tái<br />
dựng câu chuyện này trên sân khấu, nó vẫn thu hút sự quan tâm của đông đảo khán giả.<br />
<br />
2.3. Triết lý về số phận của con người<br />
Do chịu ảnh hưởng của học thuyết “Thiên mệnh” trong Nho giáo, nên cư dân đồng<br />
bằng Bắc Bộ mà cụ thể là các tác giả dân gian tin tưởng vào sự hiện hữu của Ngọc Hoàng<br />
Thượng đế, là người quyết định vận mệnh của muôn loài và muôn người. Trong truyện<br />
Người dân nghèo và Ngọc Hoàng, anh học trò nghèo không biết tại sao mà dù đã cố gắng<br />
chăm chỉ làm thuê làm mướn, nhưng cuộc đời anh vẫn không thể thoát khỏi sự nghèo khổ.<br />
Để tìm câu trả lời cho số phận của mình, anh đã quyết tâm đi đến tận biển Đông xa xôi, nơi<br />
mà anh nghe có người kể lại rằng Ngọc Hoàng thường hay xuống để nghỉ ngơi. Trên<br />
đường đi tìm Ngọc Hoàng để hỏi về số phận của mình, anh đã được rất nhiều người nhờ để<br />
hỏi Ngọc Hoàng về những trắc trở, khó khăn trong cuộc đời mà họ gặp phải. Như thế, cuộc<br />
sống của con người không phải do họ định đoạt mà lệ thuộc vào các lực lượng siêu nhiên<br />
và có liên hệ mật thiết với giới thần tiên ma quỷ, thiên đàng hay địa ngục. Ngoài cõi trần,<br />
còn ba cõi nữa là cõi trời, cõi nước và cõi âm. Mỗi cõi đều được các tác giả dân gian mô tả<br />
có vua quan, có dân chúng, có kẻ giàu sang, có người nghèo hèn. Cõi trần về cơ bản là nơi<br />
mà người và vạn vật sinh sống, tuy nhiên nó là nơi trú ngụ hoặc chỗ đi về của thần tiên, ma<br />
quỷ. Thần tiên, ma quỷ... cũng có phân biệt thiện ác, tốt xấu; có hạng đáng thương, có hạng<br />
đáng ghét, có hạng đáng tôn thờ, có hạng đáng sợ. Trong nhận thức của các tác giả dân<br />
gian, Ngọc Hoàng, Tiên, Bụt... luôn thấu hiểu, soi tỏ mọi việc của cõi trần, luôn trợ giúp và<br />
có thể thay đổi mọi việc, thay đổi số phận con người.<br />
Cho rằng tính cách và số phận của con người đã được định sẵn của cư dân đồng bằng<br />
Bắc Bộ là một quan điểm duy tâm khách quan. Nó phản ánh sự bất lực của người xưa khi<br />
lý giải về đời sống xã hội và thân phận, số kiếp của họ. Quan niệm này cho rằng bản chất<br />
mỗi con người là cái tiền định, đồng thời thừa nhận sự phân biệt đẳng cấp và sự thống trị<br />
32 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI<br />
<br />
của chế độ phong kiến trong xã hội trước đây như một lẽ tự nhiên. Tuy vậy, tin vào thiên<br />
mệnh, tin rằng số phận của con người sinh ra là do Trời quyết định, nhưng trong nhận thức<br />
của cư dân Bắc Bộ vẫn có những điểm tiến bộ khi cho rằng con người không thụ động<br />
chấp nhận số phận. Trong một số truyện cổ tích, ý thức muốn cải tạo thiên mệnh đã bộc lộ<br />
rõ. Nguyễn Đổng Chi từng viết “ Ai cũng biết truyện cổ tích không tránh khỏi sự chi phối<br />
nặng nề của tư tưởng thiên mệnh, nhưng điều trớ trêu là thiên mệnh trong truyện cổ tích<br />
nhiều khi lại bắt nguồn từ sự cưỡng chống thiên mệnh mà có” [1, tr.178]. Cô gái xinh đẹp<br />
trong Cô gái lấy chồng hoàng tử vốn có một ước muốn được lấy chồng hoàng tử nên ngày<br />
ngày đến đền để cầu xin thần linh cho cô được toại ước muốn. Nhưng không may cho cô là<br />
gã buôn hương từ lâu có tình ý với cô đã lợi dụng lòng tin của cô giả lời thần phán rằng số<br />
của cô là phải làm vợ người buôn hương ở chợ. Rốt cuộc, cô gặp được hoàng tử rồi trở<br />
thành vợ chàng như mong ước bấy lâu, trong khi tên bán hương dối trá đã phải chuốc lấy<br />
kết cục bi thảm cho hành vi của mình đó là bị hổ vồ. Anh nho sinh trong truyện Chưa đỗ<br />
ông nghè đã đe hàng tổng vốn dĩ có một bản mệnh vô cùng tốt đẹp, trong sổ Thiên Tào đã<br />
sớm ghi đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Thượng thư. Nhưng anh ta ỷ vào điềm báo do<br />
người thủ từ cung cấp, chưa đỗ ông nghè đã toan bỏ vợ và chiếm đất của người, kết quả<br />
anh bị xóa tên, thi mãi không đỗ, cuộc đời dần tàn lụi. Như vậy, “mệnh trời” rõ ràng không<br />
phải là một cái gì bất biến, mà thực tế con người có thể tác động để thay đổi nó. Trong<br />
truyện Sự tích đầm Mực, hai anh em nhà Gàn, con thần Nước, đã tự nguyện đánh đổi sự<br />
sống của mình để giúp đỡ thầy học chống lại lệnh “phong bế” vô lý của thiên đình. Câu<br />
chuyện thể hiện sự lạc quan của con người trước khát vọng làm chủ số phận. Đó là ước mơ<br />
thay đổi số phận, mong muốn có được số phận tốt đẹp và có cuộc sống hạnh phúc hơn của<br />
người Việt nói chung cũng như của cư dân đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Cư dân Đồng<br />
bằng Bắc Bộ không bi quan; không coi cuộc sống nhân gian là cõi tạm, đau khổ và không<br />
lấy việc thoát ly cuộc sống trần thế là lý tưởng như quan niệm của một số tôn giáo.<br />
<br />
3. KẾT LUẬN<br />
<br />
Những triết lý của cư dân Đồng bằng Bắc Bộ về cuộc sống của con người trong truyện<br />
cổ tích Việt Nam rất độc đáo và sâu sắc. Nó bộc lộ tư duy sáng tạo, trí tưởng tượng phong<br />
phú của người xưa về ý nghĩa của sự sống cũng như ý thức, giá trị của con người trong<br />
cuộc chiến sinh tồn chống lại định mệnh. Mặc dù còn mang đậm yếu tố duy tâm, yếm thế,<br />
song nghiên cứu những quan niệm, những bài học nhân sinh được đúc rút trong truyện cổ<br />
tích vẫn luôn là cần thiết, bổ ích: “Truyện cổ tích khái quát hóa kinh nghiệm sống của nhân<br />
dân dưới một hình thức mà mọi người có thể tiếp thu được và có hiệu lực về mặt thẩm mỹ,<br />
và trong đời sống của bản thân nhân dân, nó là một phương tiện giáo dục quan trọng đối<br />
với thế hệ trẻ” [2].<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 32/2019 33<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Nguyễn Đổng Chi (1952-1982), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 5, - Nxb Giáo dục, Hà<br />
Nội, tr.178.<br />
2. V.E.Gu-xép (1967), Mỹ học trong phôn-clo (Hoàng Ngọc Hiến dịch), - Nxb Khoa học,<br />
Lê-nin-grát.<br />
3. C.Mác và Ph.Ănghen (1994), Toàn tập, tập 42, - Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.<br />
4. Vũ Anh Tuấn (2012), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb giáo dục, Hà Nội. tr147.<br />
<br />
<br />
THE PHILOSOPHY OF THE NORTHERN INHABITANTS<br />
ABOUT THE LIFE AND THE PEOPLE<br />
IN VIETNAMESE FAIRYTALE<br />
<br />
Abstract: The people is always the object of research of many scientific and thinkers in<br />
the history of philosophy. In Vietnamese fairytales, the folk writers have drawn profound<br />
philosophies of life, death, soul and human destiny.<br />
Keywords: The northern inhabitants, life, human, fairytale.<br />