intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Truyền thống ẩm thực của người Do Thái ở Con Cuông tiềm năng để phát triển du lịch cộng đồng

Chia sẻ: Trần Thi Thu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

105
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Truyền thống ẩm thực của người Do Thái ở Con Cuông tiềm năng để phát triển du lịch cộng đồng trình bày các quan điểm về: Tập quán ăn uống của người Thái ở Con Cuông; Các món ăn đặc sắc của người Thái góp phần phát triển du lịch cộng đồng; Thức uống tiêu biểu,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Truyền thống ẩm thực của người Do Thái ở Con Cuông tiềm năng để phát triển du lịch cộng đồng

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> Đồng bào dân tộc Thái huyện Con Cuông<br /> <br /> TRUYỀN THỐNG ẨM THỰC CỦA NGƯỜI THÁI Ở CON CUÔNG<br /> TIỀM NĂNG ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG<br /> n Ths. Võ Thị Hoài Thương<br /> Khoa Lịch sử, Trường Đại học Vinh<br /> <br /> on Cuông vốn là vùng đất được thiên nhiên<br /> ưu đãi bậc nhất xứ Nghệ. Núi non trùng<br /> điệp, sông nước trong xanh không chỉ tạo<br /> nên nhiều cảnh đẹp, mà còn ẩn chứa trong đó nguồn<br /> nguyên liệu và nhiều sản vật ẩm thực phong phú, đặc<br /> sắc. Từ nền cảnh môi trường sinh thái đó, cùng sự<br /> linh hoạt trong ứng xử với môi trường tự nhiên và<br /> tài khéo léo lựa chọn, phối hợp nguyên liệu, đồng<br /> bào Thái ở Con Cuông đã sáng tạo ra các món ăn,<br /> thức uống hợp khẩu vị, nhiều món ăn trở thành đặc<br /> sản như: kháu lam (cơm lam), xôi cẩm, cá Mát sông<br /> Giăng, Pá pinh (cá nướng), Pá xôm (cá chua), Chịn<br /> xôm (thịt chua), Chịn pinh (thịt nướng), măng Bát<br /> Độ, măng đắng chấm chẻo ớt cay mọi (xã Lục Dạ),<br /> canh bon, canh ột (xã Yên Khê), mọc rêu, nậm pịa,<br /> chắm chéo (chẻo ớt), chè đâm, rượu cẩm (xã Chi<br /> Khê), rượu cần Mậu Đức… Đây chính là tiềm năng<br /> cần được khai thác, phát huy giá trị, góp phần phát<br /> triển du lịch cộng đồng tại các bản của người Thái ở<br /> Con Cuông.<br /> <br /> C<br /> <br /> SỐ 7/2017<br /> <br /> 1. Tập quán ăn uống của người Thái ở<br /> Con Cuông<br /> Con Cuông là vùng đất có nguồn nguyên liệu<br /> ẩm thực phong phú. Hầu hết các xã ở Con Cuông<br /> đều có nguồn thổ sản từ hệ thực vật và động vật<br /> dồi dào, cung cấp nguyên liệu chính để đồng bào<br /> Thái chế biến các món ăn, thức uống ngon, đặc<br /> sản. Về hệ thực vật có: chè xanh, măng đắng,<br /> cam Yên Khê, vải thiều, nhãn, hồng Yên Khê...<br /> (1)<br /> . Các loài động vật cũng rất đa dạng như: voi,<br /> hổ, báo, gấu, bò tót, lợn rừng, hươu, nai, mang,<br /> khỉ, vượn, sao la, trăn, kỳ nhông, gà lôi, chim trĩ,<br /> chim công... (2). Đối với người Thái, cùng với<br /> việc canh tác nương rẫy, trồng lúa, hoa màu và<br /> cây ăn quả trên vườn rừng thì việc khai thác<br /> nguồn lợi thổ sản từ rừng là hoạt động kinh tế<br /> không thể thiếu, góp phần đảm bảo nhu cầu ăn<br /> uống của người dân.<br /> Bà con người Thái ở Con Cuông sử dụng<br /> nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương để chế<br /> biến các món ăn, thức uống hàng ngày. Trong cơ<br /> cấu bữa ăn, lương thực chính là gạo nếp và gạo<br /> tẻ, trong đó gạo nếp trồng trên rẫy được dùng phổ<br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [26]<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> biến hơn. Nếp nương (Khau niếu hày), nếp<br /> đen (Khau đắm đòi) là hai giống nếp thơm<br /> ngon, nổi tiếng nhất ở vùng đất Mường Quạ,<br /> bản Xiềng, xã Môn Sơn: “Cơm Mường Quạ,<br /> cá sông Giăng”.<br /> Người Thái nói chung và nhất là đồng bào<br /> định cư ở vùng Vườn Quốc gia Pù Mát, cư<br /> trú gần sông và các con suối nhỏ nên thường<br /> khai thác nguồn lợi thủy sản ở khu vực sông,<br /> suối. Trong đó, cá là món ăn yêu thích của<br /> đồng bào và cá Mát sông Giăng là niềm tự<br /> hào của người dân nơi đây. Cá không chỉ là<br /> thực phẩm cung cấp nguồn đạm trong bữa ăn<br /> hàng ngày mà còn là lễ vật trong đám cưới<br /> và các lễ tết trong năm. Cá là nguyên liệu<br /> chính để chế biến thành nhiều món ăn đặc sắc<br /> như: cá nướng, cá đồ, cá chua, canh cá, măng<br /> chua, cá lạp, cá gỏi, moọc cá, cá vùi tro, cá<br /> lam, chẻo cá… Những món ăn chế biến từ cá<br /> đã trở thành món ăn truyền thống của nhiều<br /> thế hệ, vừa thể hiện sự sáng tạo, tài khéo léo<br /> của người phụ nữ, vừa góp phần làm giàu<br /> thêm đời sống tinh thần của đồng bào Thái ở<br /> Con Cuông.<br /> Thực tế ở Con Cuông, hoạt động kinh tế<br /> chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi ít phát triển,<br /> có chăng chỉ là hoạt động chăn nuôi nhỏ lẻ<br /> trong các hộ gia đình, đáp ứng nhu cầu thực<br /> phẩm tự cung tự cấp, chưa trở thành hàng<br /> hóa để phát triển kinh tế. Tại nhiều bản làng<br /> ở hầu khắp các xã thuộc huyện Con Cuông,<br /> hoạt động chăn nuôi của người Thái tập<br /> trung chủ yếu vào các loài gia súc, gia cầm<br /> như trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt... và một số loài<br /> đặc sản như: gà ri, lợn nít, vịt bầu... Nhưng<br /> hoạt động kinh tế này chưa phát triển trên<br /> diện rộng. Bởi thế, nguồn thực phẩm đáp<br /> ứng cho nhu cầu ẩm thực của người dân chủ<br /> yếu là chăn nuôi tại chỗ và khai thác nguồn<br /> lợi từ rừng, sông, suối... Rừng là nơi mà<br /> người dân khai thác các loại nông lâm sản<br /> như rau rừng, cây thuốc, các loại cây củ như<br /> củ mài, bột páng, thú rừng... Hoạt động săn<br /> bắn, nhặt hái nguồn lợi từ rừng đóng vai trò<br /> hỗ trợ làm phong phú thêm cho bữa ăn của<br /> đồng bào.<br /> Trước đây, người Thái chế biến món ăn<br /> SỐ 7/2017<br /> <br /> rất đơn giản, bởi các gia vị không phong phú như bây<br /> giờ, chủ yếu là muối trắng, không có dầu mỡ. Thức ăn<br /> được nấu theo cách kho mặn, nướng, luộc, nấu canh,<br /> rang... Nhưng ngày nay, đời sống phát triển, các món<br /> ăn được chế biến đa dạng và đẹp mắt hơn. Thức ăn<br /> của người Thái rất tự nhiên, giàu vitamin và nguồn<br /> đạm. Sông, suối, khe, rạch… trở thành nguồn cung<br /> cấp tôm, cua, cá, ốc, ếch... nhiều dưỡng chất; thảm<br /> thực vật, rừng núi là nguồn cung cấp rau sạch, măng,<br /> nấm, rêu... giàu vitamin. Các món ăn được chế biến<br /> hợp vệ sinh, an toàn thực phẩm, đảm bảo dinh dưỡng,<br /> ngon và lành.<br /> Người Thái ở Con Cuông rất thích ăn nếp, ăn cá,<br /> chế biến theo hình thức đồ, nướng, lam... Xôi nếp là<br /> món ăn truyền thống của dân tộc Thái. Cơm lam là<br /> đặc sản của người Thái nơi đây. Mùa nào thức nấy,<br /> người Thái đãi khách bằng sản vật, như: măng đắng,<br /> măng ngọt, rau cải ngồng... chấm với gia vị chắm<br /> chéo, đậm đà vị cay của ớt, riềng, mặn của muối rang,<br /> hương thơm của rau tạo thành món ăn có hương vị đặc<br /> trưng trong ẩm thực của người Thái.<br /> Hiện nay, do điều kiện kinh tế thị trường và quá trình<br /> sống cộng cư với người Kinh và các dân tộc khác,<br /> những món ăn truyền thống của người Thái đang có<br /> nguy cơ bị mất đi nét đặc sắc riêng. Hiện nay, chỉ còn<br /> một số ít người lớn tuổi của dân tộc Thái biết nấu các<br /> món ăn truyền thống của đồng bào mình. Để tiếp tục<br /> lưu giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp đó, chính<br /> quyền địa phương cũng đã có một số biện pháp kịp thời<br /> và hiệu quả để khắc phục tình trạng này. Đó là việc tổ<br /> chức các cuộc thi ẩm thực hàng năm vào ngày Quốc tế<br /> Phụ nữ 8/3 và ngày lễ hội Môn Sơn - Lục Dạ (13-15/4<br /> dương lịch). Ngoài ra, một số bản làng như Bản Nưa,<br /> Bản Tờ, Bản Pha (xã Yên Khê), bản Khe Rạn (xã Bồng<br /> Khê)... đã mở lớp dạy nấu các món ăn truyền thống của<br /> người Thái. Từ đó góp phần giữ gìn các giá trị văn hóa<br /> ẩm thực truyền thống và phát triển du lịch sinh thái, du<br /> lịch văn hóa cộng đồng, tạo nên nét độc đáo riêng và<br /> mang lại lợi nhuận kinh tế cho bà con.<br /> 2. Các món ăn đặc sắc của người Thái góp phần<br /> phát triển du lịch cộng đồng<br /> Con Cuông là vùng đất có nhiều cảnh đẹp được tạo<br /> hóa ban tặng như: thác Khe Kèm, suối nước Moọc,<br /> rừng Quốc gia Pù Mát... và là địa bàn cư trú của nhiều<br /> tộc người sinh sống như Thái, Kinh, Đan Lai, Hoa,<br /> Nùng... Lễ hội lớn nhất vùng là Lễ hội Môn Sơn - Lục<br /> Dạ được tổ chức vào ngày 13-15/4 (dương lịch) hàng<br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [27]<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> năm, trong đó có hội thi ẩm thực truyền<br /> thống của dân tộc Thái ở Con Cuông.<br /> Du khách khi đến tham quan du lịch ở<br /> Con Cuông sẽ được trải nghiệm sản phẩm<br /> du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng tại Bản<br /> Nưa (xã Yên Khê) hoặc Bản Khe Rạn (xã<br /> Bồng Khê). Với sản phẩm du lịch cộng đồng<br /> phong phú và đa dạng, du khách sẽ được<br /> nghỉ dưỡng tại nhà sàn bằng gỗ của đồng<br /> bào Thái, được tìm hiểu về phong tục tập<br /> quán của bà con dân bản, được thưởng thức<br /> các món ăn, thức uống đặc sắc, các hoạt<br /> động diễn xướng dân gian phong phú, hấp<br /> dẫn của người Thái và trải nghiệm hoạt động<br /> bắt cá, làm nông nghiệp, du lịch xe trâu...<br /> cùng người dân địa phương.<br /> Dưới đây là cách chế biến một số món ăn<br /> truyền thống đặc sắc của người Thái đang<br /> được chính quyền địa phương và bà con dân<br /> bản khai thác, phát huy giá trị phục vụ hoạt<br /> động du lịch cộng đồng ở Con Cuông.<br /> Xôi: Xôi và cơm lam là món ăn phổ biến<br /> trong bữa ăn hàng ngày của bà con người<br /> Thái. Ngày thường, bà con chỉ cần hông xôi<br /> trắng hoặc xôi đậu, quạt ráo rồi để vào trong<br /> ép khẩu. Nhưng đến ngày Tết hoặc dịp lễ<br /> hội, với bàn tay khéo léo của những người<br /> phụ nữ Thái, các món xôi được biến hóa rất<br /> phong phú và đẹp mắt, như: xôi 2 màu (trắng<br /> - xanh hoặc trắng - tím), xôi 3 màu (trắng đỏ - tím hoặc trắng - xanh - tím), xôi kê, xôi<br /> nu (củ nâu), xôi củ mài... Cơm lam ngày<br /> thường chỉ có màu trắng, đến ngày lễ hội<br /> cũng được ngâm với các loại lá cây tự nhiên<br /> để tạo màu tím, đỏ, xanh... rất thơm ngon và<br /> hấp dẫn.<br /> Để có xôi ngon, phải chọn nếp tốt. Trong<br /> các giống nếp hiện có thì nếp cẩm là loại nếp<br /> được người Thái quý nhất. Nếp cẩm có màu<br /> đen, hạt to, thơm và rất dẻo. Nếu gặp năm<br /> mất mùa mà không đủ nếp cẩm thì đồng bào<br /> sáng tạo ra một loại nếp cẩm “nhân tạo”<br /> bằng cách: Rơm nếp đốt thành tro, vò kỹ, rây<br /> lấy phần mịn nhất rồi trộn với gạo nếp thơm.<br /> Công thức pha trộn theo tỷ lệ: tuốt bao nhiêu<br /> lúa thì lấy bấy nhiêu rơm. Công đoạn cầu kỳ<br /> nhất là trộn bột tro nếp với gạo, sao cho khi<br /> SỐ 7/2017<br /> <br /> thử miết mạnh hạt gạo trên đầu ngón tay, thấy vẫn tròn<br /> vẹn màu đen nhánh, sau đó mới dùng để đồ xôi hoặc<br /> gói bánh chưng đen.<br /> Trong các loại xôi, phổ biến nhất là xôi màu (xôi<br /> ba màu hoặc xôi hai màu, tùy thuộc vào loại lá mà bà<br /> con kiếm được). Nguyên liệu quan trọng để tạo nên<br /> xôi nhiều màu là lá cam công (để ngâm với nếp tạo<br /> màu đỏ hoặc tím), lá riềng (để tạo màu xanh). Dụng<br /> cụ để đồ xôi là mỏ lửng (có nơi gọi là mỏ pung hay<br /> mỏ pừng) là dụng cụ đồ xôi bằng gỗ của người Thái,<br /> được làm từ thân cây cọ hoặc gỗ thơm được gọt đẽo<br /> để thủng hai đầu, đầu to để đậy vung, đầu bé cài bằng<br /> phên đan tre nứa. Ở dưới mỏ lửng là cái niếng làm<br /> bằng đồng, dùng để cho nước vào đun sôi lấy hơi cho<br /> hạt gạo chín.<br /> Để có nồi xôi ngon, dẻo, tơi và có màu sắc đẹp, bà<br /> con đem đun lá cam công (còn gọi là lá cẩm) và lá<br /> riềng lấy nước màu riêng. Sau khi đun sôi, vớt lá bỏ<br /> đi, để nguội. Gạo nếp đãi sạch, đem ngâm trong nước<br /> màu khoảng từ 3-6 giờ. Với lá cẩm, nếu muốn gạo nếp<br /> có màu tím thì ngâm nước nhạt hơn, còn nếu ngâm<br /> với nước đậm thì hạt gạo sẽ có màu đỏ đậm. Khi ngâm<br /> với nước lá riềng thì hạt gạo sẽ có màu xanh. Sau đó,<br /> gạo được đãi kỹ để sạch bớt nước màu bám ở mặt<br /> ngoài của hạt nếp, rồi để ráo. Cho gạo vào mỏ lửng<br /> (mỏ pung/ mỏ pừng) đặt lên niếng. Quá trình đồ xôi<br /> phải giữ lửa cháy đều, đượm than, giúp xôi chín dẻo<br /> và thơm, cầm nắm không bị dính tay. Xôi được nhuộm<br /> từ lá cẩm tự nhiên mang hương thơm của món xôi<br /> truyền thống. Người Thái ở Con Cuông thường lấy xôi<br /> ra ép khẩu (dụng cụ đựng xôi đan bằng tre hoặc mây)<br /> chấm muối vừng hoặc chẻo rất thơm, ngon. Số xôi còn<br /> <br /> Cơm lam<br /> <br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [28]<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> lại được để vào cái hay để ủ, giữ ấm cho xôi. Đồng<br /> bào Thái có thể ăn xôi quanh năm suốt tháng mà vẫn<br /> thấy ngon miệng.<br /> Bánh chưng: Người Thái ở Con Cuông sử dụng<br /> nguyên liệu nếp để sáng tạo nhiều loại bánh khác nhau<br /> như: bánh sừng trâu, bánh chưng đen, bánh mọc...<br /> Trong đó, đặc sắc nhất phải kể đến món bánh chưng<br /> đen của đồng bào Thái Tày Thanh (nhóm Thái Đen).<br /> Bánh chưng đen truyền thống của người Thái được gói<br /> theo 4 loại với các ý nghĩa khác nhau: Khâu tôm kháu<br /> khoài (bánh sừng trâu), Khâu tôm cộp (bánh chưng đôi),<br /> Khâu tôm khuản tụ (bánh gậy), Khâu tôm pom (bánh<br /> chưng hình vuông nhỏ). Nguyên liệu để làm món bánh<br /> độc đáo này là gạo nếp cẩm, nếu không có thì dùng nếp<br /> cẩm nhân tạo như đã giới thiệu ở nguyên liệu làm xôi.<br /> Bánh chưng đen truyền thống của người Thái không có<br /> nhân. Lá gói bánh là lá dong rừng rửa sạch, lau khô rồi<br /> mới đem gói. Ngoài ra, trước khi gói bánh thêm ít hạt<br /> Nga chiếng (một loại vừng mọc tự nhiên trong rừng)<br /> xay nhỏ trộn vào để tạo vị đậm đà cho bánh.<br /> Đến Con Cuông, được thưởng thức miếng bánh<br /> chưng đen, mùi gạo quyện với tro nếp mát ngọt làm<br /> người ăn như cảm nhận được cả mùi cỏ cây, ruộng<br /> đồng. Điều đặc biệt là bánh chưng đen ăn không bị<br /> nóng cổ, nóng bụng như bánh chưng thường vì tro nếp<br /> đã khử mùi chua, độ nóng của gạo nếp... Hiện nay,<br /> bánh chưng đen đã trở thành một món “quà quê”, món<br /> ăn để đãi khách quý của người Thái ở Con Cuông.<br /> Cá mát nướng: Trong văn hóa ẩm thực của người<br /> Thái ở Con Cuông, các món ăn từ cá rất phổ biến và<br /> là thực phẩm chính. Nếu như bà con người Thái ở<br /> Môn Sơn tự hào với đặc sản cá mát sông Giăng thì ở<br /> <br /> Mâm cỗ của người Thái với cá mát, thịt nướng, họ moọc<br /> <br /> SỐ 7/2017<br /> <br /> những địa phương khác ở Con Cuông,<br /> người dân đánh bắt các loài cá ở khe, suối<br /> hoặc sử dụng cá nuôi để chế biến thành<br /> nhiều món ăn khác nhau.<br /> GS. Nguyễn Đổng Chi trong “Địa chí văn<br /> hóa dân gian Nghệ Tĩnh” cho biết: Người<br /> dân tộc Thái (nhóm Tày Mường) thường chế<br /> biến cá thành những món ăn truyền thống<br /> như: Pá pính phé, Pá pính tộp, pá pính giảo,<br /> hò mọc pá... Còn trên mâm cỗ của đồng bào<br /> Thái đen (3) bao giờ cũng có bốn món cá (đều<br /> được làm từ cá mát) là: Pá móc (cá tươi cắt<br /> thành từng khúc, trộn lẫn tấm gạo, cho gia<br /> vị vào, gói trong lá dong rồi đồ lên); Pá phẻ<br /> (cá khô được chuẩn bị trước Tết mươi lăm<br /> ngày. Sau khi đánh được cá, người ta lấy dao<br /> mổ một đường theo sống lưng rồi kẹp que<br /> lại và đưa sấy cho khô. Khi bày cỗ thì đồ lên<br /> bỏ xương và đầu, chỉ còn lại phần nạc); Pá<br /> xổm (cá muối chua chuẩn bị trước Tết hàng<br /> tháng để muối cho đủ chín. Cá bắt được, bỏ<br /> ruột, cắt thành khúc, nhồi muối để ráo nước<br /> rồi cho vào ống bương, ống nứa nện chặt lại.<br /> Khi ăn thì bỏ thính vào và ăn cùng với lá<br /> mùi, hành, tỏi...); Pá pinh (cá nướng, để gần<br /> Tết mới làm. Bắt được cá, người ta mổ bụng<br /> rồi nướng trên than cho đến chín đều. Khi ăn<br /> còn có nước mắm để chấm) (4).<br /> Cá mát là loài cá đặc sản được đánh bắt<br /> từ nguồn sông Giăng tự nhiên. Đặc điểm của<br /> cá mát là mình cá có từ ba đến sáu chấm đen,<br /> còn vảy cá có màu hồng. Cá mát nhỏ, con<br /> chỉ bằng hai ba ngón tay người lớn, con to<br /> nhất chỉ nặng từ 0,5-0,8 kg. Ruột cá có vị<br /> đắng, khi ăn quen thấy ngon và ngọt hậu. Cá<br /> mát sông Giăng được sống trong môi trường<br /> nước sạch, trong lành, ăn những phù du của<br /> rừng Pù Mát nên vừa lành, vừa bổ, thịt lại<br /> thơm ngon, mỡ béo ít xương (5). Mùa cá mát<br /> bắt đầu từ tháng 8 âm lịch hàng năm.<br /> Cá mát có vị ngọt thơm rất tinh khiết và<br /> là món ăn đặc trưng trong văn hóa ẩm thực<br /> của người Thái ở xã Môn Sơn nói riêng và<br /> huyện Con Cuông nói chung. Người Thái<br /> chế biến món cá mát nướng bằng nhiều<br /> cách: cá mát để nguyên con nướng (pá<br /> pinh), cá xẻ lưng uốn cong kẹp gia vị để<br /> nướng (pá pinh tộp), cá nướng đùm lá dong<br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [29]<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> (pá pinh tồm tong)... Trong đó, phổ biến<br /> nhất là cá mát nướng nguyên con. Trước<br /> khi nướng, cần rửa sạch cá mát, bỏ mang cá<br /> và giữ nguyên ruột cá, vì trong ruột cá mát<br /> có mật rất đắng, nhưng chính vị đắng của<br /> mật cá đã tạo nên vị ngon riêng. Bà con<br /> dùng thân cây tre dày, còn tươi (để tránh lửa<br /> làm cháy kẹp tre) chẻ đôi ra để kẹp cá vào<br /> giữa, mỗi kẹp từ 3 đến 5 con. Khi nướng cá<br /> cần phải kiên trì hơ cho con cá chín đều trên<br /> than củi, để cá chín đều từ ngoài vào trong.<br /> Cá Mát nướng ăn kèm với xôi, chấm chẻo<br /> ớt là món ăn truyền thống của người Thái<br /> ở Con Cuông.<br /> Thịt nướng: Với nguyên liệu thịt lợn,<br /> những người phụ nữ Thái ở Con Cuông cũng<br /> có thể chế biến thành nhiều món ngon như:<br /> thịt lợn nướng lá móc mật, thịt lợn nướng lá<br /> chanh, thịt lợn kẹp lá chanh bóp vừng<br /> nướng, thịt lợn quấn sả nướng, chả giò mộc<br /> nhĩ... Trong đó, món thịt nướng được bà con<br /> người Thái và du khách rất ưa thích. Nguyên<br /> liệu để làm món thịt nướng (Chịn pinh) ngon<br /> nhất vẫn là thịt lợn nít, muối trắng, sả, mạc<br /> khẻn (hạt tiêu rừng), bột hạt dổi. Thịt được<br /> cắt thành những miếng to, sả được giã nhỏ,<br /> sau đó trộn đều thịt, sả với muối trắng và<br /> mạc khẻn, rồi đem nướng trên bếp củi đã có<br /> than cháy đượm. Nếu săn được các loại thịt<br /> thú rừng, trước khi nướng người Thái<br /> thường ướp với hạt tiêu rừng và bột hạt dổi<br /> để lúc nướng thịt có hương thơm đặc trưng<br /> khó lẫn. Những gia vị này không có bán tại<br /> các chợ ở Con Cuông, mà là do người Thái<br /> đi rừng lấy được và để dành làm gia vị gia<br /> dụng để chế biến món ăn. Nếu nướng thịt<br /> lợn với lá móc mật thì dùng thịt lợn bản thái<br /> miếng bằng hộp diêm, ướp với các gia vị:<br /> riềng, sả (băm nhỏ), dầu ăn, mì chính, muối<br /> tiêu... trộn đều với thịt, nướng trên than<br /> hồng. Khi ăn kèm với lá móc mật, vừa bùi<br /> vừa béo tạo một hương vị rất đặc trưng.<br /> Thịt chua (Chịn xồm): cũng là món ăn<br /> dùng để đãi khách quý. Nguyên liệu để làm<br /> món thịt chua gồm: thịt lợn nạc, tấm gạo<br /> hoặc cơm nguội, ống nứa, củ riềng, lá chanh,<br /> hạt tiêu rừng, muối, thính gạo. Thịt được thái<br /> mỏng, cho một ít gạo tấm hoặc cơm nguội<br /> SỐ 7/2017<br /> <br /> vào trộn đều. Tiếp tục cho riềng giã nhỏ và muối vào<br /> đảo đều để ướp rồi nhồi thịt vào ống nứa, không nén<br /> thịt chặt quá, cũng không để thịt rời rạc quá, thịt sẽ<br /> không chua đều. Sau đó rắc thính phủ lên trên, rồi nút<br /> ống lại bằng lá chuối hoặc lá dong rừng, ngoài bịt chặt<br /> miệng ống, lấy lạt buộc chặt. Xong, đem ống thịt bỏ<br /> lên gác bếp để lấy hơi lửa, dựng nghiêng để nước<br /> trong ống không bị chảy xuống, khoảng độ một tuần<br /> là có thể ăn được. Tục ngữ của người Thái có câu “Thịt<br /> ba, cá bảy”, nghĩa là thịt chua thì ba ngày, cá chua thì<br /> bảy ngày là ăn được. Trong môi trường nhiệt độ cao<br /> vừa phải, yếm khí, thịt lên men sẽ “chín” và có vị<br /> chua. Ngoài thịt là chính thì còn có các chất xúc tác<br /> làm cho quá trình lên men như thính gạo nếp và củ<br /> riềng được giã nhỏ (6). Khi ăn, chỉ cần mở nắp, lấy thịt<br /> ra đĩa, gắp miếng thịt cuộn vào trong các loại lá thơm<br /> như lá sung, lá chanh, húng quế... cuộn lại, chấm nước<br /> nước mắm tiêu, ớt... Nhìn miếng thịt tuy vẫn đỏ hồng<br /> nhưng đã chín bởi quá trình lên men, ăn thấy có vị<br /> chua, bùi, cay, béo, không ngấy.<br /> Họ moọc: là món ăn dùng để dâng cúng tổ tiên vào<br /> dịp rằm tháng bảy để báo hiếu tổ tiên, và còn là lễ vật<br /> dâng cúng dịp đồng bào Thái tổ chức lễ cầu mùa và<br /> ăn Tết. Bà con người Thái ở Con Cuông sử dụng các<br /> nguyên liệu khác nhau và phối hợp với nhiều loại gia<br /> vị để chế biến thành nhiều món moọc như: moọc cá,<br /> moọc gà, moọc thịt lợn, moọc rêu, moọc thịt gà, moọc<br /> cây chuối rừng...<br /> Nguyên liệu để làm Họ moọc bao gồm: Cá, đọt cây<br /> chuối rừng non, tấm gạo, mộc nhĩ, hoa chuối, sả, thì<br /> là, hành tăm, mạc khẻn (hạt tiêu rừng), muối, mì<br /> chính... Cá thái miếng nhỏ, đọt cây chuối chẻ nhỏ, hoa<br /> chuối thái thật nhỏ (cây chuối và hoa chuối phải được<br /> ngâm với nước muối), mộc nhĩ băm nhỏ, gạo ngâm<br /> một đêm rồi giã thật mịn. Tất cả gia vị được băm nhỏ<br /> và trộn đều với nguyên liệu. Sau đó gói lại với lá dong<br /> hoặc lá chuối rừng, cột lại cho kín. Họ moọc phải được<br /> gói chặt để trong quá trình luộc hoặc hông không bị<br /> vỡ. Khi gói xong, người ta xếp moọc vào nồi hông<br /> bằng gỗ, tiến hành hông khoảng một giờ đồng hồ là<br /> chín. Trong mỗi gói moọc tỏa ra mùi thơm rất đặc biệt.<br /> Độ dẻo của gạo, vị bùi của cá, vị ngọt của nõn chuối<br /> quyện lẫn mùi thơm của hạt tiêu rừng làm cho món ăn<br /> thật hấp dẫn và đáng nhớ.<br /> Canh bon (Canh môn): Người Thái lấy ngọn hoặc<br /> lá non của cây môn (dọc mùng); da, đuôi hoặc chân<br /> của con bò, con trâu; gạo tấm; các loại gia vị: rau thì<br /> là, rau mùi, rau húng, riềng, gừng, mạc khẻn, muối<br /> Tạp chí<br /> <br /> KH-CN Nghệ An<br /> <br /> [30]<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1