Nguồn : Thời báo Kinh tế Sài Gòn , số 7 & 8, Xuân Mậu Tý, 722008, trang 1619. <br />
<br />
<br />
<br />
Truyền thông đại chúng <br />
trong xã hội hiện đại <br />
<br />
Trần Hữu Quang <br />
<br />
Đâu là vai trò của truyền thông đại chúng trong xã hội hiện <br />
đại ? Thế nào là “không gian công cộng” ? Internet có thể thay <br />
thế được báo chí ? <br />
<br />
<br />
<br />
Dưới quan điểm xã hội học, truyền thông đại chúng là một định chế xã hội <br />
chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại, hiểu theo nghĩa là đối lập với xã hội cổ <br />
truyền, phong kiến. Nó góp phần tạo ra một “không gian công cộng” vốn chưa hề <br />
có trong các xã hội tiền tư bản – một không gian dành cho sự thảo luận công khai <br />
và dân chủ. <br />
<br />
Từ xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại <br />
<br />
Khi phân tích mối quan hệ giữa các hệ thống truyền thông với các hệ <br />
thống xã hội, nhà xã hội học Mỹ Daniel Lerner, trong một bài đăng trên tạp chí <br />
Behavioral Science ra tháng 1019571, cho rằng một trong những điều kiện và <br />
đặc điểm của quá trình chuyển đổi từ các xã hội cổ truyền sang các xã hội hiện <br />
đại chính là sự chuyển tiếp từ các hệ thống truyền thông truyền miệng sang các <br />
hệ thống truyền thông đại chúng . <br />
<br />
Các hệ thống truyền thông đại chúng (như báo chí, xuất bản, phát thanh, <br />
<br />
<br />
1 Daniel Lerner, "Communications System and Social Systems: Statistical Exploration <br />
in History and Policy," Behavioral Science , No. 2, Oct. 1957, tr. 266275. Daniel <br />
Lerner, “Systèmes de communications et systèmes sociaux” (bản dịch tiếng Pháp), <br />
trong Francis Balle và Jean Padioleau (Ed.), Sociologie de l’information, Textes <br />
fondamentaux , Paris, Nxb Larousse, 1973, tr. 131145. <br />
<br />
2 <br />
<br />
<br />
<br />
1 <br />
<br />
<br />
truyền hình...) mang một số đặc điểm như sau : do những tổ chức chuyên nghiệp <br />
đảm trách ; đưa thông tin ra công chúng một cách rộng rãi mà không phân biệt ai <br />
với ai ; và nội dung thông điệp chủ yếu mang tính chất tường thuật chứ không <br />
phải là ra lệnh. Trong khi đó, đặc điểm của các hệ thống truyền thông truyền <br />
miệng là truyền đạt thông tin bằng cách nói trực tiếp (mặt đối mặt), và nội dung <br />
các thông điệp chủ yếu mang tính chất mệnh lệnh (thí dụ : thời xưa, cửa quan <br />
thường ra thông báo về sưu thuế, phu dịch, tuyển mộ binh lính...), và thường <br />
được phát ra theo hệ thống tôn ti trật tự trong xã hội. <br />
<br />
Sự thay đổi trong ứng xử truyền thông này (chuyển từ truyền thông truyền <br />
miệng sang truyền thông đại chúng) có liên quan chặt chẽ với những thay đổi <br />
khác về ứng xử trong hệ thống xã hội. Lerner kết luận rằng “ một hệ thống truyền <br />
thông chính là một dấu chỉ và cũng đồng thời là một tác nhân của sự thay đổi <br />
trong toàn bộ một hệ thống xã hội .”2 Nói khác đi, hệ thống truyền thông đại <br />
chúng đã trở thành một trong những động lực của sự phát triển của xã hội. <br />
<br />
Theo Lerner, khi con người biết đọc biết viết, tức là khi thoát ra khỏi tình <br />
trạng mù chữ, thì bắt đầu có được một khả năng còn quan trọng hơn cả việc biết <br />
đọc biết viết. Đó là khả năng bước vào “thế giới của những kinh nghiệm gián <br />
tiếp”, tức là bước vào một thế giới mà trong đó các kinh nghiệm của người khác <br />
đã được tường thuật và ghi chép lại trên chữ viết qua sách vở, báo chí... Mặt <br />
khác, cũng chính nhờ đó mà người ta tăng cường được khả năng thấu cảm <br />
( empathy ), tức là khả năng tự đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu được <br />
người khác.3 Và chính nhờ có khả năng này mà con người mới có thể sống được <br />
với nhau một cách hài hòa trong xã hội. Khả năng biết đọc biết viết còn giúp cho <br />
con người hình thành được khả năng linh hoạt về trí tuệ ( psychic mobility ) vốn là <br />
một thuộc tính đặc trưng của con người trong xã hội hiện đại. Chính các phương <br />
tiện truyền thông đại chúng là nhân tố góp phần mạnh nhất vào việc rèn luyện <br />
khả năng thấu cảm cũng như khả năng linh hoạt trí tuệ, khi chúng giúp cho con <br />
người tiếp xúc được với nhiều tư tưởng khác nhau và biết được những vấn đề <br />
công cộng của xã hội.4 <br />
<br />
Không gian công cộng <br />
<br />
2 Xem Daniel Lerner, bài đã dẫn, tr. 132133. <br />
3 Daniel Lerner, bđd, tr. 142. <br />
4 Xem Daniel Lerner, bđd, tr. 142. <br />
<br />
2 <br />
<br />
<br />
<br />
1 <br />
<br />
<br />
Trong một công trình in năm 19625, triết gia người Đức Jürgen Habermas <br />
đã khai triển khái niệm “tính công cộng” hay “không gian công cộng” <br />
( Öffentlichkeit , tiếng Anh dịch là publicity hoặc public sphere ) mà Emmanuel <br />
Kant đã đề cập vào năm 1784,6 và nhấn mạnh rằng việc sử dụng lý tính trong <br />
không gian công cộng chính là điều kiện để hình thành nên công luận, và đây <br />
cũng là điều kiện để thiết lập một nền dân chủ. Theo Kant, người độc thoại chỉ <br />
đối diện với chính mình ; chỉ khi tranh luận với người khác về những vấn đề <br />
công cộng thì người ta mới thoát ra khỏi những chuyện cục bộ, cá biệt, mới vượt <br />
qua được cái “tính thô thiển” của mình. <br />
<br />
Theo Habermas, không gian công cộng là không gian mà trong đó bất cứ <br />
cá nhân nào cũng có thể tham gia và trao đổi ý kiến với nhau mà không bị áp lực <br />
từ bên ngoài. Trên nguyên tắc, đây là nơi diễn ra những cuộc tranh luận mang <br />
tính chất lý tính và phê phán ( rationalcritical debate ), và do vậy đây chính là <br />
nơi kết tinh nên những ý kiến (công luận) và ý muốn của công chúng. Tính duy <br />
lý của sự đối thoại trong không gian công cộng giúp cho người ta vượt dần ra <br />
khỏi những lợi ích đặc thù để đạt tới một sự đồng thuận ( consensus ) giữa những <br />
người có thiện chí với nhau. Trong xã hội thời Trung cổ, chưa hề có không gian <br />
công cộng theo nghĩa này ; không gian này chỉ xuất hiện vào thời hiện đại trong <br />
xã hội tư bản chủ nghĩa như là một sự đối trọng để ngăn ngừa những quyền lực <br />
chuyên chế.7 Habermas cho rằng không gian công cộng không phải là nơi chỉ <br />
dành riêng cho những người ưu tú và tài giỏi, mà bao gồm cả xã hội dân sự, các <br />
phương tiện truyền thông đại chúng, các hiệp hội, các phong trào xã hội…8 <br />
<br />
Không gian công cộng đóng vai trò trung gian giữa xã hội công dân và <br />
nhà nước, buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm trước xã hội do “tính công cộng” <br />
của nó. Không gian công cộng tự nó mang tính chất phê phán bởi lẽ nó giả định <br />
<br />
5 Jürgen Habermas, L'Espace public : Archéologie de la publicité comme dimension <br />
constitutive de la société bourgeoise , 1962. Dẫn lại theo Eric Maigret, Eric Maigret, <br />
Sociologie de la communication et des meùdias , Paris, Nxb Armand Colin, 2003, tr. <br />
224. <br />
6 Xem Emmanuel Kant, Idée d'une histoire universelle au point de vue cosmopolitique , <br />
1784 (www.uqac.uquebec.ca/zone30/Classiques_des_sciences_ sociales/classiques). <br />
7 Xem Eric Maigret, sđd, tr. 211. <br />
8 Xem Eric Maigret, sđd, tr. 212214. Xem thêm Anthony Giddens, Social Theory and <br />
Modern Sociology , Stanford (California), Stanford University Press, 1996, tr. 236, <br />
241242. <br />
<br />
2 <br />
<br />
<br />
<br />
1 <br />
<br />
<br />
rằng phải có những thông tin về các hoạt động của nhà nước để công luận có thể <br />
xem xét và phê phán các hoạt động này.9 Theo Habermas, chính các phương tiện <br />
truyền thông đại chúng là định chế điển hình nhất của không gian công cộng. <br />
Chúng đóng vai trò làm trung gian liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân sự, <br />
cũng như giữa xã hội dân sự và các thiết chế nhà nước. Hiểu theo ý nghĩa này, <br />
truyền thông đại chúng không phải là một lãnh địa dành riêng cho những người <br />
có quyền lực, những nhà truyền thông hay các chuyên gia, mà là một nơi có mục <br />
tiêu thực hiện cùng một lúc hai chức năng : vừa là nơi trình bày các kiến thức về <br />
xã hội con người, vừa là nơi diễn ra các mối quan hệ tiếp xúc, liên lạc giữa các <br />
tầng lớp, các khu vực, hay các nhóm xã hội. <br />
<br />
Internet và không gian công cộng <br />
<br />
Sự ra đời của phương tiện Internet trong vài thập niên gần đây đã đặt ra <br />
nhiều vấn đề mới hết sức đáng quan tâm của định chế truyền thông đại chúng <br />
trong xã hội hiện đại. Trong một cuốn sách xuất bản năm 2004, Serge <br />
Soudoplatoff nhận định rằng lịch sử của phương tiện Internet tương ứng với sự <br />
đụng độ giữa hai quan niệm khác nhau về cách thức tổ chức và quản trị. Một bên <br />
là phương thức tập trung hóa, theo mô hình có trật tự thứ bậc và đẳng cấp, còn <br />
một bên là trải ra thành những mạng lưới nối kết giữa những người có cùng mối <br />
quan tâm hoặc cùng lợi ích. Theo Soudoplatoff, sự thành công đáng kinh ngạc <br />
của Internet cho thấy rằng người ta có thể có những mô hình quản trị khác hiệu <br />
nghiệm hơn so với những mô hình truyền thống dựa trên thứ bậc đẳng cấp : <br />
lôgic của Internet là chia sẻ quyền lực, nó là một công cụ tương tác và giao dịch <br />
giữa những tác nhân tích cực và ngang hàng với nhau, chứ không phải giữa một <br />
trung tâm phát sóng với những khán giả thụ động như trong phương tiện truyền <br />
hình.10 <br />
<br />
Nhưng cũng có những tác giả khác lại tỏ ra bi quan hơn. Dominique <br />
Wolton (1999), một nhà xã hội học về truyền thông đại chúng người Pháp, cho <br />
rằng Internet có thể có tác dụng làm “vỡ vụn” không gian công cộng hơn là tăng <br />
cường cho không gian này. Trong khi các phương tiện truyền thông đại chúng <br />
<br />
9 Xem Alain Létourneau, «Remarques sur le journalisme et la presse au regard de la <br />
discussion dans l'espace public», trong Patrick J. Brunet, L'éthique dans la société de <br />
l'information , Québec et Paris, Nxb Đại học Laval và L'Harmattan, 2001, tr. 49. <br />
10 Serge Soudoplatoff, Avec Internet, où allonsnous ? , Paris, Nxb Le Pommier, 2004. <br />
Dẫn lại theo tạp chí Futuribles , số 310, 72005, tr. 133134. <br />
<br />
2 <br />
<br />
<br />
<br />
1 <br />
<br />
<br />
truyền thống chủ yếu đi theo cái lôgic “cung”, thì phương tiện Internet thiên về <br />
việc đáp ứng cái lôgic “cầu” : người sử dụng chỉ lo đi tìm cái mình cần, cái mình <br />
muốn, chứ không quan tâm tới những điều mà người khác muốn nói với mình. <br />
Theo Wolton, Internet không có tác dụng nối kết giống như các phương tiện <br />
truyền thông đại chúng trước đó. Và điều này cuối cùng sẽ dẫn tới hệ quả là làm <br />
cho cá nhân trở nên cô lập hơn trong xã hội. Tocqueville từng nói rằng tư duy chỉ <br />
khởi sự khi người ta bắt đầu tin vào lời người khác. Con người không thể nào tự <br />
mình suy nghĩ tất cả mọi thứ, tự mình lý giải mọi chuyện trên đời. Chính vì thế <br />
mới có vai trò quan trọng của những người “trung gian” trong lĩnh vực truyền <br />
thông đại chúng như các nhà báo, chính trị gia, giới trí thức... Một trong những <br />
đặc trưng quan trọng trong lĩnh vực truyền thông đại chúng mà người ta không <br />
nên quên, đó là xem với người khác, xem cái mà người khác đã xem (hay đã <br />
đọc), theo dõi những chuyện được coi là đáng quan tâm, đáng đưa ra bàn luận <br />
với nhau.11 <br />
<br />
Nhà xã hội học Đức Ulrich Beck (1986) và nhà xã hội học Anh Anthony <br />
Giddens (1996) cho rằng sự phát triển của các công nghệ thông tin và vi điện tử <br />
là một trong những điều kiện vật chất quan trọng làm thay đổi diện mạo các quan <br />
hệ xã hội, nhất là trong bối cảnh mà những làn ranh của các định chế chính trị <br />
truyền thống dần dần bị xóa nhòa, nhường chỗ cho sự tham gia ngày một tích cực <br />
hơn của các cá nhân trong các “xã hội phản tỉnh” ( reflexive society ), phá vỡ sự <br />
độc quyền phát ngôn của các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học cũng như <br />
chính trị.12 Trong các xã hội hiện đại, việc thảo luận và việc ra quyết định trong <br />
nhiều trường hợp đã vượt ra khỏi những vũ đài chính trị truyền thống như quốc <br />
hội hay chính phủ, cũng như vượt ra khỏi khuôn khổ của hình thức dân chủ đại <br />
diện. <br />
<br />
Những tầng lớp dân chúng bình thường hay những nhóm thiểu số vốn <br />
trước đây không có quyền phát ngôn, nay có nhiều cơ hội hơn để lên tiếng. Hiện <br />
tượng blog trong những năm gần đây là một bằng chứng sinh động. Các cá nhân <br />
<br />
11 Xem Dominique Wolton, Internet et après ? Une théorie critique des nouveaux <br />
médias , Paris, Nxb Flammarion, 1999, dẫn lại theo Eric Maigret, sđd, tr. 267. <br />
12 Xem Anthony Giddens, sđd, tr. viiiix, Ulrich Beck, La société du risque. Sur la voie <br />
d'une autre modernité (1986) (bản dịch tiếng Pháp), Paris, Nxb Flammarion, 2001, tr. <br />
418419, 427. <br />
<br />
<br />
<br />
2 <br />
<br />
<br />
<br />
1 <br />
<br />
<br />
giờ đây ngày càng có điều kiện tiếp cận trực tiếp những thông tin vốn trước đây <br />
phải thông qua sự chọn lọc của các nhà báo. <br />
<br />
Nhưng nói như thế phải chăng có nghĩa là Internet có thể đi đến chỗ “ phi <br />
trung giới hóa ” ( desintermediation ) lĩnh vực thông tin trong xã hội hiện đại ? <br />
Phải chăng kể từ nay, nhờ có Internet, mọi người đều có thể tự mình trực tiếp biết <br />
mọi chuyện và hiểu mọi chuyện mà không cần có các định chế trung giới như <br />
báo chí hay sách vở, xã hội sẽ không còn cần đến vai trò của những người “trung <br />
gian” (như nhà báo, nhà chính trị, giới trí thức...) ? Phải chăng “ mass média ” (các <br />
phương tiện truyền thông đại chúng) nay đang tan rã để trở thành “ média des <br />
masses ” (các phương tiện truyền thông của đại chúng, hay là do đại chúng thực <br />
hiện), nếu nói như cái tựa của một cuốn sách của Joël de Rosnay và Carlo Revelli <br />
mới xuất bản năm 2006 ? <br />
<br />
Chúng tôi nghĩ không phải như thế. Chúng tôi cho rằng sự phát triển hiện <br />
nay của Internet và các loại hình truyền thông trên Internet chỉ có nghĩa là thẩm <br />
quyền của những vai trò “trung gian” ấy ngày nay chỉ còn mang tính chất tương <br />
đối , và cách thức hoạt động của họ, đặc biệt là giới nhà báo cũng như các nhà <br />
chính trị, cũng phải thay đổi chứ không thể tiếp tục như trước được nữa. Sự xuất <br />
hiện của Internet hay các blog làm cho người ta bây giờ có quyền đòi hỏi nhiều <br />
hơn đối với những vai trò trung gian ấy. <br />
<br />
Internet tự nó không thể làm tan rã “không gian công cộng”, hiểu theo <br />
nghĩa của Habermas. Mặt khác, nó cũng không thể (hay chưa thể ?) thay thế các <br />
định chế truyền thông đại chúng hiện hành để trở thành phương tiện duy nhất của <br />
không gian công cộng. Nhưng điều hiển nhiên khó có ai chối cãi là nó đang góp <br />
phần mở rộng “không gian công cộng” của xã hội hiện đại một cách không thể <br />
đảo ngược được nữa. <br />
<br />
TPHCM, ngày 27122007 <br />
<br />
T.H.Q. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
2 <br />
<br />
<br />
<br />
1 <br />
<br />
<br />