Tự chủ đại học - Một cách tiếp cận từ cơ chế, chính sách và nguồn lực con người
lượt xem 3
download
Bài viết "Tự chủ đại học - Một cách tiếp cận từ cơ chế, chính sách và nguồn lực con người" phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện thành công tự chủ giáo dục đại học. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tự chủ đại học - Một cách tiếp cận từ cơ chế, chính sách và nguồn lực con người
- TỰ CHỦ ĐẠI HỌC - MỘT CÁCH TIẾP CẬN TỪ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH VÀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Nguyễn Hồng Sơn1 Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh Nguyễn Uyên Chi Trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại TP Hồ Chí Minh Abstract Practice shows that education reform, including higher education, must follow the general development trend of the world, but it must also be suitable to Vietnam's conditions. The essence of university autonomy is to recognize, acknowledge and affirm the autonomy of educational institutions as an indispensable attribute of higher education. Based on that, this article analyzes the reality and proposes some solutions to contribute to the success of higher education autonomy. Keywords: university autonomy, policies, human resources. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Xét về mặt lịch sử, nền giáo dục đại học (GDĐH) đã xuất hiện ở nước ta cách đây hàng nghìn năm. Tính đến thời điểm hiện tại, lịch sử GDĐH Việt Nam đã trải qua các nền giáo dục khác nhau từ phong kiến đến cận đại và hiện đại. Sự nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục nghề nghiệp nói riêng kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã trải qua gần 70 năm và đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng. Trong đó quan trọng nhất là đã góp phần đào tạo ra các thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền GDĐH Việt Nam hiện nay tuy đã đạt được những thành quả bước đầu, nhưng trước những khó khăn thách thức của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, GDĐH Việt Nam rất cần phải cải tổ, trong đó tự chủ đại học (TCĐH) là nội dung quan trọng. TCĐH là quan điểm có tính nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. TCĐH là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm TCĐH tùy theo nhận thức về vai trò của nhà nước đối với giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng. Ở các nước châu Âu, TCĐH được nhìn nhận từ hai khía cạnh: thoát ra khỏi sự kiểm soát, hạn chế của các cơ quan quản lý nhà nước, của thị trường lao động, nhà cung cấp dịch vụ và các ảnh hưởng chính trị, là quyền tự do đưa ra các quyết định về cách thức tổ chức hoạt động cũng như mục tiêu sứ mạng của trường. Tự chủ cũng có thể được thể hiện ở hai cấp: cấp độ giữa trường đại học với nhà nước, và cấp độ giữa trường với các bộ phận trong trường. Tự chủ cũng có thể chỉ có tính chất thủ tục, hình thức (procedural) - quyền quyết định các phương tiện, cách thức để đạt đến mục tiêu đã được xác định trước, hoặc tự chủ có tính thực chất (substantial) - quyền quyết định các mục tiêu cũng như chương trình hoạt động. Tự chủ cũng có thể được nhìn 1 sonnh@hcmunre.edu.vn 191
- nhận như là các quyền lực có điều kiện: các trường chỉ có thể có quyền tự chủ khi đã đạt được các chuẩn mực quốc gia hoặc các chuẩn mực đã được định sẵn theo các chính sách công. Tuy được nhìn nhận dưới nhiều khía cạnh khác nhau, tự chủ của trường đại học vẫn có thể được khái quát là khả năng của trường được hoạt động theo cách thức mình lựa chọn để đạt được sứ mạng và mục tiêu do trường đặt ra. Theo Anderson & Johnson (1998) các thành tố trong TCĐH bao gồm: - Tự chủ nguồn nhân lực: với quyền tự chủ này, trường được quyền quyết định về các vấn đề liên quan đến điều kiện tuyển dụng, lương bổng, sử dụng nguồn nhân lực, bổ nhiệm, miễn nhiệm các vị trí trong khu vực học thuật và khu vực hành chính... - Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến tuyển sinh và quản lý sinh viên (SV). - Tự chủ trong các hoạt động học thuật và chương trình giáo dục như phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của SV, nội dung chương trình và giáo trình học liệu... - Tự chủ trong các chuẩn mực học thuật, như các tiêu chuẩn của văn bằng, các vấn đề liên quan đến kiểm tra và kiểm định chất lượng. - Tự chủ trong nghiên cứu, xuất bản, giảng dạy, hướng dẫn học viên cao học, các ưu tiên trong nghiên cứu và quyền tự do xuất bản. - Tự chủ trong các vấn đề liên quan đến quản lý hành chính, tài chính, quản lý và sử dụng ngân sách, các nguồn tài chính của trường. [1] Khái quát lại có thể thấy rằng TCĐH là tự chủ về tổ chức, tự chủ về tài chính, tự chủ về nhân sự và tự chủ về học thuật. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu TCĐH cho đúng? Quyền tự chủ phải không chỉ gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp mà trước pháp luật, cộng đồng xã hội và với chính nhà trường về các mặt liên quan đến phạm vi được trao quyền tự chủ, trong đó có hoạt động đào tạo chất lượng cao, uy tín, ảnh hưởng đối với xã hội, có giá trị cho xã hội phải là vấn đề được ưu tiên đặc biệt. Trao quyền tự chủ cho trường đại học không có nghĩa là để trường đại học tự tồn tại, tự lo mọi nguồn lực hoạt động, không còn nhận được sự hỗ trợ từ phía nhà nước mà ngược lại, cùng với việc trao quyền tự chủ, nhà nước vẫn sử dụng ngân sách, các nguồn lực để đầu tư cho trường đại học nhưng sẽ thay đổi và đa dạng về phương thức đầu tư, dựa trên các tiêu chí phản ánh chất lượng, kết quả đầu ra, có giám sát, khuyến khích để mức độ, hiệu quả tự chủ ngày càng tăng cho cả hệ thống. Mức độ tự chủ càng lớn thì trường đại học phải tự chịu trách nhiệm càng cao, có nghĩa là chất lượng mọi mặt hoạt động của trường đại học phải được cải tiến một cách tuyến tính so với mức độ tự chủ được trao. [4] Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, GDĐH Việt Nam cần được đổi mới trên cơ sở vẫn giữ được những nét đặc thù của GDĐH trong nước, đồng thời tiệm cận được các chuẩn chung của thế giới. Trọng tâm của đổi mới là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng, trong đó TCĐH là khâu quan trọng, có ý nghĩa đột phá để đưa giáo dục lên một tầm cao mới. 192
- 2. NỘI DUNG 2.1. Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước về TCĐH Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34/2018/QH14 của Quốc hội khóa XIV) quy định quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH như sau: (1). Cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở GDĐH; (2). Điều kiện thực hiện quyền tự chủ của cơ sở GDĐH: (a) Đã thành lập hội đồng trường, hội đồng đại học; đã được công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở GDĐH bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hợp pháp; (b) Đã ban hành và tổ chức thực hiện quy chế tổ chức và hoạt động; quy chế tài chính; quy chế, quy trình, quy định quản lý nội bộ khác và có chính sách bảo đảm chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn do nhà nước quy định; (c) Thực hiện phân quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đến từng đơn vị, cá nhân trong cơ sở GDĐH; (d) Công khai điều kiện bảo đảm chất lượng, kết quả kiểm định, tỷ lệ SV tốt nghiệp có việc làm và thông tin khác theo quy định của pháp luật; (3). Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước, quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật; (4). Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên (GV), viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở GDĐH phù hợp với quy định của pháp luật; (5). Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho SV và chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật; (6). Trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH đối với chủ sở hữu, người học, xã hội, cơ quan quản lý có thẩm quyền và các bên liên quan: (a) Giải trình về việc thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, về việc quy định, thực hiện quy định của cơ sở GDĐH; chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu không thực hiện quy định, cam kết bảo đảm chất lượng hoạt động; (b) Công khai báo cáo hằng năm về các chỉ số kết quả hoạt động trên trang thông tin điện tử của cơ sở GDĐH; thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất với chủ sở hữu và cơ quan quản lý có thẩm quyền; (c) Giải trình về mức lương, thưởng và quyền lợi khác của chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ sở GDĐH tại hội nghị cán bộ, viên chức, người lao động; thực hiện kiểm toán đối với báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán hằng năm, kiểm toán đầu tư và mua sắm; giải trình về hoạt động của cơ sở GDĐH trước chủ sở hữu, cơ quan quản lý có thẩm quyền; (d) Thực hiện công khai trung thực báo cáo tài chính hằng năm và nội dung khác trên trang thông tin điện tử của cơ sở GDĐH theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT); (đ) Thực hiện nội dung, hình thức giải trình khác theo quy định của pháp luật; (7). Chính phủ quy định chi tiết về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH. [2] Để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật số 34/2018/QH14, tại Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định: Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của trường đại học: (1) Quyền tự chủ về học thuật và hoạt động chuyên môn: (a) Được quyền ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về hoạt động tuyển sinh, đào tạo, khoa học, công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp quy định của pháp luật; (b) Xác định, 193
- công bố công khai phương thức, chỉ tiêu tuyển sinh theo quy định của Bộ GD&ĐT, trừ lĩnh vực quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý trực tiếp; (c) Quyết định phương thức tổ chức và quản lý đào tạo đối với các trình độ, hình thức đào tạo; xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo phù hợp với quy định về Khung trình độ quốc gia Việt Nam, về chuẩn chương trình đào tạo, bảo đảm không gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng, không xuyên tạc lịch sử, ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục và đoàn kết các dân tộc Việt Nam, hòa bình, an ninh thế giới, không có nội dung truyền bá tôn giáo; biên soạn, lựa chọn, thẩm định, phê duyệt và sử dụng tài liệu giảng dạy, giáo trình GDĐH (trừ các môn học bắt buộc); tổ chức thực hiện, đánh giá chất lượng các chương trình đào tạo của GDĐH; thiết kế mẫu, in phôi, cấp phát, quản lý văn bằng, chứng chỉ phù hợp với quy định của pháp luật; (d) Quyết định đào tạo từ xa, liên kết đào tạo trình độ đại học theo hình thức vừa làm vừa học với cơ sở giáo dục trong nước đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; (đ) Quyết định hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp với quy định của pháp luật; (e) Nếu đủ điều kiện thực hiện quyền tự chủ thì được tự chủ mở ngành đào tạo theo quy định. Các đại học được tự chủ ra quyết định mở ngành, liên kết đào tạo với nước ngoài cho trường đại học thành viên và đơn vị đào tạo thuộc đại học khi đáp ứng điều kiện mở ngành theo quy định. Các trường đại học thành viên của đại học được tự chủ ra quyết định mở ngành, liên kết đào tạo với nước ngoài khi đáp ứng điều kiện mở ngành theo quy định, phù hợp với quy chế tổ chức và hoạt động của đại học. Cơ sở GDĐH chưa đáp ứng điều kiện theo quy định thì thực hiện mở ngành, liên kết đào tạo với nước ngoài theo quy định của pháp luật; (g) Thực hiện các quyền tự chủ khác về học thuật và hoạt động chuyên môn phù hợp với quy định của pháp luật; (2). Quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự: (a) Cơ sở GDĐH công lập thực hiện quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự theo quy định của Luật GDĐH, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH và các quy định hiện hành về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; về số lượng người làm việc và vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập; có quyền tự chủ về tổ chức, bộ máy và nhân sự để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhưng không được làm tăng số lượng người làm việc hưởng lương, mức lương (bao gồm cả lương và phụ cấp) từ quỹ lương do ngân sách nhà nước cấp; (b) Cơ sở GDĐH tư thục, cơ sở GDĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận thực hiện quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự theo quy định của Luật GDĐH, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH; có trách nhiệm công bố công khai về cơ cấu tổ chức, người đại diện theo pháp luật trên trang thông tin điện tử của nhà trường; (c) Các cơ sở GDĐH phải ban hành, tổ chức thực hiện quy định nội bộ về tổ chức bộ máy và nhân sự; thực hiện các quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự khác theo quy định của Luật GDĐH, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH và pháp luật có liên quan; (d) Việc thành lập phân hiệu của cơ sở GDĐH, thành lập doanh nghiệp trực thuộc cơ sở GDĐH thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành; (3) Quyền tự chủ về tài chính và tài sản: (a) Cơ sở GDĐH công lập thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tài sản theo quy định của Luật GDĐH, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH và các quy định hiện hành về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; (b) Cơ sở GDĐH tư thục, cơ sở GDĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tài sản theo quy định của Luật GDĐH, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH và các quy định của pháp luật khác có liên quan; được nhà nước hỗ trợ phát triển phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và 194
- các quy định về đầu tư phát triển GDĐH; (c) Các cơ sở GDĐH phải ban hành, tổ chức thực hiện quy định nội bộ về tài chính và tài sản, thực hiện các quyền tự chủ về tài chính và tài sản khác theo quy định của Luật GDĐH, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH và pháp luật khác có liên quan; (4) Trách nhiệm giải trình: (a) Cơ sở GDĐH thực hiện đầy đủ các quy định, yêu cầu về chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất của chủ sở hữu và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; (b) Chịu trách nhiệm trước người học, chủ sở hữu, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và các bên liên quan về việc bảo đảm chất lượng đào tạo theo quy định của pháp luật, quy định nội bộ và cam kết của cơ sở GDĐH; (c) Thực hiện công khai đầy đủ trên trang thông tin điện tử của cơ sở GDĐH về các nội dung: sứ mạng, tầm nhìn của cơ sở GDĐH; các quy chế, quy định nội bộ; danh sách GV theo ngành, trình độ, chức danh và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo khác; kết quả kiểm định chương trình đào tạo, kiểm định cơ sở GDĐH; chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, hình thức đào tạo, kế hoạch tổ chức đào tạo; đề án tuyển sinh và kế hoạch tuyển sinh, danh sách nhập học và tốt nghiệp hằng năm theo ngành, trình độ đào tạo, quy mô đào tạo và tỷ lệ SV có việc làm sau 12 tháng tốt nghiệp; mẫu văn bằng, chứng chỉ, danh sách cấp văn bằng, chứng chỉ cho người học hằng năm; chi phí đào tạo, mức thu học phí, mức thu dịch vụ tuyển sinh và các khoản thu khác của người học cho từng năm học và dự kiến cả khóa học; chế độ, chính sách miễn, giảm học phí, học bổng; các nội dung khác theo quy định của pháp luật; (d) Công khai thông báo chỉ tiêu tuyển sinh, quyết định mở ngành, quyết định liên kết đào tạo cùng với hồ sơ chứng minh đủ điều kiện theo quy định lên trang thông tin điện tử của nhà trường trước khi thực hiện ít nhất 30 ngày làm việc; gửi thông báo, quyết định tới Bộ GD&ĐT trong thời hạn 30 ngày, tính từ ngày thông báo hoặc ra quyết định; (đ) Thường xuyên cập nhật cơ sở dữ liệu của nhà trường lên hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về GDĐH theo quy định của Bộ GD&ĐT; chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đã ban hành, các quyết định, các hoạt động tự chủ thực hiện; (e) Thực hiện chế độ báo cáo tài chính theo quy định và công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở GDĐH, trừ những thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước; (5). Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH thuộc lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện theo quy định của Nghị định số 99-NĐ/CP và quy định của pháp luật có liên quan. 2.2. Những bất cập của hệ thống giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng Xuất phát bởi hoàn cảnh lịch sử: * Về nội dung: mặc dù những năm qua đã có nhiều cố gắng đổi mới, cải cách nội dung giáo dục ở các cấp học theo hướng tiến bộ hơn - song nhìn chung, so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nền giáo dục của nước ta vẫn còn lạc hậu, nhất là nội dung giáo dục ở bậc đại học. Nhìn tổng thể, phần lớn nội dung và chương trình giáo dục các cấp hiện nay ở nước ta đều được biên soạn hoặc chịu ảnh hưởng bởi nội dung, chương trình giáo dục của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đặc biệt nền giáo dục Xô-viết. Trong một thời gian dài, những nội dung và chương trình giáo dục này khá phù hợp với nền giáo dục của nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, nội dung chương trình GDĐH nước ta đang bộc lộ rất nhiều bất cập và hạn chế: 195
- Thứ nhất, nội dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm đối với người học. Thứ hai, chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực GDĐH trong nước và quốc tế. Mặc dù được đặt dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Bộ GD&ĐT, nhưng trên thực tế, khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở GDĐH ở nước ta hiện nay còn rất hạn chế, ít thừa nhận và tiếp nhận các kết quả đào tạo của nhau, nên người học rất khó khăn khi chuyển trường, ngành học. Việc liên thông kiến thức giữa các cơ sở GDĐH trong nước, ngoài nước lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo giữa các cơ sở GDĐH trong nước và quốc tế (trừ các chương trình liên kết đào tạo theo thỏa thuận). Điều này không những gây khó khăn cho người học khi muốn chuyển đến cơ sở giáo dục ngoài nước, mà ngay cả việc công nhận văn bằng, chứng chỉ của các cơ sở giáo dục trong nước tại các nước mà người học chuyển đến định cư hoặc công tác cũng không phải dễ dàng. Thứ ba, chương trình học còn nặng với thời lượng lớn (Ví dụ: Một thống kê và so sánh cho thấy, thời gian học 4 năm ở một lớp đại học tại Việt Nam là 2.138 giờ so với Mỹ là 1.380 giờ). Như vậy chương trình học ở Việt Nam dài hơn 60% so với Mỹ. Thời gian học nhiều như vậy nên người học khó tránh khỏi việc rơi vào trạng thái luôn bị áp lực hoàn thành các chương trình môn học, ít có thời gian để tự học, tự nghiên cứu, hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác. Nhìn chung, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chương trình GDĐH tại Việt Nam hiện nay tỏ ra bất cập và kém hiệu quả. Đây cũng được coi là nguyên nhân cơ bản khiến nền GDĐH ở Việt Nam đang có xu hướng tụt hậu. Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học của các trường đại học trên thế giới thường rất linh hoạt, dựa trên tinh thần đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện tối đa cho người học có thể tự học, tự nghiên cứu,... (nhằm mục tiêu “nhấn mạnh đến kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào việc làm đầy kiến thức đã có sẵn”). Thế nhưng, tại Việt Nam hiện nay, do quan niệm “nền giáo dục cần trang bị cho người học một lượng kiến thức càng nhiều càng tốt để họ có thể có một nền tảng vững chãi khi ra trường” nên vai trò, vị trí của người học chưa thực sự được quan tâm, từ đó các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học khá lạc hậu. Kết quả khảo sát thực địa của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ năm 2006 có phần nhận xét về phương pháp dạy và học đại học của Việt Nam như sau: “Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình, ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là có ít sự tương tác giữa SV và GV trong, ngoài lớp học; quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay vì học chuyên sâu; SV học một cách thụ động. [5] Mặc dù, những năm gần đây, theo chủ trương của Bộ GD&ĐT, nhiều trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã bắt đầu áp dụng phương pháp giảng dạy cho SV theo phương thức tín chỉ, nhưng theo đánh giá của nhiều chuyên gia, “Đào tạo tín chỉ ở Việt Nam hiện chưa thực sự đúng với tinh thần của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa thoát khỏi tinh thần niên chế. Tính chủ động của SV còn yếu kém”. Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy trong các trường đại học ở nước ta hiện nay nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Các thiết bị giảng dạy, như máy chiếu, video…chỉ là phương tiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy, điều quan trọng hơn cả là sự nhận thức rằng giáo dục phải mang tính 196
- sáng tạo, tinh thần trách nhiệm thể hiện qua việc cải tiến về phương pháp và chương trình học vẫn chưa được chú trọng. [3] * Về cơ chế, chính sách: - Theo Luật GDĐH thì quyền tự chủ đã được ghi nhận. Tuy nhiên, Bộ GD&ĐT vẫn ban hành Chương trình khung buộc các trường phải theo; Bổ nhiệm/công nhận Hiệu trưởng; Quy định lương GV đại học trả theo văn bản... rất cứng nhắc. Như vậy, Luật GDĐH là một bước tiến trong tư duy quản trị đại học nhưng chưa phải một bước ngoặt, vì nhà nước vẫn đóng vai trò người kiểm soát rất lớn. Cụ thể: - Kiểm soát về sứ mạng, vị trí, quyền tự chủ,... rất rối rắm: Luật phân tầng cố định, Chính phủ/Bộ phân hạng và xếp hạng các trường, đồng thời Chính phủ cũng có khả năng thu hồi quyền TCĐH. - Kiểm soát về tổ chức, nhân sự: Cơ quan chủ quản ra quyết định thành lập, chia tách, sát nhập, giải thể trường; Cơ quan chủ quản bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng trường, bổ nhiệm Hiệu trưởng; Cơ quan chủ quản quyết định chỉ tiêu biên chế, bậc lương. Như vậy, Hội đồng trường công chỉ đóng vai trò hình thức (trong khi Hội đồng quản trị trường tư thì quyền tự chủ là quyền của những cổ đông lớn). - Kiểm soát về tuyển sinh, tài chính: Bộ GD&ĐT vẫn xét duyệt chỉ tiêu tuyển sinh cho các trường và tổ chức kỳ thi “chung”, còn việc mở ngành đào tạo vẫn là cơ chế xin - cho. - Thiếu trách nhiệm giải trình: Có hiện tượng miễn cưỡng, hình thức trong việc minh bạch hóa các thông tin về tài chính, đào tạo và việc làm. Cơ sở GDĐH không phải chịu trách nhiệm về điều kiện đào tạo kém, chất lượng đào tạo yếu, khả năng khó tìm được việc làm phù hợp và hòa nhập vào thị trường lao động của SV. [6] 2.3. Một số đề xuất giải pháp Từ thực tiễn nghiên cứu về một số trường đại học đã thực hiện TCĐH, chúng tôi xin đề xuất một số nhóm giải pháp như sau: - Xây dựng hệ thống đánh giá về TCĐH: Thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm không có nghĩa là các trường đại học tự tồn tại và thoát khỏi mọi sự đánh giá. Trái lại, cần đánh giá xem hiệu quả hoạt động của một đơn vị tự chủ như thế nào một cách chuyên nghiệp, có hệ thống, định kỳ. Đánh giá có ý nghĩa quan trọng như là điều kiện để thực hiện tự chủ, bởi đây là cơ sở để nhà nước thể hiện sự giám sát đối với trường đại học đã được trao quyền tự chủ. Bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình. Cần phân biệt trường hoạt động vì mục đích lợi nhuận và không vì mục đích lợi nhuận để các trường hoạt động không vì mục đích lợi nhuận có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các nguồn lực của nhà nước - Cơ chế quản lý điều hành phù hợp và phát huy hiệu quả: Trường Đại học và Khoa chuyên môn được tổ chức và hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội, mở và liên thông, liên kết, phát huy lợi thế chuyên môn hóa trong khuôn khổ quản lý và điều phối thống nhất của trường Đại học; Kết hợp chặt 197
- chẽ đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH), phối hợp hiệu quả giữa các Khoa, Ngành, Lĩnh vực, sử dụng lao động và cơ sở vật chất - kỹ thuật hợp lý. Quản trị trong đại học cẩn thực hiện theo cách tiếp cận quản lý sản phẩm đầu ra, thực hiện việc tăng quyền tự chủ gắn với việc nâng cao tự chịu trách nhiệm của các đơn vị của trường, chất lượng kết quả/sản phẩm được giám sát chặt chẽ dựa vào các tiêu chí định lượng. - Tăng số lượng đề tài, dự án khoa học công nghệ bằng đấu thầu và hợp tác với các Bộ, Sở, các địa phương, doanh nghiệp: Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học tiếp cận trình độ quốc tế; nghiên cứu khoa học công nghệ phải có những đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội đất nước, địa phương; Gắn kết NCKH và đào tạo để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động NCKH, góp phần quan trọng trong việc đào tạo chất lượng cao; Chú trọng nghiên cứu khoa học của SV... Theo thông lệ thế giới, đại học là nơi có các nghiên cứu tinh hoa và tập trung nhiều người có tố chất sáng tạo nhiều nhất trong xã hội. Qua đó, nếu không tạo ra được một số các đại học uy tín trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ thì lỗi lớn là thuộc về nhà nước và các trường đại học. Luật GDĐH sửa đổi, bổ sung 2018 đã quy định tỷ lệ trích từ học phí của SV để đưa vào quỹ nghiên cứu khoa học của GV và SV. Vấn đề này không thể chỉ hình thức mà phải đi vào thực chất. Cùng với quốc tế hóa các chương trình đào tạo là quốc tế hóa các hoạt động nghiên cứu. Hiện nay, các bảng xếp hạng đại học quốc tế rất chú trọng đến chất lượng nghiên cứu của các trường đại học. Nếu một trường đại học thường xuyên có nghiên cứu được xuất bản trong các ấn phẩm khoa học có chỉ số ảnh hưởng lớn thì sẽ có cơ hội cải thiện thứ hạng của mình. Điều này thúc đẩy các trường đại học ở các nước đang phát triển tìm cách học hỏi kinh nghiệm và hợp tác với các trường đại học danh tiếng trên thế giới nhằm tăng cường khả năng nghiên cứu học thuật. Ngược lại, các trường đại học có uy tín ở các nước phát triển đang tìm cách thu hút nhiều nguồn lực hơn như nguồn lực con người hoặc các nguồn tài trợ để duy trì năng lực nghiên cứu của họ trên thị trường giáo dục quốc tế. Ngoài ra, cần phải mạnh dạn chủ trương đưa SV ra quốc tế, bao gồm cả SV tự trả phí và SV được nhà nước hỗ trợ một phần hay toàn phần kinh phí. - Các chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy được thiết kế theo hướng hội nhập quốc tế, có tính mở và cập nhật thường xuyên, phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và bằng tốt nghiệp được quốc tế công nhận. Tăng cường trao đổi SV và các chương trình thực tập ở nước ngoài nhằm cung cấp cho SV nhiều kỹ năng và kinh nghiệm làm việc trong môi trường quốc tế. Đồng thời, tăng cường tiếp nhận SV quốc tế đến học tập tại các cơ sở GDĐH của Việt Nam. - Mở rộng mạng lưới hợp tác nghiên cứu: Tạo điều kiện, khuyến khích GV, SV phối hợp nghiên cứu với GV, SV các trường đối tác, viện nghiên cứu nước ngoài nhằm tăng số lượng và chất lượng các công trình khoa học đăng trên tạp chí khoa học có uy tín và có tính quốc tế cao hơn; Hiện đại hoá 198
- trang thiết bị, tiên phong xây dựng thành công một số nhóm nghiên cứu/phòng thí nghiệm đạt trình độ quốc tế,... - Nhóm giải pháp thực hiện tự chủ về tổ chức nhân sự: Giải quyết mối quan hệ giữa Hội đồng trường (HĐQT với tổ chức, cá nhân có liên quan) để Hội đồng có đủ năng lực và thực quyền quyết định các vấn đề của nhà trường. Bãi bỏ cơ chế “Bộ chủ quản”; Xây dựng, công bố và thực hiện tiêu chuẩn, quy chế tuyển dụng, làm việc; Xác định vị trí việc làm, đề bạt cán bộ quản lý và GV xứng đáng; Bố trí lại cơ cấu nhân sự phù hợp tại các đơn vị; Giảm tỉ lệ cán bộ phục vụ giảng dạy, tăng tuyển dụng GV song hành với công tác đào tạo GV có chất lượng; Hợp tác, gặp gỡ, thường xuyên trao đổi thông tin giữa cơ sở đào tạo đại học và các đơn vị sử dụng lao động,... - Nhóm giải pháp thực hiện tự chủ về học thuật: Nên dừng hình thức thi “ba chung” để các trường tự quyết định việc tuyển sinh của mình; Xây dựng và công bố chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo; Chú trọng chuẩn ngoại ngữ trước mắt ngang với yêu cầu của các trường ĐH hàng đầu trong khu vực ASEAN gắn kết chặt chẽ với đơn vị sử dụng lao động; Thực hiện sàng lọc mạnh GV, SV để đảm bảo chất lượng đào tạo. - Tiến hành cải cách hành chính, chế độ đãi ngộ: Chuẩn hóa toàn bộ hệ thống và quy trình quản lý… Thu nhập của cán bộ (hay việc chi trả lương) cần dựa vào hiệu quả công tác, dựa vào độ khó và mức độ hoàn thành nhiệm vụ; Cần có các tiêu chí đánh giá và đãi ngộ để khuyến khích cán bộ cống hiến cũng như hoàn thành khối lượng công việc vượt trội, Từ đó tạo được động lực làm việc; Công tác thi đua khen thưởng phải khách quan, công bằng và có tác dụng động viên cao; Lộ trình thay đổi học phí của SV cần linh hoạt căn cứ vào thực tiễn tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương, của nền kinh tế quốc dân; Đa dạng hóa hình thức đào tạo song vẫn đảm bảo chất lượng,... 3. KẾT LUẬN Tự chủ đại học là một chủ trương đúng đắn, là bước đi cần thiết và quan trọng để giáo dục đại học Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng, triển khai tại một số trường đại học đã cho thấy còn khá nhiều rào cản, vướng mắc để có thể đạt được tự chủ đại học một cách đích thực. Không ít trường đại học vẫn chưa coi tự chủ đại học như là nhu cầu nội tại sống còn của cơ sở đào tạo, do đó chưa mạnh dạn đổi mới phương thức quản lý. Cũng không ít trường chỉ đổi mới ở góc độ tổ chức nhân sự, tài chính và tài sản, mà chưa đổi mới mạnh mẽ về chuyên môn và học thuật. Mặt khác, trong điều kiện hội nhập quốc tế, nếu các trường đại học Việt Nam chỉ nặng về hướng nội, thiếu đi sự hợp tác quốc tế hoặc hợp tác chỉ mang tính hình thức thì nền giáo dục đại học Việt Nam cũng khó bắt kịp trình độ đại học thế giới. Lộ trình tự chủ đại học của nền giáo dục đại học Việt Nam cần phải gắn liền với một triết lý căn bản: Đào tạo nguồn nhân lực là để phục vụ cho sự phát triển xã hội, phục vụ cho nền sản xuất xã hội, phục vụ cho nền kinh tế quốc dân. 199
- ________________ Tài liệu tham khảo [1] Anderson & Johnson (1998), University Autonomy in Twenty Countries. Department of Employment, Education, Training and Youth Affairs, Canberra, Bản dịch tiếng Việt. [2] Quốc hội (2018), Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH, Luật số 34/2018/QH14. [3] Phạm Công Nhất (2014), Đổi mới GDĐH theo hướng hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị số 10. [4] Đỗ Trung Tá (2018), Bàn thêm về TCĐH, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 5. [5] Ngô Tứ Thành (12-3-2010), Cần đổi mới cách giảng dạy ở đại học, website: dantri.com.vn. [6] Ủy ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (11/2020), TCĐH - từ góc nhìn của cơ quan lập pháp, giám sát, Hội thảo Giáo dục Việt Nam. 200
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Những rào cản trong quá trình thực hiện tự chủ đại học ở nước ta hiện nay
8 p | 86 | 10
-
Bàn thêm về tự chủ đại học
3 p | 63 | 8
-
Phát thảo bức tranh tự chủ đại học hiện nay
5 p | 58 | 5
-
Tự chủ đại học: Những vướng mắc cần được tháo gỡ
5 p | 36 | 4
-
Tự chủ tài chính - chìa khóa vàng trong tự chủ đại học
6 p | 31 | 4
-
Chính sách tự chủ đại học của nhà nước và năng lực thực tế của hệ thống các trường đại học công lập địa phương của Việt Nam hiện nay
23 p | 37 | 3
-
Cơ chế quản trị đại học tự chủ và tiến trình hoàn thiện pháp luật tự chủ đại học ở Việt Nam
19 p | 21 | 3
-
Tự chủ đại học: Từ góc nhìn về tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp của giảng viên
8 p | 9 | 3
-
Nghiên cứu về tự chủ đại học ở Việt Nam: Tổng quan từ các công bố quốc tế và trong nước
8 p | 7 | 3
-
Tự chủ đại học - từ góc nhìn của cơ quan lập pháp, giám sát
9 p | 21 | 3
-
Bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục với việc thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam
19 p | 21 | 3
-
Tự chủ đại học: Nghiên cứu đối sánh giữa Trung Quốc và Việt Nam
16 p | 33 | 3
-
Chính sách tự chủ đại học của nhà nước và năng lực thực tế của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
25 p | 38 | 3
-
Bài giảng Thực trạng tự chủ đại học Việt Nam: Từ văn bản đến thực tế
8 p | 29 | 3
-
Đánh giá về thực trạng và quy luật tự chủ đại học tại Việt Nam
5 p | 19 | 2
-
Ba điểm cần lưu ý khi giám sát thực thi tự chủ đại học ở Việt Nam
4 p | 16 | 2
-
Phát triển đội ngũ giảng viên trình độ cao ở Đại học Thái Nguyên trong bối cảnh tự chủ đại học
8 p | 5 | 2
-
Tự chủ đại học trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam
9 p | 24 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn