intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Từ phương pháp dạy học chương trình hóa đến phương pháp học chương trình hóa

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

66
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này trình bày nhận xét của tác giả về hai phương pháp dạy và học nói trên cũng như mối liên quan giữa chúng cùng với phần phân tích lý do tại sao bài giảng chương trình hóa thường được biên soạn ở dạng trang web. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Từ phương pháp dạy học chương trình hóa đến phương pháp học chương trình hóa

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 22, 2004<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TỪ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHƯƠNG TRÌNH HÓA<br /> ĐẾN PHƯƠNG PHÁP HỌC CHƯƠNG TRÌNH HÓA<br /> <br /> Hà Viết Hải<br /> Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br /> <br /> I. MỞ ĐẦU<br /> <br /> Trước đây, phương pháp dạy học chương trình hóa được đề  cập khá nhiều và <br /> cũng đã có khá nhiều người cố  gắng áp dụng nó. Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm <br /> về mặt lý thuyết, phương pháp này đặt ra một số vấn đề  khó khăn khi sử dụng nên  <br /> nó không được dùng nhiều trong thực tế và dần dần bị lãng quên. Cùng với sự   ứng  <br /> dụng ngày càng rộng rãi máy tính vào cuộc sống nói chung và vào công việc giảng <br /> dạy, học tập nói riêng, một phương pháp học tập mới được ra đời và hiện đang được <br /> sử dụng nhiều hơn là phương pháp học chương trình hóa, với dạng thể hiện thường  <br /> gặp nhất là các trang web tự học. Bài viết này trình bày nhận xét của tác giả  về hai <br /> phương pháp dạy và học nói trên cũng như mối liên quan giữa chúng cùng với phần <br /> phân tích lý do tại sao bài giảng chương trình hóa thường được biên soạn  ở  dạng  <br /> trang web.<br /> II. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHƯƠNG TRÌNH HÓA<br /> <br /> Theo phương pháp này, một bài học lớn được chia thành nhiều phần, mỗi phần <br /> được gọi là một liều kiến thức. Giáo viên tổ chức và điều khiển lớp học không theo <br /> kiểu đồng nhất đối với tất cả học sinh như trong lớp học bình thường mà cá biệt hóa  <br /> cho từng học sinh. Mỗi học sinh, sau khi học xong một liều kiến thức thì ngay lập  <br /> tức được kiểm tra và diễn tiến học tập tiếp theo của người này xảy ra thế  nào tùy  <br /> thuộc vào kết quả  kiểm tra của mình. Nếu kết quả  kiểm tra là tốt thì tiếp tục học <br /> liều kiến thức tiếp theo, nếu kém thì phải quay lại học liều kiến thức vừa học, thậm  <br /> chí có trường hợp phải học lại những kiến thức bổ sung.<br /> Phương pháp dạy học chương trình hóa có hai  ưu điểm chủ  yếu là thể  hiện <br /> được quan điểm đặt trọng tâm của quá trình dạy học vào người học và cá biệt hóa <br /> quá trình dạy học theo trình độ  và năng lực của từng học viên. Hai điểm này được  <br /> <br /> 35<br /> đánh giá rất cao trong lý luận dạy học hiện đại. Điểm thứ nhất được thể hiện ở chổ <br /> để  cho người học chủ  động tiếp thu kiến thức (giáo viên thường chỉ  đóng vai trò  <br /> hướng dẫn), do vậy phát huy được tính tích cực và chủ  động của họ. Điểm thứ  hai  <br /> dễ  nhận thấy hơn, từng cá nhân học viên có thể  tiếp thu kiến thức với lượng thời  <br /> gian khác nhau cũng như  theo các diễn tiến khác tùy vào kiến thức có sẵn và khả <br /> năng, tốc độ học tập của riêng mình.<br /> Nếu không có máy tính hỗ  trợ, đối với giáo viên, có nhiều khó khăn về  mặt <br /> chuẩn bị cũng như điều khiển lớp học để  có thể  thực hiện được một buổi dạy học <br /> chương trình hóa. Trước hết là phải biên soạn bài giảng theo cấu trúc bài giảng <br /> chương trình hóa ­ phân chia thành từng đơn vị tương đối độc lập, mỗi đơn vị có một <br /> loạt các câu hỏi kiểm tra đủ chất lượng để đánh giá mức độ tiếp thu của người học.  <br /> Tiếp theo, phải có hình thức để có thể tổ chức quá trình dạy học sao cho cá biệt hóa  <br /> được với từng học sinh chứ  không theo kiểu diễn biến đều trong cả  lớp. Nếu như <br /> vấn đề  khó khăn thứ  nhất liên quan nhiều đến tính chuyên môn và thời gian, sự  cố <br /> gắng của giáo viên thì khó khăn thứ hai chủ yếu liên quan đến khả năng điều khiển, <br /> quản lý của giáo viên đến từng học sinh, một điều không dễ thực hiện nếu không có <br /> máy tính hỗ trợ.<br /> Do những khó khăn trên, nhất là nguyên nhân thứ  hai, nên mặc dù có nhiều ưu <br /> điểm, phương pháp dạy học chương trình hóa không được  ứng dụng nhiều lắm và <br /> hiện tại ta cũng ít nghe nhắc đến nó trong số các phương pháp dạy học hiện đại. Tuy <br /> nhiên, những ý tưởng chủ  đạo của nó được thể  hiện trong một hình thức học tập  <br /> khác đang được sử  dụng rộng rãi trong thời đại tri thức là học trên máy tính dưới  <br /> dạng các bài học chương trình hóa được biên soạn theo hình thức các trang web.<br /> III. PHƯƠNG PHÁP HỌC CHƯƠNG TRÌNH HÓA<br /> <br /> 1. Định nghĩa:<br /> Quá trình học trong đó học viên tiến tới theo nhịp độ riêng của họ bằng  cách <br /> dùng sách bài tập, sách giáo khoa hoặc các công cụ điện tử khác trong đó thông tin <br /> được cung cấp theo từng bước rời rạc, kiểm tra việc học sau mỗi bước và cung cấp <br /> ngay  thông   tin phản hồi về kết quả. <br /> (http://www.ibe.unesco.org/International/DocServices/Thesaurus/00003759.htm)<br /> 2.Ví dụ:<br /> Ta hãy xem xét một ví dụ  dưới đây để  có thể  hiểu rõ hơn về  cách thức thực  <br /> hiện bài học chương trình hóa. Đây là một trích đoạn (dịch theo nguyên bản tiếng  <br /> <br /> 36<br /> Anh) về bài học vận tốc tại website ThinkQuest, nơi cung cấp các bài học vật lý về <br /> cơ  học, quang học, sóng và điện học. Độc giả  có thể  xem nội dung đầy đủ  của nó  <br /> theo địa chỉ http://library.thinkquest.org/10796/ch2.htm<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> a, Bài học<br /> VẬN TỐC<br /> Tác giả Keiji Oenoki [physic@amerso.edu.pe]<br /> Chúng ta sẽ bắt đầu học vật lý với việc học về sự chuyển động.<br /> Hãy nhìn xung quanh mình, và bạn sẽ thấy rằng hầu như mọi vật đều đang chuyển  <br /> động: chim bay, người chạy, quyển sách rơi… Chúng ta sẽ  phân tích các chuyển <br /> động này và suy nghĩ về  việc các vật chuyển động nhanh chậm thế  nào và đi được <br /> bao xa.<br />  Mục 1. Khoảng cách và độ dịch chuyển<br /> Khoảng cách  khác với  độ  dịch chuyển.  Khi bạn di chuyển 50 km về <br /> phía Đông và sau đó là 20 km về  phía Tây, tổng khoảng cách là 70 km,  <br /> nhưng độ dịch chuyển của bạn là 30 km về phía Đông.<br /> 30 km 20 km<br /> <br /> w     <br /> 50 km<br /> <br /> <br /> Trong vật lý, ta nói khoảng cách là vô hướng và độ  dịch chuyển là một  <br /> vector. Vô hướng có một độ  lớn còn vector có cả  độ  lớn và hướng. Vô  <br /> hướng là một chiều còn vector là hai chiều.<br /> CÂU HỎI: Một chiếc xe đi 50 km về phía Bắc. Độ  dịch chuyển của nó <br /> như thế nào? (ví dụ. “10 km Đông”)                 <br /> CÂU HỎI: Một chiếc xe di chuyển 20 km Đông và 70 km Tây. Khoảng <br /> cách là bao nhiêu  km <br />  Mục 2. Vận tốc trung bình và vận tốc tức thời<br /> Vận tốc biểu diễn sự nhanh chậm của sự di chuyển của một đối tượng  <br /> theo một hướng nào đó. Vận tốc trung bình được tính bằng cách chia độ <br /> dịch chuyển cho thời gian.<br /> d displacement<br /> V    <br /> t time<br /> <br /> 37<br /> (displacement: độ dịch chuyển, time: thời gian dịch chuyển)<br /> Ví dụ, khi một chiếc xe di chuyển được 50 km trong 2 giờ, vận tốc trung  <br /> 50km<br /> bình là 25.5 km/h bởi vì  V 25.5km / h<br /> 2h<br /> Vận tốc tức thời biểu diễn vận tốc của một vật tại một thời điểm. Ví  <br /> dụ, khi bạn lái một chiếc xe và đồng hồ  tốc độ  chỉ  90km/h thì vận tốc <br /> tức thời của chiếc xe là 90km/h.<br /> CÂU HỎI: Một chiếc xe đi 20 km về  phía Đông và 60 km về  phía Tây <br /> trong 2 giờ. Vận tốc trung bình của nó là  km/h    <br /> CÂU HỎI: Một chiếc xe di chuyển được bao nhiêu trong vòng 15 phút  <br /> với vận tốc 20 m/s?  km <br /> (tiếp theo 2 mục vừa trình bày trên là 3 mục khác của bài học, sau đó là liên kết đến  <br /> bài kiểm tra tổng quát dưới đây)<br /> b, Bài kiểm tra tổng hợp sau khi học xong toàn bộ bài học<br /> Sau đây là trích phần đầu của bài kiểm tra tổng hợp.<br /> Đây là cơ hội để bạn áp dụng kiến thức đã học trong chương này.<br /> Khoảng cách và độ dịch chuyển là khác nhau. Khoảng cách là vô hướng còn độ <br /> dịch chuyển là vector. Bạn đã biết cách để  tính tốc độ  trung bình. Bạn sẽ  làm quen  <br /> với đồ thị vị trí ­ và đồ thị vận tốc ­ thời gian. Vận tốc có thể được tính toán dựa trên  <br /> đồ thị vị trí ­ thời gian.<br /> Chương 2. Kiểm tra tổng hợp.<br /> 1. Nếu bạn di chuyển 10 km Bắc, 10 km Đông và 10 km Tây,<br /> a. Độ dịch chuyển của bạn là? (ví dụ, “10 km Nam”)  <br /> b. Tổng khoảng cách di chuyển của bạn là bao nhiêu?  km.<br /> Đồ thị dưới đây biểu diễn vị trí của một con chuột theo thời gian.<br /> <br /> 40<br /> 35<br /> 30<br /> 25<br /> 20<br /> 15<br /> 10<br /> 5<br /> 0<br /> 0 1 2 3 4 5 6 7<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 38<br /> a. Vận tốc trung bình trong khoảng t = 0 và t = 4 ?  <br />  m/s<br /> b. Khoảng cách di chuyển trong khoảng t = 0 và t = 4 ?  <br />  m<br /> c. Tổng khoảng cách di chuyển?<br />  m<br /> (Tiếp theo hai câu hỏi trên là 3 câu hỏi khác, sau đó là phần để xem kết quả).<br /> <br /> Nếu bạn đã làm xong, hãy nhấn nút: <br /> <br />   <br /> <br /> <br /> <br /> c, Giải thích hoạt động của bài học trong ví dụ trên<br /> Bài học trên được biên soạn  ở  dạng trang web (HTML). Sau khi nghiên cứu  <br /> xong từng mục (một liều kiến thức), người học trả lời câu hỏi bằng cách gõ vào ô <br /> trả  lời và bấm nút   để  xem kết quả. Lúc này chương trình (viết bằng mã <br /> JavaScript)  ẩn đằng sau bài học sẽ  xử  lý câu trả  lời, so sánh với đáp án và hiển thị <br /> kết quả lên trên ô trả lời mà người học vừa sử dụng. Tương tự, đối với bài kiểm tra <br /> tổng hợp (Quiz), người học trả lời tất cả các câu hỏi vào các ô dành sẵn và nhấn nút <br /> , kết quả sẽ được chương trình tự động hiển thị  trong ô dành sẵn ở dưới <br /> nút này. Đối với nút “Kiểm tra”, tuỳ thuộc vào câu trả lời của người đọc mà kết quả <br /> khi nhấn nút là khác nhau. Nếu trả lời đúng sau 1 hoặc 2 hoặc 3,… lần trả lời thì sẽ <br /> nhận được kết quả  “Đúng” hoặc “Xuất sắc!” hoặc “Làm tốt!” hoặc “Tốt!” hoặc  <br /> ‘Hoàn toàn đúng!”. Tương tự như vậy, khi trả lời sai thì người học cũng nhận được  <br /> các thông báo thích ứng tuỳ vào số lần trả lời. đối với nút “Xem điểm”, người học sẽ <br /> biết được mình đã trả  lời đúng được bao nhiêu câu trong số tất cả các câu hỏi được  <br /> đặt ra cùng với một lời bình luận về mức độ điểm đạt được.<br /> 3. Nhận xét:<br /> Bài học chương trình hóa rõ ràng có  ưu điểm rất lớn. Trước hết, nó là một <br /> dạng để tổ  chức bài học theo kiểu tự học, một dạng bài học ngày càng trở  nên cần  <br /> thiết trong một xã hội tri thức, với yêu cầu học tập suốt đời. Thứ  hai, nó giúp người <br /> học nhanh chóng biết được mức độ  tiếp thu kiến thức của mình, từ  đó làm chủ  quá  <br /> trình học. Điều này giúp tránh những trường hợp người học do chủ  quan, chỉ  học <br /> một cách nông cạn bài học, không đạt được độ  sâu cần thiết. Một điểm nữa là bài <br /> <br /> 39<br /> học được tổ  chức theo kiểu này làm cho quá trình học trở  nên thú vị  hơn, yêu cầu <br /> người học luôn phải suy nghĩ tích cực và vì thế phát huy tốt hơn trí tuệ của họ.<br /> IV. MỐI LIÊN QUAN GIỮA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC <br /> CHƯƠNG TRÌNH HÓA VÀ PHƯƠNG PHÁP HỌC CHƯƠNG TRÌNH HÓA<br /> Điểm giống nhau giữa hai phương pháp này rất dễ  được nhận ra. Cả  hai loại  <br /> hình đều nhằm mục tiêu quan trọng nhất là nhanh chóng phản hồi thông tin về mức  <br /> độ  tiếp thu kiến thức của người học để  lấy đó làm cơ  sở  điều khiển quá trình học <br /> một cách có hiệu quả  và đảm bảo chất lượng. Cách thức tổ  chức bài học là hoàn <br /> toàn giống nhau.<br /> Điểm khác nhau thể hiện ở hình thức tổ chức “lớp học”. Phương pháp dạy học <br /> chương trình hoá lấy người học làm trung tâm nhưng vẫn có vai trò trực tiếp của <br /> người dạy. Đối với bài học chương trình hoá thì người dạy chỉ đóng vai trò biên soạn  <br /> bài giảng, không có sự có mặt trực tiếp khi người học tiến hành quá trình học, do đó <br /> rất thích hợp để tổ chức học và sử dụng trong loại hình đào tạo từ xa. Điều này cũng <br /> có nghĩa là vấn đề  khó khăn trong việc buộc giáo viên phải có khả  năng trực tiếp  <br /> theo dõi, đánh giá và điều khiển quá trình học tập cho từng người học đã được giải  <br /> quyết.<br /> Như vậy, quá trình tiếp thu kiến thức khi sử dụng bài học chương trình hóa và  <br /> khi sử  dụng phương pháp dạy học chương trình hóa là rất giống nhau, ngoại trừ   ở <br /> điểm không cần có sự điều khiển, quản lý trực tiếp của giáo viên trong trường hợp  <br /> học chương trình hóa. Nói cách khác, bài học chương trình hóa có các  ưu điểm cơ <br /> bản của phương pháp dạy học chương trình hóa và đã khắc phục được nguyên nhân <br /> quan trọng làm cho phương pháp này không được ứng dụng rộng rãi.<br /> Từ  những nhận xét này, ta có thể  xem học chương trình hóa là một hình thức <br /> phát triển cao của việc dạy học chương trình hóa, ở  đó người học tự tiến hành quá  <br /> trình học mà không cần có sự hiện diện trực tiếp của giáo viên.<br /> V. CÁC HÌNH THỨC TRÌNH BÀY BÀI HỌC CHƯƠNG TRÌNH HÓA<br /> Bài học chương trình hóa phải có hai khả  năng cơ  bản là biểu diễn được các <br /> dạng dữ liệu cần thiết để trình bày bài học và khả năng phản hồi được kết quả cho  <br /> người học khi họ  thực hiện xong việc trả  lời câu hỏi. Ngoài ra, cũng cần đánh giá <br /> thêm về mức độ dễ dàng biên soạn bài giảng, sự thuận tiện và dễ sử dụng cùng với  <br /> khả năng phân phối nhanh, rộng rãi đến người học. Dưới đây là phân tích sơ bộ  về <br /> những hình thức có thể thực hiện và đánh giá chúng theo các tiêu chí cơ bản vừa đề <br /> cập.<br /> 1. Biểu diễn trên giấy<br /> 40<br /> Bài học được biên soạn và sử dụng ở hình thức trên giấy.<br /> Ưu điểm:<br /> Có khả năng biểu diễn dễ dàng các thông tin tĩnh: văn bản, ảnh tĩnh…<br /> Dễ biên soạn và sử dụng.<br /> Không cần có thiết bị khi sử dụng.<br /> Dễ phân phối nếu số lượng người học là ít và gần nơi phân phối.<br />   Nhược điểm:<br /> Không có khả năng biểu diễn những dạng thông tin động như âm thanh, ảnh  <br /> động, phim…<br /> Khó tổ  chức tốt việc đưa thông tin phản hồi khi người đọc trả  lời câu hỏi. <br /> Nếu viết sẵn câu trả lời lên giấy thì dễ  làm người học đọc trước (hoặc đọc  <br /> sau lần trả lời câu hỏi đầu tiên), do đó không đạt được mục tiêu đề ra khi đặt  <br /> câu hỏi là để đánh giá thực chất mức độ tiếp thu kiến thức của người học.<br /> Khó có thể  nhanh chóng tính điểm sau khi người học làm bài kiểm tra tổng  <br /> hợp. Trường hợp này, thường yêu cầu người học tự  xem đáp án và tự  tính  <br /> điểm lấy. Có lẽ  nếu thực hiện theo phương án này thì hiệu quả  của việc  <br /> phản hồi kết quả không còn được cao. Vả lại, sau lần thử kiểm tra kết quả <br /> thứ  nhất, nếu người học trả  lời sai, họ  sẽ  biết được đáp án và vì thế, họ <br /> không còn tích cực suy nghĩ để thử trả lời lại nữa.<br /> Khó phân phối cho người học ở xa, tốn kém nếu phân phối với số lượng lớn.<br /> 2. Biểu diễn trên máy tính:<br /> Có thể chia làm hai nhóm cơ bản, một là sử dụng các văn bản tĩnh và hai là sử <br /> dụng các dạng động khác như  trang web, chương trình hoặc các dạng phim, trình <br /> diễn đơn giản và trình diễn cao cấp.<br /> a, Sử dụng văn bản tĩnh<br /> Bài học được biên soạn thành file văn bản, học viên dùng phần mềm thích hợp  <br /> để xem bài học trên máy tính.<br /> Ưu điểm:<br /> Tương tự  với dạng biểu diễn trên giấy, tuy nhiên khả  năng phân phối được <br /> dễ dàng hơn thông qua việc trao đổi file chứa bài học.<br /> Dễ  biên soạn và sử  dụng. Có thể  dễ  dàng chuyển thành bài học trên giấy  <br /> bằng cách in ra văn bản.<br /> Nhược điểm:<br /> Tương tự đối với dạng biểu diễn trên giấy.<br /> Cần có phần mềm và máy tính thích hợp để sử dụng (nếu bài học chưa được  <br /> in ra).<br /> 41<br /> Không thể phản hồi nhanh chóng và tự động kết quả kiểm tra của người học.<br /> b, Sử dụng dạng chương trình<br /> Bài học được soạn thành dạng chương trình, học viên chạy chương trình để <br /> học.<br /> Ưu điểm:<br /> Dễ dàng thực hiện việc phản hồi thông tin bằng cách viết các đoạn mã thích <br /> hợp.<br /> Việc học bài ở dạng chương trình đòi hỏi phải có máy tính thích hợp vì ngoại  <br /> trừ chương trình Java, các dạng chương trình khác không chạy được trên mọi  <br /> dạng máy tính, mà việc viết trình Java lại khó và mất thời gian.<br /> Không in được bài giảng ra giấy.<br /> c, Dạng trình diễn đơn giản (ví dụ trên PowerPoint)<br /> Ưu điểm:<br /> Dễ tạo và dễ sử dụng.<br /> Biểu diễn được hầu hết các dạng dữ liệu tĩnh và động.<br /> Nhược điểm:<br /> Việc viết trình để thực hiện phản hồi thông tin là khó khăn.<br /> Kích thước bé của từng trang trình diễn không thuận lợi để  bố  trí các phần <br /> kiến thức dài.<br /> Để sử dụng cần có phần mềm và máy tính thích hợp.<br /> Chỉ giữ lại được các phần trình bày tĩnh của bài giảng khi được in ra giấy.<br /> d, Dạng trình diễn cấp cao (ví dụ trên Flash)<br /> Ưu điểm:<br /> Thể hiện  rất tốt các dạng dữ liệu tĩnh và động.<br /> Khả năng lập trình để phản hồi thông tin khá mạnh.<br /> Nhược điểm:<br /> Mất nhiều công sức để tạo bài học.<br /> Khả năng lập trình tuy tốt nhưng khó thực hiện.<br /> Để học, cần có phần mềm và máy tính thích hợp.<br /> Không in được bài giảng ra giấy.<br /> e, Dạng trang web:<br /> Bài giảng được biên soạn  ở  dạng các trang web (HTML, DHTML, JSP, ASP,  <br /> Servlet…), người học dùng máy tính với trình duyệt web bất kỳ để xem.<br /> Ưu điểm:<br /> <br /> <br /> 42<br /> Rất dễ tạo bài giảng bằng các phần mềm soạn thảo văn bản mạnh (như MS  <br /> Word)   hoặc   bằng   các   phần   mềm   soạn   thảo   web   chuyên   nghiệp   như <br /> FrontPage, Dream Weaver…<br /> Khả năng thể hiện các dạng dữ liệu khác nhau rất mạnh, từ các dạng dữ liệu <br /> tĩnh như  chữ,  ảnh tĩnh đến các dạng dữ  liệu động như   ảnh động, âm thanh,  <br /> phim… đều có thể được trình bày trên trang web.<br /> Khả  năng lập trình là khá mạnh. Đối với yêu cầu phản hồi thông tin khi <br /> người học trả  lời câu hỏi thì chỉ  cần sử  dụng các ngôn ngữ  kịch bản như <br /> JavaScript, VBScript là đủ. Đối với các yêu cầu lập trình mạnh hơn thì có thể <br /> sử  dụng các kỹ  thuật khác như  Applet Java,  ảnh động Flash, hoặc các kỹ <br /> thuật lập trình client­server như ASP, JSP, Servlet… để thực hiện.<br /> Việc phân phối bài giảng được tiến hành rất thuận lợi. Nếu đặt các bài học <br /> lên web server trên Internet thì có thể  phân phối cho mọi đối tượng trên toàn  <br /> cầu (tất nhiên là người xem phải truy cập được vào Internet). Trong trường <br /> hợp đặt bài học lên server của mạng cục bộ  thì những người sử dụng mạng <br /> này có thể  xem chúng. Cuối cùng là có thể  đặt các bài học trực tiếp lên máy <br /> của người học và họ có thể xem chúng ngay trên tại đó.<br /> Giải quyết được nhược điểm phụ thuộc vào máy tính (hệ điều hành) và phần <br /> mềm cụ  thể  để  xem các định dạng tài liệu khác nhau. Tuy rằng để  xem các <br /> trang web cần phải có máy tính và trình duyệt web nhưng là máy tính bất kỳ <br /> và trình duyệt web bất kỳ nên điều này là hiển nhiên thỏa mãn một khi đã có  <br /> máy tính (vì hầu như  máy tính nào cũng có sẵn một trình duyệt web mạnh).  <br /> Trường hợp muốn xem bài học trên Internet nhưng khả  năng truy cập mạng <br /> này bị hạn chế thì có thể chỉ vào mạng để lưu bài học về máy tính cục bộ và <br /> sau đấy xem bài học trên máy tính này.<br /> Nhược điểm:<br /> Trường hợp đặt bài giảng lên Internet thì cần phải có web server riêng hoặc là  <br /> thuê chỗ trên các web server của các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Điều này  <br /> đòi hỏi phải trả  một khoản chi phí đầu tư  ban đầu và chi phí duy trì hàng <br /> tháng.<br /> In được bài giảng ra giấy nhưng làm mất đi tính năng động của nó.<br /> 3. Nhận xét:<br /> Do những  ưu điểm của trang web như đã nêu ở  trên nên dạng bài học chương <br /> trình hóa hiện tại được biên soạn nhiều nhất là  ở  dạng này. Ngoài ra, do trang web  <br /> 43<br /> nói riêng và công nghệ phần mềm dựa trên nền tảng web nói chung đang là tiêu điểm <br /> của giới tin học nên các khả  năng của chúng đang được phát triển rất nhanh và rất  <br /> mạnh. Vì vậy, dạng trang web là thích hợp nhất để  biên soạn các bài học chương <br /> trình hóa, đặc biệt là với khả  năng phân phối dễ  và rộng thông qua mạng Internet,  <br /> dạng bài học này là lựa chọn hữu hiệu nhất để  tổ  chức bài học cho dạng hình đào  <br /> tạo từ xa.<br /> VI. KẾT LUẬN<br /> <br /> Phương pháp học chương trình hóa đã kế  thừa và phát huy được những  ưu <br /> điểm   cũng  như  khắc  phục   được   những  nhược   điểm  của   phương  pháp  dạy  học  <br /> chương trình hóa. Các bài học được tổ  chức theo dạng này có thể  trình bày dưới <br /> nhiều hình thức khác nhau nhưng tốt nhất là ở dạng các trang web. Đối với loại hình <br /> đào tạo từ xa thì đây là một phương pháp tổ chức bài học rất tốt để người học có thể <br /> dễ  dàng truy cập, học và đánh giá quá trình tiếp thu kiến thức của mình, một điểm <br /> rất quan trọng trong quá trình học nhưng lại rất khó để  thực hiện khi không có sự <br /> điều khiển, kiểm tra, theo dõi trực tiếp của giáo viên. Cùng với sự phổ cập ngày càng  <br /> rộng khắp của mạng Internet, phương pháp này cần được nghiên cứu và sử  dụng <br /> nhiều hơn nữa để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học và tự học, một nhu cầu tất  <br /> yếu sẽ được phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế tri thức tương lai.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> 1. http://www.ibe.unesco.org/Internaltional/DocServices/Thesaurus/00003<br /> 759.htm<br /> 2. http://library.thinkquest.org<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 44<br /> FROM THE PROGRAMMED TEACHING METHOD<br /> TO THE PROGRAMMED LEARNING METHOD<br /> Ha Viet Hai <br />  College of Pedagogy, Hue University<br /> <br /> SUMMARY<br /> <br /> The   programmed   teaching   method   has   so   far   been   interested   in   and   used   by   many  <br /> teachers.   But   despite   its   theory   advantages,   it   has   some   disadvantages   that   makes   it   very  <br /> difficult for the method  to be applied. With the using broadly of computer in the educational  <br /> area, a new learning method named programmed learning has appeared and is now frequently  <br /> used. The lessons of this type are often edited in the form of web pages. The paper aims at  <br /> presenting the remarks of the author about these two methods and his analysis of the frequent  <br /> appearance of the programmed learning lessons in the form of web page.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 45<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2