YOMEDIA
ADSENSE
Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về giáo dục đạo đức Nho giáo
40
lượt xem 7
download
lượt xem 7
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết này sẽ làm rõ những tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về vai trò của giáo dục Nho giáo và nội dung giáo dục đạo đức Nho giáo, khẳng định những cống hiến của ông về phương diện triết học đạo đức, về sự phát triển tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam, từ đó cho thấy những bài học giáo dục đạo đức công dân trong xã hội ngày nay.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về giáo dục đạo đức Nho giáo
- JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE 2013, Vol. 58, No. 6B, pp. 111-120 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn TƯ TƯỞNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO Nguyễn Bá Cường Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là một trong những nhà tư tưởng lớn của Việt Nam thời trung đại. Tư tưởng của ông là sự kết hợp giữa Nho giáo, tư tưởng - văn hoá bản địa, thực tiễn cuộc đời và thời đại ông sống. Trong đó, vấn đề giáo dục đạo đức Nho giáo là một nội dung nổi bật trong hệ thống tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, được đặt ra từ sự tích luỹ, chiêm nghiệm và vận dụng Nho giáo vào Việt Nam. Bài viết này sẽ làm rõ những tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về vai trò của giáo dục Nho giáo và nội dung giáo dục đạo đức Nho giáo, khẳng định những cống hiến của ông về phương diện triết học đạo đức, về sự phát triển tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam, từ đó cho thấy những bài học giáo dục đạo đức công dân trong xã hội ngày nay. Từ khóa: Nguyễn Bỉnh Khiêm, giáo dục, đạo đức Nho giáo, trung hiếu, nhân nghĩa. 1. Mở đầu Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh trưởng trong thời kì đất nước bị chia cắt, chiến tranh giữa các thế lực phong kiến Bắc triều (Mạc) và Nam triều (Lê - Trịnh) diễn ra không ngớt. Ông ôm hoài bão thống nhất đất nước trên cơ sở những tư tưởng tích cực của Nho giáo nhưng các thế lực xã hội không chấp nhận tư tưởng đó khiến ông phải trăn trở với các cách xử thế: “xuất” hay “xử”, “hành” hay “tàng”. Con người Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người suy tư thế sự, ung dung tự tại với phong thái của một triết nhân “minh triết bảo thân”, tự mình trở thành tấm gương dạy người, dạy đời. Ông là nhà tư tưởng tiêu biểu, nhà văn hóa lớn, nhà giáo dục nổi tiếng của dân tộc. Tư tưởng và nhân cách của ông phủ bóng ở thế kỉ XVI và tiếp tục có ảnh hưởng ở các thế kỉ sau. Bài viết này sẽ làm rõ tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về giáo dục Nho giáo và nội dung giáo dục đạo đức Nho giáo với mong muốn khẳng định những cống hiến của ông về phương diện triết học đạo đức, về sự phát triển tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam, từ đó cho thấy những bài học giáo dục đạo đức công dân trong xã hội ngày nay. Ngày nhận bài 01/07/2013. Ngày nhận đăng 29/09/2013. Liên lạc Nguyễn Bá Cường, e-mail: cuongnb@hnue.edu.vn 111
- Nguyễn Bá Cường 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Vai trò của giáo dục Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm Đối với những nhà nho chân chính, giáo dục - đào tạo con người là sứ mệnh cao cả được thực hiện một cách tự thân. Người ta theo học đạo Nho để có sự hiểu biết (không chỉ là kiến thức Nho học, mà còn mở rộng cả Y, Lí, Số,...). Bởi thế, người xưa quan niệm nhà nho là người thông hiểu trời đất, muôn vật và con người (Thông thiên, địa, nhân viết Nho). Học Nho để làm người và thành người. Học Nho để có địa vị xã hội, thăng quan tiến chức, làm vinh hiển cho bản thân và gia đình. Học Nho để hành đạo giúp đời trị bình, thực hiện sự nghiệp kinh bang tế thế, đem tài đức của mình cống hiến cho đất nước và nhân dân,... Những mục đích đó được thể hiện đầy đủ ở nhà nho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã học Nho, tin theo Nho, hành đạo Nho, giáo dục con người và xã hội theo đạo Nho. Điều đó chứng tỏ ông đã nhận ra tác dụng, vai trò của giáo dục Nho giáo nói chung và giáo dục đạo đức Nho giáo nói riêng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân và sự phát triển của toàn xã hội. 2.1.1. Giáo dục đối với sự phát triển cá nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những quan điểm nêu rõ vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của mỗi người, đó là: giáo dục đem lại sự hiểu biết, thúc đẩy ý chí phấn đấu và tu dưỡng đạo đức cá nhân. Đề cao vai trò của giáo dục, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng, cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa khi đạt đến sự hiểu biết (“hay”, “biết”, “làu”, “thông”,...). Theo ông, nếu không được giáo dục, con người trở nên mờ mịt, tăm tối: “Nếu học thì hay kẻo mịt mùng”. Việc học tập, tu dưỡng đạo lí không phải là việc nhất thời mà phải là một quá trình thường xuyên và liên tục. Ông viết: “Làm người có dại ấy nên khôn”; “Học ngần nào, hay ngần ấy,/ Xem bao giờ, biết bấy giờ” [3;95]. Nhu cầu hiểu biết của con người về sự vận hành (“lí”) của trời đất, muôn vật là nhu cầu chính đáng với mục đích cuộc sống để làm người (“đã làm người cho biết lí”) [5;433]. Và nhờ có sự hiểu biết đó mà con người có thể vận dụng và ứng xử trong thực tiễn. Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ yêu cầu học trò noi gương thánh hiền thời xưa mà còn đề cao vai trò của sự tìm tòi, học hỏi. Trong bài Khuyến sĩ thi (Thơ khuyên học trò), ông cho rằng: khi học cần phải tìm hiểu, suy xét nghĩa lí thật sâu sắc và tinh tường, không chỉ căn cứ vào một quy cách, phương pháp nhất định; khi vận dụng phải tùy thời để có cách hành xử sao cho hợp tình hợp lí. Đặc biệt, ông yêu cầu học trò cần nêu cao ý chí vượt khó, vượt khổ, không quản ngại gì để học hành theo những hình mẫu ở đời, xứng đáng là đấng nam nhi [3;130]. Ông còn khuyên học trò cần phát huy tính tự lập, chủ động, chăm chỉ học tập và suy nghĩ, đồng thời phê phán thói lười biếng, không biết tự lo việc học mà chỉ ngồi chơi, ngủ ngày, ham mê điều tầm thường mà không biết xấu hổ và làm mất niềm tin ở người lớn (xem bài Trách sĩ nhân bất học) [3;137]. 112
- Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về giáo dục đạo đức Nho giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục trong việc thúc đẩy ý chí phấn đấu của mỗi người trong xã hội. Theo quan niệm Nho giáo truyền thống, ông coi việc học phải nhằm vào mục đích “hành đạo”. Ông cũng đồng ý với lẽ thường ở đời là học tập sẽ tạo nên cơ hội để người học có được vị trí xã hội (làm quan). Ông vừa khuyên răn học trò chăm chỉ, cần mẫn ngày đêm học đạo, vừa khuyến khích học trò bằng cách hướng tới tương lai tốt đẹp của họ (thành danh, được mọi người yêu mến). Điều này được ông nêu lên trong bài Sĩ nhân họa vận (Học trò họa vần) [3;137 - 138]. Ông gợi mở cơ hội thành danh cho người học: “Tiền đồ rộng lớn nên ghi nhớ,/ Ai là kẻ có tiếng thơm, được coi trọng ở đất Việt?” [2;245]. Với ý chí phấn đấu không ngừng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trưởng thành, đạt được những vị trí xứng đáng trong triều đình và uy danh trong nhân dân. Bản thân ông lúc sinh thời vẫn luôn tự rèn luyện, tu dưỡng theo gương thánh hiền, theo những chuẩn mực đạo đức của Nho gia. Thông qua thực tiễn đời sống của ông, chúng ta nhận thấy ông còn đề cập đến vai trò của giáo dục trong việc tu dưỡng đạo đức cá nhân. Nguyễn Bỉnh Khiêm coi giáo dục phải thực hiện được vai trò định hướng ý chí và hành động cho người học, nhất là việc gắn ý chí học hành với lí tưởng cống hiến hết mình cho đất nước. Ý chí này phải được rèn giũa không ngừng, từ trẻ (chí sơ âu), từ “thuở bình sinh” cho tới suốt cuộc đời, dù “đầu đã bạc” - “mái tóc thành tơ” và ngay cả trong nghèo khó, loạn lạc hay trong sự vui chơi nhàn hạ cũng phải luôn nỗ lực không rời bỏ mục tiêu phấn đấu. Ông viết: “Ba xuân tỏa ấm lầu sách cũ,/ Tấm lòng lo trước thiên hạ đến già chưa thôi” [2;203];... Điều này cũng lí giải tại sao những nhà nho chân chính vốn nặng trách nhiệm với đất nước, luôn tự nỗ lực phấn đấu thông qua con đường khoa cử để có điều kiện và cơ hội cống hiến với trách nhiệm phải biết “lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ” (Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu) [2;192]. Nhìn chung, thông qua những hoạt động thực tiễn hết sức phong phú, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nêu cao ý thức trách nhiệm cá nhân để hiện thực hóa tư tưởng, góp phần xây dựng các triều đại và thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa, giáo dục của dân tộc. Sự đóng góp của ông về lí luận cũng như thực tiễn đều có ý nghĩa khẳng định vai trò của giáo dục đối với việc nâng cao sự hiểu biết của mỗi người, là điều kiện hết sức cần thiết cho sự tự tu dưỡng cá nhân, tạo cơ hội cho người học thành đạt để cống hiến với xã hội. 2.1.2. Giáo dục đối với sự phát triển xã hội Giáo dục không chỉ có vai trò to lớn đối với sự phát triển cá nhân mà còn có vai trò xây dựng, củng cố nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển xã hội. Đó là những quan điểm đặc sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trước thực trạng xã hội đương thời ngày càng phức tạp, Nguyễn Bỉnh Khiêm càng nhận rõ sự mất trật tự, đảo lộn kỉ cương trên dưới dẫn tới sự suy đồi của đạo đức xã hội (“Cương thường ngày một suy sụp, lỏng lẻo,/ Lễ nghĩa than ôi ngang trái” [2;317]). Theo ông, chỉ vì lòng lợi kỉ của con người mà làm cho đạo đức, nhân luân bị đảo lộn, băng hoại 113
- Nguyễn Bá Cường [2;334]. Ông nhận rõ tình trạng đó diễn ra trong cả hệ thống xã hội từ trên xuống dưới đến mức: “vua chẳng ra vua, bề tôi chẳng ra bề tôi”, đội ngũ quan lại tham lam, ham danh, háo lợi: “Thấy điều lợi thì tranh nhau xâu xé”,... Trong các quan hệ xã hội, người ta quá coi trọng của cải vật chất mà coi thường những giá trị đạo đức: “Còn bạc còn tiền còn đệ tử,/ Hết cơm hết rượu hết ông tôi”; “Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,/ Có của thì hơn hết mọi lời”,.. [3;76;77]. Với cách nhìn hiện thực về xã hội đương thời như thế, thấy được mọi sự đảo lộn của kỉ cương, của giá trị nhân văn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn chủ trương khôi phục lại một nền giáo hoá thuần hậu, kỉ cương phép nước được đảm bảo, mọi người đều hướng về đầu mối của đạo làm người - đó là “Thiện”. Ông cũng đề cao các tác phẩm kinh điển của Nho gia, coi đó là bảo bối của đạo đức xã hội: “Kho ngọc mời khuyên nhà họp mặt,/ Quyển vàng giảng giải đạo làm người” [3;110]. Ông nêu rõ tác dụng của giáo dục chính là ở việc thực hiện mục đích cao nhất là “cứu đời độ thế” và hướng con người trở về với tính thiện bởi “thiện là dòng dõi của giáo hóa” [2;335]. Ông chủ trương thúc đẩy con người nâng cao sự hiểu biết về thế giới xung quanh (tự nhiên) để có cách hành xử trong đời sống sao cho có chừng mực (không thái quá cũng không bất cập), biết điểm dừng, biết giới hạn [3;78-79]. Ông nêu lên kết quả của một nền “giáo hóa cực đẹp” nếu thực hiện theo đạo Nho: Con người luôn tuân theo khuôn phép của tự nhiên (trời), hiểu được những nguyên tắc để trị nước, đồng thời noi theo được sự tốt đẹp ghi trong kinh điển: cha đối với con thì giữ đạo nghĩa, mẹ đối với con thì giữ đạo từ, con đối với cha mẹ thì có lòng hiếu kính, anh đối với em thì có lòng hữu ái, em đối với anh thì có lòng kính mến; vua và tôi có “nghĩa” với nhau; chồng và vợ biết thuận hòa, bạn bè thì giữ vững điều tín [2;316]. . . Ông khẳng định nếu thực hiện được đạo người theo những nội dung như vậy sẽ tạo nên thành quả tốt đẹp trong xã hội không chỉ về mặt phong tục, văn hóa mà còn cả về chính trị, đạo đức xã hội (“Phong tục thuần hậu, mọi nhà đều có thể được rạng rỡ,/ Chính sự tu chỉnh, tất là dấy lên cảnh tốt lành/.../ Thế đạo một khi đã hưng thịnh,/ Nhân tâm tự khắc thấm nhuần lạ thường”) [2;311]. Như vậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khẳng định vai trò của giáo dục Nho giáo trong việc đào tạo nên những con người phục vụ cho xã hội (làm quan), hướng con người tuân theo những chuẩn mực đạo đức Nho giáo để vì sự ổn định và phát triển của xã hội. 2.2. Nội dung giáo dục đạo đức Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm Nội dung giáo dục của Nho giáo chủ yếu tập trung ở phương diện đạo đức, chính trị mà ít quan tâm đến giáo dục những tri thức về sản xuất vật chất, khoa học tự nhiên,... Ngay cả giữa nội dung giáo dục đạo đức và chính trị, Nho giáo cũng “đặt giáo dục đạo đức để thuyết phục và cảm hóa lên trên chính trị và hình phạt” [1;458]. Nho giáo coi trọng nội dung trung, hiếu, nhân, nghĩa,... trước hết là để giáo dục tầng lớp thống trị, vì chỉ khi họ thực hiện được các điều ấy thì mới duy trì được sự thống trị. Tư tưởng chính trị - đạo 114
- Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về giáo dục đạo đức Nho giáo đức của Nho giáo được nhà nước phong kiến dùng để giáo dục cho cả xã hội đương thời là vì lẽ đó. Cũng như các nhà nho khác trong lịch sử Việt Nam, được giáo dục theo Nho giáo, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương con người phải sống theo những nguyên tắc của Nho gia, phải thực hiện “cương thường” [4;361] Ông nhận thấy thực tiễn xã hội đương thời đang cần tạo dựng những nhân cách đạo đức để có thể phục hưng được triều đại và đất nước. Bản thân ông cũng luôn xác định để lập thân và để giúp vua cứu nước, chăm dân thì cần thiết phải có một đạo làm người. Ông luôn cố gắng thực hiện những nguyên tắc của đạo làm người, đồng thời mong muốn mọi người học tập để xây dựng một xã hội thanh bình, thịnh trị. Mặt khác, xét về bản chất thì tư tưởng về đạo làm người của ông vẫn dựa trên lập trường của giai cấp phong kiến cầm quyền bởi “trong mọi thời đại, tư tưởng của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị” (C.Mác - Ph.Ăngghen). Vì thế nội dung tư tưởng giáo dục của Nguyễn Bỉnh Khiêm xoay quanh những chuẩn mực đạo đức Nho giáo, trong đó, tổng quát là đạo cương thường hay luân thường. Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng đạo lớn ở đời là đạo “cương thường” (ông còn gọi là “đạo thường thường”, hoặc “luân thường”). Tùy theo từng đối tượng, trong từng quan hệ xác định mà ông nêu lên những chuẩn mực nhất định cần phải thực hiện và kêu gọi: “Làm người hay chữ đạo thường thường”. Để giữ được “luân thường”, ông giáo dục người đời nên ở lành, lấy tình yêu thương nhau làm trọng (“Yêu nhau chăng đã một luân thường”). Theo ông, trong xã hội có thể người ta khác nhau về trình độ hay tính cách (khôn, dại, ương ương,...) nhưng điều mà đòi hỏi ai cũng nhất định phải tuân theo, đó là đạo làm người của Nho gia (đạo thường) [3;78-90]. Nội dung giáo dục đạo đức Nho giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm tập trung chủ yếu ở các phẩm chất trung hiếu, nhân nghĩa. 2.2.1. Giáo dục trung hiếu Cũng như một số nhà nho ở Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm không theo quan niệm “trung thần bất sự nhị quân” của Nho giáo phong kiến mà thực hiện “trung” với vua, với triều đại biết vì nước, vì dân. Bởi thế, ông chú trọng giáo dục “trung” gắn liền với tinh thần yêu nước. Ông xuất phát từ hiện thực xã hội đương thời để đưa ra yêu cầu đối với bề tôi phải coi trung nghĩa làm đầu. Đạo làm tôi là phải hết lòng thờ vua và hết lòng vì nước, vì dân mà hiến “mưu cao chước lạ”, đem lời trung chính mà can gián vua. Làm được như thế thì không những nghĩa vụ của bề tôi đã được làm tròn mà còn phúc lây đến cả trăm họ. Phạm vi thực thi đạo làm tôi không chỉ trên phương diện quan hệ với vua mà còn ở cả trong quan hệ với quốc gia, dân tộc. Theo đó, đạo làm tôi phải thủy chung với tấm lòng trung quân và ái quốc (“Niềm xưa trung ái, thề chẳng phụ”). Dù trong hoàn cảnh nào, bề tôi cũng phải có bản lĩnh, ngay thẳng, trung thành với vua; siêng năng, chăm chỉ trong công việc vì dân vì nước, đồng thời phải khiêm tốn, biết chịu thiệt (“Dẫu có tài hơn chớ cậy tài”) [3;48]. Từ quan niệm giang sơn, đất nước là của chung, Nguyễn Bỉnh Khiêm chú trọng giáo 115
- Nguyễn Bá Cường dục tinh thần yêu nước. Với bản thân, ông tự trách mình: “Đầu đã bạc mà chưa báo đền nợ nước” [2;215]. Với mỗi người, ông nêu cao trách nhiệm gánh vác việc nước, cho dù nghèo đói, khó khăn cũng không được phép làm những điều dơ bẩn, nhục nhã, thậm chí ngay cả khi không còn con đường nào khác cũng không làm những điều hèn hạ, luồn cúi để được danh vọng. Ông viết: “Nước non nào phải của ai đâu,/ Nhiều ít công tư mặc dầu./ Khó chẳng dơ, đường không chẳng lụy” [3;40]. Cũng như Nguyễn Trãi (1380 - 1442), Nguyễn Bỉnh Khiêm nêu cao lí tưởng phấn đấu trở thành “người trung nghĩa” để được người đời trân trọng, được “trời soi tỏ”, đồng thời cảnh báo người đời nếu là “kẻ gian hùng” thì muôn thuở cũng không có đất chôn (Vạn cổ gian hùng vô địa táng,/ Nhất sinh trung nghĩa hữu thiên lâm) [2;205]. Ngoài ra, làm bề tôi trong bất kì hoàn cảnh nào cũng phải giữ trọn đạo “trung cần”. Trung là ngay thẳng, trung thành với vua, với nước; cần là chăm chỉ, siêng năng trong công việc vì dân vì nước. Ông viết: “Chăng hết trung cần hai chữ ấy,/ Mặc nhờ đất rộng, cậy trời cao” [3;84]. Thực hiện “trung cần” phải thể hiện ngay trong việc bày ra kế sách để ổn định đất nước, ở việc xông pha giết giặc để báo đền ơn nước (Diệt tặc do hoài báo quốc trung) [2;237,258]. Với 95 năm tuổi đời, gần 50 năm hành đạo (xét từ khi tham gia hoạt động chính trị và sau đó tiếp tục hoạt động giáo dục), Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thực hiện đạo trung theo quan điểm của mình: Trưởng thành khi triều đại nhà Lê đang trên đà suy vong nhưng ông không tham gia chính trường. Năm ông 37 tuổi, nhà Mạc lật đổ ngôi vua Lê, ông cũng không tỏ thái độ vì nhà Lê mà coi khinh vua Mạc. Sau khi xem xét triều chính nhà Mạc trong 8 năm, ông mới quyết định tự nguyện tham gia triều chính ở chính cái triều đình bị coi là “ngụy” lúc đó. Ông “đã chọn nhà Mạc để phụng sự và đã toàn tâm, toàn ý phụng sự nhà Mạc”, “coi việc đánh giặc để giúp các vua Mạc và cứu dân là đại nghĩa” [6;19-22]. Ngay cả khi nhà Mạc phải đương đầu với sự trỗi dậy của nhà Lê (Trung Hưng), dù già yếu song ông vẫn tỏ rõ trách nhiệm “định kì hạn khôi phục giang sơn cũ”. Do không màng danh lợi nên sau khi hoàn thành công việc, ông lại tìm về quán Trung Tân sống thanh bạch. Chính tấm lòng lo nước thương dân đó đã hình thành nên ở ông tư tưởng tiến bộ về vai trò của người dân, về đạo làm người nhân nghĩa, trung hiếu. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, đạo hiếu - biểu hiện của quan hệ giữa cha và con được coi là “cái tình thân tột độ”. Vì thế, ông xác định trách nhiệm và về phẩm chất đạo đức của cha - con là: “Cha phải từ, con phải hiếu” [2;317]. Để nói lên công ơn sinh thành của cha mẹ và qua đó nhắc nhở cháu con phải có hiếu với cha mẹ, ông thường dùng ca dao, tục ngữ như câu “Nuôi con mới biết lòng cha mẹ”, “Được làm người, nhờ đức cha”,... Một mặt ông yêu cầu “con hằng thảo, kính thờ cha” nhưng mặt khác lại cho rằng cha mẹ phải có trách nhiệm “trồng cây đức để con ăn”, phải “tích đức cho con” [3;110]. Qua bài Tử sự phụ mẫu (“Con thờ cha mẹ”), ông nêu rõ đạo làm con phải thực hiện “trọn đạo” với cha mẹ, cụ thể là: cung kính, tận tâm phụng dưỡng cha mẹ, sớm tối siêng năng chăm sóc, tận tình thăm hỏi, dù cho cha mẹ có giận hờn vẫn “càng kính thuận”, khi được sai khiến công việc chớ nên phàn nàn về sự vất vả của bản thân [3;125]. Có thể ở đây, ông đã 116
- Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về giáo dục đạo đức Nho giáo tiếp thu tư tưởng của Khổng Tử khi đặt nặng trách nhiệm của người con đối với cha mẹ, buộc họ phải thuận theo trong mọi trường hợp (xem Luận ngữ, “Lí nhân” - 18). Dấu ấn đạo đức Nho gia phong kiến vẫn còn đậm nét thể hiện trong bài Khuyến hôn sự công cô (Khuyên nàng dâu thờ cha mẹ chồng) khi ông yêu cầu người con dâu phải nhất nhất chấp hành mọi việc làm, thói quen của nhà chồng, mọi tính yêu ghét của nhà chồng, trong mọi trường hợp đều phải “càng gìn lễ phép”, không được suy nghĩ khác ngay cả khi bị giận hờn, mắng, thương, lúc nào cũng phải nơm nớp đón ý (ưa thích) của mọi người trong gia đình để lựa theo cho vừa lòng [3;128]. Ngoài ra, trong nhiều tác phẩm khác, ông cũng nói lên sự quan tâm của người con đối với cha mẹ. Tuy nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường gắn trách nhiệm gia đình (hiếu) với trách nhiệm xã hội (trung) nên hay nói đến “nghĩa quân thân”, “niềm trung hiếu”. Nguyễn Bỉnh Khiêm lập thân với chí hướng nối nghiệp Nho gia và vì thế, quan niệm và cách thức xử thế của ông về “hiếu” và “trung” vẫn trở nên quen thuộc. Ông nhận thức được rằng chỉ có thể chọn một trong hai con đường: hành đạo hoặc ẩn dật, chứ không thể “cầu đạo được hai”. Và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quyết hành đạo thì cũng có nghĩa là ông hết lòng thực hiện đạo trung hiếu. Ông chủ trương trong từng mối quan hệ xã hội đều phải làm đúng theo chuẩn mực đạo đức của Nho gia, trong đó: “Làm tôi phải trung, làm con phải hiếu”. Đây cũng là cách thực hiện đạo cương thường: “Tôi hết ngay chầu chực chúa,/ Con hằng thảo kính thờ cha” [3;123 - 124]. Quan điểm của ông tỏ ra có tính chất một chiều áp đặt tình cảm và nghĩa vụ của kẻ dưới (con, bề tôi) với người trên (cha, vua/chúa). Ông nêu quan điểm quen thuộc của Nho giáo về quy định trong việc thực hiện trung hiếu là “trung với vua, hiếu với cha” nhưng điểm khác biệt là ở sự lập luận rằng, thực hiện điều đó nghĩa là đã đi vào con đường đúng đắn rồi. Ông viết: “Đi trên mặt phẳng, noi theo đường chính, không lầm lẫn rẽ sang lối khác. Làm việc của mình, đối đãi với người, nghĩ về chỗ đó, ở vào chỗ đó. Thờ cha hết lòng hiếu, thờ vua chớ dối trá” [2;334]. Với những quan niệm trên đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm phong phú thêm nội hàm của “trung” và “hiếu”. Điều có ý nghĩa giáo dục về trung hiếu không phải chỉ ở những quan niệm mà ở chính đời sống thực tiễn, phương cách hành xử, nhân cách và bản lĩnh của mỗi người. Đây mới là điều có giá trị lâu bền cả trong giáo dục cũng như trong quá trình giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Sau Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều trí thức Nho học chân chính đều noi gương ông. 2.2.2. Giáo dục nhân nghĩa Mục đích giáo dục nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là sự phản ánh về thực tại xã hội đưa đẩy con người vào những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức mà còn được thể hiện trong sự cảm thông, chia sẻ với những nỗi khổ sở, vất vả của người dân. Trong bài Giới dĩ phú lăng bần (Răn chớ cậy mình giàu mà áp bức người nghèo), ông nêu lên tình cảm yêu thương người nghèo khổ nhưng biện pháp giải quyết để họ thoát khỏi tình trạng đó lại dựa trên lòng thương xót của kẻ giàu có [3;135]. Ở đây, Nguyễn Bỉnh 117
- Nguyễn Bá Cường Khiêm chưa vượt lên khỏi được ý thức hệ phong kiến mà vẫn chấp nhận trật tự đẳng cấp giàu, nghèo nên ông chỉ kêu gọi, khuyên răn người giàu thương lấy người nghèo khổ theo kiểu ban ơn. Ông cũng hiểu rằng, lòng tham của con người là vô cùng nhưng lại mong muốn những kẻ giàu có hãy bằng tình yêu thương con người để đối xử “nhân nghĩa” hơn đối với người nghèo (“không nỡ” mua rẻ của người nghèo, khi cho vay “xin đừng lấy lãi đau”. . . ). Ông càng nhận thấy khó mà thay đổi được địa vị và thân phận của người nghèo, và kẻ giàu có cũng khó mà thực hiện những điều “nhân nghĩa” nên ông đành đánh vào tận cùng lòng tham của họ - đó là sự nhất thời của giàu sang bất chính (“Giàu ấy hầu toan mới được lâu”) [3;135]. Bằng cách đó, ông hy vọng những điều khuyên răn trên sẽ được thực hiện ở mức độ nhất định và như thế cũng là tốt hơn cho người nghèo. Đây là hạn chế của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện tư tưởng chấp nhận hiện thực, lấy yếu tố tinh thần để thay thế cho điều kiện vật chất. Từ hiện thực xã hội đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm xót xa khi cảm nhận rằng nhân nghĩa ở đời là điều hết sức quý giá nhưng người ta lại coi trọng của cải hơn cả. Ông viết: “Đời này nhân nghĩa tựa vàng mười,/ Có của thì hơn hết mọi lời” [3;77]. Do đó, ông khuyên người đời cần phải thận trọng phòng ngừa kẻ bất nhân, chớ đặt niềm tin vào họ vì những kẻ đó cũng chỉ ham lợi ích vật chất mà không hề có tình nghĩa gì cả (“Tua sá quan phòng kẻ bất nhân./ Thớt có tanh tao ruồi háo miệng,/ Gang không mật mỡ kiến đam thân?”) [3;72]. Tuy nhiên, ông tin tưởng ở kỉ cương làm người (nhân kỷ) và nêu rõ tác dụng của việc giáo dục nhân nghĩa: Từ xưa đến nay, người có lòng nhân được biết đến với sức mạnh vô địch, bởi thế việc gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh (Cổ lai nhân giả tri vô địch,/Hà tất khu khu sự chiến tranh) [2;218]. Do đó, ông chủ trương giáo dục lòng nhân theo cách “lấy lòng nhân mà đánh kẻ bất nhân” [2;306]. Nguyễn Bỉnh Khiêm tin rằng con người và thế vận không thể bế tắc khi mà đường lối giáo dục nhân nghĩa được thực hiện: “Đầu mối của đạo nhân từ đó mà rút ra,/ Tột độ của trị bình tới đó là đứng vững” (Nhân đoan thị sở suy,/ Chí trị thị sở chỉ) [2;320]. Tình yêu thương con người của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ ở sự khoan dung, độ lượng. Ông còn tiến xa hơn trong tư tưởng về con người khi nêu quan điểm cần phải tôn trọng và tạo điều kiện để thế hệ sau phát triển bởi trong bản thân họ đã chứa đựng mầm mống vươn lên khẳng định sức mạnh của mình (“Dù thấy hậu sinh thời chớ dể,/ Sừng kia chẳng mọc, mọc hơn tai”) [3;49]. Có thể khẳng định nhân nghĩa ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là hướng con người vào những điều chính nghĩa (“trung chính”, “chí thiện”), là tình yêu thương con người mà rộng nhất là yêu dân, yêu người lao động. Nhân nghĩa còn là cơ sở của nhiều phẩm chất đạo đức và giá trị nhân văn khác. Mặc dù nhận thức được nguyên nhân vật chất tác động đến việc thực hiện nhân nghĩa nhưng ông vẫn chủ yếu dựa vào ý chí đạo đức để kêu gọi người ta thực hiện tình yêu thương con người. Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra một số quan điểm có tính chất gợi ý, khuyên răn mọi người suy nghĩ và hành động theo nhân nghĩa. Chẳng hạn, ông khuyên nên sáng suốt chọn chỗ ở phải là nơi có nhiều người tốt (“nhân”) để có được cuộc sống yên vui, đầm ấm với 118
- Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về giáo dục đạo đức Nho giáo láng giềng [2;209]. Hoặc trong Giới sùng Phật vô ích (Răn thờ Phật vô ích), Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm cần tin vào chính con người và cho rằng tất cả là do sức mạnh (trí khôn) của con người mà thôi. Từ nhận định: “Suy lí cho cùng Phật ấy ta”, ông khuyên con người cần phải tu dưỡng bản thân để trở nên hiền lành, chớ dối trá, chớ đặt điều mê tín mà cần theo triết lí: sống hiền lành thì mới hay gặp đất tốt, còn sống ác thì tuy có tìm được đất tốt nhưng vẫn phải lo âu (“Phúc địa chi cho kẻ cưỡng cầu,/ Được chăng dun dủi bởi cơ mầu./ Ở lành chẳng rắp hay nên gặp,/ Nẻo dữ tuy tìm lại phải âu”) [3;136]. Nguyễn Bỉnh Khiêm nêu lên phương pháp tư duy thực tế dựa trên chính điều kiện sống (làng, xã), tin vào bản thân, không ảo tưởng và bằng chính hành động (cách sống, cách đối xử) để tạo dựng cho cuộc sống của mỗi người. Chính điểm này, ông đã vượt lên được những giáo điều, bảo thủ của Nho giáo, biểu hiện quan điểm thực tế khi suy nghĩ và hành động. Như vậy, trong nội dung giáo dục nhân nghĩa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không chỉ nhấn mạnh giáo dục tình yêu thương con người mà còn chỉ ra phương pháp tư duy và hành động dựa trên nền tảng nhân nghĩa. Qua quan niệm của ông, tính nhân văn và chiều sâu tư tưởng được bổ sung vào Nho giáo, góp phần hình thành và phát triển bản sắc dân tộc dựa trên cơ sở của nhân nghĩa. Cùng với nội dung giáo dục nhân nghĩa, ông cũng chú trọng giáo dục trung hiếu để nhằm đào tạo con người theo những phẩm chất đạo đức của Nho gia. Nội dung cơ bản trong giáo dục nhân nghĩa được ông chú trọng là tình yêu thương con người và coi đó là nền tảng tư duy, hành động của con người. Đây là đặc điểm của “nhân nghĩa” Đại Việt được Nguyễn Trãi vận dụng và phát huy ở thế kỉ XV. Mặc dù tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở tình yêu thương con người mà trước hết hướng về người nghèo khổ nhưng ông chưa đưa ra được biện pháp thực tế để thi hành tư tưởng nhân nghĩa nhằm mang lại cuộc sống ấm no, yên bình cho người dân. Ông mới chỉ dừng lại ở sự kêu gọi, khuyên răn và cổ vũ lí tưởng nhân nghĩa trong giai cấp cầm quyền. Xét theo quan điểm lịch sử cụ thể, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã có tác dụng tích cực đối với đương thời. 3. Kết luận Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tư tưởng lỗi lạc ở Việt Nam thế kỉ XVI. Ông không chỉ thực hành đạo Nho thông qua hoạt động chính trị mà còn dành nhiều tâm sức đào tạo nhiều nhân tài trở thành trụ cột cho các chính quyền Mạc, Lê - Trịnh. Ông dạy học là để truyền thụ cái chí hướng dựng nước, cứu đời. Mặc dù được coi là nhà Lí học, song ông không giảng dạy những vấn đề có tính chất cao siêu mà trực tiếp bàn về đời sống thực tiễn của xã hội đương thời [7;246 - 261]. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng về giáo dục Nho giáo gắn liền với lí tưởng xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất và chấn hưng xã hội. Ngày nay trong xã hội, nhất là ở những nước phát triển kinh tế thị trường, xã hội công nghiệp - dịch vụ, đang có những biểu hiện của việc xuống cấp đạo đức trong gia đình và xã hội, chẳng hạn con cái bất hiếu với cha mẹ, bề dưới bất kính với bề trên, sự bất tín (trung) trong công việc, sự thờ ơ lãnh cảm trước những việc làm “nhân nghĩa”, sự thờ ơ 119
- Nguyễn Bá Cường trước vận mệnh dân tộc, trước tập thể, trước số phận người khác,. . . Điều đó khiến cho xã hội ngày càng trở nên bất ổn, bất toàn; hiệu quả kinh tế xã hội của nguồn nhân lực giảm sút. Vì vậy, nội dung giáo dục đạo đức Nho giáo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn nguyên giá trị thời sự, vẫn có tác dụng điều hoà, quản lí xã hội theo khuynh hướng tích cực nếu chúng ta biết gạn lọc những hạt nhân hợp lí, nhân văn của nó. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Quang Đạm, 1999. Nho giáo xưa và nay. Nxb Văn hóa - Thông tin. [2] Đinh Gia Khánh chủ biên, 1983. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nxb Văn học, Hà Nội. [3] Bùi Văn Nguyên, 1989. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tập một - Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Nxb Giáo dục, Hà Nội. [4] Nguyễn Tài Thư chủ biên, 1993. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [5] Tổng tập văn học Việt Nam, tập 6. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977. [6] Viện Khoa học xã hội - Sở Văn hoá thông tin Thành phố Hồ Chí Minh, 1991. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hoá dân tộc. Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, Tp. Hồ Chí Minh. [7] Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam - Viện Harvard - Yenching Hoa Kỳ, 2009. Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nxb Thế giới, Hà Nội. ABSTRACT Nguyen Binh Khiem’s thouhg of confucian ethical education Nguyen Binh Khiem (1491–1585) was a great Vietnamese great thinker in the Middle Ages. His thinking was a combination of Confusianism, original cultural thought, his own experiences and his age. The ethics of Confucianism was a important content in Nguyen Binh Khiem’s Thinking system. It was the effect of an accumulation, meditation and process of applying Confucian in Vietnam. This article will clarify Nguyen Binh Khiem’ thoughs on the educational role of Confucianism as well as the ethical contents of Confucianism. This article confirms his dedications to ethical philosophy, the development of Confucian thought in Vietnam, and this article wants to clearly indicate the lessons of citizen ethical education in society today. 120
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn