48<br />
<br />
CHUYÊN MỤC<br />
<br />
VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC - NGHIÊN CỨU VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT<br />
<br />
TƯ TƯỞNG VÀ THẨM MỸ TRONG HỆ THỐNG CẤU TRÚC<br />
HÌNH TƯỢNG NHẬT KÝ TRONG TÙ CỦA HỒ CHÍ MINH<br />
HOÀNG TRỌNG QUYỀN<br />
<br />
Nhật ký trong tù là một tác phẩm văn học quí giá, là bảo vật(1) quốc gia của Việt Nam.<br />
Tính tư tưởng và thẩm mỹ trong cấu trúc hình tượng Nhật ký trong tù là một phương<br />
diện quan trọng và độc đáo góp phần làm nên ý nghĩa và giá trị của tập thơ. Đó là cấu<br />
trúc của một thế giới nghệ thuật đa dạng, phong phú nhưng luôn thống nhất, thể hiện<br />
ở sự phối kết các mảng, khối, các bình diện trong sự vận hành với sự chỉ đạo của cái<br />
nhìn nghệ thuật và cách mạng của người nghệ sĩ bậc thầy theo xu hướng vượt lên<br />
thực tại gian nan, khó khăn, hướng về niềm vui, ánh sáng và tương lai. Những đặc<br />
điểm và giá trị đó có ý nghĩa và tác dụng lớn đối với nhận thức của người đọc ở nhiều<br />
phương diện, đặc biệt là trong việc học tập tấm gương đạo đức và tư tưởng Hồ Chí<br />
Minh.<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Tìm hiểu, nghiên cứu sâu thêm về tư<br />
tưởng Hồ Chí Minh qua di sản văn<br />
chương của Người là một góc tiếp cận<br />
khác về Hồ Chí Minh. Với Nhật ký trong<br />
tù, tác phẩm gồm 134 thi phẩm, vừa có<br />
tính chất ký, vừa có tính chất thơ, lại<br />
được viết trong cảnh ngộ lao tù (dưới<br />
chế độ Tưởng Giới Thạch, Trung Quốc,<br />
từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943), lại<br />
càng có ý nghĩa bởi hoàn cảnh đặc biệt<br />
của nó. Tác phẩm này đã thể hiện con<br />
Hoàng Trọng Quyền. Tiến sĩ. Trường Đại học<br />
Thủ Dầu Một.<br />
<br />
người Hồ Chí Minh khá đầy đủ, đa dạng,<br />
toàn vẹn, cụ thể và xác thực hơn bất cứ<br />
tác phẩm nào của Người, cả về lý tưởng<br />
và đời thường, trí tuệ và tâm hồn, tư<br />
tưởng và nghị lực, nhân cách và ứng xử,<br />
đau khổ và hạnh phúc… Ở đây, tấm<br />
gương Hồ Chí Minh hiển hiện vô cùng<br />
sinh động và thuyết phục. Soi vào đấy,<br />
chúng ta không chỉ thương nhớ, khâm<br />
phục, trân trọng Hồ Chí Minh nhiều hơn,<br />
mà còn học tập và làm theo Người được<br />
tốt hơn, như Thủ tướng Phạm Văn Đồng<br />
từng nói: “Tập thơ Nhật ký trong tù của<br />
Hồ Chí Minh là một kho tàng về biết bao<br />
khía cạnh của cuộc đời, con người và<br />
<br />
HOÀNG TRỌNG QUYỀN – TƯ TƯỞNG VÀ THẨM MỸ TRONG HỆ THỐNG…<br />
<br />
nghệ thuật mà sự phong phú còn cần<br />
được nghiên cứu” (Nhiều tác giả, 1997,<br />
tr. 11). Bài viết này của chúng tôi hướng<br />
đến mục tiêu tìm hiểu thêm về sự “phong<br />
phú” đó.<br />
2. CẤU TRÚC THẨM MỸ ĐA THANH, ĐA<br />
TRỊ CỦA NHẬT KÝ TRONG TÙ<br />
2.1. Thế giới nghệ thuật đa dạng - thống<br />
nhất<br />
Toàn bộ tác phẩm Nhật ký trong tù là<br />
một thế giới nghệ thuật thống nhất. Các<br />
bài thơ có những cấu trúc thẩm mỹ riêng,<br />
nhưng tất cả đều thống nhất với nhau<br />
trong một hệ thống thẩm mỹ của cả tập<br />
thơ. Cái làm nên sự gắn kết, hài hòa; sự<br />
liên kết chặt chẽ giữa những thi phẩm<br />
ghi lại những sự vật, tâm trạng, cảm nghĩ<br />
ở những thời khắc, không gian, địa điểm,<br />
cảnh ngộ…, hoàn toàn khác nhau chính<br />
là sự đa dạng, phong phú nhưng toàn<br />
vẹn và thống nhất trong tư tưởng, tâm<br />
hồn, nhân cách Hồ Chí Minh. Nhờ vậy<br />
mà mỗi thi phẩm không phải là những lát<br />
cắt đơn lẻ, tách rời, biệt lập với những thi<br />
phẩm khác mà là một tiểu hệ, phân hệ<br />
nằm trong hệ thống lớn của cả tập thơ.<br />
Tính đa dạng, phong phú nhưng thống<br />
nhất còn thể hiện ở chỗ tập thơ như một<br />
sinh thể sống động. Cấu trúc tác phẩm<br />
không phải là một đường tuyến tính đơn<br />
nhất, đơn điệu, mà phức điệu, đa chiều<br />
kích và tầng bậc. Trong đó, cấu trúc trục<br />
dọc bất biến là tư tưởng, ý chí, nghị lực<br />
Kiên trì và nhẫn nại/ Không chịu lùi một<br />
phân/ Vật chất tuy đau khổ/ Không nao<br />
núng tinh thần(1); là tâm hồn thanh cao,<br />
giàu lòng nhân ái; phong thái ung dung,<br />
trí tuệ siêu việt và độ mẫn cảm tinh tế,<br />
sâu sắc của Hồ Chí Minh. Trục dọc này<br />
hiển lộ qua các trục ngang là những thi<br />
<br />
49<br />
<br />
phẩm cụ thể, mỗi thi phẩm có đặc trưng<br />
riêng, sức hấp dẫn riêng. Hệ quả là trong<br />
thi pháp cấu trúc của hệ thống thẩm mỹ<br />
Nhật ký trong tù, sự vận động nội tại của<br />
các yếu tố ở từng thi phẩm có sự lặp lại<br />
trong tính đặc thù, biến hóa, phát triển; là<br />
một phân hệ quan trọng tạo cho tác<br />
phẩm những chiều kích sâu rộng mới<br />
của tư tưởng và nghệ thuật. Sự lặp lại<br />
trước hết được thể hiện ở các mô típ đề<br />
tài: những cuộc chuyển lao, cảnh trên<br />
đường bị giải đi, chuyện ăn uống, ngủ,<br />
bóng tối và ánh sáng, hiện tại và tương<br />
lai, khao khát tự do, sự bất bình, chất<br />
trào lộng, thiên nhiên và con người…<br />
Các mô típ được đan cài, có yếu tố lặp<br />
lại, có yếu tố phát triển và thay đổi, vừa<br />
tạo nên sự đa dạng, phong phú, linh hoạt<br />
và uyển chuyển, vừa khẳng định tính<br />
thống nhất biện chứng của sự vững chãi,<br />
chắc chắn, bất biến. Cái lõi xuyên suốt,<br />
kết dính tạo tính thống nhất là tư tưởng,<br />
phương châm và tâm thế “dĩ bất biến<br />
ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh.<br />
Do vậy, các đề tài và bút pháp của các<br />
thi phẩm trong Nhật ký trong tù phong<br />
phú, đa dạng và rất khác nhau, chẳng<br />
hạn như lời đề từ có tính chất tuyên<br />
ngôn với giọng điệu khảng khái, rắn rỏi,<br />
kiên định ở trang bìa bài thơ: Thân thể ở<br />
trong lao,/ Tinh thần ở ngoài lao; lời miêu<br />
tả thực trạng phòng giam Rệp bò lổm<br />
ngổm như xe cóc; lời thuật cảnh cơm tù<br />
Xót lòng mỗi bữa lưng cơm đỏ, cái nhìn<br />
vũ trụ Phương Đông màu trắng chuyển<br />
sang hồng trong đêm bị chuyển lao khi<br />
Gà gáy một lần đêm chửa tan… Nếu<br />
nhìn qua thì dường như chúng chẳng có<br />
mối liên kết nào cả, thế nhưng, tất cả<br />
chúng đều có sự gắn kết mật thiết mà<br />
<br />
50<br />
<br />
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 2 (198) 2015<br />
<br />
nguồn cội của góc nhìn, lời thuật, điệu tả<br />
chính là ý chí cách mạng và tâm hồn sâu<br />
sắc, nhạy cảm và nhân ái của Hồ Chí<br />
Minh. Đại thi hào Nguyễn Du viết Kiến thi<br />
như kiến nhân (Thấy thơ như thấy người<br />
– Đề Vi, Lư tập hậu (Trung tâm Nghiên<br />
cứu Quốc học, 1996, tr. 366). Lưu Hiệp<br />
(1999, tr. 274) cũng khẳng định: Đời xa<br />
không ai thấy mặt nhà văn nhưng xem<br />
văn liền thấy lòng của họ. Nhật ký trong<br />
tù của Hồ Chí Minh cũng phản ánh chân<br />
thật chân dung của Người.<br />
<br />
phần lớn tập thơ, rõ nhất là ở các bài:<br />
Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây, Buổi sớm,<br />
Quá trưa, Chiều tối, Mới đến nhà lao<br />
Thiên Bảo, Giải đi sớm…<br />
<br />
2.2. Mạch vận hành động của kết cấu<br />
hình tượng<br />
Hình tượng thơ ở từng thi phẩm và ở cả<br />
tập thơ động chứ không tĩnh, chuyển<br />
chứ không tụ. Mạch vận hành trong cấu<br />
trúc nội tại là sự tương tác, đấu tranh<br />
giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ngục tù<br />
và tự do, giữa cam chịu và vượt thoát,<br />
giữa hiện tại và tương lai mà chiến thắng<br />
bao giờ cũng thuộc về ngày mai, tự do<br />
và ánh sáng. Trong khi ở thơ cổ không<br />
có sự vận hành này, kết cấu bài thơ cổ<br />
thường tĩnh chứ không động, điểm chứ<br />
không phải quá trình. Mạch vận hành<br />
của hình tượng thơ Nhật ký trong tù thể<br />
hiện trong không gian - thời gian nghệ<br />
thuật vận động và phát triển. Không gian<br />
- thời gian lưỡng trị và vận hành theo<br />
hướng (từ… đến): từ chật hẹp, tù túng<br />
đến rộng rãi, khoáng đạt; từ xiềng xích<br />
đến tự do; từ không đến có; từ tăm tối<br />
đến ánh sáng; từ lạnh giá sang ấm nóng;<br />
từ hiện tại đến tương lai. Nhìn chung,<br />
không gian - thời gian nghệ thuật của<br />
Nhật ký trong tù là không gian - thời gian<br />
vượt thoát chứ không phải là không gian<br />
tĩnh lặng hay hồi cố như trong phần lớn<br />
các bài Đường cổ thi. Điều đó thể hiện ở<br />
<br />
2.3. Con người chủ thể trong thiên nhiên<br />
và ngoại cảnh<br />
Nhật ký trong tù cũng có thiên nhiên mỹ<br />
như trong cổ thi chữ Hán của Trung<br />
Quốc và Việt Nam. Thế nhưng, vị thế<br />
con người, quan hệ giữa con người và<br />
thiên nhiên ở Nhật ký trong tù và cổ thi<br />
khác nhau. Đó là, con người trong cổ thi<br />
thường là con người vũ trụ, con người<br />
hài hòa với thiên nhiên nhưng bị động và<br />
tan thấm trong thiên nhiên mỹ; nhiều khi<br />
con người do bất đắc chí với thời cuộc,<br />
chính sự, nên trốn chạy vào thiên nhiên,<br />
ẩn mình trong thiên nhiên hoặc nhằm<br />
lánh xa cõi tục hoặc để lãng quên thế sự.<br />
Còn con người chủ thể trữ tình mang<br />
tính quan niệm, tinh thần và tư tưởng ở<br />
Nhật ký trong tù là con người chủ động,<br />
con người hài kết với thiên nhiên, yêu<br />
thiên nhiên, trân trọng và nâng niu thiên<br />
nhiên nhưng không thụ động trước thiên<br />
nhiên; không bị tan thấm, mất hút trong<br />
thiên nhiên.<br />
Trong văn học trung đại, con người trong<br />
thơ trữ tình thường buồn vui theo thế<br />
thái nhân tình, và chủ yếu những người<br />
sáng tác thơ là các nho sĩ, quan chức<br />
nên sự buồn vui luôn gắn với thế sự,<br />
triều chính và mệnh quan của mình. Do<br />
vậy mà lúc gặp vận tốt thì tiếng thơ vui,<br />
khi gặp vận xấu thì giọng thơ buồn và<br />
nhà thơ tìm đến thiên nhiên để giãi bày<br />
nỗi niềm cùng trăng hoa cây cỏ. Đỗ Phủ<br />
buồn thế cuộc và thân phận thì Đăng cao,<br />
thả nỗi sầu vào vũ trụ. Bạch Cư Dị thất<br />
thế thì bộc lộ sầu đau trong tiếng đàn tì<br />
<br />
HOÀNG TRỌNG QUYỀN – TƯ TƯỞNG VÀ THẨM MỸ TRONG HỆ THỐNG…<br />
<br />
bà âm vang trường hận. Thi Tiên(2) Lý<br />
Bạch đắm say trăng, từng uống rượu chỉ<br />
với bóng của mình và trăng: Cử bôi yêu<br />
minh nguyệt,/ Đối ảnh thành tam nhân<br />
(Nâng chén mời trăng sáng; Trước bóng<br />
ta nữa thành ra ba người) (Lê Nguyên<br />
Lưu, 1997, tr. 412). Khi Thi tiên chán<br />
cảnh tù túng và phàm tục nơi cung điện<br />
thì giã biệt triều đình không chút luyến<br />
tiếc để ra đi ngao du sơn thủy, luyện đan<br />
múa kiếm và thả hồn vào thiên nhiên vũ<br />
trụ trong tâm trạng của một vị Trích tiên(3)<br />
(vị tiên bị đày xuống trần gian)... Nguyễn<br />
Trãi bị bọn xấu gièm pha, mưu hại thì<br />
Giũ bụi lầm để đến với tùng lâm. Nguyễn<br />
Bỉnh Khiêm sau khi dâng sớ chém bọn<br />
lộng thần nhưng không được vua nhà<br />
Mạc chuẩn tấu, đã lặng lẽ cáo quan về<br />
với mai, cuốc, cần câu, vui trong cuộc<br />
sống đạm bạc nơi vắng vẻ mà lánh xa<br />
chốn lao xao: Một mai, một cuốc, một<br />
cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào/ Ta<br />
dại, ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn,<br />
người đến chốn lao xao (Nhàn). Nguyễn<br />
Khuyến trong giai đoạn bất đắc chí cũng<br />
cáo quan về ở ẩn và tìm đến với thiên<br />
nhiên, chìm đắm với những hoa năm<br />
ngoái, ngõ trúc quanh co, ao thu lạnh lẽo,<br />
ngõ tối đêm sâu...<br />
Nhưng với Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh<br />
đã thể hiện một vị thế mới của con người<br />
trong quan hệ với thiên nhiên. Đó là con<br />
người chủ thể và trung tâm. Ở đó, con<br />
người không còn thuần toàn, nhất phiến<br />
và luôn là hệ quả của hoàn cảnh nữa,<br />
mà đã có sự đan xen của tinh thần và<br />
thể xác, cơ thể và tư tưởng, tình cảm,<br />
hành động và tâm lý... Đặc biệt, quan<br />
niệm và cái nhìn nghệ thuật của tác giả<br />
tập thơ được thể hiện không phải trong<br />
<br />
51<br />
<br />
những triết luận thiên về lý thuyết mà là<br />
trong những cảnh ngộ xác thực. Do vậy,<br />
sức thuyết phục của từng bài thơ và cả<br />
tập thơ rất cao. Bài thơ đề từ là ví dụ tiêu<br />
biểu và có ý nghĩa chủ đạo cho cả tập<br />
thơ. Ở đây, con người tư tưởng đã vượt<br />
thoát lên con người thân thể để hoàn<br />
toàn chủ động và sáng suốt mổ xẻ, phân<br />
tích trạng huống của chính mình trong<br />
cái nhìn đối lập thân thể - tinh thần, trong<br />
lao - ngoài lao và khẳng định Muốn nên<br />
sự nghiệp lớn thì Tinh thần càng phải<br />
cao.<br />
Con người là chủ thể không chỉ được thể<br />
hiện trong mối quan hệ giữa con người<br />
với thiên nhiên, vũ trụ, ngoại cảnh mà<br />
còn trong mối quan hệ với chính mình.<br />
Con người là chủ thể khi phần người<br />
vượt qua, vượt lên phần con trong việc<br />
quên nỗi đau riêng mà hướng đến tha<br />
nhân để thương xót, cảm thông, sẻ chia<br />
và an ủi. Điều đó được thể hiện ở nhiều<br />
bài thơ, tiêu biểu như các bài Chiều tối,<br />
Ốm nặng, Bốn tháng rồi, Một người tù cờ<br />
bạc vừa chết, Vợ người bạn tù đến thăm<br />
chồng...<br />
Con người chủ thể đã vượt qua cảnh<br />
ngộ thực bi thảm của bản thân để hướng<br />
đến vạn vật, tìm trong đó những ý nghĩa<br />
triết học, nhân sinh mới mẻ và tích cực.<br />
Ngay trong cảnh ngộ bị trói treo ngược<br />
và giải đi bằng thuyền, Hồ Chí Minh vẫn<br />
vẽ nên bức tranh lãng mạn và trữ tình:<br />
Làng xóm ven sông đông đúc thế,/<br />
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh<br />
(Đáp thuyền đi huyện Ung Ninh); Người<br />
rút ra bài học giáo dục sâu sắc từ việc<br />
giã gạo vốn quá đỗi thường tình; nhìn cột<br />
cây số, nghe tiếng gà gáy, cảm nhận về<br />
cái răng rụng hay chiếc gậy bị lính ngục<br />
<br />
52<br />
<br />
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI soá 2 (198) 2015<br />
<br />
lấy cắp với những chiêm nghiệm và triết<br />
luận đầy tính nhân văn. Người nghe thấy<br />
và cảm nhận niềm vui từ tiếng chim oanh<br />
hót xóm gần như là tín hiệu vui, là ánh<br />
sáng ấm áp giữa bối cảnh đen tối vì bị<br />
giải đi suốt ngày, đói khát và đêm về thì<br />
bị xiềng gông với rét, rệp xông vào đánh.<br />
<br />
nghệ sĩ ở trong người chiến sĩ chứ<br />
không phải người chiến sĩ ở trong người<br />
nghệ sĩ. Con người trong Nhật ký trong<br />
tù là trung tâm của mọi bức tranh, con<br />
người cô độc nhưng không cô đơn, lấy<br />
tương lai vượt lên thực tại; vì tha nhân,<br />
vì Tổ quốc mà chiến thắng chính mình;<br />
tìm thấy niềm vui ngay trong đau khổ, lấy<br />
nước mắt đau tạo lửa nụ cười.<br />
<br />
Đặc biệt là con người chủ thể luôn<br />
hướng đến tự do, ánh sáng và tương lai<br />
thông qua nhiều hình thức và bút pháp<br />
nghệ thuật khác nhau. Một mặt, thể hiện<br />
qua các từ tự do, ánh sáng, ngày mai,<br />
tương lai, màu hồng, ngày xuân..., được<br />
nhắc đến trực tiếp. Mặt khác, thể hiện<br />
trong chiều hướng vận hành của cấu trúc<br />
thẩm mỹ các bài thơ từ buồn sang vui, từ<br />
tối sang sáng, từ lạnh sang ấm nóng. Bài<br />
Chiều tối là một minh chứng. Trong bài<br />
thơ này, con người làm chủ bản thân,<br />
con người tư tưởng hội xung phong<br />
không bị ngoại cảnh thực u tối, thê lương<br />
nào đó kéo mình vào, tác động theo<br />
chiều hướng yếm thế, hay bị thất thế bởi<br />
những xúc cảm của thân thể, mà vượt<br />
lên và chủ động chuyển cái nhìn từ ngoại<br />
cảnh tối sang sáng, lạnh sang ấm nóng:<br />
chuyển từ quyện điểu (chim mỏi mệt), cô<br />
vân (đám mây cô độc) sang sơn thôn<br />
thiếu nữ (thiếu nữ xóm núi); chuyển từ<br />
tầm túc thụ (tìm cây ngủ) chậm buồn<br />
sang ma bao túc (đang xay ngô) năng<br />
động; chuyển từ mộ (chiều tối u ám)<br />
sang lô dĩ hồng (lò than đã đỏ) ấm áp,<br />
nồng đượm và rực sáng.<br />
Với Hồ Chí Minh, trăng, hoa là bạn<br />
nhưng con người luôn ở vị trí trung tâm<br />
của hình tượng, chủ thể của thiên nhiên<br />
và mọi trạng huống của cuộc sống;<br />
người nghệ sĩ và người chiến sĩ cùng có<br />
mặt trong hình tượng thơ, nhưng người<br />
<br />
2.4. Cấu trúc thẩm mỹ mở của bài thơ,<br />
câu thơ<br />
Phần lớn thi phẩm của Nhật ký trong tù<br />
là thơ tứ tuyệt, một thể thơ Đường luật<br />
cổ tiêu biểu. Cùng với đặc điểm ấy là<br />
những hình ảnh khá quen thuộc trong<br />
Đường thi như áng mây chiều, trăng,<br />
cánh chim, rặng núi, dòng sông…, thể<br />
hiện qua bút pháp gợi, chấm phá đan<br />
xen với miêu tả tạo nên được thần thái<br />
bức tranh. Đây chính là một trong những<br />
lý do làm cho Nhật ký trong tù có chất<br />
Đường thi, nhất là những bài trữ tình,<br />
vịnh cảnh. Tuy nhiên, sự khác biệt trong<br />
kết cấu của các thi phẩm trong Nhật ký<br />
trong tù so với Đường thi là kết cấu mở<br />
chứ không đóng qua câu kết thường<br />
biến đổi bất ngờ; hướng về tự do, niềm<br />
vui, ánh sáng. Các hình ảnh trong một<br />
bài thơ Đường thường có chung tín hiệu<br />
thẩm mỹ và tình điệu, nhưng trong Nhật<br />
ký trong tù, nhiều khi tương phản, khác<br />
biệt.<br />
Ví dụ: Bài Hoàng hôn của Hồ Chí Minh<br />
trong đối sánh với bài Cảnh chiều hôm<br />
của Bà Huyện Thanh Quan:<br />
- Bài Cảnh chiều hôm của Bà Huyện<br />
Thanh Quan có cấu trúc đồng tâm, tình<br />
điệu chung của các câu thơ là buồn, tối,<br />
chia ly, cô lẻ, sầu thương: Trời chiều<br />
<br />