TƯ TƯỞNG VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY HIỆN NAY<br />
TỪ MỘT GÓC NHÌN<br />
Trần Hương Thư<br />
<br />
Tư tưởng văn hóa phương Tây hiện nay rất phong phú và phức tạp.<br />
Tuy nhiên, tùy theo từng góc nhìn khác nhau mà người ta có thể khái<br />
quát nên những đặc điểm khác nhau của nó. Theo tác giả bài viết này, thì<br />
những nét lớn của tư tưởng văn hóa phương Tây hiện nay là ở chỗ xuất<br />
hiện sự hoài nghi với chính khoa học: Khoa học hiện có còn khoa học<br />
không?, sự gặp gỡ giữa khoa học thực nghiệm và khoa học nhân văn; sự<br />
gắn bó chặt chẽ giữa khoa học và đạo đức (như vấn đề nhân bản vô tính),<br />
xu hướng tôn giáo cá nhân, tâm linh...<br />
<br />
Kỳ vọng, từ nhiều góc nhìn, bạn đọc có thể thấy và trao đổi về những<br />
đặc điểm khác của văn hóa phương Tây hiện nay.<br />
<br />
Điểm nổi bật trước tiên là một Khuynh hướng muốn xóa bỏ ranh giới<br />
giữa những cái được gọi là khoa học chính xác như: vật lý, hóa học, sinh học,<br />
toán học… với những cái được gọi là khoa học nhân văn như sử học, ngôn<br />
ngữ học, tâm lý học… Trong khuynh hướng này có thể kể đến nhà toán học<br />
Pháp René Thom, nhà hóa vật lý Bỉ Ilya Prigogine, hoặc nhà khoa học cha đẻ<br />
của trí thông minh nhân tạo người Mỹ Marvin Minsky… Dĩ nhiên ở các thế<br />
kỷ trước, ta vẫn thấy có những nhà khoa học vừa là triết gia như Thalès,<br />
Descartes, Leibniz…, nhưng đó là một Descartes triết gia và một Descartes<br />
toán học gia với hai phạm trù nghiên cứu riêng biệt nhau. Trong khi đó, một<br />
số nhà khoa học của thế kỷ XX muốn ứng dụng các lý thuyết khoa học chính<br />
của họ vào các lĩnh vực nghiên cứu nhân văn; nhà khoa học trở thành nhà tư<br />
tưởng bằng chính những nghiên cứu khoa học của mình. Hoặc trong một<br />
nghĩa nào đó, nó phù hợp với điều mà nhà sinh thái học người Anh James<br />
Lovelock đã nói: "Các nhà khoa học gia, các nhà vật lý, nhà hóa học chính là<br />
những nhà sáng tạo, giống như các nhà văn" (1). Đó phải chăng là một thứ<br />
triết học của nhà kỹ thuật (Philosophie d'ingénieur)? Dù sao, không vì thế mà<br />
triết học đó giảm đi giá trị tư tưởng của nó. Nhà toán học đồng thời là nhà tư<br />
tưởng theo thuyết quyết định (déterminisme) René Thom đã đưa ra lý thuyết<br />
về tai biến (Théorie des Catastrophes) với tham vọng áp dụng những định lý<br />
toán học để giải thích những hiện tượng tự nhiên. Thí dụ ông đã áp dụng lý<br />
thuyết này để lý giải hiện trạng của các đường biên giới, có nghĩa là xác minh<br />
một vấn đề lịch sử bằng mô thức hình học. Hoặc trên cơ sở hệ động lực không<br />
ổn định, một khái niệm ngược hẳn với vật lý cổ điển khi cho rằng vũ trụ là<br />
một tập hợp những thực thể ổn định như chiếc đồng hồ đã được điều chỉnh<br />
vĩnh viễn một lần, nhà khoa học Ilya Prigogine đã đưa ra lý thuyết về những<br />
"cấu trúc tiêu hao" (les structures dissigatives) trong nhiệt động học: từ tình<br />
trạng mất thăng bằng của vật chất đi đến một trật tự với sự tiêu hao nhiều<br />
năng lượng. Prigogine khẳng định: "Khái niệm về tính không ổn định này trở<br />
thành cơ bản cho sự hiểu biết về những định luật lớn trong vật lý" (2). Ông đã<br />
phát triển khái niệm đó trong nhiều lĩnh vực khác nhau như xã hội học, sinh<br />
học, kinh tế học, khí tượng học, cả trong lĩnh vực qui hoạch đô thị nữa. Thí<br />
dụ: với khái niệm "hiệu ứng cánh bướm" (l'effet papillon), Prigogine đã đưa<br />
ra một minh họa gây ấn tượng: một cái đập cánh của con bướm ở Bắc Kinh có<br />
thể gây nên một làn gió nhẹ, rồi dần dà sẽ tạo nên một cơn bão dữ dội ở<br />
California! Đó là một dẫn chứng về tính không ổn định và ngẫu nhiên trong<br />
khí tượng học. Và điều đó giải thích tại sao trong lĩnh vực này, người ta khó<br />
dự báo về tình hình khí tượng một cách chính xác trong một thời gian xa, bởi<br />
vì nó lệ thuộc vào hệ động lực không ổn định. Trong kinh tế học cũng vậy:<br />
một sự giao dịch kém quan trọng ở thị trường chứng khoán Tokyo vẫn có thể<br />
dẫn đến sự sụp đổ tài chính ở New York. Vậy thì sự sụp đổ tài chính tháng<br />
mười 1987 chẳng hạn, theo Prigogine cũng thuộc về "hiệu ứng cánh bướm":<br />
nó không thể được dự kiến một cách xác định. Nền kinh tế nói chung, theo<br />
ông cũng vận hành trên mô thức đó: từ một toàn bộ những hoạt động cá nhân<br />
rối rắm nảy sinh trật tự xã hội và tiến triển kinh tế, nhưng để đạt đến tình<br />
trạng trên, nó phải trải qua nhiều sự biến động với sự tiêu hao nhiều nguồn<br />
năng lượng.<br />
<br />
Hệ thống Prigogine dựa trên tính không ổn định phản ánh một nghịch lý<br />
lạ thường của phương Tây hiện nay, đó là sự mất niềm tin vào khả năng vô<br />
hạn của khoa học; và nói như nhà khoa học cha đẻ của trí thông minh nhân<br />
tạo Marvin Minsky thì bộ óc con người không được tạo ra để hiểu biết vũ trụ,<br />
mà là để thực hiện những chức năng hoàn toàn khác.Nhưng thực tế cho thấy,<br />
chỉ trong vài thập kỷ vừa qua, khoa học đã có những bước tiến vượt bậc như<br />
đi hia bảy dặm, chưa từng thấy trong các thế kỷ đã qua, thể hiện trong mọi<br />
lĩnh vực như sinh học, cơ học lượng tử, tin học, y học…, sao lại có thể tồn tại<br />
quan niệm đó? Điều lạ thường nữa là ngay những nhà khoa học có tư tưởng<br />
đối nghịch hẳn với Prigogine, như René Thom chẳng hạn, cũng cho rằng khoa<br />
học đã hỏng máy từ lâu. Khi đối chiếu những thành tựu khoa học những năm<br />
gần đây so với thời kỳ của cha ông, Thơm cho rằng những bậc tiền bối hưởng<br />
được nhiều thay đổi có tính cách đột phá trong khoa học hơn là thời đại chúng<br />
ta. Thí dụ như điện, radio, điện thoại, động cơ, xe hơi, phi cơ, chất kháng<br />
sinh… Kể từ khi chất kháng sinh ra đời, hoặc sau phát hiện về giải mã di<br />
truyền bằng ADN vào những năm 50, y học và sinh học đã dẫm chân tại chỗ.<br />
"Ngõ cụt của sinh học", theo R.Thom là biểu hiện đặc trưng của sự sa sút về<br />
tiến bộ khoa học. Sự chế tạo bom hạt nhân hoặc sự phát triển tin học chỉ tác<br />
động đến một số đông hơn là với từng cá nhân; ngược lại, các thao tác di<br />
truyền trong điều trị bệnh cho con người thì chỉ có giá trị cho một vài bệnh<br />
hiếm hoi. Như vậy, theo R.Thom, những tiến bộ khoa học mà chúng ta thụ<br />
hưởng ngày hôm nay thuộc về những tiến bộ về lượng chứ chưa có những<br />
bước nhảy vọt về chất có qui mô tương xứng. Cho dù sự phân tích của<br />
R.Thom có quá đáng đi chăng nữa, nó gợi cho ta sự cần thiết phải có một lý<br />
thuyết, mà nói theo Claude Lévi-Strauss, đó là mắt kính thiết yếu để có thể hy<br />
vọng thoáng nhìn được thực tại vật chất tự nhiên hoặc xã hội. Vậy thì tiến bộ<br />
đã hỏng máy, phải chăng bởi vì hiện nay khoa học chỉ quan sát mà không còn<br />
suy nghĩ nữa, nó đã trở nên một "nghĩa địa các sự kiện" theo như cách nói của<br />
R.Thom.<br />
<br />
Nhưng nếu R.Thom vẫn có niềm tin rằng nếu có những lý thuyết đúng<br />
đắn, nếu khoa học chịu khó suy nghĩ, nó vẫn có khả năng giải đáp những vấn<br />
đề mà hiện nay ta còn chưa biết, thì ngày càng có nhiều nhà khoa học hoài<br />
nghi về khả năng vô tận của nó. Barush S.Blumberg, người đoạt giải Nobel về<br />
y học năm 1976, trong một phát biểu trước hội nghị những người đoạt giải<br />
Nobel đã nói: "Ta càng biết nhiều thì ta càng hiểu rõ mức độ không hiểu biết<br />
của ta" (3). Ông dùng huyền thoại Dédale trong thần thoại Hylạp cổ đại để<br />
hình dung cái mê cung của trí thức: là một kiến trúc sư, một kỹ sư, một nhà<br />
điêu khắc, một thợ thủ công tài ba, nhưng hễ mỗi lần Dédale giải quyết xong<br />
một vấn đề thì lập tức nảy sinh một vấn đề khác, và cứ thế vô tận. Phải chăng<br />
tri thức như cái mê cung mà Dédale xây dựng và con người cứ mãi mò mẫm<br />
trong đó để giải quyết bất tận những vấn đề? Và phải chăng con người cuối<br />
cùng sẽ không bao giờ tìm được câu trả lời rốt ráo cho mọi hoài nghi của<br />
mình?<br />
Đó là xét về khía cạnh năng lực của khoa học. Ngày nay người ta càng<br />
không tin rằng những tiến độ khoa học sẽ đưa đến những tiến bộ về đạo đức<br />
và xã hội. Tiến bộ kỹ thuật đã đi trước đạo đức. Thế kỷ XX đã chứng kiến sức<br />
hủy diệt của khoa học cũng như những gì mà khoa học đã mang đến cho con<br />
người. Có khi mối đe dọa của nó còn chiếm ưu thế hơn! Sức tàn phá của trái<br />
bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki chưa đủ, người ta còn chế tạo bom<br />
H với sức hủy diệt ngàn lần hơn! Trong kỹ thuật sinh học, một mặt người ta<br />
phấn khởi trước những khám phá mới về di truyền cho phép lai tạo những<br />
giống cây, súc vật có năng suất cao, thậm chí người ta còn thực hiện sinh sản<br />
vô tính hoặc cho phép thay đổi những gène khuyết tật trong điều trị bệnh cho<br />
con người; nhưng mặt khác, người ta lo sợ những mưu toan muốn tác động<br />
vào gène di truyền hòng biến đổi con người như ước mơ về dòng giống Aryan<br />
thượng đẳng của Adolf Hitler! Nỗi lo âu đó bộc lộ qua phát biểu của Jean<br />
Dausset, nhà sinh học Pháp được giải Nobel 1980, người có thẩm quyền về<br />
vấn đề này: "Cá nhân tôi cho rằng không có một giới hạn nào đối với việc mở<br />
rộng tri thức, ngay cả và có lẽ nhất là tri thức về di sản di truyền con người,<br />
tức là bản đồ gène của con người. Ngược lại, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng cần<br />
phải ngăn cấm mọi mưu toan biến đổi di sản này" (4). Như thế, nếu không<br />
kèm theo một tinh thần đạo đức, khoa học có khả năng trở thành một vũ khí<br />
hủy diệt con người, không như nhà côn trùng học Edward Wilson của trường<br />
Đại học Harvard đã tin tưởng rằng con người, do "bị gène dắt mũi" nên không<br />
có được sự tự do đó để hủy diệt mình!<br />
<br />
Như vậy, cho đến cuối thế kỷ XX, xét về khía cạnh văn hóa cũng như<br />
năng lực tự thân, khoa học vẫn chưa tạo được niềm tin trong việc giải quyết<br />
những vấn nạn căn bản của con người. Những lý thuyết dùng để giải thích về<br />
tự nhiên đã cạn kiệt. Những vấn đề muôn thuở của con người vẫn còn đó. Đó<br />
là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự trở về của con người tôn<br />
giáo vào cuối thế kỷ XX. Sự hồi sinh của tôn giáo, nói theo nhà thần học<br />
Harvery Cox, là "Một hiện tượng toàn cầu có liên hệ đến sự khám phá tính<br />
hiện đại". Ông cho rằng nó đánh dấu sự cáo chung của thứ niềm tin cho rằng<br />
khoa học sẽ khắc phục mọi vấn đề của chúng ta (5). Các lời tiên tri trong<br />
Thánh kinh tỏ ra không yếu đi vì tiến bộ khoa học như tiên đoán của các nhà<br />
tư tưởng duy lý của phong trào ánh sáng mà ngược lại, ngày càng trở nên<br />
sống động nhờ được nuôi dưỡng bởi tính hiện đại. Ở phương Tây ngày nay,<br />
ngày càng có nhiều tin tưởng vào những hiện tượng nêu trong Thánh kinh<br />
theo đúng nghĩa đen của chúng như lửa địa ngục, lưu huỳnh, phép lạ hoặc<br />
ngày tận thế… Một số tôn giáo khác ngoài hệ thống Cơ Đốc như:Hồi giáo,<br />
Do Thái giáo, Thần đạo, Phật giáo, Ấn Độ giáo… cũng phát triển và ngày<br />
càng thu hút nhiều tín đồ. Đặc biệt, số tín đồ có bằng cấp đại học cũng ngày<br />
càng gia tăng. Ở Hoa Kỳ hiện nay, các tôn giáo đã sử dụng những thành tựu<br />
kỹ thuật như: vô tuyến truyền hình, viễn thông… để truyền giáo, và thậm chí<br />
còn làm marketing để thu hút tín đồ! Bằng chứng cho sự phát triển tôn giáo<br />
mạnh mẽ này là số nhà thờ được xây mới ngày càng nhiều hơn (6).<br />
Nhưng dù vậy, nét nổi bật của sự hồi sinh tôn giáo là những người tín<br />
ngưỡng có xu thế hướng về tâm linh hơn là về nhà thờ như một tôn giáo có tổ<br />
chức. Nói như một người theo phong trào Thời Đại Mới (New Age<br />
Movement) ở Mỹ thì: "Tôn giáo theo cách giải bày cổ truyền nói với con<br />
người bên trong chúng ta ngày càng ít. Con người muốn có kinh nghiệm cảm<br />
nhận sống động về tâm linh. Họ học cách tiếp xúc với linh hồn" (7). Cho nên<br />
không lạ gì khi thấy xuất hiện những nhà nghiên cứu thần học Cơ Đốc đứng<br />
bên ngoài mọi thiết chế của Giáo hội. Đó là trường hợp nhà nghiên cứu René<br />
Girard của trường đại học Stanford (Mỹ) hoặc nhà trí thức biệt lập Claude<br />
Tresmontant giảng dạy tại đại học Sorbonne (Pháp). Họ đều là những nhà<br />
nghiên cứu sâu xa các bản Thánh kinh, đều tin vào sự Mặc khải Cơ Đốc,<br />
nhưng với một cách nhìn hoàn toàn mới. C.Tresmontant cố gắng làm một<br />
cuộc tổng hợp giữa vật lý và siêu hình học bằng cách nhấn mạnh ý nghĩa của<br />
Sáng tạo. Ông đưa ra một dẫn chứng về khám phá của khoa vật lý thiên văn,<br />
đó là vụ Nổ Lớn (Big Bang) sáng tạo ra vũ trụ. Thế nhưng các nhà khoa học<br />
vẫn cho là không thể giải thích lý do tại sao, cũng như cái gì đã có trước nó.<br />
Như thế, họ không trả lời được câu hỏi cốt yếu mà trí tuệ con người đã đặt ra.<br />
Vậy theo Tresmontant, câu trả lời phải thuộc về siêu hình học Do Thái - Cơ<br />
Đốc. Đó là lý do để ông khẳng định là quan điểm vô thần không thể nào tồn<br />
tại được. R.Girard cũng chia sẻ quan điểm đó khi xác tính về sự mặc khải Cơ<br />
Đốc giáo. Nói chung, do tri thức khoa học không trả lời được những vấn nạn<br />
căn bản của con người, những kẻ tín ngưỡng đã rút ra tính hiện đại những lý<br />
lẽ mới để tin tưởng và hi vọng.<br />
<br />
Chẳng những tồn tại những vấn nạn căn bản của con người, tư tưởng<br />
phương Tây hiện đại vẫn ghi nhận sự tồn tại những mâu thuẫn giữa các quan<br />
điểm đối nghịch nhau và vẫn tiếp tục gây nhiều tranh cãi, như mâu thuẫn giữa<br />
thuyết quyết định và bất quyết (déterminisme-indétermination), giữa trật tự và<br />
hỗn độn (ordre-chaos), ngẫu nhiên và tất yếu (hasard-nécessité), bẩm sinh và<br />
tập thành (inné-acquis), tuyệt đối và tương đối (absolu-relatif)… Đó là những<br />
vấn nạn trung tâm của thời đại. Nếu Priogine, với khái niệm hỗn độn (chaos),<br />
đã phủ nhận quan niệm cổ điển xem vũ trụ như một chiếc đồng hồ đã được<br />
điều chỉnh vĩnh viễn một lần, không cần biết đến diễn tiến của thời gian; thì<br />
ngược lại, R.Thom cho khái niệm đó là một thứ "hỗn độn của khoa học"! Ông<br />
này cho rằng thế giới dễ hiểu và tất cả có thể dự kiến được, vấn đề là chưa có<br />
một lý thuyết hoàn chỉnh để hiểu nó. Với Prigogine việc viện dẫn đến Thượng<br />
đế như là người bảo đảm cho những qui luật vĩnh cửu, mà đại diện là Newton,<br />
Leibniz, và đặc biệt là Einstein với câu nói nổi tiếng: "Thượng đế không chơi<br />
trò may rủi" (Dieu ne Joue pas aux dés) đã tỏ ra sai lầm. Theo ông, vũ trụ<br />
được bao quát bởi "mũi tên thời gian": những hiện tượng không bao giờ xảy<br />
ra lại cái giống như cũ và trở nên không thể dự kiến được bằng sự xác định.<br />
Như vậy, phải chăng khoa học chỉ làm công việc phỏng đoán, còn sự chính<br />
xác thuộc về quyền hạn của ngẫu nhiên? Và như vậy, hẳn nhiên là Thượng đế<br />
đã chơi trò đổ xúc xắc!<br />
Nhưng nếu cho rằng ngẫu nhiên giữ vai trò quyết định trong sự tiến hóa<br />
của tự nhiên và xã hội thì vai trò của con người sẽ trở nên như thế nào? Ở đây<br />
bộc lộ một mâu thuẫn nan giải giữa những người ủng hộ quan điểm cho rằng<br />
lịch sử tuân theo những quy luật tiến hóa và những người phủ nhận tiến bộ<br />
như là một tất yếu của lịch sử mà tiêu biểu là triết gia Karl Popper hoặc nhà<br />
nhân học Claude Lévi-Strauss. Với K. Popper, "tiến bộ không có tính tất yếu<br />
nào cả, không có gì bảo đảm ngày mai sẽ tốt hơn". Popper quy cho tất cả<br />
những ai tìn rằng xã hội tiến triển đến sự hoàn hảo, rằng cá nhân phục tùng<br />
những tất yếu của một lịch sử đang tiến bước đều thuộc về cái mà ông gọi là<br />
thuyết duy sử (L'historicisme). Bởi vì theo ông, không có gì trong hiện tại cho<br />
phép dự đoán tương lai; nếu xảy ra việc tương lai giống các dự báo đã được<br />
hình thành, thì thường là bởi người dự báo đã tự mình tác động lên chính diễn<br />
biến các sự kiện (8). Cùng chia sẻ quan điểm này, Lévi-Strauss, với phương<br />
pháp phân tích cấu trúc các nền văn minh sơ khai, đã hoài nghi tính tuyệt đối<br />
của tiến bộ. Ông cho rằng đôi khi thực ra người ta chỉ tạo ra cái lớn lao ngay<br />
từ lúc ban đầu. Cái gì càng đến sau càng có thể sa sút. Cho nên phải hiểu tiến<br />
bộ như là một khái niệm rất tương đối, chứ không phải như một định luật tổng<br />
quát và tất yếu (9). Trong khi đi tìm cái ông gọi là cốt yếu và bền vững của<br />
con người, Lévi-Strauss phủ nhận lịch sử như là điều kiện của tiến bộ, cái đến<br />
sau phải hay hơn cái đến trước. Theo ông, không có sự phân biệt dân tộc này<br />
văn minh với dân tộc kia không văn minh hay kém văn minh, mà chỉ có văn<br />
minh khác nhau mà thôi (10). Với ông, lịch sử là huyền thoại cuối cùng của<br />
các xã hội "hiện đại" mà người ta vận dụng tuỳ tiện để sáng chế ra một cái<br />
nhìn toàn bộ về vũ trụ. Tóm lại, phương pháp cơ cấu của Lévi-Strauss mang<br />
tính chất chống lại lịch sử, chống lại phương pháp biện chứng.<br />
<br />
Cũng trong vấn đề văn minh loài người, người ta thấy nổi lên một cuộc<br />
tranh luận gay gắt giữa những người ủng hộ lý thuyết về bẩm sinh và những<br />
người ủng hộ lý thuyết về tập thành. Những người nghiêng về bẩm sinh như<br />
nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Noam Chomsky hoặc nhà côn trùng học Edward<br />
Wilson của trường đại học Harvard (Mỹ) thì cho rằng những nét đặc trưng cốt<br />
yếu của con người như ngôn ngữ, văn hóa không phải là những tập tính do<br />
học tập mà có, mà chúng ta đã được mã hóa trong hệ gène của con người. N.<br />
Chomsky chỉ ra rằng chúng ta không học ngôn ngữ của mình bởi vì nó là bẩm<br />
sinh, đã được ghi trong cơ thể sinh học của chúng ta. Đi xa hơn nữa, E.<br />
Wilson với cái gọi là xã hội - sinh học (la sociobiologie), đã đem áp dụng<br />
những khám phá về tập tính di truyền của loài vật vào cả xã hội loài người.<br />
Ông cho rằng cả những tình cảm của con người cũng được chương trình hóa<br />
trong hệ gène. E.Wilson nghĩ là mâu thuẫn khi một mặt thừa nhận bộ óc con<br />
người là sản phẩm của tiến hóa rồi giải thích rằng sau đó, nó lại thoát ra khỏi<br />
mọi ràng buộc sinh học. Đó là điều mà nhà cổ sinh học vật học đồng liêu với<br />
E.Wilson, Stephen Goul đã cực lực bài bác. Ông này khẳng định sở dĩ con<br />
người có những lựa chọn tự do là bộ óc không được chương trình hóa. Chính<br />
nhờ đó, con người thoát ra khỏi quy luật của sự tuyển chọn tự nhiên để đi vào<br />
một trật tự mới, trật tự của văn hóa. Đó là một kiểu tiến hóa khác thoát ra<br />
ngoài phạm vi của chủ thuyết Darwin, thể hiện trong các lĩnh vực như nghệ<br />
thuật, âm nhạc, văn chương, đạo đức, những chiến đấu cá nhân, chủ nghĩa<br />
nhân văn hoặc tín ngưỡng…; tóm lại, đó là tiến hóa văn hóa. Vậy, theo<br />
S.Goul, khác với tự nhiên, văn hóa là tập thành, thích nghi và truyền lại.<br />
Không như mọi loài vật, con người có thể tưởng tượng ra những giải pháp và<br />
những cách xử sự, truyền lại cho những người chung quanh và cho con cháu<br />
mà không có những điều kiện tiên quyết cũng như những hệ quả di truyền.<br />
Thật ra, trong cuộc tranh luận này, ưu thế thuộc về những người ủng hộ lý<br />
thuyết bẩm sinh. Vì lẽ, mỗi con người mới không phải chỉ là một trang giấy<br />
trắng để ngỏ cho ảnh hưởng của cha mẹ, thầy học hoặc sự tiến bộ ngẫu nhiên,<br />
mà là một con người đã được chương trình hóa. Tuy vậy, sinh học dù là một<br />
bó buộc, nhưng không phải là một tiền định, và bản chất con người cũng nằm<br />
ở chỗ chế ngự Tự nhiên.<br />
<br />
Một vấn đề cũng gây tranh cãi không kém, đối lập giữa những người ủng<br />
hộ thuyết tương đối với những kẻ theo về những giá trị vĩnh cửu. Trường hợp<br />
sau là của Karl Popper khi ông này cho rằng có thể phân định rõ cái chân và<br />
cái giả ở mọi nơi và trong mọi trường hợp. Ông bài bác những người theo<br />
thuyết tương đối khi họ cho rằng không tồn tại chân lý, hoặc không có cách<br />
nào phân định giữa hai lý thuyết, cái nào vượt trội hơn cái nào. Bởi vì theo<br />
K.Popper, vẫn có những chuẩn mực hoặc những quy tắc xử sự để lượng định.<br />
Cùng truy tìm cái tuyệt đối triết học có thể kể đến nhà văn người Mexico<br />
Octavia Paz khi ông khẳng định rằng sự tồn tại một chân lý và duy nhất có<br />
một để đảm bảo phát triển về văn hóa, kinh tế hay chính trị: đó là tôn trọng tự<br />
do cá nhân và quyền tư hữu. Đối lập với nhóm người trên là nhà nhân chủng<br />
học Claude Lévi-Strauss với thuyết tương đối về văn hóa. Với Lévi-Strauss,<br />
tiến bộ chỉ có tính chất tương đối. Khi nghiên cứu về những nền văn minh sơ<br />
khai, Lévi-Strauss buộc phải thừa nhận sự kính trọng đối với tư duy hoang dã<br />
(pensée sauvage) và sự nhún nhường về văn hóa. Cùng trong chiều hướng<br />
này, một số người hoài nghi tính tuyệt đối của tính chân lý. Với họ, "chân lý<br />
có nhiều, là con đẻ của trí tưởng tượng của chúng ta". Nhà sử học đương đại<br />
Pháp Paul Veyne chẳng hạn đã so sánh chân lý như một "lâu đài" mà những<br />
người sống ở đó không biết gì cả đến sự tồn tại của các lâu đài khác. Hệ thống<br />
tư tưởng, với ông là một cái "chậu" mà người ta không nhìn thấy các vách của<br />
nó và kết quả là người ta thậm chí còn không biết là chúng hiện hữu. Chính<br />
tưởng tượng bao hàm cả chân lý lẫn sai lầm, và một khi "người ta tưởng<br />
tượng ra một hệ thống tư tưởng mới, một quan niệm mới, một cái nhìn mới về<br />
thế giới, thì mặc nhiên sẽ tạo lập lại một sự sắp xếp mới về cái thật và cái giả,<br />
một sự xếp loại giữa những gì liên quan đến những quy tắc đến cái "chậu" của<br />
chúng ta với cái gì khác nó" (11). Cái "tưởng tượng" đó, có người gọi là "tri<br />
thức", nhưng P.Veyne cho rằng thực ra nó là một quyền, bởi vì nó tiến hành<br />
xếp đặt thế giới… Và cứ thế, cuộc tranh luận về tuyệt đối - tương đối vẫn như<br />
là mò kim đáy bể!<br />
Những mâu thuẫn trên đây phải chăng phản ánh sự bất lực của tư tưởng,<br />
của triết học trong việc giải quyết những vấn đề còn tồn tại của nhân loại? Và<br />
tình hình đó phải chăng dự báo rằng thế kỷ XXI này sẽ không còn những nhà<br />
kiến tạo hệ thống, những triết gia hiểu theo nghĩa là những người xây đắp<br />
những hệ tư tưởng được xem như là động lực của lịch sử? Nhà sử học tư<br />
tưởng người Anh Isaiah Berlin nhận xét rằng thế kỷ XX khá nghèo những nhà<br />
kiến tạo như vậy. Ông cho rằng thế kỷ này sống một cách hậu hỹ với những lý<br />
thuyết, với kho dự trữ những tư tưởng của thế kỷ XIX. Theo ông, thế kỷ XX<br />
bị chế ngự bởi hai hiện tượng: một mặt là tiến bộ của khoa học, và mặt kia là<br />
cuộc cách mạng Nga. Thế mà, vẫn theo nhận xét của ông, hai hiện tượng này<br />
là sản phẩm của ý thức hệ thống trị của thế kỷ XIX: đó là niềm xác tín rằng<br />
nhân loại sẽ hiến thân cho Tiến bộ, và Tiến bộ cần phải được tổ chức (12).<br />
Nếu thế kỷ XX chỉ là sự kế tục của thế kỷ đi trước theo như nhận định của<br />
I.Berlin, thì quá trình lịch sử của tư tưởng phải chăng sẽ đi đến chỗ biến mất<br />
những hệ tư tưởng để chỉ còn là những mảnh vụn của triết học? Thực tế cho<br />
thấy đã cạn kiệt những lý thuyết dùng để giải thích Tự nhiên. Con người<br />
phương Tây hiện đại nhìn chung đã có khuynh hướng quay về với những<br />
niềm tin siêu hình, trong đó có cả các nhà khoa học. Vả chăng, theo nhận định<br />
của K.Popper, người tự nhận là triết gia cuối cùng của trào lưu Ánh sáng<br />
(philosophie des Lumières) đề cao lý tính thì phương pháp khoa học không<br />
phải là chứng minh tính chất hợp lý của một lý thuyết mà là cố gắng đánh đổ<br />
nó đi. Khả năng bị đặt lại vấn đề của một lý thuyết sẽ quyết định tính chất<br />
khoa học của nó, đó là cái mà Popper gọi là khả năng bị bài bác<br />
(falsifiability). Trong diễn trình đó, một lý thuyết chỉ có thể được xem là đích<br />
thực của khoa học khi nào nó đứng vững được sau những thử thách đó.<br />
Nhưng K.Popper cũng lưu ý là cho đến khi một lý thuyết đến sau thay thế nó<br />
trong sự kế tục những thử thách và truy tìm sai lầm (13). Và cứ thế tiếp diễn.<br />
Trong trường hợp như vậy, liệu có thể xuất hiện những nhà kiến tạo hệ thống<br />
để thay thế những lý thuyết đã tỏ ra sai lầm hay không, trong tình hình thế kỷ<br />
XX không xuất hiện những hệ tư tưởng lớn như thế kỷ trước, như đánh giá<br />
của I.Berlin? Vẫn theo I.Berlin, sự phát sinh các tư tưởng không tùy thuộc bất<br />
kỳ một logic lịch sử nào, nó chỉ tùy thuộc sự xuất hiện của các nhà thiên tài,<br />
và tùy thuộc vào những nơi chốn được xác định rõ. Nhưng đây cũng là một<br />
bấp bênh!<br />
<br />
Như vậy phương Tây sẽ bước vào thế kỷ XXI với một cuộc phiêu lưu tư<br />
tưởng mới mà không thể dự kiến diện mạo của nó sẽ ra sao. Đó phải chăng<br />
cũng thuộc về điều mà nhà nghiên cứu Guy Sorman gọi là những bí ẩn của<br />
thế kỷ này.<br />