intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tương quan giữa IQ, trí nhớ có lời và các chiến lược mã hóa trong trắc nghiệm CVLT-VN

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

29
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu mối tương quan giữa trí thông minh (IQ) và trí nhớ dài hạn, các chiến lược mã hóa. Phương pháp nghiên cứu định lượng cắt ngang tại một thời điểm. Mẫu nghiên cứu là 30 người (11 nam và 19 nữ) trong độ tuổi từ 19 – 24. Kết quả cho thấy trắc nghiệm CVLT phiên bản tiếng Việt (CVLT-VN) bước đầu có độ tin cậy cao; không có mối tương quan ý nghĩa giữa IQ và thành tích nhớ tự do dài hạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tương quan giữa IQ, trí nhớ có lời và các chiến lược mã hóa trong trắc nghiệm CVLT-VN

  1. TƯƠNG QUAN GIỮA IQ, TRÍ NHỚ CÓ LỜI VÀ CÁC CHIẾN LƯỢC MÃ HÓA TRONG TRẮC NGHIỆM CVLT-VN Nhan Thị Lạc An* Tóm tắt Trắc nghiệm California Verbal Learning (CVLT – Delis & cộng sự, 1987) được sử dụng rộng rãi để đo lường nhiều khía cạnh của việc học tập và trí nhớ có lời. Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu mối tương quan giữa trí thông minh (IQ) và trí nhớ dài hạn, các chiến lược mã hóa. Phương pháp nghiên cứu định lượng cắt ngang tại một thời điểm. Mẫu nghiên cứu là 30 người (11 nam và 19 nữ) trong độ tuổi từ 19 – 24. Kết quả cho thấy trắc nghiệm CVLT phiên bản tiếng Việt (CVLT-VN) bước đầu có độ tin cậy cao; không có mối tương quan ý nghĩa giữa IQ và thành tích nhớ tự do dài hạn. Mối tương quan giữa hiệu ứng vị trí và thành tích nhớ tự do dài hạn được ghi nhận. Hiệu ứng vị trí đầu được xem là biến dự báo tốt nhất cho thành tích nhớ tự do dài hạn. Chúng tôi cũng chỉ ra các hạn chế còn tồn tại trong nghiên cứu này, đồng thời đưa ra một số đề xuất cho nghiên cứu sâu hơn trong tương lai. Từ khóa: California Verbal Learning test (CVLT), CVLT-VN, trí nhớ có lời, chiếc lược mã hóa CORRELATION BETWEEN IQ, VERBAL MEMORY AND ENCODING STRATEGIES IN CVLT-VN Abstract The California Verbal Learning Test (CVLT – Delis et al., 1987) is extensively used to measure many aspects of learning and verbal memory. The purpose of this study is to understand the correlation between intelligence (IQ) and long-term memory, encoding strategies. Methods of cross-sectional quantitative research were used. The research sample is 30 people (11 men * Đại học KHXH&NV – ĐHQG-HCM Liên hệ: nhanlacan@hcmussh.edu.vn 321
  2. and 19 women) aged 19-24. The results showed that the Vietnamese version of the CVLT test (CVLT-VN) was initially highly reliable and there was no correlation between IQ and performance of long delay free recall. There is a correlation between serial-position effect and performance of long delay free recall. The primary effect is the best predictor of performance of long delay free recall. We also point out the remaining limitations of this study, and make some suggestions for future further research. Keywords: California Verbal Learning test (CVLT), CVLT-VN, verbal memory, encoding strategy I. ĐẶT VẤN ĐỀ Đánh giá trí nhớ thường được xem là một phần của lĩnh vực đánh giá tâm lý thần kinh (neuropsychological assessments). Những đánh giá tâm lý thần kinh được xây dựng để lượng giá và xác định các vấn đề liên quan đến khía cạnh nhận thức, là cơ sở để các nhà chuyên môn lên kế hoạch can thiệp phù hợp. Ngoài ra, việc đánh giá tâm lý thần kinh còn được dùng để đánh giá lại nhằm điều chỉnh quá trình can thiệp cho hiệu quả. Việc thực hiện đánh giá tâm lý thần kinh thường được thực hiện trong một trong năm lĩnh vực cụ thể: chăm sóc bệnh nhân, phục hồi chức năng, lập kế hoạch giáo dục, các vấn đề pháp y và phân tích kết quả điều trị. Trong lĩnh vực này có nhiều trắc nghiệm dùng để đánh giá các khía cạnh khác nhau của trí nhớ, có thể kể đến: Wechsler Memory Scale – Third edition (WMS-III); Rey Auditory Verbal Learning Test (RAVLT); California Verbal Learning Test (CVLT) và Rey-Osterrieth Complex Figure (Goetz & Christopher G. Goetz, 2007). Trong các trắc nghiệm đánh giá trí nhớ bằng lời, trắc nghiệm CVLT phiên bản đầu tiên được xuất bản vào năm 1987 bởi Delis và cộng sự (Delis & cộng sự, 1987). Trắc nghiệm CVLT đang được sử dụng rộng rãi trong nhiều năm gần đây trong lĩnh vực đo lường tâm lý học thần kinh. Đây là một trong những trắc nghiệm đầu tiên kết hợp các nguyên tắc của khoa học nhận thức để đo lường nhiều khía cạnh của việc học tập và trí nhớ (DeJong & Donders, 2010). Độ tin cậy của CVLT: độ tin cậy phân tách được thực hiện dựa trên các lần thử nghiệm thu hồi ngay lập tức nằm trong khoảng 0.89 đến 0.94. Hệ số alpha dựa trên điểm của các danh mục 322
  3. từ thông qua các lần thử nghiệm từ 0.71 đến 0.82. Độ tin cậy phân tách dựa trên số lần các từ được nhớ lại chính xác thông qua các lần thử nghiệm nhớ lại lập tức nằm trong khoảng 0.68 đến 0.79 (Kreutzer & cộng sự, 2012). Hiện nay CVLT đã được nghiên cứu và thích nghi trên rất nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Hy Lạp, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Thái,… Các nghiên cứu cho thấy đây là công cụ đo lường các khía cạnh học tập và trí nhớ rất hiệu quả. Trong khi đó, tại Việt Nam, các nhà thực hành vẫn còn thiếu nhiều công cụ về đánh giá trí nhớ. Cho đến nay đã có một số công cụ có liên quan đến đo lường trí nhớ đã được thích nghi tại Việt Nam, gần đây nhất là thang đo lường trí tuệ mới – 2 (NEMI – 2) và trắc nghiệm đánh giá trí tuệ trẻ em Wechsler phiên bản thứ 4 (WISC-IV). Trong NEMI – 2 có bài tập nhắc lại số đo lường trí nhớ ngắn hạn khi cần giải quyết tình huống (Castro, 2015); nghiên cứu về chủ đề tính thích nghi trắc nghiệm trí tuệ Wechsler Intelligence Scale for Children-IV trong đó có tiểu mục kiểm tra trí nhớ làm việc (Working memory) và chức năng điều hành thông qua khoảng nhớ xuôi và khoảng nhớ ngược (Digit Span Forward, Digit Span Backward) (Dang & cộng sự, 2011). Trắc nghiệm CVLT không chỉ đánh giá thành tích trí nhớ mà còn kiểm tra những đặc tính liên quan đến quá trình học tập thông qua việc nghiệm thể sử dụng các chiến lược mã hóa và những lỗi sai gặp phải. Các chiến lược mã hóa bao gồm: nhóm về mặt ngữ nghĩa, nhóm nối tiếp, hiệu ứng đầu, hiệu ứng giữa, hiệu ứng cuối,…; các đặc tính của việc học tập như: dốc học tập, sự nhất quán. Các lỗi sai như: lỗi dai dẳng, lỗi trộn lẫn. Trí nhớ và các đặc tính học tập được kiểm tra tức thì, trì hoãn trong thời gian 20 phút sau đó và kiểm tra nhận diện, nhớ có gợi ý và không có gợi ý (Kreutzer & cộng sự, 2012). Với những kết quả mà công cụ CVLT mang lại, việc thích nghi một công cụ này trên phiên bản tiếng Việt là điều rất cần thiết, phục vụ thiết thực trong nghiên cứu và thực hành lâm sàng. Mục tiêu của nghiên cứu này là dựa trên trắc nghiệm CVLT phiên bản gốc để bước đầu cải biên thành trắc nghiệm trí nhớ có lời phiên bản tiếng Việt và mô tả các chiến lược mã hóa mà các nghiệm thể đã sử dụng trong trắc nghiệm CVLT. Nghiên cứu đưa ra 2 giả thuyết: Giả thuyết 1 là chỉ số trí thông minh (IQ) tương quan với thành tích nhớ tự do dài hạn. 323
  4. Giả thuyết 2 là chiến lược nhớ theo nhóm ngữ nghĩa và chiến lược mã hóa hiệu ứng vị trí nối tiếp có tương quan với thành tích nhớ tự do dài hạn. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng một thiết kế định lượng, cắt ngang tại một thời điểm nhằm thiết lập điểm mạnh của các mối quan hệ giữa các biến. 2.2. Công cụ nghiên cứu: nghiên cứu sử dụng trắc nghiệm: Trắc nghiệm California Verbal Learning phiên bản tiếng Việt (viết tắt thành CVLT- VN) và trắc nghiệm trí tuệ Raven. Trắc nghiệm California Verbal Learning (CVLT-II) phiên bản tiếng Anh: Trắc nghiệm California Verbal Learning Test – Second Edition (CVLT-II) (Delis & cộng sự, 2000) là một trắc nghiệm trí nhớ và việc học bằng lời. Phiên bản hiện tại yêu cầu nhớ và nhận diện 2 danh sách từ ngay lập tức để đo lường trí nhớ ngắn hạn và trì hoãn 20 phút để đo lường trí nhớ dài hạn. Danh sách A bao gồm 16 từ (thuộc 4 phân loại: trái cây, rau củ, dụng cụ sửa chữa nhà cửa, trang phục) được cung cấp qua 5 lần thử. Danh sách B (gây nhiễu) cũng có 16 từ, được cung cấp 1 lần sau danh sách A. Nhớ lại tự do ngắn hạn và nhớ lại có gợi ý được yêu cầu sau khi nghe đọc danh sách B. Sau 20 phút trì hoãn sau khi nhớ lại tự do ngắn hạn, một test không lời sẽ được thực hiện. Tiếp theo là đến nhớ lại tự do dài hạn, nhớ lại tự do dài hạn có gợi ý, nhận diện danh sách A sau 20 phút trì hoãn (Kreutzer & cộng sự, 2012) Trắc nghiệm California Verbal Learning phiên bản tiếng Việt: Trắc nghiệm CVLT-VN được cải biên dựa trên phiên bản CVLT tiếng Anh, trong đó danh sách A (DS A – danh sách mua hàng ngày thứ 2) có 4 phân loại ngữ nghĩa (trái cây, rau củ, gia vị và trang phục), bao gồm 16 từ với 8 từ đơn và 8 từ ghép. Điều này tạo nên một bảng danh sách khác với phiên bản tiếng Anh do đặc thù ngôn ngữ trong tiếng Việt là đơn âm tiết. Trong tiếng Việt, từ đơn tương ứng với từ ngắn trong tiếng Anh và từ ghép tương ứng với từ dài trong tiếng Anh. Danh sách B (DS B) là danh 324
  5. sách gây nhiễu (danh sách mua hàng ngày thứ 3) có 4 phân loại (trái cây, rau củ, món ăn, dụng cụ học tập) gồm 16 từ, trong đó cũng có 8 từ đơn và 8 từ ghép. Các từ trong danh sách A và B được lựa chọn dựa trên tính thông dụng của nó trong ngôn ngữ tiếng Việt và không mang tính vùng miền. Ngoài ra được tính toán dựa trên độ dài chữ cái và độ dài phát âm để đảm bảo tính tương đối giữa 2 danh sách. Danh sách A có trung bình độ dài chữ cái là 4.9375; Trung bình độ dài phát âm: 621.9375 ms; danh sách B có trung bình độ dài chữ cái là 4.8125; trung bình độ dài phát âm: là 595.875 ms. Bản trắc nghiệm được thử nghiệm trên 5 người để loại bỏ những từ không phù hợp: hơi có tính vùng miền, không thuần Việt, không phổ biến trong dân cư… Danh sách nhận diện bao gồm 44 từ, bao gồm: danh sách A và danh sách B; 8 từ gây nhiễu về ngữ nghĩa (4 từ đơn và 4 từ ghép) cũng thuộc phân loại trái cây, gia vị, trang phục và rau củ; 4 từ gây nhiễu về âm vị (2 từ đơn và 2 từ ghép) và 8 từ gây nhiễu xa (không liên quan đến phân loại và âm vị), cũng gồm 4 từ đơn và 4 từ ghép. Sự khác biệt trong CVLT phiên bản tiếng Việt là 4 từ gây nhiễu về âm vị và khác phân loại (ví dụ: Chuối so với Muối; Ví so với Bí); những từ này không gây nhiễu về ngữ nghĩa kèm theo vì trong tiếng Việt, những từ trong cùng 1 phân loại rất khó có từ đồng âm. Vì vậy, trong CVLT-VN, đối với danh sách nhận diện, nhóm tác giả chỉ chọn gây nhiễu về âm vị không kết hợp gây nhiễu về ngữ nghĩa. Tất cả các từ được sử dụng trong danh sách nhận diện đều được tính toán về trung bình độ dài chữ cái và trung bình độ dài phát âm để đảm bảo tính tương đồng. Trong quá trình nghỉ để nhắc lại dài hạn danh sách A, người được kiểm tra sẽ được ngưng 20 phút, trong 20 phút trì hoãn đó họ sẽ thực hiện trắc nghiệm phi ngôn ngữ: trắc nghiệm trí tuệ Raven. Trắc nghiệm trí tuệ Raven Lần đầu tiên J. C. Raven mô tả trắc nghiệm này vào năm 1936. Theo ông, đây là phương pháp đo năng lực tư duy trên một bình diện rộng nhất. Nó thuộc loại trắc nghiệm phi ngôn ngữ về trí tuệ và còn được gọi là trắc nghiệm “khuôn hình tiếp diễn” (Progressive matrices). Toàn bộ 325
  6. trắc nghiệm gồm 60 bài tập, được chia làm 5 nhóm (set): A, B, C, D, E mỗi nhóm có 12 bài. Trong mỗi nhóm bài tập, mức độ khó của bài sau tăng hơn bài trước; so sánh giữa các nhóm bài tập với nhau, thì nhóm bài sau khó hơn nhóm bài trước. 2.3. Mô tả mẫu Mẫu nghiên cứu được sử dụng là mẫu thuận tiện, người tham gia trắc nghiệm là sinh viên Tâm lý học thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh (n = 30, nam = 11; nữ = 19; có độ tuổi từ 19 đến 24). Người tham gia trắc nghiệm nhận được lời mời trên mạng xã hội và tình nguyện tham gia vào nghiên cứu. Thông tin cá nhân được cam kết bảo mật và mỗi người tham gia nghiên cứu được nhận thù lao nghiên cứu thông qua hình thức trả thẻ card điện thoại trị giá 20.000 VNĐ/người. Mẫu nghiên cứu là 30 nghiệm thể có các đặc điểm như sau: Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học và chỉ số trí thông minh (IQ) của mẫu nghiên cứu N % M SD Giới tính Nam 11 36.7 Nữ 19 63.3 Độ tuổi 19 8 26.7 20.0 1.01 20 18 60.0 21 2 6.7 22 1 3.3 24 1 3.3 IQ 30 116 9.16 2.4. Quy trình thu thập dữ liệu Tổng thời gian thực hiện trắc nghiệm trên 1 người trong khoảng 45 phút. Người tiến hành trắc nghiệm lấy thông tin về tên, giới tính, độ tuổi và giới thiệu trắc nghiệm. Bắt đầu tiến hành CVLT-VN, người tiến hành trắc nghiệm đọc lời dẫn “Giả sử bạn đi mua sắm vào ngày thứ hai. Tôi sẽ đọc cho bạn danh sách những mặt hàng cần mua. Bạn hãy lắng nghe cẩn 326
  7. thận vì khi tôi đọc xong, tôi sẽ yêu cầu bạn nhắc lại cho tôi càng nhiều thứ cần mua càng tốt. Bạn không cần nhắc theo thứ tự; mà hãy kể ra được càng nhiều món hàng trong danh sách đã nghe càng tốt”. Quy trình thực hiện trắc nghiệm như sau: Bảng 2. Quy trình thực hiện trắc nghiệm – Để bắt đầu, trắc nghiệm viên (TNV) đọc danh sách A (1 từ/1 giây) gồm 16 từ và nghiệm thể được yêu cầu nhắc lại những từ mà họ nhớ (nhớ tự do ngay lập tức – danh sách A). Sau đó, TNV tiếp tục đọc lời dẫn cho lần thứ 2 đến lần thứ 5 “Tôi sẽ lặp lại danh sách mua sắm của ngày thứ 2. Một lần nữa tôi sẽ yêu cầu bạn nói cho tôi càng nhiều thứ cần mua càng tốt, không cần phải theo thứ tự”. – Tiếp theo, ở lần thứ thứ 6, TNV đọc danh sách B (danh sách gây nhiễu). Ngay sau đó, nghiệm thể được yêu cầu nhắc lại những từ trong danh sách B (nhớ tự do ngay lập tức – danh sách B). – Sau khi hoàn thành danh sách B, nghiệm thể được yêu cầu nhớ lại những từ trong danh sách A mà không cần trình bày lại (nhớ tự do ngắn hạn). Đồng thời nghiệm thể cũng phải nhớ lại danh sách A theo gợi ý phân loại được đưa ra (nhớ có gợi ý ngắn hạn). – Bước kế tiếp, nghiệm thể có 20 phút gián đoạn. Trong thời gian đó họ sẽ thực hiện trắc nghiệm Raven (trắc nghiệm trí tuệ phi ngôn ngữ) để bị phân tâm ở mức độ vừa phải. – Sau 20 phút1, nghiệm thể được yêu cầu nhớ lại càng nhiều từ càng tốt trong danh sách A (nhớ tự do dài hạn) và nhớ lại danh sách A theo gợi ý phân loại được đưa ra (nhớ dài hạn có gợi ý). Thông thường nghiệm thể mất khoảng 20 phút để hoàn thành Trắc nghiệm Raven. Tuy 1 nhiên, có một vài nghiệm thể cần thời gian thực hiện dài hơn so với những người khác. Trong trường hợp này, TNV sẽ yêu cầu họ ngưng để quay trở lại trắc nghiệm CVLT-VN. Sau đó, các nghiệm thể này được tiếp tục hoàn thành trắc nghiệm Raven của mình. 327
  8. – Cuối cùng, nghiệm thể được TNV đọc cho nghe 1 danh sách 44 từ và được yêu cầu cho biết liệu từ đó có nằm trong danh sách A hay không (nhận diện). Những kết quả được ghi chú lại bởi TNV trong suốt các lần tiến hành bài trắc nghiệm. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Các chỉ số đo lường trong trắc nghiệm CVLT-VN Kết quả thống kê về các biến: nhớ tự do ngay lập tức, nhớ tự do ngắn hạn, nhớ tự do ngắn hạn có gợi ý danh sách A (DS A), nhớ lại danh sách B (DS B), nhớ tự do dài hạn, nhớ tự do dài hạn có gợi ý và nhận diện như sau: Bảng 3. Các chỉ số đo lường trong trắc nghiệm CVLT-VN Các chỉ số đo lường M SD Nhớ tự do ngay lập tức DS A lần 1 8.97 2.02 Nhớ tự do ngay lập tức DS A lần 2 11.6 2.51 Nhớ tự do ngay lập tức DS A lần 3 13.3 1.90 Nhớ tự do ngay lập tức DS A lần 4 13.7 1.66 Nhớ tự do ngay lập tức DS A lần 5 14.0 1.66 Nhớ tự do ngay lập tức DS A từ lần 1 tới lần 5 61.6 8.04 Nhớ tự do ngay lập tức DS B 7.30 2.20 Nhớ tự do ngắn hạn DS A 13.5 2.00 Nhớ tự do ngắn hạn có gợi ý DS A 13.6 1.90 Nhớ tự do dài hạn DS A 14.2 1.38 Nhớ tự do dài hạn có gợi ý DS A 14.4 1.38 Nhận diện đúng 15.8 .551 Nhận diện sai .17 .531 3.2. Độ tin cậy của thang đo CVLT-VN Kiểm tra độ tin cậy của thang đo CVLT-VN bước đầu cho thấy thang đo có độ tin cậy cao (13 mục, α = .873). Như vậy, thang đo CVLT-VN có đủ độ tin cậy để sử dụng trong nghiên cứu này. 328
  9. 3.3. Chiến lược mã hóa qua các lần đo lường của CVLT-VN Kết quả thống kê cho thấy có xuất hiện chiến lược mã hóa ở nghiệm thể, cụ thể thành tích tăng dần qua các lần nhớ tự do ngắn hạn danh sách A (M (1) = 8.97, SD (1) = 2.02; M (5) = 14.0, SD (2) = 1.66). Phép đo lặp (repeat – measure) ANOVA với tương quan Greenhouse-Geisser cho thấy trung bình thành tích nhớ tự do ngắn hạn danh sách A có sự khác biệt ý nghĩa giữa các lần đo (F (2.924, 84.809) = 79.034, p =.000). Như vậy, có sự xuất hiện của hiệu ứng thực hành (practice effects) tăng qua các lần nhớ tự do ngắn hạn danh sách A, cho thấy nghiệm thể có sử dụng các chiến lược mã hóa (thụ động và chủ động) để giúp tăng thành tích nhớ tự do ngắn hạn. Hình 1. Chiến lược mã hóa thể hiện qua các lần nhớ tự do ngắn hạn DS A 3.4. Tương quan giữa chỉ số trí thông minh (IQ) và thành tích nhớ tự do dài hạn Tác giả sử dụng tương quan từng phần (Partial Correlation) để kiểm tra tương quan ý nghĩa chỉ số trí thông minh (IQ) và thành thích nhớ tự do dài hạn danh sách A, biến kiểm soát là biến tuổi và biến giới tính. Kết quả cho thấy không có tương quan ý nghĩa giữa IQ và thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A, r(30) = .030, p = n.s. Như vậy, giả thuyết 1 đã bị 329
  10. bác bỏ. Tuy nhiên, có tương quan ý nghĩa giữa thành tích nhớ tự do ngắn hạn danh sách A và thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A, r(30) = .695, p < .001. 3.5. Hiệu ứng vị trí nối tiếp trong việc ghi nhớ Hiệu ứng ban đầu trong CVLT-VN được tính bằng tỉ lệ phần trăm 4 từ đầu được nhớ lại qua 5 lần nhớ tự do ngắn hạn danh sách A, hiệu ứng giữa được tính bằng tỉ lệ phần trăm 8 từ giữa được nhớ lại qua 5 lần nhớ tự do ngắn hạn danh sách A và hiệu ứng mới xảy ra được đo bằng tỉ lệ phần trăm 4 từ cuối được nhớ tự do ngắn hạn danh sách A. Kết quả thống kê cho thấy: hiệu ứng ban đầu chiếm ưu thế trong nhóm nghiệm thể (M = 85.7, SD = 11.7), sau đó đến hiệu ứng mới xảy ra (M = 79.5, SD = 14.6) và cuối cùng là hiệu ứng giữa (M = 71.7, SD = 12.9). Kết quả phép đo lặp (repeat – measure) ANOVA giữa hiệu ứng vị trí nối tiếp trong việc ghi nhớ và tuổi; giới tính cho thấy có không sự khác biệt ý nghĩa. Mauchly’s Test, χ2(2) = .219, p = .89. Hình 2. Biểu đồ thể hiện hiệu ứng vị trí nối tiếp qua các lần nhớ tự do ngắn hạn DS A Hiệu ứng ban đầu của nghiệm thể tăng dần qua 5 lần nhớ lại tự do ngắn hạn. Hiệu ứng giữa và hiệu ứng cuối của nghiệm thể qua 5 lần nhớ tự do ngắn hạn cũng có hiện tượng tăng dần. 330
  11. Hình 3. Biểu đồ thể hiện hiệu ứng vị trí nối tiếp qua 5 lần nhớ tự do ngắn hạn DS A Kết quả tương quan từng phần (Partial Correlation) với biến kiểm soát là biến tuổi và giới tính, cho thấy có mối tương quan ý nghĩa giữa hiệu ứng ban đầu và thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A (r = .684, p < .001). Tương quan này là tương quan thuận, cho thấy nếu nghiệm thể sử dụng hiệu ứng ban đầu càng nhiều thì thành tích nhớ tự do dài hạn càng cao. Hiệu ứng giữa và hiệu ứng cuối không có tương quan ý nghĩa với thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A (hiệu ứng giữa: r = 0.295, p = n.s; hiệu ứng cuối: r = 0.381, p = n.s). Không có tương quan ý nghĩa giữa nhóm ngữ nghĩa (SEM), nhóm nối tiếp (SER) với thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A. Như vậy, chứng minh giả thuyết thứ 2 đã đưa ra cho thấy chỉ có chiến lược mã hóa hiệu ứng ban đầu có tương quan với thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A. 3.6. Dự báo thành tích ghi nhớ Phân tích hồi quy đa biến dùng để kiểm tra các biến dự báo thành tích nhớ tự do dài hạn. Kết quả cho thấy hiệu ứng ban đầu dự báo đáng kể thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A. Cụ thể, kết quả hồi quy cho thấy biến độc lập (hiệu ứng ban đầu) ảnh hưởng 47,2% sự thay đổi của 331
  12. biến phụ thuộc (thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A) (R2 = .472, F(8,21) = 4.240, p < .005). IV. BÀN LUẬN Mục đích của nghiên cứu này nhằm bước đầu cải biên trắc nghiệm trí nhớ CVLT-VN dựa trên cấu trúc của trắc nghiệm CVLT phiên bản tiếng Anh. Kết quả cho thấy thang đo bước đầu đạt được là độ tin cậy để thực hiện các bước phân tích tiếp theo. Giả thuyết nghiên cứu cho rằng chỉ số trí thông minh của nghiệm thể có tương quan ý nghĩa với thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A sau 20 phút trì hoãn. Đã có nhiều nghiên cứu trên mối tương quan giữa trí nhớ làm việc (Working memory – WM) và trí thông minh, kết quả cho thấy có mối tương quan ý nghĩa giữa sức chứa trí nhớ làm việc (working memory capacity) và trí tuệ lỏng (fluid intelligence) (Fukuda & cộng sự, 2010). Sức chứa của trí nhớ làm việc có tương quan với trí thông minh không lời (nonverbal intelligence) và trí thông tin bằng lời (verbal intelligence) (Schneider, 2017). Trong nghiên cứu này, kết quả cho thấy không có tương quan ý nghĩa giữa trí nhớ dài hạn (thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A) và IQ. Kết quả này không đồng nhất với đa phần những nghiên cứu trước đó. Một trong những lý do giải thích cho kết quả này là có thể mẫu tham gia nghiên cứu nhỏ, khách thể đều là sinh viên đại học, không có nhiều khác biệt rõ rệt về IQ. Do vậy, kết quả thu được này chỉ mang tính tham khảo. Ngoài ra, để đo lường trí tuệ lỏng cần phối hợp các công cụ khác nhau chứ không chỉ sử dụng trắc nghiệm Raven. Ví dụ như trong nghiên cứu của Shakeel và cộng sự, tác giả sử dụng các công cụ để đánh giá trí tuệ lỏng của nghiệm thể, bao gồm: test Raven (Raven’s Advanced Progressive Matrices – RAPM), đo quãng nhớ (Digit Span Sequencing – DSS), Trail Making Test (TMT) nhằm đo lường tính linh hoạt trong nhận thức, Design Fluency Test (DFT) đo lường tính sáng tạo, Tower Test (TT) đo lường việc lập kế hoạch, Cognitive Failures Questionnaire (CFQ) nhằm đánh giá chủ quan về chức năng nhận thức trong cuộc sống hàng ngày (Shakeel & cộng sự, 2017). Liên quan đến thành tích nhớ tự do ngắn hạn danh sách A qua 5 lần thử nghiệm cho thấy nghiệm thể có sử dụng các chiến lược mã hóa giúp 332
  13. tăng thành tích nhớ tự do ngắn hạn, đây được xem là hiệu ứng thực hành (practice effects) của nghiệm thể. Điều này tương đồng với những nghiên cứu đã được báo cáo trước đây. Hiệu ứng thực hành được quan sát thấy rõ trên nhóm mẫu có HIV/AIDS và nhóm đối chứng (Duff, 2001). Nghiên cứu của Campos-Magdaleno và cộng sự (2017) cho thấy thành tích trí nhớ ngắn hạn và dài hạn trên 247 nghiệm thể trong độ tuổi trưởng thành có hiệu quả thực hành được thể hiện đáng kể. Về kết quả chiến lược mã hóa mà nghiệm thể sử dụng trong quá trình học tập là nhóm ngữ nghĩa và nhóm nối tiếp cho thấy không có tương quan ý nghĩa giữa nhóm ngữ nghĩa và nhóm nối tiếp đối với thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A. Nhóm theo ngữ nghĩa được xem là một chiến lược ghi nhớ và học tập chủ động. Ngay khi nghe danh sách từ, nghiệm thể tự động tổ chức lại theo nhóm ngữ nghĩa và khi khôi phục trí nhớ, họ sẽ nhớ lại theo nhóm ngữ nghĩa. Mỗi từ trong một phân loại là gợi ý để khôi phục từ khác trong cùng phân loại đó. Điều này được gọi là khôi phục phụ thuộc vào gợi ý (cued recall) đã được chứng minh trong các thí nghiệm của Mantyla (1986), Endel Tulving và Zena Pearlstone (1966) (trích dẫn bởi Goldstein, 2014a). Trong nghiên cứu so sánh giữa nhóm suy giảm nhận thức (amnestic mild cognitive impairment) và nhóm nhận thức bình thường (cognitively normal) cho thấy có mối liên hệ giữa nhóm ngữ nghĩa suy giảm và thành tích thấp hơn (Malek-Ahmadi & cộng sự, 2011). Nghiên cứu này không tìm thấy tương quan ý nghĩa giữa nhóm ngữ nghĩa và thành tích nhớ tự do dài hạn, điều này có thể được giải thích bởi mẫu nhỏ và nghiệm thể tham gia nghiên cứu là sinh viên đại học có trí nhớ tốt trong dân số, có thể nghiệm thể sử dụng nhiều chiến lược ghi nhớ khác nhau nên việc sử dụng chiến lược nhớ theo nhóm phân loại không thể hiện rõ ràng trong thành tích nhớ dài hạn. Tuy nhiên, kết quả thống kê lại cho thấy có tương quan giữa hiệu ứng ban đầu và thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A. Biến hiệu ứng ban đầu dự báo đến 47,2% thành tích nhớ tự do dài hạn danh sách A ở trong nhóm nghiệm thể này. Atkinson và Shiffrin (1968) cho rằng nhớ những mục đầu danh sách thì dễ dàng do những từ này có nhiều cơ hội để nhẩm lại, vì vậy nó được mã hóa vào bộ nhớ một cách ổn định hơn; Craik và Lockhart (1972) cũng cho rằng những từ đầu được nhẩm lại nhiều hơn từ giữa và cuối, và dễ dàng áp dụng các chiến lược mã hóa sâu hơn (trích 333
  14. dẫn bởi Gavett & cộng sự, 2011). Chiến lược nhớ dựa trên hiệu ứng ban đầu cũng được xem là một chiến lược mã hóa tốt, mặc dù nó không phải là chiến lược ưu thế trong các chiến lược ghi nhớ. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Như vậy, nghiên cứu này cho thấy trắc nghiệm CVLT-VN bước đầu có độ tin cậy, có thể sử dụng trong nghiên cứu này. Nghiên cứu cho thấy không có tương quan ý nghĩa giữa chỉ số trí thông minh (IQ) và thành tích nhớ tự do dài hạn; có tương quan ý nghĩa giữa chiến lược mã hóa (cụ thể là hiệu ứng vị trí đầu) và thành tích nhớ tự do dài hạn. Trong các biến (tuổi, giới tính, IQ, hiệu ứng vị trí, nhóm ngữ nghĩa và nhóm nối tiếp) thì hiệu ứng vị trí đầu là biến dự báo tốt nhất cho thành tích nhớ tự do dài hạn. Nghiên cứu này có nhiều hạn chế, đó là: mẫu tham gia nghiên cứu khá nhỏ, chưa đại diện được cho dân số, chưa có sự cân đối về giới tính. Ngoài ra, có những hạn chế khác được kể đến như: danh sách từ chưa được tham khảo ý kiến chuyên gia về ngôn ngữ, có một số từ trong danh sách chưa thực sự thuần việt nhưng không kịp chỉnh sửa do thời gian hạn chế… Từ thực tế lấy số liệu, trong danh sách A có một số từ nên được chỉnh sửa lại, ví dụ như từ: sơ mi, váy dài, bột nêm; do liên quan đến yếu tố thuần việt, tính dễ nhầm lẫn,… Ngoài ra, năng lực trí tuệ cần được xác định bằng các trắc nghiệm khác mang tính khái quát hơn, có thể được đo lường vào thời điểm phù hợp để tránh việc nghiệm thể bị mệt mỏi, ảnh hưởng đến thành tích IQ. Dựa trên kết quả nghiên cứu ban đầu, tác giả đề xuất một số hướng nghiên cứu như sau: – Nghiên cứu hoàn thiện danh sách từ trong trắc nghiệm CVLT-VN để có thể sử dụng được trong thực hành lâm sàng. – Nghiên cứu đánh giá trí nhớ bằng lời trên trẻ em, so sánh giữa nhóm nghiệm thể có suy giảm trí nhớ và nhóm nghiệm thể không có suy giảm trí nhớ… – Lựa chọn sử dụng thêm các trắc nghiệm phi ngôn ngữ khác trong khoảng thời gian trì hoãn 20 phút. 334
  15. TÀI LIỆU THAM KHẢO Castro Dana (2015). Thăm khám tâm lý trong thực hành lâm sàng – công cụ đánh giá trí thông minh và nhân cách của trẻ em và người lớn. NXB Tri thức, Hà Nội. Campos-Magdaleno, M., Facal, D., Lojo-Seoane, C., Pereiro, A. X., & Juncos- Rabadán, O. (2017). Longitudinal Assessment of Verbal Learning and Memory in Amnestic Mild Cognitive Impairment: Practice Effects and Meaningful Changes. Frontiers in Psychology, 8. https://doi.org/10.3389/ fpsyg.2017.01231 Delis, D.C., Kramer, J.H., Kaplan, E., & Ober, B.A. (1987). California Verbal Learning Test. San Antonio, TX: The Psychological Corporation. Delis, D. C., Kramer, J. H., Kaplan, E., & Ober, B. A. (2000). The California verbal learning test – second edition. San Antonio: The Psychological Corporation. Dang, H. M., Weiss, B., Pollack, A., & Nguyen, M. C. (2011). Adaptation of the Wechsler Intelligence Scale for Children-IV (WISC-IV) for Vietnam. Psychological Studies, 56(4), 387-392. https://doi.org/10.1007/s12646-011- 0099-5 Duff, K. (2001). Practice effects, test-retest stability, and dual baseline assessments with the California Verbal Learning Test in an HIV sample. Archives of Clinical Neuropsychology, 16(5), 461-476. https://doi.org/10.1016/s0887- 6177(00)00057-3 DeJong, J., & Donders, J. (2010). Cluster subtypes on the California Verbal Learning Test-Second Edition (CVLT-II) in a traumatic brain injury sample. Journal of Clinical and Experimental Neuropsychology, 32(9), 953- 960. https://doi.org/10.1080/13803391003645640 Fukuda, K., Vogel, E., Mayr, U., & Awh, E. (2010). Quantity, not quality: the relationship between fluid intelligence and working memory capacity. Psychonomic Bulletin & Review, 17(5), 673-679. https://doi. org/10.3758/17.5.673 Gavett, B. E., & Horwitz, J. E. (2011). Immediate List Recall as a Measure of Short- Term Episodic Memory: Insights from the Serial Position Effect and Item Response Theory. Archives of Clinical Neuropsychology, 27(2), 125-135. https://doi.org/10.1093/arclin/acr104 Goetz, M. D. M. D., & Christopher G. Goetz, M. D. M. D. (2007). Textbook of Clinical Neurology. Elsevier Gezondheidszorg. Goldstein, B. E. (2014a). Cognitive Psychology: Connecting Mind, Research and Everyday Experience (4th ed.). Cengage Learning. 335
  16. Kreutzer, J., DeLuca, J., & Caplan, B. (2012). Encyclopedia of Clinical Neuropsychology: 4 Volume set (2011th ed.). Springer. Malek-Ahmadi, M., Raj, A., & Small, B. J. (2011). Semantic clustering as a neuropsychological predictor for amnestic-MCI. Aging, Neuropsychology, and Cognition, 18(3), 280-292. https://doi.org/10.1080/13825585.2010.54 0642 Schneider, W., & Niklas, F. (2017). Intelligence and Verbal Short-Term Memory/ Working Memory: Their Interrelationships from Childhood to Young Adulthood and Their Impact on Academic Achievement. Journal of Intelligence, 5(2), 26. https://doi.org/10.3390/jintelligence5020026 Shakeel, M. K., & Goghari, V. M. (2017). Measuring Fluid Intelligence in Healthy Older Adults. Journal of Aging Research, 2017, 1-6. https://doi. org/10.1155/2017/8514582 336
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2