intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ứng dụng một số mô hình khảo sát tác dụng của chất kháng nấm ex vivo trên candida albicans

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

57
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của nghiên cứu nhằm khảo sát điều kiện thích hợp để candida albicans phát triên dưới dạng biofilm và gây nhiễm móng thực nghiệm. Áp dụng các mô hình thực nghiệm này để khảo sát tác động của các chất kháng nấm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ứng dụng một số mô hình khảo sát tác dụng của chất kháng nấm ex vivo trên candida albicans

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> ỨNG DỤNG MỘT SỐ MÔ HÌNH KHẢO SÁT TÁC DỤNG<br /> CỦA CHẤT KHÁNG NẤM EX VIVO TRÊN CANDIDA ALBICANS<br /> Nguyễn Vũ Giang Bắc*, Nguyễn Đinh Nga*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu nghiên cứu: khảo sát điều kiện thích hợp để Candida albicans phát triên dưới dạng biofilm và gây<br /> nhiễm móng thực nghiệm. Áp dụng các mô hình thực nghiệm này để khảo sát tác động của các chất kháng nấm.<br /> Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát các điều kiện môi trường, lượng nấm, thời gian ủ thích hợp để C.<br /> albicans phát triển ở dạng biofilm trên bảng nhựa 96 giếng và nhiễm móng cô lập. Sử dụng mô hình để khảo sát<br /> tác động của một chất kháng nấm có nguồn thực vật, so sánh với ketoconazol, nystatin, terbinafin. Qua đó xác<br /> định cách đọc và điểm dừng đọc kết quả.<br /> Kết quả: Đã đề nghị được các điều kiện để C. albicans phát triển ở dạng biofilm trên bảng nhựa 96 giếng và<br /> nhiễm móng cô lập. Xác định được cách đọc và điểm dừng đọc kết quả thích hợp. Nồng độ tối thiểu ức chế C.<br /> albicans dạng biofilm của các chất thử thường cao hơn nồng độ ức chế dạng men. Nồng độ diệt C. albicans trên<br /> móng nhiễm của các chất thử thấp hơn ketoconazole và terbinafin và phù hợp với liều của các chất này ở các<br /> thuốc dùng ngoài.<br /> Kết luận: Có thể sử dụng các mô hình thử nghiệm hoạt tính kháng C.albicans ex vivo để phỏng đoán liều<br /> thử nghiệm in vivo của một số chất kháng nấm mới.<br /> Từ khóa: Candida albicans, ex vivo, biofilm, móng nhiễm<br /> <br /> ABSTRACT<br /> EX VIVO MODELS FOR TESTING ANTIFUNGAL ACTIVITY AGAINST CANDIDA ALBICANS<br /> Nguyen Vu Giang Bac, Nguyen Dinh Nga<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 86 - 89<br /> Objective: study experimental condition for biofilm’s formulation and nail infection of Candida albicans.<br /> Using these model to test antifungal activity of several compounds.<br /> Method: survey medium, volume of colonies, incubation time for formulating biofilm on 96-well plate and<br /> infecting nail of Candida albicans. Applied these model for antifungal agents from medical plants, compared with<br /> ketoconazole, terbinafine and nystatine. Whereby, determine method and breakpoint to observe results.<br /> Result: we determined conditions for Candida albicans to form biofilm on 96-well plate and infect nail,<br /> method to obtain results and breakpoints. The MICs of these compounds against Candida albicans biofilm were<br /> higher than MICs against yeast cells. The MFCs on nail infected were lower than ketoconazole and terbinafine, it<br /> is suitable to dermal dosage of these compounds.<br /> Conclusion: We could use these ex vivo models to guess in vivo dosage of new antifungal agents, therefore,<br /> it could decrease time and expenditure for research.<br /> Keyword: Candida albicans, ex vivo, biofilm, nail infected<br /> <br /> <br /> <br /> Khoa Dược, Đại học Y Dược TPHCM<br /> Tác giả liên lạc: DS. Nguyễn Vũ Giang Bắc ĐT: 093 404 1225<br /> <br /> 86<br /> <br /> Email:giangbacnguyenvu@gmail.com<br /> <br /> Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Candida albicans là một vi nấm gây bệnh cơ<br /> hội ở người, hiện nay, vi nấm này đang được<br /> quan tâm không những ở lĩnh vực y học lâm<br /> sàng mà còn trong các nghiên cứu sinh học cơ<br /> bản. Trong điều kiện bình thường, Candida<br /> albicans là thành phần thuộc hệ vi sinh vật cộng<br /> sinh ở niêm mạc dạ dày ruột và niêm mạc âm<br /> đạo. Ở người khỏe mạnh, Candida albicans có thể<br /> gây ra một số bệnh lý nhiễm trùng ngoài da.<br /> Tuy nhiên, ở những bệnh nhân suy giảm miễn<br /> dịch thì sẽ phát triển dạng Candida lan tỏa. Có<br /> hai yếu tố quyết định độc lực của bệnh<br /> candidiasis là hình thành biofilm hoặc xuyên<br /> qua màng tế bào. Biofilm được định nghĩa là cấu<br /> trúc vi sinh bám lên bề mặt hoặc bao lấy khối<br /> vật liệu polymer1. Biofilm phát triển trên bề mặt<br /> của khoang miệng, thực quản, van tim. Ngoài<br /> ra, biofilm còn phát triển ở các vật liệu cấy ghép<br /> như máy điều hòa nhịp tim, stent, ống thông<br /> đường tiểu. Biofilm là nguyên nhân gây ra tái<br /> nhiễm và tăng khả năng đề kháng của Candida<br /> albicans với các thuốc kháng nấm.<br /> Ngoài ra khi nghiên cứu tác động của chất<br /> kháng nấm mới thường gặp vấn đề không<br /> tương đồng giữa tác động kháng nấm in vitro và<br /> in vivo. Do đó, việc sử dụng các mô hình thử<br /> nghiệm ex vivo trong nghiên cứu Candida albicans<br /> đang được quan tâm. Trong phạm vi nghiên<br /> cứu này, chúng tôi dò tìm điều kiện để C.<br /> albicans tạo biofilm trong bản nhựa polystyrene<br /> và nhiễm bệnh mô móng tay của người khỏe<br /> mạnh cắt rời, áp dung mô hình để khảo sát hoạt<br /> tính của một số chất kháng nấm.<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> Candida albicans ATCC 10231<br /> Chất kháng nấm:<br /> Dầu Riềng (DR) chiết từ thân rễ Riềng nếp<br /> Alpinia galangal Zingiberaceae, chứa ít nhất<br /> 45% acetoxychavicol aceate, định lượng bằng<br /> GC-MS.<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> cây Bông móng tay Impatiens balsamina L.<br /> Balsaminaceae, chứa khoảng 70% 2-methoxy1,4-naphthoquinon định lượng bằng phương<br /> pháp đo quang UV-Vis2<br /> Tinh dầu Hương nhu trắng (HNT) chiết từ<br /> cây Hương nhu trắng Ocimum gratissimum<br /> Lamiaceae chứa khoảng 60% eugenol, định<br /> lượng bằng GC-MS.<br /> Chất đối chiếu: ketoconazol, terbinafin HCl,<br /> nystatin<br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu:1, 3<br /> Điều kiện để C. albicans phát triển ở dạng<br /> biofilm trên bảng nhựa 96 giếng: C. albicans<br /> được hoạt hóa trong môi trường YPG lỏng ở<br /> nhiệt độ 37oC trong 48 giờ. Ly tâm và loại bỏ<br /> phần môi trường, cắn được rửa 2 lần với dung<br /> dịch PBS. Hòa tan phần cắn trong môi trường<br /> Glucose-Glycin sao cho số tế bào nấm men là 106<br /> CFU/ml (xác định bằng mật độ quang học<br /> OD=0,1). Dùng pipette nhiều kênh cho dịch nấm<br /> vào bảng nhựa 96 giếng. Đậy nắp và ủ ở nhiệt<br /> độ 37oC. Sau thời gian 48 giờ, hút bỏ phần môi<br /> trường, rửa giếng 2 lần với dung dịch PBS. Chú<br /> ý rửa nhẹ nhàng để tránh làm ảnh hưởng đến<br /> biofilm hình thành ở đáy giếng.<br /> <br /> Thử hoạt tính của chất kháng nấm trên dạng<br /> biofilm:<br /> Chất kháng nấm được hòa tan trong DMSO,<br /> sau đó được pha loãng trong môi trường YPG<br /> để có dãy nồng độ mong muốn trước khi cho<br /> vào bảng nhựa.<br /> Cao bông móng tay:<br /> µg/ml - 0,125 µg/ml<br /> <br /> 256<br /> <br /> Tinh dầu hương nhu:<br /> 0,00047 µg/ml<br /> <br /> 5 µl/ml -<br /> <br /> Nystatin:<br /> <br /> 32 µg/ml – 0,015 µg/ml<br /> <br /> Ketoconazol:<br /> <br /> 10 µg/ml – 0,00094 µg/ml<br /> <br /> Quan sát sự phát triển trở lại của vi nấm từ<br /> dạng biofilm bằng mắt thường để xác định nồng<br /> độ chất kháng nấm có khả năng ức chế dạng<br /> biofilm.<br /> <br /> Cao Bông móng tay (BMT) chiết từ vỏ qua<br /> <br /> Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br /> <br /> 87<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> Gây nhiễm C.albicans trên móng tay người<br /> khỏe mạnh:4<br /> Móng tay người tình nguyện, khỏa mạnh,<br /> không có bệnh gì về móng và không được sơn<br /> móng tay trong vòng 6 tháng được cắt thành<br /> mảnh 3x3 mm, rửa sạch 3 lần với EtOH 70% và<br /> nước muối sinh lý. Móng được làm khô ở nhiệt<br /> độ phòng trước khi gây nhiễm.<br /> C. albicans được hoạt hóa trong môi trường<br /> YPG lỏng ở nhiệt độ 37oC trong 48 giờ. Sau khi<br /> ly tâm, bỏ phần môi trường, phân tán đều phần<br /> cắn trong nước muối sinh lý để đạt số lượng vi<br /> nấm là 107 CFU/ml (xác định bằng buồng đếm<br /> hồng cầu Neubauer). Pha dịch treo vi nấm trong<br /> môi trường thạch nước sao cho nồng độ đạt 106<br /> CFU/ml trong hộp petri vô trùng. Đặt móng tay<br /> đã xử lý vào môi trường sao cho nền móng tiếp<br /> xúc với thạch chứa nấm, như vậy nấm chỉ sử<br /> dụng móng là nguồn dinh dưỡng duy nhất. Sau<br /> 7 ngày ử ở 37oC thì quan sát sự phát triển của vi<br /> nấm trên móng dưới kính hiển vi.<br /> <br /> Thử hoạt tính của chất kháng nấm:<br /> Chất kháng nấm được hòa tan trong dung<br /> dung dịch PEG:cồn tuyệt đối (75:25), rồi pha<br /> loãng trong môi trường thạch YPG để đạt dãy<br /> nồng độ thử nghiệm<br /> Terbinafin từ 2 – 0,06 %<br /> Ketoconazole: 2 – 0,06 %<br /> Cao bông móng tay: 0,5 – 0,015 %<br /> Dầu Riềng 0,03 - 0,5%<br /> Tinh dầu Hương nhu trắng 0,3-2,5%<br /> Móng sau khi gây nhiễm được chuyển sang<br /> môi trường có chứa chất thử sao cho lưng móng<br /> tiếp xúc với môi trường, nền móng hướng lên<br /> trên. Sau 2-3 ngày thì quan sát sự phát triển trở<br /> lại của vi nấm bằng mắt thường và kính hiển vi<br /> quang học để xác định khả năng kháng nấm của<br /> chất thử.<br /> Sau đó, chuyển móng sang môi trường<br /> thạch YPG sao cho nền móng tiếp xúc với môi<br /> <br /> định nồng độ tối thiểu diệt nấm trên mô móng.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Tác động của chất kháng nấm trên dạng<br /> biofilm<br /> Sau 48 giờ, quan sát dưới kính hiển vi soi<br /> ngược đã thấy biofilm hình thành ở đáy tất cả<br /> các giếng dưới dạng sợi nấm bám dính vào bảng<br /> nhựa.<br /> Bảng 1: Nồng độ tối thiểu ức chế C. albicans dạng<br /> biofilm của các chất kháng nấm<br /> Chất kháng nấm<br /> Cao BMT<br /> Tinh dầu HNT<br /> Dầu Riềng<br /> Nystatin<br /> Ketoconazol<br /> <br /> MIC biofilm<br /> (µg/ml)<br /> 32<br /> 2,5<br /> 8<br /> 3<br /> 1,25<br /> <br /> MIC in vitro (µg/ml)<br /> 16<br /> 0,6<br /> 1<br /> 2<br /> 0,03<br /> <br /> Ghi chú: Số liệu nhận được là trung bình của<br /> 9 lần lập lại thử nghiệm.<br /> Nồng độ tối thiểu ức chế C. albicans dạng<br /> biofilm của ketoconazol là 1,25 µg/ ml, cao<br /> hơn nồng độ MIC in vitro khoảng 40 lần.<br /> Trong khi đó, với các chất kháng nấm có<br /> nguồn gốc từ thực vật, nồng độ ức chế dạng<br /> biofilm chỉ cao hơn MIC in vitro từ 2-8 lần (cao<br /> BMT là 2 lần, tinh dầu HNT là 4 lần và DR là 8<br /> lần).<br /> <br /> Tác động kháng nấm trên mô hình móng<br /> nhiễm<br /> Bảng 2: Tác động kháng C.albicans ở mô hình móng<br /> của các chất kháng nấm<br /> Chất kháng nấm<br /> <br /> Cao BMT<br /> Tinh dầu HNT<br /> Dầu Riềng<br /> Terbibafin<br /> Ketoconazol<br /> <br /> Nồng độ chất thử (mg/ml)<br /> MIC<br /> MIC<br /> MFC<br /> in vitro<br /> ex vivo<br /> ex vivo<br /> 0,016<br /> 1,25<br /> 2,5<br /> 0,6<br /> 1,25<br /> 1,25<br /> 0,001<br /> 0,5<br /> 0,5<br /> 5<br /> 20<br /> -3<br /> 0,03x10<br /> 10<br /> 20<br /> <br /> Ghi chú: (-): không thử<br /> <br /> trường, ủ ở 37 oC trong 48 giờ, quan sát sự phát<br /> <br /> Các nồng độ thử nghiệm đạt được sau 6 lần<br /> <br /> triển trở lại của vi nấm. Giai đoạn này giúp xác<br /> <br /> thử với chứng dương là lô móng tay không<br /> <br /> 88<br /> <br /> Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> được tiếp xúc với chất thử.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Tác động kháng C.albicans ở mô hình tạo<br /> biofilm trên bản nhựa polystyrene<br /> Nystatin là chất diệt nấm nên MIC trên<br /> biofilm gần bằng MIC in vitro. Các chất còn lại<br /> đều có nồng độ tối thiểu ức chế dạng biofilm<br /> cao hơn nồng độ ức chế dạng men.<br /> Ketoconazole là chất kìm nấm thuộc nhóm 5imidazol, cho MIC trên biofilm gấp 40 lần nồng<br /> độ ức chế dạng men. Trong khi đó, các chất<br /> được chiết xuất từ dược liệu như cao BMT, dầu<br /> Riềng và tinh dầu Hương nhu trắng lại có MIC<br /> biofilm chỉ gấp 2-8 lần MIC in vitro. Đây có thể<br /> là những tiền đề cho nghiên cứu sâu hơn về các<br /> chất này.<br /> <br /> Tác động kháng C. albicans trên mô móng<br /> tay cô lập<br /> So sánh tác động kháng C.albicans của<br /> ketoconazol trên mô hình móng nhiễm có thể<br /> thấy sự tương đồng giữ nồng độ diệt nấm<br /> (MFC) và nồng độ của chế phẩm đang sử dụng<br /> trên thị trường là 2%. Điều này cho thấy mô<br /> hình móng nhiễm cô lập có thể là minh chứng<br /> <br /> Chuyên Đề Ký Sinh Trùng<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> khoa học cho việc dự đoán liều sử dụng in vivo<br /> cho các chất kháng nấm mới.<br /> Đối với các chiết xuất từ dược liệu, dầu<br /> Riềng có MIC in vitro thấp nhất nhưng MIC ex<br /> vivo cao gấp 500 lần. Cao BMT cho tác động<br /> kháng C.albicans trên móng nhiễm ở nồng độ<br /> 0,25%, chỉ gấp 156 lần MIC in vitro. Tinh dầu<br /> HNT cho tác động kháng C.albicans trên móng<br /> nhiễm chỉ gấp 40 lần MIC in vitro. Kết quả này<br /> cho thấy khả năng thấm vào móng tốt của các<br /> chiết xuất từ dược liệu hơn các chất hóa học.<br /> <br /> Tài liệu tham khảo<br /> 1.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> Erst JE and Roger PD (2007). Antifungal agent-methods and<br /> protocols. In: Erst J.E. Method in Molecular medicine,Vol.188,<br /> pp 71-75. Humana Press Inc, Totowa, NJ<br /> Trần Thành Đạo, Nguyễn Đinh Nga (2009). Tổng hợp và tác<br /> dụng kháng nấm của methyl lawson, thành phần chính của<br /> cây Bông móng tay. Tạp chí Dược học, 49(395): 29-32<br /> Vardecer-Unlu Gulhan (1998). A comparison of germ tube<br /> production by Candida albicans in three media. Tr.J. of Biology,<br /> 22: 2005-2010<br /> Yazdanparast SA and Richard CB(2006). Arthroconidia<br /> production in Trichophyton rubrum and a new ex vivo model of<br /> onychomycosis. Journal of Medical Microbiology, 55: 15771581<br /> <br /> 89<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2