Vai trò thế giới quan và phương pháp luận khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của các mác đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
lượt xem 2
download
Bài viết "Vai trò thế giới quan và phương pháp luận khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của các mác đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" làm sáng tỏ giá trị học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác với tư cách là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học để Việt Nam nhận thức và có những bước đi phù hợp trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Vai trò thế giới quan và phương pháp luận khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của các mác đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” VAI TRÒ THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA CÁC MÁC ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM An Thị Ngọc Trinh Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên hệ: An Thị Ngọc Trinh, email: antrinh38@hcmut.edu.vn Tóm tắt: Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, việc nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài người đã được các nhà khoa học phân tích ở nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Dựa trên kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong đó, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội được xem là “hòn đá tảng” của quan niệm duy vật về lịch sử, có sức sống vượt thời gian. Với bản chất khoa học và cách mạng, những kết luận mà C.Mác nêu ra trong học thuyết đã trở thành cơ sở lý luận khoa học để các đảng cộng sản nhận thức về tính chất thời đại và đề ra đường lối cách mạng đúng đắn cho sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Bài viết làm sáng tỏ giá trị học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác với tư cách là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học để Việt Nam nhận thức và có những bước đi phù hợp trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thông qua thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong hơn ba mươi lăm năm đổi mới để chứng minh giá trị khoa học và tính cách mạng trong học thuyết của C.Mác. Từ khóa: Học thuyết của C. Mác; hình thái kinh tế xã hội; chủ nghĩa xã hội; thế giới quan; phương pháp luận. 1. QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI THEO ĐIỂM CỦA C.MÁC Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác chứng minh tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội, là phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo xã hội. Theo quan điểm của C.Mác, có thể khái quát, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm 555
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Như vậy, phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ rõ kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà trong quá trình vận động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội. Ba yếu tố cơ bản trên đã tạo nên sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội, thông qua sự tác động tổng hợp của hai quy luật cơ bản là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự biến đổi, phát triển căn bản (nhanh hay chậm, ít hay nhiều) của kiến trúc thượng tầng xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình thái kinh tế mới, tiến bộ hơn ra đời. Cứ như vậy, lịch sử xã hội loài người là một tiến trình nối tiếp nhau từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây chính là sự thống nhất giữa quy luật chung cơ bản, phổ biến với quy luật đặc thù và quy luật riêng của lịch sử. Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội đã làm sáng tỏ những quy luật chi phối sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và thay thế nó bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Sự vận động của các giai đoạn phát triển của xã hội loài người đều do tác động của các quy luật khách 556
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” quan chi phối, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng, chủ quan của con người. Đó là quá trình lịch sử - tự nhiên của xã hội. C.Mác viết: “Tất cả sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995b, 166). Quan điểm trên thể hiện rõ tính khoa học về lịch sử phát triển của xã hội, đưa tới một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về quá trình phát triển của xã hội loài người. Có thể nói, C.Mác là người đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người. Đề cập công lao to lớn này của C.Mác, Ph.Ăng ghen viết: “Giống như Đác uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995a, 496). Nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác khẳng định hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch sử xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang, phát triển cuối cùng của xã hội loài người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản đã quyết định sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Những tiền đề vật chất cho sự vận động, phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội tư bản. Đó là lực lượng sản xuất hiện đại với tính chất xã hội hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến, cách mạng, đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Tiền đề lý luận cho sự vận động phát triển xã hội đã xuất hiện, đó là hệ tư tưởng Mác - Lênin khoa học và cách mạng. Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phải thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, V.I.Lênin viết: “Sau khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, Mác đã hiểu rằng chủ nghĩa tư bản phát triển tất nhiên đưa đến chủ nghĩa cộng sản - đây là điều căn bản - khi chứng minh chân lý đó, Mác chỉ dựa trên việc nghiên cứu xã hội tư bản đó một cách chính xác nhất, tỉ mỉ nhất, sâu sắc nhất, nhờ việc nắm vững đầy đủ tất cả những cái mà khoa học trước đây đã cung cấp” (V.I.Lênin, 1978, 361). Sự vận động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao đó là con đường phát triển chung của nhân loại. Bên cạnh đó, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị tác động của các quy luật chung, còn bị tác động bởi các điều kiện đặc thù và tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện kinh tế. C.Mác và Ph.Ăghghen gọi 557
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG là sự phát triển đột biến, đứt đoạn, không bình thường như đã tiếp diễn ra ở một số xã hội nhất định. Nhận định này được V.I.Lênin tiếp tục phát triển khi chỉ rõ: “Tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại, còn bao trùm một số giai đoạn phát triển mang những điểm về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó” (V.I.Lênin, 1978b, 431). Bản chất của việc “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội là sự phát triển rút ngắn của xã hội. Đó là rút ngắn các giai đoạn, bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất. V.I.Lênin kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự đoán khả năng các nước lạc hậu phát triển lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế - xã hội đã có, nhưng do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự tác động của nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự, có những quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Vì vậy, việc phát triển bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội, bên cạnh những điều kiện khách quan của thời đại, còn phù thuộc vào nhân tố chủ quan của mỗi quốc gia, dân tộc. Lênin đã nhấn mạnh rằng: đi lên chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa - là “điều không tránh khỏi” đối với tất cả các quốc gia. Vận dụng và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới, sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô - Viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (hiểu theo nghĩa con đường rút ngắn )” (V.I.Lênin, 1978b, 295). Tuy nhiên, đi lên chủ nghĩa xã hội như thế nào, bằng con đường nào thì mỗi quốc gia cũng “hoàn toàn không giống nhau”, phải kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù để tìm ra con đường, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa đúng với quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Theo đó, đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu nhằm chuẩn bị mọi điều kiện vật chất, kỹ thuật, đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội, tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 558
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp, đối với những nước có điểm xuất phát thấp thì còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần. Như vậy, học thuyết của C.Mác không chỉ xác định các yếu tố cấu thành nên hình thái kinh tế - xã hội, mà còn phân tích sự vận động của xã hội trong một quá trình phát triển liên tục theo quy luật khách quan. Đó là một học thuyết cho đến nay vẫn tràn đầy sức sống và sẽ mãi trường tồn mãnh liệt, là cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu, xem xét, phân tích lịch sử xã hội và nhận thức đúng đắn về nội dung, tính chất của thời đại ngày nay. Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác là sự thống nhất biện chứng giữa tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc. Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội là một vấn đề mang tính chất nền tảng, từ đó quan niệm duy vật biện chứng về xã hội không còn là một giả thuyết, mà được chứng minh một cách khoa học và trở thành kim chỉ nam cho nhận thức và hành động của các đảng cộng sản và phong trào cách mạng thế giới. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời đem lại một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Đây là biểu hiện tập trung của quan niệm quy vật biện chứng về lịch sử xã hội, bác bỏ quan niệm trừu tượng, duy vật tầm thường, duy tâm, phi lịch sử về xã hội trước đó, trở thành hòn đá tảng của khoa học xã hội, cơ sở phương pháp luận khoa học và cách mạng cho sự phân tích lịch sử xã hội. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu hình trước đó đã thống trị trong khoa học xã hội. Chỉ ra động lực phát triển của lịch sử xã hội không phải do một lực lượng tinh thần hoặc lực lượng siêu nhiên thần bí nào cả, mà do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất dưới sự tác động của các quy luật khách quan. Xuất phát từ việc đánh giá cao chủ nghĩa duy vật lịch sử, V.I.Lênin đã bảo vệ kiên định những nguyên lý lý luận của C.Mác, khẳng định bản chất khoa học và cách mạng trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, cách mạng Tháng Mười Nga thành công, và với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã mở đầu thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó là sự ra đời của nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, châu 559
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Á, châu Mỹ đã minh chứng cho tính chất khoa học và cách mạng của học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế - xã hội, mà những người từng phê phán C.Mác cũng phải khẳng định “có sức thuyết phục như bản thân sự thật”. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học và cách mạng trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái, phiến diện về xã hội. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, các học giả tư sản tỏ ra phản đối học thuyết của Mác về hình thái kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là sự thất bại của mô hình cụ thể về xây dựng chủ nghĩa xã hội - mô hình Xô Viết. Một trong những nguyên nhân của sự sụp đổ đó là chưa vận dụng và thực hiện đúng đắn học thuyết của Mác về hình thái kinh tế - xã hội. Những bài học thành công và thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sẽ giúp cho mô hình chủ nghĩa xã hội trong tương lai tránh được sai lầm, khuyết điểm. Bên cạnh đó, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cũng là cơ sở lý luận, khoa học để phê phán quan điểm của một số học giả khi tuyệt đối hóa cách tiếp cận về phát triển xã hội bằng các nền văn minh, Alvin Toffler là một điển hình. Mặc dù nghiên cứu của họ mang tính duy vật, biện chứng về sự phát triển xã hội, có những dự báo khá rõ ràng về những biến đổi tương lai,… tuy nhiên những nghiên cứu của họ chưa chỉ ra chủ nhân của từng xã hội, lực lượng quan trọng thực hiện sự chuyển biến giữa các hình thái kinh tế xã hội; chưa chỉ rõ nguồn gốc sâu xa của những biến đổi xã hội cũng như tính tất yếu của sự chuyển biến sang hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn. Điều này càng chứng minh tính khoa học trong học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của Mác. Do vậy, có thể nói, trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển vô cùng đa dạng và phức tạp của các dân tộc, quốc gia thì quan niệm duy vật về lịch sử mà nội dung cốt lõi là lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác vẫn là công cụ sắc bén nhất giúp con người nhận thức và tìm ra tiến trình vận động và phát triển của xã hội. Với học thuyết của Mác về hình thái kinh tế - xã hội, con người hoàn toàn có thể tin tưởng vững chắc rằng, mặc dù lịch sử xã hội loài người phải trải qua sự vận động và phát triển với những khúc quanh co, phức tạp, thì xu hướng chung của nó vẫn cứ diễn ra theo con đường lịch sử tự nhiên, đó là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội và đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. 560
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Hiện nay, so với thời đại của C.Mác, khoa học - công nghệ có những bước tiến nhảy vọt góp phần tạo ra một lực lượng sản xuất phát triển mà nhân loại chưa từng chứng kiến. Quá trình quốc tế hóa mà C.Mác nói đến vào thế kỷ XIX đã thực sự trở thành quá trình toàn cầu hóa trong thời đại chúng ta. Ở các mức độ khác nhau, tất cả các nước đều bị cuốn vào toàn cầu hóa, bởi vì nó đã xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi. Trong bối cảnh đó, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của Mác cần được bổ sung, phát triển. V.I.Lênin - Người đã không ngừng bảo vệ, phát triển học thuyết Mác, đã nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” (V.I.Lênin, 1978c, 213). 2. VAI TRÒ THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam thật sự chưa có tiền lệ trong lịch sử nhưng đây là con đường có tính tất yếu khách quan, phù hợp với lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đây là sự nghiệp khó khăn, lâu dài, vô cùng phức tạp, vì nó phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trước yêu cầu trên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: Thành công hay thất bại trong nắm vững và xử lý những khó khăn thách thức trước mắt và lâu dài phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, sự đồng lòng của nhân dân ta. Vì vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đóng vai trò là thế giới quan và phương pháp luận quan trọng trong việc hình thành quan điểm khoa học, định hướng nhận thức đúng đắn và hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu nhất. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: - Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định con đường phát triển của Việt Nam. Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách 561
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chủ trương: tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội thứ XI của Đảng (tháng 1-2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 37). Đây chính là sự lựa chọn đúng đắn, có khả năng, có điều kiện để thực hiện. Mặc dù chủ nghĩa tư bản đang có sự điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thời kỳ quá độ gián tiếp với “đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 42). Qua quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra thực chất của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu của nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 84). Đây là tư tưởng mới, phán ánh nhận 562
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” thức mới, tuy duy mới của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thế giới quan của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà nội dung cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác đã giúp Đảng cộng sản Việt Nam nhìn nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, bối cảnh mới. Quán triệt và vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam tiếp tục khẳng định: Với lợi thế của thời đại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, sau khi giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chúng ta có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài bởi vì, “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 56). Tuy nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, V.I.Lênin chỉ rõ: “trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”... phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển theo cách thức: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài” (V.I.Lênin, 1978d, 228-229). Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh phát huy tất cả những nội lực, tiềm năng của đất nước, Việt Nam đã và đang không ngừng kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản trên quan điểm khoa học, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lý để phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát triển nhanh lực lượng sản xuất. - Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là đổi mới tư duy. Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một hành trình trong cả nhận thức và bước đi, trong cả tư duy lý luận và thực tiễn vận động, phát triển mà bắt đầu 563
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG từ tư duy, nhận thức lý luận. Nếu không đổi mới nhận thức, thay đổi tư duy, đặc biệt là tư duy lý luận thì sẽ không có thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay. Một trong những điểm nhấn của thế giới quan, phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chính là phương pháp biện chứng, đó là sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới. Đó chính là những yếu tố đã góp phần xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, về xây dựng kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, về mô hình chủ nghĩa xã hội, về các bước đi, cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội, đó chính là thế giới quan mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hơn ba mươi năm qua và sự phát triển của một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã và đang chứng minh điều đó. Những thành tựu của thực tiễn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng người dân, đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; năm 2008, ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức thu nhập trung bình và năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần, đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển… Xét trên nhiều phương diện cho thấy những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới đất nước đã khẳng định phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã giải quyết tốt vấn đề xã hội đặt ra, khẳng định tính đúng đắn về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Phát biểu tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. 564
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Nguyễn, 2021, 3). Như vậy, có thể thấy sự đúng đắn trong nhận thức, tư duy và hành động của Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, một xã hội thực sự vì con người; một xã hội luôn đảm bảo “phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, phát triển bền vững, hài hòa để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai” (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994). Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Thành tựu đạt được trong hơn 35 năm đổi mới chính là kết quả của tinh thần đoàn kết, thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây cũng chính là điều kiện, tiền đề để Việt Nam thực hiện mục tiêu “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 36) mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra. - Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học để Việt Nam đấu tranh chống lại nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện, hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ, thì học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá bối cảnh mới, đánh giá cục diện thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng tình hình đất nước và con đường phát triển trong tương lai. Hiện nay, các thế lực phản động, thù địch chống phá Đảng ngày càng có hệ thống, tổ chức chặt chẽ, thủ đoạn rất tinh vi, chống phá toàn diện trên nhiều phạm vi, lĩnh vực, không chỉ đơn thuần là vấn đề lý luận mà còn bao hàm cả các vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Những hoạt động chống phá đều nhằm tác động vào nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng 565
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nhân dân, nhất là với những người thiếu bản lĩnh, nhận thức mơ hồ và những kẻ bất mãn vì cho rằng mình không được trọng dụng, đãi ngộ... từ đó gây hoài nghi, suy giảm niềm tin vào Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có những cá nhân bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội… Vì vậy, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực, thế giới và dự báo xu thế phát triển của thời đại, Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương hướng công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ 2021 - 2026 là: “Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng… Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; coi trọng hơn nữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 36). Đứng trước một số biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã sớm nhận ra phải xây dựng một mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng cơ bản. Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định tám phương hướng và mười hai nhiệm vụ cơ bản đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng "một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người. Mô hình chủ nghĩa xã hội này cũng chính "là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người” (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994; Nguyễn, 2021). 566
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 3. KẾT LUẬN Trước những biến đổi của lịch sử thế giới và trước những luận điểm sai trái phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói riêng, tính khoa học và tính cách mạng của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và ý nghĩa thời đại sâu sắc. Nếu như thế giới quan của học thuyết hình thái là cơ sở lý luận giúp Việt Nam xác định con đường, bước đi, thì phương pháp luận của học thuyết giúp chúng ta giải quyết tốt những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn qua 35 năm qua đổi mới. Trên cơ sở phương pháp luận của học thuyết, Việt Nam đã giải quyết tốt các mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền tảng cho việc giải quyết tốt các mối quan hệ khác. Điều này phù hợp với thực tiễn chung của thế giới, của toàn cầu hóa, của sự phát triển khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy định vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội ngày càng quan trọng, đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển lý luận hình thái kinh tế - xã hội để ngày càng phát huy tác dụng và sức sống của học thuyết đối với thời đại và đất nước. Với tinh thần khoa học và khách quan, chúng ta cần nghiên cứu, làm rõ những giá trị mang tính khoa học - thực tiễn bền vững của học thuyết đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vô cùng cần thiết. Sứ mệnh của chúng ta là tiếp tục lan tỏa giá trị của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác trên tinh thần của một học thuyết khoa học, cách mạng và phát triển - mãi là hòn đá tảng cho nghiên cứu về xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 19). (1995a). Chính trị quốc gia. [2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 23). (1995b). Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. 567
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [5]. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. (1994). Mấy vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong giai đoạn hiện nay. Trung tâm Thông tin - Tư liệu. [6]. Nguyễn, P. T. (2021, May 17). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo Nhân Dân, 23945. https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve- chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/ [7]. V.I.Lênin. (1978a). Toàn tập (Vol. 41). Tiến bộ. [8]. V.I.Lênin. (1978b). Toàn tập (Vol. 45). Tiến bộ. [9]. V.I.Lênin. (1978c). Toàn tập (Vol. 33). Tiến bộ. [10]. V.I.Lênin. (1978d). Toàn tập (Vol. 36). Tiến bộ. 568
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chương 1: Thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
63 p | 994 | 91
-
Chuyên đề: Chủ nghĩa duy vật mác xít với việc xây dựng thế giới quan khoa học cho đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay
46 p | 609 | 73
-
Bài giảng Triết học (cao học): Chương I - PGS.TS. Phạm Công Nhất
14 p | 297 | 63
-
Bài giảng Tâm lý học quản lý: Xây dựng văn hóa tổ chức - vai trò của người quản lý - PGS.TS. Ngô Minh Tuấn
19 p | 218 | 51
-
Bài giảng Triết học Mác – Lênin cơ sở thế giới quan và phương pháp luận chung cho nhận thức và hoạt động thực tiễn
27 p | 351 | 39
-
Ngoại giao văn hóa và vai trò của nó đối với chính trị Việt Nam từ 1986 đến nay
9 p | 287 | 33
-
Bài giảng Chuyên đề 1: Thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò phương pháp luận trong nghiên cứu kinh tế
20 p | 232 | 31
-
Mối quan hệ giữa Triết học và các khoa học dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay
10 p | 139 | 17
-
Bài kiểm tra quá trình: Phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm làm rõ vai trò của Triết học đối với đời sống xã hội
15 p | 112 | 16
-
Bài giảng Triết học - Chương 1
9 p | 297 | 13
-
Chủ nghĩa Mác - Lênin với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên
7 p | 117 | 10
-
Bài giảng Triết học Mác - Lênin: Chương 3 - Mối quan hệ giữa Triết học và các khoa học (Dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh các ngành Khoa học Tự nhiên và Công nghệ)
17 p | 31 | 9
-
Bài giảng Triết học - Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
14 p | 90 | 8
-
Giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên hiện nay
3 p | 17 | 5
-
Thế giới quan huyền thoại của người Việt cổ
4 p | 169 | 4
-
Vai trò giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên Việt Nam hiện nay
4 p | 29 | 2
-
Phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên trường chính trị trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
15 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn