JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2017, Vol. 62, No. 2, pp. 134-144<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0019<br />
<br />
VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ CỦA THỰC DÂN PHÁP<br />
Ở TỈNH SƠN LA TỪ NĂM 1895 ĐẾN NĂM 1945<br />
Tống Thanh Bình<br />
<br />
Khoa Sử - Địa, Đại học Tây Bắc<br />
Tóm tắt. Bài báo viết về vấn đề đầu tư của thực dân Pháp tại tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến<br />
năm 1945, bao gồm những nhân tố ảnh hưởng, vốn, lĩnh vực đầu tư và nhận xét những tác<br />
động của việc Pháp đầu tư tới tỉnh Sơn La. Từ những số liệu trong các báo cáo kinh tế của<br />
Pháp ở các tài liệu lưu trữ, đối chiếu với nhiều nguồn tư liệu khác, bằng phương pháp lịch<br />
sử, phương pháp logic và các phương pháp liên ngành, tác giả đi đến những nhận xét về vấn<br />
đề đầu tư của Pháp ở Sơn La như sau: Số vốn đầu tư không nhiều, tập trung vào hệ thống<br />
cơ sở hạ tầng là chủ yếu, trong khi việc khai thác mỏ và nguồn lợi từ nông nghiệp - vốn<br />
là hai đối tượng chính của cuộc khai thác lại không được chú ý. Đây là một trong những<br />
nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế, xã hội trì trệ ở tỉnh Sơn La nửa đầu thế kỉ XX.<br />
Từ khóa: Đầu tư, tỉnh Sơn La, thời Pháp thuộc, 1895 – 1945.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Sơn La - một tỉnh miền núi phía Tây Bắc Việt Nam, là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng,<br />
trung tâm của khu vực Tây Bắc, tiếp giáp hai tỉnh Hủa Phăn và Luông Pha Băng của Lào và một<br />
số tỉnh thuộc Đông Bắc, Bắc Miền Trung, Tây Bắc Việt Nam. Vị trí địa lí cùng nguồn tài nguyên<br />
phong phú đã thu hút sự quan tâm của thực dân Pháp từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX.<br />
Từ trước tới nay, việc nghiên cứu về tỉnh Sơn La tập trung chủ yếu trên khía cạnh dân tộc<br />
học, văn hóa hoặc lịch sử đảng, trong khi nghiên cứu về lịch sử kinh tế chưa thực sự được chú ý.<br />
Một số cuốn sách tiêu biểu về tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc chủ yếu viết về quá trình Pháp xâm<br />
lược và quá trình đấu tranh chống Pháp của nhân dân Tây Bắc, dung lượng viết về kinh tế Sơn La<br />
thời Pháp thuộc không nhiều, vấn đề đầu tư của thực dân Pháp gần như không được bàn đến. Điều<br />
đó khiến cho việc tìm hiểu về tình trạng kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La thời gian này gặp nhiều khó<br />
khăn.<br />
Trên bình diện cả nước, việc nghiên cứu về vấn đề đầu tư của Pháp và đầu tư từng lĩnh vực<br />
đã được các nhà nghiên cứu ngày càng quan tâm. Tác giả Tạ Thị Thúy đã đề cập đến vấn đề đầu tư<br />
của Pháp trên quy mô cả nước trong thời gian từ năm 1919 đến năm 1929. Tác giả Nguyễn Ngọc<br />
Cơ và Lê Thị Hương đề cập đến quá trình thăm dò, khai thác và chế biến quặng kim loại ở Cao<br />
Bằng thời Pháp thuộc. Tiếp đó, năm 2009, tác giả Hà Thị Thu Thủy nghiên cứu về hoạt động khai<br />
thác mỏ kim loại của tư bản Pháp ở Thái Nguyên (1906 – 1945). Ở miền Nam, hệ thống giao thông<br />
Ngày nhận bài: 15/9/2016. Ngày nhận đăng: 20/4/2017<br />
Liên hệ: Tống Thanh Bình, e-mail: tongbinhnwuni@gmail.com<br />
<br />
134<br />
<br />
Vấn đề đầu tư của thực dân Pháp ở tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945<br />
<br />
ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1860 – 1945) được nhóm tác giả: Ngô Minh Oanh, Bành Thị Hằng<br />
Tâm nghiên cứu. . . Những công trình trên đã phần nào phản ánh quy mô, mức độ và kết quả đầu<br />
tư của Pháp ở các tỉnh thành trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào tìm hiểu về<br />
việc Pháp đầu tư ở Sơn La – một tỉnh miền núi có nhiều khác biệt so với các tỉnh thành khác: cách<br />
xa các trung tâm lớn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tài nguyên phân tán, trữ lượng không nhiều,<br />
địa hình chia cắt, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu. . .<br />
Dựa trên những số liệu từ các tài liệu lưu trữ, đối chiếu với nhiều nguồn tư liệu của địa<br />
phương, bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic và các phương pháp liên ngành,<br />
tác giả sẽ trình bày về mức độ đầu tư của Pháp trên từng lĩnh vực, từ đó lí giải những nhân tố tác<br />
động đến việc đầu tư của Pháp và đánh giá hệ quả của việc đầu tư tới kinh tế, xã hội của tỉnh Sơn<br />
La thời Pháp thuộc.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Những nhân tố tác động đến việc đầu tư của Pháp ở Sơn La<br />
<br />
2.1.1. Điều kiện tự nhiên<br />
Địa hình: Tỉnh lị Sơn La cách thủ đô Hà Nội 320 km, nằm sâu trong nội địa, cách xa các<br />
trung tâm lớn nên việc đi lại khó khăn. Địa hình có độ dốc lớn và mức độ chia cắt sâu, chia cắt<br />
ngang mạnh ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động sản xuất.<br />
Khí hậu: Sơn La thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, mùa đông lạnh khô, mùa hè nóng<br />
ẩm, mưa nhiều. Mùa khô kéo dài gây thiếu nước cho cây trồng, mùa mưa với lượng nước lớn gây<br />
lũ lụt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất.<br />
Sông ngòi: Hệ thống sông suối ở Sơn La có mật độ khá dày, phân bố không đều, độ dốc<br />
lớn, nhiều thác ghềnh gồm Sông Đà, sông Mã cùng hàng chục suối lớn và hàng trăm suối nhỏ. Hệ<br />
thống sông suối có giá trị kinh tế cao trong khai thác thủy điện và nông nghiệp.<br />
Đất: Đặc điểm chung của đất Sơn La là tầng đất khá dầy, thấm nước tốt, tỉ lệ đạm và lân<br />
trong đất cao. Dọc Quốc lộ 6 là 2 cao nguyên: Mộc Châu và Nà Sản, tương đối rộng và bằng phẳng,<br />
đất đai màu mỡ, là những điều kiện thuận lợi để hình thành những vùng sản xuất nguyên liệu lớn,<br />
quy mô tập trung.<br />
Nước: Nguồn nước gồm nước mặt, nước ngầm và nước nóng nước khoáng. Việc điều tiết<br />
nguồn nước rất quan trọng để phục vụ các hoạt động sản xuất.<br />
Rừng: Sơn La được ví là mái nhà phòng hộ cho đồng bằng Bắc Bộ, có vai trò quan trọng<br />
trong việc phòng chống xói mòn, rửa trôi, ngăn chặn lũ. Nguồn lợi từ rừng tương đối lớn với hệ<br />
động, thực vật phong phú, đa dạng. Nhờ có luật tục bảo vệ rừng nên thời Pháp thuộc, dù không có<br />
phân bón cho cây trồng nhưng chất lượng đất rất tốt để canh tác.<br />
Tài nguyên khoáng sản: Sơn La có rất nhiều, trong đó có những loại khoáng sản quý như<br />
Niken, đồng, than, vàng, thủy ngân, Ma-nhê-zit đá vôi, sét cao lanh nhưng chủ yếu là mỏ nhỏ,<br />
phân bố rải rác trên khắp địa bàn tỉnh, trữ lượng không lớn và điều kiện khai thác không thuận lợi.<br />
Đặc điểm này chi phối lớn tới hoạt động khai thác mỏ của Sơn La thời Pháp thuộc.<br />
Thiên nhiên ưu đãi đã khiến con người ở đây khá an phận, họ không đầu tư nhiều cho sản<br />
xuất, sản phẩm làm ra chỉ đủ dùng, không trở thành hàng hóa để trao đổi.<br />
<br />
135<br />
<br />
Tống Thanh Bình<br />
<br />
2.1.2. Xã hội<br />
Sơn La thời Pháp thuộc có 12 dân tộc sinh sống gồm: Kinh, Thái, Mông, Mường, Dao, Lào,<br />
La Ha, Xinh Mun, Khơ Mú, Hoa, Tày, Kháng. Trong đó, dân tộc Thái chiếm đa số, dân tộc Kinh<br />
và Hoa chiếm tỉ lệ vô cùng ít ỏi. Ngoài ra, còn một bộ phận nhỏ người Pháp lên sinh sống, làm<br />
việc ở Sơn La với số lượng ít, chiếm gần 0,02 % dân số [1; 43] và thường xuyên thuyên chuyển.<br />
Người Thái sống tập trung vùng thung lũng có nhiều ruộng nước, hầu hết các dân tộc khác<br />
như người Mông và các tộc người Xá (La Ha, Khơ mú, Xinh Mun, Kháng. . . ) bị đẩy lên vùng cao.<br />
Người Kinh và người Hoa chủ yếu sống ở khu vực trung tâm châu lị, tỉnh lị và các cảng sông để<br />
buôn bán, khai mỏ. Theo nhận xét của người Pháp, người Thái rất an phận, họ chỉ sản xuất ra đủ<br />
dùng chứ không quan tâm đến việc tăng năng suất lao động. Vì thế, nền kinh tế luôn trong tình<br />
trạng tự cấp tự túc trong khi sự giao lưu về kĩ thuật sản xuất giữa người Kinh với các dân tộc không<br />
nhiều nên sự chuyển biến trong hoạt động sản xuất rất hạn chế.<br />
Với tỉ lệ dân cư chiếm số đông, cùng quá trình xác lập quyền lực của mình, người Thái có<br />
sức mạnh chi phối trong kết cấu xã hội tỉnh Sơn La. Họ vừa nắm quyền quản lí ruộng đất, vừa cai<br />
quản những người đồng tộc, khác tộc tạo nên chế độ phìa tạo rất đặc trưng trong xã hội Sơn La<br />
trước năm 1945.<br />
Chính trị<br />
Ngày 10 tháng 10 năm 1895 là mốc đánh dấu sự thành lập tỉnh Sơn La dưới sự quản lí của<br />
Pháp. Từ đây, tỉnh được điều hành bởi một Công sứ, một Phó Công sứ người Pháp, đội ngũ giúp<br />
việc và hệ thống chính quyền cũ của địa phương.<br />
Khác với các tỉnh đồng bằng, do số lượng ít, nhân viên Tòa Công sứ ở Sơn La phụ trách hầu<br />
hết các lĩnh vực mang tính kiêm nhiệm như: thu thuế, tài chính, tòa án, quân đội, sở công chính, sở<br />
thú y, giáo dục, y tế... Sự kiêm nhiệm đó khiến hoạt động của bộ máy chính quyền không hiệu quả,<br />
đó là chưa kể đến năng lực yếu kém của hệ thống chức dịch người địa phương - “Quan lại hương<br />
chức là những người lười nhác, kém thông minh và không có chí tiến thủ” [2] - ảnh hưởng đến các<br />
lĩnh vực kinh tế, xã hội của tỉnh.<br />
Kinh tế và cơ sở hạ tầng<br />
Nông nghiệp là hoạt động kinh tế chủ đạo, sản xuất theo lối manh mún, kĩ thuật canh tác<br />
lạc hậu, năng suất thấp. Thủ công nghiệp sản xuất chỉ phục vụ nhu cầu từng hộ gia đình, sản phẩm<br />
không trở thành hàng hóa. Công nghiệp gần như không có gì ngoài một số mỏ của người Hoa và<br />
người Việt với trữ lượng không đáng kể. Thương nghiệp không có điều kiện phát triển. Kinh tế<br />
Sơn La trước năm 1895 là nền kinh tế phong kiến lạc hậu, dựa vào thiên nhiên, tự cấp tự túc, hoạt<br />
động sản xuất mang tính độc lập từng gia đình.<br />
Trước năm 1895, đường xá đi lại vô cùng khó khăn do địa hình nhiều sông, suối, núi cao,<br />
vực sâu,. . . người dân đi lại chủ yếu bằng đường thủy qua hệ thống sông Đà, sông Mã, phương<br />
tiện di chuyển đường thủy chủ yếu bằng thuyền, bè. Đường bộ thường là những con đường mòn<br />
vừa bé lại chênh vênh theo sườn núi, rậm rạp, nhiều thú dữ. Việc di chuyển chủ yếu là đi bộ hoặc<br />
dùng trâu, bò, ngựa làm phương tiện. Chính vì sự cách trở đó nên việc thông thương rất khó khăn,<br />
mất nhiều thời gian.<br />
Các chương trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp<br />
Trên phạm vi cả nước, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) đã khiến<br />
cơ sở hạ tầng được đầu tư, các ngành kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. . . có<br />
nhiều chuyển biến. Cơ cấu kinh tế, xã hội thay đổi theo hướng hiện đại, xuất hiện mầm mống tư<br />
bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất tới Sơn La rất<br />
136<br />
<br />
Vấn đề đầu tư của thực dân Pháp ở tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945<br />
<br />
mờ nhạt. Về hướng đầu tư trong cuộc khai thác thuộc địa lần hai (1919 – 1929) có sự khác biệt rõ<br />
rệt so với lần thứ nhất: nông nghiệp là ngành được ưu tiên hàng đầu, tiếp đến là công nghiệp, mỏ,<br />
ngân hàng, thương nghiệp, giao thông. Số vốn đầu tư lớn, mức độ đầu tư quyết liệt hơn trước, dù<br />
vậy, cũng như cuộc khai thác lần thứ nhất, những chính sách khai thác lần thứ hai cũng không dẫn<br />
đến những chuyển biến mạnh mẽ trong kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La.<br />
Có thể thấy, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, chính trị của tỉnh Sơn La vừa có những<br />
thuận lợi vừa có những khó khăn trong việc phát triển kinh tế, xã hội. Trong 50 năm cai trị, thực<br />
dân Pháp đã đầu tư và khai thác nguồn tài nguyên ở một chừng mực nhất định, vừa du nhập những<br />
yếu tố mới vào hoạt động sản xuất và đời sống xã hội vừa kìm hãm kinh tế, xã hội địa phương<br />
trong sự trì trệ, lạc hậu.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Quá trình đầu tư của thực dân Pháp ở Sơn La (1895 – 1945)<br />
<br />
2.2.1. Vốn đầu tư<br />
Mục đích đầu tư của Pháp ở Sơn La<br />
Để đạt được mục đích khai thác nguồn tài nguyên, nhân lực, thị trường tiêu thụ. . . ở thuộc<br />
địa, hoạt động đầu tư phải diễn ra, song mức độ đầu tư ở mỗi vùng sẽ nhiều ít khác nhau, tùy thuộc<br />
tiềm năng vùng đất đó. Vì nhiều nguyên nhân, việc đầu tư của Pháp ở Sơn La khá mờ nhạt, tuy<br />
nhiên, hoạt động này vẫn diễn ra trong suốt 5 thập kỉ Pháp cai trị. Bất cứ nhà tư bản nào khi đầu tư<br />
luôn hướng đến lợi nhuận, ở Sơn La cũng không ngoại lệ song do những đặc điểm của địa phương<br />
nên mục đích đầu tư bị chi phối bởi nhiều nhân tố khác.<br />
Một trong những lí do để Pháp đầu tư ở Sơn La là tầm quan trọng của vị trí địa lí và sự<br />
đa dạng thành phần dân cư. Đây là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc Việt Nam Pháp không thể bỏ<br />
qua, Pháp muốn nắm được vùng đất này để kiểm soát những tỉnh còn lại của vùng Tây Bắc. Chỉ<br />
với tuyến đường nối từ Hà Nội tới Sơn La, Điện Biên, Lai Châu sẽ giúp Pháp khống chế được một<br />
phần quan trọng của vùng thượng du Bắc Kỳ. Đây cũng là nơi Pháp thực hiện chính sách “Chia<br />
để trị” với ý đồ lập một “xứ Thái tự trị” như đã tiến hành với xứ Mường ở Hòa Bình để có sự hậu<br />
thuẫn cho việc thống trị của Pháp trên toàn vùng Tây Bắc. Vì thế, bản thân thực dân Pháp cũng<br />
thừa nhận, những tuyến đường Pháp mở ra ở Sơn La mang tính chất chiến lược nhiều hơn thương<br />
mại. Chính vì vậy, việc tạo cơ hội phát triển một số ngành kinh tế tại địa phương cũng không ngoài<br />
mục đích thu hút người dân bản địa vào những công việc cụ thể, tạo sự ổn định về chính trị, xã hội.<br />
Có thể nói, việc đầu tư của Pháp tại Sơn La thiên về mục đích chính trị nhiều hơn những tính toán<br />
lợi ích kinh tế.<br />
Vốn đầu tư<br />
Số tiền đầu tư cho tỉnh được lấy từ hai nguồn chính: ngân sách liên bang và ngân sách tỉnh<br />
– là nguồn ngân sách có nguồn gốc từ các loại thuế: thuế trực thu (thuộc ngân sách cấp xứ, cấp<br />
tỉnh), thuế gián thu (thuộc ngân sách liên bang) và vốn vay của các cá nhân dưới hình thức công<br />
trái [3; 17]. Ngoài ra, phải kể đến nguồn vốn từ các quỹ tín dụng nông nghiệp và vốn tư nhân của<br />
tư bản chính quốc và tư bản bản xứ. Trên thực tế, nguồn vốn từ quỹ tín dụng nông nghiệp không<br />
mấy hiệu quả ở Sơn La “tập trung vào tay một nhóm nhỏ người, trong khi đại đa số cư dân lại<br />
không được hưởng một lợi ích gì của quy chế tín dụng này” [4;166]. Sau này có các hình thức tín<br />
dụng như Hội nông tín tương tế bản xứ, Bình dân nông phố ngân hàng nhưng không phát huy tác<br />
dụng, vì thế, nguồn vốn tư nhân đầu tư vào Sơn La vô cùng ít ỏi. Theo tài liệu chúng tôi có được,<br />
ngân sách đầu tư cho tỉnh Sơn La chủ yếu lấy từ ngân sách Liên bang và ngân sách tỉnh.<br />
Nguồn vốn từ thuế thân: Năm 1903, lần đầu tiên, chính quyền bảo hộ ban hành biểu thuế áp<br />
137<br />
<br />
Tống Thanh Bình<br />
<br />
dụng với dân tộc thiểu số ở vùng cao. “Ở tỉnh Vạn Bú (Sơn La), các hộ gia đình người Mèo, Mán,<br />
Dao, 2 đồng / 1 năm. Hộ gia đình người Xá 1 đồng / 1 năm và được miễn thuế ruộng đất. Còn lại<br />
các dân đinh thuộc dân tộc Thái phải đóng thuế thân như dân đinh người bản xứ ở vùng đồng bằng,<br />
tức là nội đinh đóng 2,5 đồng, ngoại đinh 0,3 đồng” [5; 32]. Biểu thuế này được áp dụng đến 1939,<br />
sau đó được thay thế bằng biểu thuế suất mới theo hướng tăng mức thuế cho mọi đối tượng. Trong<br />
đó, dân tộc Thái mức thuế hạng 13, 14 tương ứng việc đóng 2,5 đồng/1 năm và 1 đồng trên/1 năm,<br />
còn thuế hộ gia đình ở tỉnh Sơn La áp dụng đối với người Khạ (có thể là người Kháng – tác giả)<br />
và người Xá: Thuế hộ 1,5 đồng/1 năm, tiền chuộc lao dịch 5 ngày tương ứng đóng 0,5 đồng/1 năm<br />
[5;117-119]. Về thực chất, biểu thuế này là một sự bóc lột tinh vi của thực dân Pháp, những người<br />
có số ruộng đất không đáng kể trước đây không phải nộp thuế thì nay bị đánh đồng vào hạng 2,5<br />
đồng hoặc 1 đồng.<br />
Nguồn vốn từ thuế nhân lực: Chế độ đi sưu từ chỗ vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của<br />
người dân nay đã bị thay thế bằng thuế nhân lực, với giá 1,5 đồng cho 10 ngày/ 1 dân đinh. Trên<br />
thực tế, người dân vừa phải nộp tiền mà vẫn phải đi sưu dịch khi Nhà nước cần. Họ trở nên điêu<br />
đứng và bị bần cùng hóa.<br />
Nguồn vốn từ thuế ruộng đất: Từ năm 1926, một biểu thuế suất mới áp dụng chung cho<br />
người bản xứ, Á kiều và những người đồng hóa với mức định suất tăng hơn so với trước. Theo đó,<br />
ruộng trồng lúa chia làm 3 hạng, đối với đất trồng các loại cây khác chia thành 5 hạng. Bên cạnh<br />
đó còn có thuế phụ thu cho loại ruộng đất chính ngạch của người bản xứ, Á kiều và người đồng<br />
hóa. Biểu thuế trên áp dụng cho cả tỉnh Sơn La và được duy trì đến năm 1945.<br />
Bảng 1. Thuế trực thu của tỉnh Sơn La trong các năm<br />
<br />
Năm<br />
Ghi chú<br />
Thuế trực thu (Đồng)<br />
1902<br />
43.241,21<br />
1922<br />
52.000<br />
1923<br />
77.000<br />
83.675,17<br />
1927<br />
1928<br />
84.328<br />
Dự kiến<br />
Nguồn: Hồ sơ số RST 55027, RST 36550 – 21, RST 78527 – 01, TTLTQG I, Hà Nội [6-8]<br />
<br />
Do ngân sách thu được không nhiều, cộng với việc tính toán lợi nhuận không cao nên các<br />
khoản chi cho các lĩnh vực của tỉnh cũng hạn chế.<br />
<br />
2.3.<br />
<br />
Nội dung đầu tư<br />
<br />
2.3.1. Cơ sở hạ tầng<br />
Giao thông<br />
Đường bộ: 3 tuyến đường chính được Pháp mở ở Sơn La trong quá trình cai trị gồm:<br />
Tuyến đường 41 từ Suối Rút (Hòa Bình) lên Sơn La dài 251 km (tính đến năm 1935), sau<br />
này chính là tuyến đường huyết mạch Quốc lộ 6 nối Sơn La với Hà Nội.<br />
Tuyến đường Tạ Khoa – biên giới Lào (Sầm Nưa): dài 77,6 km, qua địa phận châu Phù,<br />
châu Mộc và đến biên giới Lào, sau này là đường Quốc lộ 43.<br />
Tuyến Sơn La – Tạ Bú: dài 29,5 km nối Sơn La với cảng Tạ Bú, sau này là đường tỉnh lộ<br />
106 nối Sơn La với Mường La.<br />
Ngoài ra còn có nhiều tuyến đường nhánh nối trung tâm các châu với mường, xã, bản nhưng<br />
chủ yếu là đường nhỏ, gồ ghề, rất khó đi.<br />
138<br />
<br />