TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 28, 2005<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH<br />
Tr ịnh Văn Sơn<br />
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Trong những năm qua với cơ chế nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của <br />
Nhà nước đã đưa đến những biến đổi to lớn về kinh tế và xã hội, sản xuất và đời <br />
sống trong nông nghiệp, nông thôn. Cùng với những thay đổi đó, vai trò chủ yếu của <br />
các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp cũng có những đổi thay theo hướng đa dạng và <br />
hiệu quả. Chức năng chủ yếu của các HTX nông nghiệp hiện nay là thực hiện hoạt <br />
động dịch vụ trong nông nghiệp, đáp ứng các nhu cầu về sản xuất và tiêu thụ nông <br />
sản phẩm hàng hoá cho các hộ gia đình nông dân, đồng thời góp phần thúc đẩy quá <br />
trình phân công lại lao động xã hội và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông <br />
nghiệp, nông thôn.<br />
Trong giai đoạn 2000 đến 2003, hầu hết các HTX ở tỉnh Bình Định đã có những <br />
chuyển đổi cơ bản về cả phương diện số lượng lẫn chất lượng, phần lớn các HTX <br />
đã kinh doanh tương đối có hiệu quả, mở rộng qui mô sản xuất và làm nền tảng cho <br />
sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt <br />
được, loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp vẫn còn bộc lộ những tồn tại và nhiều <br />
vấn đề cần được nghiên cứu, quan tâm và giải quyết. <br />
Vì vậy, đánh giá thực trạng và những vấn đề về đổi mới của các HTX nông <br />
nghiệp một cách nghiêm túc sẽ có một ý nghĩa rất lớn trên cả giác độ quản lý và điều <br />
hành. Đây cũng là cơ sở quan trọng để nhìn nhận một cách nghiêm túc và rút ra <br />
những bài học, những kinh nghiệm qủ báu trong việc chỉ đạo và đề xuất các giải <br />
pháp thiết thực cho quá trình đổi mới và xây dựng kinh tế hợp tác; đáp ứng những <br />
yêu cầu mới trước đòi hỏi thực tế và nâng cao không ngừng năng lực và hiệu quả <br />
kinh doanh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng nông thôn mới hiện nay.<br />
2. Thực trạng HTX nông nghiệp ở tỉnh Bình Định:<br />
Sau những năm thực hiện đổi mới, chuyển đổi HTX nông nghiệp kiểu cũ sang <br />
loại hình HTX nông nghiệp kiểu mới (loại hình HTX kinh doanh và dịch vụ nông <br />
nghiệp), Bình Định là tỉnh có tỷ lệ chuyển đổi khá cao so với một số tỉnh khác. Tính <br />
đến năm 2003, trên toàn tỉnh có 218 HTX nông nghiệp, thì đã có trên 180 HTX (chiếm <br />
trên 82 %) đã chuyển đổi theo hướng kinh doanh dịch vụ, số còn lại đã và đang <br />
chuyển đổi. Tuy mức độ hoạt động và hiệu quả có khác nhau, nhưng nhìn chung tất <br />
5<br />
cả đều có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm và đổi mới phương thức sản xuất kinh <br />
doanh, từng bước đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi của thực tế, tháo gỡ dần những khó <br />
khăn và các ràng buộc bất hợp lý.<br />
Đứng trước những đòi hỏi của sự thay đổi, các HTX đã đề cao dần vai trò và <br />
quyền làm chủ của các hộ gia đình xã viên, thực hiện kiểm kê tài sản, vốn quỹ và <br />
kiện toàn lại Ban quản lý một cách gọn nhẹ theo hướng tinh xảo, nâng cao trình độ <br />
và chất lượng hoạt động. Theo tinh thần đổi mới, đã có hơn 178 HTX thực hiện tốt <br />
từ một đến nhiều khâu dịch vụ theo yêu cầu và khả năng cho các hộ gia đình nông <br />
dân, chỉ đạo và thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi theo hướng sản <br />
xuất hàng hóa.<br />
Kết quả đó cho thấy, mặc dầu những thay đổi của các HTX chưa thật mạnh và <br />
hiệu quả, nhưng kết quả kinh doanh của HTX qua các hoạt động kinh doanh cũng <br />
như việc thực hiện các khâu dịch vụ phục vụ cho hộ nông dân đã thể hiện một sự cố <br />
gắng rất lớn trong quá trình chuyển đổi, đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao <br />
đời sống và từng bước xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn. <br />
Bảng1: Tình hình dịch vụ của các HTX cho hộ gia đình ở Bình Định<br />
ĐVT: % theo tổng số HTX<br />
Các khâu dịch vụ của Mức độ đáp <br />
HTX Năm 2000 Năm 2003 So sánh ứng nhu cầu <br />
cho hộ gia đình (%)<br />
1. Thuỷ lợi<br />
97,6 98,2 + 0,6 95<br />
2. Khuyến nông<br />
92,9 95,6 +2,7 85<br />
3. Giống cây trồng<br />
63,3 75,2 +11,9 41<br />
4. Vật tư nông nghiệp<br />
63,6 77,7 +14,1 69<br />
5. Làm đất<br />
42,4 50,1 +7,7 88<br />
6. Điện dân dụng và sản <br />
54,5 65,5 +11,0 89<br />
xuất<br />
48,5 57,3 +8,8 55<br />
7. Tín dụng nội bộ<br />
24,2 38,1 +14,1 42<br />
8. Tiêu thụ sản phẩm<br />
6,6 15,3 +8,7 38<br />
9. Chế biến nông lâm sản<br />
22,2 30,0 +7,8 40<br />
10. Dịch vụ khác<br />
(Nguồn: số liệu điều tra 218 HTX)<br />
Nhìn chung các HTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay đã phần nào thực hiện tốt <br />
các khâu dịch vụ phục vụ trực tiếp cho các nông hộ, giúp cho họ ổn định và phát <br />
triển. Trong số các loại hình dịch vụ, trước hết phải nói rằng dịch vụ thủy lợi, bảo <br />
vệ thực vật và cung ứng vật tư nông nghiệp... là những dịch vụ được các hộ gia đình <br />
xã viên quan tâm. Song sự đáp ứng loại hình dịch vụ này của các HTX vẫn chưa thể <br />
thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi thực tế, mới chỉ đáp ứng theo từng loại tương ứng là 95%, <br />
6<br />
85% và 69%. Những tồn tại này có thể khẳng định, nguyên nhân chủ yếu là do các <br />
HTX mới chuyển đổi nên còn quá nhiều rụt rè và bỡ ngỡ trước sự khắc khe và đầy <br />
biến động của nền kinh tế thị trường, do trình độ tổ chức và khả năng quản lý của <br />
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, do thiếu năng động trong việc tìm kiếm nguồn hàng hoặc <br />
do ảnh hưởng của giá cả vật tư cung ứng.<br />
Những thay đổi của các tổ chức kinh tế tập thể, đặc biệt là các HTX kinh <br />
doanh, dịch vụ nông nghiệp đã và đang thể hiện vai trò của mình trong quá trình phát <br />
triển kinh tế xã hội. Kết quả đó đã tạo ra một nội lực quan trọng làm thay đổi bộ <br />
mặt kinh tế nông thôn và đời sống nông hộ. Cùng với sự thay đổi đó là hệ thông <br />
chính trị ở nông thôn cũng chuyển đổi dần về nội dung và phương thức hoạt động <br />
theo hướng gắn trách nhiệm với hoạt động kinh tế và xã hội.<br />
Tuy nhiên, những thay đổi của các HTX vẫn chỉ mới là bước đầu và đáng được <br />
khích lệ. Nhưng, bên cạnh đó chúng ta cũng phải dám nhìn thẳng vào sự thật rằng <br />
công tác tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý của hầu hết các HTX hiện nay vẫn còn <br />
nhiều khiếm khuyết.<br />
Trước hết, về trình độ tổ chức sản xuất trong phần lớn các HTX còn ở mức <br />
thấp, cơ cấu kinh tế và cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển đổi vẫn chưa thật hợp lý <br />
và chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao, sản xuất nông nghiệp vẫn còn độc canh cây <br />
lúa, ngành nghề nông thôn phát triển chậm chạp. Một số HTX chưa thoát ra khỏi sự <br />
trì trệ, lúng túng trong quá trình chuyển đổi, còn mang nặng tư duy của cơ chế cũ. Vì <br />
vậy, tính năng động, nhạy bén và hiệu quả kinh doanh dịch vụ còn quá thấp. Nguyên <br />
nhân chủ yếu của tình trạng trên có thể các HTX chưa tìm ra con đường đổi mới <br />
trong những ràng buộc về những điều kiện kinh tế của địa phương, hoặc cũng có thể <br />
do phương hướng và nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh thiếu tính khoa học <br />
và cụ thể. <br />
Mặt khác, một nguyên nhân khá quan trọng hiện nay là tình hình tài chính của <br />
một số HTX còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu lành mạnh, công tác quản lý tài chính <br />
chưa theo đúng chế độ, còn vi phạm các nguyên tắc tài chính, nợ khê đọng trong xã <br />
viên còn rất lớn.<br />
Qui mô về vốn sản xuất kinh doanh của các HTX sau khi chuyển đổi không <br />
lớn, bình quân 900 triệu đồng/1HTX, trong đó vốn cố định và đầu tư dài hạn chiếm <br />
khoảng 60%, song lượng vốn này chủ yếu nằm dưới dạng là tài sản cố định, những <br />
tài sản này hầu hết đã cũ, hư hỏng nhiều. Thực trạng đó đòi hỏi phải có một nguồn <br />
vốn khá lớn để đầu tư mới trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh dịch vụ <br />
của các HTX hiện nay. Số vốn lưu động chiếm khoảng 40%, nhưng chủ yếu lại bị <br />
các hộ gia đình xã viên chiếm dụng. Vì thế, các HTX đã tỏ ra thiếu vốn trầm trọng <br />
và sẽ ảnh hưởng đến tính linh hoạt trong kinh doanh dịch vụ; dẫn đến kém năng <br />
động và nhạy bén trước sự đòi hỏi của cơ chế thị trường.<br />
<br />
7<br />
Xét về trình độ quản lý của đội ngũ các nhà quản lý HTX là tương đối thấp: <br />
Các chủ nhiệm HTX có trình độ sơ cấp chiếm trên 45%, trung cấp 35% và đại học, <br />
cao đẳng khoảng 20%. Số cán bộ là trưởng ban kiểm soát chưa qua đào tạo chuyên <br />
môn chiếm trên 52%. Điều đó đòi hỏi phải cần có một đội ngũ cán bộ quản lý có <br />
trình độ nghiệp vụ, chuyên môn cao, am hiểu thực tế, nhạy bén, năng động và có <br />
trách nhiệm. <br />
Với sự chuyển đổi của mình, đa số các HTX, mặc dầu chưa đáp ứng đủ yêu <br />
cầu, nhưng hiệu quả hoạt động của các HTX kiểu mới này đã mang lại lợi nhuận <br />
nhất định, lợi nhuận bình quân của mỗi HTX đạt khoảng từ 25 đến 30 triệu <br />
đồng/năm, tỷ suất sinh lời trên vốn sản xuất bình quân là 3%. Có thể nói trong điều <br />
kiện hiện nay, chuyển đổi loại hình HTX kiểu cũ sang kiểu mới đánh dấu một sự <br />
thay đổi khá phù hợp với quá trình phát triển kinh tế và xã hội ở nước ta nói chung và <br />
Bình Định nói riêng. Như vậy, thay đổi cơ chế quản lý, cơ cấu tổ chức, nội dung và <br />
chức năng hoạt động đó là một yêu cầu khách quan đối với sự nghiệp đổi mới các <br />
HTX nông nghiệp để đáp ứng những đòi hỏi của thực tế và yêu cầu của quá trình <br />
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở Bình Định.<br />
3. Những vấn đề đổi mới của HTX<br />
Đổi mới tổ chức bộ máy và ban quản lý HTX:<br />
Thực hiện chỉ thị 146CP (02102001) của Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của <br />
UBND tỉnh Bình Định về chấn chỉnh và đổi mới HTX., các HTX đã tiến hành đổi <br />
mới mà trước hết từ khâu tổ chức bộ máy và Ban quản trị HTX với tinh thần phải <br />
gọn gàng, năng động, tránh kồng kềnh kém hiệu quả. Vì vậy, việc qui hoạch và đào <br />
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để nâng cao trình độ đã đang được các cấp, ban, <br />
ngành quan tâm và thực hiện.<br />
Đổi mới hình thức và nội dung hoạt động: <br />
Với loại hình HTX kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp, các HTX đã dần khẳng <br />
định vai trò và vị thế của mình trong việc dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình từng <br />
bước phát triển. Vì thế, hình thức và nội dung hoạt động của các HTX ngày càng đa <br />
dạng và thiết thực hơn; một số hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân đã mang lại tính <br />
hiệu quả tương đối như thuỷ lợi, khuyến nông, điện dân dụng... Nhiều HTX đã đầu <br />
tư mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, kiên cố hóa kênh <br />
mương, nhà xưởng; mở rộng liên doanh liên kết để tăng khả năng và năng lực hoạt <br />
động của mình. <br />
Các HTX An Nhơn, Tây Sơn, Phù Cát, Phù Mỹ và Hòa Nhơn... đã đổi mới thực <br />
sự nội dung và hình thức hoạt động gắn kết với thị trường để thực hiện dịch vụ <br />
cung ứng đầu vào và thực hiện bao tiêu sản phẩm đầu ra cho các nông hộ. Đồng thời <br />
góp phần thúc đẩy các hộ gia đình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng <br />
<br />
<br />
8<br />
sản xuất hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế VAC, kinh tế trang trại và kinh tế <br />
ngành nghề ở nông thôn.<br />
Đổi mới công tác quản lý tài chính: <br />
Đã có trên 97% HTX kiểm kê tài sản, vốn quỹ thu hồi công nợ và thực hiện <br />
chế độ kế toán hiện hành. Số công nợ tính đến cuối năm 2002, bình quân mỗi HTX <br />
còn khoảng gần 400 triệu, trong đó phải thu ở các nông hộ khoảng 270 triệu, nợ phải <br />
trả bình quân 1 HTX là khoảng 190 triệu. Gắn liền với công tác thu hồi công nợ, các <br />
HTX đã thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn để nâng cao số vốn hoạt động.<br />
<br />
Kết quả đánh giá các HTX ở Bình Định: <br />
Theo số liệu thống kê, điều tra các HTX ở Bình Định thì kết quả đánh giá của <br />
218 HTX thể hiện như sau:<br />
Bảng 2: Kết quả phân loại các HTX nông nghiệp ở Bình Định<br />
<br />
Loại HTX Năm 2002 Năm 2003<br />
Tổng số HTX 218 100,0 218 100,0<br />
1. HTX khá 75 34,4 78 35,7<br />
2. HTX trung bình 99 45,4 102 46,8<br />
3. HTX yếu kém 44 20,2 38 17,5<br />
(Nguồn: dựa vào số liệu điều tra 218 HTX)<br />
4. Những giải pháp chủ yếu thực hiện đổi mới HTX:<br />
Cần tổng kết và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn chuyển đổi của các HTX <br />
theo loại hình kiểu mới, để có những cơ sở đề xuất các chủ trương, chính sách phù <br />
hợp trong chỉ đạo và thực hiện.<br />
Cần có chính sách mở để tạo điều kiện cho các HTX mở rộng các mối quan <br />
hệ liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức xã hội... thực <br />
hiện các hợp đồng cung ứng vật tư, bao tiêu sản phẩm. <br />
Trung tâm khuyến nông, Công ty Vật tư Nông nghiệp, Chi cục Thú y và Bảo <br />
vệ thực vật, Công ty Thủy nông, Công ty Giống cây trồng... của Tỉnh cần quan tâm <br />
giúp các HTX trong việc chuyển giao kỹ thuật mới đến các hộ nông dân, cung cấp <br />
các dịch vụ kịp thời.<br />
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong HTX, có chế độ thù lao thích <br />
đáng với sự đóng góp của họ.<br />
Tạo điều kiện cho các HTX tạo lập vốn dưới nhiều hình thức như vay vốn từ <br />
ngân hàng, huy động vốn từ các tổ chức xã hội, các cá nhân trong và ngoài nước; đầu <br />
tư có trọng điểm tài sản cố định, các trang thiết bị phục vụ tốt cho kinh doanh dịch <br />
vụ và mở rộng các loại hình dịch vụ mới của các HTX, đồng thời xử lý công nợ tồn <br />
đọng tạo sự lành mạnh về hoạt động tài chính.<br />
5. Kết luận:<br />
9<br />
Chuyển đổi các HTX sản xuất nông nghiệp sang loại hình HTX kinh doanh <br />
dịch vụ nông nghiệp là một bước chuyển đổi hợp lý. Hoạt động của HTX loại này <br />
đã và đang mang lại những ảnh hưởng tích cực, góp phần không nhỏ cho quá trình <br />
phát triển kinh tế, xã hội trong nông nghiệp và nông thôn. Hiện nay, loại hình HTX <br />
kiểu mới ở Bình Định đang dần dần ổn định và bước đầu phát triển. Nhiều HTX <br />
trong Tỉnh đã mở rộng và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ cho sản xuất <br />
nông nghiệp và phát triển kinh tế nông hộ.<br />
Tuy nhiên, các HTX kiểu mới hiện nay vẫn chưa đủ mạnh về vốn, cơ sở vật <br />
chất kỹ thuật lẫn trình độ tổ chức quản lý và khả năng ứng xử linh hoạt trong nền <br />
kinh tế thị trường vẫn còn rất nhiều hạn chế. Do vậy, đối với Nhà nước phải có <br />
chính sách ở tầm vĩ mô về cả đường lối và cơ sở vật chất để hỗ trợ cho các loại <br />
hình HTX kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp. Tỉnh và các ban, ngành trong tỉnh phải <br />
có những chính sách để quản lý chặt chẽ, tạo mọi cơ hội tốt về đầu tư, về đào tạo <br />
và về công tác tổ chức quản lý nhằm nâng cao khả năng kinh doanh dịch vụ có hiệu <br />
quả của các HTX kinh doanh dịch vụ .<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Chỉ thị 68/CP của Chính phủ<br />
2. Các tài liệu điều tra và hoạt động của các HTX Tỉnh Bình Định<br />
3. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chỉ thị 68/CT/TW của Ban Bí thư Sở <br />
nông nghiệp Bình Định đầu năm 2002.<br />
4. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch năm 2002 và phương hướng <br />
năm 2003 của Sở Nông nghiệp Bình Định.<br />
5. Niên giám thông kê tỉnh Bình Định (2002, 2003)<br />
6. Luật HTX (1993), Hiến pháp (1992)<br />
<br />
<br />
RENOVATION OF FARMING COOPERATIVES IN BINH DINH PROVINCE<br />
Trinh Van Son<br />
College of Economics, Hue University<br />
<br />
SUMMARY<br />
<br />
The present form of agricultural cooperatives in Binh Dinh Province a conversion from <br />
the traditional one. The major function of the present cooperatives is doing business and <br />
providing services for farming households.<br />
The activities conducted by these new cooperatives have brought about a great positive <br />
influence upon the agricultural development and growth of the country.<br />
10<br />
Till the present time, this new form of cooperatives in Binh Dinh Province has become <br />
stable and is on its first stage of development. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
11<br />