intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vấn đề lý luận về pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỷ XV-XIX

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

51
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đề cập một số vấn đề cơ bản về pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 nhằm có những đánh giá sơ bộ về vai trò, bản chất và một số quan điểm chính trị xây dựng, thiết lập nên pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vấn đề lý luận về pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỷ XV-XIX

  1. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM THẾ KỶ XV - XIX Hà Thị Lan Anh1 Hà Thị Lan Phương2 Tóm tắt: Bài viết đề cập một số vấn đề cơ bản về pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỷ XV đến thế kỷ XIX nhằm có những đánh giá sơ bộ về vai trò, bản chất và một số quan điểm chính trị xây dựng, thiết lập nên pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam. Từ khóa: Nhà nước phong kiến; Pháp luật tố tụng. Ngày nhận bài: 10/01/2017 ; Ngày hoàn thành biên tập: 18/01/2018 ; Ngày duyệt đăng: 30/01/2018. Abstract: The article mentions some basic issues about procedural law of Vietnam feudal state from 15th century to 19th century to have general assessment on the role, nature and some political viewpoints building, establishing procedural law of Vietnam feudality Keywords: feudal state; procedural law. Date of receipt: 10/01/2018; Date of revision:18/01/2018 ; Date of approval: 30/01/2018 1. Pháp luật tố tụng dưới góc nhìn lịch sử mình. Tổ chức nhà nước thành lập Hội nghị công Lịch sử loài người từ xa xưa đã manh nha dân, Hội đồng tướng lĩnh, Hội đồng quan chấp hình thành quan niệm cơ bản về hoạt động tố chính, Hội đồng xét xử công khai. Nền dân chủ tụng. Khi đó, vai trò quan tòa thường thuộc về Athens với cơ chế hội đồng, đề cao quyền công các vị thủ lĩnh, các tù trưởng, tộc trưởng, các vị dân trong xã hội thời kỳ cổ đại. vua chúa ở các thị tộc, bộ lạc của những nhà Những quy định về tố tụng thời cổ trung đại nước sơ khai. Bước sang thời kỳ cổ trung đại, các xuất hiện trong các văn bản pháp luật như bộ luật nhà nước ở phương Đông như Ai Cập, Lưỡng Hammourabi, Luật Manou, Đỉnh hình, Trúc Hà, Ấn Độ, Trung Quốc, các nhà nước phương Hình, Cửu chương luật, trong đó Luật Dracon, Tây như La Mã và vương quốc Franc, các nước Luật La Mã và Luật Salic đã đặt nền tảng giá trị Trung Đông, Đông Á, Đông Nam Á dần hình công lý cho con người về tính mạng và quyền tài thành nhà nước quân chủ và hệ thống pháp luật sản cũng như đảm bảo giá trị của khế ước trong thành văn để củng cố quyền lực chuyên chế. giao dịch dân sự, hợp đồng thương mại và việc Nguyên tắc quyền tối cao thuộc về nhà cầm phân chia di sản thừa kế trong gia đình. quyền là các Pharaon, các Calipha, nhà độc tài, Tố tụng thời trung cổ ở Tây Âu bị chi phối các tăng lữ, giáo chủ, nhà vua, vương hầu, lãnh bởi nhiều thế lực cát cứ phân quyền, lãnh địa chúa. Họ đồng thời là thủ lĩnh quân sự, quan tòa phong kiến trong đó có sự đối trọng quyền lực tối cao, có đặc quyền đẳng cấp quý tộc theo tục về kinh tế chính trị, về tố tụng xét xử giữa nhà cha truyền con nối. vua, nhà thờ, lãnh chúa và thị dân. Trong thời kỳ Khác với loại hình nhà nước quân chủ này, sở hữu lãnh địa của lãnh chúa phong kiến là chuyên chế phương Đông là nền cộng hòa Hy đặc trưng của nền kinh tế Tây Âu. Các chế tài Lạp và La Mã phương Tây cổ đại. Điển hình là hình phạt được áp dụng ở Tòa án giáo hội, Tòa án nền Cộng hòa dân chủ chủ nô Athens, nơi mà các nhà vua và ở các lãnh địa cũng không kém phần công dân có tài sản được định giá bằng các man rợ như phanh thây, treo cổ, hỏa thiêu. medin lương thực, họ có quyền tham gia chính Nhà nước quân chủ phong kiến phương quyền, bầu cử và được nói lên tiếng nói của Đông, trong đó có Việt Nam đã hình thành và 1 Phòng Quản lý khoa học và Trị sự Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp 2 Giảng viên, Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học luật Hà Nội 58
  2. Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba phát triển qua hàng nghìn năm. Qua các thời kỳ nước phong kiến mang mục tiêu và ý nghĩa sau: lịch sử đó, pháp luật tố tụng ra đời, phát triển và Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu tất yếu trong đã đạt được nhiều giá trị trong quản lý kinh tế và quản lý xã hội. xã hội. Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội, Về khái niệm khi nghiên cứu các hình thức để xây dựng và phân cấp quyền lực, xây dựng nhà nước phong kiến ở cả phương Tây và chế tài thông qua công cụ pháp luật, pháp luật tố phương Đông cho thấy: tụng được ban hành nhằm mục tiêu kiểm soát Nhà nước phong kiến là nhà nước của chế các bên.Trong quá trình giải quyết các tranh độ quân chủ chuyên chế, trong đó xác định mối chấp phát sinh một số lĩnh vực của đời sống xã quan hệ giữa giai cấp địa chủ, quý tộc với việc sở hội, mỗi nền văn hóa, thiết chế chính trị khác hữu ruộng đất, tư liệu sản xuất và tầng lớp nông nhau thiết lập nên các quy tắc, các thủ tục tố dân, người làm thuê bằng việc sử dụng đất đai, tụng khác nhau. phương tiện sản xuất tạo ra sản phẩm để đóng Pháp luật tố tụng thời kỳ này đề cao trách thuế hoặc để bán sức lao động. nhiệm công vụ trong quản lý xã hội, khách quan Nghiên cứu pháp luật tố tụng của nhà nước trong việc thiết lập trật tự xã hội và bên cạnh đó, phong kiến cũng xuất phát điểm bắt đầu từ việc pháp luật tố tụng phong kiến xây dựng cơ chế nghiên cứu nhà nước và chế độ phong kiến. Vai giám sát hoạt động xét xử, cơ chế giám sát vi trò và bản chất pháp luật tố tụng của nhà nước phạm pháp luật không chỉ đối với người dân mà phong kiến Việt Nam về cơ bản thực hiện được với cả các quan lại và có các chế tài áp dụng những mục tiêu bảo vệ chính thể nhà nước, đảm tương đối cụ thể, khắt khe nhằm hạn chế sự lạm bảo trật tự an ninh xã hội, bảo vệ con người về quyền trong hoạt động tố tụng. tính mạng, tài sản và danh dự. Pháp luật phong Thứ hai, phản ánh chế định chính trị, pháp kiến Việt Nam đã có những bước phát triển đáng lý của nhà nước phong kiến kể, đóng góp cho lịch sử xây dựng pháp luật Để bảo vệ vương quyền và xây dựng một trong thế kỷ XV – XIX và cả sau này. hình thức nhà nước phong kiến trung ương tập 2. Vị trí vai trò của pháp luật tố tụng quyền chuyên chế, buộc nhà nước phong kiến phong kiến Việt Nam phải sử dụng bộ máy quyền lực pháp trị. Đó là sự Theo Lời tựa trong Hoàng Việt luật lệ kết hợp giữa hệ tư tưởng Nho giáo và Pháp trị. (HVLL), vua Gia Long viết: “Trẫm nghĩ: Thánh Nhà nước phong kiến xây dựng và thực thi pháp nhân cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp để xử luật trên nền tảng của Nho giáo. Hệ tư tưởng Nho tội, dùng đạo đức để giáo hóa họ. Hai điều ấy giáo được điều chỉnh bởi pháp luật tạo sự ổn định không thiên bên nào bỏ bên nào”3. Nhà nước trật tự xã hội. Hệ tư tưởng Pháp trị đưa xã hội phong kiến Việt Nam đã nhận thấy vai trò rất vào vòng kiểm tỏa, buộc các chủ thể phải tuân quan trọng của việc ban hành pháp luật tố tụng thủ, không có sự nhượng bộ hoặc thỏa hiệp. trong quản lý nhà nước. Thực tế khách quan Những quy tắc pháp luật được ban hành minh trong từng thời kỳ lịch sử cho thấy xã hội ổn chứng cho phương pháp thống trị của nhà nước định, kinh tế phát triển, chế độ chính trị vững phong kiến, trong đó có sự kết hợp giữa pháp trị mạnh, kỷ luật nghiêm minh đã chứng minh vai với đức trị để thực hiện quyền cai trị tuyệt đối trò của pháp luật tố tụng thời kỳ này. của mình. Để đạt được những thành quả trong xây dựng Thứ ba, pháp luật tố tụng là công cụ xây và thực thi pháp luật, pháp luật tố tụng của nhà dựng và củng cố quyền lực quân chủ tập quyền 3 PGS.TS. Đinh Khắc Thuân, Viện Nghiên cứu Hán Nôm,“Bộ Hoàng Việt luật lệ do Tổng tài Nguyễn Văn Thành tổ chức biên soạn từ năm 1805, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 cho khắc in lần đầu, đến năm 1815 thì ban hành và áp dụng trong cả nước có Lời tựa do vua Gia Long đề.” 59
  3. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Pháp luật tố tụng thể hiện ý chí và bảo vệ lợi một cách rõ ràng và công bằng trong xét xử, ích của giai cấp thống trị phong kiến tập quyền. chứng cứ về nhân chứng, vật chứng đều được đặt Pháp luật tố tụng là phương tiện chủ yếu và hữu lên hàng đầu. Pháp luật tố tụng thời kỳ này đã hiệu nhất để điều chỉnh các quan hệ cơ bản giữa đạt được những yêu cầu này. các chủ thể để nhằm đạt được lợi ích của giai cấp Thứ năm, thể hiện giá trị đạo đức nhân văn cầm quyền trong xã hội phong kiến. Tuy bản chất là nhà nước tập quyền, quyền Đối với nhà nước phong kiến, một mặt pháp tối thượng thuộc về nhà vua. Nhà nước luôn bảo luật khẳng định quyền cai trị tối cao của nhà vua. đảm quyền và lợi ích của hoàng tộc nhưng khi Mặt khác, ban hành các điều luật điều chỉnh trật xây dựng Bộ luật tố tụng để điều chỉnh các hoạt tự xã hội, nhằm mục đích giúp cơ quan hành động của xã hội thì các giá trị đạo đức đều được chính do quan lại cai quản hết sức phụng sự cho đặt ra rất rõ ràng, mọi chủ thể trong xã hội đều triều đình. phải tuân thủ pháp luật. Thứ tư, pháp luật tố tụng bảo vệ quyền lợi Pháp luật thời kỳ này đảm bảo và đề cao của các chủ thể trong quá trình tố tụng Pháp trị kết hợp Đức trị, trên cơ sở tôn trọng Quyền của chủ thể trong xã hội phong kiến hương ước lệ làng, phong tục, tập quán, thực hiện được pháp luật đảm bảo về người, nhà ở, giấy tờ, kết hợp lợi ích của cá nhân với cộng đồng. đất đai, tài sản, không ai có quyền xâm phạm. Thứ sáu, đạt thành tựu quan trọng trong quá Trong tố tụng hình sự, người bị cáo buộc trình lập pháp của nhà nước phong kiến được hưởng quyền xét xử nhanh chóng và bình Việt Nam đẳng trước tòa. Theo quy định pháp luật tố tụng, Nghiên cứu pháp luật tố tụng của nhà nước các cơ quan tố tụng phải khách quan khi tham phong kiến thời kỳ từ thế kỷ XV – XIX, chủ yếu gia xét xử. Chế tài áp dụng không phải chỉ với thông qua ba bộ luật cơ bản là Quốc triều hình người tham gia tố tụng mà còn áp dụng với cả luật (QTHL), Quốc triều khám tụng điều lệ người tiến hành tố tụng. Ở đây, trong quá trình tố (QTKTĐL) và Hoàng Việt luật lệ (HVLL), cho tụng, pháp luật quy định người tiến hành tố tụng thấy, trong quá trình xây dựng và ban hành Bộ phải thực hiện đúng thẩm quyền: “Các Nha môn luật tố tụng, nhà nước phong kiến đã đạt được trong ngoài coi việc khám xét, nhận đơn phúc những thành tựu cơ bản. Pháp luật tố tụng thời kỳ cáo hoặc phúc khiếu, trước tiên phải tra văn án trước đó và ngay cả thời kỳ sau đó có nhiều điểm lần trước, chiểu theo văn án đó, luận theo Lệ nào tiến bộ cần kế thừa. trong lúc tra xét mới được bắt bên bị, không Các Bộ luật này đều có cơ cấu ngắn gọn, chỉ được căn cứ vào lời cáo mà tự tiện gom xét đầu gồm có một Bộ nhưng chứa đựng các điều luật cuối luận bác đi”4 và “các quan xét án, phải theo cụ thể, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực từ hình án tờ cáo trạng mà xét hỏi, nếu ra ngoài tờ cáo đến dân án. Kết cấu nội dung điều chỉnh không trạng, tìm việc khác để buộc tội người, thì xử là tách rời việc quản lý hành chính và hoạt động tố cố ý bắt tội người.”5 tụng, văn bản pháp luật kỳ này được quy định Để bảo vệ quyền của các chủ thể, trong quá trong điều luật dẫn chiếu từ những quy định cụ trình tố tụng, điều quan trọng là tất cả mọi người thể để đảm bảo rằng việc xét xử công bằng, đúng đều được đối xử bình đẳng, các bên đều được thể quy định. Người dân dù ở trình độ nào, đẳng cấp hiện quan điểm của chính mình. Mọi chứng cứ nào cũng có thể hiểu và có ý thức tuân thủ pháp đều được quan tòa xem xét cân nhắc. Dù hoạt luật. Khi xét xử, các quan án cũng dễ chiểu theo động tố tụng thời kỳ này tuy có tính áp đặt nhưng điều luật ra phán quyết mà không sợ vi phạm vấn đề quan trọng là các điều luật đều quy định pháp luật dẫn đến bị kết tội. 4 Quốc triều Khám tụng điều lệ, Thông lệ về khám tụng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, Mục 23,Sđd. 5 Quốc triều Hình luật, NXB Pháp lý, 1991, Chương Đoán ngục, Lệ 670. Sđd. 60
  4. Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba Mặc dù vậy, khi xây dựng Bộ luật, để hoạt nghiêm minh đối với những vi phạm của quan động tố tụng cũng như quản lý bộ máy hành chức. “Quan chức phải kính cẩn đối với chức vụ, chính từ trung ương đến địa phương được đồng thận trọng khi ra mệnh lệnh. Lệnh đã ban phải nhất, hoạt động xét xử nhằm đưa ra phán quyết nghiêm túc thi hành. Lấy công bỏ tư thì dân cho mỗi vụ án, pháp luật tố tụng còn được quy chúng đều tin phục. Đạo làm vua trước phải định thống nhất cơ chế kiểm soát soát tụng theo thành kính chăm lo cho dân chúng, sau hãy tra cấp và được giao cho cơ quan có thẩm quyền xét những kẻ tham nhũng, những kẻ giết người chịu trách nhiệm thi hành. tàn bạo. Làm vua phải giữ gìn phép tắc, cẩn Nói chung, pháp luật tố tụng giữ một vai trò trọng hình ngục, giữ đạo trung chính”6 quan trọng trong quản lý nhà nước thời kỳ này, Hai là, quan điểm quản lý nhà nước theo hệ vai trò còn quan trọng hơn nữa bởi cấu trúc trong tư tưởng Pháp trị của nhà nước phong kiến thì một điều luật bao chứa cả quyền và nghĩa vụ, nội thuyết cai trị được thể hiện từ hệ tư tưởng lập dung điều chỉnh cụ thể nhằm phòng ngừa sai lệch pháp của các bậc tiền nhân, nói chung đều trong xét xử và ra phán quyết. không đặt niềm tin vào tính đạo đức của quan 3. Bản chất của pháp luật tố tụng nhà chức. Pháp trị chỉ tin vào pháp luật (dựa trên tội nước phong kiến Việt Nam danh và hình phạt) để xây dựng chế tài, trong Khi nghiên cứu về bản chất của nhà nước và đó áp dụng biện pháp bổ nhiệm, thưởng phạt và pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt trừng trị nghiêm khắc, những tiêu chí đó được Nam, cần nghiên cứu nền móng hệ tư tưởng của coi trọng nhất. nhà nước phong kiến để hình thành nên chế độ Các học thuyết Tôn quân quyền của Nho gia quân chủ tập quyền, từ đó áp dụng trong việc xây (Nhân trị, Lễ trị, Đức trị) và Pháp gia (Pháp trị, dựng Bộ luật tố tụng, công cụ cai trị và quản lý Thế trị, Thuật trị) cho dù hình thức ban hành và xã hội. vận dụng có khác nhau nhưng về cơ bản, bản 3.1. Quan điểm chính trị về xây dựng pháp chất quản lý nhà nước đều là một, trong đó Đức luật của nhà nước phong kiến trị và Pháp trị hỗ trợ bổ sung cho nhau, nếu đức Trường phái tư tưởng thiết lập nên nhà nước trị là tính chất và mục tiêu của nền chính trị thì trong thời kỳ phong kiến được quy định thông pháp trị là phương tiện thực hiện các mục tiêu qua chủ yếu hai học thuyết hệ tư tưởng đạo đức đó. Bản chất pháp luật tố tụng của nhà nước về Nho giáo và hệ tư tưởng Pháp trị của trường phong kiến Việt Nam về cơ bản là Pháp trị. phái pháp gia. 3.2. Bản chất của pháp luật tố tụng nhà Một là, nhà nước phong kiến theo quan điểm nước phong kiến hệ tư tưởng Nho giáo, lấy việc cai trị và quản lý Bản chất pháp trị của pháp luật tố tụng nhà xã hội bằng niềm tin đạo đức, lễ nghĩa, nhân trí nước phong kiến gồm đầy đủ các tố chất của một đức của quan chức. Thông qua mô phỏng hình bộ quy tắc pháp luật trong quản lý nhà nước. Giá tượng của các bậc thánh nhân, quân tử, từ đó đề trị tối cao của pháp luật tố tụng là công cụ tư ra các thuyết về đạo đức, lấy các hình mẫu tượng pháp không trùng với bất cứ công cụ quản lý nhà trưng, xây dựng hệ thống cai trị dựa trên các quy nước nào. Nhà nước phong kiến, nhất là thời kỳ tắc đạo đức theo chế độ quân chủ cầm quyền. từ thế kỷ XV – XIX đã thành công trong xây Nho giáo được đề cập đến trong Tứ thư Ngũ dựng ban hành và thực thi pháp luật tố tụng. kinh: Đó là tiêu chuẩn tài đức của người làm vua Nghiên cứu bản chất pháp luật tố tụng nhà nước quan, chế độ bổng lộc trong khoa cử, trách nhiệm phong kiến cho thấy đặc trưng pháp luật tố tụng của vua quan với dân, với đồng liêu, đồng môn, của nhà nước phong kiến được hiểu thông qua đưa ra chế độ giám sát, khảo xét và xử phạt khái niệm cơ bản về pháp luật tố tụng. 6 Kinh thư (2004), Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 350, 351. 61
  5. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Khái niệm pháp luật tố tụng nhà nước trung cổ ở Châu Âu. Xuất phát bởi quyền tối phong kiến: là công cụ chuyên chế có tính quyền thượng thuộc về nhà vua, để bảo vệ nhà nước và lực, đảm bảo tính răn đe nhằm bảo toàn quyền quyền lực chính trị của mình, ngoài các cuộc tối cao của nhà vua, tạo ranh giới pháp lý buộc chinh phạt đẫm máu xâm chiếm các vùng đất các chủ thể phải tuân thủ tuyệt đối. Pháp luật tố mới, còn thiết lập cơ cấu hình ngục với những tụng phổ cập toàn dân dưới hình thức ban hành hình phạt tàn bạo theo kiểu thời trung cổ. Tuy Bộ luật, được quy định thống nhất và nhất quán nhiên, mối quan hệ của nhà nước và người dân thi hành. được duy trì bởi quyền lợi chung nên có sự bảo Tìm hiểu bản chất của pháp luật tố tụng nhà vệ và tôn trọng, pháp luật tố tụng là công cụ để nước phong kiến, về cơ bản căn cứ vào nội dung bảo vệ quyền lợi chung đó. Chỉ khi chủ thể có quy định của các điều luật, khái niệm về bản chất hành vi vi phạm các quy định pháp luật mới phải của pháp luật tố tụng, để từ đó đánh giá đúng chịu chế tài hình phạt. thực chất công cụ chuyên chế mang tính quyền Thứ ba, tạo ranh giới pháp lý lực này. Xã hội phong kiến đã đạt được những bước Thứ nhất, tính bảo toàn quyền lực phát triển nhất định về kinh tế, xã hội. Sự thay Theo tác giả, nhà nước phong kiến duy trì chế đổi kinh tế, văn hoá, xã hội buộc con người trong độ quân chủ. Chế độ quân chủ là hệ thống chính xã hội đó cũng thay đổi theo. Pháp luật cần phải trị trong đó tất cả quyền lực được nhà vua nắm điều chỉnh cho phù hợp nhằm mục đích giảm giữ ở một vị trí tối cao trong một quốc gia hoặc thiểu những rủi ro trong quản lý nhà nước. vương quốc. Nhà vua là người thống lĩnh và có Theo tác giả, khi pháp luật ban hành, các thiết quyền đưa ra quyết định cuối cùng về mọi vấn chế tư pháp được thiết lập buộc mọi chủ thể trong đề liên quan đến nhà nước đó. xã hội đó phải tuân thủ tuyệt đối. Ranh giới pháp Trong chế độ quân chủ, quyền lực tối cao của luật thiết lập có hai yếu tố cấu thành. Đó là các nhà vua được trao lại theo nguyên tắc “cha truyền quy tắc phải tuân thủ theo quy định của pháp con nối”. Trật tự quyền lực chỉ bị phá vỡ và xóa luật. Yếu tố thứ hai là khi vượt qua ranh giới của bỏ khi nhà vua bị lật đổ, truất ngôi hoặc bị một sự cho phép, tức là vượt qua những điều mà pháp hình thức nhà nước khác thay thế. Nhà vua ban luật không cấm, thì lập tức sẽ được điều chỉnh hành pháp luật để bảo vệ uy quyền và pháp luật bởi các chế tài. Pháp luật tố tụng thực hiện kiểm tố tụng là một trong những công cụ hữu hiệu đó. soát các hành vi của mọi chủ thể các tổ chức và Ở Việt Nam, chế độ phong kiến đã trải qua cá nhân trong xã hội. hàng ngàn năm tồn tại và phát triển. So với các Thứ tư, phổ cập toàn dân triều đại trước đó, pháp luật tố tụng của nhà nước Pháp luật tố tụng ban hành để bảo vệ quyền phong kiến từ thế kỷ XV – XIX đã đạt những lợi ích của giai cấp thống trị. Những quy định của thành tựu cơ bản, đa dạng về hình thức, phong pháp luật đều được điều chỉnh và thực thi bởi bộ phú về nội dung, quản lý hầu hết mọi khía cạnh máy công quyền. của đời sống xã hội. Nhưng trong xã hội mà quyền lực chính trị Bản chất pháp luật tố tụng đó là kết hợp giữa mang tính tập quyền, pháp luật chủ yếu bảo vệ pháp luật và phong tục, tập quán, đạo đức, từ đó lợi ích của giai cấp cầm quyền, cho nên, để tạo ra các quy tắc xã hội điều chỉnh hoạt động chung hòa lợi ích phải có sự đồng thuận của cả của các chủ thể nhằm duy trì quyền lực hoàng cộng đồng, vì thế, các quy phạm pháp luật ban gia và ổn định trật tự xã hội. hành nhằm điều chỉnh mọi đối tượng trong xã Thứ hai, tính răn đe hội.Tính khách quan của pháp luật tố tụng sẽ tạo Chế độ phong kiến xây dựng và ban hành cân bằng cán cân quyền lực. Thành công của nhà các Bộ luật với chế tài trong các điều khoản nước phong kiến trong quản lý hành chính chính được ví về mức độ trừng phạt tàn bạo như thời là ban hành được Bộ luật mà điều chỉnh được 62
  6. Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba mọi đối tượng trong xã hội, theo đó, “Quan vi trên mọi lĩnh vực kể cả an ninh và quốc phòng. phạm thì cũng bị xử như thứ dân”. Việc xây dựng và điều hành cơ cấu hành chính Thứ năm, thống nhất và nhất quán thi hành cũng đồng thời điều hành hoạt động của cơ quan Việc xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật tố tụng. Cơ cấu này vừa có ưu điểm vừa có có liên quan chặt chẽ với nhau. Nhà nước phong nhược điểm. Ưu điểm cơ bản là tạo nên sự vận kiến nhất quán trong quy trình lập pháp và quá hành thống nhất, đồng bộ và hiệu quả của bộ máy trình thực thi, kiểm soát pháp luật bằng hoạt động nhà nước cả về hành pháp và tư pháp. Từ mục soát tụng được thực hiện hàng năm nhằm rà soát tiêu, nguyên lý, quy tắc vận hành sao cho hiệu mọi hoạt động của cơ quan hành pháp để đảm quả và đồng thời xử lý vi phạm thành một thể bảo tính công bằng và nhất quán trong quá trình thống nhất. Quyền lực tập trung tạo nên sức tố tụng. mạnh của chính quyền, cho phép giải quyết đối Cơ quan thi hành pháp luật bằng chế tài xử với mọi tình huống. Nhược điểm là xuất phát từ phạt thông qua các biện pháp trừng phạt được áp chính thể mang tính tập quyền, mọi quyết định dụng theo quy định của các quy phạm pháp luật. trong hoạt động xét xử đều nằm trong thẩm Việc áp dụng các biện pháp trừng phạt bằng các quyền của người đứng đầu, đồng thời thống lĩnh khung hình phạt được quy định rõ và rất cụ thể chính quyền, quyền hành lớn nên không tránh trong Bộ luật. khỏi mang tính chuyên chế. Do bản chất tập Khi xét xử, việc cân nhắc mức độ và hiệu quả quyền, quyền quyết định tối cao về lập pháp, của việc áp dụng hình phạt tương đồng với hành hành pháp và tư pháp đều thuộc về nhà vua nên vi phạm tội. Mọi hoạt động tố tụng đều được dự cơ cấu hành chính xét xử đều do nhà vua và quan liệu một cách chi tiết cụ thể và nhất quán khi áp lại quyết định. dụng pháp luật. Pháp luật còn đưa các chế tài Trong cơ cấu các cơ quan tố tụng, mối quan nhằm hạn chế thấp nhất các hành vi vi phạm hệ giữa các cơ quan xét xử ở trung ương và địa pháp luật của các quan lại được pháp luật trao phương theo nguyên tắc cấp trên kiểm soát cấp quyền tố tụng. Tất cả mọi hoạt động của quy dưới, cấp dưới tuân thủ phục tùng cấp trên. Việc trình tố tụng đều được quy định thống nhất bằng thực thi các bản án có hiệu lực pháp luật được áp các điều luật. dụng thi hành và dưới sự giám sát của các cơ Bản chất của pháp luật tố tụng nhà nước quan tra soát có thẩm quyền. phong kiến được xây dựng bởi các quyền cũng Trong hoạt động tố tụng thì vấn đề nhân sự như nghĩa vụ. Nhà nước quản lý xã hội bằng quy lựa chọn quan lại thực hiện tiến hành các hoạt định về trật tự pháp lý, mặc dù khoa học kỹ thật động tố tụng rất quan trọng và pháp luật thời kỳ chưa phát triển, nền kinh tế chủ yếu phát canh này cũng đã có những quy định cụ thể rõ ràng nông, lâm, ngư nghiệp theo tiêu chí tự cấp tự túc, thông qua việc tuyển bổ, khảo khóa, giám sát và nhưng những quy định đó là một trong những thưởng phạt theo quy định. thẩm quyền mà không có cơ cấu quyền lực nào Về quy định tuyển bổ, khảo khóa, giám sát có được. Cũng từ đặc trưng đó, nhà nước phong và xử phạt quan xét xử thời Lê sơ, Lê Trịnh và kiến thiết lập nên pháp luật tố tụng để bảo vệ nhà Nguyễn. quyền lợi ích của giai cấp mình, xây dựng và Thứ nhất, về tuyển bổ các các chức danh thúc đẩy xã hội phát triển. trong cơ quan xét xử 4. Chính thể nhà nước quân chủ phong Trong chính thể quân chủ tập quyền, các kiến thiết lập nên pháp luật tố tụng phong chức danh trong bộ máy hành chính đồng thời kiến Việt Nam đảm nhiệm chức năng xét xử. Quy trình và chế Về cơ cấu tổ chức hệ thống hành chính tư độ tuyển bổ bao gồm các chế độ như: Nhiệm tử pháp thời quân chủ phong kiến được thiết kế và theo chế độ tập ấm, ấm sung kiểu cha truyền con vận hành đồng bộ trong một hệ thống quản lý nối; Bảo cử theo đề cử, tiến cử có sự bảo đảm 63
  7. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP vào các chức vụ hoặc tiến cử lên vua; Khoa cử quan “đàn hặc bách quan” để thực hiện phối hợp theo quy định tuyển qua tổ chức thi Hương, thi nhiều chiều từ trung ương đến địa phương. Hội, thi Đình hoặc nhà vua ban quan tước thông Ngự sử đài có chức Đô đài Ngự sử, Phó Đô qua chính sách “Nạp tiền thóc”. Ngự sử, có hệ thống 6 ty Giám sát mười ba xứ Chế độ khoa cử PKVN đã được quy định từ thừa tuyên kiêm giám sát một số cơ quan ở trung thời Lý Trần, sang thời Lê Nguyễn đã ban hành ương. Bên cạnh đó, Ngự sử còn phối hợp với Lục những quy định rất chặt chẽ. Thời Lê Thánh khoa để giám sát Lục bộ, phối hợp với Hiến ty Tông, các văn bản sắc, lệnh, chỉ đều quy định về kiểm soát các xứ. Cơ chế giám sát hoạt động tố việc tuyển bổ quan chức. Đối với quan xét xử, tụng, kiểm soát xét xử tuân theo nguyên tắc cấp thông lệ phải là người đỗ đạt trong các kỳ khoa trên trực tiếp kiểm soát cấp dưới và được thực bảng, sau khi trải nghiệm công việc quản lý tại hiện theo 3 cấp: nhà vua giám sát các cơ quan các Nha môn từ 6 đến 9 năm, phải qua các kỳ sơ trung ương; Ngự sử đài, Đô sát viện giám sát các khảo, tái khảo và thông khảo mới được bổ làm cơ quan địa phương thuộc tỉnh: phủ, tỉnh, ty; cấp quan xét xử các cấp từ địa phương đến trung tỉnh giám sát cấp huyện, châu, lộ, trấn. ương. Các chức vụ ở cơ quan xét xử trung ương, Theo quy định của pháp luật thời Lê: Nếu 3 chức Hiến ty, Án sát, Giám sát Ngự sử, các xứ cấp đều xử như nhau thì đương sự không được thừa tuyên và các tỉnh đều do nhà vua trực tiếp khiếu kiện nữa. Nếu quan đã xét xử đúng mà lựa chọn và bổ dụng. đương sự còn cố phúc tụng hoặc kêu oan thì luật Nhìn chung, trong thời phong kiến quan xét định rõ “tiền tạ lỗi” đương sự phải nộp phạt. Nếu xử là những người có nhiều kinh nghiệm quản lý quan xét xử sai nhầm, kết án oan thì phải tự chịu về hành chính, quân sự, tư pháp. Thời Lê Thánh trách nhiệm bồi thường cho các đương sự, đồng Tông quy định ít nhất phải qua 2 kỳ khảo khóa là thời phải chịu chế tài hình sự và hành chính căn 6 năm làm quản lý hành chính. cứ vào mức độ vi phạm. Thứ hai, về khảo khóa, khảo xét quan lại Thời Lê Sơ Lê Thánh Tông, trong QTHL, bổ Thời nhà Lê, Nguyễn theo định kỳ: 1 năm sung về chế độ soát tù, về thi hành án cuối năm (hàng năm để kịp thời xếp hạng và thăng giáng, cũng được nhà vua chú trọng, khi đó, chức năng gồm 4 hạng: ưu, bình, thứ, liệt), 3 năm kỳ sơ giám sát hành chính tư pháp trong chính thể quân khảo, 6 năm kỳ tái khảo, 9 năm kỳ thông khảo. chủ chuyên chế được tăng cường. Đến thời Lê Một trong các tiêu chuẩn xếp hạng là việc xét xử Trịnh việc kiểm soát xét xử đã được xây dựng các vụ án không trái quy định của Bộ luật, không khá hoàn chỉnh với “Chế độ loát tụng hàng năm”. bị kháng cáo phúc thẩm nhiều lần, không có oan Việc kiểm soát theo các cấp hành chính và các sai, bên cạnh các tiêu chuẩn về quản lý và thực vụ việc xử đúng sai, có khiếu nại hoặc không có thi mệnh lệnh hành chính công vụ. Việc bổ khiếu nại, về số tiền tạ và tiền phạt được tổng kết nhiệm căn cứ vào khảo khóa định kỳ hàng năm theo năm, nhà nước căn cứ vào đó để xếp hạng và theo nhiệm kỳ sơ, tái, thông khảo để thực hiện và thưởng phạt quan chức. sàng lọc quan lại. Thứ tư, về thưởng phạt quan chức Thứ ba, về giám sát hoạt động tố tụng Quy định pháp luật về thưởng phạt quan lại Trong hệ thống cơ quan giám sát tố tụng triều xét xử thường được kiểm soát theo chế độ công Lê, Nguyễn thì Ngự sử đài, Đô sát viện là cơ vụ. Trong trường hợp cá biệt nhà vua sẽ trực quan giám sát quan chức hoạt động trong bộ máy tiếp ban lệnh thưởng đối với quan lại có công. nhà nước, trong đó có chức quan Gián nghị đại Thông lệ là thưởng tiền, vàng bạc, vinh hàm, phu là chức quan luôn ở bên cạnh và được phép chức vụ, bổng lộc, gia nô, đất đai, nhà ở. Pháp can gián nhà vua. luật phong kiến rất chú trọng các chế tài phạt Thời Lê, cơ quan và chức danh Ngự sử được đối với quan lại. Hình phạt được quy định rất rõ đề cao. Lê Thánh Tông đã lập một hệ thống cơ trong các Bộ luật. (Xem tiếp trang 70) 64
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2