Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
125(11): 3 - 6<br />
<br />
VỀ HOÁN DỤ Ý NIỆM “SỢ HÃI” TRONG TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU)<br />
Nguyễn Thu Quỳnh*<br />
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Tìm hiểu các hoán dụ về ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), chúng tôi xác lập được<br />
2 hoán dụ cơ bản: Phản xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ hãi và Phản xạ sinh lí của cơ thể thay cho<br />
sợ hãi. Mặc dù có những dấu hiệu của sự tiếp biến, giao lưu văn hóa với Trung Quốc ở kiểu tư duy<br />
đậm chất Á Đông, nhưng sự tri nhận của Nguyễn Du về ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều vẫn<br />
thể hiện được nét riêng, nét sáng tạo của ông trong việc vận dụng vốn ngôn ngữ của dân tộc để ý<br />
niệm hóa những điều mang tính phổ quát và đã được nhân loại tri nhận.<br />
Từ khóa: hoán dụ, ý niệm, sợ hãi, Truyện Kiều, Nguyễn Du<br />
<br />
DẪN LUẬN*<br />
Với vai trò là “cơ sở của tư duy”, là “chìa<br />
khóa để mở ra sự hiểu biết”, hoán dụ ý niệm<br />
(conceptual metonymy) được xem là một<br />
trong những công cụ quan trọng để con người<br />
khám phá chính bản thân, đặc biệt trong lĩnh<br />
vực tình cảm - một lĩnh vực vốn được xem là<br />
trừu tượng, khó nắm bắt, khó kiểm soát của<br />
con người. Tìm hiểu hoán dụ ý niệm “sợ hãi”<br />
(fear), chúng tôi mong muốn góp phần làm<br />
sáng tỏ thêm quá trình tri nhận của con người<br />
ở phương diện trạng thái tâm lí tình cảm, cụ<br />
thể là trạng thái sợ hãi - một trạng thái tâm lí<br />
tình cảm có tính tiêu cực, xuất hiện từ việc<br />
nhận thức được về các mối đe dọa.<br />
Truyện Kiều là quyển bách khoa của tâm<br />
trạng. Vì vậy, Phan Ngọc đã gọi tác phẩm này<br />
là “một cuốn tiểu thuyết tâm lí” và coi<br />
Nguyễn Du là “tác giả của vạn tâm hồn”.<br />
Với mong muốn thông qua ngôn ngữ Truyện<br />
Kiều để khám phá thế giới tâm lí tình cảm của<br />
con người nói chung và các nhân vật trong tác<br />
phẩm này nói riêng, ở bài viết này, chúng tôi<br />
sẽ tìm hiểu các hoán dụ về ý niệm “sợ hãi”<br />
theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận.<br />
Chúng tôi cũng hi vọng thông qua bài viết<br />
này để tìm hiểu những biểu tượng tinh thần<br />
của ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều, từ đó<br />
thấy được những phổ quát của nhân loại và<br />
những nét đặc thù văn hóa - dân tộc của Việt<br />
Nam ở việc ý niệm hóa trạng thái tâm lí tình<br />
cảm “sợ hãi”.<br />
*<br />
<br />
VÀI NÉT VỀ HOÁN DỤ Ý NIỆM VÀ Ý<br />
NIỆM “SỢ HÃI”<br />
Hoán dụ ý niệm<br />
Kovecses định nghĩa: “Hoán dụ là một quá<br />
trình tri nhận trong đó một thực thể ý niệm<br />
(phương tiện) cung cấp sự tiếp cận tinh thần<br />
đến một thực thể ý niệm khác (đích) trong<br />
cùng một miền hoặc cùng một mô hình tri<br />
nhận lí tưởng” [3, tr.145]. Như vậy, so với ẩn<br />
dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm về bản chất cũng<br />
được coi là cái có tính ý niệm, đều liên quan<br />
đến lược đồ ánh xạ và đều là phương tiện để<br />
mở rộng tiềm lực của một ngôn ngữ. Điểm<br />
khác nhau chủ yếu giữa hoán dụ ý niệm với<br />
ẩn dụ ý niệm là: ẩn dụ chứa đựng một sự ánh<br />
xạ qua các mô hình tri nhận khác nhau còn<br />
hoán dụ lại ánh xạ trong cùng một mô hình.<br />
Điều đó có nghĩa là một phạm trù trong một<br />
mô hình được lấy làm chỗ dựa cho phạm trù<br />
khác trong cùng một mô hình. Vì vậy, chức<br />
năng chủ yếu của biểu thức hoán dụ ý niệm<br />
như Nguyễn Thiện Giáp phân tích chính là:<br />
“kích hoạt một phạm trù tri nhận bằng cách<br />
quy chiếu vào phạm trù khác trong cùng một<br />
mô hình và bằng cách đó, nêu bật phạm trù<br />
thứ nhất hoặc tiểu mô hình mà nó thuộc vào”<br />
[2, tr.249].<br />
Ý niệm “sợ hãi”<br />
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa:<br />
“Sợ là ở trong trạng thái không yên lòng vì<br />
cho rằng có cái gì đó trực tiếp gây nguy hiểm<br />
hoặc gây hại cho mình, mà tự thấy không thể<br />
chống lại hoặc tránh khỏi” [5, tr.870].<br />
<br />
Tel: 0975459119, Email: thuquynhvb@yahoo.com<br />
<br />
3<br />
<br />
Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Ch. Darwin - nhà tự nhiên học người Anh đã<br />
miêu tả cảm xúc “sợ hãi” như sau: Người sợ<br />
hãi giây phút đầu tiên đứng lặng như trời<br />
trồng, nín thở hoặc quỵ xuống đất một cách<br />
bản năng. Tim đập nhanh, máu dồn về các bộ<br />
phận của cơ thể, da tái nhợt, mồ hôi toát ra, bề<br />
mặt của da trở nên lạnh, lông trên mặt dựng<br />
đứng, các cơ bắt đầu run, hơi thở dồn dập,<br />
miệng khô, giọng khàn… (Lược dẫn theo<br />
Trần Văn Cơ [1, tr.333 - 334].<br />
Trên cơ sở những phản ứng của cơ thể khi sợ<br />
hãi, Lakoff đã đề xuất kịch bản (scenarios)<br />
cho “sợ hãi” (dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp<br />
[2, tr.252]) như sau:<br />
- Nguyên nhân: Tình huống nguy hiểm, gồm<br />
sự chết chóc, đau đớn về vật chất và tinh thần.<br />
Bản thân nhận thấy nguy hiểm.<br />
- Cảm xúc: Nỗi sợ tồn tại. Kinh nghiệm bản<br />
thân về hậu quả sinh lí và hành vi<br />
- Cố gắng kiểm soát: Bản thân cố gắng không<br />
phô bày nỗi sợ và/ hoặc không bỏ chạy.<br />
- Mất kiểm soát: Nỗi sợ tăng lên vượt giới hạn.<br />
Bản thân mất đi sự kiểm soát trước nỗi sợ.<br />
- Hành động: Bản thân bỏ chạy khỏi nỗi sợ.<br />
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tìm hiểu về<br />
hoán dụ ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều<br />
(Nguyễn Du) (bản do Đào Duy Anh khảo<br />
đính và chú giải, Nxb Giáo dục, H., 2009) để<br />
thấy được cách nhìn nhận của tác giả về một<br />
trong những phạm trù tâm lí tình cảm cơ bản<br />
nhất của con người.<br />
KẾT QUẢ KHẢO SÁT HOÁN DỤ Ý NIỆM<br />
“SỢ HÃI” TRONG TRUYỆN KIỀU<br />
Kết quả khảo sát cụ thể về các hoán dụ ý<br />
niệm “sợ hãi” xuất hiện trong Truyện Kiều<br />
được thể hiện trong bảng sau:<br />
Bảng kết quả khảo sát hoán dụ ý niệm “sợ hãi”<br />
trong Truyện Kiều<br />
STT<br />
1<br />
2<br />
<br />
4<br />
<br />
Hoán dụ<br />
Phản xạ biểu lộ tình<br />
cảm thay cho sợ hãi<br />
Phản xạ sinh lí của cơ<br />
thể thay cho sợ hãi<br />
<br />
Lượt<br />
xuất<br />
hiện<br />
<br />
Tỉ lệ<br />
(%)<br />
<br />
8<br />
<br />
61,5<br />
<br />
5<br />
<br />
38,5<br />
<br />
125(11): 3 - 6<br />
<br />
Nhận xét: Kết quả khảo sát cho chúng ta mô<br />
hình hoán dụ tri nhận của Nguyễn Du về ý<br />
niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều cũng xuất<br />
phát từ những mô hình tri nhận chung của<br />
nhân loại. Các ánh xạ hoán dụ về ý niệm “sợ<br />
hãi” được tìm thấy trong Truyện Kiều có liên<br />
quan đến các phản xạ biểu lộ tình cảm và các<br />
phản xạ sinh lí.<br />
Sau đây, chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu các<br />
hoán dụ tri nhận về ý niệm “sợ hãi” đã xuất<br />
hiện trong Truyện Kiều.<br />
MÔ HÌNH TRI NHẬN CỦA CÁC HOÁN DỤ<br />
Ý NIỆM “SỢ HÃI” TRONG TRUYỆN KIỀU<br />
Phản xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ hãi<br />
Hoán dụ phản xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ<br />
hãi xuất phát từ cơ sở nghiệm thân khi sợ hãi<br />
con người thường có những biểu hiện bộc lộ<br />
tình cảm như mắt mở tròn xoe, mắt trợn tròn,<br />
nhìn lấm lét, miệng há hốc, miệng im thin<br />
thít, hết hồn hết vía, hồn bay phách lạc…<br />
Trong Truyện Kiều, khi nói đến các phản xạ<br />
biểu lộ tình cảm “sợ hãi”, Nguyễn Du đã<br />
dùng các biểu đạt gắn với phần hồn và phần<br />
phách của con người. Hoán dụ này được xuất<br />
hiện thông qua các biểu thức ngôn từ như:<br />
phách lạc hồn bay, phách lạc hồn xiêu, hồn<br />
lạc phách xiêu, hồn kinh phách rời, thất<br />
kinh, tán hoán… Cách tri nhận này mang<br />
tính đặc trưng của dân tộc Việt tương đối sâu<br />
sắc. Người Việt cho rằng con người có phần<br />
hồn và phần phách. Khi thân thể đã chết,<br />
phách vẫn còn và từ từ tan biến còn hồn vẫn<br />
còn nguyên. Do quan niệm như vậy nên khi<br />
gặp tình huống nguy hiểm, người Việt<br />
thường mã hóa sự sợ hãi thông qua các ý<br />
niệm hồn và phách. Trong Truyện Kiều,<br />
Nguyễn Du đã thể hiện cách tri nhận này khi<br />
nói tới nỗi sợ hãi của Kiều lúc gặp lũ ác<br />
nhân nhà họ Hoạn đến bắt cóc nàng về Vô<br />
Tích, nỗi sợ hãi của Thúc Ông và gia nhân<br />
khi nghĩ rằng Kiều đã bị chôn vùi trong đống<br />
lửa ở cửa hàng Lâm Tri… Đặc biệt, nỗi sợ<br />
hãi của Thúc Sinh khi nhận ra Thúy Kiều<br />
đang ở nhà Hoạn Thư trong phận tôi đòi đã<br />
được Nguyễn Du miêu tả:<br />
<br />
Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
1823. Sinh đà phách lạc hồn xiêu,<br />
“Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây?”<br />
Vốn bản chất sợ vợ nên việc nhận ra Thúy<br />
Kiều và phải chứng kiến trận đòn ghen “ba<br />
máu sáu cơn” của vợ mình là tiểu thư con gái<br />
viên quan Bộ Lại đã khiến Thúc Sinh phách<br />
lạc hồn xiêu. Nguyễn Du đã thông qua hoán dụ<br />
phản xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ hãi để ý<br />
niệm hóa nỗi sợ hãi. Nỗi sợ ghê gớm này còn<br />
được thể hiện thông qua biểu thức ngôn từ:<br />
2363. Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,<br />
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.<br />
trong tình huống Hoạn Thư phải ra trước tòa<br />
án ở Lâm Tri và phải đối mặt với phu nhân<br />
của Đại vương họ Từ - người mà nàng đã<br />
từng trút giận bằng một trận đòn “ngứa ghẻ<br />
hờn ghen”.<br />
Như vậy, trong mô hình hoán dụ ý niệm phản<br />
xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ hãi, Nguyễn<br />
Du đã sử dụng các hình ảnh “hồn” và<br />
“phách” quen thuộc trong tư duy của người<br />
Việt nói riêng và người phương Đông nói<br />
chung để ý niệm hóa sự sợ hãi.<br />
Phản xạ sinh lí của cơ thể thay cho sợ hãi<br />
Hoán dụ phản xạ sinh lí của cơ thể thay cho<br />
sợ hãi cũng xuất phát từ cơ sở nghiệm thân là<br />
khi sợ hãi con người thường có những biểu<br />
hiện sinh lí như xanh mặt, tái mặt, dựng tóc<br />
gáy, run rẩy, rùng mình, thót tim, ù tai, sởn<br />
gai nổi da gà, toát mồ hôi, khóc lóc, sa sẩm<br />
mặt mày, mặt cắt không còn hột máu… Trong<br />
Truyện Kiều, để ý niệm hóa nỗi sợ hãi,<br />
Nguyễn Du cũng thường xuyên tri nhận theo<br />
mô hình hoán dụ ý niệm này.<br />
Để nói về nỗi sợ hãi của Tú Bà, Nguyễn Du<br />
dùng phản xạ sinh lí “run rẩy” thay cho<br />
“sợ hãi”:<br />
989. Nàng thì bằn bặt giấc tiên,<br />
Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.<br />
Trong trường hợp này, Tú Bà đã sợ hãi thực<br />
sự trước việc Thúy Kiều định quyên sinh. Nỗi<br />
sợ hãi ấy của Tú Bà là hoàn toàn có cơ sở vì<br />
tất cả vốn liếng của mụ giờ đã nằm cả trong<br />
tay Kiều.<br />
Bản thân Kiều cũng được Nguyễn Du miêu tả<br />
về nỗi sợ hãi đến mức “sởn gai” khi nàng<br />
<br />
125(11): 3 - 6<br />
<br />
biết việc Hoạn Thư đã đứng hồi lâu nghe<br />
Thúc Sinh và mình tâm sự:<br />
2005. Ấy mới gan, ấy mới tài,<br />
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời.<br />
Và đặc biệt, khi nói đến nhân vật Thúc Sinh,<br />
để làm nổi bật tính cách sợ vợ của anh chàng<br />
này, Nguyễn Du đã dùng phản xạ sinh lí<br />
“cứng lưỡi” đến nỗi không nói ra lời và<br />
“khóc lóc” để ý niệm hóa nỗi sợ hãi.<br />
1827. Sợ quen dám hở ra lời,<br />
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.<br />
Có thể thấy, thông qua các phản xạ sinh lí này<br />
của Thúc Sinh, chúng ta đủ biết quan hệ vợ<br />
chồng của Thúc Sinh thực chất là quan hệ<br />
đẳng cấp. Đối với Hoạn Thư, không thể có<br />
chuyện xuất giá tòng phu và cái ngôi hàng ở<br />
Lâm Tri cũng không chứa nổi một người như<br />
Hoạn Thư.<br />
Bản chất của Thúc Sinh là nhút nhát, nhu<br />
nhược, điển hình của anh chàng sợ vợ thì<br />
trước cảnh ba quân gươm lớn, giáo dài, “nỗi<br />
sợ hãi” của anh chàng này mới được bộc lộ<br />
một cách thật thảm hại.<br />
2325. Cho gươm mời đến Thúc lang,<br />
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.<br />
Và ngoại hình thiểu não của Thúc Sinh lúc<br />
bấy giờ cũng được Nguyễn Du khắc họa:<br />
2337. Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,<br />
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm.<br />
Như vậy, khi nói đến nhân vật Thúc Sinh,<br />
Nguyễn Du đã dùng rất nhiều các phản xạ<br />
sinh lí của nhân vật như mặt như chàm đổ,<br />
mình dường dẽ run, mồ hôi ướt đầm để ý<br />
niệm hóa nỗi sợ hãi. Nhân vật Thúc Sinh<br />
trong Truyện Kiều không chỉ sợ vợ, sợ cái uy<br />
quyền của gia đình họ Hoạn mà còn run sợ<br />
trước quân tướng của Từ Hải. Điều này cũng<br />
chứng tỏ Thúc Sinh không bao giờ nghĩ Kiều<br />
là kẻ chịu ơn mình và việc mình phải đến<br />
phiên tòa ở Lâm Tri không phải để Thúy Kiều<br />
tạ ơn mà để mình đền tội.<br />
Như vậy, trong mô hình hoán dụ ý niệm phản<br />
xạ sinh lí của cơ thể thay cho sợ hãi, Nguyễn<br />
Du đã sử dụng rất nhiều các phản xạ sinh lí của<br />
con người khi sợ hãi như: xanh mặt, run rẩy,<br />
toát mồ hôi, sởn da gà để ý niệm hóa về sự sợ<br />
hãi của các nhân vật trong tác phẩm của mình.<br />
5<br />
<br />
Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Trong Truyện Kiều, chúng tôi xác định được<br />
hai hoán dụ về ý niệm “sợ hãi”: phản xạ biểu<br />
lộ tình cảm thay cho sợ hãi và phản xạ sinh lí<br />
của cơ thể thay cho sợ hãi. Các hoán dụ ý<br />
niệm này thông qua cách tri nhận của Nguyễn<br />
Du về cơ bản mang tính phổ quát của nhân<br />
loại và có cơ sở nghiệm thân tương đối sâu<br />
sắc. Tuy nhiên, trong quá trình ý niệm hóa<br />
tình cảm “sợ hãi” này, Nguyễn Du lại đặc<br />
biệt chú ý đến mối liên hệ với phần hồn và<br />
phách của con người và các phản xạ sinh lí<br />
của con người như: mặt như chàm đổ, mình<br />
dường dẽ run, mồ hôi ướt đầm...<br />
Thông qua hai hoán dụ ý niệm này, chúng tôi<br />
nhận thấy sự tri nhận của Nguyễn Du về ý<br />
niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều có nhiều nét<br />
gắn với đặc trưng tư duy - văn hóa của người<br />
Việt. Điều này chứng tỏ ở Nguyễn Du là sự<br />
hội tụ của một minh triết phương Đông và của<br />
trí tuệ dân gian dân tộc Việt. Đặc biệt, cách<br />
Nguyễn Du ý niệm hóa sự sợ hãi thông qua<br />
<br />
125(11): 3 - 6<br />
<br />
các phản xạ sinh lí của cơ thể có rất nhiều sự<br />
gặp gỡ trong cách nói của người bình dân<br />
Việt Nam qua các câu thành ngữ như: mặt<br />
xanh nanh vàng, mặt xanh như chàm đổ, sợ<br />
run như dẽ, run như cầy sấy, sợ toát mồ hôi,<br />
sợ sởn gai ốc, sợ sởn da gà…<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Trần Văn Cơ (2011), Ngôn ngữ học tri nhận Từ điển (Tường giải & Đối chiếu), Nxb Phương<br />
Đông, TP HCM.<br />
2. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận<br />
và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Giáo<br />
dục, H.<br />
3. Kovecses Z. (2002), Metaphor: A practical<br />
introduction, Oxford University Press: USA.<br />
4. Ly Lan, Lý Toàn Thắng (2011), “Chiếu xạ<br />
trong các ẩn dụ ý niệm về tình cảm”, T/c Từ điển<br />
học & Bách khoa thư, số 6 (14), tr.89 - 99.<br />
5. Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng<br />
Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, H.<br />
6. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận.<br />
Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt,<br />
Nxb KHXH, H.<br />
<br />
SUMMARY<br />
CONCEPTUAL METONYMYS “FEAR” IN TRUYEN KIEU OF NGUYEN DU<br />
Nguyen Thu Quynh*<br />
College of Education –TNU<br />
<br />
As a result of our research, there are two types of metonymys concerning fear: emotional<br />
reflection instead of fear and physical reflection instead of fear. Though influenced by Chinese<br />
culture, the linguistic cognition of fear in Nguyen Du’s work is unique. The author took full<br />
advantage of the richness of Vietnamese vocabulary to conceptualize objects popularized and<br />
cognized by others in a different way.<br />
Key words: metonymy, conceptual, fear, Truyen Kieu, Nguyen Du<br />
<br />
Ngày nhận bài:27/8/2014; ngày phản biện:15/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014<br />
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Nhung – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
*<br />
<br />
6<br />
<br />
Tel: 0975459119, Email: thuquynhvb@yahoo.com<br />
<br />