VI PHẪU TIÊM MỠ, CÂN TỰ THÂN VÀO DÂY THANH<br />
ĐIỀU TRỊ BỆNH HỞ THANH MÔN QUA NỘI SOI ỐNG CỨNG<br />
Trần Việt Hồng*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của vi phẫu thanh quản qua nội soi ống cứng, tiêm mỡ, cân vào dây thanh điều<br />
trị hở thanh môn giúp phục hồi giọng nói.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Cỡ mẫu 30 bệnh nhân bị hở thanh môn. Một nghiên cứu tiền cứu được thực<br />
hiện tại khoa TMH bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Mỡ, cân được lấy từ vùng bụng bệnh nhân tiêm vào dây<br />
thanh bị liệt và teo bằng soi treo thanh quản và quan sát qua ống nội soi cứng.<br />
Kết quả: Có 20 bệnh nhân bị liệt dây thanh, 6 bệnh nhân bị teo dây thanh, 4 bệnh nhân S.VER. Theo dõi sau<br />
mổ 1 – 6 tháng không có biến chứng nào. Hiệu quả điệu trị phục hồi giọng nói thành công sau 1 – 3 tháng là<br />
90%; sau 3 – 6 tháng là 86,6%. Trong đó liệt dây thanh thành công 95%; teo dây thanh 83%; S.VER là 75%.<br />
Kết luận: Tiêm mỡ, cân tự thân vào dây thanh điều trị hở thanh môn là phương pháp an toàn, chi phí thấp<br />
và hiệu quả, trong đó cao nhất là bệnh nhân bị liệt dây thanh. Đây là phương pháp có thể áp dụng ở Việt Nam.<br />
Tuy nhiên nó đòi hỏi cơ sở phải có đủ phương tiện và phẫu thuật viên có kinh nghiệm.<br />
Từ khóa: Mỡ tự thân, dây thanh, hở thanh môn.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
AUTOGENOUS FAT, FASCIA INJECTION INTO VOCAL CORD FOR GLOTTIC INSUFFICIENCY<br />
USING RIGID LARYNGOSCOPE<br />
Tran Viet Hong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 6 - 2009: 268 - 272<br />
Objective: To investigate the effect of laryngoscopic autogenous fat, fascia injection in glottic insufficiency<br />
treatment.<br />
Method: The study sample comprised 30 patients of glottic insufficiency. A prospective analysis was<br />
performed at ENT Department of Nhan Dan Gia Dinh Hospital. The Fat, fascia graft was obtained from lower<br />
abdomen, was then injected into the diseased vocal cord using rigid laryngoscope.<br />
Result: There were 20 patients of vocal cord paralysis, 6 patients of vocal cord atrophy, 4 patients of sulcus<br />
vergeture. Follow –up 1-6 months after operation, there was no complication. The result of treatment to have the<br />
better voice was 90% after 1-3 months, 86.6% after 3-6 months. The outcome were successful in 95% of vocal<br />
cord paralysis cases, 83% of vocal fold atrophy cases, 75% of sulcus vergeture cases.<br />
Conclusion: Laryngoscope autogenous fat, fascia injection in glottic insufficiency treatment is safe, cheap<br />
and effective, especially in vocal cord paralysis treatment. This technique can be applied in Vietnam. However,<br />
this requires sufficient instruments and experienced surgeon.<br />
Keywords: Autogenous fat, vocal cord, glottic insufficiency.<br />
<br />
268<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Thanh quản là cơ quan phát âm, âm thanh giọng nói của con người chịu ảnh hưởng trực<br />
tiếp bởi sinh lý phát âm của thanh quản, quan trọng nhất là sự khép mở của thanh môn<br />
rung động “sóng niêm mạc” của dây thanh. Thanh môn bị hở khi phát âm sẽ gây khàn tiếng<br />
* Khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Nhân Dân Gia Định<br />
Địa chỉ liên lạc: ThS Trần Việt Hồng ĐT: 0913.904.736 Email: bshong_lam_21@yahoo.com.vn<br />
thiều thào, rối loạn giọng nói.<br />
Hở thanh môn có rất nhiều nguyên nhân, những nguyên nhân thường gặp nhất là liệt dây<br />
thanh một bên tư thế trung gian hay đường ngoài, liệt cơ khép và căng dây thanh, teo dây<br />
thanh và khuyết lõm niêm mạc dọc dây thanh (sulcus vergeture: S.VER). Có nhiều phương<br />
pháp phẫu thuật để điều trị bệnh lý hở thanh môn như: Thyroplasty type I, tiêm bơm vật<br />
liệu vào dây thanh qua nội soi. Tất cả các phương pháp đều mục đích đẩy dây thanh vào<br />
đường giữa cùng phối hợp dây thanh bên đối diện làm cho thanh môn được khép kín khi<br />
phát âm. Phương pháp thyroplasty type I cũng có hiệu quả nhưng đòi hỏi chất liệu cấy<br />
(silastic- implant), vấn đề mở đường ngoài ảnh hưởng thẩm mỹ ở bệnh nhân trẻ và không<br />
thể xác đinh được chính xác kích thước vị trí trước phẫu thuật. Phương pháp bơm vật liệu<br />
ngoại lai vào dây thanh như Telflon, collagen hay cấy silastic sẽ có những biến chứng tạo<br />
mô hạt do phản ứng miễn dịch dị ứng, nhiễm trùng, thải ghép và nhất là khi bị sai lầm<br />
trong điều trị thì không sửa chữa được, cộng với giá thành của các vật liệu trên rất đắt tiền.<br />
Tiêm vật liệu tự thân như mỡ, cân vào dây thanh là an toàn và hiệu quả, rẻ tiền. Tiêm mỡ tự<br />
thân vào dây thanh để điều trị liệt dây thanh một bên đầu tiên được báo cáo bởi Mikaelian<br />
năm 1991 (5). Nhiều tác giả báo cáo kết quả rất tốt sau khi tiêm mỡ vào dây thanh. Tiêm mỡ<br />
tự thân vào dây thanh cho kết qủa tức thì và ta có thể tiên lượng được kết quả điều trị tốt<br />
hơn so với tiêm telflon và collagen ngoại lai. Tại khoa TMH bệnh viện Nhân Dân Gia Định<br />
chúng tôi đã tiến hành bơm mõ, cân vào dây thanh điều trị hở thanh môn bắt đầu từ năm<br />
2006 và từ đó đến nay chúng tôi đã làm thường qui hơn. Mặc dù mở tự thân là chất liệu cấy<br />
hiệu quả và được dùng để điều trị hở thanh môn trước đây ở trên thế giới. Ở Việt Nam, có<br />
một số tác giả làm một vài bệnh nhân nhưng chưa có báo cáo chính thức trên mẫu lớn và<br />
nghiên cứu một cách tỉ mỉ, theo dõi lâu dài, đó cũng là lý do chúng tôi tiến hành nghiên cứu<br />
phương pháp này ở Việt Nam.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
Tất cả bệnh nhân bị khàn tiếng thều thào, hụt hơi khi phát âm đến khám tại phòng<br />
khám Tai Mũi Họng bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Bệnh nhân được xác định chẩn<br />
đoán bằng nội soi thanh quản ống mềm, cứng, soi hoạt nghiệm thanh quản có ghi hình<br />
(Video-stroboscope) bị hở thanh môn do liệt dây thanh, teo dây thanh, S.VER.<br />
- Bệnh nhân được ghi âm giọng nói trước và sau mổ.<br />
- Được đánh giá tình trạng chất lượng giọng nói qua bảng câu hỏi trước và sau mổ.<br />
<br />
269<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
Các bệnh lý hở thanh môn do khối u, do chấn thương, viêm và các bệnh lý<br />
mạn tính nặng.<br />
<br />
Phương tiện nghiên cứu<br />
Bộ máy nội soi ống cứng, ống mềm (Karl-Storz; Olympus).<br />
Máy nội soi hoạt nghiệm thanh quản (Stroboscopie).<br />
Bộ máy phẫu thuật nội soi ống cứng gồm các ống nội soi (Karl-Storz) 0o, 30o, 70o, 120o<br />
đường kính 5mm (5.0) dài 24cm, kèm theo máy camera Video, máy in printer.<br />
Phòng máy ghi âm.<br />
Bộ soi treo thanh quản tự chế cải tiến.<br />
Dụng cụ vi phẫu thanh quản: kéo; pine, súng bơm mỡ, bơm tiêm, kim tiêm mỡ và dụng<br />
cụ xử lý mỡ và cân.<br />
<br />
Phươn gpháp tiến hành<br />
Kỹ thuật lấy mỡ, cân tự thân<br />
Mỡ cân được lấy từ vùng bụng cạnh rốn, rạch da dài 1-2cm bóc tách lấy mỡ và cân vùng<br />
dưới da bụng sau đó được xử lý và ly tâm để tạo thành chất dịch sệt, có tế bào mỡ nguyên<br />
và sợi cân (collagen).<br />
<br />
Kỹ thuật soi treo tiêm mỡ, cân vào dây thanh qua nội soi<br />
Bệnh nhân được soi treo thanh quản bộc lộ dây thanh, và thanh môn qua ống nội soi<br />
ống cứng quan sát trên màn hình Ti Vi nhìn rõ dây thanh được tiêm mỡ và thanh môn.<br />
Mỡ sau khi được xử lý cho vào bơm tiêm và kim tiêm mỡ, sau đó lắp vào súng bơm<br />
mỡ, quan sát trên màn hình Ti Vi tiêm vào 1/3 ngoài, giữa và sau cơ giáp phễu của dây<br />
thanh cần bơm. Tùy theo bệnh lý của dây thanh mà tiêm sâu và lượng mỡ, cân bơm vào<br />
tùy đánh giá của phẫu thuật viên qua soi stroboscopie trước phẫu thuật.<br />
Bệnh nhân nằm một ngày hay xuất viện trong ngày, hạn chế nói một tuần.<br />
<br />
Đánh giá hiệu quả điều trị<br />
Bệnh nhân được đánh giá hiệu quả điều trị sau khi tái khám một tuần, một tháng, ba<br />
tháng, sáu tháng để theo dõi bằng nội soi, stroboscopie, ghi âm giọng nói và đánh giá chất<br />
lượng giọng nói của bệnh nhân qua trả lời các câu hỏi về sự cải thiện giọng nói của mình.<br />
Kết quả phân loại “tốt” là hài lòng cao với kết quả phẫu thuật; “cải thiện” là bệnh nhân<br />
thấy tốt hơn so với trước phẫu thuật, “thất bại” là giọng nói vẫn như trước khi mổ hoặc cải<br />
thiện < 50%. Theo các tác giả nước ngoài “thất bại” được xem như mỡ bị hấp thu hoàn toàn<br />
hoặc bơm mỡ chưa đủ, chưa đúng kỹ thuật, “ cải thiện” và “tốt” được diễn giải là mỡ sau<br />
khi bơm còn ở dây thanh, lượng mỡ bơm đủ. Chúng tôi xem “cải thiện” và “tốt” chung một<br />
nhóm bệnh nhân thành công sau khi tiêm mỡ và cân vào dây thanh.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Từ 12/2006 đến 10/2008 có 30 bệnh nhân (16 nam;14 nữ) tuổi từ 21- 61 (trung bình:37),<br />
bao gồm:<br />
- Liệt dây thanh một bên: 20 bệnh nhân (14 ca liệt (T), 6 ca liệt (P)).<br />
270<br />
<br />
- Teo dây thanh 2 bên<br />
<br />
: 6 bệnh nhân;<br />
<br />
- Sulcus vergature(SVER): 4 bệnh nhân.<br />
<br />
Nguyên nhân bệnh<br />
Sau phẫu thuật ở vùng cổ, sọ não và ngực: 16 bệnh nhân (9 bệnh nhân sau mổ tuyến<br />
giáp, 7 bệnh nhân mổ u thần kinh, u ở cổ, ngực, sọ não).<br />
Không rõ nguyên nhân: 10 bệnh nhân.<br />
Viêm dính niêm mạc và bẩm sinh: 4 bệnh nhân.<br />
<br />
Kết quả sau mổ: (1-3 tháng)<br />
Việc kiểm tra đánh giá hiệu quả sau mổ được xác định qua các dấu hiệu khách quan và<br />
chủ quan của bệnh nhân. Đánh giá khách quan bằng nội soi, stroboscopie, ghi âm giọng nói,<br />
ghi nhận độ khép kín của thanh môn, độ lớn của dây thanh và rung động “sóng niêm mạc”<br />
của dây thanh so sánh trước mổ và sau mổ. Đánh giá chủ quan bằng hỏi bệnh về đánh giá<br />
cải thiện giọng nói của bệnh nhân so sánh với trước và sau mổ.<br />
Bảng 1: Kết quả theo dõi 1-3 tháng<br />
Chẩn ñóan<br />
<br />
Số BN<br />
thất bại<br />
1<br />
1<br />
1<br />
3 (10%)<br />
<br />
Liệt dây thanh<br />
Teo dây thanh<br />
S.VER<br />
Tổng số<br />
<br />
Số BN<br />
cải thiện<br />
5<br />
2<br />
1<br />
8 (26,6%)<br />
<br />
Số BN tốt<br />
14<br />
3<br />
2<br />
19(63,4%)<br />
<br />
Sau mổ từ 1 tháng đến dưới 3 tháng tỉ lệ thành công gồm cải thiện và tốt là 90%, thất bại<br />
là 10%. Theo dõi thời gian dài hơn từ 3-6 tháng sau mỗ để đánh giá hiệu quả lâu dài của<br />
phương pháp này trên từng lọai bệnh cho thấy hiệu quả còn thành công 86,6% (Bảng 2). Có<br />
một bệnh nhân bị teo dây thanh, giọng nói lại bị rối loạn và gần giống như trước khi mổ,<br />
kiểm tra lại dây thanh bơm mỡ còn lớn nhưng không đủ để khép dây thanh kín khi phát<br />
âm.<br />
Bảng 2: Kết quả theo dõi sau > 3-6 tháng<br />
Chẩn ñóan<br />
Liệt dây thanh<br />
<br />
Số BN<br />
thất bại<br />
1<br />
<br />
Số BN<br />
cải thiện<br />
5<br />
<br />
Số BN<br />
tốt<br />
14<br />
<br />
Teo dây thanh<br />
S.VER<br />
Tổng số<br />
<br />
2<br />
1<br />
4 (13,4%)<br />
<br />
1<br />
1<br />
7 (23,3%)<br />
<br />
3<br />
2<br />
19 (63,3%)<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Tiêm mỡ vào dây thanh qua nội soi cho BN hở thanh môn là thủ thuật thành công cả về<br />
mặt chủ quan và khách quan. Tính hiệu quả cao: dễ áp dụng, đáp ứng sinh học tốt, chi phí<br />
thấp, rất ít có biến chứng so với Telflon, Silicon và Collagen, đã góp phần đưa kỹ thuật này<br />
dùng phổ biến cho bệnh nhân hở thanh môn. Tuy nhiên ý kiến thống nhất về kết quả lâu<br />
dài vẫn chưa được giải đáp.<br />
Trong các báo cáo trước đây những bệnh nhân hở thanh môn được tiêm mỡ có kết quả<br />
rất tốt. Shaw và cộng sự(7) đã điều trị 22 bệnh nhân (11 liệt dây thanh, 11 hở thanh môn do<br />
nguyên nhân khác ). Các so sánh chủ quan và khách quan được thực hiện với thời gian theo<br />
<br />
271<br />
<br />
dõi trung bình 12 tháng cả 22 bệnh nhân đều cho kết quả tốt. Năm 2004, Hsiung và cộng<br />
sự(4) báo cáo kết quả cho 101 bệnh nhân hở thanh môn đạt tỉ lệ thành công sau 1 tháng theo<br />
dõi là 95% (96/101) và sau 1 năm là 85,7%, trong đó bệnh nhân bị liệt dây thanh là hiệu quả<br />
cao nhất và bền vững nhất. Theo tác giả trên 101 bệnh nhân không có biến chứng nào như<br />
khó thở, nhiễm trùng, phản ứng dị ứng hay tử vong. Vì vậy theo tác giả tiêm mỡ được chọn<br />
là phương pháp điều trị hở thanh môn. Vấn đề chính yếu là ta không thể tiên lượng được có<br />
bao nhiêu phần trăm mỡ bị hấp thu sau đó.<br />
Kết quả lý tưởng là bệnh nhân hài lòng với giọng nói của mình sau phẫu thuật. Sự thành<br />
công hay thất bại của thủ thuật tiêm mỡ có liên quan mật thiết với kinh nghiệm của phẩu<br />
thuật viên trong việc xử lý mỡ, kỹ thuật tiêm lượng mỡ vào dây thanh tùy theo lọai bệnh. So<br />
với kết quả của chúng tôi trên 30 bệnh nhân theo dõi sau 1-3 tháng có 20 bệnh nhân bị liệt<br />
dây thanh 1 bên kết quả thành công là 19/20 (95%), teo dây thanh 5/6 (83,3%); S.VER 3/4<br />
(75%). Chung cho 30 bệnh nhân thành công 27/30 (90%): 1 bệnh nhân bị liệt dây thanh thất<br />
bại là do kỹ thuật bơm mỡ chưa đủ và ở bệnh nhân,mà chúng tôi mới làm 1 vài lần đầu trên<br />
bệnh nhân sau xạ trị vùng cổ, việc soi treo khó khăn do không há được miệng lớn; 1 bệnh<br />
nhân bị teo dây thanh, thanh môn bị hở quá rộng không thể bơm nhiều mỡ cùng một lúc 2<br />
bên dây thanh sợ bệnh nhân khó thở, bệnh nhân chờ một thời gian bơm thêm lần 2; 1 bệnh<br />
nhân bị S.VER bơm mỡ không tách được dính niêm mạc vào cơ giáp phễu nên dây thanh<br />
không phồng to được và rung “sóng niêm mạc” kém hơn. Qua các trường hợp thất bại, rút<br />
ra một điều là kỹ thuật bơm mỡ và lượng mỡ bơm chưa đạt. Cũng như kết quả tiêm mỡ của<br />
một số tác giả trên trên thế giới, nhóm thành công nhất là bệnh nhân bị liệt dây thanh, kém<br />
nhất là nhóm S.VER.<br />
Theo tác giả thế giới cũng như kinh nghiệm của chúng tôi khi tiêm mỡ, cân vào cơ giáp<br />
phễu cần tiêm nhiều hơn một chút để bù lại lượng mỡ có thể bị hấp thu (chú ý không quá<br />
nhiều sẽ làm hẹp thanh môn gây khó thở) do đó mỡ dư này sẽ đi vào khỏang Reinke tạo ra<br />
hiệu quả giống như tiêm mỡ vào khoang này (giống như của Salatoff(6)) làm mềm sẹo dây<br />
thanh. Vì vậy dù mỡ bị hấp thu nhưng vẫn còn một ít mỡ ở trong lớp lamina propria trên<br />
cùng làm cho dây thanh vẫn có được tính mềm mại và đàn hồi. Có những bằng chứng ghi<br />
nhận rằng mỡ và cân được tiêm vào cơ giáp phễu tồn tại lâu dài trên vật thí nghiệm và<br />
người; Theo báo cáo trước đây của một số tác giả trên thế giới(7). Những bệnh nhân liệt dây<br />
thanh khi theo dõi lâu dài tỉ lệ thành công không hằng định khỏang 75,8% (từ 58-100%).<br />
Theo tác giả giải thích rằng thứ nhất dựa vào tỉ lệ hấp thu mỡ vùng đầu mặt cổ thay đổi từ<br />
20-90% nên khó xác định hấp thu mỡ ở trong dây thanh, ở bệnh nhân không có teo cơ tiến<br />
triển thì lượng mỡ hấp thu rất ít và khi trương lực cơ còn một ít và với độ lớn của dây thanh<br />
được bơm tiêm mỡ chất lượng giọng nói được tốt duy trì lâu dài. Nhưng điều không thể<br />
phủ nhận trong tất cả các báo cáo trước đây và nhất là một báo cáo của Hsiung và cộng sự(4)<br />
với số mẫu lớn 101 bệnh nhân thì kết quả cải thiện giọng nói cho bệnh nhân bị hở thanh<br />
môn và nhất là do liệt dây thanh một bên hiệu quả rất cao và duy trì được lâu dài về mặt<br />
đánh giá chủ quan của bệnh nhân cũng như khách quan qua các khám lâm sàng.<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Tiêm mỡ và cân tự thân vào dây thanh điều trị hở thanh môn phục hồi giọng nói là<br />
phương pháp an toàn, hiệu quả và dễ thực hiện. Nghiên cứu cho ta thấy kết quả bơm mỡ và<br />
<br />
272<br />
<br />