Vùng biển Việt Nam và kế cận - Kiến tạo trẻ và địa động lực hiện đại: Phần 1
lượt xem 27
download
Phần 1 Tài liệu Kiến tạo trẻ và địa động lực hiện đại vùng biển Việt Nam và kế cận trình bày các nội dung: Lịch sử nghiên cứu, điều kiện tự nhiên và phương pháp nghiên cứu; cấu trúc địa chất biển Đông và khu vực kế cận; kiến tạo Kainozoi biển Đông và khu vực kế; hoạt động kiến tạo trẻ trong giai đoạn Pliocen đệ tứ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Vùng biển Việt Nam và kế cận - Kiến tạo trẻ và địa động lực hiện đại: Phần 1
- Mục lục 5 MỤC LỤC Trang LỜI GIỚI THIỆU 3 MỤC LỤC 5 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 9 MỞ ĐẦU 11 Chương 1: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU, ĐỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ PHƯƠNG PHÁP 13 NGHIÊN CỨU 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 13 1.2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐỊA HÌNH, ĐỊA MẠO BIỂN ĐÔNG VÀ KHU VỰC 25 KẾ CẬN 1.2.1. Vị trí địa lý 25 1.2.2. Khí hậu 25 1.2.3. Đặc điểm thuỷ văn 26 1.2.4. Đặc điểm hải văn 29 1.2.5. Đặc điểm địa mạo 31 1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHÍNH 32 1.3.1 Nhóm các phương pháp định vị toàn cầu GPS 32 1.3.2. Nhóm các phương pháp địa chất - địa mạo 37 1.3.3. Nhóm các phương pháp địa Vật lý 39 1.3.4. Nhóm các phương pháp nghiên cứu động đất 40 1.3.5.Nhóm phương pháp mô hình hoá biến đổi trường ứng suất Coulomb và sóng thần Chương 2: CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT BIỂN ĐÔNG VÀ KHU VỰC KẾ CẬN 41 2.1. TỪ TRƯỜNG VIỆT NAM VÀ KHU VỰC KẾ CẬN 41 2.2. TRƯỜNG TRỌNG LỰC VÀ CẤU TRÚC SÂU 47 2.3. CÁC YẾU TỐ KIẾN TRÚC CHÍNH BIỂN ĐÔNG VIỆT NAM VÀ KHU VỰC KẾ 61 CẬN Chương 3: KIẾN TẠO KAINOZOI BIỂN ĐÔNG VIỆT NAM VÀ KHU VỰC KẾ 87 CẬN 3.1. KIẾN TẠO ĐỨT GÃY KAINOZOI 87 3.1.1. Đứt gãy Sông Hồng trên đất liền 87 3.1.2. Vùng các thềm lục địa Biển Đông 90 3.1.3. Vùng trũng nước sâu đại dương Biển Đông 92 3.1.4. Vùng các khối vi lục địa 92
- 6 Phan Tr ọng Trịnh 3.2. SỰ PHÁT TRIỂN KIẾN TẠO KANOZOI BIỂN ĐÔNG VIỆT NAM VÀ KHU 92 VỰC KẾ CẬN 3.2.1. Các địa khu ban đầu và quá trình mở Biển Đông 93 3.2.2. Giai đoạn Paleogen–giữa Oligocen (65,5 –28,4 tr.n) 93 3.2.3. Giai đoạn Oligocen muộn–đầu Miocen (28,4- 23 tr,n) 98 3.2.4. Giai đoạn Neogen sớm (23 -11,6 tr.n) 100 3.2.5. Neogen muộn - Hiện tại (11,6- 5,33 tr.n –ngày nay) 102 Chương 4: HOẠT ĐỘNG KIẾN TẠO TRẺ TRONG GIAI ĐOẠN PLIOCEN - ĐỆ 105 TỨ 4.1. HOẠT ĐỘNG KIẾN TẠO TRẺ TRÊN ĐẤT LIỀN VIỆT NAM VÀ KHU VỰC KẾ 105 CẬN 4.2. HOẠT ĐỘNG KIẾN TẠO TRẺ TRÊN KHU VỰC BIỂN ĐÔNG VIỆT NAM VÀ 114 KẾ CẬN 4.2.1. Cơ sở tài liệu 115 4.2.2. Phương pháp phân tích, nhận dạng và biểu diễn đứt gãy 115 3.2.3. Hoạt động kiến tạo trẻ Biển Đông Việt Nam và kế cận 123 4.3. HOẠT ĐỘNG NÚI LỬA TRẺ TRÊN KHU VỰC BIỂN ĐÔNG VÀ LÂN CẬN 154 Chương 5: CHUYỂN ĐỘNG HIỆN ĐẠI VÀ TRƯỜNG ỨNG SUẤT KIẾN TẠO 169 HIỆN ĐẠI TRÊN BIỂN ĐÔNG VÀ KHU VỰC KẾ CẬN 5.1. CHUYỂN ĐỘNG HIỆN ĐẠI TRÊN BIỂN ĐÔNG VÀ KHU VỰC KẾ CẬN 169 5.1.1. Chuyển động kiến tạo hiện đại xung quanh khu vực nghiên cứu 169 5.1.2. Đo đạc chuyển động hiện đại vùng Biển Đông bằng GPS 183 5.2. TRƯỜNG ỨNG SUẤT KIẾN TẠO HIỆN ĐẠI KHU VỰC BIỂN ĐÔNG VIỆT 196 NAM VÀ KẾ CẬN 5.2.1. Phá huỷ nén ép và khe nứt căng giãn 196 5.2.2. Cơ cấu chấn tiêu động đất 201 5.2.3. Định hướng của ứng suất kiến tạo hiện đại khu vực Biển Đông Việt Nam và kế cận 206 Chương 6: ĐÁNH GIÁ NGUY HIỂM ĐỘNG ĐẤT VÀ SÓNG THẦN 217 6.1. ĐÁNH GIÁ ĐỘ NGUY HIỂM ĐỘNG ĐẤT TỪ TÀI LIỆU ĐỘNG ĐẤT 217 6.1.1. Đánh giá độ nguy hiểm động đất từ tài liệu động đất 217 6.1.2. Đánh giá địa chấn kiến tạo 231 6.1.3. Biến đổi ứng suất Coulomb 253 6.2. ĐÁNH GIÁ NGUY HIỂM SÓNG THẦN 253 6.2.1. Mô hình lan truyền sóng thần trên biển 253 6.2.2. Lựa chọn kịch bản và xác định các thông số động đất gây sóng thần trên khu vực 281 Biển Đông 6.2.3. Đánh giá biên độ sóng cực đại, thời gian lan truyền và diện ngập lụt có nguy cơ 283 cao 6.3. ĐÁNH GIÁ NGUY HIỂM NÚI LỬA HIỆN ĐẠI 294 6.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG TRÁNH TAI BIẾN LIÊN QUAN TỚI KIẾN TẠO, 295 ĐỊA ĐỘNG LỰC HIỆN ĐẠI 6.4.1. Cơ sở khoa học cho viêc dự báo, phân vùng động đất, sóng thần và núi lửa 295 6.4.2. Các giải pháp phòng tránh tai biến liên quan 298
- Mục lục 7 KẾT LUẬN 301 TÀI LIỆU THAM KHẢO 303 PHỤ LỤC 321
- 8 Phan Tr ọng Trịnh
- 9 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Viết tắt Đọc là 1 AKT Á kinh tuyến 2 AVT Á vỹ tuyến 3 B Bắc 4 BCH Bất chỉnh hợp 5 BĐ Biển Đông 6 BLV1 Tên điểm đo GPS trên đảo Bạch Long Vỹ 7 BO Phá huỷ nén ép trong lỗ khoan (xảy ra do sập lở thành lỗ khoan) (Borehole Breakout) 8 CDA1 Tên điểm đo tại Côn Đảo 9 Đ Đông 10 ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 11 DIF Khe nứt căng giãn sinh ra trong quá trình khoan (drilling- induced fractures) 12 DOHO Tên điểm đo GPS tại thành phố Đồng Hới 13 FMI Thiết bị ghi điện trở trong lỗ khoan (Formation Micro Imager) 14 GK Giếng khoan 15 GNS Institute of Geological and Nuclear Sciences, New Zealand 16 HOCM Tên điểm đo GPS tại Thành phố HCM 17 HUES Tên điểm đo GPS tại thành phố Huế 18 IGS Intemational GPS Service - Tổ chức dịch vụ GPS Quốc tế phục vụ Địa động lực 19 ITRF Khung quy chiếu Trái đất quốc tế 20 KZ Kainozoi 21 LANG Tên điểm đo GPS tại Viện Địa chất, phố Chùa Láng, Hà Nội 22 N Nam 23 NIEC National earthquake information centrer (Hoa Kỳ) 24 s TWT Thời gian hai lần truyền sóng tính theo giây 25 STT1 Tên điểm đo GPS trên đảo Song Tử Tây - quần đảo Trường Sa 26 T Tây
- 10 Phan Tr ọng Trịnh 27 VĐC Viện Địa Chất 28 VKHKTTVMT Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường 29 WSM World Stress Map
- 11 MỞ ĐẦU Biển Đông có vị trí kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng đối với nước ta. Để khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lợi từ Biển Đông, đảm bảo an ninh quốc phòng, thì việc xây dựng cơ sở khoa học dự báo các dạng tai biến động đất và sóng thần, đề xuất các biện pháp phòng tránh là nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Mặc dù đã có một số các nghiên cứu về động đất và sóng thần trên Biển Đông, nhưng hiện đang tồn tại rất nhiều các kịch bản cảnh báo sóng thần khác nhau vì thiếu cơ sở về kiến tạo trẻ, địa động lực hiện đại. Để Nghiên cứu cảnh báo động đất và sóng thần thì vấn đề quan trọng bậc nhất là xác định được các nguồn phát sinh động đất gây sóng thần cũng như độ lớn của chúng, từ đó mới có quyết định về phòng tránh giảm nhẹ thiệt hại do động đất và sóng thần gây ra. Nguồn phát sinh động đất, sóng thần và mức độ của chúng được xác định với độ tin cậy cao nhờ các nghiên cứu về kiến tạo trẻ và kiến tạo hiện đại. Một số tác giả đã đề cập tới kiến tạo trẻ trên Biển Đông nhưng các ý kiến rất phân tán, thậm chí mâu thuẫn nhau vì sử dụng phương pháp nghiên cứu riêng biệt, trên vùng nghiên cứu khác nhau. Trong cuốn sách này, chúng tôi tập trung làm sáng tỏ và trả lời các câu hỏi: Những đứt gãy nào trên Biển Đông còn dấu hiệu hoạt động trong giai đoạn hiện đại? Nếu còn hoạt động thì quy mô, cường độ và diện phân bố của chúng ra sao? Động đất cực đại nếu có là bao nhiêu? Chúng có khả năng gây sóng thần hay không? Các hoạt động núi lửa trẻ liên quan với hoạt động kiến tạo tách giãn nào, phương tách giãn ra sao hay hoạt động núi lửa trẻ có nguồn gốc sâu, độc lập với biến dạng của thạch quyển hay vỏ Trái đất? Tại sao phần cung đảo Philipin lại chuyển dịch về phía tây với biên độ lớn như vậy? Trường ứng suất kiến tạo hiện đại phân bố ra sao? Mối quan hệ giữa kiến trúc sâu và biểu hiện hoạt động kiến tạo trẻ trên mặt như thế nào? Từ đó đề xuất các giải pháp giảm thiểu và phòng tránh các dạng tai biến liên quan, đặc biệt là động đất và sóng thần. Ở mức độ khái quát, trên bản đồ tỉ lệ 1:4.000.000, khu vực nghiên cứu là phần biển, các đảo và dải ven bờ Biển Đông và vùng lân cận, nằm trong khoảng từ 100o đến 129o kinh độ đông, -4o đến 26o vĩ độ bắc. Ở mức độ chi tiết hơn, khu vực nghiên cứu trên bản đồ tỉ lệ 1:1.000.000, nằm trong khoảng từ 102o đến 107o kinh độ đông, 6o đến 23o30’’ vĩ độ bắc. Nghiên cứu kiến tạo trẻ và kiến tạo hiện đại Biển Đông có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn. Ý nghĩa khoa học: Những kết quả thu nhận được từ nghiên cứu kiến tạo trẻ và địa động lực hiện đại sẽ đóng góp lớn cho việc hiểu rõ cơ chế biến dạng thạch quyển trong khu vực mà dư luận quốc tế hết sức quan tâm. Những nghiên cứu chi tiết về đặc điểm biến dạng trẻ sẽ cung cấp những chứng cứ để kiểm nghiệm các mô hình đã đề xuất hoặc cho phép đề xuất những mô hình biến dạng mới. Những kết quả về đặc điểm chuyển động kiến tạo trẻ và địa động lực hiện đại sẽ là cơ sở khoa học cho việc đánh giá nguy cơ động đất trên biển và sóng thần ở ven bờ và hải đảo Việt Nam. Cuốn sách này còn là một khung cơ bản để tiếp tục phát triển một loạt các nghiên cứu tiếp theo chi tiết hơn về kiến tạo trẻ và kiến tạo hiện đại ở các khu vực cụ thể trên Biển Đông và khu vực đới bờ. Ý nghĩa thực tiễn: Vị trí, cường độ nguồn gây ra động đất hay sóng thần, sẽ giúp giảm thiểu các mô hình cảnh báo sóng thần, có cơ sở khoa học trong việc phòng tránh và giảm thiểu thiệt hại của động đất và sóng thần. Mặt khác, giúp cho các cơ quan hoạch định chính sách, điều chỉnh kế hoạch chiến lược kinh tế, qui hoạch các khu đô thị, khu công nghiệp, khu du lịch vùng ven biển; quy hoạch các công trình biển như cầu cảng, khai thác dầu khí, viễn thông, biên phòng, đặc biệt là những công trình cần độ an toàn cao như xây dựng nhà máy điện nguyên tử.
- 12 Phan Tr ọng Trịnh Cuốn sách này đúc kết những kết quả chính của đề tài trọng điểm cấp Nhà nước KC09.11/06-10 do PGS.TS. Phan Trọng Trịnh làm chủ nhiệm cùng các thành viên tham gia: PGS.TS. Trần Đình Tô, GS.TS. Trần Nghi, TSKH. Lê Duy Bách, PGS.TS. Vũ Thanh Ca, PGS.TS. Nguyễn Hồng Phương, TS. Lê Tử Sơn, TS. Vy Quốc Hải, TS. Ngô Văn Liêm, TS. Nguyễn Văn Hướng, TS. Nguyễn Như Trung, TS. Lê Huy Minh, TSKH. Nguyễn Biểu, TS. Bùi Văn Thơm, TS. Nguyễn Đăng Túc, TS. Đinh Văn Thuận, TS. Nguyễn Hoàng, ThS. Hoàng Quang Vinh, cố GS.TSKH. Phạm Năng Vũ, TS. Nguyễn Văn Lương, TS. Nguyễn Quốc Hưng, PGS.TS. Đỗ Đức Thanh, TS. Nguyễn Thế Hùng, TS. Nguyễn Trọng Tín, TS. John Beavan, TS. Cù Minh Hoàng, TS. Hoàng Ngọc Đang, TS. Phan Lưu Anh, TS. Nguyễn Trung Minh, KTV. Nguyễn Quang Xuyên, ThS. Nguyễn Trọng Tấn, CN. Nguyễn Viết Thuận, KS. Bùi Thị Thảo, KS. Nguyễn Huy Thịnh, KS. Đinh Văn Thế, ThS. Lê Minh Tùng, KS. Trần Quốc Hùng, ThS. Nguyễn Việt Tiến. Trong quá trình thực hiện đề tài KC.09.11/06-10, tác giả cũng nhận được sự góp ý của GS.TS. Trần Văn Trị, PGS.TS. Phạm Huy Tiến, TSKH. Phan Trung Điền, PGS. TSKH. Nguyễn Địch Dỹ, GS.TSKH. Đặng Văn Bát, PGS.TS. Đặng Văn Bào, PGS.TS. Lại Huy Anh, GS.TSKH. Nguyễn Cẩn, PGS.TS. Tạ Trọng Thắng, TS. Trần Thắng, GS.TS. Bùi Công Quế. Tác giả xin bày tỏ lòng cám ơn sâu sắc tới các đồng nghiệp trên. Tác giả cũng gửi lời cám ơn đặc biệt tới PGS.TS. Phạm Huy Tiến, TS. Ngô Văn Liêm và TS. Nguyễn Văn Hướng đã biên tập công phu chuyên khảo này. Các tác giả
- 13 Chương 1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU Từ năm 1923-1927, tầu De Lanesssan (Pháp) đã khảo sát độ sâu đáy Biển Đông. Năm 1930 người Pháp đã khảo sát địa hình các khu vực biển nông ven bờ như vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan, các đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Giai đoạn 1954 - 1975, trong khi ở miền Bắc Việt Nam hoạt động địa chất được đẩy mạnh thì ở miền Nam Việt Nam chính quyền Sài Gòn chỉ tiến hành chủ yếu trên biển nhằm mục tiêu tìm kiếm, thăm dò dầu khí. Năm 1967, Sở Hải dương Hoa Kỳ đo từ hàng không miền Nam Việt Nam tỷ lệ 1:250.000; Cùng năm, Alpine Geophysical Corporation đo 19500 km tuyến địa chấn ở Biển Đông. Năm 1969-1970, Ray Geophysical Mandrel đo 12121 km tuyến địa chấn, từ và trọng lực ở thềm lục địa Nam Việt Nam. Năm 1972, GSI (Geological Service Inc.) đo 5000 km địa chấn khu vực miền Trung và Hoàng Sa. Tổng chiều dài đo địa chấn trong thời gian này lên tới 87.908 km. Sau 1975, ở miền Bắc, Tổng cục Dầu khí tiếp tục triển khai khảo sát trọng lực chi tiết (tỷ lệ 1:50.000; 1:25.000) vùng nước nông ven biển Thái Bình- Nam Định. Năm 1981, tiến hành 2555 km tuyến địa chấn mật độ quan sát 5x5 km trên diện tích 6500 km2 ở vịnh Bắc Bộ. Ở miền Nam, đã tiến hành khảo sát trọng lực tỷ lệ 1:200.000 vùng Cửu Long. Thuê CGG (Pháp, 1975) khảo sát 12.109 km tuyến địa chấn theo các sông ở đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven biển Vũng Tàu - Côn Đảo. Thuê GECO (Na Uy, 1978) khảo sát địa chấn gần 12 nghìn km tuyến trên các lô 09, 16, 19, 20, 21. Năm 1980, khảo sát địa vật lý được tiến hành trên thềm lục địa Việt Nam do Liên đoàn Địa vật lý Viễn Đông Liên Xô thực hiện với các tàu POISK, ISKATEL, Gambuaxev, Malưgin. Cho tới năm 1970, ngoài các hoạt động khảo sát với mục tiêu tìm kiếm và thăm dò dầu khí, còn có các dự án khảo sát cho nghiên cứu khoa học… Trong giai đoạn 1980 – 1990 một số chuyến khảo sát của các tàu Vulcanolog, Nexmeianov, Gagarinski cũng đã được tiến hành. Ở vùng biển Phú Khánh - Thuận Hải, đã đo 30 tuyến địa vật lý, cho những thông tin ban đầu về cấu trúc địa chất của vùng thềm và sườn lục địa, phát hiện các cấu tạo dạng diapia và họng núi lửa ngầm. Một vài chuyến khảo sát ở Biển Đông đã được tiến hành bởi các nhà khoa học phương Tây như chuyến khảo sát của các nhà địa vật lý biển Mỹ (Ludwig và nnk 1979) [132], R/V Jean-Charcot của Pháp năm 1984 (Pautot và Rangin 1989) [177]; (Pautrot và nnk 1990) [178] và R/V Sonne của Đức năm 1987, 1988. Từ những năm 1990, cộng đồng quốc tế trở nên quan tâm tới việc nghiên cứu Biển Đông. Năm 1993, trong dự án hợp tác với Pháp, tàu Altalante đã thực hiện chuyến khảo sát Ponaga đo trọng lực, từ, địa chấn nông kết hợp lấy mẫu tầng mặt ở vùng biển miền Trung và Đông Nam. Tàu Sonne-95 đã thu thập 48 mẫu ống phóng trọng lực tại 46 vị trí trên Biển Đông. Trong các năm 1996-1999, tàu Sonne của Đức cũng khảo sát thềm lục địa Việt Nam, đo địa hình, địa chấn nông và lấy mẫu trầm tích nhằm nghiên cứu môi trường trầm tích đáy biển. Trong các năm 1998-2000, đề án “Điều tra địa chất và tìm kiếm khoáng sản rắn biển nông ven bờ (0-30m nước) Việt Nam” khảo sát địa chấn phản xạ phân giải cao, từ và đo sâu hồi âm cũng đã được tiến hành ở khu vực Hàm Tân-Thuận Hải, Cà Mau-Bạc Liêu, Bạc Liêu- Vũng Tàu. Đây là lần đầu tiên vùng biển nghiên cứu đã được đo vẽ chi tiết ở tỉ lệ 1: 500.000 loạt bản đồ đáy biển như: địa chất trước Đệ tứ, Địa chất Đệ tứ, cấu trúc kiến tạo…
- 14 Phan Tr ọng Trịnh Các tài liệu từ các chuyến khảo sát này là căn cứ quan trọng trong hầu kết các công bố trong và ngoài nước có liên quan về Biển Đông. Nhờ đó chúng ta dần có những hiểu biết cơ bản về bối cảnh địa chất - địa động lực của khu vực Biển Đông Về nghiên cứu kiến tạo Kanozoi khu vực Biển Đông và kế cận Cơ chế biến dạng trong các đới đụng độ luôn là đối tượng của các tranh luận quốc tế. Một trường phái cho rằng quá trình đụng độ gây nén ép ngang và quá trình làm dày vỏ (Houseman và England, 1993) [91]. Một trường phái khác cho rằng xô húc có thể tạo nên sự thúc trượt ngang của các khối vỏ quy mô lớn, kết quả của vận động dọc theo các đứt gãy trượt bằng quy mô thạch quyển, ít đòi hỏi quá trình làm dày vỏ lớn (Tapponnier & nnk., 1986) [228]. Trong quá trình giải quyết các tranh cãi này, sự xô húc của Ấn Độ- Châu Á đã trở thành ví dụ điển hình và là đối tượng để kiểm chứng bởi vì quy mô và hoạt động của hệ thống này, cũng như sự có mặt rõ ràng của các đứt gãy trượt bằng lớn ở Đông Châu Á. Tapponnier & nnk. (1986) [228] đã lập luận sự xô húc của Ấn Độ đã gây ra sự thúc trượt quy mô lớn của các khối vỏ theo hướng này từ Eocen (~45 Tr.n), đáng chú ý nhất là Indochina và Burma. Mặc dù không nghi ngờ rằng Đông Nam Á bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi đứt gãy trượt bằng lớn (Leloup & nnk., 2001) [128], nhưng tranh cãi tiếp diễn về thời gian, chiều vận động và biên độ dịch chuyển trên các cấu trúc này. Các lập luận này đặc biệt liên quan tới việc tìm hiểu nguồn gốc của Biển Đông. Sự căng giãn trong bể này được cho là đã bắt đầu từ Creta muộn-Paleocen sớm (Clift và Lin, 2002) [51] và dường như chiếm vị trí của một cung kiểu Andean có từ trước, nằm ở phía trên một đới hút chìm nghiêng về phía bắc dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc. Tuy nhiên, trong khi một vài tác giả lập luận về tầm quan trọng của các lực hút chìm trong việc vận hành quá trình rift (Taylor và Hayes, 1983) [233], một số tác giả khác lại cho rằng Biển Đông nhiều khả năng mở ra do kết quả của sự trôi trượt của Indochina về phía ĐN tương đối so với Trung Quốc đứng yên (Tapponnier & nnk., 1986) [228]; (Briais & nnk., 1993) [26]. Một loạt các nghiên cứu tuổi đồng vị và cổ từ đã cố gắng kiểm chứng nguồn gốc liên quan tới trôi trượt cho Biển Đông thông qua việc kiểm tra thời gian và biên độ vận động của đới đứt gãy Sông Hồng (Cung Thượng Chí & nnk., 2004) [54] ; (Wang và Burchfiel, 1997) [257]. Định tuổi của vận động trượt trái chính trên đứt gãy này, là cấu trúc chính dọc theo đó Indochina dịch chuyển tương đối so với Trung Quốc, chỉ ra rằng vận động mạnh mẽ nhất xảy ra trong khoảng 35 và 17 tr.n (Gilley & nnk., 2003) [71], phù hợp với tuổi của quá trình tách giãn đáy Biển Đông, nơi quá trình tách giãn đáy biển đã bắt đầu bằng đường dị thường từ 11 (~30 Tr.n) ở phần trung tâm của Biển Đông (Barckhausen và Roeser, 2004) [12]; (Briais & nnk., 1993) [26]. Tuy nhiên gần đây, việc lập bản đồ từ gần Đài Loan cho thấy rằng quá trình tách giãn đáy biển có thể có tuổi tương ứng với dị thường từ 16 (37 Tr.n) ít nhất là ở phần phía ĐB (Hsu & nnk., 2004) [93]. Như vậy, đụng độ của Ấn Độ và Châu Á đã sinh ra các đứt gãy trượt bằng lớn ở phía đông Châu Á, tạo nên sự “thúc trượt” của các khối vỏ về phía đông nam từ Eocen. Một số tác giả cho rằng Biển Đông được mở ra là kết quả của sự vận động tương đối giữa khối Indochina cứng và Trung Quốc. Các mô hình khác cho rằng quá trình rift và mở rộng đáy biển được vận hành bởi các lực ở máng hút chìm về phía nam. Ngoài ra còn một loạt các mô hình khác thể hiện sự trung dung hoặc phát triển cụ thể của hai mô hình trên. Do vai trò kiến sinh quan trọng của Biển Đông, kiến tạo Kanozoi khu vực Biển Đông luôn là trung tâm của các nghiên cứu và tranh luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước trong vài ba thập kỷ trở lại đây. Trên cơ sở các kết quả khảo sát biển và tổng hợp tài liệu nghiên cứu các vùng kế cận, nhiều công trình nghiên cứu kiến tạo Biển Đông, các chế độ địa động lực và tai biến địa chất được nhiều tác giả quan tâm (Lê Duy Bách, 1985, 1990, 1991, 2007) [111, 112, 113, 114]; (Hayes, 1982, 2005) [79,80]; (Hồ Đắc Hoài, 1986, 1990) [83, 84]; (Lê Như Lai, 2000, 2003) [116,117]; (Bùi Công Quế, 1990, 1995, 2000, 2005) [28, 29, 30, 31]; (Phan Văn Quýnh, 1996) [203]; (Rangin, 1990, 1995) [208]; (Ngô Thường San 1995)
- Chương 1. Lịch sử nghiên cứu, điều kiện tự nhiên và phương pháp nghiên cứu 15 []... Bức tranh chung về kiến tạo cũng được tìm thấy trên các sơ đồ cấu trúc kiến tạo của các tác giả khác như Hồ Đắc Hoài (1990) [84], Ngô Thường San (1995) [147], Phan Văn Quýnh (1996) [203], Lê Như Lai (2000, 2003) [116, 117], Hall (2002) [75], Briais và nnk.,(1993) [26], Phùng Văn Phách (2008) [204], Trần Văn Trị và nnk. (1986, 2005) [244, 245]. Đặc điểm cấu trúc của các ranh giới cơ bản trong vỏ Trái đất trên thềm lục địa Việt Nam và một phần của Biển Đông đã được đề cập trong một số công trình (Hồ Đắc Hoài, 1986) [83]; (Bùi Công Quế, 1990, 1995, 2000, 2005) [28, 29, 30, 31]. Với chứng cớ của các trận động đất, từ tài liệu nghiên cứu về trắc địa và địa chấn phân giải cao, chuyển dịch kiến tạo trẻ và kiến tạo hiện đại trên Biển Đông là có thực. Tuy nhiên, qui mô, diện phân bố cần phải được làm sáng tỏ. Mặc dù đã có một số tác giả đề cập tới kiến tạo trẻ trên Biển Đông nhưng các ý kiến rất phân tán, thậm chí mâu thuẫn nhau vì sử dụng phương pháp nghiên cứu riêng biệt, trên vùng nghiên cứu khác nhau. Sau đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan: Các nghiên cứu hệ hoạt động kiến tạo trẻ, kiến tạo hiện đại và địa động lực ở các khu vực ven biển Việt Nam: Chương trình nghiên cứu nứt đất và phòng tránh thiên tai lãnh thổ Việt Nam (Nguyễn Trọng Yêm, 1991) [168] đã thành lập Bản đồ phân vùng nứt đất toàn lãnh thổ Việt Nam. Sông Hồng là đứt gãy lớn nhất, kéo dài và cắt ngang Biển Đông, và chạy về phía đảo Hải Nam, Trung Quốc. Bốn đứt gãy này hội tụ và tạo nên vết đứt gãy lớn ở kinh tuyến 110, qua vĩ độ tỉnh Ninh Thuận, chạy xuống phía Tây Nam và kéo dọc bờ biển Việt Nam. Nguyễn Trọng Yêm (1996) [169] đã khái quát về đặc điểm trường ứng suất khu vực lãnh thổ Việt Nam, theo đó phương nén ép ngang chủ đạo trong giai đoạn trước Pliocen là đông-tây và trong giai đoạn Pliocen - Hiện tại là bắc - nam, ở mỗi vùng cụ thể đều có những biến đổi nhất định về trường ứng suất với các chế độ ứng suất khác nhau. Quan điểm này được chia sẻ và thể hiện chi tiết hơn nữa trong các công trình nghiên cứu ở các vùng cụ thể: Nguyễn Đăng Túc (2004) [151] nghiên cứu chuyển động kiến tạo hiện đại đới đứt gãy Chí Linh-Đông Triều, Bùi Văn Thơm (2004) [35] nghiên cứu đới đứt gãy Rào Nậy, Phạm Văn Hùng (2004) [182] nghiên cứu đứt gãy Sông Bung-Trà Bồng, Bùi Văn Thơm và Nguyễn Huy Thịnh (2008) [33] nghiên cứu đặc điểm hoạt động Tân kiến tạo vùng ven biển Hà Tiên và lân cận. Replumaz và nnk (2001) [211] sử dụng ảnh vệ tinh và tài liệu địa hình để lập bản đồ chi tiết đới đứt gãy Sông Hồng. Kết quả cho thấy cũng xuất hiện thành phần tách giãn dọc theo đới đứt gãy này. Các tác giả tính toán tốc độ dịch trượt phải trong Pliocen-Đệ tứ trên đới đứt gãy Sông Hồng bằng cách phục hồi dịch chuyển ngang lớn của sông suối nhằm tìm ra giá trị lớn nhất, tin cậy nhất. Giá trị trung bình nhân phù hợp và nhỏ nhất thu được cho ta dịch chuyển ngang 25 ± 0.5 km. Do dịch chuyển phải bắt đầu từ cách nay khoảng 5 triệu năm, tốc độ dịch trượt trung bình trong Pliocen-Đệ tứ cỡ 5 mm/năm. Rangin và nnk (1995) [208] cho rằng ở miền Trung và Nam Việt Nam có sự tồn tại của hai hệ thống đứt gãy chồng lấn lên nhau, các hệ này có thể đã hoạt động trong suốt giai đoạn Paleogen và sau đó là Neogen sớm. Hệ đứt gãy trẻ hơn bao gồm các đứt gãy trượt bằng phải phương TB-ĐN (N 160°E) tới gần bắc nam, tương ứng với trục co ngắn cực đại phương gần bắc nam đến ĐB-TN (N10-30°E). Một số đứt gãy phương bắc nam và ĐB-TN (N50°E) đã bị tái hoạt động cục bộ là các đứt gãy thuận, đặc biệt trong suốt quá trình nâng nên của miền Trung và Nam Việt Nam, chúng liên quan với hoạt động núi lửa bazan Neogen muộn - Đệ tứ quy mô lớn. Các nghiên cứu địa chất dầu khí có đề cập đến các yếu tố cấu trúc - kiến tạo và địa động lực trên Biển Đông: Hồ Đắc Hoài và Trần Lê Đông (Chủ biên, 1986) [83] đã nghiên cứu cấu trúc địa chất, địa tầng, phân vùng kiến tạo, đặc tính các cấu tạo nâng địa phương... cho 2 bể Cửu Long và Nam Côn Sơn.
- 16 Phan Tr ọng Trịnh Lê Trọng Cán và nnk (1986) [118] đã nghiên cứu sự phát triển địa chất bể Kainozoi ở thềm lục địa Việt Nam được phân chia ra ba giai đoạn: Palcogen, Mioxen và Plioxen - Đệ tứ. Các bể được phân chia thành các đơn vị kiến tạo bậc II, III và đến từng cấu tạo cụ thể với chi tiết kích thước, biên độ, lịch sử phát triển. Hồ Đắc Hoài (1990) [84] đã xác lập mô hình phân vùng kiến tạo trên cơ sở nghiên cứu chi tiết các đặc điểm về kiến trúc nội tại và kiến trúc hình thái ở tỷ lệ 1:1.000.000, phác họa lịch sử hình thành và tiến hoá các kiến trúc thềm lục địa Việt Nam trong mối quan hệ nguồn gốc với Biển Đông và các miền lục địa kế cận. Lê Văn Trương (1995) [123] đã xác định các đặc trưng cấu trúc - kiến tạo của bể Sông Hồng và các yếu tố kiến tạo chính liên quan đến quá trình thành tạo, bảo tồn, phá hủy dầu khí. Xây dựng mô hình phát triển của bể Sông Hồng trong mối tương quan với các vùng kế cận. Võ Năng Lạc và nnk (1996) [252] đã thiết lập và chính xác hóa được bản đồ kiến tạo cho toàn thềm tỉ lệ 1:1000000 và cho từng bể trầm tích tỷ lệ 1:500000. Các tác giả đã thiết lập được bản đồ phân bố núi lửa và bản đồ độ dẫn nhiệt, gradient địa nhiệt và dòng nhiệt cho toàn thềm tỷ lệ 1:1000000 và cho từng bể trầm tích tỷ lệ 1:500000, hệ thống hóa được hầu hết số liệu về địa nhiệt trong 144 giếng khoan, ứng dụng phương pháp nghiên cứu cổ địa nhiệt và nghiên cứu các yếu tố kiến tạo, magma núi lửa và địa nhiệt ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới sự sinh thành dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam. Gwang H. Lee và Joel S. Watkins (1998) [124] nghiên cứu bể Phú Khánh, thềm Đà Nẵng, thềm Phan Rang và một phần của đới trượt cắt Tuy Hoà. Các tác giả chỉ ra rằng bể Phú Khánh tuân theo sự phát triển của một rìa rift đặc trưng: móng bị đứt gãy phá huỷ, trầm tích đồng rift, một bất chỉnh hợp bị phá huỷ và trầm tích hậu rift. Quá trình rift đầu tiên có thể bắt đầu trong Kreta muộn hoặc Paleogen. Quá trình rift và nâng trồi cho thấy bị ngừng lại hoặc tiếp diễn cục bộ trong Oligocen muộn và Miocene sớm. Các hoạt động muộn trong quá trình phát triển của bể chiếm ưu thế bởi sự lún chìm. Các nghiên cứu về kiến tạo Pliocen - Đệ tứ Biển Đông khu vực vịnh Bắc Bộ và ngoài khơi Bắc Trung Bộ Rangin & nnk (1995) [210] cho thấy vận động của các nhánh đông bắc của đứt gãy Vĩnh Ninh bị tiêu tán trong quá trình mở rift Bắc vịnh Bắc Bộ và dừng lại ở bất chỉnh hợp 30 triệu năm. Vận động của các nhánh đông nam của đứt gãy Vĩnh Ninh bị truyền đi xa hơn về phía đông nam và hoạt động cho tới bất chỉnh hợp 5,5 triệu năm. Các tác giả cho rằng dịch trượt trong khoảng 30 và 5,5 triệu năm có thể không vượt quá vài chục kilomet. Sự vắng mặt của mọi dấu hiệu khớp nối cho thấy rằng vận động này bị tiêu tán ở đâu đó, chẳng hạn ở phía tây nam của vịnh Bắc Bộ, hoặc có thể không phát hiện được bằng các mặt cắt địa chấn. Như vậy các tác giả cho rằng trượt bằng trái đặc trưng xuất hiện liên tục trong một đới hẹp 30 km của đứt gãy Vĩnh Ninh giữa khoảng 30 và 5,5 triệu năm. Tuy nhiên không có dấu hiệu dịch chuyển phải sau 5,5 triệu năm nào được phát hiện. Tuy nhiên, Phạm Năng Vũ và Doãn Thế Hưng (2004) [180] nhận định hoạt động kiến tạo trẻ cắt qua lớp phủ Pliocen - Đệ tứ không quan sát thấy ở khu vực Đông Bắc vịnh Bắc Bộ, chúng chỉ tồn tại ở khu vực phía Tây Nam. Ở phần diện tích đông bắc, từ Móng Cái đến Thanh Hoá, nơi các hoạt động đứt gãy kiến tạo dọc các đứt gãy Sông Lô, Vĩnh Ninh, Thái Bình và Sông Chảy thể hiện rất rõ trong phần mặt cắt địa chấn ứng với các tập trầm tích cổ, có tuổi Eocen, Oligocen, Miocen, thì phần mặt cắt địa chấn nằm sát đáy biển hiện tại ứng với tập trầm tích Pliocen - Đệ tứ hầu như không quan sát thấy biểu hiện hoạt động tiếp tục của các đứt gãy trên. Zhan và nnk (2006) [275] nghiên cứu các rạn san hô trong khu vực nam và đông nam Hải Nam và bán đảo Lôi Châu, đã ghi nhận được các thông tin về các hoạt động của vỏ Trái đất trong suốt quá trình phát triển của san hô. Các tác giả cho rằng hoạt động chính của vỏ có liên quan tới sự phát triển của san hô bao gồm các hoạt động đứt gãy, động đất và núi lửa…
- Chương 1. Lịch sử nghiên cứu, điều kiện tự nhiên và phương pháp nghiên cứu 17 Phùng Văn Phách và Vũ Văn Chinh (2008) [204] cho rằng pha kiến tạo trẻ nhất ghi nhận được trong khu vực bể trầm tích Sông Hồng và đới ven biển phụ cận tây vịnh Bắc Bộ được phản ánh qua các hoạt động thuận tách, với phương tách dãn cực đại Đông Bắc - Tây Nam, thúc đẩy sụt lún mạnh mẽ trong bể Sông Hồng, với chiều dày Pliocen - Đệ tứ ở trung tâm đạt tới 4km. Đặc biệt trong giai đoạn này có sự tái hoạt động mạnh của các đứt gãy cánh Đông Bắc của bể Sông Hồng. Phương trục của Trung tâm sụt lún là Tây Bắc - Đông Nam và có xu hướng bám sát đứt gãy Sông Lô. Gần đây, Zhu và nnk (2009) [280] chứng minh đứt gãy Sông Hồng tái hoạt động với chiều dịch chuyển phải dọc theo phương hiện nay của đới đứt gãy Sông Hồng trong bể Sông Hồng. Vận động này cao trào ở khoảng 5,5-3,6 triệu năm và vẫn còn duy trì cho đến ngày nay. Các cấu trúc Pliocen - Holocen phù hợp với biến dạng trượt phải dựa trên các bằng chứng như: 1) Cấu trúc hoa dương dọc theo một số đứt gãy cho thấy rằng biến dạng chuyển từ căng ngang sang ép ngang cục bộ và thay đổi chiều chuyển dịch trong khu vực này. 2) Trường ứng suất căng giãn đông - tây và ép ngang bắc-nam xảy ra trong bể Sông Hồng. 3) Các đứt gãy sụt bậc (en echlon) phương bắc tây bắc - nam đông nam với các cấu trúc giống diapir ở trung tâm của bể 4) Các cấu trúc Pliocen phù hợp với chiều dịch trượt phải ở tây bắc bể Sông Hồng. Các nghiên cứu về kiến tạo Pliocen - Đệ tứ Biển Đông khu vực ven biển Đông Nam Việt Nam Võ Năng Lạc và nnk (1997) [253] đã phân tích trường ứng suất kiến tạo mỏ Bạch Hổ, cho thấy giai đoạn Pliocen - Đệ tứ, hoạt động tách giãn theo phương đông-tây. Đá móng của mỏ Bạch Hổ chịu trường ứng suất căng giãn đông - tây. Kết quả tạo nên các đứt gãy và khe nứt kinh tuyến mang tính chất thuận ngang. Các đứt gãy TB - ĐN và ĐB - TN hoạt động trở lại với sự dịch chuyển lần lượt là thuận-ngang phải và thuận ngang trái. Lê Duy Bách và nnk (2007) [113] đã khái quát các đặc trưng cơ bản của hoạt tính kiến tạo - địa động lực Pliocen - Đệ tứ vùng đông nam thềm lục địa Việt Nam, cho rằng trong các diện phân bố trầm tích Pliocen - Đệ tứ, có xuất hiện các đứt gãy hoạt động vào Pliocen - Đệ tứ. Chúng có phương chủ yếu là á kinh tuyến, ngoài ra còn có phương ĐB - TN và á vĩ tuyến. Sụt lún kiến tạo không kém mạnh mẽ trong Pliocen - Đệ tứ ở các bể trầm tích thuộc khu vực này không đơn giản chỉ là sụt lún do nguội đi hoặc cân bằng đẳng tĩnh, hoạt tính Kiến tạo Kainozoi muộn phát triển có xu thế tăng lên dọc theo các hệ thống đứt gãy sâu lớn. Mai Thanh Tân và nnk (2004) [133] đã phân tích đặc điểm cấu trúc, kiến tạo và địa động lực Pliocen - Đệ tứ vùng Đông Nam thềm lục địa Việt Nam và được thể hiện trên bản đồ là hoạt động magma, các đứt gãy kiến tạo theo tài liệu địa chấn, đứt gãy theo minh giải tài liệu từ và trọng lực, có phân biệt các đứt gãy hoạt động trong Pliocen - Đệ tứ với đứt gãy hoạt động trong Pliocen và phân chia các kiến trúc kiến tạo Pliocen - Đệ tứ với đặc trưng sụt lún phân dị. Như vậy các tác giả khẳng định có hoạt động đứt gãy Pliocen - Đệ tứ. Phạm Năng Vũ và nnk (2008) [181] đã thành lập bản đồ Hoạt động kiến tạo và núi lửa trẻ thềm lục địa Nam Việt Nam tỉ lệ 1: 500 000. Trên bản đồ này, ngoài các đứt gãy kiến tạo và các phun trào núi lửa trẻ, còn thể hiện cấu tạo lớp phủ Pliocen - Đệ tứ bằng đường đẳng sâu đáy Pliocen. Tác giả cho rằng, trong khu vực này, chủ yếu phát triển hai hệ thống đứt gãy kiến tạo trong Pliocen - Đệ tứ: hệ thống á kinh tuyến và hệ thống đông bắc - tây nam. Trần Nghi và nnk (2008) [240] cho rằng động kiến tạo giai đoạn Pliocen - Đệ tứ hầu như không còn các chuyển động mạnh, quá trình tách giãn đã kết thúc, chỉ còn một số đứt gãy hướng á kinh tuyến là tiếp tục tái hoạt động cho đến Holocen. Lê Văn Dung và nnk (2008) [121] đề cập đến một số đặc điểm về cấu trúc, kiến tạo khu vực Tư Chính - Vũng Mây và vùng phụ cận. Bản đồ cấu trúc móng cho phép phân chia khu vực thành các đơn vị cấu trúc chủ yếu. Các hệ thống đứt gãy chính là: Tây Bắc - Đông Nam và á kinh tuyến, còn một số rất ít theo hướng á Bắc - Nam. Các tác giả tóm lược hoạt động kiến tạo chính bao gồm: Pha đồng tạo rift có pha rift sớm (Eocen (?) - Oligocen -
- 18 Phan Tr ọng Trịnh Miocen sớm), pha rift muộn (Miocen giữa); Pha nghịch đảo kiến tạo Miocen giữa - muộn; Pha san bằng kiến tạo (Pliocen - Đệ tứ). Tại khu vực Manila, Nguyễn Văn Dương và Nguyễn Văn Lương (2007) [170] trên cơ sở các mô hình trạng thái ứng suất trung bình xác định theo số liệu cơ cấu chấn tiêu động đất cùng với 25 cơ cấu chấn tiêu động đất mạnh và phân tích tương quan không gian giữa các trục ứng suất cơ bản và các vector chuyển dịch tại chấn tiêu, tác giả đã đề xuất sử dụng một số chỉ tiêu phân hạng cơ cấu chấn tiêu và trạng thái ứng suất trung bình để nghiên cứu đánh giá các đặc điểm địa động lực hiện đại trong vỏ Trái đất trong đới hút chìm Manila và lân cận. Ngoài các nghiên cứu trong các vùng cụ thể, các nghiên cứu đặc điểm các trường địa vật lý như từ, trọng lực, địa chấn và địa nhiệt, đặc điểm kiến tạo - địa động lực hiện đại trên toàn Biển Đông nói chung đã có những kết quả đáng kể. Bùi Công Quế và nnk (1990, 1995) [28, 29] đã thu thập các số liệu điều tra địa vật lý trên thềm lục địa Việt Nam và Biển Đông, xử lý tổng hợp và toàn diện các số liệu thu thập được, nêu ra các đặc điểm dị thường từ trường và trọng lực, đặc điểm trường địa từ biến đổi ở vùng biển phía Nam, đặc điểm địa chấn-địa động lực và đặc điểm cấu trúc vỏ Trái đất vùng Biển Đông. Các tác giả đã xây dựng được một loạt bản đồ trọng lực, bản đồ dị thường từ, bản đồ phân bố chấn tâm động đất cho vùng thềm lục địa và vùng biển kế cận, đồng thời làm sáng tỏ cấu trúc, vị trí và vai trò của các hệ đứt gãy trong toàn bộ bối cảnh kiến tạo và địa động lực của khu vực thềm lục địa Việt Nam và Biển Đông. Các vùng Biển Đông Việt Nam đặc trưng bởi vỏ trầm tích mỏng và bazan có độ dày 4-5km, không có granit. Bùi Công Quế (2005) [31] trong đề tài KC-09-02 “Xây dựng bản đồ tự nhiên môi trường vùng biển Việt Nam và kế cận” đã thu thập bổ sung và xử lý các kết quả điều tra khảo sát mới về các lĩnh vực để tiếp tục mở rộng phạm vi thể hiện và nâng cao chất lượng các bản đồ, sơ đồ để đưa về một bản đồ nền và phạm vi thể hiện thống nhất, xác định và thể hiện ở tỷ lệ chung và đồng nhất cho các bản đồ trong từng lĩnh vực. Đã thành lập 70 bản đồ được chia làm bốn nhóm, trong đó có nhóm bản đồ địa chất-địa vật lý, tỷ lệ 1:1.000.000 gồm bản đồ. Nhiều đặc trưng về điều kiện tự nhiên và môi trường lần đầu tiên được tính toán và thể hiện đồng nhất trên phạm vi mở rộng ở vùng biển và thềm lục địa Việt Nam như các hệ thống địa động lực hiện đại, các vùng phát sinh động đất. Trong đó đáng lưu ý là các nội dung về đặc điểm cấu trúc khu vực của các trường địa vật lý, các ranh giới sâu, các thành tạo trầm tích Đệ tam và Đệ tứ, các hệ thống địa động lực hiện đại và tính địa chấn trong vỏ Trái đất. Các thành tựu này được công bố chính thức qua “Atlas các điều kiện tự nhiên và môi trường vùng biển VN và vùng kế cận” . Tập bản đồ gồm 60 bản đồ khổ 53,3 x 63,3 cm in 6 màu kèm theo 120 trang chú thích tiếng Việt và tiếng Anh. Cao Đình Triều và nnk (2004) [41] đã khái quát các đặc điểm phân đới cấu trúc thạch quyển lãnh thổ Việt Nam được xem xét trên cơ sở: 1) Xây dựng mô hình vận tốc và dị thường vận tốc truyền sóng dọc P của thạch quyển và manti; 2) Phát hiện các đới đứt gãy sâu là ranh giới vi mảng thạch quyển theo tài liệu trọng lực, từ và phân tích cắt lớp. Kết quả đã xác định được vận tốc truyền sóng P trung bình của thạch quyển lãnh thổ Việt Nam và kế cận; nhận dạng 3 dạng vỏ Trái đất tồn tại trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam và kế cận là: vỏ lục địa, vỏ đại dương và vỏ chuyển tiếp. Nguyễn Như Trung và Nguyễn Thị Thu Hương (2003, 2008) [163] cho thấy phần thềm lục địa và sườn lục địa Biển Đông, độ sâu mặt Moho thay đổi từ 31 km đến 16 km, càng về phía trũng sâu Biển Đông địa hình mặt Moho càng nâng cao. Mặt Moho nâng cao nhất ở phần bể Trung tâm với chiều sâu thay đổi trung bình từ 10 đến 12 km. Các tác giả luận giải địa hình mặt Moho có mối tương quan chặt chẽ với các đơn vị kiến tạo trong khu vực như bể Trung tâm, đới hút chìm, đới đứt gãy trượt bằng, các bể Đệ tam... Sự uốn lượn, biến đổi của địa hình mặt Moho hình thành chủ yếu trong thời kỳ hoạt động của hệ thống đứt gãy Sông Hồng, đứt gãy kinh tuyến 1100. Đã xây dựng bản đồ cấu trúc móng bể Phú Khánh cho phép xác định được phạm vi phân bố bể Phú Khánh trên diện tích rộng từ vỹ tuyến 11o-15oN và
- Chương 1. Lịch sử nghiên cứu, điều kiện tự nhiên và phương pháp nghiên cứu 19 kinh tuyến 109o20’-112oE. Bể bao gồm 9 đơn vị cấu trúc chính là thềm Đà Nẵng, thềm Phan Rang, trũng Bắc, trũng Nam, đới nâng Trung tâm, đới nâng phía Bắc, đới nâng Đông Bắc, đới nâng rìa Đông và đới cắt trượt Tuy Hòa. Độ sâu lớn nhất của mặt móng xác định được là 9,5km ở trũng Bắc và 8,5km ở trũng Nam. Hệ thống đứt gãy bao gồm các đứt gãy phương B- N, ĐB-TN và TB-ĐN. Trong đó, đứt gãy phương B-N và ĐB-TN là hai hệ thống đứt gãy chính phát triển trong bể. Chun-Feng Li và nnk (2008) [47] cho rằng Biển Đông có thể được chia thành 5 đới từ chính, mỗi đơn vị có đặc tính từ đồng nhất. Sự phức tạp về tính chất từ của móng cho thấy rằng Biển Đông tiến hóa đa giai đoạn trong các điều kiện kiến tạo khác nhau. Kết hợp với các minh giải địa chấn phản xạ 2D cho phép vẽ một cách chính xác cấu trúc của bể. Kết quả cho thấy sự chuyển tiếp từ phụ bể tây nam sang phụ bể đông đặc trưng bởi các sống núi lớn được hình thành dọc theo một đới phá huỷ có từ trước, và bởi một nhóm các đứt gãy lớn đổ về phía tây tạo nên các ranh giới từ chính xác giữa các đới. Đinh Văn Toàn và Trịnh Việt Bắc (2006) [56] cho thấy giá trị độ sâu đến đáy thạch quyển trong vùng Biển Đông thay đổi trong khoảng khá rộng từ khoảng 110 km. Dọc trũng nước sâu trung tâm Biển Đông quyển mềm nâng lên rất cao đến 58km ở phần đông bắc. Đáng lưu ý các dải nâng cao của quyển mềm có cùng phương với trục tách giãn nhưng phân bố lại lệch sang sườn tây bắc của trũng. Phạm Văn Thục và Nguyễn Thị Kim Thanh (2004) [184] tổng hợp tài liệu động đất khu vực Biển Đông Việt Nam thu thập được từ năm 1524 đến 2002 gồm 231 trận động đất được coi là danh mục động đất đầy đủ nhất cho đến nay ở nước ta. Sự phân bố các tâm động đất cho thấy đứt gẫy chạc ba á kinh tuyến tây Biển Đông đã chia khu vực Biển Đông thành 3 phần có những đặc điểm kiến tạo, kèm theo là 3 vùng động đất, với các đặc trưng kiến tạo và địa chấn khác nhau. Vận động trượt bằng tại các chấn tiêu động đất vùng phía bắc Biển Đông thể hiện các quá trình biến dạng và dịch chuyển tại môi trường địa chất ở đây theo phương nằm ngang, còn tại phía nam Biển Đông đã xuất hiện dạng nghịch chờm chứng tỏ nén ép xẩy ra là chủ yếu. Cao Đình Triều (2006) [40] nhận định vùng biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ chịu ảnh hưởng trực tiếp của hai đới động đất: Thuận Hải - Minh Hải và Nam Côn Sơn. Chu kỳ hoạt động động đất vùng biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ là 40-50 năm đối với động đất có chấn cấp 5,0-5,9 độ Richter. Thời kỳ hoạt động tích cực của động đất có chấn cấp này là 25-35 năm và thời kỳ yên tĩnh là 20-30 năm. Cực đại động đất vùng biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ có chấn cấp đạt giá trị tối đa không vượt quá 7,0 độ Richter với chu kỳ xuất hiện có thể là 100- 150 năm. Hiện tại, vùng biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ đang nằm trong thời kỳ hoạt động động đất có thể còn kéo dài đến năm 2020. Cao Đình Triều và nnk (2007) [39] cho rằng trường ứng suất vỏ Trái đất lãnh thổ Việt Nam biến đổi khá phức tạp về phương tác động. Có biểu hiện thay đổi phương tác động - lực nén ép từ miền cấu trúc này sang miền cấu trúc khác và thậm chí ngay trong một đơn vị cấu trúc cũng có sự thay đổi. Thạch quyển Việt Nam đang nằm trong trạng thái nén ép mạnh, chủ yếu là phương vỹ tuyến từ trung tâm Biển Đông vào bắc - tây bắc từ phía lục địa Trung Hoa. Trạng thái ứng suất của manti Việt Nam có biểu hiện thay đổi phức tạp theo chiều thẳng đứng. Có thể từ nén ép ở lớp trên chuyển sang tách giãn ở lớp dưới và ngược lại. Trần Nghi & nnk (2005, 2008) [239, 241] đã đưa ra nguyên tắc thành lập bản đồ và hệ thống chú giải dựa trên nguyên tắc tổ hợp tuổi và cấu trúc địa chất, chu vi mỗi đơn vị địa chất được vẽ theo giao tuyến thẳng đứng của các chu vi phân vị địa tầng. Nội dung cơ bản của bản đồ địa chất Kainozoi bao gồm: 3 đơn vị địa chất địa tầng Eocen (E2) - Oligocen (E3); Miocen (N1) và Pliocen - Đệ tứ (N2-Q); tuổi và ranh giới của các tổ hợp phân vị địa tầng; các yếu tố địa chất cơ bản như vỏ đại dương, vỏ lục địa thực thụ, vỏ lục địa bị vát mỏng và đới hút chìm Palawan; các hệ thống đứt gãy chính và tuổi khống chế các kiểu cấu trúc địa chất cũng như sự hình thành các bể. Các tác giả biểu diễn đứt gãy và các yếu tố địa chất được phân loại theo
- 20 Phan Tr ọng Trịnh tính chất hoạt động và tuổi: theo tính chất hoạt động và theo tuổi của đứt gãy. Theo phân loại đó mỗi mặt cắt địa chấn của 1 bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam có thể nhận thấy các tuổi của đứt gãy sau: đứt gãy đồng rift (E) tuổi Eocen - Oligocen; đứt gãy Miocen (N) phá hủy trầm tích Oligocen, tạo bể trầm tích Miocen ; đứt gãy Pliocen - Pleistocen (N2-Q1) phá hủy trầm tích Oligocen - Miocen và tạo bể Pliocen - Đệ tứ; đứt gãy Holocen (hiện đại), phá hủy trầm tích E-N-Q1 và tạo bể trầm tích Holocen (Q2). Ngô Gia Thắng và Lê Duy Bách (2008) [144] chú ý đến hoạt động sinh rift ở khu vực thềm lục địa Việt Nam và khu vực Biển Đông có tính nhịp lặp lại. Trong khu vực Biển Đông có 4 pha rifting là Creta muộn - Paleocen, Eocen - Oligocen sớm kèm theo spreading trong Oligocen muộn; Miocen sớm - giữa kèm theo trong Miocen trung và nghịch đảo vào cuối Miocen muộn; thời kỳ Pliocen - Đệ tứ là chu kỳ cuối đang còn tiếp tục. Các quá trình trên kế tục nhau làm gia tăng quy mô sụt lún cả theo chiều ngang và chiều đứng. Pha rifting thứ 4 chịu tác động tách dãn mới bởi lực kéo tấm của đới hút chìm dọc máng Manila ở rìa Đông Biển Đông có trục dãn Đông Tây và hoạt động trượt bằng phải dọc các đứt gãy Tây Bắc - Đông Nam có trục nén cực đại gần Bắc - Nam gây pha tách dãn sụt lún mới trên toàn bộ vùng thềm lục địa và các đồng bằng ven biển hiện đại, kèm theo hoạt động động đất và núi lửa mạnh. Ngô Thị Lư và Rogozhin và nnk (2008) [146] làm sáng tỏ mối quan hệ tương hỗ không gian và sự chuyển tiếp giữa tất cả các giai đoạn biểu hiện của chế độ lún chìm cũng như giữa chế độ lún chìm và chế độ thềm một cách rõ ràng và đơn trị. Ngoài ra, đã làm sáng tỏ mối liên quan giữa các quá trình địa động lực hiện đại và địa động lực cổ, các đặc điểm của tính địa chấn dưới nước đối với khu vực Biển Đông. Các kết quả nhận được cho thấy trong phạm vi khu vực nghiên cứu đã diễn ra tất cả các chu kỳ biểu hiện của chế độ lún chìm. Nghiên cứu về tai biến núi lửa, động đất - sóng thần Hoạt động núi lửa đã được các nhà địa chất Pháp nghiên cứu từ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Saurin (1967) đã cho rằng núi lửa đang có xu hướng chuyển dần hướng từ lục địa ra Biển Đông. Nguyễn Xuân Hãn (1991,1996) [172,173] đã đề cập đến hoạt động núi lửa trẻ ở khu vực Biển Đông, đặc biệt là hoạt động núi lửa Kainozoi muộn. Flower (1992) [66] đã khái quát hoạt động magma trong Kainozôi ở Nam Trung Hoa. Đỗ Minh Tiệp (1995, 1996) [57, 58] cũng đã đề cập đến phun trào bazan Kainozôi đáy vùng biển Việt Nam và xem xét sự phân bố theo thời gian và không gian của chúng. Có thể nói việc nghiên cứu đặc điểm thạch hoá của bazan mới chỉ là bước đầu, trong tương lai vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ hơn, góp phần làm sáng tỏ cơ chế địa động học Biển Đông. Các hoạt động núi lửa trẻ trên Biển Đông ngày càng được sáng tỏ nhờ các mặt cắt địa chấn phân giải cao. Những dấu hiệu của núi lửa trẻ cũng quan sát được trên đảo Hải Nam, Cồn Cỏ, Cù Lao Ré và ven bờ như Quảng Trị, Xuân Lộc, Đức Trọng (Nguyễn Hoàng, 1998) [86]. Các hoạt động núi lửa trẻ phần lớn kết thúc vào nửa đầu Pleistocen giữa ngoại trừ phun trào ở đảo Tro năm 1923. Nguyễn Văn Lương và nnk (2003) [171] dựa trên nguyên tắc địa chấn kiến tạo để thành lập nên bản đồ phân vùng động đất. Trong đó các đứt gãy sinh chấn được xác định dựa trên các tiêu chí: các đứt gãy kéo dài theo trục dải chấn tâm động đất có liên quan đến một hay nhiều chấn tâm động đất; là phần kéo dài của các đứt gãy sinh chấn trên đất liền; các đứt gãy chưa phát sinh động đất nhưng có đặc điểm cấu trúc kiến tạo tương tự các đứt gãy có tiềm năng sinh chấn; các đứt gãy có vị trí không gian trùng hoặc gần trùng với bề mặt không gian của các mặt biến dạng của trường ứng suất kiến tạo khu vực. Các tác giả đã xác định có 35 hệ đứt gãy sinh chấn trong khu vực Biển Đông. Các hệ đứt gãy đông bắc - tây nam và á kinh tuyến chiếm ưu thế về số lượng cũng như diện tích phân bố, phát triển rộng rãi ở phía bắc, trung tâm và các rìa Biển Đông. Nguyễn Hồng Phương (2004) [159] đã đánh giá độ nguy hiểm động đất cho lãnh thổ Việt Nam và toàn bộ Biển Đông từ cách tiếp cận xác suất. Các kết quả đánh giá độ nguy hiểm
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Xây dựng Sinh kế bền vững cho các khu bảo tồn biển Việt Nam
167 p | 400 | 138
-
Tổng quan hiện trạng đất ngập nước việt nam sau 15 năm thực hiện công ước ramsar
79 p | 331 | 118
-
Quản lý hệ sinh thái cỏ biển Việt Nam: Phần 2
77 p | 186 | 61
-
Việt Nam môi trường và cuộc sống - Phần 14
9 p | 151 | 34
-
Vùng biển Việt Nam và kế cận - Kiến tạo trẻ và địa động lực hiện đại: Phần 2
162 p | 83 | 16
-
Tác động của ô nhiễm môi trường biển đến nền kinh tế Việt Nam
7 p | 90 | 7
-
Những kết quả mới trong nghiên cứu động đất và sóng thần ở Việt Nam
3 p | 33 | 2
-
Phân bố và khóa định loại các loài tuyến trùng biển thuộc giống Dorylaimopsis ditlevsen, 1918 ở biển ven bờ và biển Đông Việt Nam
9 p | 19 | 1
-
Đa dạng sinh học và nguồn lợi rong biển Việt Nam
4 p | 49 | 1
-
Bất thường của nhiệt độ nước tầng mặt tại vùng biển ven bờ Việt Nam liên quan đến hiện tượng ENSO
11 p | 80 | 1
-
Nghiên cứu các đặc trưng biến động của trường nhiệt độ bề mặt vùng biển Nam Trung Bộ giai đoạn 2002-2018
7 p | 46 | 1
-
Đánh giá nguy cơ tràn dầu và nâng cao khả năng ứng cứu tràn dầu trên vùng biển Việt Nam
5 p | 57 | 1
-
Khảo sát các vùng nguồn sóng thần có khả năng gây nguy hiểm tới vùng bờ biển Việt Nam
12 p | 24 | 1
-
Hệ thống phương pháp tiếp cận hiện đại bảo vệ tài nguyên môi trường ở vùng biển Việt Nam
5 p | 15 | 1
-
Ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam và kế cận
9 p | 51 | 0
-
Một số đánh giá thống kê về tính chất của bão biển đông và vùng bờ biển Việt Nam giai đoạn 1951 2013
11 p | 59 | 0
-
Nghiên cứu cấu trúc sâu, địa động lực và đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần trên vùng biển Việt Nam và kế cận
13 p | 68 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn