ĐẠI HỌC QUỐC GIA NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NG NGHỆ
Nguyễn Đình Thế Anh
XÂY DỰNG HỆ THỐNG THÔNG TIN NHẰM NÂNG CAO
KHẢ NĂNG QUẢN HỖ TRỢ DẪN ĐƯỜNG
CHO CÁC PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG TRÊN BIỂN
Chuyên ngành: Kỹ thuật Điện tử
số: 9510302.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN CÔNG
NGHỆ KỸ THUẬT ĐIỆN TỬ, TRUYỀN
THÔNG
Nội 2019
Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Công
nghệ, Đại học Quốc gia NộI.
Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. BẠCH GIA DƯƠNG.
Phản biện:
............................................................................................................................
........................................................................................................................
Phản biện:
............................................................................................................................
........................................................................................................................
Phản biện:
............................................................................................................................
........................................................................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học
Quốc gia chấm luận án tiến họp tại Trường Đại học Công
nghệ, Đại học Quốc gia Nội.
vào hồi giờ ngày tháng năm
thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia
Nội
1
MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh nghiên cứu
Vấn đề chủ quyền toàn vẹn lãnh hải luôn là mối quan
tâm hàng đầu mỗi quốc gia. Việt Nam vị trí địa trung tâm
trong khu vực Đông Nam Á với đường bờ biển dài hơn 3260 km,
đóng vai trò quan trọng trên các tuyến đường hàng hải thông thương
giữa Ấn Độ Dương Thái Bình Dương, giữa Châu Âu với Trung
Quốc, Nhật Bản các nước trong khu vực. Với sự phát triển, hợp
tác kinh tế giữa các nước, các khu vực dẫn đến mật độ phương tiện
trên biển ngày càng ng, gây k khăn trong quản lý, giám sát
cứu hộ cứu nạn. Việc quản phương tiện giao thông trên hải phận
quốc gia, quốc tế đòi hỏi phải thống nhất nhận dạng khi hỏi-đáp
để phân biệt tàu thuyền đang lưu thông hợp pháp hay bất hợp pháp,
trạng thái bình thường hay bất thường, cần cứu hộ hay không.
Việt Nam đã các nghị định thông liên quan đến bắt buộc
trang bị thiết bị giám sát trên phương tiện biển, cũng như các quy
định về hệ thống quản khai thác dữ liệu giám sát phương tiện
biển. Việt Nam cũng đã tham gia Công ước quốc tế v tìm kiếm cứu
nạn hàng hải SAR-79.
Hiện nay, nhiều hệ thống quản giám sát phương tiện
biển được hoạt động dựa trên sở kết nối trực tiếp giữa trạm đất
liền với phương tiện biển. Do đặc tính cong của bề mặt trái đất
khiến việc thu phát tín hiệu nhận dạng thể bị gián đoạn, không
liên tục khi trạm thông tin trên đất liền ăng ten đặt không đủ cao
hay công suất phát chưa đủ lớn. Đây một trong những thách thức
công nghệ lớn khiến việc quản còn gặp nhiều khó khăn phức
tạp. Giải pháp sử dụng truyền thông vệ tinh được thúc đẩy nghiên
2
cứu mạnh mẽ để giải quyết vấn đề liên lạc, giám sát phương tiện
biển với khoảng cách xa, mở rộng vùng quản lý.
Những m gần đây, nhiều nước phát triển đi vào nghiên
cứu thử nghiệm sử dụng vệ tinh để thu tín hiệu phát ra từ phương
tiện biển nằm trong hệ thống nhận dạng tự động (AIS) như
AAUSAT3, TACSAT-2 hay chùm vệ tinh AISSAT-1, 2, 3. Các vệ
tinh trên được tích hợp thiết bị thu tín hiệu AIS chứa thông tin định
vị, định thời hay định danh từ phương tiện biển, xử dữ liệu lưu
vào thẻ nhớ trước khi truyền xuống trạm thông tin mặt đất. Tại trạm
mặt đất, tín hiệu thu được xử giải điều chế, giải dữ liệu
hiện thị thông tin của phương tiện biển.
Việt Nam, hướng nghiên cứu thu tin hiệu AIS sử dụng vệ
tinh cũng đã đang được nghiên cứu triển khai. Cụ thể đề i
“Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, phóng vận hành vệ tinh siêu nhỏ
cỡ nano” thuộc Chương trình KH-CN cấp quốc gia về công nghệ
trụ giai đoạn 2016 2020 do Trung tâm tr Việt Nam - Viện
Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt nam chủ trì, chế tạo một vệ
tinh cỡ 10 kg quỹ đạo 540km, tích hợp bộ thu tín hiệu AIS để
giám sát vùng biển Việt Nam. Vệ tinh này dự kiến sẽ được phóng
vào năm 2020.
Vệ tinh trong các công trình cho thấy khả năng thu được tín
hiệu AIS quỹ đạo thấp, bán nh nhỏ hơn 1000 km. Tuy nhiên,
trong hệ thống AIS, công suất phát bị giới hạn tần số sử dụng
khả năng đâm xuyên thấp khi đi qua tầng k quyển. Vậy nên, tín
hiệu thu trên vệ tinh bị suy yếu dần tỷ lệ nghịch với quỹ đạo hoạt
động của vệ tinh. Điều này dẫn đến mất mát thông tin, dữ liệu thu
được chưa đầy đủ, gây ảnh hưởng đến khả năng quản phương tiện
biển.
3
Từ những thực tế đó, luận án “Xây dựng hệ thống thông
tin nhằm nâng cao khả năng quản hỗ trợ dẫn đường cho
các phương tiện giao thông biển” được triển khai nghiên cứu, thực
hiện nhằm đề xuất ý tưởng xây dựng hệ thống thông tin biển cải tiến
AIS+SS cũng như đề xuất một số giải pháp kỹ thuật cụ thể để tối ưu
hiệu năng hệ thống. Hệ thống AIS+SS ( AIS + băng S + vệ tinh) sẽ
kế thừa những ưu điểm của h thống AIS hiện tại về mặt quản và
hỗ trợ phương tiện biển khoảng cách gần bờ. Hệ thống AIS+SS sẽ
thêm tuyến liên lạc ng S để kết nối với vệ tinh nhằm nâng cao
khả năng quản hỗ trợ dẫn đường phương tiện biển khoảng
cách xa bờ.
Ý tưởng giải pháp kỹ thuật được thực hiện thông qua xây
dựng hình giả lập hệ thống thông tin giữa tầu thuyền trên biển
trung tâm trên đất liền thu thập, quản lý, hiển thị bức tranh tình
huống trên biển. hình cho phép đánh g hệ thống thu phát trong
khuôn khổ phòng thí nghiệm.
2. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận án tập trung nghiên cứu
giải quyết các vấn đề sau:
1. Trên s nghiên cứu thuyết thông tin vệ tinh, thuyết
về kỹ thuật siêu cao tần tổng quan các hệ thống thông
tin biển hiện nay, luận án tập trung nghiên cứu giải quyết
vấn đề về công suất lớn tuyến phát, độ nhạy cao tuyến
thu. Từ đó đưa ra hình hệ thống cải tiến với khả năng
thay đổi linh hoạt công suất tần số phát, kết nối với vệ
tinh để mở rộng vùng quản giám sát.
2. Thiết kế tuyến phát tuyến thu, từ đó nghiên cứu tối ưu
các phần t cao tần trong hệ thống thu phát thông tin cải