Xã hội học số 2 - 1983<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
XÂY DỰNG XÃ HỘI VIỆT NAM<br />
LÀNH MẠNH, VĂN MINH, TIÊN TIẾN<br />
Giáo sư Viện sĩ NGUYỄN KHÁNH TOÀN<br />
<br />
<br />
Chúng ta lấy làm vinh dự và phấn khởi bao nhiêu vì nhân dân ta đã và đang<br />
góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh thắng lợi của loài người tiến bộ vì hòa<br />
bình, độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội, thì chúng ta cũng có quyền tự hào bấy nhiêu<br />
về những trang sử vẻ vang ông cha ta đã viết nên trong mấy nghìn năm đấu tranh<br />
dựng nước và giữ nước.<br />
Lao động và đấu tranh, anh hùng và sáng tạo, là lẽ sống của một xã hội văn<br />
minh.<br />
Giữa cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta trong quá khứ và<br />
bản anh hùng ca của thế hệ Hồ Chí Minh ngày nay, có một mối quan hệ khăng<br />
khít, đều vì chính nghĩa, để giành quyền sống, quyền tự do, quyền sung sướng.<br />
Trong Nghị quyết của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và kỹ thuật, về<br />
phương hướng nghiên cứu và hoạt động của các ngành khoa học xã hội có nêu rõ:<br />
“Tổng kết những bài học lịch sử của sự nghiệp dựng nước và giữ nước, giáo dục<br />
truyền thống đoàn kết đấu tranh, anh hùng bất khuất, lao động cần cù, thông minh<br />
sáng tạo, phong cách sống, lao động, chiến đấu cao đẹp của dân tộc Việt Nam”<br />
( 1 ).<br />
Bốn nghìn năm văn hiến đã tạo nên một dân tộc kiên cường, bất khuất, dũng<br />
cảm, thông minh. Một dân tộc không khi nào chịu lùi bước trước bất cứ một khó<br />
khăn, trở ngại, gian nan, thử thách nào, bất cứ từ đâu đến, từ thiên nhiên hay từ con<br />
người, là một dân tộc biết tự tôn, tự trọng. biết bảo vệ phẩm giá và danh dự của<br />
mình, là vì đối với dân tộc ấy, không có gì quý hơn độc lập, tự do.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Nghị quyết của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và kỹ thuật, tr. 32.<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 2 - 1983<br />
<br />
Xây dựng xã hội Việt Nam... 31<br />
<br />
<br />
Nói thế, có thể có nhà xã hội học uyên bác phương Tây cho rằng người Việt<br />
Nam chúng ta có tật lý tưởng hóa và hiện đại hóa lịch sử nước mình.<br />
Không phải ngẫu nhiên mà từ thời xa xưa, người Việt đã có ý thức về độc lập tự<br />
do. Rất lâu, trước khi những luồng văn minh của các nước lớn châu Á thời cổ<br />
Trung Hoa, Ấn Độ v.v... tràn xuống phía Nam, người Việt, một chi nhành của<br />
dòng Bách Việt thuộc ngữ hệ Nam Á, đã tập hợp nhau lại trên một lãnh thổ bao<br />
gồm nước Việt Nam ngày nay, thành cộng đồng dân tộc Việt Nam, có nền văn hóa<br />
riêng, lối sống riêng, một hình thức Nhà nước cổ đại - nước Văn Lang dựa trên nền<br />
dân chủ và bình đẳng làng xã cổ xưa, sinh sống bằng nghề nông (trồng lúa nước).<br />
Từ đó, ý thức về quyền làm chủ của cộng đồng Việt nảy sinh rất sớm.<br />
Trong những điều kiện lịch sử, xã hội và địa lý lúc bấy giờ, phải trải qua một<br />
thời kỳ lâu dài chung sức chung lòng, chung lưng đấu cật, mới xây dựng nên được<br />
một cộng đồng dân tộc có nếp sống riêng, nền văn hóa riêng, một lãnh thổ riêng,<br />
một tâm lý riêng. Tâm lý ấy, có thể tạm gọi là tâm lý xã hội, không phải cái gì khác<br />
hơn là ý thức cộng đồng về quyền lợi và nghĩa vụ, được thể hiện trong hoạt động<br />
thực tiễn, trong những lúc phải bảo vệ đất đai và cộng đồng chống giặc ngoại xâm,<br />
ở tình đoàn kết chiến đấu.<br />
Vì cộng đồng sống theo chế độ cùng làm cùng hưởng trên tinh thần bình đẳng,<br />
ngày nay người ta gọi là tình đồng cam cộng khổ, đỉnh cao của tính cộng đồng là<br />
tính đoàn kết dân tộc.<br />
Bắt nguồn từ thưở nhân dân lao động - những người đã xây dựng nên nền văn<br />
minh nông nghiệp sông Hồng, dưới thời đại các vua Hùng, là người chủ của đất<br />
nước và vận mệnh mình, ở Việt Nam, tình đoàn kết dân tộc đã trở thành sức mạnh<br />
thần kỳ, nhờ nó mà nhân dân ta đánh bại tất cả các thế lực ngoại xâm, cả những lúc<br />
chúng được coi như vô địch đối với thế giới đương thời.<br />
Yêu nước đi liền với đoàn kết toàn dân, đó là lá cờ quyết chiến quyết thắng của<br />
dân tộc ta. Bởi vì từ xưa, trong trí óc và tâm hồn của người dân Việt Nam, nước và<br />
dân là một. Có lòng yêu nước chân thật thì phải có tình yêu dân, thương dân, quý<br />
dân.<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 2 - 1983<br />
<br />
32 NGUYỄN KHÁNH TOÀN<br />
<br />
<br />
Công lao dựng nước và giữ nước, gánh nặng thuộc về nhân dân. Thực chất, đây<br />
là vấn đề nhân nghĩa. Cách đây 600 năm, Nguyễn Trãi đã nói: “Việc nhân nghĩa<br />
cốt ở an dân quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, và “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy<br />
chí nhân thay cường bạo”; đề ra những nguyên lý cao siêu, Nguyễn Trãi không thể<br />
không nghĩ đến và “nhớ ơn kẻ cấy cày”.<br />
Giải phóng đất nước khỏi giặc ngoại xâm, giải phóng nhân dân khỏi lũ bóc lột<br />
tham tàn, để cho nước mạnh, dân giàu. Dân có giàu - ăn no, mặc lành, được học<br />
hành, làm chủ cuộc sống của mình bằng lao động - thì nước mới mạnh, không rơi<br />
vào tay giặc ngoài.<br />
Tổng kết kinh nghiệm mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta<br />
và kinh nghiệm đấu tranh trong nửa thế kỷ nay của loài người tiến bộ vì hòa bình,<br />
độc lập, tự do và tiến bộ xã hội, Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã rút ra từ mối tình<br />
nhân nghĩa cao cả nhất - chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, những lời dạy soi sáng con<br />
đường của chúng ta đi từ chủ nghĩa yêu nước tới chủ nghĩa xã hội khoa học.<br />
- Không có gì quý hơn độc lập, tự do.<br />
- Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết ;<br />
Thành công, thành công đại thành công.<br />
- Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào<br />
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.<br />
- Suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân.<br />
Những giá trị văn hóa và tinh thần - mà chí khí anh hùng và lòng nhân nghĩa, ưu<br />
ái là cốt lõi, và tình đoàn kết dân tộc là biểu hiện sáng ngời - đã được đúc nên từ<br />
trong hành động thực tiễn, lao động sáng tạo của những con người, trong hàng<br />
nghìn, hàng vạn vạn năm, đã xây đắp cái nền tảng vật chất của cuộc sống của dân<br />
tộc. Nói cách khác, công khai sơn phá thạch, đưa con người từ dã man đến văn<br />
minh, là sự nghiệp của toàn dân.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 2 - 1983<br />
<br />
Xây dựng xã hội Việt Nam... 33<br />
<br />
<br />
Đã là sự nghiệp của toàn dân, thì sự chăm lo cho con người, cho từng thành<br />
viên của cộng đồng là trách nhiệm của cộng đồng, theo tinh thần bình đẳng về<br />
quyền lợi cũng như về nghĩa vụ. Đó là đạo lý tự nhiên, là quan hệ có tình, có lý<br />
giữa những người cùng một hội, một thuyền, cùng chung một sự nghiệp, một lý<br />
tưởng cao đẹp.<br />
Trên tinh thần ấy, từ thời xa xưa, ông cha ta không phân biệt việc nhà, việc làng<br />
với việc nước. Một tai họa đến với đất nước cũng là tai họa cho gia đình : nước<br />
mất, nhà tan ; nghĩa nước, tình nhà.<br />
Con người Việt Nam coi tình thương yêu nhau, đùm bọc nhau, tương thân<br />
tương trợ như một quy tắc cao nhất và phổ biến trong các mặt của cuộc sống xã<br />
hội, trong đời sống hằng ngày cũng như khi nước nhà gặp tai biến. Tình nghĩa ấy<br />
được diễn đạt trong lời ăn tiếng nói của người dân thường, cả đến những lớp<br />
người nghèo, đời sống khó khăn. Và là những lời nói chân thật trung thực, thẳng<br />
thắn, vừa ấm áp, vừa sâu sắc: “Tình đất nước, nghĩa đồng bào”; “Ăn ở với nhau<br />
cho có thủy có chung, có tình có nghĩa”; “Thương người như thể thương thân”;<br />
“Hở môi răng lạnh”; “Máu chảy ruột mềm”; “Chị ngã em nâng “.<br />
Lòng yêu nước thương dân, tình đoàn kết được diễn đạt bằng những câu ca dao,<br />
câu hò, câu ví uyển chuyển, nhịp nhàng, dạt dào tình yêu và ý nghĩa bóng bẩy cao<br />
sâu, một tư liệu lại rất giản đơn, bình dị :<br />
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,<br />
Người trong một nước phải thương nhau cùng.<br />
<br />
<br />
Bầu ơi ! thương lấy bí cùng,<br />
Tuy là khác giống nhưng chung một giàn.<br />
<br />
<br />
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,<br />
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.<br />
Những câu hò, câu ví về tình đoàn kết trong sản xuất và chiến đấu, giữa vợ<br />
chồng, cha con, trong gia đình, nổi lên, với khí thế xung thiền, như những tiếng<br />
trống xuất quân:<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 2 - 1983<br />
<br />
34 NGUYỄN KHÁNH TOÀN<br />
<br />
<br />
- Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn!<br />
- Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh.<br />
- Giặc đến nhà, trẻ già đều đánh.<br />
Non nước xanh tươi, bao la hùng vĩ được lấy làm khung cảnh để nói lên sức<br />
mạnh của tình đoàn kết, làm nên những sự nghiệp vĩ đại :<br />
Một cây làm chẳng nên non,<br />
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.<br />
Những người đã sớm dựng nên nền văn minh nông nghiệp xán lạn là những<br />
người đã chinh phục được thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên, làm chủ thiên nhiên :<br />
Vắt đất ra nước.<br />
Thay trời làm mưa.<br />
Lên án chế độ tư hữu, chẳng cần đao to búa lớn, chỉ lấy những việc hằng ngày<br />
diễn ra trong làng xóm để ví, mà lời tố cáo vẫn đanh thép, nghiêm khắc :<br />
Trống đình ai đánh thì thùng,<br />
Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng.<br />
“Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể<br />
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Lời nói ấy của Bác Hồ nhắc lại một<br />
thực tế lịch sử diễn ra cách đây mấy nghìn năm, nhưng vẫn sống mãi cho đến ngày<br />
nay.<br />
Sự thống nhất về dân tộc, về lãnh thổ, về văn hóa, về cách sống và về ý chí là<br />
hiện tượng nổi bật nhất trong bản sắc của dân tộc Việt Nam. Sự thống nhất ấy là<br />
động cơ của tình đoàn kết dân tộc không gì phá vỡ nổi; đánh tan tất cả quân xâm<br />
lược xưa và nay. Bởi vì thống nhất, đoàn kết là vì chính nghĩa, đề bảo vệ những<br />
quyền dân tộc cơ bản thiêng liêng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 2 - 1983<br />
<br />
Xây dựng xã hội Việt Nam... 35<br />
<br />
<br />
Ngày nay, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, dưới sự lãnh đạo của Đảng<br />
Cộng sản Việt Nam. Những truyền thống cao quý ấy được nâng cao và phát huy<br />
đến cao độ, lại được cả loài người tiến bộ nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ, nhân dân ta<br />
đã đánh tan những tên đế quốc sừng sỏ và bọn bành trướng ngoan cố và ngu xuẩn,<br />
vĩnh viễn kết thúc áp bức, bóc lột, chia rẽ, toàn thể nhân dân, tất cả các thành phần<br />
dân tộc thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng đoàn tụ trong đại gia đình dân tộc Việt Nam<br />
xã hội chủ nghĩa mà từ nay họ là người chủ tập thể, thực hiện vượt mức giấc mơ<br />
nghìn năm cao đẹp của cộng đồng người Việt.<br />
Cùng với “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, “Tất cả vì hạnh phúc của nhân<br />
dân” là sự lo lắng hàng đầu của xã hội xã hội chủ nghĩa.<br />
Nói đến hạnh phúc của nhân dân tức là nói đến tất cả những gì có liên quan đến<br />
lợi ích, đến các mặt của đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Không có cái<br />
gì thuộc đời sống của nhân dân mà người cán bộ cách mạng không chú ý tới. Vấn<br />
đề xã hội chính là ở đó. Và đó là nội dung và đối tượng của khoa xã hội học.<br />
Xung quanh hai nhiệm vụ chiến lược do Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, xuất<br />
hiện một loạt những vấn đề cụ thể mà tất cả các ngành và các cấp phải góp phần<br />
tích cực thực hiện, trong đó phần không nhỏ thuộc về các ngành khoa học xã hội,<br />
kể cả xã hội học.<br />
Những vấn đề xã hội là những vấn đề lớn, và rất nhiều. Đối tượng của xã hội<br />
học là tất cả các tầng lớp nhân dân. Chúng ta không thể giải quyết được nhất loạt<br />
và chỉ trong một thời gian ngắn. Vả lại, xã hội học không phải là một vấn đề kỹ<br />
thuật. Nó là một khoa học và là một nghệ thuật. Bởi vì trách nhiệm của nó là góp<br />
phần cải tạo con người và xây dựng con người mới.<br />
Đúng ra, nó là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân theo nghĩa rộng của từ<br />
ấy, chủ yếu về phần thực nghiệm.<br />
Trong lúc này, lực lượng của chúng ta còn mỏng, phương tiện còn bị hạn chế,<br />
chúng ta hãy chọn lấy một đối tượng, một môi trường làm trọng điểm.<br />
Hiện nay, đối tượng và môi trường đang đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của những<br />
nhà xã hội học là lớp thanh thiếu niên và trường phổ thông cơ sở. Một là, vì chúng<br />
ta phải lo bồi dưỡng cho<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 2 - 1983<br />
<br />
36 NGUYỄN KHÁNH TOÀN<br />
<br />
<br />
tương lai những người xứng đáng kế thừa sự nghiệp của cha anh, những người xây dựng<br />
xã hội cộng sản. Hai là, vì cuộc sống của lớp thanh thiếu niên ít nhiều đang chịu ảnh<br />
hưởng của ba môi trường - gia đình, nhà trường và xã hội, mà mỗi một môi trường còn<br />
có những khó khăn, những vấn đề phức tạp chưa được giải quyết.<br />
Đi vào thanh thiếu niên, đi vào nhà trường và hoạt động theo chức năng của mình, xã<br />
hội học chắc chắn sẽ giải quyết đúng đắn những khó khăn hiện nay mà ngành giáo dục<br />
đang vấp phải, nó làm cho những ai quan tâm đến tương lai của con em mình không yên<br />
tâm.<br />
Trong lúc này, hơn bao giờ hết, chúng ta phải giáo dục cho các thế hệ trẻ những<br />
truyền thống cao quý của ông cha. Một trong những truyền thống ấy là truyền thống<br />
đoàn kết, tính cộng đồng, tinh thần tập thể, tình thương yêu, đùm bọc nhau.<br />
Theo tinh thần của Năm điều Bác Hồ dạy, chúng ta phải giáo dục và rèn luyện cho các<br />
cháu biểu hiện những đức tính ấy trong gia đình như thế nào, ở lớp học như thế nào, ở<br />
ngoài xã hội như thế nào, chủ yếu là bằng hành động, bằng việc làm.<br />
Mục tiêu cuối cùng của hoạt động xã hội học trong lớp thanh thiếu niên là đi tới sự<br />
nhất trí theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và<br />
giáo dục xã hội.<br />
Ban Xã hội học sẽ thực hiện nhiệm vụ có kết quả nếu Ban có sự hỗ trợ và hợp tác của<br />
các cơ quan phụ trách: Hội đồng cải cách giáo dục, Bộ Giáo dục, nhất là Viện nghiên cứu<br />
khoa học giáo dục của Bộ, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Phụ huynh học sinh, Công<br />
đoàn Giáo dục...<br />
Chúng ta phải cố gắng làm theo lời Lênin dạy: trong tình hình phức tạp, phải nắm lấy<br />
khâu nào là khâu chính để mở đường cho chúng ta giải quyết các vấn đề khác.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />