Xu hướng cải cách chính sách thuế và các chính sách khác tại các nước ASEAN trong bối cảnh triển khai các quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu
lượt xem 2
download
Bài viết "Xu hướng cải cách chính sách thuế và các chính sách khác tại các nước ASEAN trong bối cảnh triển khai các quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu" đề cập đến xu hướng cải cách chính sách thuế và các chính sách khác tại các nước ASEAN trong bối cảnh triển khai các quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Xu hướng cải cách chính sách thuế và các chính sách khác tại các nước ASEAN trong bối cảnh triển khai các quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu
- XU HƯỚNG CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THUẾ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH KHÁC TẠI CÁC NƯỚC ASEAN TRONG BỐI CẢNH TRIỂN KHAI CÁC QUY TẮC THUẾ TỐI THIỂU TOÀN CẦU Bà Nguyễn Thị Cúc - Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục thuế BEPS là hiệp định đa phương nhằm giúp các quốc gia thu hẹp lỗ hổng quản lý thuế quốc tế, ngăn chặn tình trạng lợi nhuận của các công ty đa quốc gia được chuyển đến những vùng lãnh thổ có thuế suất thấp, miễn thuế… Trong đó, trụ cột 2 đã đưa ra quy tắc về thuế tối thiểu toàn cầu. Quy tắc này nhằm đảm bảo lợi nhuận của các công ty đa quốc gia phải nộp ở mức thuế suất tối thiểu, trong trường hợp các khoản lợi nhuận đó đang được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) ưu đãi thấp hơn hoặc được miễn thuế ở các quốc gia khác. Theo đó, trụ cột 2 là một cải cách thuế tiến bộ, tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ, hạn chế tình trạng nhiều công ty đa quốc gia tìm cách giảm nộp thuế thông qua chuyển lợi nhuận sang các quốc gia có múc ưu đãi thuế cao, các thiên đường thuế. Hiện nay, 141 quốc gia trên toàn thế giới thỏa thuận mức thuế tối thiểu thống nhất là 15% đối với các tập đoàn đa quốc gia có tổng doanh thu từ 750 triệu EUR trở lên. Việt Nam đã là thành viên tham gia chương trình hành động BEPS từ năm 2017, vì vậy, việc đẩy sớm triển khai thực hiện quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu nhăm hướng tới mục tiêu cải cách hệ thống thuế để chống xói mòn nguồn thu, lành mạnh hóa môi trường đầu tư, khai thác các nguồn thu tiềm năng trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế, đầu tư toàn cầu và sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế số là vấn đề cấp thiết được Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Tuy nhiên, nếu xét riêng hoàn cảnh cụ thể của Việt nam thì bên cạnh những kết quả tích cực sẽ mang đến khi áp dụng trụ cột 2, cần nghiên cứu kỹ những khó khăn, thách thức phải đối mặt khi thực hiện, để có giải pháp xử lý phù hợp. Trước đây, để thu hút vốn đầu nước ngoài, Việt Nam áp dụng chính sách ưu đãi thuế TNDN, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (thuế thu nhập cá nhân - TNCN), tiền thuê đất, thuê mặt nước… cao hơn doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù hiện nay, không còn chính sách ưu đãi thuế khác biệt giũa doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng ưu đãi thuế của Việt Nam còn ở mức hấp dẫn đối với đầu từ mới theo địa bàn hoặc lĩnh vực đầu tư, gồm ưu đãi về thuế suất và ưu đãi về thời gian miễn, giảm thuế. Thuế suất thuế TNDN mức phổ thông là 20%, nhưng thuế suất ưu đãi là 10%, ưu đãi miễn 4 năm, giảm 50% đến 9 năm; ngoài ra còn ưu đãi miễn giảm thuế đối với đầu tư mở rộng… Riêng đối với dự án 65
- đầu tư đặc biệt còn được áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi 9% trong thời gian 30 năm; 7% trong thời gian 33 năm; 5% trong thời gian 37 năm. Ngoài ra dự án đầu tư đặc biệt còn được miễn thuế TNDN từ 5 - 6 năm, giảm 50% số thuế TNDN phải nộp từ 10 - 13 năm. Theo đó, ưu đãi thuế vẫn luôn là một trong những công cụ quan trọng thu hút đầu các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam. Khi Việt Nam áp dụng mức thuế suất tối thiểu 15% chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở cả tính hồi tố với các tập đoàn lớn thuộc điều chỉnh thuế suất tối thiểu và cả các tập đoàn chuẩn bị chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư. Tính đến nay, có 140 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam với gần 35 nghìn dự án, trong đó, Hàn Quốc dẫn đầu, tiếp theo là Singapore, Nhật Bản, Đài Loan. Ngày 23/12/2022, Quốc hội Hàn Quốc đã thông qua Đạo luật Điều chỉnh thuế quốc tế, áp dụng mức thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu từ ngày 01/01/2024. Theo đó, nếu Việt Nam không ban hành mức thuế tối thiểu, vẫn để ưu đãi thuế TNDN như hiện hành thu thì các doanh nghiệp Hàn quốc đang đầu tư ở Việt Nam thuộc đối tượng phải áp dụng thuế này, vẫn phải nộp bổ sung phần chênh lệch thuế suất thấp tại Việt nam với thuế suất 15% về Hàn Quốc. Do đó, Việt Nam cần thực hiện sớm thuế tối thiểu, nhưng cũng phải tìm cách điều chỉnh chính sách ưu đãi khác tương thích để vừa đảm bảo quyền đánh thuế, vừa ít tác động nhất đến các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang, sẽ kinh doanh tại Việt Nam. Từ thực tế trên, ngày 04/8/2022, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định thành lập Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ về nghiên cứu và đề xuất các giải pháp liên quan đến thuế suất tối thiểu toàn cầu. Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới và trong khu vực để hạn chế các tác động tiêu cực của chính sách đến nền kinh tế Việt Nam để sớm có chính sách thuế tối thiểu toàn cầu phù hợp. Trong phạm vi bài này, chúng tôi đề cập đến xu hướng cải cách chính sách thuế và các chính sách khác tại các nước ASEAN trong bối cảnh triển khai các quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu. 1. Singapore Ngày 14/02/2023, Phó Thủ Tướng và Bộ Trưởng Bộ Tài Chính Singapore đã xác nhận kế hoạch áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ ngày 01/01/2025 thông qua Kế hoạch ngân sách năm 2023. Khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, để đảm bảo quyền thu thuế, Singapore sẽ đưa thêm Cơ chế Thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (Qualified Domestic Minimum Top-up Tax - QDMTT) để thu bổ sung thuế TNDN 66
- đối với các tập đoàn đa quốc gia hoạt động có hiệu quả tại Singapore trên mức thuế suất tối thiểu 15%. Cùng với cơ chế thuế tối thiểu nội địạ, Singapore cũng đồng thời rà soát và sủa đổi bổ sung các chính sách về phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp vĩ mô song song với việc triển khai thuế tối thiểu toàn cầu, để đảm bảo rằng Singapore sẽ cạnh tranh trong việc duy trì và thu hút đầu tư nước ngoài.. 2.Thái Lan Ngày 07/3/2023, Chính phủ Thái Lan đã phê duyệt về nguyên tắc thu thuế tối thiểu toàn cầu ở Thái Lan để phù hợp với Trụ cột thứ hai của OECD, hiệu lực thực thi từ năm 2025. Đồng thời giao cho các cơ quan hữu quan xây dựng nội luật để thực hiện đồng bộ như sau: Tổng cục Thuế Thái Lan (Thai Revenue Department) soạn thảo luật và ban hành các hướng dẫn thực thi để thu thuế bổ sung thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn và thực hiện phân bổ 50 - 70% nguồn thu thuế bổ sung này sang Quỹ Hỗ trợ công nghiệp trọng điểm (Targeted Industries Fund) thuộc Đạo luật Tăng cường cạnh tranh (Competitiveness Enhancement Act). Quỹ này sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp một phần do thực hiện việc điều chỉnh tăng thuế tối thiểu toàn cầu. Bộ Đầu tư Thái Lan (Board of Investment) chủ trì nghiên cứu sửa đổi Đạo luật tăng cường cạnh tranh để bổ sung nguồn thu của quỹ hỗ trợ từ nguồn thu thuế bổ sung và đề xuất các chính sách khuyến khích đầu tư để tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua trợ cấp tài chính cho các nhà đầu tư đủ điều kiện, trong đó có hỗ trợ tiền điện cho các doanh nghiệp. 3. Malaysia Tháng 8/2022, Chính phủ Malaysia đã lấy ý kiến về việc áp dụng thuế tối thiểu toàn. Ngày 24/02/2023, Chính phủ Malaysia thông báo sẽ thực hiện mức thuế tối thiểu toàn cầu 15% từ năm tài chính 2024. Đồng thời áp dụng bổ sung cơ chế thuế tối thiểu nội địa (QDMTT). Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, để cho phép Malaysia mở rộng cơ sở thuế trong khi vẫn duy trì tính cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Chính phủ sẽ đưa ra mức thuế suất tối thiểu có hiệu lực trên toàn cầu như được khuyến nghị và dự định thực hiện thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn từ năm 2024… 4. Indonesia Tháng 12/2022, Indonessia đã ban hành Quy định số 55 (GR-55) để thực hiện các sửa đổi Luật Thuế TNDN liên quan đến thuế tối thiểu toàn cầu. Theo đó, Luật thuế đề cập hai nội dung chính: Các biện pháp chống trốn thuế và các hiệp định thuế quốc tế. Trong đó, đưa ra một số nội dung có liên quan đến khái niệm mới về phân bổ quyền đánh thuế để trao quyền đánh thuế rộng hơn cho các quốc gia xuất khẩu 67
- vốn; xây dựng, tìm kiếm các giải pháp để chấm dứt việc chuyển lợi nhuận sang các khu vực miễn thuế hoặc thuế thấp và để đảm bảo các doanh nghiệp đa quốc gia trả mức thuế tối thiểu toàn cầu theo quy định. Hiện nay, Bộ Tài chính Indonesia đang xây dựng văn bản quy định chi tiết việc thi hành các nội dung trên. 5. Philippines Hiện tại, Philippines chưa thông báo chính thức về việc áp dụng thuế tối thiểu toàn. Việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu có tác động đến việc giảm hiệu quả các chính sách ưu đãi thuế TNDN mà Philippines mới ban hành vào năm 2021. Theo đó, Philippines sẽ tiến hành rà soát lại các quy định ưu đãi mới này trong bối cảnh áp dụng thuế suất tối thiểu toàn cầu. Từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực, Việt Nam có thể nghiên cứu học tập để đưa ra các giải pháp phù hợp. Trong đó có thể cân nhắc giải pháp áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (QDMTT) để giành quyền thu phần thuế bổ sung trước các quốc gia khác như một số nước trong khu vực đang áp dụng. Ngoài các vấn đề liên quan đến thuế, cần tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho doanh nghiệp để bù đắp lại một phần cho doanh nghiệp thông qua các giải pháp: Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ phục vụ cho sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp. Có kế hoạch và đầu tư phát triển sớm vùng nguyên liệu đủ cả về số lượng, chất lượng, tăng tỷ trọng sử dụng nguyên liệu nội địa nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư. Hỗ trợ nâng cao năng suất và khả năng sáng tạo của doanh nghiệp bằng các biện pháp phù hợp, không trái thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam, qua đó giảm thiểu, tiến tới loại bỏ hoàn toàn các chi phí ngầm mà các doanh nghiệp đang gánh chịu. Cùng với tăng cường cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công, đảm bảo thông thoáng, rõ ràng minh bạch, thống nhất, dễ hiểu, dễ làm… giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh. 68
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Quản lý công: Tổng quan về quản lý công mới - Nguyễn Hữu Lam
12 p | 156 | 17
-
Minh bạch hóa quá trình ra quyết sách - dấu ấn của nghị viện
4 p | 71 | 8
-
Tự do hóa tài khoản vốn: Nhìn từ góc độ lý luận và kinh nghiệm các nước - Nguyễn Trọng Tài
14 p | 72 | 7
-
Kinh nghiệm quốc tế để thúc đẩy tăng trưởng xanh
13 p | 70 | 5
-
Những điểm mới cơ bản của Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13
4 p | 82 | 4
-
Một cuộc khảo sát FDI và tăng trưởng tại Việt Nam
9 p | 53 | 3
-
Mở rộng cơ sở thuế đối với thu nhập ở Việt Nam hiện nay
4 p | 52 | 1
-
Hậu quả của việc không nhất quán trong thực thi chính sách tại Việt Nam
17 p | 34 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn