Y học cổ truyền Việt Nam - Nan Kinh part 1
lượt xem 11
download
Nhất Nan viết: “Thập nhị kinh giai hữu động mạch. Độc thủ thốn khẩu dĩ quyết ngũ tạng lục phủ tử sinh cát hung chi pháp hà vị dã ?” - Nhiên: “ Thốn khẩu giả, mạch chi đại hội, thủ Thái âm chi mạch động dã. Nhân nhất hô, mạch hành tam thốn, nhất hấp mạch hành tam thốn, hô hấp định tức, mạch hành lục thốn. Nhân nhất nhật nhất dạ, phàm nhất vạn tam thiên ngũ bạch tưc, mạch hành ngũ thập độ, chu ư thân , lậu thủy há bách khắc Vinh Vệ hành Dương nhị...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Y học cổ truyền Việt Nam - Nan Kinh part 1
- NAN KINH NAN 1 Nhất Nan viết: “Thập nhị kinh giai hữu động mạch. Độc thủ thốn khẩu dĩ quyết ngũ tạng lục phủ tử sinh cát hung chi pháp hà vị dã ?” - Nhiên: “ Thốn khẩu giả, mạch chi đại hội, thủ Thái âm chi mạch động dã. Nhân nhất hô, mạch hành tam thốn, nhất hấp mạch hành tam thốn, hô hấp định tức, mạch hành lục thốn. Nhân nhất nhật nhất dạ, phàm nhất vạn tam thiên ngũ bạch tưc, mạch hành ngũ thập độ, chu ư thân , lậu thủy há bách khắc Vinh Vệ hành Dương nhị thập ngũ độ, hành Âm nhị thập ngũ độ, vi nhất chu dã. Cố ngũ thập độ phục hội ư thủ Thái âm thốn khẩu giả ngũ tạng lục phủ chi sở chung thỉ, cố pháp thủ ư Thốn khẩu dã”. * Điều 1 Nan nói: “12 kinh đều có động mạch nhưng chỉ cần thủ mạch ở Thốn khẩu để làm phép đoán việc lành dữ, chết sống của ngũ tạng lục phủ mà thôi. Nói như vậy có nghĩa là gì ? Thực vậy: “Thốn khẩu là nơi đại hội của mạch, là động mạch của kinh thủ Thái âm. Con người mỗi lần hô (thở ra) thì mạch hành 3 thốn, mỗi lần hấp ( thở vào) mạch cũng hành 3 thốn. Hô hấp định tức, mạch hành 6 thốn. Con người mỗi ngày đêm thở gồm 13.500 tức, mạch hành 50 độ, chu 1 vòng thân thể, lậu thủy ( nước chảy xuống ) chảy đầy 100 khắc,khí Vinh Vệ vận hành ở dương phận 25 độ, vận hành ở âm phận cũng 25 độ, thành 1 chu. Cho nên phép chẩn phải thủ mạch Thốn khẩu”. NAN 2 Điều 2 Nan ghi: “ Mạch có Xích và có Thốn, nghĩa là thế nào? Thực vậy, Xích và Thốn là nơi đại yếu hội của mạch. Từ ( vị trí bộ ) Quan cho đến (vị trí bộ) Xích, gọi là ‘Xích nội’, thuộc về phần Âm khí quản trị. Từ bộ Quan cho đến huyệt Ngư tế gọi là ‘Thốn nội’, thuộc về phần Dương khí quản trị. Cho nên tách 1 phần của Thốn làm Xích, tách 1 phần của Xích làm Thốn.
- Cho nên, Âm được 1 thốn trong xích nội và Dương được 9 phân trong Thốn nội. Sự chung thỉ của Xích và Thốn gồm có ‘1 thốn và chín phân’. Đó là ý nghĩa để gọi tên Xích và Thốn vậy NAN 3 * Điều 3 Nan ghi: “Mạch có Thái quá, có Bất cập, có Âm Dương tương thừa, có Phúc, có Dật, có Quan, có Cách, nói thế nghĩa là thế nào ?” Thực vậy: “Phía trước Quan là nơi động của Dương, mạch phải (dương) hiện ra 9 phân mà Phù. Nếu quá (mức) thì phép gọi là Thái quá; nếu giảm hơn thì phép gọi là Bất cập. Nếu nó đi thẳng lên đến huyệt Ngư tế thì gọi là Dật, là Ngoại quan, Nội cách. Đây là mạch “Âm thừa”. Phía sau Quan là nơi động của Âm, mạch phải hiện ra 1 thốn mà Trầm. Nếu quá (mức) thì phép gọi là Thái quá; nếu giảm hơn thì phép gọi là Bất cập. Nếu nó đi thẳng nhập vào huyệt Xích trạch thì gọi là Phúc, là Nội quan, Ngoại cách. Đây là mạch “Dương thừa”. Cho nên nói rằng: “Nếu gặp phải mạch Phúc và mạch Dật thì đó là mạch thuộc chân tạng. Con người (gặp trường hợp này) không bệnh cũng chết”. NAN 4 * Điều 4 Nan ghi:“Mạch có cái phép Âm Dương. Nói như vậy nghĩa là thế nào ?” Thực vậy: “Thở ra (hô xuất) do Tâm và Phế, hít vào (hấp nhập) do Thận và Can. Trong khoảng hô và hấp, Tỳ nhận lấy “cốc” và “vị”. Mạch của nó ở trung (giữa). Phù thuộc Dương, Trầm thuộc Âm. Đó là ý nghĩa của Âm Dương vậy. “Nếu Tâm và Phế đều Phù, làm thế nào có thể phân biệt được ?” Thực vậy: “Phù mà Đại Tán, đó là mạch của Tâm; Phù mà Đoản Sắc, đó là mạch của Phế”. “Nếu Thận và Can đều Trầm, làm thế nào có thể phân biệt được ?” Thực vậy: “Lao mà Trường, đó là mạch của Can; khi đè ngón tay xuống thấy Nhu, đưa ngón tay lên thấy Thực, đó là mạch của Thận”.
- Tỳ thuộc trung châu (bờ đất ở giữa), cho nên mạch của nó ở giữa. Đây là phép Âm Dương vậy. Mạch có loại “nhất Âm nhất Dương”, “nhất Âm nhị Dương”, “nhất Âm tam Dương”, có loại “nhất Dương nhất Âm”, “nhất Dương nhị Âm”, nhất Dương tam Âm”. Nói như vậy, thốn khẩu có 6 mạch, đều động cả ư ?” Thực vậy: “Lời nói trên đây, không có ý nói rằng cả 6 mạch đều động, mà chỉ đề cập đến vấn đề Phù Trầm, Trường Đoản, Hoạt Sắc mà thôi”. Phù thuộc Dương, Hoạt thuộc Dương, Trường thực Dương; Trầm thuộc Âm, Đoản thuộc Âm, Sắc thuộc Âm. Khi nói: “nhất Âm nhất Dương” là nói mạch đến Trầm mà Hoạt; “nhất Âm nhị Dương” là nói mạch đến Trầm Hoạt mà Trường; “nhất Âm tam Dương” là nói mạch đến Phù Hoạt mà Trường, có lúc 1 Trầm”. Khi nói: “nhất Dương nhất Âm” là nói mạch đến Phù mà Sắc; “nhất Dương nhị Âm” là nói mạch đến Trường mà Trầm Sắc; “nhất Dương tam Âm” là nói mạch đến Trầm Sắc mà Đoản, có lúc 1 Phù. Tất cả phải dựa vào tình trạng cụ thể của mạch khí ở mỗi đường kinh để mà gọi tên sự thuận nghịch của bệnh”. NAN 5 * Điều 5 Nan ghi: “Mạch có khinh có trọng. Nói thế nghĩa là thế nào ?” Thực vậy: “Lúc bắt đầu, ta nắm lấy bộ mạch, sức nặng bằng 3 hạt đậu, nh ư vậy là ta đã đắc được mạch ở phần bì mao, đó là Phế bộ; nếu ta đè nặng bằng 6 hạt đậu, như vậy là ta đã đắc được mạch ở phần huyết mạch, đó là Tâm bộ; nếu ta đè nặng bằng 9 hạt đậu, như vậy là ta đã đắc được mạch ở phần cơ nhục, đó là Tỳ bộ; nếu ta đè nặng bằng 12 hạt đậu, như vậy là ta đắc được mạch ở phần Cân (Cân bình), đó là Can bộ, nếu ta đè mạnh đến vùng của cốt, nâng ngón tay lên mạch sẽ đến nhanh, đó là Thận bộ. Cho nên “khinh trọng là như thế”. NAN 6 * Điều 6 Nan ghi:“Mạch có Âm thịnh, D ương hư, có Dương thịnh Âm hư. Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
- Thực vậy: “Phù mà đi tới tổn Tiểu, Trầm mà đi tới thực Đại, cho nên mới nói đó là Âm thịnh Dương hư; Trầm mà đi tới tổn Tiểu, Phù mà đi tới thực Đại, cho nên mới nói đó là Dương thịnh Âm hư. Đây là nói về cái ý Âm Dương hư thực. NAN 7 * Điều 7 Nan ghi: “Kinh nói: “Mạch Thiếu dương đến lúc Đại, lúc Tiểu, lúc Đoản, lúc Trường; mạch Dương minh đến Phù Đại mà Đoản; mạch Thái dương đến Hồng Đại mà Trường; mạch Thái âm đến Khẩn Đại mà Trường; mạch Thiếu âm đến Khần Tế mà Vi; mạch Quyết âm đến Trầm Đoản mà Đôn. Sáu mạch trên đến như vậy là “bình mạch” ư ? Là “bệnh mạch” ư ? Thực vậy tất cả thuộc “Vượng mạch” vậy. “Khi đó mỗi kinh vượng bao nhiêu ngày trong tháng nào”. Thực vậy: “Sau tiết Đông chí, ta có ngày Giáp tý, đó là ngày vượng của kinh Thiếu dương, sau đó lại tới ngày Giáp tý khác là ngày kinh Dương minh vượng, sau đó lại tới ngày Giáp tý khác là ngày kinh Thái d ương vượng, sau đó lại tới ngày Giáp tý khác là ngày kinh Thái âm vượng, sau đó lại tới ngày Giáp tý khác là ngày kinh Thiếu âm vượng, sau đó lại tới ngày Giáp tý khác là ngày kinh Quyết âm vượng. Mỗi lần vượng là 60 nhật. 6 lần 6 như vậy là 360 nhật, thành 1 tuế. Trên đây là đại yếu của nhật vượng, thời vượng của tam Âm, tam Dương vậy”. NAN 8 Điều 8 Nan ghi: “Mạch Thốn khẩu “bình” mà vẫn chết, thế nghĩa là thế nào ?”. Thực vậy: “Các đường kinh của 12 kinh mạch đều ràng buộc vào cái “nguyên: gốc nguồn” của “sinh khí”. Cái gọi là “nguyên” của sinh khí chính là cái “căn bản: gốc rễ” của 12 kinh, là cái “động khí” trong vùng “thận gian”. Đây chính là cái “bản” của ngũ tạng lục phủ, là cái “căn” của 12 kinh mạch, là cái “ cửa” của sự hô hấp, là cái “nguồn” của Tam tiêu. Nó còn có tên là “vị thần gìn giữ tà khí”. Cho nên, (người xưa) nói rằng “khí” là cái “gốc rễ” của con người. Khi nào cái “căn: rễ” bị tuyệt thì thân cây và lá cây sẽ bị mục nát. Khi nói rằng “mạch Thốn khẩu bình mà vẫn chết”, đó là nói cái “sinh khí” bị tuyệt một mình ở bên trong vậy NAN 9
- Điều 9 Nan nói: “Làm thế nào để biết 1 cách phân biệt bệnh ở tạng hay ở phủ ?”. Thực vậy: “Mạch Sác là bệnh ở phủ, mạch Trì là bệnh ở tạng. Mạch Sác gây thành nhiệt, mạch Trì gây thành hàn. Các chứng Dương gây thành nhiệt, các chứng Âm gây thành hàn. Cho nên, ta nhờ đó mà biết 1 cách phân biệt về bệnh của tạng phủ vậy”. NAN 10 Điều 10 Nan ghi: “Một mạch có thể thành thập biến. Như vậy có nghĩa là gì ?”. Thực vậy: Đây là ý nói về “ngũ tà cương nhu” cùng gặp nhau vậy. Giả sử như Tâm mạch bị Cấp thậm, đó là tà khí của Can “can: thừa lên” Tâm; Tâm mạch bị vi Cấp, đó là tà khí của Đởm thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Đại thậm, đó l à tà khí của Tâm tự thừa lên mình; Tâm mạch bị vi Đại, đó là tà khí của Tiểu trường tự thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Hoãn thậm, đó là tà khí của Tỳ thừa lên Tâm; Tâm mạch bị vi Hoãn, đó là tà khí của Vị thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Sắc thậm, đó là tà khí của Phế thừa lên Tâm; Tâm mạch bị vi Sắc, đó là tà khí của Đại trường thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Trầm thậm, đó là tà khí của Thận thừa lên Tâm; Tâm mạch bị vi Trầm, đó là tà khí của Bàng quang thừa lên Tiểu trường. Ngũ tạng đều có tà khí thuộc cương nhu, cho nên mới có việc một mạch mà rồi biến thành thập biến vậy. NAN 11 *Điều 11 Nan ghi: “Kinh nói rằng: mạch chưa đầy 50 động mà đã có một “chỉ”, đó là một tạng không còn khí. Đó là tạng nào ?” Thực vậy: “Con người khi hít vào, nó đi theo Âm để vào, khi ta thở ra, nó sẽ theo Dương để ra, nay khi hít vào nó không thể đến Thận chỉ đến Can thì nó đã quay trở ra, do đó ta biết có một tạng không còn khí, Thận khí bị tận trước”. NAN 12 Điều 12 Nan nói: “Kinh nói rằng: Mạch của ngũ tạng đã tuyệt bên trong mà người thầy dụng châm, ngược lại, làm thực cho bên ngoài; mạch của ngũ tạng đã tuyệt bên ngoài mà người thầy dụng châm, ngược lại, làm thực cho bên trong. Làm thế nào để phân biệt được là đang tuyệt trong hay đang tuyệt ngoài ?”.
- Thực vậy: “Khi nói “Mạch của ngũ tạng đã tuyệt bên trong” đó là nói khí của Thận và Can đã tuyệt ở bên trong, trong lúc đó người thầy thuốcd, ngược lại, châm bổ cho Tâm và Phế. Khi nói “Mạch của ngũ tạng đã tuyệt ở bên ngoài”, đó là nói khí (mạch) của Tâm Phế đã tuyệt ở bên ngoài, trong lúc đó người thầy thuốc, ngược lại, châm bổ cho Thận và Can. Dương tuyệt lại bổ Âm, Âm tuyệt lại bổ Dương, đó gọi là thực thêm cho cái đang thực, hư thêm cho cái đang hư, đó là làm tổn thêm cho cái đang bất túc, làm tăng thêm cho cái đang hữu dư. Như vậy, nếu người bệnh có bị chết, là do người thầy thuốc đã giết người vậy”. NAN 13 Điều 13 Nan nói: “Kinh nói rằng: Thấy được sắc diện mà không đắc được mạch tương ứng, ngược lại chỉ đắc được mạch “tương thắng”, như vậy là chết. Khi nào đắc được mạch tương sinh, bệnh xem như có thể tự khỏi. Vậy, làm thế nào để biết được là sắc và mạch phải cùng “tham” và cùng “ứng” với nhau ?”. Thực vậy: “Ngũ tạng đều có ngũ sắc, tất cả đều biểu hiện lên trên mặt. Nó cần phải tương ứng với Thốn khẩu và phần Xích nội. Giả sử sắc diện hiện lên thanh, mạch của nó phải huyền và cấp; sắc diện hiện lên xích, mạch của nó phải phù đại mà tán; sắc diện hiện lên hoàng, mạch của nó phải trung hoãn mà đại; sắc diện hiện lên bạch, mạch của nó phải phù sắc mà đoản; sắc diện hiện lên hắc, mạch của nó phải trầm sắc mà hoạt. Đây là các trường hợp mà ngũ sắc và mạch phải cùng tương tham, tương ứng vậy. Mạch sác thì nơi bì phu của bộ Xích cũng sác; mạch cấp thì nơi bì phu của bộ Xích cũng cấp; mạch hoãn thì nơi bì phu của bộ Xích cũng hoãn; mạch sắc thì nơi bì phu của bộ Xích cũng sắc; mạch hoạt thì nơi bì phu của bộ Xích cũng hoạt. Ngũ tạng đều có đủ (ngũ) thanh, (ngũ) sắc, (ngũ) xú, (ngũ) vị, tất cả đều phải t ương ứng với nơi Thốn khẩu và Xích nội. Khi nào chúng không tương ứng là bị bệnh. Giả sử như sắc diện hiện lên màu thanh, mạch của nó lại là phù sắc mà đoản, nếu là đại mà hoãn đều gọi là tương thắng; mạch phù đại mà tán, nếu là tiểu mà hoạt đều gọi là tương sinh. Kinh nói rằng: (người thầy thuốc nào) chỉ biết có một cách chẩn thì thuộc về hạ công, biết được hai cách chẩn thì thuộc về trung công, biết đ ược ba cách chẩn thì thuộc về thượng công. Bậc thượng công thì giải quyết 10 lần được 9, bậc trung công giải
- quyết 10 lần được 8, kẻ hạ công giải quyết 10 lần chỉ được 6. Đó là nói về ý nghĩa mà ta vừa nói trên vậy”. NAN 14 Điều 14 Nan nói: “Mạch có “tổn”, có “chí”, thế nghĩa là thế nào ?”. Thực vậy: “Mạch của “chí” gồm có: 1 hô có 2 chí gọi là bình, (1 hô) 3 chí gọi là ly kinh, (1 hô) 4 chí gọi là đoạt tinh, (1 hô) 5 chí gọi là chết, (1 hô) 6 chí gọi là mệnh tuyệt, đây là những mạch tử. Thế nào là mạch “tổn”? Một hô mạch 1 chí gọi là ly kinh; (2 hô) 1 chí gọi là đoạt tinh; (3 hô) 1 chí gọi là tử; (4 hô) 1 chí gọi là mệnh tuyệt. Đây gọi là mạch tổn. Mạch chí đi từ dưới lên trên, mạch tổn đi từ trên rồi xuống dưới. Mạch tổn gây thành bệnh như thế nào ? Thực vậy: “Một tổn, tổn ở bì mao, da nhăn, lông rụng. Hai tổn, tổn ở huyết mạch, huyết mạch bị hư thiểu không còn làm vinh (tươi) cho ngũ tạng, lục phủ. Ba tổn, tổn ở cơ nhục, cơ nhục bị tiêu hao, gầy còm, việc ăn uống không còn giúp cho phần cơ nhục và bì phu nữa. Bốn tổn, tổn ở cân, cân bị lơi lỏng không còn đủ sức để co duỗi và giữ vững thân thể được nữa. Năm tổn, tổn ở cốt, cốt bị nuy (liệt) không thể ngồi l ên khỏi giường được nữa. Khác với những (tổn bệnh) là bệnh của mạch “chí”. Nếu bệnh từ trên xuống, đó là bệnh “cốt nuy”, không ngồi lên khỏi giường nổi, chết. Nếu bệnh từ dưới lên, đó là bệnh da nhăn và lông rụng, chết. Phép trị bệnh của mạch “tổn” như thế nào ? Thực vậy: “Nếu bị tổn ở Phế thì nên “ích” cho Phế khí, bị tổn ở Tâm thì nên điều khí vinh vệ, bị tổn ở Tỳ thì nên điều hòa sự ăn uống, thích ứng với cuộc sống ấm lạnh, bị tổn ở Can thì làm lơi hơn phần trung khí, bị tổn ở Thận thì nên “ích” cho tinh khí. Đây là những phép trị về bệnh “tổn”. Mạch có loại 1 hô 2 chí, 1 hấp 2 chí; có loại 1 hô 3 chí, 1 hấp 3 chí; có loại 1 hô 4 chí, 1 hấp 4 chí; có loại 1 hô 5 chí, 1 hấp 5 chí; có loại 1 hô 6 chí, 1 hấp 6 chí; có l oại 1 hô 1
- chí, 1 hấp 1 chí; có loại 2 hô 1 chí, 2 hấp 1 chí; có loại hô và hấp 2 chí. Mạch thì cứ đến như thế, nhưng làm thế nào phân biệt để biết được bệnh của nó ? Thực vậy: “Mạch đến “1 hô 2 chí, 1 hấp 2 chí, không đại không tiểu”, gọi l à bình; “1 hô 3 chí, 1 hấp 3 chí” được xem là đúng lúc bị bệnh; khi nào trước đại sau tiểu tức bị bệnh đầu thống mắt hoa; khi nào trước tiểu sau đại tức bị bệnh ngực đầy khí ngắn; khi nào 1 hô 4 chí, 1 hấp 4 chí đó là bệnh muốn trở nặng thêm; lúc mạch hồng đại là bệnh bứt rứt, đầy; lúc mạch trầm tế là bị chứng trong bụng bị thống; khi nào mạch hoạt thì khí bị thương bởi nhiệt; khi mạch sắc tức là trúng bởi vụ và lộ; khi nào 1 hô 5 chí, 1 hấp 5 chí, người bệnh đang khốn nguy; mạch trầm tế thì ban đêm nặng thêm, mạch phù đại thì ban ngày nặng thêm, khi nào không đại không tiểu thì tuy đang nguy khốn cũng có thể trị được, còn nếu như có đại có tiểu thì sẽ khó trị. Khi nào 1 hô 6 chí, 1 hấp 6 chí, đó là tử mạch, khi mạch trầm tế thì chết vào ban đêm, mạch phù đại thì chết vào ban ngày. Khi nào 1 hô 1 chí, 1 hấp 1 chí thì gọi tên là “tổn”. Dù cho người bệnh còn có thể đi đứng được, nhưng nên để cho họ nằm trên giường là hơn. Tại sao vậy ? Bởi vì người bệnh huyết khí đều bất túc; nhất hô 2 chí, hô hấp 2 chí (1 hấp 2 chí), gọi l à vô hồn, mạch vô hồn sẽ chết, con người dù đi được mà vẫn được gọi là “xác chết biết đi”. Khi mà thượng bộ còn mạch, hạ bộ không còn mạch, người bệnh đáng phải thổ mà không thổ được, phải chết. Khi mà thượng bộ không còn mạch, hạ bộ còn mạch, tuy bị vào tình trạng nguy khốn, nhưng sẽ không bị hại gì. Tại sao thế ? Vì ví như con người còn bộ Xích, thân cây còn có rễ, cành lá tuy khô héo nhưng gốc và rễ sẽ tự sinh ra (cành lá). Mạch có gốc rễ, con người có nguyên khí, nhờ đó mà biết rằng người bệnh này không chết. NAN 15 Điều 15 Nan nói: “Kinh nói: Mùa xuân mạch huyền, mùa hạ mạch câu, mùa thu mạch mao, mùa đông mạch thạch. Đó là vượng mạch ư ? Là bệnh mạch ? (mạch vượng hay mạch sắp bệnh). Thực vậy: “Mạch huyền, mạch câu, mạch mao, mạch thạch là mạch của tứ thời. Khi nói mùa xuân mạch huyền, là vì Can thuộc đông phương Mộc, đó là lúc vạn vật mới sinh ra, chưa có cành lá, vì thế mạch đến “nhu nhược: yếu đuối, nhẹ” mà trường cho nên gọi là “huyền”.
- Khi nói hạ mạch câu, là vì Tâm thuộc nam phương Hỏa, đó là lúc vạn vật đang lúc thịnh, cành buông ra, lá phủ đầy, tất cae đều buông xuống gãy khúc như móc câu. Vì thế mạch của nó đến thật nhanh, đi thật chậm, gọi là “câu”. Khi nói thu mạch mao, là vì Phế thuộc tây phương Kim, đó là lúc vạn vật đang quay về chỗ “chung: dứt”, hoa lá, cỏ cây đều úa và rụng xuống, chỉ còn trơ lại có cành giống như những sợi lông mao, vì thế mạch đến khinh hư mà phù, gọi là “mao”. Khi nói đông mạch thạch, là vì Thận thuộc bắc phương thủy, đó là lúc vạn vật đang tàng ẩn. Thời thịnh đông n ước ngưng đọng lại như “thạch: đá”, vì thế mạch đến “trầm nhu mà hoạt”, gọi là “thạch”. Trên đây là các mạch của tứ thời. “Nếu như các mạch trên đây có “biến” thì như thế nào ?”. Thực vậy: “Mạch của mùa xuân là huyền. Khi phản lại là bị bệnh. Vậy thế nào gọi là “phản” ?”. Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở ngoài. Khi mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trung. Khi mạch khí đến nhẹ nhàng, êm ả như chiếc lá du lướt qua, gọi là bình. Khi (mạch khí đến) ngày càng thực mà hoạt như cành trúc dài quét qua gọi là bệnh. Khi (mạch khí đến) gấp mà thẳng cứng, ngày càng cứng mạnh như dây cung mới được giương căng lên, gọi là “tử”. Mạch của mùa xuân được “vi huyền” thì gọi là bình. Khi huyền đa mà Vị khí thiểu, gọi là bệnh. Nếu chỉ có huyền mà Vị khí gọi là tử. Mùa xuân lấy Vị khí làm gốc”. “Mạch của mùa hạ là câu. Khi “phản” lại là bị bệnh. Vậy thế nào gọi là phản ?”. Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở ngoài. Khi mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Khi mạch khí đến như xâu chuỗi xoắn nhau ví như chiếc vòng ngọc như ngọc lang can xô nhau tới, gọi là bình. Khi (mạch khí) sác ngày càng tăng, như con gà nhảy chân lên, đó là bệnh. Khi (mạch khí đến) như (câu móc) trước gãy khúc lại, sau cứng thẳng ví như (ta) cầm lấy sợi dây đai có câu móc, gọi là tử. Mạch của mùa hạ được “vi câu” thì gọi là bình. Khi câu đa mà Vị khí thiểu gọi là bệnh. Nếu chỉ có “câu” mà không có vị khí gọi là tử. Mùa hạ lấy Vị khí làm gốc”. “Mạch của mùa thu là mao. Khi “phản” lại là bị bệnh. Vậy thế nào gọi là phản ?”.
- Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, cũng gọi là thái quá, bệnh ở ngoài. Khi mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Khi bệnh khí đến một cách rậm mát như cái mui xe (che l ại), án lên nó sẽ lớn hơn, đó gọi là bình. Khi mạch khí đến mà không lên, không xuống như ta vuốt lên lông của gà, gọi là bệnh. Khi ta án lên mạch khí sẽ tiêu, mất dần như gió thổi lên lông mao, đó là “tử”. Mạch của mùa thu được “vị mao“ gọi là bình. Khi mao đa mà Vị khí thiểu gọi là bệnh. Nếu chỉ có mao mà không còn Vị khí gọi là “tử”. Mùa thu lấy Vị khí làm gốc”. “Mạch của mùa đông là thạch. Khi “phản” lại là bị bệnh. vậy thế nào gọi là “phản”?”. Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở ngoài. Khi mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Mạch khí đến trên thì đại, dưới thì suông suốt, nhu hoạt (trơn nhuận) như cái mỏ con chim sẻ, đó gọi là bình. (Mạch đến như tiếng chim sẻ) mổ rồi mổ không ngừng, (trong lúc đó mạch của Tỳ đến để làm cho) thành gãy nhẹ, gọi là bệnh. (Khi mạch đến) là đang mở dần mối dây, khi mạch đi như đang bắn một viên đá, gọi là “tử”. Mạch của mùa đông được “vi thạch” thì gọi là bình. Khi thạch đa mà Vị khí thiểu gọi là bệnh. Khi thạch đa mà không còn Vị khí gọi là “tử”. Mùa đông lấy Vị khí làm gốc. Vị là biên của thủy cốc, nó chủ về bẩm thụ khí của tứ thời, vì thế (tứ thời) đều lấy Vị khí làm gốc, cho nên mới gọi “sự biến của tứ thời” chính là những điểm “yếu hội” của vấn đề bệnh tật và tử sinh vậy. Tỳ đóng vai trung châu (bãi đất ở giữa). Khi nào khí trong người được bình hòa thì ta không thấy nó hiện ra, chỉ khi nào khí bị suy thì nó mới hiện ra. Khi mạch hiện ra như chim sẻ đang mổ, như giọt nước đang chảy xuống và chảy giọt ra ngoài. Đó chính là sự biểu hiện của Tỳ khí đang lúc suy vậy”. NAN 16 Điều 16 Nan nói: “Mạch có Tam bộ, Cửu hậu, có Âm D ương, có khinh trọng, có lục thập thủ. Nhất mạch biến thành tứ thời, thời của (Tân Việt Nhân) cách xa thời của các bậc thánh nhân, mỗi người có vạch ra 1 phép cho mình, làm thế nào để phân biệt ?”. Thực vậy: “Mỗi bệnh nào đó về nội chứng và ngoại chứng”. “Bệnh xảy ra như thế nào ?”. Thực vậy: “Giả sử ta đắc được (mạch) Can bệnh, ngoại chứng của nó là: thích sạch sẽ, sắc mặt xanh, thường hay giận dữ; nội chứng của nó là: phía trái của rún có động khí, án
- lên thấy cứng hơi đau. Bệnh này làm cho tứ chi bị đầy, cứng, lung bế, đại tiện khó, chuyển cân. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Can, nếu không thì không phải. Giả sử ta đắc được (mạch) của Tâm bệnh, ngoại chứng của nó là : mặt đỏ, miệng khô, hay cười; nội chứng của nó là: phía trên của rún có động khí, án lên thấy cứng hơi đau. Bệnh này làm cho Tâm bị bứt rứt, Tâm thống, giữa lòng bàn tay nhiệt, ói khan. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Tâm, nếu không thì không phải. Giả sử ta đắc được (mạch) của Tỳ bệnh, ngoại chứng của nó là: sắc mặt vàng, hay ợ, hay suy tư, hay thèm ngọt; nội chứng của nó là: ngay giữa rún có động khí, án lên thấy cứng, hơi đau. Bệnh này làm cho bụng bị trướng mãn, ăn không tiêu, tay chân nặng, cốt tiết bị đau nhức, trễ lười, thích nằm, tay chân khó co duỗi. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Tỳ, nếu không thì không phải. Giả sử ta đắc được mạch của Phế bệnh, ngoại chứng của nó là: sắc mặt trắng, hay hách xì, bi sầu không vui, thường muốn khóc; nội chứng của nó là: phía hữu của rún có động khí, án lên thấy cứng, hơi đau. Bệnh này làm cho ho suyễn, ớn lạnh, hàn nhiệt. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Phế, nếu không thì không phải. Giả sử ta đắc được mạch của Thận bệnh, ngoại chứng của nó là: sắc mặt đen, hay lo sợ, ngáp; nội chứng của nó là: phía dưới rún có động khí, án lên thấy cứng, hơi đau. Bệnh này làm cho nghịch khí, vùng thiếu phúc bị cấp thống, tiêu chảy như chứng “lý cấp hậu trọng”, cẳng chân bị lạnh mà nghịch khí. Nếu như có đủ các chứng trên thì bệnh thuộc Thận, nếu không thì không phải. NAN 17 Điều 17 Nan viết: “Kinh nói rằng: Bệnh, có loại phải chết, có loại không cần trị mà tự hết, hoặc có loại đau liên miên từ năm này qua tháng khác mà không khỏi. Vấn đề sinh, tử, tồn, vong này có thể dùng phép “thiết mạch” để biết được không ?”. Thực vậy: “Có thể (dùng phép thiết mạch) để biết tất cả (việc tử sinh tồn vong). Phép chẩn như sau: Có loại bệnh, người bệnh chỉ muốn nhắm mắt lại mà không muốn thấy ai cả, mạch đáng lẽ phải đắc được Can mạch: cường cấp mà trường, thế mà, trái lại, chỉ đắc được mạch Phế: phù đoản mà sắc, phải chết.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Y học cổ truyền
162 p | 853 | 252
-
Chuyên đề Bệnh học y học cổ truyền
255 p | 217 | 47
-
Bác sĩ Y học cổ truyền - Y lý Y học cổ truyền: Phần 2
101 p | 197 | 45
-
Bác sĩ Y học cổ truyền - Y lý Y học cổ truyền: Phần 1
61 p | 215 | 37
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên năm mươi bảy: KINH LẠC LUẬN
5 p | 133 | 11
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 42: BỆNH TRUYỀN
4 p | 145 | 10
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ BA BIỆN VỀ MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH BÁ HỢP
7 p | 115 | 9
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên năm: ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN
8 p | 110 | 9
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên năm mươi lăm: TRƯỜNG THÍCH TIẾT LUẬN
4 p | 75 | 8
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ BẢY MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH PHẾ NUY, PHẾ UNG, KHÁI THẤU
6 p | 101 | 7
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên năm mươi chín: KHI PHỦ LUẬN
4 p | 77 | 6
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên thứ năm mươi: THÍCH YÊU LUẬN
3 p | 94 | 5
-
Phân tích danh mục thuốc đã sử dụng tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh – Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam năm 2021
6 p | 8 | 5
-
Giáo trình Dược học cố truyền
53 p | 36 | 4
-
Nghiên cứu dược côn trùng trong y dược cổ truyền Việt Nam và y học hiện đại: Phần 1
45 p | 8 | 4
-
Giáo trình Dược học cổ truyền (Ngành: Dược - Trình độ: Cao đẳng Điều dưỡng) - CĐ Phạm Ngọc Thạch Cần Thơ
81 p | 16 | 4
-
Nghiên cứu dược côn trùng trong y dược cổ truyền Việt Nam và y học hiện đại: Phần 2
163 p | 7 | 3
-
Bài giảng Dược học cổ truyền: Phần 1 - Trường ĐH Võ Trường Toản
56 p | 16 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn