Acid béo OMEGA-3 và Ung thư
Khả năng ngăn ngừa và ức chế sự phát triển ung thư của các acid béo
Omega-3, nhất là EcosaPentaeonic Acid=EPA, DocosaHexaenoic Acid=
DHA và Dầu cá đã được nghiên cứu khá sâu rộng. Có khá nhiều nghiên cứu
'in vitro' và trên thú vật đã được thực hiện và công bố. Cho đến đầu thập niên
2000, có ít nhất là 57 nghiên cứu 'in vitro' được công bố và trong số này có
47 bản ghi nhận là các Acid béo Omega-3 có tác dụng ức chế sự phát triển,
ngăn chặn khả năng xâm nhập hay gây ra sự phân nhiễm của các tế bào ung
thư (Oncology Số 52-1995; Cancer Research Số 49-1989). Có 11 nghiên cứu
ghi nhận sự tương quan giữa tác dụng chống bội phân của tế bào ung thư
bằng sự làm tăng phản ứng per-oxy hóa lipid (Cancer Letter Số 92-1995).
Ngoài ra còn có ít nhất là 11 nghiên cứu cho biết acid béo omega-3 có thể
giúp làm tăng hiệu quả của Hóa học trị liệu hay dùng chiếu xạ khi trị ung thư
(International Journal of Cancer Số 70-1997). Hiệu ứng này có thể do ở giúp
tăng peroxyd hóa các lipid và tăng sự hấp thu của thuốc.
Trong số 66 thử nghiệm trên thú vật về hiệu quả của Omega-3 thì
:
36 nghiên cứu ghi nhận là acid béo Omega-3 có khả năng ức chế sự
tăng trưởng của tế bào ung thư và chặn di căn = giai đoạn lan tràn của tế bào
ung thư (metastasis), khi thử nơi chuột, bọ (Lipids Số 26-1991), tuy nhiên có
5 nghiên cứu cho lại là không có tác dụng hay còn cho thấy là metastasis còn
tăng thêm (Cancer Research Số 58-1998).
7 nghiên cứu ghi nhận có sự liên quan trực tiếp giữa hoạt tính chống
bội sinh tế bào với sự gia tăng peroxyd hóa lipid (Lipids Số 28-1993).
11 nghiên cứu chú trọng đến khả năng của Omega-3 ngăn cản được
Suy mòn (cachexia): 10 trong 11 nghiên cứu cho thấy Omega-3 có hiệu quả
tương đối tốt (Cancer Research các số 15-1990, số 51-1991; Lipids Số 24-
1994).
6 nghiên cứu ghi nhận acid béo Omega-3 có khả năng ức chế sự tăng
trưởng của tế bào ung thư bằng các cơ chế tác động loại ức chế sự tạo sinh
các mạch máu nuôi tế bào ung thư (angiogenesis), ức chế hoạt động của ras-
protein hay ức chế các men giúp tế bào ung thư xâm lấn vào các tế bào lành
mạnh khác (Cancer Research Số 57-1997).
5 nghiên cứu chứng minh là acid béo làm tăng sự hiệu nghiệm của các
thuốc dùng trong hóa chất trị liệu (Life Science Số 62-1998).
Trong số 11 nghiên cứu thử nghiệm trên người về hoạt tính chống
ung thư của acid béo Omega-3, có 7 nghiên cứu ghi nhận EPA có thể ngăn
chặn cachexia gây ra do bướu ung thư, và có 4 nghiên cứu về tác động của
Acid béo Omega-3 trên hoạt động miễn nhiễm của người bị bệnh ung thư.
Tóm lược: các thử nghiệm trong ống nghiệm ('in vitro'), trên thú vật
và nơi người, cho thấy các acid béo Omega-3 có thể ức chế sự bội sinh của
tế bào, ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư qua cơ chế hoạt động' trung
gian điều hành các gốc tự do', (có lẽ đây là hoạt động diệt tế bào khi dùng
EPA hay Dầu cá ỡ liều cao). Khi dùng liều trung bình, Acid béo Omega-3 có
thể hữu hiệu qua các cơ chế hoạt động khác như ức chế tiến trình sưng-viêm,
ức chế angiogenesis, ức chế hoạt động ras-protein. Liều trung bình cũng có
tác dụng ức chế Suy mòn do ung thư (Tumor cachexia).
Bàn luận:
- Một số lớn các nghiên cứu trên thú vật ghi nhận các acid béo
Omega-3, nhất là EPA, có trong mỡ cá, có hoạt tính chống bướu ung thư
(Breast Cancer Research Treatment Số 46-1997). Thí dụ, EPA, hay dầu-mỡ
cá chứa EPA ức chế sự phát triển của tế bào ung thư ruột già, tuyến nhiếp hộ
và lá lách; ức chế sự lan tràn (metastasis) của tế bào ung thư vú nơi chuột.
Trong đa số các nghiên cứu này, liều sử dụng đều khá cao, chiếm
khoảng 10 đến 20 % thực đơn, hay nếu tính theo liều tương đương dùng cho
người sẽ là 120 đến 240 gram/ ngày. Với liều thật sự quá cao này thì cơ chế
hoạt động ức chế bướu ung thư là do ở sự làm tăng các phản ứng peroxyhóa
lipid.
- Cả 2 acid béo Omega-3 và Omega-6 đều có hoạt tính diệt bào đối
với các tế bào ung thư vú, phổi và tuyến nhiếp hộ, khi thử trong ống nghiệm,
và không tác động trên các tế bào bình thường (Nutrition and Cancer Số 11-
1998). Trên thực tế, các acid béo chưa no loại có nhiều nối đôi (polyun
saturated) có hoạt tính diệt bào (in vitro) ít nhất là đối với 16 dòng tế bào
ung thư nơi ngưới lấy từ các cơ quan khác nhau. Các acid béo polyunsatu
rated chứa nhiều nối C đôi, và mỗi nối đôi là một mục tiêu gây hư hại do các
gốc tự do. Vài loại tế bào ung thư có thể có một lượng cao arachidonic acid
(4 nối đôi), khiến chúng trở thành dễ bị hư hại do phản ứng peroxihóa lipid
hơn là các tế bào bình thường. Trong một nghiên cứu, khi điều trị các tế bào
ung thư máu bằng DHA : có sự gia tăng con số các nối đôi unsaturated nơi
màng tế bào đến 31 %.
- Trong cơ thể, có rất nhiều cơ cấu kháng oxyhóa hoạt động liên tục,
do đó liều bình thường EPA có lẽ sẽ không tạo được đủ hiện tượng
peroxyhóa lipid để ức chế sự tăng trưởng của bướu ung thư. Liều uống EPA
hay DHA: 5.8 gram/ ngày (liều tương đương áp dụng cho người) không ảnh
hưởng đến sự mẫn cảm của tế bào hồng cầu đối với các phản ứng oxy-hóa,
cho dù nồng độ của EPA và DHA trong mô tế bào tăng cao.(Lipids Số 32-
1997). Do đó các kết quả thử nghiệm nơi thú vật và trong ống nghiệm, dùng
các liều quá cao acid béo Omega-3, không thể áp dụng nơi ngưới (nếu chỉ
muốn dùng các phản ứng peroxyhóa lipid để trị ung thư), ngoài ra dù cho
các phản ứng xẩy ra hữu hiệu cũng không thể áp dụng phương thức điều trị
nảy trong thời gian lâu dài..
- Điều may mắn là các liều trung bình (có thể áp dụng được) của
EPA/DHA vẫn ức chế được ung thư nhưng qua một số cơ chế khác (không
thuộc loại phản ứng oxyhóa), tuy các kết quả đạt được không hấp dẫn như
khi dùng liều thật cao! Để đạt được kết quả thực sự, khi dùng EPA/DHA ở
liều trung bình, cần phải dùng phối hợp với các chất chống ung thư khác.
Trong vài nghiên cứu trên thú vật, kết quả ghi nhận EPA ức chế sự tăng
trưởng của tế bào ung thư và giúp giảm sự lan tràn của tế bào ung thư
(metastasis) ở liều từ 1-2 % tổng số lượng thực phẩm cho thú vật ăn
(International Journal of Cancer Số 75-1998). Liều này khi chuyển sang để
áp dụng cho người là khoảng 12-14 gram /ngày EPA. DHA cũng có thể hiệu
nghiệm khi sử dụng ở liều trung bình, như lượng 2% trong thực phẩm có thể
ức chế metastasis của tế báo ung thứ vú của người (khi thử trên chuột) và ức
chế được angiogenesis (International Journal of Oncology Số 15-1999);
trong một nghiên cứu khác lượng 4% DHA trong thực phẩm ức chế được sự
tăng trưởng của tế bào ung thư vú nơi người, (ghép vào chuột). Liều tương
ứng của 2-4% tổng số lượng thực phẫm khi cho chuột ăn là 24-48 gram/
ngày DHA.
EPA và Eicosanoids:
Một số nhà nghiên cứu đã ghi nhận là Acid béo Omega-3 có thể ngăn
cản sự tạo thành các prostanoids nhóm 2 và các leukotrienes nhóm 4 nơi các
tế bào bình thường và các tế bào ung thư. Các chất eicosanoids này có thể hổ
trợ phản ứng angiogenesis và tiến trình phát triển ung thư. Ngay cả liều thấp
của acid Omega-3 cũng có ảnh hưởng trên sự quân bằng của các acid béo và
sự sản xuất PGE2. Ví dụ : liều 3 gram dầu cá (chứa 540 mg EPA và 360 mg
DHA) sẽ làm tăng tỷ lệ giữa omega-3/omega- 6 trong mô tế bào vú và trong
huyết tương người bị ung thư vú; liều 11 gram (chứa 2.1 g EPA và 1.9 g
DHA) gây ra sự giảm sản xuất PGE2 trong tế bào ruột của người bình
thường (Gastroenterology Số 105-1993).
Khả năng ức chế sự tạo eicosanoids của acid béo Omega-3 tùy thuộc
vào tỷ lệ của omega-3/omega- 6 trong thành phần thực phẩm. Tỷ lệ lý tưởng
nhất để ức chế tạo eicosanoid, giúp trợ lực sức khoẻ, và trị bệnh là 1:1 đến
1:2 (Prevention Medicine Số 16-1987). Tỷ lệ omega-3/omega- 6 hiện nay
trong chế độ ăn uống tại Âu Mỹ thấp hơn rất nhiều, chỉ khoảng 1:20 đến
1:30 (American Journal of Clinical Nutrition Số 70-1999).
Gia tăng độ chảy của huyết tương trong màng tế bào (Plasma
membrane Fluidity).
Acids béo loại polyunsaturated có thể làm tăng độ chảy của huyết
tương màng tế bào của các tế bào bướu ung thư. Độ nhớt của màng tế bào
được xem là một thông số để đo khả năng di chuyển của phân tử lipid (và cả
các protein mà lipid bao bọc) . Do đó độ nhớt này sẽ ảnh hưởng đến sự di
động của các proteins nơi màng tế bào như các thụ thể (receptors), men
(phân hóa tố=enzyme), sinh kháng thể và các phân tử kết dính tế bào (Cell
Adhesion Molecules = CAMs.
Sự gia tăng, một cách vừa phải, của độ chảy đã được chứng minh là
có liên hệ đến sự di chuyển tự do hơn của các phân tử sinh học, các phân tử
thuốc được vận chuyển dễ dàng hơn qua thành vách tế bào, gia tăng sự biến
dưỡng trong tế bào, khả năng phân cắt tế bào cũng gia tăng, đồng thời tế bào
trong khi di chuyển cũng tăng thêm khả năng chuyển dạng để 'len lỏi'giữa
các tế bào khác. Hậu quả do việc gia tăng độ chảy tương đối phức tạp, tuy
nhiên, không nhất thiết là tất cả các hiện tượng vừa kể phải cùng xẩy ra một
lúc. Huyết tương màng tế bào của tế bào ung thư có khuynh hướng dể chảy
hơn so với của tế bào bình thường, có lẽ do ở chúng chứa nhiều arachidonic
acid hơn. Hơn nữa, huyết tương màng tế bào của các tế bào ung thư loại lan
tràn mạnh thường có độ chảy cao hơn là các tề bào ung thư loại lan chậm
(Invasion and Metastasis Số 11-1991).
Việc gia tăng độ chảy có thể ảnh hưởng phần nào trên các tế bào ung
thư, và acid béo omega-3 có thể làm tăng độ chảy nơi màng tế bào, hiệu ứng
này không ảnh hưởng trên tiến trình phát triển của bướu ung thư, nhưng lại
giúp làm tăng sự chuyển vận của thuốc qua vách tế bào: EPA giúp tăng sự
hấp thu của mitomycin (một dược phẩm dùng trong hóa chất trị liệu) nơi các
tế bào ung thư ruột già, nhưng không ảnh hưởng trên các tế bào bình thường
(International Journal of Cancer Số 70-1997). Tác dụng tương tự cũng xẩy ra
nơi một số dòng tế bào ung thư khác. Hơn nữa, các acid béo omega-3 không
giúp tăng khả năng đổi dạng của tế bào ung thư để len lỏi qua các chướng
ngại: Trong một nghiên cứu về tế bào ung thư máu (leukemia), nồng độ
DHA càng cao thì tế bào leukemia càng khó đổi dạng (Cancer Letters Số
119-1997). Mặt khác, các acid béo omega-3 còn có khả năng thay đổi cấu
trúc của sinh-kháng thể của tế bào ung thư khiến chúng dễ thành mục tiêu
cho các phản ứng miễn nhiễm: tế bào leukemia nơi chuột được cho ăn liều
cao dầu cá (58-120 gram/ ngày) trở thành dễ bị hủy diệt hơn do hoạt động
của các Diệt bào loại T (T-cell).
Từ các nghiên cứu trên, có thể kết luận là EPA và DHA giúp tăng độ
chảy nơi màng tế bào nhưngtrong phương thức ngăn chặn hơn là làm tăng sự
phát triển của ung thư. Tác dụng trợ giúp sự chuyển vận thuốc của chúng
khiến chúng có thể sẽ hữu dụng khi dùng trợ lực cho các chương trình hoá
chất trị liệu (chemotherapy)
Tác dụng làm giảm Suy mòn (Cachexia):
Nguyên do gây ra Suy mòn:
Tình trạng Suy mòn xẩy ra nơi người bệnh ung thư là một hội chứng
biến dưỡng phức tạp với những đặc điểm như kém,suy dinh dưỡng và hao
mòn mô tế bào của thân thể (xuống cân từ 10 đến 15 %). Không phải tất cả
mọi loại ung thư đều liên hệ đến Suy mòn: hiện tượng suy mòn ít xẩy ra nơi
người bị ung thư vú và ung thư loại sarcoma, tuy nhiên Suy mòn vẫn góp
trách nhiệm trong từ 4 đến 23 % tổng số các trường hợp tử vong do ung thư
(theo Medical Oncology của P. Calabresi & P. Schein). Có khá nhiều nghiên
cứu nơi người và thú vật cho thấy EPA có thể giúp làm giảm Suy mòn.
Những người bệnh ung thư đường tiêu hóa thường bị suy mòn, vì hội
chứng suy mòn gây ra những trục trặc trong chức năng tiêu hóa. Tuy nhiên
tình trạng Suy mòn toàn diện vẫn có thể xẩy trong các trường hợp ung thư
khác, nhất là ung thư phổi. Những bệnh nhân ung thư không bị suy mòn
thường có thể tương đối sống dài hơn.
Các rối loạn về biến dưỡng carbohydrates, proteins và chất béo là
nguyên do đưa đến Suy mòn. Người bệnh Suy mòn không thể tăng cân dù ăn
uống và dinh dưỡng đầy đủ.
Các thay đổi về biến dưỡng glucose chiếm phần quan trọng nhất trong
tiến trình Suy mòn. Bướu ung thư có thể tạo ra những yếu tố gây ra sự giảm
mẫn cảm với insulin nơi các tế bào bình thường, đưa đến tình trạng đối
kháng insulin, cao đường trong máu và sự bài tiết thêm insulin.. Insulin có
thể hoạt động như một yếu tố tăng trưởng cho tế bào ung thư: nhu cầu
glucose của các tế bào ung thư tăng cao vì chúng biến dưỡng glucose một
cách thiếu hữu hiệu. Nhu cầu cao về glucose được đáp ứng một phần bằng
sự biến đổi chất béo và bắp thịt sang thành glucose và bằng tiến trình
'gluconeogenesis' (đây là tiến trình mà các chất thải trong sự biến dưỡng kỵ
khí (anaerobic) như lactic acid, được đưa trở lại về gan rồi được chuyển biến
lại thành glucose). Tiến trình gluconeogenesis, tự nó, đã là một hoạt động
đòi hỏi nhiều năng lượng, làm hao hụt năng lượng tích trữ và gây thêm sư
hao hụt mô tế bào.
Sự thay đổi về biến dưỡng thứ nhì, đưa đến tình trạng hao hụt mô tế
bào là 'biến đổi' trong vấn đề biến dưỡng chất béo. Cơ chế thực sự để gây ra
sự thay đổi này chưa được biết rõ. Cho đến nay, giả thuyết được đưa ra là
nơi tế bào ung thư có sự gia tăng sản xuất cytokines như TNF (Tumor
Necrosis Factor) và Interleukin- 6= IL-6 (chất này cũng gây ra mất cảm giác
thèm ăn). Chính do ở hoạt tính gây ra Suy mòn nên TNF, trước đây, được
gọi tên là Cachectin. TNF, do các Đại thực bào tiết ra, có thể diệt được tế
bào ung thư và giúp tạo tiến trình angiogenesis, TNF còn có thêm tác dụng
khác là tạo sự chuyển động năng lượng dự trữ của chất béo và protein, có thể
để cho các tế bào của hệ miễn nhiễm sử dụng được các năng lượng này.
Trong các trường hợp nhiễm bệnh ngắn hạn như nhiễm trùng, sự biến dưỡng
quá mức Chất béo không đưa đến một tình trạng mất mô tế bào đáng ngại,
nhưng trong trường hợp bệnh kinh niên như ung thư, sự tăng biến dưỡng
chất béo sẽ đưa đến sự mất mỡ và bắp thịt.
Nơi các bệnh nhân ung thư, tình trạng đối kháng insulin, cũng như
Suy mòn được xem là có liên quan đến các gia tăng sản xuất TNF và IL-6
(British Journal of Surgery Số 85-1998). Ngoài ra, một giả thuyết mới lại
cho rằng, cả 2 chất trên đều chưa phải là các thủ phạm gây ra Suy mòn: một
yếu tố mới: PIF = Proteolysis- inducing Factor có lẽ mới là tác nhân chính
(Nutrition Số 12-1996): và PIF gây ra suy mòn là do làm tăng sản xuất
leukotriene 15-HETE (Cancer Research Số 59-1999)
Sự ức chế Suy mòn do EPA:
EPA có hoạt tính khá hữu hiệu tạo ra sự nghịch đảo Suy mòn gây ra
do Ung thư ruột già (thử trên chuột) (British Journal of Cancer Số 68-1993).
Các acid béo Omega-3 và Omega-6 khác không có hoạt tính này. Liều tạo ra
hiệu ứng tối ưu chống Suy mòn được ghi nhận là từ 1.2 đến 5 g/kg (Cancer
Research Số 51-1991). Liều thấp nhất, tính ra để áp dụng tươong đương, nơi
người là 12 gram/ ngày. Nơi chuột được cho dùng EPA, khả năng sinh tồn
kéo dài gấp đôi so với chuột đối chứng, và không thấy có sự Suy mòn. EPA,
cho uống (liều 4.8 gram/ ngày, tính ra cho người) cũng ngăn chặn Suy mòn
gây ra bởi PIF (khi thử trên chuột). Tuy có thể có một số cơ chế khác nhau
liên quan đến hoạt tính chống Suy mòn của EPA, nhưng cơ chế chính có lẽ
là do ở sự chặn, làm cho tế bào mỡ mất sự mẫn cảm đối với các yếu tố gây
Suy mòn của tế bào ung thư.
Có 4 thử nghiệm với những kết quả tốt về tác dụng của Acid béo
Omega-3 trên các bệnh nhân bị suy mòn, mất cân do ung thư lá lách. (90 %
bệnh nhân ung thư lá lách bị mất cân). Trong một thử nghiệm, khi cho bệnh
nhân dùng 12 gram dầu cá mỗi ngày (chứa 2.2 gram EPA và 1.4 g DHA) kết
quả đưa đến một sự tăng cân chung sau 3 tháng trị liệu (Nutrition Số 12-
1996). Nồng độ EPA trong tế bào máu gia tăng từ mức không đo được
(trước khi cho uống dầu cá như thực phẩm phụ trợ) lên đến 5.3 % sau 1
tháng. DHA tăng từ 3.5 lên 6.6 %. Trong thử nghiệm khác, dùng liều tương
tự (2.2 gram EPA và 0.96 g DHA), phối hợp với một hỗn hợp đa sinh tố,
giúp làm đảo ngược tình trạng mất cân nơi các bệnh nhân bị ung thư lá lách
(British Journal of Cancer Số 81-1999). Thử nghiệm thứ 3, dùng liều tương
tự, không dùng đa sinh tố, cũng cho thấy kết quả tốt. Thử nghiệm thứ 4, cho
dùng liều đơn độc 6 gram EPA/ ngày cũng tạo đợc sự đảo ngược mất cân
nơi bệnh nhân ung thư lá lách (Nutrition Cancer Số 36-2000).
Sự hữu hiệu của việc trị liệu bằng EPA có lẽ tùy thuộc vào đặc tính
của bướu ung thư: Chuột bị ung thư dưới dạng bướu, phân cắt chậm nhưng
phát triển nhanh không đáp ứng với việc dùng EPA (liều 14 gram /ngày, tính
ra khi áp dụng nơi người); EPA cho kết quả tốt khi dùng trị các bướu ung
thư phát triển chậm (Cancer Letters Số 97-1995).
Các chất thiên nhiên khác có thể ức chế Suy mòn:
Ngoài các acid béo, một số chất thiên nhiên khác có thễ hữu dụng để
trị Suy mòn. Nhóm chất có triển vọng tốt nhất là những hợp chất có hoạt
tính bảo vệ các cơ quan tiêu hóa chống lại những thương tổn như các hư hại
gây ra do hóa chất trị liệu:
Chuối chát hay chuối hột (cần phân biệt danh từ plantain, khi dùng
plantain fruit = quả chuối chát = Musa sp, nhưng nếu dùng plantain plant =
cây Mã đề = Plantago major), có khả năng làm tăng độ đặc của màng nhày
bao tử, đã được dùng để trị ung loét bao tử (Journal of EthnoPharmaco logy
Số 13-1986): Trong một thử nghiệm, chất nhựa của chuối chát đã ngừa được
các phản ứng độc hại cấp tính gây ra nơi ruột của 5-fluorou racil, một hóa
chất dùng trị ung thư, khi thử nơi chuột bị ung thư ruột.
Amino-acid Glutamine, có hoạt tính giúp bảo vệ vác tế bào ruột của
bệnh nhân ung thư điều trị bằng hóa chất (American Journal of Surgery Số
172-1996).
Vitamin E cũng có thể hữu dụng: Nơi chuột, khi cho dùng một liều
cao Vitamin E (gần 640 mg/kg), có sự ức chế rõ rệt các tiến trình Suy mòn
gây ra bởi TNF. Tác động này không do sự ngăn chặn tạo ra TNF, nhưng do
chặn các thụ thể TNF nơi bắp thịt. Liều tương đương để áp dụng cho người
là khoảng 6.1 gram/ ngày hay khoảng 9,200 đơn vị Vit E.
Melatonin có thể giúp ngừa Suy mòn: Trong một nghiên cứu nơi 100
bệnh nhân ở giai đoạn ung thư phát triển, liều uống melatonin 20 mg/ ngày,
làm giảm sản xuất TNF và vận tốc mất cân (European Journal of Cancer Số
32-1996). Hoạt tính này có thể do ức chế các hoạt động của NF-kafkaB. Một
nghiên cứu khác cho thấy Melatonin ức chế được tiến trình Suy mòn nơi
bệnh nhân ung thư điều trị bằng hóa chất: thử nghiệm trên 70 bệnh nhân bị
ung thư phổi (loại non-small-cell) ở giai đoạn phát triển, đang điều trị
bằngcisplatin và etoposide, cho dùng thêm melatonin (uống 20 mg/ ngày)
giúp kéo dài thêm đời sống được 1 năm, so với người bệnh không dùng
melatonin (từ 19 đến 44 %). Ngoài ra, trong nhóm dùng thêm melatonin, các
phản ứng phụ do dùng hóa chất trị liệu như đau do thần kinh, suy mòn đều
giảm bớt. (Nhóm bệnh nhân dùng melatonin không bị xuống cân, trong khi
đó 44% bệnh nhân trong nhóm không dùng melatonin bị xuống cân.
Cách sử dụng Dầu cá (Fish oil) trong lâm sàng:
Hai nguồn cung cấp chính về Acid béo Omega-3 là Dầu cá (fish oil)
và Dầu Flaxseed. Dầu cá (hay các thành phần EPA và DHA trong dầu cá)
hầu như được dùng trong tất cả các nghiên cứu về ung thư. Dầu flaxseed, rẻ
hơn và chứa một tỷ lệ acid béo Omega-3 cao hơn. Dầu flaxseed chứa khoảng
58% alpha-linoleic acid (trong tổng số chất béo) nhưng chưa được chứng
minh là hữu hiệu khi dùng trị ung thư.
Trong cơ thể, alpha-linoleic acid được chuyển biến thành EPA do một
chuỗi enzym, kể cả delta-6 desaturase. Trong các nghiên cứu nơi người khoẻ
mạnh, dầu flaxseed (uống mỗi ngày 1.5 thìa canh) hữu hiệu trong việc làm
tăng mức độ EPA trong mô tế bào, tương đương như việc dùng trực tiếp
EPA, miễn là giới hạn lượng acid béo Omega-6 trong thực đơn. Cũng tương
tự, dầu Canola, chứa nhiều linoleic acid, giúp tăng phần nào mức EPA trong
mô tế bào, nhưng mức độ chuyển biến có vẻ bị giới hạn và không thể ước
đoán được. Sự khó khăn của Flaxseed oil là khó chuyển thành EPA trong
mô tế bào của một số ung thư, vì trong các tế bào này, thiếu delta-6-
desaturase, là enzyme cần thiết cho sự chuyển biến. Trong một thử nghiệm
nơi chuột, bị ghép tế bào ung thư tuyến nhiếp hộ, một chế độ ăn uống có
thêm 18 % dầu flaxseed và 5 % dầu bắp không lảm giảm ung thư và không
giúp kéo dài đời sống như chế độ ăn uống chứa 18 % EPA/DHA và 5 % dầu
bắp (Nutrition and Cancer Số 29-1997). Ngoài ra còn có một số nghiên cứu
lại cho rằng chế độ ăn uống có nhiều alpha-linoleic acid còn có thể gia tăng
nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ.
Do đó, dầu cá (fish oil) là hợp chất tốt nhất để dùng trong các trường
hợp điều trị ung thư.
Một yếu tố quan trọng khác cần chú ý trong việc sử dụng EPA trong
lâm sàng là số lượng và loại các acid béo khác cùng có trong thực đơn, lý do
là sự có mặt của các acid béo bảo hòa (saturated) và các acid béo loại
Omega-6 có thể có ảnh hưởngtrên sự hấp thụ và biến dưỡng EPA. Do đó để
có thể hữu hiệu, EPA cần phải được dùng phối hợp với một chế độ ăn uống
chỉ có ít acid béo Omega-6 và acid béo no. Như đã trình bày ở trên tỷ lệ tối
ưu về Omega-3/ Omega-6 là 1:1 đến 1:2. Tỷ lệ thấp này khó có thể đạt được,
tuy nhiên một tỷ số càng gần mức này càng tốt.
Ví dụ: Tỷ lệ 1:3 có thể đạt được khi dùng mỗi ngày một liều dầu cá
khoảng 15 gram (chứa tổng cộng chừng 10 gram EPA và DHA) và một
lượng acid béo Omega-6 chừng 30 gram.
Các liều ước lượng hữu hiệu dùng trị liệu và liều tối đa có thễ dung
nạp của EPA/DHA:
EPA đã được nghiên cứu để làm thuốc trị một số trường hỡp bệnh lý
không phải là ung thư, kể cả các bệnh do cơ thể tự phản ứng chống lại hệ
miễn nhiễm của chính bản thân (autoimmune disorders) và bệnh tim-mạch.
Tuy liều chính thức của dầu cá chưa được xác định, nhưng liều bình thường
đã được sử dụng là 2 đến 20 gram/ ngày. Một số hiệu ứng sẽ xuất hiện sau 4
tuần dùng thuốc.
Liều tối ưu của EPA/DHA để dùng trong việc điều trị ung thư nơi
người vẫn chưa được xác định.
Liều chống ung thư của EPA, DHA hay Dầu cá, tính toán dựa theo
các thử nghiệm nơi chuột-bọ, là 12 đến 48 gram/ngày (trong các nghiên
dùng liều trung bình) và 120 đến 240 gram (trong các nghiên cứu dùng liều
cao).
Liều EPA ước lượng dùng trị Suy mòn được định là 2 đến
12gram/ngày EPA nguyên chất. Liều này có thể tương ứng với liều 6 đến 36
gram Dầu cá ( cho rằng Dầu cá trên thị trường chứa khoảng 33% EPA
nguyên chất)
Sau hết, liều 18 gram Dầu cá chứa 3.1 gram EPA và 2.1 gram DHA (
thêm vào 300 đơn vị Vitamin E) cho thấy có tác dụng tốt trong việc cải thiện
các chỉ số miễn nhiễm nơi các bệnh nhân ung thư ở vào giai đoạn cuối và
giúp kéo dài được thời gian sống đáng kể ( 50% bệnh nhân sống thêm được
400 ngày so với bệnh nhân dùng thuốc vờ sống được thêm 180 ngày). Do đó
liều Dầu cá hữu hiệu để dùng cho người có lẽ ở trong khoảng 6 đến 48 gram/
ngày. Liều trung bình nên sử dụng sẽ là 23 gram Dầu cá/ ngày.
Liều 23 gram Dầu cá/ngày này có lẽ không gây ra những phản ứng
phụ đáng kể. Trong một thử nghiệm Giai đoạn I, liều tối đa Dầu cá dùng cho
các bệnh nhân bị Suy mòn là 21 gram/ này (0.3 g/kg). Liều này chứa chừng
15 gram acids béo Omega-3 tổng cộng. Các phản ứng phụ do liều quá cao là
rối loạn bao tử-ruột như tiêu chảy, buồn nôn, và đau bụng quặn. Ngoài ra
cần chú ý là Dầu cá có thể ức chế sự ngưng tụ tiểu cầu, nên cần thận trọng
khi dùng cho các bệnh nhân có nguy cơ bị xuất huyết.