ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

________

NGUYỄN BẠCH ĐẰNG

ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội, 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

________

NGUYỄN BẠCH ĐẰNG

ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 62.31.01.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. NGUYỄN TRÚC LÊ

2. PGS.TS. PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP

Hà Nội, 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận án tiến sĩ: “Đảm bảo an ninh kinh tế trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” là công trình nghiên cứu độc lập

của tôi. Các kết quả trình bày trong luận án là trung thực, chưa được công bố trong

bất cứ công trình nào khác.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên.

Hà Nội, ngày tháng 06 năm 2017

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Bạch Đằng

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Kinh tế - Đại học

Quốc gia Hà Nội, các Quý Thầy Cô đã giúp tôi trang bị tri thức, tạo môi trường

điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận án.

Với sự kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời chân thành cảm ơn tới

PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê, PGS.TS. Phạm Thị Hồng Điệp đã giúp đỡ, chỉ dẫn tận

tình cho tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án này.

Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo và các cán bộ Bộ Công An, Viện Chiến

lược – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Tổng

cục Thống kê, Học viện An ninh nhân dân, Trường Đại học kinh tế - ĐHQGHN, đã

giúp đỡ chia sẻ thông tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu, tài liệu, số liệu hữu

ích phục vụ cho đề tài luận án này.

Tôi cũng xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã

động viên, hỗ trợ, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và

hoàn thành luận án.

Hà Nội, ngày tháng 06 năm 2017

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Bạch Đằng

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌNH

PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1 2. Mục đích, nhiệm vụ và câu hỏi nghiên cứu ..................................................... 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6 5. Những đóng góp mới của luận án .................................................................. 11 6. Kết cấu luận án ................................................................................................ 12

Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ

QUỐC GIA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .............. 13 1.1. Những nghiên cứu về an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ...................................................................................... 13

1.1.1. An ninh quốc gia theo cách tiếp cận truyền thống .................................... 13 1.1.2. An ninh quốc gia theo cách tiếp cận hiện đại ........................................... 15

1.2. Nghiên cứu về an ninh kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế ..................... 17

1.2.1. Về an ninh kinh tế ..................................................................................... 17 1.2.2. Về đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ................................................................................................................. 21

1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ........................................................ 33

1.3.1. Về nghiên cứu lý thuyết ............................................................................ 34 1.3.2. Về nghiên cứu thực tiễn ............................................................................ 34

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẢM BẢO AN NINH KINH

TẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ............................ 37 2.1. Những vấn đề chung về hội nhập kinh tế quốc tế ...................................... 37

2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hội nhập kinh tế quốc tế ............................... 37 2.1.2. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai ............................................................................ 42

2.2. Đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ........ 45

2.2.1. Các khái niệm cơ bản ................................................................................ 45 2.2.2. Nội dung đảm bảo an ninh kinh tế trong trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ................................................................................................................. 50 2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng và điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ............................................................. 66 2.2.4. Tiêu chí đánh giá đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia ................................. 72

2.3. Kinh nghiệm đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam ......................................... 75

2.3.1. Kinh nghiệm đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập KTQT ở một số quốc gia ................................................................................................... 75 2.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho cho Việt Nam ......................................... 86

Chương 3 THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2015 ................................................................................................................... 92 3.1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam và tác động đến an ninh kinh tế 92

3.1.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam .................................... 92 3.1.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới an ninh kinh tế Việt Nam ....... 94

3.2. Tình hình đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập KTQT ở Việt Nam ............................................................................................................... 97

3.2.1. Xây dựng chiến lược hội nhập và thể chế kinh tế trong quá trình hội nhập gắn với an ninh kinh tế quốc gia ................................................................ 97 3.2.2. Đảm bảo ổn định những yếu tố nguồn lực thiết yếu cho nền kinh tế ..... 101 3.2.3. Đảm bảo ổn định an toàn cho hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia .......... 110 3.2.4. Phòng chống các loại tội phạm kinh tế gây ảnh hưởng tới an ninh kinh tế quốc gia ............................................................................................................. 126

3.3. Đánh giá chung ........................................................................................... 132

3.3.1. Theo các chỉ tiêu định lượng ................................................................... 132 3.3.2. Theo các tiêu chí định tính ...................................................................... 136

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM ĐẾN 2025 ........................................................................................................... 147 4.1. Bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra đối với an ninh kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến 2025 ........................................ 147

4.1.1. Bối cảnh mới của hội nhập và phát triển kinh tế Việt Nam .................... 147 4.1.2. Những vấn đề nảy sinh áp lực đối với việc đảm bảo an ninh kinh tế ..... 149

4.2. Những quan điểm cơ bản về đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .................................................................................... 153

4.2.1. Đảm bảo an ninh kinh tế phải đặt trong mối liên hệ gắn bó mật thiết với việc đảm bảo an ninh quốc gia trên tất cả các lĩnh vực .................................... 153 4.2.2. Đảm bảo an ninh kinh tế trong bối cảnh hội nhập phải gắn liền với nâng cao nội lực của nền kinh tế ................................................................................ 155 4.2.3. Đảm bảo an ninh kinh tế phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và khai thác tốt ngoại lực trong bối cảnh hội nhập ................................................ 157

4.3. Giải pháp đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đến năm 2025 ................................................................ 158

4.3.1. Tăng cường nhận thức về an ninh kinh tế, định dạng rủi ro kinh tế để có đối sách xử lý phù hợp ...................................................................................... 158 4.3.2. Xây dựng thể chế kinh tế, khuôn khổ pháp luật đáp ứng yêu cầu của hội nhập và gắn với đảm bảo an ninh kinh tế .......................................................... 161 4.3.3. Chủ động phòng ngừa những bất ổn đe doạ các yếu tố nguồn lực thiết yếu của nền kinh tế và bất ổn trong hệ thống tài chính tiền tệ .......................... 163 4.3.4. Xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế .................. 169 4.3.5. Tăng cường hợp tác quốc tế về đảm bảo an ninh kinh tế ........................ 171

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 175 Tài liệu tham khảo .................................................................................................... 177

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

: Asian Development Bank (Ngân hàng Phát triển châu Á) ADB

: ASEAN Economic Community (Cộng đồng kinh tế ASEAN)

AEC

AFTA : ASEAN Free Trade Area (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN)

APEC : Asia-Pacific Economic Cooperation (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế

châu Á – Thái Bình Dương)

APF : Asian Policy Forum (Diễn đàn chính sách châu Á)

ASEAN : Association of Southeast Asian Nations (HIệp hội các nước Đông

Nam Á)

ARF : ASEAN Regional Forum (Diễn đàn khu vực ASEAN)

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa hiện đại hóa

FAO : Food and Agriculture Organization of the United Nations (Tổ

chức Nông lương thế giới)

FDI : Foreign direct investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài)

FTA

: Free trade area (Khu vực mậu dịch tự do)

GDP

: Gross domestic product (Tổng sản phẩm quốc nội)

IEA

: International Energy Agency (Cơ quan Năng lượng quốc tế)

IMF

: International Monetary Fund (Qũy Tiền tệ quốc tế)

KT-XH : Kinh tế - xã hội

KTQT : Kinh tế quốc tế

NHTM : Ngân hàng thương mại

OECD : Organisation for Economic Co-operation and Development (Tổ

chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế)

PTA : Preferential Trade Arangements (Thỏa thuận thương mại ưu đãi)

TBCN : Tư bản chủ nghĩa

TPP : Trans-Pacific Partnership (Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình

Dương)

: Thị trường tài chính TTTC

: Xã hội chủ nghĩa XHCN

WB

: World Bank (Ngân hàng thế giới)

WEF

: World Economic Forum (Diễn đàn kinh tế thế giới)

WTO

: World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới)

Bảng 2.1. Những yếu tố và thước đo tình trạng an ninh kinh tế ................................................. 72

Bảng 3.1: Tóm tắt các mốc hội nhập chính của Việt Nam ......................................................... 93

Bảng 3.2. Sản lượng cây lương thực qua các năm .................................................................... 104

Bảng 3.3. Tiêu dùng một số loại lương thực thực phẩm bình quân đầu người/tháng ............... 105

Bảng 3.4. Thu nhập bình quân đầu người/tháng theo giá hiện hành ........................................ 105

Bảng 3.5. Số lượng ngân hàng giai đoạn 1991 - 2010 ............................................................... 112

Bảng 3.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI giai đoạn 2006 – 2014 ........................................... 118

Bảng 3.7. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ................................................................................. 119

Bảng 3.8. Khối lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK ................................... 120

Bảng 3.9. Đối chiếu việc thực hiện các nguyên tắc giám sát của BASEL I trong hoạt động

giám sát của NHNN .................................................................................................................. 123

Bảng 3.10. Kết quả xử lý tội phạm kinh tế giai đoạn 2011 – 2015 .......................................... 127

Bảng 3.11. Tốc độ tăng trưởng trung bình và tính ổn định của tăng trưởng GDP giai đoạn

1986 – 2014 ............................................................................................................................... 132

Bảng 3.12. Trái phiếu chính phủ và nợ công của Việt Nam ..................................................... 135

DANH MỤC BẢNG

Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Hàn Quốc giai đoạn 1986 -2016 ................................... 75

Hình 2.2: GDP của Hàn Quốc giai đoạn 1986 -2016 (đơn vị tỷ USD) ........................................ 76

Hình 3.1: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn hệ thống NHTM từ 2000 – 2014 ........................ 113

Hình 3.2. Tiến trình tự do hóa tài chính của Việt Nam .............................................................. 115

Hình 3.3. Diễn biến lãi suất VNĐ giai đoạn 2009 - 2014 .......................................................... 116

Hình 3.4. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của tổ chức tín dụng .................................................... 117

Hình 3.5. Mối quan hệ giữa cung tiền và lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2014 .......... 133

Hình 3.6. Tỷ giá danh nghĩa VND/USD giai đoạn 1985-2013 ................................................. 134

DANH MỤC HÌNH

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

An ninh kinh tế là một bộ phận cấu thành của an ninh quốc gia. Theo nghĩa

truyền thống, an ninh quốc gia là việc đảm bảo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổ, bảo tồn chế độ chính trị của quốc gia trước sự đe doạ từ bên ngoài cũng như

bảo tồn lịch sử và văn hoá của nó. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, với tính chất

khép kín của kinh tế hai khối TBCN và XHCN, quan niệm an ninh bị bó hẹp trong

bối cảnh đối đầu quân sự giữa hai khối chính trị. Sau Chiến tranh lạnh, sự đối đầu

quân sự giữa các cường quốc dịu đi, nhưng lại xuất hiện hàng loạt vấn đề mới tác

động đến an ninh quốc gia bao gồm các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội, tôn

giáo... Đối với nhiều nước lớn, trọng tâm trong kế hoạch an ninh quốc gia hiện nay

là kinh tế, sức mạnh quân sự chỉ được dùng để “răn đe” và thương lượng trong đàm

phán. Như vậy, một nước mạnh không chỉ được nhìn nhận ở quân đội lớn, vũ trang

hiện đại mà còn phải nhìn nhận ở sức mạnh tổng hợp, trong đó có sức mạnh về kinh

tế.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, khi các quốc gia

đều nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế thì những xung đột, đối

kháng lợi ích kinh tế giữa các quốc gia diễn ra thường xuyên hơn, hình thức đa

dạng hơn và tính chất ngày càng phức tạp. Việc dỡ bỏ các rào cản cho thương mại,

tài chính, đầu tư trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy sự phát triển

mạnh mẽ, tăng cường tính liên kết và phụ thuộc lẫn nhau của nền kinh tế thế giới,

điều này cũng làm cho các rủi ro, mất an ninh kinh tế quốc tế dễ tác động, ảnh

hưởng đến an ninh kinh tế quốc gia và ngược lại, khủng hoảng kinh tế ở một quốc

gia cũng có thể lây lan nhanh chóng khắp toàn cầu. Hiện nay, các nước trên thế giới

đang phải đối mặt với những thách thức mới đe doạ an ninh và ổn định. Đó là

những vấn đề về an ninh tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực,

an ninh mạng... với những đối tượng mới như công ty xuyên quốc gia, giới đầu cơ

1

quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia về kinh tế... Những vấn đề đó khiến

cho việc đảm bảo an ninh kinh tế càng trở thành vấn đề trung tâm trong đảm bảo an

ninh quốc gia, an ninh khu vực và an ninh quốc tế.

Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam kể từ khi Đổi mới đã đem lại nhiều

đổi thay tích cực cho nền kinh tế và vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Tuy

nhiên, thực hiện tự do hoá nền kinh tế trong xu thế hội nhập, tham gia ngày càng

sâu rộng vào thị trường thế giới với mức độ cạnh tranh khốc liệt cũng gây ra những

tác động tiêu cực đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, đối với sự ổn

định nền kinh tế quốc dân. Quá trình toàn cầu hoá đã làm gia tăng nhiều thách thức

đối với tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hoá lao động

dẫn tới các quá trình di dân phức tạp hơn, từ di cư hợp pháp đến di cư bất hợp pháp,

trong đó có cả hoạt động buôn bán lao động. Toàn cầu hoá hàng hoá, dịch vụ dẫn

đến sự hình thành thị trường hàng hoá, dịch vụ toàn cầu, mà bất ổn của quốc gia

này đe doạ đến tất cả các quốc gia khác tham gia vào quá trình tự do hoá thương

mại – dịch vụ. Quá trình tự do hoá luồng vốn cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với hệ

thống tài chính quốc gia, nhất là khi diễn ra khủng hoảng tài chính, tiền tệ. Như vậy,

hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài những tác động tích cực cho nền kinh tế cũng gây ra

những ảnh hưởng tiêu cực về an ninh kinh tế cho Việt Nam. Chẳng hạn như sự suy

thoái kinh tế, bất ổn kinh tế vĩ mô ở nước ta giai đoạn 2011-2013, ngoài những lý

do chủ quan từ nội tại nền kinh tế và quản lý vĩ mô, có một phần nguyên nhân từ

khủng hoảng kinh tế và lan truyền suy thoái từ các nước, các nền kinh tế lớn trên

thế giới giai đoạn 2008 - 2010. Điều này đòi hỏi phải có cơ chế phòng ngừa rủi ro,

đảm bảo an ninh kinh tế để có thể phát triển bền vững trong bối cảnh kinh tế toàn

cầu luôn biến động.

Trong thời gian tới, tình hình kinh tế, tài chính, tiền tệ thế giới, khu vực còn

diễn biến phức tạp; các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống tiếp

tục gia tăng, trong đó an ninh kinh tế, tài chính, tiền tệ và an ninh mạng đang đặt ra

nhiều thách thức lớn đối với lợi ích và an ninh của nhiều quốc gia. Việt Nam vẫn

đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến

2

phức tạp. Để đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình tiếp tục hội nhập sâu

hơn vào nền kinh tế thế giới, nhà nước có vai trò hết sức quan trọng. Về lý luận,

mặc dù đã có một số nghiên cứu quốc tế và Việt Nam đề cập đến an ninh kinh tế

như một bộ phận của vấn đề an ninh phi truyền thống, nhưng những nghiên cứu đi

sâu vào phân tích nội hàm và nội dung của đảm bảo an ninh kinh tế trong bối cảnh

hội nhập còn thiếu vắng. Đối với Việt Nam, nhận thức về các mối đe doạ an ninh

kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn có bất cập, chưa đầy

đủ và chưa theo kịp những diễn biến nhanh chóng của tình hình. Tính chất hai mặt

của hội nhập quốc tế và yêu cầu tận dụng mặt tích cực của hội nhập cho phát triển

đòi hỏi Việt Nam cần đổi mới nhận thức, tư duy về vị trí, tầm quan trọng của công

tác đảm bảo an ninh kinh tế trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; Bên cạnh đó,

việc tổ chức thực hiện đảm bảo an ninh kinh tế trong thời gian qua ở Việt Nam còn

một số hạn chế về các khía cạnh như cơ cấu lại nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô,

bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch

đảm bảo an ninh, trật tự trong quá trình thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch, đề án phát triển KT – XH.

Tóm lại, hội nhập quốc tế hiện nay và trong thời gian tới đặt ra nhiều vấn đề

mới về đảm bảo an ninh kinh tế cần quan tâm luận giải. Đảm bảo an ninh kinh tế

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề lý luận cần tiếp tục làm sáng

tỏ trong nghiên cứu kinh tế chính trị ở Việt Nam, đồng thời là nhiệm vụ thực tiễn

hết sức quan trọng, vừa cấp bách, vừa thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi quyết tâm cao,

sự kiên trì, bền bỉ, sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan, tổ chức nhà nước với

các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, tìm ra các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp về mặt

chính sách nhằm đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập, góp phần

vào sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội là yêu cầu cấp thiết, khách quan đặt ra

trong bối cảnh phát triển của đất nước hiện nay.

Xuất phát từ những lý do trên và căn cứ vào yêu cầu công tác của bản thân,

nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế ở Việt Nam” cho luận án tiến sỹ của mình.

3

2. Mục đích, nhiệm vụ và câu hỏi nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích thực trạng đảm bảo an ninh kinh

tế của Việt Nam trong thời gian qua, luận án đề xuất những giải pháp nhằm đảm

bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong

điều kiện hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Hệ thống hoá, làm rõ hơn những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm thực

tiễn về đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Phân tích thực trạng đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế của Việt Nam.

Đề xuất giải pháp tăng cường đảm bảo an ninh kinh tế trong giai đoạn tiếp

tục hội nhập sâu rộng hơn của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.

Câu hỏi nghiên cứu của đề tài:

Trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận án sẽ đi sâu tìm

hiểu để trả lời những câu hỏi nghiên cứu như sau:

- Đảm bảo an ninh kinh tế của một quốc gia bao gồm những nội dung gì và

cần những điều kiện gì?

- Từ góc độ nhà nước, Việt Nam cần làm gì và làm như thế nào để tăng

cường đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình tiếp tục hội nhập sâu rộng

hơn vào nền kinh tế thế giới?

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về đảm bảo an ninh kinh tế quốc

gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian:

4

Nghiên cứu tại Việt Nam có kết hợp khảo cứu kinh nghiệm của một số nước

trong khu vực và trên thế giới.

Về thời gian:

Nghiên cứu từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới (năm 1986) đến

nay, trong đó tập trung vào giai đoạn 2007 đến 2015, là giai đoạn quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra sôi động, có nhiều dấu mốc hội nhập quan

trọng như việc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, đồng thời cũng là giai

đoạn nền kinh tế Việt Nam và thế giới có nhiều thăng trầm tác động đến an ninh

kinh tế quốc gia và công tác đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia.

Về nội dung:

An ninh kinh tế là một khái niệm rộng và phức tạp. Các nghiên cứu trong và

ngoài nước về chủ đề này thường tiếp cận ở một trong ba cấp độ cơ bản: (1) cấp vi

mô là an ninh kinh tế của cá nhân hoặc hộ gia đình; (2) cấp độ trung mô là an ninh

kinh tế của doanh nghiệp; và (3) cấp vĩ mô là an ninh kinh tế quốc gia hoặc nhóm

quốc gia (khu vực) và toàn cầu (Senkus và Raczkowski, 2013). Trong phạm vi

nghiên cứu của luận án này, an ninh kinh tế được xem xét ở cấp độ vĩ mô – an ninh

kinh tế quốc gia.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong luận án này được xem

như bối cảnh tác động đến an ninh kinh tế quốc gia và ảnh hưởng tới các yếu tố, các

điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế, trọng tâm phân tích của luận án sẽ là các nội

dung đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập. Vì vậy, luận án sẽ

không đi sâu phân tích về tiến trình, các bước hội nhập của Việt Nam và những vấn

đề an ninh kinh tế cụ thể nảy sinh trong từng bước, từng dấu mốc hội nhập.

An ninh kinh tế quốc gia có nội dung rất rộng, thể hiện trên nhiều khía cạnh

và có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau như an ninh truyền thống, an ninh phi truyền

thống, an ninh đối với từng ngành kinh tế cụ thể (an ninh lương thực, an ninh nguồn

nước, an ninh năng lượng, an ninh tài chính…). Trong khuôn khổ của luận án này,

tác giả tập trung phân tích về an ninh kinh tế quốc gia dưới góc độ kinh tế chính trị,

làm nổi bật vai trò của nhà nước đối với đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia, nhà

5

nước được xem xét với tư cách là chủ thể thực hiện các biện pháp để đảm bảo an

ninh kinh tế cho đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án cũng chỉ

ra xu hướng vận động và những ràng buộc có tính quy luật của các yếu tố, các nội

dung đảm bảo an ninh kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Về nội dung đảm bảo an ninh các nguồn lực kinh tế cơ bản của nền kinh tế

quốc dân, do hạn chế về dung lượng luận án, do nguồn tài liệu tiếp cận được và căn

cứ vào mức độ, tầm quan trọng chiến lược của một số nguồn lực, tác giả luận án chỉ

lựa chọn phân tích về an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước và an ninh lương

thực quốc gia.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp luận duy vật biện chứng đòi hỏi

phải xem xét vấn đề an ninh kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế trong mối quan hệ

nhiều chiều, ảnh hưởng của nhiều nhân tố, từ đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị

thế giới đến môi trường kinh tế - xã hội quốc gia, từ những đặc điểm và quy luật

vận động nội tại của các quá trình kinh tế đến ảnh hưởng của thể chế, bộ máy vận

hành nền kinh tế đất nước…Phương pháp luận duy vật lịch sử đòi hỏi việc nghiên

cứu đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia phải xuất phát từ thực tiễn và bám sát quá

trình phát triển, những biến động của lịch sử vấn đề an ninh kinh tế trong quá trình

Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Những gì đã và đang diễn ra liên quan đến an

ninh kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế là những căn cứ để phân tích, đánh giá.

Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống. Hệ thống là một thể thống

nhất biện chứng bao gồm những bộ phận khác nhau kết hợp lại và tương tác với

nhau để tạo nên những thuộc tính mới của hệ thống, mà các bộ phận không có

được, là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của cả hệ thống cũng như của từng bộ

phận của nó. Nói một cách khác, hệ thống là một cái gì đó lớn hơn là tập hợp tất cả

6

các bộ phận của nó. Hệ thống là một sự cấu thành nào đó của đối tượng đang phát

triển, là phương thức nhất định về cách sắp xếp và tác động qua lại của các thành

phần của đối tượng đó. Việc tiến hành nghiên cứu, đánh giá về an ninh kinh tế và

đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia cần đặt trong tổng thể hệ thống an ninh quốc gia

cũng như hệ thống kinh tế - xã hội. Đảm bảo an ninh kinh tế đặt trong quan hệ với

đảm bảo an ninh chính trị, bảo vệ chủ quyền quốc gia; Đảm bảo an ninh kinh tế

trong mối quan hệ với các yếu tố và điều kiện đảm bảo an ninh quốc gia, nội lực,

ngoại lực. Các nội dung nghiên cứu có mối quan hệ gắn kết biện chứng cần được

xem xét theo thời gian và không gian.

4.2. Phương pháp thu thập tài liệu, dữ liệu

Nguồn dữ liệu thứ cấp

Nguồn dữ liệu thứ cấp sử dụng cho luận án gồm: các công trình, tác phẩm,

các đề tài khoa học, các đề án, dự án nghiên cứu, hệ thống các báo cáo, tài liệu tham

khảo của các nhà khoa học trong và ngoài nước, các cơ quan, tổ chức nghiên cứu,

điều hành ở Việt Nam như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Công

An, Viện Chiến lược – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế

trung ương, Tổng cục Thống kê, Học viện An ninh nhân dân, Trường Đại học kinh

tế - ĐHQGHN, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, các tạp chí, sách chuyên ngành

trong và ngoài nước, các trang mạng tra cứu tài liệu học thuật về chủ đề có liên

quan...

Các dữ liệu thứ cấp thu thập được để nghiên cứu những nội dung: cơ sở lý

thuyết về an ninh kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội

nhập quốc tế; hệ thống quan điểm của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của

Nhà nước Việt Nam về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng; kinh nghiệm của các

quốc gia trong khu vực và trên thế giới về đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình

hội nhập....

4.3. Phương pháp xử lý tài liệu, dữ liệu

Có hai dạng thông tin đề tài thu nhập từ nghiên cứu tài liệu, số liệu thống kê

gồm: thông tin định tính và thông tin định lượng. Do đó, đề tài có hai hướng xử lý

7

thông tin như sau: Xử lý logic đối với thông tin định tính. Đây là việc đưa ra những

phán đoán về bản chất của sự kiện và xử lý toán học đối với các thông tin định

lượng. Đây là việc sử dụng phương pháp thống kê toán để xác định xu hướng, diễn

biến của tập hợp số liệu thu thập được.

Xử lý thông tin định tính

Quy trình thực hiện xử lý thông tin định tính của đề tài được thực hiện bắt

đầu từ việc thu thập qua các phương pháp quan sát, phỏng vấn, thảo luận, nghiên

cứu tài liệu…xây dựng giả thuyết và chứng minh cho giả thuyết đó từ những sự

kiện rời rạc đã thu thập được. Bước tiếp theo là xử lý logic đối với các thông tin

định tính, tức là việc đưa ra những phán đoán về bản chất các sự kiện đồng thời thể

hiện những logic của các sự kiện, các phân hệ trong hệ thống các sự kiện được xem

xét.

Xử lý thông tin định lượng

Thông tin định lượng thu thập được từ các tài liệu thống kê hoặc bằng chứng

quan sát, thực nghiệm; sau đó sắp xếp chúng lại để làm bộc lộ ra các mối liên hệ và

xu thế của sự vật. Các số liệu có thể được trình bày dưới nhiều dạng, từ thấp đến

cao: Những con số rời rạc; Bảng số liệu; Đồ thị; Phân tích chỉ số.

Phương pháp trừu tượng hoá khoa học

Luận án sử phương pháp trừu tượng hóa khoa học, một phương pháp nghiên

cứu đặc thù của kinh tế chính trị để phân tích chương lý luận chung về an ninh kinh

tế và đảm bảo an ninh kinh tế trong bối cảnh hội nhập. Phương pháp này đòi hỏi gạt

bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong quá trình và hiện tượng được nghiên cứu,

tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong hiện tượng, trên cơ sở đó nắm

lấy cái bản chất của các hiện tượng.

Ở chương 2, tác giả sẽ dẫn ra các quan điểm khác nhau về an ninh kinh tế và

đảm bảo an ninh kinh tế đồng thời phân tích, so sánh các quan điểm ấy. Những yếu

tố ngẫu nhiên, không bản chất được gạt bỏ để tập trung nggiên cứu những cái điển

hình, đặc trưng và bền vững. Trên cơ sở đó, quan điểm riêng của tác giả luận án về

đảm bảo an ninh kinh tế được đề xuất. Ở chương 3, từ lý luận chung về an ninh

8

kinh tế, tác giả triển khai phân tích những yếu tố bên ngoài và bên trong ảnh hưởng

đến an ninh kinh tế Việt Nam. Dựa trên thực trạng giải quyết vấn đề đảm bảo an

ninh kinh tế, tác giả đánh giá tổng hợp thành công và hạn chế của vấn đề. Khi đánh

giá thực trạng, tác giả phải lựa chọn những vấn đề điển hình để đánh giá thực trạng.

Tóm lại, trừu tượng hoá khoa học được sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực

hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.

Phương pháp thống kê mô tả

Các dữ liệu về kinh tế, xã hội của Việt Nam và những biến động trong kinh

tế - xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được chia theo các nhóm kinh tế,

xã hội trong tương quan với các tiêu chí về an ninh, nguy cơ, bất ổn..., làm cơ sở

cho sự phân tích, đánh giá thực trạng đảm bảo an ninh kinh tế.

Ở chương 3, luận án đưa ra các thông tin về kinh tế Việt Nam và tiến hành

thu thập, thống kê, mô tả và tổng hợp các loại chỉ số về tốc độ tăng trưởng, sự phát

triển, trên cơ sở đó mô tả quy mô và sự biến động của tình hình kinh tế và hiệu

trạng bảo đảm an ninh kinh tế.

Phương pháp phân tích - tổng hợp

Phân tích - tổng hợp là hai mặt của một quá trình, chúng không thể tách rời

nhau mà hợp lại để bổ trợ cho nhau. Phân tích là giai đoạn cần thiết của bất kì một

quá trình nghiên cứu nào. Tổng hợp là việc xác định những thuộc tính, những mối

liên hệ chung, cũng như những quy luật tác động qua lại giữa các yếu tố liên quan

về an ninh quốc gia nói chung và an ninh kinh tế nói riêng. Tổng hợp có được nhờ

những kết quả phân tích, sau đó kết hợp chúng lại với nhau thành một thể hoàn

chỉnh, thống nhất.

Áp dụng phương pháp phân tích tổng hợp trong luận án để xem xét có các

nghiên cứu nào về chủ đề an ninh kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế đã được

nghiên cứu, các nghiên cứu đó đã được thực hiện như thế nào, kết quả của các

nghiên cứu là gì? v.v... phân tích tổng hợp để phát hiện những “khoảng trống” trong

các nghiên cứu trước, làm cơ sở cho việc thực hiện các nội dung của đề tài.

9

Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng của các phương pháp nghiên cứu trong

khoa học xã hội – nhân văn và kinh tế học, luận án phân tích làm rõ vai trò của nhà

nước đối với đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia thông qua việc thực hiện các nội

dung đảm bảo an ninh kinh tế; phân tích và làm rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến

an ninh kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế; phân tích và đánh giá việc đảm bảo

an ninh kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập qua các tiêu chí đã xây dựng.

Phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu trong chương 3 và 4. Cụ thể:

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến an ninh kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế của

Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; Phân tích tình hình phát triển

kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế ở Việt Nam; Phân tích luận giải về các giải pháp

đảm bảo an ninh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp tục hội nhập quốc tế sâu

rộng.

Phân tích đi đôi với tổng hợp, phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu

trong chương 1, chương 3 và chương 4. Cụ thể:

Chương 1: sau khi phân tích các định nghĩa, kiến thức về các nội dung, cơ sở

lý luận của đề tài, tác giả tổng hợp lại để có một quan niệm tập trung về an ninh

kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế. Sau khi phân tích kinh nghiệm của một số quốc

gia về đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập, luận án tổng hợp để rút ra

bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Chương 3: Từ thao tác phân tích thực trạng đảm bảo an ninh kinh tế trong

bối cảnh hội nhập của Việt Nam giai đoạn 2007-2015, luận án tổng hợp để rút ra

những thành công và hạn chế trong việc đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội

nhập.

Chương 4: Những đề xuất giải pháp tiếp tục đảm bảo an ninh kinh tế trong

quá trình hội nhập cho Việt Nam được đưa ra từ những hạn chế đã tổng hợp được ở

chương 3.

Phương pháp so sánh

Phương pháp so sánh được sử dụng trong quá trình phân tích, đánh giá thực

trạng đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Tác giả so

10

sánh quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam theo giai

đoạn, so sánh với các quốc gia có hoàn cảnh tương đồng và chỉ ra những vấn đề liên

quan đến đảm bảo an ninh kinh tế.

Phương pháp này là sự hỗ trợ cần thiết làm nổi bật tính thống nhất giữa lịch

sử và logic. Đó là sự so sánh giữa đối tượng này với đối tượng khác trong những

điều kiện, hoàn cảnh chi phối chúng, cho phép nhìn rõ nét tương đồng và sự khác

biệt, nhận rõ những cái riêng có cùng một cái chung bản chất hoặc những dấu hiệu

phân biệt cái riêng này với cái riêng khác.

Phương pháp so sánh cũng có thể dựa trên những cái mốc của sự kiện và

thời gian của cùng một cái trục vận động để tìm ra sự phát triển khác nhau của cùng

một đối tượng, chính thể trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau.

Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi để phân tích các hiện tượng KT -

XH mang tính đồng nhất giữa hiện tượng này với hiện tượng khác, giữa kỳ báo cáo

với kỳ gốc, giữa loại hình này với loại hình khác...

5. Những đóng góp mới của luận án

- Luận án góp phần bổ sung và làm mới một số khía cạnh lý luận về an ninh

kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cấp độ

quốc gia, làm rõ những vấn đề về an ninh kinh tế quốc gia dưới góc độ kinh tế

chính trị; cụ thể là: (1) làm nổi bật hơn nội hàm của khái niệm đảm bảo an ninh

kinh tế, chỉ ra mối quan hệ về lợi ích quốc gia, quốc tế trong việc đảm bảo an ninh

kinh tế; (2) xây dựng được khung lý thuyết để phân tích nội dung, các yếu tố ảnh

hưởng và tiêu chí đánh giá kết quả của công tác đảm bảo an ninh kinh tế trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế.

- Luận án phân tích kinh nghiệm đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế của một số quốc gia và rút ra bài học cho Việt Nam, trong đó

quan trọng nhất là bài học về xây dựng chiến lược phát triển kinh tế phù hợp với

yêu cầu của hội nhập để giữ được trạng thái ổn định cho nền kinh tế.

11

- Trên cơ sở phân tích thực trạng đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2015, luận án đã khẳng định một

số thành tựu quan trọng của Việt Nam đồng thời chỉ ra những hạn chế và phân tích

rõ để xác định nguyên nhân.

- Luận án đã nêu lên các quan điểm cơ bản của tác giả về đảm bảo an ninh

kinh tế trong quá trình hội nhập, trong đó nhấn mạnh đảm bảo an ninh kinh tế phải

dựa trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và khai thác tốt ngoại lực trong bối cảnh hội

nhập; từ đó đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đảm bảo an ninh kinh

tế cho quá trình hội nhập của Việt Nam trong bối cảnh mới của hội nhập kinh tế

quốc tế đến năm 2025.

6. Kết cấu luận án

Luận án bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham

khảo và phụ lục. Phần nội dung gồm 4 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đảm bảo an ninh kinh tế trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế

Chương 3: Thực trạng đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2015

Chương 4: Định hướng và giải pháp đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam đến năm 2025

12

Chương 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ QUỐC

GIA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. Những nghiên cứu về an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá

và hội nhập kinh tế quốc tế

1.1.1. An ninh quốc gia theo cách tiếp cận truyền thống

Thuật ngữ an ninh được sử dụng rất rộng rãi trong đời sống hàng ngày và

trong môi trường học thuật. Hàm ý của “an ninh” là tránh hoặc thoát khỏi cảm giác

lo lắng, sợ hãi và nguy hiểm (Từ Điển tiếng Việt, 2000). Thuật ngữ an ninh vừa đề

cập đến một loại cảm giác chủ quan của con người (mối lo sợ), vừa chỉ một trạng

thái khách quan (không tồn tại mối nguy hiểm). Có nhiều cấp độ khác nhau, nhiều

cách tiếp cận khác nhau về an ninh, ví dụ như an ninh của con người, an ninh quốc

gia, an ninh nhân loại… Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hưởng (2014) đã dẫn ra quan

niệm của các học giả phương Tây về cấu thành của khái niệm an ninh, bao gồm

năm yếu tố: một là, giá trị nào bị tấn công? Hai là, cái gì uy hiếp giá trị đó? Ba là,

có thể dùng biện pháp nào để đối phó? Bốn là, ai sẽ cung cấp sự bảo vệ trong hoàn

cảnh bị uy hiếp? Năm là, ai sẽ chi trả cho an ninh và bảo vệ? Với cách tiếp cận này

thì bất cứ khi nào một giá trị cơ bản của cá nhân, cộng đồng, dân tộc, một số quốc

gia hoặc cộng đồng quốc tế bị uy hiếp thì vấn đề đó chính là vấn đề an ninh.

An ninh quốc gia là một khái niệm quan trọng trong lý luận chính trị học và

quan hệ quốc tế hiện đại, cũng là một thuật ngữ được sử dụng với tần suất lớn nhất

để biểu đạt chính sách đối nội, đối ngoại hiện nay của các nước trên thế giới. Thuật

ngữ này xuất hiện chính thức lần đầu tiên trong một văn bản luật của Hoa Kỳ từ

năm 1947, khi chính phủ Hoa Kỳ thông qua luật An ninh quốc gia. Theo Luật này,

chính phủ thiết lập Uỷ ban An ninh quốc gia chịu trách nhiệm đưa ra kiến nghị cho

Tổng thống chính sách đối nội, đối ngoại và quân sự liên quan đến an ninh quốc gia

Mỹ. Từ xuất phát điểm trên,nhiều học giả Mỹ quan niệm “An ninh quốc gia là sự

13

nhận thức về lợi ích quốc gia và mối uy hiếp đối với lợi ích đó”.Theo lý giải của

học giả Trung Quốc thì an ninh quốc gia chỉ một trạng thái và năng lực hiệu quả

ứng phó với những ảnh hưởng và uy hiếp của những nhân tố có thể gây tổn hại và

phá hoại đối với bên trong và bên ngoài của quốc gia đó. Anh ninh quốc gia là khái

niệm có tính động và liên quan đến nhiều vấn đề. Theo Luật An ninh quốc gia của

Việt Nam năm 2004, An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của quốc

gia, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ

quốc (Quốc hội, 2004).

Theo quan niệm truyền thống, an ninh quốc gia có hai trụ cột chính là an

ninh chính trị và an ninh quân sự. Hay nói một cách khác, an ninh quốc gia truyền

thống lấy an ninh chính trị và an ninh quân sự làm trung tâm. Quan niệm an ninh

quốc gia này xuất phát từ bối cảnh nảy sinh quốc gia dân tộc và hình thành hệ thống

quan hệ quốc tế cận đại cho đến cuối thế kỷ XX. Hạt nhân của bảo đảm an ninh

quốc gia chính là bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ an ninh chính trị và an ninh quân

sự. Tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá quốc gia đó có an ninh hay không chính là vấn

đề an ninh chính trị và an ninh quân sự có bị uy hiếp và xâm hại hay không. Trong

quan niệm an ninh quốc gia truyền thống, thực lực kinh tế tuy có quan trọng nhưng

thực tế nó phục vụ cho thực lực quân sự. Vì vậy, nội dung trung tâm trong quan

niệm an ninh quốc gia của Chủ nghĩa hiện thực trong chính trị học là bảo vệ chủ

quyền quốc gia và lợi ích quốc gia. Các nguy cơ uy hiếp an ninh quốc gia luôn đến

từ nước khác, vấn đề an ninh là vấn đề chiến tranh giữa các quốc gia, phương thức

giành được an ninh là thông qua sức mạnh quân sự (Nguyễn Văn Hưởng, 2014). Vì

lý do đó, trong gần suốt thế kỷ XX, hầu hết các nước đặt an ninh quân sự lên vị trí

hàng đầu trong an ninh quốc gia. Xu hướng đó kéo dài đến hết Chiến tranh lạnh và

kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh đến nay, quan niệm an ninh quốc gia có những

thay đổi to lớn.

Khi có những thay đổi cơ bản trong quan niệm về an ninh quốc gia, an ninh

quốc tế và an ninh toàn cầu sau Chiến tranh lạnh, quan niệm về an ninh quốc gia

giai đoạn trước đó được coi là quan niệm truyền thống.

14

1.1.2. An ninh quốc gia theo cách tiếp cận hiện đại

Kể từ những năm 1990 trở đi, an ninh quốc gia được tiếp cận theo những góc

nhìn mới. Xuất hiện nhiều khác biệt trong nhận thức về an ninh, chủ thể của an

ninh, và sự mở rộng nội hàm của khái niệm an ninh. Nếu an ninh truyền thống coi

an ninh quốc gia là bảo vệ đất nước trước các mối đe doạ và tấn công bằng chính

trị, quân sự từ bên ngoài và bên trong thì an ninh theo cách tiếp cận hiện đại coi

trọng không chỉ chủ quyền quốc gia mà còn bảo vệ con người, bảo vệ cộng đồng.

Nó mang tính xuyên quốc gia do những mối uy hiếp, đe doạ của các nhân tố bên

trong và bên ngoài đối với môi trường sinh tồn và phát triển của cộng đồng xã hội

và công dân của mỗi quốc gia trong mối quan hệ chặt chẽ với khu vực và thế giới.

Nguyên nhân xuất hiện cách tiếp cận mới về an ninh quốc gia là do những thay đổi

trong bối cảnh quốc tế, đặc biệt là dưới tác động của cách mạng khoa học công

nghệ hiện đại và quá trình toàn cầu hoá.

Sự xuất hiện một số lượng lớn các vấn đề an ninh mới làm nảy sinh một số

khái niệm an ninh mới mẻ trong các nghiên cứu về an ninh. Chẳng hạn như khái

niệm “an ninh xuyên quốc gia” (Transnational Security) đề cập đến những nguy cơ,

uy hiếp ảnh hưởng đến một số quốc gia, khu vực và toàn cầu như chủ nghĩa khủng

bố, bệnh dịch, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường (Nguyễn Văn Hưởng,

2014). Hay khái niệm “an ninh tổng hợp” (Comprehensive Security) đã được sử

dụng rộng rãi ở châu Á – Thái Bình Dương theo sáng kiến của chính phủ Nhật Bản,

trong đó “nội dung mà khái niệm an ninh tổng hợp quan tâm ngoài lĩnh vực quân sự

còn bao gồm chính trị, kinh tế, xã hội và các vấn đề khác” (ARF, 1995). Quan niệm

an ninh tổng hợp cho rằng, an ninh của cá nhân, khu vực và quốc gia là đa tầng nấc,

trong tất cả các lĩnh vực; các mục tiêu an ninh muốn thực hiện được cần phải thông

qua phương thức hợp tác giữa các quốc gia. Chương trình phát triển của Liên hợp

quốc (Báo cáo phát triển con người, 1994) lại đưa ra khái niệm “an ninh con người”

(Human Security), trong đó Liên hợp quốc coi an ninh con người là một vấn đề hạt

nhân, là điều kiện quan trọng để thực hiện và bảo đảm an ninh toàn cầu và hoà bình

15

thế giới. Báo cáo Phát triển con người (1994) nêu lên bảy phương diện đề cập đến

an ninh con người như an ninh kinh tế (bảo đảm thu nhập cơ bản), an ninh lương

thực (bảo đảm cung cấp lương thực đầy đủ), an ninh sức khoẻ (tránh một cách

tương đối bệnh tật truyền nhiễm), an ninh môi trường (có thể giành được nguồn

nước tinh khiết, bầu không khí trong lành và đất canh tác không bị thoái hoá), an

ninh nhân thân (tránh khỏi bạo lực và uy hiếp), an ninh chung (an ninh bản sắc văn

hoá), và an ninh chính trị (nhân quyền và tự do cơ bản được bảo đảm).

Đặc biệt, xuất hiện khái niệm “an ninh phi truyền thống” (Non-Traditional

Security) liên quan chặt chẽ với sự thay đổi trong nghiên cứu an ninh của các nước

phương Tây sau Chiến tranh lạnh. Khái niệm này có hàm ý phân biệt cách tiếp cận

về an ninh trong bối cảnh mới (Hậu chiến tranh lạnh) khác với cách tiếp cận truyền

thống về an ninh quốc gia đã nêu trên. Sự khác biệt thể hiện chủ yếu ở hai phương

diện sau: Một là, sự mở rộng theo chiều ngang của nội hàm khái niệm an ninh.

Nghiên cứu an ninh không chỉ tập trung vào an ninh quân sự vốn có mà bắt đầu

quan tâm đến những uy hiếp an ninh mang tính phi quân sự có phạm vi ảnh hưởng

rộng hơn, phức tạp hơn. Hai là, mục tiêu đảm bảo an ninh mở rộng theo chiều dọc,

không chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và ngăn chặn sự xâm

lược của bên ngoài mà còn nhằm mục tiêu bảo đảm sự ổn định và phát triển quốc

gia, khu vực và toàn cầu trong mối tương quan với an ninh của từng con người,

công dân cũng như nhân loại nói chung (Nguyễn Văn Hưởng, 2014). Như vậy, “an

ninh phi truyền thống” xác định lại phạm vi an ninh. Nó quan tâm tới nhiều lĩnh vực

như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, môi trường. Trọng tâm an ninh nhằm vào

bảo vệ sinh mệnh, sức khỏe, hạnh phúc của con người và quan tâm đến vận mệnh

của toàn thế giới chứ không chỉ nhấn mạnh sự tồn tại, phát triển riêng biệt của một

quốc gia.

Như vậy, với việc mở rộng nội hàm của khái niệm an ninh quốc gia, các

nghiên cứu về an ninh quốc gia đã được triển khai theo nhiều góc độ và tạo ra nhiều

nhánh mới.

16

1.2. Nghiên cứu về an ninh kinh tế và đảm bảo an ninh kinh tế

1.2.1. Về an ninh kinh tế

Các nước lớn đã sớm đề cập đến vấn đề an ninh kinh tế ngay từ thập kỷ

1980. Nhật Bản đã công bố một “Chiến lược an ninh kinh tế quốc gia” riêng biệt từ

năm 1982. Chiến lược này hướng tới giải quyết những vấn đề kinh tế lớn của Nhật

như mâu thuẫn của một nước lớn về kinh tế nhưng nhỏ về tài nguyên, nhỏ về chính

trị và yếu về quân sự. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại vào

cuối thế kỷ XX, Nhật Bản thực hiện quan điểm an ninh kinh tế “làm bạn với nước

lớn” để đảm bảo an ninh cung ứng tài nguyên từ bên ngoài và thực hiện cải cách

nền kinh tế. Nước Mỹ, trong Báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia cũng đã coi an

ninh kinh tế là một trong ba trụ cột hàng đầu (chính trị, quân sự, kinh tế). Trong bài

phát biểu về chính sách đối ngoại Mỹ, Tổng thống Clinton khẳng định “Mỹ coi an

ninh kinh tế của đất nước là mục tiêu chủ yếu trong chính sách đối ngoại của mình”

(Clinton, 1993). Liên bang Nga cũng đã ban hành “Chiến lược an ninh kinh tế quốc

gia Liên bang Nga” năm 1996 để ứng phó với những nhân tố gây bất ổn kinh tế

trong quá trình cải cách chuyển đổi. Chiến lược của Nga khẳng định “an ninh kinh

tế là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống an ninh quốc gia, là then chốt

trong việc đảm bảo an ninh quốc gia. Lợi ích quốc gia trong lĩnh vực kinh tế là lợi

ích quốc gia chủ yếu nhất, đảm bảo an ninh và lợi ích kinh tế của Nga là nội dung

chủ yếu trong chính sách quốc gia”. Như vậy nước Nga quan niệm an ninh kinh tế

là then chốt để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, chấn hưng nền kinh tế và khôi

phục vị trí nước lớn vào đầu thế kỷ XXI.

Ở góc độ học thuật, đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến chủ đề an

ninh kinh tế và phân tích trên những góc độ khác khau. Có thể điểm qua quan điểm

của những tác giả tiêu biểu sau đây:

Chu Vinh Thân, Đào Kiên, Trần Phượng Anh (1998) đã khái quát năm quan

điểm đối phó với những uy hiếp về an ninh kinh tế quốc gia. Một là quan điểm lợi

17

ích, khi đối mặt với nguy cơ lợi ích quốc gia bị đe doạ, cần sử dụng các biện pháp

hiệu quả để bảo vệ lợi ích quốc gia, đảm bảo ổn định, phát triển và phồn vinh kinh

tế quốc gia, duy trì địa vị có lợi trong quan hệ quốc tế. Hai là, quan điểm tổng hợp,

cần kết hợp tất cả các yếu tố như chính trị, ngoại giao, văn hoá, thậm chí cả biện

pháp quân sự để đảm bảo an ninh kinh tế chứ không chỉ dựa vào biện pháp kinh tế

đơn thuần. Ba là, quan niệm toàn cầu, một nước cần tìm kiếm sự hợp tác song

phương, hợp tác khu vực, và hợp tác đa phương để đạt được mục tiêu an ninh kinh

tế trong thời đại toàn cầu hoá. Ngoài ra cần đặt an ninh kinh tế của nước mình trong

khuôn khổ chính trị, kinh tế của khu vực và toàn cầu để tính toán một cách toàn

diện. Bốn là, quan điểm dự báo, việc phán đoán sự thay đổi của tình hình chính trị,

kinh tế quốc tế, phán đoán những được, mất trong lợi ích kinh tế quốc gia là một

yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh kinh tế. Năm là, quan điểm toàn dân, khẳng

định cần huy động nguồn lực của toàn xã hội, của người dân, doanh nghiệp, cộng

đồng để cùng tham dự với chính phủ, thiết lập thể chế đảm bảo an ninh kinh tế quốc

gia (Dẫn lại từ Chen Fang Ying, Jiang Tong, 2012).

Về vai trò của an ninh kinh tế, nhiều tài liệu cũng khẳng định an ninh kinh tế

là cơ sở của an ninh quốc gia, vì lợi ích kinh tế là lợi ích căn bản mà mọi quốc gia,

dân tộc dựa vào để sinh tồn, phát triển và hưng thịnh. Báo cáo Chiến lược an ninh

quốc gia (1988) của Mỹ nhấn mạnh: “Sức mạnh quốc gia của Mỹ được quyết định ở

sức mạnh kinh tế trong nước của chúng ta. Một nền kinh tế ngày càng tăng trưởng,

có tính đàn hồi và có tiềm lực khoa học kỹ thuật là hết sức quan trọng đối với an

ninh quốc gia của chúng ta”. Còn trong bài “Ý tưởng an ninh quốc gia Liên bang

Nga (1999), tác giả khẳng định “tổng thể lợi ích của cá nhân, xã hội và quốc gia

quyết định lợi ích quốc gia của Nga trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nội chính,

quốc tế và thông tin cũng như an ninh quân sự (quốc phòng), biên phòng và sinh

thái, trong đó lợi ích quốc gia trên lĩnh vực kinh tế là chủ yếu nhất”.

Ye Wei-ping (2010), một học giả Trung Quốc khẳng định trong bối cảnh

khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, việc bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia trở nên

đặc biệt quan trọng. Khái niệm an ninh kinh tế quốc gia cần được xem xét lại để có

18

thể thiết lập hệ thống chỉ số đánh giá phù hợp. Bài viết giới thiệu một định nghĩa

mới về an ninh kinh tế quốc gia, phân biệt thuật ngữ này với các thuật ngữ phát

triển kinh tế quốc gia, ổn định nền kinh tế quốc gia và an ninh ngành. Tác giả cũng

đề cập tới khái niệm an ninh kinh tế khu vực bằng cách so sánh, minh hoạ theo cách

tiếp cận của lý thuyết nhà nước, lý thuyết năng lực và lý thuyết quá trình. Tác giả

cũng đề xuất hệ thống chỉ số đánh giá hai cấp độ và hai công thức đo lường an ninh

kinh tế quốc gia dựa trên cách tiếp cận mới về nội hàm của an ninh kinh tế. Tuy

nhiên trong nghiên cứu này, an ninh kinh tế được đề cập đến theo nghĩa hẹp, chủ

yếu bao hàm an ninh trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ.

Sheila R. Ronis và cộng sự (2011) cũng đã cung cấp một số tư liệu có giá trị

tham khảo về chủ đề an ninh kinh tế. Các tác giả phân tích vai trò của yếu tố kinh tế

trong sức mạnh quốc gia và chỉ ra tác động nguy hiểm của mất an ninh kinh tế trên

lĩnh vực nợ công, năng lượng đến an ninh chiến lược quốc gia của Hoa Kỳ. Với

cách tiếp cận theo nghĩa rộng của an ninh quốc gia, bao gồm an ninh kinh tế, chính

trị, xã hội, các tác giả khẳng định việc nghiên cứu về bản chất các hệ thống phức tạp

của an ninh quốc gia cũng như nghiên cứu về an ninh kinh tế có ý nghĩa sống còn

đối với việc duy trì sức mạnh của Hoa Kỳ. Đặc biệt, tác giả cuốn sách cho rằng,

một lực lượng lao động được đào tạo trình độ cao là thành tố quan trọng của an ninh

kinh tế nói riêng và an ninh quốc gia nói chung.

C.R. Neu, Charles Wolf, Jr (1994) đã phân tích khá sâu về an ninh kinh tế

Mỹ dưới góc nhìn của Kinh tế học và Kinh tế thể chế. Các tác giả khẳng định rằng

sự kết thúc của Chiến tranh lạnh và những thay đổi địa-chính trị ngày nay đòi hỏi

xem xét lại các chính sách và lợi ích an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Đặc biệt, đã có sự

thừa nhận rộng rãi về vai trò của các nhân tố kinh tế trong việc xác định và đảm bảo

các mục tiêu an ninh quốc gia. Cuốn sách đã bàn luận về thuật ngữ an ninh kinh tế,

phân tích các nội dung của đảm bảo an ninh kinh tế từ chủ thể định ra luật lệ đến

vai trò của các tác nhân khu vực công và khu vực tư, chỉ ra tác động tiềm tàng của

đầu tư nước ngoài cũng như chính sách kinh tế của các quốc gia khác đến an ninh

kinh tế Hoa Kỳ. Các tác giả cũng dành một chương để tiếp cận về vấn đề đảm bảo

19

an ninh kinh tế Hoa Kỳ theo nghĩa rộng trong quá trình xâm nhập thị trường nước

ngoài, duy trì môi trường tài chính quốc tế ổn định, thúc đẩy các chính sách kinh tế

theo định hướng thị trường và duy trì kết cấu tài chính và thương mại quốc tế. Các

tác giả cũng bàn về tương tác giữa chính sách kinh tế và chính sách an ninh trong

việc duy trì an ninh kinh tế.

Như vậy, có thể thấy chủ đề nghiên cứu về an ninh kinh tế đã thu hút được

sự quan tâm của các học giả nước ngoài. Những nghiên cứu nước ngoài đã tiếp cận

vấn đề này theo phạm vi rộng, hẹp khác nhau.

Ở Việt Nam, Trần Trọng Toàn (2014) đã phân tích về an ninh kinh tế với tư

cách là một bộ phận cấu thành của an ninh quốc gia. Tác giả khẳng định một trong

những nội dung của an ninh kinh tế là phải đảm bảo được việc làm và sự phát triển

cân bằng của các vùng của mỗi nước và giữa các nước trong khu vực. Sự chênh

lệch thái quá trong phát triển kinh tế cũng sẽ dẫn đến bất ổn cho an ninh kinh tế.

Tác giả cũng đã bước đầu khảo cứu kinh nghiệm xử lý vấn đề an ninh kinh tế của

các nước như Mỹ, Trung Quốc, từ đó rút ra những hàm ý cho Việt Nam về đảm bảo

an ninh kinh tế trong tình hình mới. Các hàm ý bao gồm phát huy nội lực và sức

cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động và

tích cực tham gia vào các thể chế hội nhập quốc tế, củng cố hệ thống tài chính –

tiền tệ.

Vũ Quang Minh (2014) đã phân tích về an ninh kinh tế trên hai phương diện:

an ninh cho nền kinh tế quốc dân như một phần của an ninh quốc gia (các khía cạnh

kinh tế của an ninh quốc gia) và kinh tế như một công cụ đảm bảo an ninh quốc gia

(sức mạnh kinh tế, sự phát triển kinh tế). Ở phương diện thứ nhất, nội dung của an

ninh kinh tế bao gồm duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô; đảm bảo cung cấp đều đặn

các đầu vào kinh tế thiết yếu; đảm bảo ổn định an toàn cho hệ thống tài chính tiền tệ

quốc gia; đảm bảo sự phát triển đều giữa các vùng, các khu vực; tăng cường khả

năng cạnh tranh xâm nhập thị trường quốc tế; cải cách, củng cố bộ máy quản lý

kinh tế và nâng cao năng lực cán bộ quản lý kinh tế để có khả năng bảo vệ các lợi

ích kinh tế quốc gia, nhất là trong hợp tác kinh tế quốc tế.

20

Ở phương diện thứ hai, phát triển kinh tế được coi là biện pháp, điều kiện

đảm bảo an ninh quốc gia nói chung. Về cách tiếp cận này, nền kinh tế phát triển đủ

khả năng cung cấp nguồn lực vật chất cho an ninh quốc phòng; có các chương trình

phát triển kinh tế gắn với an ninh quốc phòng; xây dựng các mối quan hệ kinh tế

quốc tế đan xen để gắn lợi ích của các đối tác nước ngoài với lợi ích và ổn định an

ninh quốc gia; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ KTQT để tránh sự phụ thuộc

vào một số đối tác, đề phòng bị thao túng; có chiến lược phát triển ngành, vùng phù

hợp với lợi thế địa-chính trị quốc gia; tham gia tích cực để có tiếng nói bảo vệ

quyền lợi quốc gia trong các định chế kinh tế khu vực, toàn cầu.

1.2.2. Về đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập kinh

tế quốc tế

Miles Kahler (2005) đã chỉ ra tác động của toàn cầu hoá đến các yếu tố nguy

cơ đe doạ an ninh kinh tế các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, dẫn đến

đòi hỏi phải nhận thức lại về khái niệm an ninh kinh tế. Tác động hai mặt của toàn

cầu hoá đến sự phát triển kinh tế và an ninh kinh tế quốc gia cũng được phân tích,

những nguy cơ mới đối với an ninh kinh tế quốc gia như sự phát triển của chủ nghĩa

khủng bố, tác động tiêu cực xuyên biên giới của tình trạng nhập cư trái phép, buôn

lậu, sinh vật ngoại lai xâm hại môi trường, các bệnh dịch truyền nhiễm nguy

hiểm… đến an ninh kinh tế quốc gia được nhấn mạnh. Tác giả cũng bàn về các thể

chế và sự chuẩn bị/đề phòng, ngăn ngừa những nguy cơ gây mất an ninh kinh tế

trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của thể chế quốc

gia trong việc đảm bảo mức độ an ninh cần thiết về kinh tế cho công dân và các chủ

thể kinh tế trong nước. Sự liên thông về thể chế giữa quốc gia với nền kinh tế quốc

tế cũng là một yếu tố trung tâm giúp xác định ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của

đối với tăng trưởng kinh tế và an ninh kinh tế quốc gia.

Phương Hiếu (2005) đã phân tích bối cảnh và những thời cơ, thách thức do

hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho Việt Nam, chỉ ra một số vấn đề cần đảm bảo

21

an ninh cho đất nước trên các lĩnh vực như kinh tế, xã hội, văn hoá, môi trường,

chính trị. Tác giả cho rằng đảm bảo an ninh kinh tế là nhiệm vụ trọng yếu, có nội

dung đa dạng và phạm vi rộng nhất trong năm lĩnh vực nêu trên. Cùng với sự gia

tăng mức độ mở cửa, tự do hoá các hoạt động kinh tế và di chuyển các yếu tố tài

chính, lao động, tư liệu sản xuất, công nghệ, hàng hoá và dịch vụ qua biên giới, sức

ép cạnh tranh sẽ ngày càng lớn đối với các doanh nghiệp nội địa. Sự phá sản doanh

nghiệp do cạnh tranh sẽ kéo theo những hệ quả phức tạp ảnh hưởng đến đời sống

kinh tế quốc gia như thất nghiệp, nợ nần, giảm nguồn thu ngân sách, trì trệ và suy

thoái kinh tế… Những chấn động kinh tế trong nước sẽ mạnh hơn nếu bị cộng

hưởng trực tiếp và gián tiếp với những thăng trầm kinh tế từ các thị trường bên

ngoài, nhất là ở các đối tác lớn có liên quan. An ninh kinh tế còn có thể bị đe doạ

bởi làn sóng tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, lừa đảo kinh tế. Như vậy an

ninh kinh tế quốc gia gắn chặt với năng lực cạnh tranh (trong đó có tiềm lực và sự

lành mạnh tài chính) của doanh nghiệp và quốc gia.

Nguyễn Văn Minh (2007) đã nêu lên mối quan tâm về an ninh kinh tế quốc

gia và nguy cơ đất nước bị mất quyền tự chủ, lệ thuộc vào sự điều khiển bên ngoài

về kinh tế. Tác giả đề cập đến 4 kịch bản chính mô phỏng sự phụ thuộc này. Một là,

nền kinh tế quốc gia có thể bị bên ngoài lũng đoạn, làm rối loạn ở các mức độ khác

nhau mà mức độ cao nhất là phá sản nền kinh tế, chính phủ trở thành “con nợ”,

không có khả năng thanh toán, khi chính phủ tuyên bố phá sản thì toàn bộ tài sản

quốc gia ở nước ngoài sẽ bị phong toả, tài khoản cũng bị đóng băng. Tác giả lấy ví

dụ nước Nga ở thời điểm 14 tháng 8 năm 1998 làm ví dụ điển hình. Hai là, đất nước

bị phong toả về kinh tế ở các mức độ khác nhau, chiêu sách này có thể đặc biệt

nghiêm trọng đối với những quốc gia lệ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu, đặc biệt là

nhập khẩu nguyên, nhiên liệu. Thứ ba, quốc gia bị lệ thuộc về lương thực, sản xuất

nông nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu nội địa, làm không đủ ăn. Kịch bản này đặc

biệt nguy hiểm đối với nước đông dân, và nền nông nghiệp thô sơ kém phát triển.

Thứ tư, quốc gia bị lệ thuộc về công nghệ. Trong một nền kinh tế “hậu công

nghiệp”, “kinh tế tri thức”, khi tri thức trở thành một trong những nguồn lực cơ bản

22

để phát triển, ai nắm giữ được nguồn lực này sẽ chiếm ưu thế vượt trội trong phát

triển. Lệ thuộc nước ngoài về công nghệ cao cũng có thể là nguy cơ mất an ninh

kinh tế. Trên cơ sở các kịch bản này, tác giả phân tích thực trạng nền kinh tế Việt

Nam và một số định hướng phát triển để giảm sự lệ thuộc về kinh tế cũng như giảm

nhẹ tác động của những “cú sốc” bên ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam.

Phạm Quốc Trụ (2014) đã phân tích những động thái quan trọng của tình

hình quốc tế ảnh hưởng đến an ninh kinh tế của các nước như toàn cầu hoá, kinh tế

tri thức, sự thay đổi môi trường quốc tế và sự xuất hiện những vấn đề mang tính

toàn cầu… Bài viết đã chỉ ra những tác động bất lợi của các xu thế trên đối với an

ninh kinh tế của các quốc gia và sự cần thiết đảm bảo an ninh kinh tế trong bối cảnh

hiện nay. Trên cơ sở bối cảnh toàn cầu hoá, kinh tế tri thức và sự cần thiết đảm bảo

an ninh kinh tế, bài viết nêu và phân tích đặc điểm của an ninh kinh tế và những yêu

cầu đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia, đó là: (1) đảm bảo sự phát triển bền vững của

nền kinh tế, tăng khả năng thích ứng và giảm khả năng bị tổn thương của nền kinh

tế trước biến động của tình hình quốc tế; (2) tăng cường năng lực cạnh tranh; (3)

nâng cao trình độ nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của thị trường trong nước và

quốc tế; (4) đổi mới kịp thời các thiết chế kinh tế, chính trị và nâng cao năng lực

quản lý nhà nước về kinh tế phù hợp yêu cầu của toàn cầu hoá và kinh tế tri thức.

Nguyễn Trường Thọ (2015) xem xét vai trò của nhà nước Việt Nam trong

quản lý an ninh quốc gia trên lĩnh vực kinh tế, đặc biệt nhấn mạnh trong bối cảnh

toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, xuất hiện những mối đe doạ mới đối với an ninh

quốc gia xuất phát từ kinh tế và trong kinh tế. Những vấn đề an ninh phi truyền

thống như an ninh tài chính, tiền tệ, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh

lương thực; những đối tượng phi truyền thống như công ty xuyên quốc gia, giới đầu

cơ quốc tế; các loại tội phạm phi truyền thống như tội phạm sử dụng công nghệ cao,

lừa đảo đầu tư, tội phạm kinh tế có tổ chức xuyên quốc gia, đa quốc gia… đã khiến

cho an ninh kinh tế trở thành vấn đề trung tâm của an ninh quốc gia, an ninh khu

vực và an ninh quốc tế trong thế giới đương đại. Những điều này cũng đặt ra yêu

23

cầu cấp bách tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh quốc gia

trên lĩnh vực kinh tế.

Như vậy, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cũng đã tiếp cận

nghiên cứu an ninh kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, bước đầu chỉ ra những yêu

cầu của đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong bối cảnh sự phụ thuộc lẫn nhau

ngày càng tăng giữa các nền kinh tế trên thế giới.

Theo cách tiếp cận mới về yếu tố hợp thành an ninh kinh tế quốc gia trong

thời đại của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế diễn ra sôi động, có thể phân chia các

nghiên cứu về đảm bảo an ninh kinh tế theo những nhóm nội dung khác nhau.

1.2.2.1. Nghiên cứu về đảm bảo an ninh đối với các nguồn lực kinh tế cơ

bản của quốc gia

Xét ở góc độ an ninh của các nguồn lực phát triển kinh tế, các công trình

nghiên cứu đi theo một số hướng như: nghiên cứu về an ninh năng lượng, an ninh

lương thực, an ninh tài nguyên nước.

Những nghiên cứu về an ninh năng lượng

Khái niệm về an ninh năng lượng được bắt đầu đề cập đến từ thập niên 70

của thế kỷ trước, đặc biệt là giai đoạn xảy ra cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973-

1974. Trải qua nhiều tranh luận, khái niệm an ninh năng lượng hiện nay có thể được

hiểu một cách chung nhất đó là “sự đảm bảo đầy đủ năng lượng dưới nhiều dạng

khác nhau, sạch và rẻ” (Hoàng Minh Hằng, 2007). Mặc dù vậy, một số nghiên cứu

cho rằng, khái niệm an ninh năng lượng vẫn còn chưa rõ ràng, và điều này gây khó

khăn cho việc đo lường và đánh giá (Winzer, 2015; Löschel, 2010; Kruyt, 2009).

Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, an ninh năng lượng đang nổi lên như

một vấn đề toàn cầu hết sức bức thiết. Trước hết, an ninh năng lượng là tiền đề để

phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Đó là vì sự đảm bảo về năng lượng sẽ giúp

cho mọi hoạt động của quốc gia ổn định và phát triển. Còn ngược lại, khi năng

lượng có nguy cơ suy giảm thì mọi hoạt động của quốc gia sẽ bị ngừng trệ, dẫn đến

24

nhiều thiệt hại vô cùng nghiêm trọng. (Hoàng Minh Hằng, 2007). An ninh năng

lượng hiện đang trở thành một vấn đề toàn cầu còn do việc thực hiện nó mang tính

chất xuyên quốc gia, đòi hỏi sự tham gia hợp tác của tất cả các quốc gia trên thế

giới.

Nhận biết được tầm quan trọng của an ninh năng lượng, đã có nhiều nghiên

cứu xem xét các khía cạnh và nội dung khác nhau của an ninh năng lượng. Cheng

(2008) đã xem xét cách thức Trung Quốc nhận thức các vấn đề an ninh năng lượng.

Để làm được việc này, nghiên cứu đã đánh giá các tình huống năng lượng của

Trung Quốc và các chương trình chính sách tương ứng, cũng như xem xét các chiến

lược năng lượng tổng thể. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trên một khía cạnh nhất định

Trung Quốc muốn theo cách thức của Nhật Bản trong việc ứng phó với các cuộc

khủng hoảng dầu mỏ quốc tế trong năm 1970, cụ thể nâng cấp cơ cấu công nghiệp,

đưa ra các biện pháp bảo tồn năng lượng, phát triển các nguồn cung cấp năng lượng

mới, và tham gia vào “ngoại giao năng lượng” để đa dạng hóa và đảm bảo nguồn

cung cấp. Coq và Paltseva (2009) đánh giá mức độ an toàn nguồn cung năng lượng

của các nước khối Châu Âu. Các chỉ số được sử dụng để đánh giá bao gồm: sự đa

dạng của nguồn năng lượng nhập khẩu, rủi ro chính trị của quốc gia cung cấp, rủi ro

liên quan đến vận chuyển năng lượng, và các tác động kinh tế làm gián đoạn nguồn

cung.

Sovacool (2011) đã đánh giá an ninh năng lượng của các nước Châu Á - Thái

Bình Dương. Nghiên cứu đã tổng hợp các tiêu chuẩn đánh giá an ninh năng lượng

dựa trên đánh giá của nhóm chuyên gia. Månsson (2014) đã tổng quan các phương

pháp định lượng để đánh giá an ninh năng lượng. Nghiên cứu cũng đã đánh giá ưu

điểm và hạn chế của các phương pháp đã được sử dụng để làm cơ sở cho việc vận

dụng và phát triển các phương pháp này cho các nghiên cứu tiếp theo. Brown và các

cộng sự (2014) đã xem xét các hoạt động an ninh năng lượng của 22 quốc gia trong

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) trong giai đoạn 1970-2010. Bộ chỉ

số đánh giá an ninh năng lượng dựa trên bốn nhóm (với 10 chỉ số đánh giá), bao

gồm: mức độ sẵn có của năng lượng, khả năng chi trả, hiệu quả kinh tế và năng

25

lượng, quản lý môi trường. Bốn quốc gia đã được đưa vào nghiên cứu trường hợp

bao gồm: Anh, Bỉ, Pháp, và Thụy Điển. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, mặc dù đã

có nhiều nỗ lực và cải cách lớn trong chính sách của các nước nhằm hướng tới hiệu

quả năng lượng và môi trường bền vững, an ninh năng lượng của hầu hết các quốc

gia đã bị giảm. Cherp và Jewell (2014) đã cho rằng cần phải mở rộng các chỉ số

đánh giá an ninh năng lượng. Việc sử dụng bộ chỉ số dựa trên bốn nhóm (mức độ

sẵn có của năng lượng, khả năng chi trả, hiệu quả kinh tế và năng lượng, quản lý

môi trường) và các phương pháp liên quan không trả lời đầy đủ được các câu hỏi

liên quan tới an ninh năng lượng. Ren và Sovacool (2014) đã chỉ ra các nhân tố ảnh

hưởng tới an ninh năng lượng của Trung Quốc. Trong nghiên cứu này, phương

pháp thứ bậc (AHP) đã được sử dụng để đánh giá tầm quan trọng của các nhân tố

ảnh hưởng sử dụng biến ngôn ngữ.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu khác nhau liên quan tới an ninh năng lượng

trên thế giới, nhưng số lượng các nghiên cứu liên quan tới an ninh năng lượng của

Việt Nam còn rất hạn chế. Nguyễn Văn Tuấn (2011) trên cơ sở đánh giá tổng quan

về nhu cầu năng lượng của Việt Nam, tác giả đã đưa ra các giải pháp góp phần đảm

bảo an ninh năng lượng. Ngoài ra còn có một số công bố trên các websites của các

cơ quan, tổ chức trong nước như Viện năng lượng, tạp chí điện tử của Viện Đông

Bắc Á...

An ninh lương thực

An ninh lương thực có quan hệ mật thiết với an ninh kinh tế nói riêng và an

ninh quốc gia nói chung. Khi đề cập đến nội hàm của an ninh kinh tế, đa số các học

giả hiện nay đều xác định một trong những bộ phận quan trọng là an ninh lương

thực. Nhiều nghiên cứu về an ninh phi truyền thống và an ninh kinh tế có chung

quan điểm về vai trò của an ninh lương thực, đó là đáp ứng nhu cầu tồn tại của con

người và giảm tỷ lệ đói nghèo trên thế giới, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

và làm tiền đề để ổn định chính trị - xã hội (Tạ Ngọc Tấn và cộng sự, 2015, Nguyễn

Quế Nga, 2009, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 2008).

26

Các nghiên cứu trong và ngoài nước cũng chỉ ra và phân tích nội dung của

đảm bảo an ninh lương thực, bao gồm: (1) Sự sẵn có về lương thực (availability),

khi sản lượng lượng thực, diện tích trồng trọt, các chỉ tiêu về xuất nhập khẩi lương

thực được đảm bảo, tức là đảm bảo nguồn cung lương thực đầy đủ, mọi nơi, mọi

lúc; (2) Sự tiếp cận với lương thực (access), khi lương thực được phân phối, lưu

thông đến tất cả các vùng trong cả nước, và tất cả các nhóm dân cư có thu nhập

hoặc được hỗ trợ để đảm bảo khả năng tiếp cận với lương thực; (3) Sự ổn định của

lương thực (stability), khi cung –cầu lương thực ổn định, giá cả không biến động

mạnh trên thị trường; (4) Sự an toàn của lương thực được sử dụng, thể hiện qua độ

dinh dưỡng, chất lượng và vệ sinh lương thực (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế

trung ương, 2008)

An ninh nguồn nước

Trong lịch sử nhân loại, nước là một nguồn tài nguyên quý giá, quyết định sự

tồn vong và phát triển của xã hội loài người. Trong thế giới hiện đại, do nhiều

nguyên nhân khác nhau, nước đang trong tình trạng khủng hoảng, đe doạ nghiêm

trọng đến sự phát triển bền vững. Lục Trung Vĩ (2005) đã chỉ ra tính chất nghiêm

trọng của tình trạng tài nguyên nước bị khai thác quá độ và sử dụng một cách phi

khoa học, làm cho vấn đề an ninh tài nguyên nước trở thành vấn đề mang tính tổng

hợp, chế ngự sự phát triển kinh tế, chính trị và an ninh quốc gia, trở thành vấn đề

mang tính toàn cầu, ảnh hưởng đén sự sinh tồn và phồn vinh của xã hội loài người.

Cũng nghiên cứu về an ninh tài nguyên nước trong an ninh quốc gia, Wu Hong

Ying (2012) đã phân tích những đặc trưng cơ bản của an ninh tài nguyên nước, hiện

trạng và nguyên nhân đe doạ an ninh tài nguyên nước toàn cầu và khẳng định, nước

hiện đã trở thành tài nguyên khan hiếm, tồn tại sự mất cân bằng nghiêm trọng trong

cung – cầu về nước. Khủng hoảng tài nguyên nước nghiêm trọng nhất là ở các nước

đang phát triển. Tác giả này cũng phân tích ảnh hưởng của an ninh nguồn nước đối

với an ninh quốc gia trên các khía cạnh như: ảnh hưởng đến sự sinh tồn của người

dân, ảnh hưởng đến sản xuất lương thực, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, và là

nguyên nhân của xung đột trong nội bộ quốc gia giữa các vùng, các lĩnh vực kinh

27

tế; an ninh nguồn nước còn trực tiếp ảnh hưởng đến hoà bình và ổn định khu vực

giữa các quốc gia láng giềng cùng chia sẻ nguồn tài nguyên này.

Về biện pháp bảo đảm an ninh tài nguyên nước, nhiều nghiên cứu cùng

chung quan điểm cho rằng, cần nâng cao nhận thức về tính chất hữu hạn của tài

nguyên nước và tầm quan trọng của duy trì an ninh nguồn nước trên các diễn đàn

quốc gia, khu vực và quốc tế; cần thay đổi chính sách sử dụng nước, thắt chặt quản

lý tài nguyên nước và tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất cũng

như trong tiêu dùng để tiết kiệm nước, chống ô nhiễm nước. Thêm vào đó, cần đẩy

mạnh phối hợp giữa các quốc gia láng giềng trong việc cùng khai thác và sử dụng

hợp lý tài nguyên nước (Wu Hong Ying 2012, Tạ Ngọc Tấn và cộng sự, 2015)

1.2.2.2. Nghiên cứu về đảm bảo an ninh tài chính – tiền tệ quốc gia

Nghiên cứu về an ninh tài chính tiền tệ có thể chia thành một số nhóm chính.

Thứ nhất, nhóm báo cáo đánh giá mức độ rủi ro theo các tiêu chí khác nhau đối với

hệ thống tài chính các nước trên thế giới. Các báo cáo này bao gồm Báo cáo phát

triển tài chính toàn cầu năm 2008-2009 (Financial Development Report 2008-2009)

của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), và Báo cáo định kỳ về Ổn định tài chính toàn

cầu (Global Financial Stability Report) của Qũy Tiền tệ quốc tế (IMF), và hệ thống

chỉ số ổn định tài chính. Đây là hệ thống các chỉ số được xây dựng toàn cầu, tạo khả

năng so sánh cũng như chỉ ra những điểm yếu kém và điểm mạnh của hầu hết các

nước trên thế giới, tạo điều kiện để các nước có thể có các nhóm giải pháp phù hợp

để ổn định hóa và đảm bảo an ninh tài chính – tiền tệ cho nền kinh tế. Tuy vậy, do

tính chất toàn cầu nên nhiều chỉ số còn có phạm vi khá rộng, thiếu cụ thể để từng

nước xác định được các lĩnh vực, nội dung cần ưu tiên xử lý. Hơn nữa, một số chỉ

số có thể không hoàn toàn phù hợp ở một số quốc gia.

Thứ hai, nhóm nghiên cứu tập trung vào việc làm rõ bản chất, nguyên nhân

sâu xa của các bất ổn tài chính nói chung và khủng hoảng tài chính – tiền tệ nói

riêng.Có hàng loạt nghiên cứu đã hệ thống các mô hình khủng hoảng tài chính –

tiền tệ và chỉ ra các nguyên nhân cốt lõi gây ra các cuộc khủng hoảng trong vòng

28

vài thập niên gần đây. Một số nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này là của Ngân

hàng Phát triển châu Á (ADB 2005), Cho (2002), Delhaise (1998), Ito (2001),

McKibbin và Martin (1999), Nabi và Shivakumar (2001), Obstfeld (1994),

Pomerleano (1998)...

Thứ ba, nhóm nghiên cứu phân tích các vấn đề của khủng hoảng tài chính –

tiền tệ gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là hội nhập trên phương

diện tài chính. Rõ ràng, hội nhập tài chính là một nội dung đặc biệt quan trọng,

thậm chí nhạy cảm, do có nhiều phương diện liên quan, như tự do hóa dịch vụ, mở

cửa tài khoản vốn và kiểm soát dòng vốn, v.v. Park và Bae (2002) đã chỉ ra một

quan ngại rằng hội nhập tài chính có thể không giúp cải thiện hiệu quả và khả năng

cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng ở Đông Á, trái với các kỳ vọng về quá trình học

hỏi và tiếp thu các công nghệ tài chính mới và tinh vi. Điều này là do chênh lệch

quá lớn về công nghệ và chuyên môn tài chính giữa các nền kinh tế mới nổi ở Đông

Á và các nước phát triển, trong khi quá trình xây dựng hạ tầng pháp lý, quy định

điều tiết và tài chính lại quá tốn kém và đòi hỏi nhiều thời gian. Kết quả là các nền

kinh tế mới nổi ở châu Á có thể rơi vào bẫy dịch vụ ngân hàng công nghệ thấp,

trong khi các dịch vụ tài chính hiện đại và tinh vi hơn vẫn bị chiếm lĩnh bởi các

định chế tài chính nước ngoài. Trong khi đó, hệ thống giám sát các định chế tài

chính nước ngoài còn rất nhiều bất cập. Thực tế là nhận định này cho đến nay đã tỏ

ra khá đúng đắn ở nhiều nền kinh tế mới nổi ở châu Á. Tuy vậy, vấn đề được cho là

có thể ít nghiêm trọng hơn nếu hệ thống tài chính toàn cầu hiệu quả và ổn định hơn,

bởi khi ấy các nền kinh tế mới nổi sẽ có điều kiện tốt hơn để chống chọi với cả các

cú sốc bên trong và bên ngoài.

Thứ tư, nhóm nghiên cứu xây dựng các mô hình phát hiện rủi ro và cảnh báo

sớm khủng hoảng. Nghiên cứu tiêu biểu nhất là của Kaminsky, Lidonzo và Reinhart

(1997), bên cạnh nhiều nghiên cứu và mô hình ứng dụng nội bộ của nhiều tổ chức

khác. Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích thực nghiệm các cuộc khủng

hoảng tiền tệ và đề xuất một mô hình cảnh báo sớm các cuộc khủng hoảng này.

Theo đó, cách tiếp cận là theo dõi một loạt các chỉ số thường có những biến động

29

mạnh và/hoặc bất thường trong giai đoạn trước khi xảy ra khủng hoảng. Cụ thể, khi

một hoặc nhiều chỉ số trong nhóm này biến động mạnh vượt một “ngưỡng” nào đó,

tín hiệu ở đây là cuộc khủng hoảng tiền tệ có thể xảy ra trong một khoảng thời gian

định trước (trong vòng 24 tháng). Các chỉ số quan trọng nhất là xuất khẩu, độ lệch

của tỷ giá thực so với xu thế, tỷ trọng của tiền lớn so với dự trữ ngoại hối, sản

lượng, và giá cổ phiếu. Cách tiếp cận này cũng phần nào được sử dụng trong các

nghiên cứu trước đó (chẳng hạn như Kaminsky và Reinhard 1996) song đã được

hoàn thiện hơn và đặt nền tảng cho việc áp dụng phương pháp phi tham số này cho

dự báo khủng hoảng tiền tệ trong các nghiên cứu tiếp theo.

Có một số nghiên cứu tại Việt nam liên quan trực tiếp đến vấn đề an ninh tài

chính tiền tệ. Nghiên cứu của Tào Hữu Phùng và các cộng sự (2003) đã tổng hợp

một số vấn đề lý luận về an ninh tài chính, đánh giá thực trạng an ninh tài chính ở

Việt Nam và các biện pháp chính sách bảo đảm an ninh tài chính Việt Nam trong

bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Công trình nghiên cứu của Lê Xuân Nghĩa (2005)

đã đưa ra các chỉ số hàng đầu trong dự báo khủng hoảng tiền tệ, đồng thời đề xuất

một số giải pháp nhằm thiết lập hệ thống chỉ tiêu cảnh báo và xây dựng hệ thống

cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây là những

nghiên cứu được thực hiện trong bối cảnh kinh tế, tài chính trong nước và quốc tế

khi đó tương đối ổn định, đồng thời khi đó Việt Nam chưa gia nhập WTO, mức độ

tự do hóa tài chính trong nước và quốc tế còn rất hạn chế. Chính vì vậy, các vấn đề

lý luận về khủng hoảng tài chính – tiền tệ (kinh tế học về khủng hoảng), nguyên

nhân, tác động chưa được đặt ra một cách có hệ thống và tường minh. Bên cạnh đó,

trong nghiên cứu của Tào Hữu Phùng và đồng sự, các tiêu chí đánh giá an ninh tài

chính cũng chỉ được đánh giá một cách tĩnh, mang tính truyền thống mà chưa xét

đến bối cảnh động và tính đan xen trong phát triển của các định chế tài chính và các

công cụ tài chính trên thị trường. Cuối cùng, các vấn đề/chủ thuyết về ổn định tài

chính (financial stability) cũng không được phân tích sâu, nhất là khi nội hàm, bản

chất và tiêu chí đánh giá ổn định tài chính thay đổi theo thời gian.

30

Nghiên cứu của Võ Trí Thành và Lê Xuân Sang (đồng chủ biên) (2004) đã

đưa ra một khung khổ lý luận toàn diện, tổng thể về phát triển TTTC, đánh giá thực

trạng và hạn chế của các thị trường cấu thành (ngoại trừ một số thị trường phi chính

thức), đồng thời đề xuất một hệ thống quan điểm về phát triển TTTC và biện pháp

chính sách nhằm hoàn thiện TTTC Việt Nam. Nghiên cứu của Võ Trí Thành và các

cộng sự (2003) cũng đã đưa ra một hệ thống đánh giá một số chỉ số dễ bị tổn

thương của hệ thống tài chính cũng như cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.

Võ Trí Thành và các cộng sự (2007) cũng đã đánh giá một cách tổng thể trên bình

diện khu vực Đông, Đông Nam Á các nhân tố rủi ro tài chính hay khả năng dễ bị

tổn thương của thị trường tài chính của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia

(trong hệ thống tài chính và các yếu kém vĩ mô khác), đồng thời đề xuất một hệ

thống giải pháp nhằm lành mạnh hoá TTTC và ngăn ngừa một cuộc khủng hoảng

tài chính – tiền tệ khác có thể xảy ra ở khu vực. Đặc biệt, trong bối cảnh khủng

hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, APF (2000 và 2009) và Võ Trí Thành (2009) đã

đưa ra một hệ thống giải pháp chính sách và các vấn đề có tính nguyên tắc đối phó

khủng hoảng trong bối cảnh tự do hóa tài chính, đặc biệt là đối với các nước trong

khu vực Đông Á.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng (2004) đề cập đến một số những rủi ro

tiềm ẩn đối với sự ổn định cán cân thanh toán liên quan đến quá trình tự do hoá các

giao dịch vốn. Công trình cũng đề xuất cách thức quản lý cán cân vốn như: cần điều

chỉnh cơ cấu thu hút vốn nước ngoài theo hướng hạn chế vay nợ nước ngoài tăng

luồng vốn FDI; cần một định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lý

hơn để cải thiện cán cân thương mại như thu hút đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất

hàng chế biến xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành sản

xuất hàng chế tạo xuất khẩu tận dụng nhiều lao động trong nước hơn là sử dụng

nhiều vốn để hạn chế nhập khẩu; mở rộng tiếp cận vốn vay của NHTM trong nước

nhằm hạn chế vay nợ nước ngoài của các danh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; giám sát chặt chẽ sự chu chuyển của luồng

31

vốn và nghiên cứu các giải pháp đối phó với sự biến động của luồng vốn, đặc biệt là

các giải pháp từ phía chính sách tiền tệ.

Gần đây nhất, tháng 5 và tháng 7 năm 2015, Trường Đại học Kinh tế Quốc

dân Hà Nội đã tổ chức hai cuộc hội thảo khoa học quốc gia trong khuôn khổ của đề

tài cấp nhà nước KX01.15/11-15 về chủ đề “An ninh tài chính tiền tệ Việt Nam

trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế” tại Hà Nội và thành phố

Hồ Chí Minh. Kỷ yếu của Hội thảo tập trung nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu

tài chính, tiền tệ, nhà hoạch định chính sách và giảng viên các trường đại học khối

ngành kinh tế tại Việt Nam. Các bài viết, báo cáo trong kỷ yếu Hội thảo tập trung

làm rõ thực trạng hoạt động của hệ thống tài chính nói chung và đánh giá tác động

đến an ninh tài chính tiền tệ Việt Nam; Đánh giá rủi ro và an ninh tài chính tại các

định chế tài chính, đặc biệt là các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm; Đánh

giá rủi ro và an ninh tài chính tại các thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường cổ

phiếu và trái phiếu; Tác động của hội nhập quốc tế (gia nhập AEC, Hiệp định

TPP...) đến ổn định tài chính của Việt Nam trong giai đoạn sắp tới; Đánh giá hệ

thống giám sát tài chính tại Việt Nam; Đưa ra hệ thống giải pháp và khuyến nghị

nhằm tăng cường an ninh tài chính tiền tệ quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá.

1.2.2.3. Những nghiên cứu về phòng chống các loại tội phạm gây bất ổn

an ninh kinh tế quốc gia

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm gây bất ổn an ninh kinh tế

quốc gia và xuyên quốc gia có những diễn biến phức tạp và khó lường đặt ra nhiệm

vụ nặng nề cho các cơ quan chức năng trong việc phòng ngừa và xử lý. Phạm Quý

Ngọ (2011) nhận diện các loại tội phạm gây bất ổn an ninh kinh tế quốc gia bao

gồm tội phạm xản xuất, buôn bán tiền giả, hàng giả, gian lận thương mại, buôn lậu,

lừa đảo kinh tế, trốn thuế, chiếm đoạt tài sản… với đối tượng là cả người Việt Nam,

người nước ngoài gây ra ở Việt Nam. So với các loại tội phạm kinh tế truyền thống

trước đây, tội phạm chủ yếu lợi dụng kẽ hở của luật pháp, quy định của Việt Nam

32

trong quản lý kinh tế, những hạn chế trong công tác quản lý của các lực lượng chức

năng thì hiện nay, tính chất khó khăn phức tạp trong việc đối phó với loại hình tội

phạm này thể hiện ở chỗ các đối tượng phạm tội đã tận dụng được các phương tiện

công nghệ cao, tinh vi như tấn công vào trang điện tử của các doanh nghiệp, cơ sở

tài chính, ăn cắp thông tin bảo mật, trộm cắp tiền qua ngân hàng bằng thiết bị công

nghệ cao, trộm cắp phí viễn thông… Nhiều nghiên cứu thống nhất nhận định đặc

điểm đối tượng phạm các tội về kinh tế sử dụng công nghệ cao là những người

thông minh, có tri thức và am hiểu về công nghệ mới, có kỹ năng khai thác và sử

dụng thành thạo máy tính và công nghệ kỹ thuật số. Về hâu quả, tội phạm kinh tế

truyền thống hay tội phạm kinh tế sử dụng công nghệ cao gây ra thường hết sức

nặng nề. Khi các hoạt động quản lý kinh tế, xã hội được máy tính hoá, hệ thống

mạng, hệ thống thông tin được phổ biến rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực thì hậu

quả của loại tội phạm này sẽ nhanh chóng ảnh hưởng tới an ninh kinh tế quốc gia

(Trần Văn Hoà, 2011; Tạ Ngọc Tấn và cộng sự, 2015). Để phòng chống loại tội

phạm này cần hoàn thiện hệ thống luật pháp, tăng cường cảnh báo cho người dân,

tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực và nâng cao năng lực, trình

độ kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác phòng chống tội phạm kinh tế

(Trần Văn Hoà, 2011).

1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu đi trước đã cung cấp nguồn tài liệu quý cho tác

giả trong việc triển khai đề tài luận án này. Về cơ bản, khái niệm an ninh kinh tế và

đảm bảo an ninh kinh tế tuy chưa thống nhất nhưng đều có điểm chung coi an ninh

kinh tế là một khía cạnh của an ninh quốc gia, xếp an ninh kinh tế vào nhóm các

vấn đề an ninh phi truyền thống. Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra những ảnh hưởng

to lớn của quá trình toàn cầu hoá tới an ninh kinh tế quốc gia, khu vực và thế giới.

Những nội dung của đảm bảo an ninh kinh tế cũng đã được đề cập đến trên những

giác độ khác nhau, đặc biệt, vấn đề đảm bảo an ninh đối với các nguồn lực kinh tế

33

cơ bản của quốc gia và đảm bảo an ninh tài chính, tiền tệ trong bối cảnh toàn cầu

hoá đã được phân tích khá sâu sắc trong một số công trình đi trước. Tuy nhiên, còn

nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần tiếp tục quan tâm nghiên cứu để có lời giải

thoả đáng. Có thể chỉ ra một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu như sau:

1.3.1. Về nghiên cứu lý thuyết

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến nội hàm của khái niệm an ninh

kinh tế với tư cách là một thành tố của an ninh quốc gia, hay là một kiểu an ninh

của thời đại mới: an ninh phi truyền thống, tuy nhiên, cũng cần làm rõ hơn nội hàm

của khái niệm an ninh kinh tế và đặc điểm của an ninh kinh tế quốc gia trong bối

cảnh hội nhập kinh tế quốc tế dưới góc độ kinh tế chính trị;

Trong bối cảnh mới của toàn cầu hoá và hội nhập trong thế kỷ XXI, cần làm

rõ khung lý thuyết về các nội dung đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia và vai trò của

nhà nước đối với đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Đồng thời, cần làm rõ các yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến việc đảm

bảo an ninh kinh tế quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế. Cần xem xét nhìn nhận

đúng những tác động bên ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia và những tác động từ bối

cảnh khách quan cũng như những yếu tố nội tại của nền kinh tế, của xã hội, của văn

hoá, tập quán truyền thống… và của bộ máy quản lý nhà nước tới việc đảm bảo an

ninh kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó, về lý luận cũng cần chỉ ra những điều kiện cần

thiết để đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Trên cơ sở phân tích các nội dung của an ninh kinh tế và đảm bảo an ninh

kinh tế, cần đề xuất được các tiêu chí đánh giá đảm bảo an ninh kinh tế trong quá

trình hội nhập. Đây là những vấn đề mang tính lý luận làm căn cứ lý thuyết cho các

phân tích về thực trạng đảm bảo an ninh kinh tế của Việt Nam trong quá trình hội

nhập vừa qua.

1.3.2. Về nghiên cứu thực tiễn

34

Mặc dù một số nghiên cứu đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau về quan

niệm cũng như hình thức biểu hiện của đảm bảo an ninh kinh tế ở một số quốc gia,

đặc biệt là các nước phát triển, tuy vậy cần khảo cứu sâu hơn kinh nghiệm của các

quốc gia (phát triển và đang phát triển) về đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình

hội nhập, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm (thành công/chưa thành công) có

thể tham khảo cho Việt Nam.

Đối với Việt Nam, cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào phân tích sâu

sắc và toàn diện về các khía cạnh và nội dung của việc đảm bảo an ninh kinh tế

quốc gia trong thời kỳ hội nhập, do đó, nghiên cứu này cần phân tích thực trạng và

đánh giá kết quả của công tác đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập của

Việt Nam giai đoạn 2007 – 2015 theo bộ tiêu chí đánh giá đã được lựa chọn ở

khung lý thuyết, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp để làm tốt hơn công tác đảm bảo an

ninh kinh tế của Việt Nam cho giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế tiếp theo.

Kết luận chương 1

An ninh quốc gia nói chung, an ninh kinh tế nói riêng là vấn đề lớn, thu hút

sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước trong thời gian

dài, kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Các nghiên cứu về an ninh quốc gia đã

được tiếp cận theo kiểu từ truyền thống đến hiện đại, đặc biệt nổi bật là các công

trình tiếp cận theo hướng hiện đại về an ninh quốc gia từ sau khi Chiến tranh lạnh

kết thúc. Về chủ đề an ninh kinh tế - một bộ phận cấu thành của an ninh quốc gia,

các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã tiếp cận nghiên cứu trong bối

cảnh toàn cầu hoá, bước đầu chỉ ra những yêu cầu của đảm bảo an ninh kinh tế quốc

gia trong bối cảnh sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế trên

thế giới.

Những kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước là nguồn tài liệu tham

khảo quý cho tác giả trong quá trình triển khai hướng nghiên cứu tiếp theo về đảm bảo

an ninh kinh tế của Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở những chương

35

tiếp theo của luận án này. Những nhiệm vụ nghiên cứu tiếp theo về khung lý thuyết

cũng như phân tích thực tiễn và đề xuất giải pháp đảm bảo an ninh kinh tế cho Việt

Nam trong bối cảnh hội nhập sẽ được tiếp tục luận giải ở phần tiếp theo của luận án.

36

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ

TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

2.1. Những vấn đề chung về hội nhập kinh tế quốc tế

2.1.1.1. Các khái niệm cơ bản

2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hội nhập kinh tế quốc tế

Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng

nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration

internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực

chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu

Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự

hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến

tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.

Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về

khái niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:

Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho

rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản

phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ.

Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới các

khía cạnh luật định và thể chế.

Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước

hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương

mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các

cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an

ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an ninh

37

đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập

vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.

Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi

các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân

công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo

đuổi.

Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ

khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham

gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác.

Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội

nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập

kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế

quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết

kinh tế quốc tế” và“nhất thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được

sử dụng để chỉ cùng một khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic

integration”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và

lịch sử khác nhau. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu

trong bối cảnh hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng

Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.

Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối

với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội nhập

quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét

hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận

động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu là quá

trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên

sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt

chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ

chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp

ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế

38

vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật

cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành

nên và củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan

hệ quốc tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: (i) hoặc là một tổ

chức liên chính phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định

đoạt chính sách, chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), (ii) hoặc là

một tổ chức siêu quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một

cơ cấu siêu quốc gia, hình thái này có thể giống như mô hình nhà nước liên bang,

chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…), (iii) hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình

thái trên (các thành viên trao một phần chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu

quốc gia và vẫn giữ một phần chủ quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp

EU hiện nay).

Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của

quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các

cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực

2.1.1.2. Các cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế

lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước

với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh

tế theo những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu

vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo

nhiều mức độ, tương ứng là từ mức độ 1, ký hiệp định song phương đến mức độ 2

– tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực, mức độ 3 – tham gia vào

các diễn đàn cấp khu vực hoặc thế giới nói chung, và mức độ 4 – tham gia vào tổ

chức thương mại tự do toàn cầu (WTO). Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội

nhập kinh tế được chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau:

39

(i) Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành cho

nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn hạn chế về

phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và mức độ cắt

giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (2001),

Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các ví dụ cụ thể của mô hình liên kết kinh tế ở

giai đoạn thấp nhất.

(ii) Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc cắt

giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể bao

gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại hàng hóa

nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các nước ngoài

khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc

Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Những năm gần đây,

phần lớn các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực điều tiết rộng hơn nhiều.

Ngoài lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này còn có những quy định tự do hóa đối

với nhiều lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ…

Ví dụ: Hiệp định FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp định Đối tác

xuyên Thái Bình dương (TPP).

(iii) Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại

bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế

quan chung đối với các nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và Liên minh

thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.

(iv) Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế

quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách thuế

quan chung đối với ngoài khối, các thành viên còn phải xóa bỏ các hạn chế đối với

việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác (vốn, lao động…) để tạo thành một

nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh châu Âu đã trải qua giai đoạn xây

dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu) trước khi trở thành một liên

minh kinh tế.

40

(v) Liên minh kinh tế-tiền tệ: Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao

nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung/duy nhất cộng thêm với việc thực hiện

chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân hàng trung ương

thống nhất của khối).

Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập, nhiều cấp

độ và mức độ hội nhập với tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên,

về cơ bản phải trải qua các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn

chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng

đồng Kinh tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và

liên minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng hết

sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc

biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên thúc đẩy giống

2.1.1.3. Lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế

như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Mỗi quốc gia dù ở trình độ phát triển nào cũng tìm thấy lợi ích cho mình khi

tham gia hội nhập quốc tế. Những lợi ích chủ yếu của hội nhập quốc tế mà các nước

có thể tận dụng được bao gồm:

Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương

mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển

kinh tế - xã hội.

Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải

thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh

của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng

thu hút đầu tư vào nền kinh tế.

Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học

công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các

41

nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển

giao công nghệ từ các nước tiên tiến.

Thứ tư, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm

hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh;

được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát

triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.

Thứ năm, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích

hợp trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả

năng duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.

Thứ sáu, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các

nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và

nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và

thế giới.

2.1.2. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia kể từ sau Chiến

tranh thế giới thứ hai

Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị

trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là động

lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc

tế nói chung. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là từ khi chấm dứt Chiến

tranh lạnh, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thế giới nhờ

hàng loạt tiến bộ nhanh chóng về khoa học-công nghệ, xu thế hòa bình-hợp tác, nỗ

lực tự do hóa-mở cửa của các nước đã thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trên

nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong kinh tế, phát triển rất nhanh và trở thành một xu thế

lớn của quan hệ quốc tế hiện đại. Quá trình này diễn ra trên nhiều cấp độ: song

phương, đa phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Mức độ hội nhập

cũng ngày một sâu sắc hơn, bao quát toàn diện hơn. Hầu hết mọi nước trên thế giới

đã và đang tích cực tham gia vào quá trình này.

42

Rõ ràng, hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn và một đặc trưng quan

trọng của thế giới hiện nay. Không ít người khẳng định rằng chúng ta đang sống

trong thời đại toàn cầu hóa. Nói một cách khác, thời đại hội nhập toàn cầu. Xu thế

này chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi to lớn cấu trúc của hệ thống

thế giới cũng như bản thân các chủ thể và mối quan hệ giữa chúng. Khẳng định hội

nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng thời chỉ ra con đường

phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham

gia hội nhập quốc tế.

Trên cấp độ toàn cầu, ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Hiệp Quốc

và hàng loạt các tổ chức chuyên môn của Liên Hiệp Quốc, trong đó gồm nhiều thiết

chế thuộc hệ thống Bretton Woods (đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng

Thế giới), ra đời với số lượng thành viên gia nhập ngày một nhiều hơn, bao quát

hầu hết các nước trên thế giới. Đây là một tổ chức hợp tác toàn diện, bao quát hầu

hết mọi lĩnh vực và có quy mô toàn cầu. Trong một số lĩnh vực, Liên hiệp quốc đã

có sự phát triển vượt lên trên sự hợp tác thông thường và có thể nói đã đạt đến trình

độ ban đầu của hội nhập (lĩnh vực chính trị-an ninh, lĩnh vực nhân quyền, lĩnh vực

tài chính).

Trong lĩnh vực thương mại, tiến trình hội nhập toàn cầu được thúc đẩy với

việc ra đời của một định chế đa phương đặc biệt quan trọng, đó Hiệp định chung về

Thương mại và Thuế quan (GATT), sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương mại

Thế giới (WTO) kể từ năm 1995. Hiện nay, 153 quốc gia và vùng lãnh thổ đã tham

gia với tư cách thành viên chính thức của Tổ chức này, khoảng 30 quốc gia khác

đang trong quá trình đàm phán gia nhập. Trong hơn một thập kỷ qua, WTO đã phát

triển mạnh mẽ hệ thống “luật chơi” về thương mại quốc tế, bao quát hầu hết các

lĩnh vực của quan hệ kinh tế giữa các thành viên như hàng hóa, dich vụ, nông

nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt may, hàng rào kỹ thuật, đầu tư, sở hữu trí tuệ,

chống bán phá giá, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện pháp tự vệ, xác

định giá trị tính thuế hải quan, giám định hàng hóa, quy tắc xuất xứ, quy tắc và thủ

tục giải quyết tranh chấp… Các quy định cơ bản của WTO trở thành nền tảng của

43

tất cả các thỏa thuận kinh tế khu vực hay song phương trên thế giới hiện nay. Vòng

đàm phán Đô-ha, bắt đầu từ hơn mười năm trước, đang tiếp tục mở rộng và củng cố

các quy định của WTO theo hướng tự do hóa hơn nữa.

Bên cạnh các cấp độ toàn cầu và khu vực, quá trình hội nhập giữa các nước

còn được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng hiệp ước liên

minh (chính trị, an ninh, quốc phòng), hiệp định đối tác toàn diện, hiệp định đối tác

chiến lược, hiệp định kinh tế-thương mại (BFTA, BCU…). Từ cuối thập niên 1990

trở lại đây, xu hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch

tự do (BFTA) phát triển đặc biệt mạnh mẽ. Hầu hết các nước đều đã ký hoặc đang

trong quá trình đàm phán các BFTA. Thậm chí, có nước hiện đã ký hoặc đàm phán

tới hàng chục hiệp định BFTA (Singapore, Thái Lan, Nhật, Úc…). Điều này được

lý giải chủ yếu bởi bế tắc của vòng đàm phán Đôha và những ưu thế của BFTA so

với các hiệp định đa phương (dễ đàm phán và nhanh đạt được hơn; việc thực hiện

cũng thuận lợi hơn).

Về phạm vi lĩnh vực và mức độ hội nhập, xem xét các thỏa thuận liên kết

khu vực và song phương trong thời gian gần đây, có thể thấy rất rõ rằng các lĩnh

vực hội nhập ngày càng được mở rộng hơn. Bên cạnh xu hướng đẩy mạnh hội nhập

kinh tế, các nước cũng quan tâm thúc đẩy hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt

là chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội. Tiến trình hội nhập toàn diện trong EU đã

đạt đến mức cao, biến tổ chức này trở thành một thực thể gần giống như một nhà

nước liên bang. ASEAN cũng đang tiến hành mở rộng và làm sâu sắc tiến trình hội

nhập khu vực một cách toàn diện hơn thông qua xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa

trên ba trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn

hóa - Xã hội. Hàng loạt các hiệp định đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược song

phương được ký kết gần đây bao quát khá toàn diện các lĩnh vực hợp tác và liên kết

giữa các bên. Nếu chỉ xét riêng về mặt kinh tế, thì các thỏa thuận gần đây, chẳng

hạn như Hiệp định Mậu dịch tự do ASEAN - Úc – Newzeland, Hiệp định Mậu dịch

tự do Mỹ- Singapore, Hiệp định Mậu dịch tự do Hàn Quốc - Singapore, Hiệp định

Mậu dịch tự do Nhật-Singapore, chứa đựng hầu hết các lĩnh vực và do vậy vượt xa

44

so với các hiệp định FTA truyền thống. Nhìn chung, các hiệp định FTA mới toàn

diện hơn và bao hàm cả những lĩnh vực “nhạy cảm” (ví dụ như mua sắm chính phủ,

cạnh tranh, lao động, môi trường, hàng rào kỹ thuật) thường không được đề cập

trong hầu hết các hiệp định FTA ký trước đây. Bên cạnh đó, các hiệp định FTA mới

đưa ra các quy định về tự do hóa triệt để hơn, thể hiện mức độ hội nhập cao hơn. Ví

dụ, trong lĩnh vực hàng hóa, cắt giảm thuế quan mạnh hơn và sớm đưa về 0%, hạn

chế tối đa số lượng các sản phẩm loại trừ.

2.2. Đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

2.2.1.1. An ninh kinh tế

2.2.1. Các khái niệm cơ bản

Thuật ngữ an ninh kinh tế là một thuật ngữ tương đối mới, xuất hiện trong

vài thập kỷ trở lại đây. Tuy nhiên, nội dung và bản chất của an ninh kinh tế không

phải là quá mới mẻ. An ninh kinh tế là một bộ phận cấu thành của an ninh quốc gia,

bên cạnh các yếu tố an ninh chính trị, quân sự… Thực tế cho thấy, tuỳ thuộc vào

bối cảnh lịch sử, giai đoạn phát triển mà một quốc gia đặt nặng trọng tâm vào khía

cạnh quân sự, chính trị hoặc kinh tế của an ninh quốc gia. Trong thời kỳ chiến tranh

lạnh, khía cạnh quân sự, chính trị được nhấn mạnh. Sau khi Chiến tranh lạnh kết

thúc, an ninh kinh tế trở thành trọng tâm trong chiến lược an ninh quốc gia của

nhiều nước trên thế giới.

Trên thế giới hiện nay, vai trò quan trọng của an ninh kinh tế trong chiến

lược an ninh quốc gia đã được thừa nhận, nhưng nội hàm của an ninh kinh tế vẫn

chưa có sự thống nhất. Căn cứ vào đặc thù quốc nội và mục tiêu chiến lược an ninh

quốc gia trong các giai đoạn phát triển khác nhau, các quốc gia có cách nhìn khác

nhau về an ninh kinh tế. Có nhiều cách tiếp cận theo những phạm vi khác nhau của

khái niệm an ninh kinh tế. Theo học giả Trung Quốc Ye (2010), an ninh kinh tế

quốc gia là trạng thái không có hoặc có ít nguy cơ đe doạ các lợi ích kinh tế chiến

45

lược của quốc gia, trong đó không có tác hại nghiêm trọng gây ra cho các chính

sách kinh tế cơ bản và chủ quyền kinh tế quốc gia, những nhân tố có thể gây ra

khủng hoảng tài chính nằm trong tầm kiểm soát.

Còn theo các học giả Mỹ, an ninh kinh tế là khả năng bảo vệ hoặc thúc đẩy

các lợi ích kinh tế của Mỹ khi phải đối mặt với các sự kiện hoặc những hành động

có khả năng đe doạ hoặc cản trở những lợi ích đó. Những thách thức hoặc cản trở

đó có thể có nguồn gốc từ nước ngoài hoặc trong nước, vô tình hay có chủ ý, do con

người hoặc do lực lượng tự nhiên. Ngoài ra, an ninh kinh tế còn phụ thuộc vào khả

năng của Hoa Kỳ trong việc định hình môi trường kinh tế quốc tế theo ý muốn, ví

dụ như thông qua việc đóng vai trò chính trong việc thiết lập các quy định điều tiết

các quan hệ kinh tế quốc tế và bằng cách sử dụng các phương tiện kinh tế để gây

ảnh hưởng đến chính sách (kinh tế và các loại khác) của các nước khác. An ninh

kinh tế cũng đòi hỏi phải sở hữu các nguồn lực vật chất để đối phó với các khó khăn

phi kinh tế. Tất nhiên, sự thịnh vượng về kinh tế, như vẫn thường được định nghĩa:

tăng trưởng kinh tế, toàn dụng nhân công, lạm phát thấp, đầu tư cao, tăng năng suất

lao động… cũng sẽ góp phần vào an ninh kinh tế. Nhưng an ninh kinh tế cũng đòi

hỏi nhiều hơn là tối đa hoá sự phồn vinh kinh tế hiện tại. Mục tiêu của an ninh kinh

tế là giảm sự bất định trong quá trình tiếp tục phát triển hướng tới giàu mạnh. Đôi

khi, sẽ là thông minh khi hy sinh một vài lợi ích kinh tế hiện tại để đổi lấy lợi ích ổn

định hơn, chắc chắn hơn, hoặc ít mất mát hơn trong tương lai (C.R. Neu, Charles

Wolf, Jr, 1994). Có thể thấy Mỹ đưa ra quan niệm an ninh kinh tế trên cơ sở kinh tế

thị trường tự do, mậu dịch tự do.

Các học giả Nga coi trọng quan niệm an ninh kinh tế trên cơ sở nhấn mạnh

địa vị của quốc gia đang phục hồi nhanh chóng, tái ổn định tình hình trong nước,

giảm và tránh những ảnh hưởng nước ngoài, đề phòng các nguy cơ và chấn hưng

kinh tế. Nhật Bản đề cao quan niệm an ninh kinh tế cùng ứng phó, duy trì an ninh

kinh tế bằng việc giải quyết tốt mâu thuẫn “nước nghèo tài nguyên” với “nước lớn

về kinh tế”. Quan niệm của các nước thuộc liên minh châu Âu lại nhấn mạnh việc

xây dựng một thị trường thống nhất, mở rộng và tăng cường các thành viên, xây

46

dựng thể chế kinh tế chung đồng thời dựa vào kinh tế tri thức để thúc đẩy sự phát

triển năng động của các nền kinh tế thành viên liên minh (Tạ Ngọc Tấn và cộng sự,

2015).

Các học giả Việt Nam cũng đề cập đến khái niệm an ninh kinh tế trong các

nghiên cứu của mình. Theo Văn Quang (2003), an ninh kinh tế được hiểu là năng

lực của một nước chống lại sự tấn công, xâm nhập và tác động về kinh tế do các lực

lượng kinh tế bên ngoài gây nên. An ninh kinh tế là môi trường trong nước và quốc

tế giữ được trạng thái bình yên, tạo điều kiện cho hệ thống kinh tế quốc gia phát

triển liên tục, bền vững và an toàn. Theo cách hiểu này, an ninh kinh tế chủ yếu

được xem xét theo nghĩa hẹp, chú trọng nhiều tới việc đối phó với những nguy cơ

gây mất an ninh kinh tế đến từ bên ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia. Phạm Quốc

Trụ (2001) cho rằng, an ninh kinh tế là bộ phận hữu cơ của an ninh quốc gia, có nội

dung chủ yếu là đảm bảo nền kinh tế quốc gia phát triển một cách bền vững, đáp

ứng ngày càng cao nhu cầu việc làm của nhân dân, và có khả năng đối phó cao và

thích ứng được với những biến động của quốc tế cũng như tình hình trong nước, tạo

nền tảng để không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân, sức mạnh quốc gia

nhằm giữ vững an ninh chính trị và quốc phòng.

Trần Trọng Toàn (2014) cũng cho rằng, an ninh kinh tế là một bộ phận cấu

thành của an ninh quốc gia, là việc đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách bền

vững, có khả năng ngăn ngừa các cú sốc bên trong và đối phó có hiệu quả với

những biến động bên ngoài, không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân, góp

phần giữ vững ổn định, an ninh chính trị - xã hội và tăng cường khả năng quốc

phòng.

Cần phân biệt khái niệm an ninh kinh tế với những khái niệm khác gần hoặc

giao thoa với nó như ổn định kinh tế, tăng trưởng kinh tế và đặc biệt là khái niệm

phát triển bền vững. Ổn định kinh tế là một dấu hiệu của an ninh nếu đặt nó trong

tương quan với khái niệm đối lập là bất ổn kinh tế. Tuy nhiên ổn định chỉ là một chỉ

báo về an ninh kinh tế. Ổn định phải gắn với tăng trưởng và phát triển kinh tế thì an

ninh kinh tế mới thực sự vững bền. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là một chỉ báo

47

thứ hai của an ninh kinh tế khi tăng trưởng đều đặn, với tốc độ hợp lý, tăng trưởng

gắn với phát triển cũng báo hiệu một nền kinh tế duy trì được an ninh. Còn với khái

niệm phát triển bền vững, nếu theo cách hiểu tương đối thống nhất hiện nay là sự

phát triển đạt được sự hài hoà, cân đối giữa ba thành tố kinh tế, xã hội và môi

trường thì phát triển bền vững là khái niệm có nội hàm rộng hơn và bao trùm lên

nội hàm của khái niệm an ninh kinh tế. Theo Jacobs và Sadler (1990), phát triển bền

vững là kết quả của các tương tác qua lại và phụ thuộc lẫn nhau của ba hệ thống chủ

yếu của thế giới: Hệ thống tự nhiên (bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên và tài

nguyên thiên nhiên, các thành phần môi trường của trái đất); Hệ thống kinh tế (hệ

sản xuất và phân phối sản phẩm); Hệ thống xã hội (quan hệ của con người trong xã

hội). Nếu phát triển bền vững nhấn mạnh đến sự hài hoà của ba hệ thống chủ yếu

trong quá trình phát triển thì an ninh kinh tế nhấn mạnh đến nguy cơ đe doạ, uy hiếp

lợi ích kinh tế cốt lõi của quốc gia, đương nhiên có những nguy cơ xuất phát từ hệ

thống tự nhiên, có nguy cơ đến từ hệ thống xã hội và có những nguy cơ đến từ bản

thân hệ thống kinh tế. An ninh kinh tế được đặt trong mối quan hệ với các khía cạnh

khác của an ninh quốc gia bao gồm an ninh quân sự, chính trị, văn hoá... Đảm bảo

an ninh kinh tế sẽ không chỉ cần những cách thức liên quan đến kinh tế mà còn cần

phải kết hợp các mặt khác như chính trị, ngoại giao, văn hoá, thâm chí là biện pháp

quân sự.

Có thể thấy, các quan niệm về an ninh kinh tế nêu trên đã thể hiện một nhận

thức rõ ràng về vai trò quan trọng của an ninh kinh tế trong chiến lược an ninh quốc

gia, nhưng vẫn chưa hoàn toàn thống nhất về nội hàm của khái niệm an ninh kinh

tế. Sự khác nhau đó là do những khác biệt của bối cảnh, trình độ phát triển và mục

tiêu chiến lược quốc gia. Từ những điểm chung trong các quan niệm nêu trên, tác

giả luận án này cho rằng: An ninh kinh tế là một trạng thái của nền kinh tế trong đó

có ít hoặc không có nguy cơ đe doạ các lợi ích kinh tế cốt lõi của quốc gia, và nhà

nước kiểm soát, ứng phó được với các mối đe doạ đến sự ổn định kinh tế. An ninh

kinh tế liên quan đến khả năng tiếp cận các nguồn lực, tài chính, thị trường cần

48

thiết đối với sự phát triển bền vững của nền kinh tế, phúc lợi của nhân dân và sức

2.2.1.2. Đảm bảo an ninh kinh tế

mạnh của nhà nước.

An ninh kinh tế là nền tảng và là nội dung cơ bản của an ninh quốc gia và là

một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể phát triển - kinh tế xã hội của

quốc gia trong thời đại toàn cầu hoá. Nó trở thành cơ sở quan trọng cho việc hoạch

định chiến lược an ninh quốc gia. Đảm bảo an ninh kinh tế là một nhiệm vụ trọng

yếu đặt ra cho các nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Theo Vũ Quang Minh (2014), đảm bảo an ninh kinh tế là việc đảm bảo một

sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia, đảm bảo độc lập và chủ quyền của

chính phủ trong việc vạch ra và thực thi cách chính sách phát triển kinh tế quốc dân,

đảm bảo duy trì sức cạnh tranh và vị trí của nền kinh tế quốc gia trên thế giới, đảm

bảo các quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp quốc gia trên thị trường quốc

tế, và mục tiêu cuối cùng là đảm bảo phúc lợi và sự phồn vinh của người dân, ổn

định xã hội, duy trì được nền kinh tế vững mạnh đủ khả năng tài chính cho các nhu

cầu quốc phòng và an ninh chính trị khác. Còn theo Bùi Ngọc Quỵnh (2012), bảo

đảm an ninh kinh tế quốc gia thực chất là bảo đảm cho sự phát triển kinh tế của đất

nước được thăng bằng; bảo đảm chủ quyền độc lập kinh tế của đất nước, nâng cao

sức cạnh tranh quốc tế của các ngành sản xuất trụ cột, bảo đảm sự cung cấp ổn định

và bền vững về thị trường, năng lượng, tài chính, tiền tệ..., làm chỗ dựa cho sự phát

triển kinh tế, đủ sức chống đỡ trước sự chấn động kinh tế trong nước và quốc tế.

Các quan niệm này tiếp cận đảm bảo an ninh kinh tế theo nghĩa rộng.

Theo nghĩa hẹp hơn, đảm bảo an ninh kinh tế là phòng ngừa, phát hiện, đấu

tranh chống âm mưu, hoạt động phá hoại kinh tế, thông qua kinh tế để gây ảnh

hưởng, chi phối chính trị; đồng thời là hoạt động phòng, chống tội phạm kinh tế, tội

phạm lợi dụng kinh tế để thực hiện các hoạt động gây phức tạp về an ninh, trật tự

nhằm bảo vệ sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế quốc dân. Với cách

49

tiếp cận theo nghĩa hẹp như trên, đảm bảo an ninh kinh tế là hoạt động tổ chức và

điều hành của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trên cơ sở

pháp luật và để thi hành pháp luật về an ninh, trật tự đối với các cá nhân, tổ chức

hay từng lĩnh vực, quá trình, hoạt động kinh tế nhằm ngăn ngừa, kiểm soát các nguy

cơ, bảo đảm an toàn, phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế quốc dân.

Đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia hướng tới các mục tiêu như: đảm bảo sự tự

chủ quốc gia trong việc hoạch định và thực thi đường lối, chủ trương, chính sách

phát triển kinh tế đất nước; đảm bảo an ninh, an toàn các cơ quan, tổ chức kinh tế,

các công trình, mục tiêu kinh tế trọng điểm; sự an toàn của cán bộ quản lý và bí mật

kinh tế; giữ vững chủ quyền và lợi ích kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập

quốc tế; chủ động phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các tình huống phức tạp

nảy sinh gây bất ổn cho nền kinh tế; đấu tranh phòng chống các loại tội phạm kinh

tế.

Đảm bảo an ninh kinh tế là một bộ phận quan trọng góp phần đảm bảo an

ninh quốc gia, góp phần bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, phục vụ phát triển kinh

tế đất nước. Đảm bảo an ninh kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với công tác đảm bảo

an ninh trên các lĩnh vực khác. Từ những quan niệm về an ninh kinh tế và đảm bảo

an ninh kinh tế đã được phân tích trên đây, trong luận án này, khái niệm đảm bảo an

ninh kinh tế trong bối cảnh hội nhập được hiểu theo nghĩa rộng như sau: Đảm bảo

an ninh kinh tế là việc duy trì được một nền kinh tế ổn định, vững mạnh, thích ứng

được với những biến động của quốc tế cũng như tình hình trong nước, kiểm soát

các nguy cơ, bảo đảm sự an toàn, phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân.

2.2.2. Nội dung đảm bảo an ninh kinh tế trong trong quá trình hội nhập

2.2.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và thể chế kinh tế trong

quá trình hội nhập gắn với đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia

kinh tế quốc tế

50

Ngày nay, trong tư duy chiến lược và sách lược bảo vệ tổ quốc của nhiều

quốc gia, an ninh kinh tế được đặt ở vị trí trung tâm của an ninh quốc gia. Một quốc

gia có vững mạnh, bảo đảm được quốc phòng, an ninh hay không trước hết phải giữ

vững được an ninh chính trị, an ninh kinh tế và trật tự, an toàn xã hội. Nội dung bảo

đảm an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trước hết ở việc hoạch

định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn, bảo đảm sự phát triển

lâu dài, ổn định kinh tế. Để đảm bảo sự phát triển kinh tế ổn định, đa số các quốc

gia đề hoạch định chiến lược phát triển trung và dài hạn, đưa ra những chỉ tiêu chủ

yếu để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm

phát, thất nghiệp. Chính phủ còn dùng các biện pháp cần thiết để tạo ra môi trường

bên trong và bên ngoài ổn định, tốt đẹp cho sự phát triển kinh tế.

Theo một nghĩa hẹp hơn, để đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình phát

triển, nhà nước cần có lực lượng trong bộ máy quản lý tham gia xây dựng, triển

khai các đề án, kế hoạch, phương án bảo đảm an ninh, trật tự góp phần thực hiện

thành công các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chương trình, mục tiêu, dự án phát

triển kinh tế - xã hội trọng điểm của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương và

doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, trong quá trình tổ chức thực hiện chiến lược,

qui hoạch, kế hoạch, chương trình, mục tiêu, dự án phát triển kinh tế - xã hội, đòi

hỏi phải có các đề án, kế hoạch, phương án bảo đảm an ninh, trật tự để bảo đảm an

ninh và lợi ích quốc gia trong quá trình tổ chức thực hiện.

Mặt khác, các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ,

chính quyền địa phương hay của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, với từng đối tác

cụ thể luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố liên quan trực tiếp đến an ninh kinh tế đặt ra yêu

cầu khách quan phải có cách phương án, kế hoạch chủ động ứng phó. Vì vậy, một

số cơ quan chuyên biệt, đặc thù của nhà nước cũng cần tham gia thẩm định quy

hoạch, kế hoạch, dự án, chương trình, mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội

liên quan đến an ninh, trật tự. Thẩm định các điều kiện về an ninh, trật tự đối với

các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đối với các công

trình kinh tế quan trọng về an ninh quốc gia nói riêng là một nhiệm vụ, đồng thời là

51

nội dung quan trọng của đảm bảo an ninh kinh tế. Nội dung thẩm định bao gồm

việc xem xét địa điểm đặt công trình có thuộc địa bàn trọng điểm về an ninh, quốc

phòng hoặc có thuận lợi, khó khăn gì cho hoạt động gây bất ổn từ bên ngoài và

công tác bảo vệ bên trong. Tư cách pháp nhân, năng lực tài chính và những vấn đề

có liên quan đến an ninh quốc gia của các đối tác nước ngoài. Các điều kiện bảo vệ

bí mật nhà nước, bí mật nội bộ, lợi ích và chủ quyền quốc gia, doanh nghiệp. Đồng

thời, bảo đảm an ninh, an toàn cho các hoạt động kinh tế, kỹ thuật trong quá trình

triển khai dự án, vận hành công trình và các yếu tố gây mất an ninh hoặc đe dọa gây

mất an ninh trong quá trình đấu thầu, triển khai dự án, xây dựng, vận hành công

trình.

Trong thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri thức, cạnh tranh kinh tế giữa các

nước biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có khía cạnh về thể chế kinh

tế. Việc lựa chọn thể chế liên quan chặt chẽ đến năng lực cạnh tranh quốc gia. Cải

cách thể chế kinh tế, điều chỉnh kết cấu kinh tế cho phù hợp với yêu cầu của hội

nhập, thiết lập thể chế kinh tế hoàn thiện, sáng tạo trật tự kinh tế tốt được các nước

coi là biện pháp quan trọng để chống lại những rủi ro bên ngoài, giữ ổn định xã hội

và duy trì phát triển kinh tế.

Cũng do yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng các mối quan

hệ kinh tế quốc tế đan xen để gắn lợi ích của các đối tác nước ngoài với lợi ích và

ổn định an ninh quốc gia; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế để

tránh sự phụ thuộc vào một số đối tác, đề phòng bị thao túng; có chiến lược phát

triển ngành, vùng phù hợp với lợi thế địa-chính trị quốc gia; tham gia tích cực để có

tiếng nói bảo vệ quyền lợi quốc gia trong các định chế kinh tế khu vực, toàn cầu

chính là cách thức bảo vệ chủ quyền kinh tế và giảm bớt những rủi ro cho nền kinh

tế quốc dân trong quá trình phát triển.

Theo Châu Vinh Khôn và cộng sự (1998), để đảm bảo an ninh kinh tế, điều

kiện quan trọng nhất là phải có một cơ cấu, hệ thống ra quyết định hợp lý. Cơ cấu

đó nên có người lãnh đạo chính trị với trình độ cao, có thể đồng thời chú ý đến nhân

tố kinh tế và phi kinh tế trong chính sách ngoại giao, và kết hợp một cách thoả đáng

52

với chính sách trong nước”. Về xây dựng cơ cấu, các nước thường không thiết lập

cơ cấu lãnh đạo an ninh kinh tế độc lập mà thường sử dụng khung quyền lực an

ninh quốc gia hiện có, đầu não chính phủ nắm quyền quyết sách và điều hoà tối cao

trong an ninh kinh tế.

Về hoạch định luật pháp, nhà nước đưa vấn đề an ninh kinh tế vào khung

chiến lược an ninh quốc gia.

Thông qua ngoại giao, đặc biệt là ngoại giao kinh tế để thiết lập mạng lưới

an ninh bên ngoài, từ đó đảm bảo lợi ích quốc gia nói chung và lợi ích kinh tế nói

riêng. Ngoại giao kinh tế là biện pháp quan trọng để đảm bảo an ninh kinh tế. Hầu

hết các nước đều tích cực tham dự hợp tác quốc tế và khu vực, thiết lập mối quan hệ

cùng tồn tại, cùng chia sẻ lợi ích, cùng đối phó với nguy cơ. Trong thời đại toàn cầu

hoá, các nước đều coi việc tham dự vào hợp tác quốc tế và khu vực dưới nhiều hình

thức khác nhau là con đường quan trọng để đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia. Các

định chế quốc tế như WTO, IMF, WB và các tổ chức hợp tác khu vực như EU,

NAFTA, APEC, ASEAN... đã phát huy tác dụng tích cực trên các lĩnh vực như thúc

đẩy hợp tác mậu dịch khu vực và phát triển ổn định kinh tế, tăng thêm sự tin tưởng

và hiểu biết lẫn nhau. Lĩnh vực hợp tác của nhiều tổ chức khu vực đã được mở rộng

từ kinh tế sang chính trị và an ninh, có tác dung quan trọng đối với sự ổn định và an

ninh của khu vực, trong đó có an ninh kinh tế. Thực thi chiến lược nhất thể hoá kinh

2.2.2.2. Đảm bảo an ninh những yếu tố nguồn lực cơ bản của nền kinh tế

tế khu vực, kiến tạo cộng đồng an ninh kinh tế khu vực.

Sự sinh tồn và phát triển của một quốc gia không thể tách rời tài nguyên

thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên chiến lược như năng lượng, khoáng sản, lương

thực, nguồn nước. Nhìn từ góc độ an ninh kinh tế quốc gia, sự cung ứng ổn định

nguồn tài nguyên chiến lược luôn là vấn đề trọng tâm mà các quốc gia, đặc biệt là

những quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu quan tâm. Chiến lược bảo đảm an ninh

tổng hợp của Nhật Bản nêu rõ rằng, bảo đảm sự cung ứng ổn định vật tư quan trọng

53

liên quan đến sự sống còn trong phương diện đảm bảo an ninh kinh tế. Phạm vi bảo

đảm đề cập đến năng lượng (chủ yếu là dầu mỏ), tài nguyên khoáng sản và lương

thực. Các nước khác trên thế giới cũng hết sức coi trọng vấn đề này.

Một là, về đảm bảo nguồn năng lượng.

Năng lượng là yếu tố đầu vào thiết yếu của mọi nền kinh tế. Cung ứng năng

lượng không đủ hoặc nguồn cung ứng bị uy hiếp sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát

triển kinh tế và an ninh kinh tế quốc gia, vì vậy, đảm bảo nguồn cung năng lượng là

vấn đề chiến lược lớn trong các nội dung đảm bảo an ninh kinh tế. Cùng với việc

đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá trên thế giới, mức tiêu thụ năng

lượng thế giới tăng lên nhanh chóng. Tỷ trọng các loại năng lương tiêu thụ cũng có

sự chuyển dịch cơ bản. Đầu thập niên 1950, than chiếm tỷ trọng 60% trong tổng số

năng lượng tiêu thụ, đến năm 2000 đã giảm xuống còn 24%. Cùng giai đoạn đó, tỷ

trọng tiêu thụ dầu lửa và khí tự nhiên tăng từ 37,4% lên đến 61% (IEA, 2002). Dầu

khí từng bước thay thế than để trở thành nguồn năng lượng chủ đạo trong kết cấu

tiêu thụ năng lượng hoá thạch của thế giới. Các cuộc khủng hoảng dầu lửa xảy ra từ

đầu thập kỷ 1970 đã khiến cho việc nhận thức tầm quan trọng của an ninh năng

lượng của các nước phát triển được nâng cao, cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) ra

đời năm 1974 chính thức đưa ra khái niệm an ninh năng lượng, lấy việc ổn định

cung ứng và giá cả dầu thô làm hạt nhân.

Đảm bảo cung ứng tài nguyên năng lượng có liên hệ chặt chẽ với an ninh

quốc gia nói chung và an ninh kinh tế nói riêng. Trên thế giới, hầu hết các quốc gia

không thể tự cung ứng tất cả tài nguyên năng lượng và nguyên liệu. Sự lệ thuộc

nguồn cung vào nước ngoài vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề an ninh quốc gia.

Do đó, tính ổn định của cung ứng năng lượng trở thành mục tiêu cơ bản trong đảm

bảo an ninh kinh tế. Do sự khác nhau của tình hình kinh tế - xã hội nên chiến lược

đảm bảo cung ứng ổn định năng lượng của mỗi nước có những đặc điểm và trọng

tâm khác nhau. Tuy vậy có một số điểm chung trong chiến lược của các nước phát

triển có giá trị tham khảo đối với các nước đang phát triển là: lấy đảm bảo nguồn

54

cung dầu mỏ làm hạt nhân, tích cực mở rộng cơ sở cung ứng dầu mỏ, thiết lập và

tăng cường dự trữ dầu mỏ chiến lược; thực hiện chính sách tiết kiệm năng lượng,

tích cực khai thác và đưa vào sử dụng các nguồn năng lượng mới bền vững hơn…

Hai là, về đảm bảo lương thực.

Với tư cách là mặt hàng tiêu dùng thiết yếu để duy trì và tái sản xuất sức lao

động xã hội, yêu cầu đối với mỗi quốc gia là phải đảm bảo về nguồn cung cấp

lương thực cho người dân để hạn chế và đẩy lùi tình trạng thiếu lương thực, nạn đói

và tình trạng phụ thuộc vào nguồn lương thực nhập khẩu.

Lương thực luôn là nhu cầu thiết yếu, đầu tiên của con người. Đảm bảo

lương thực cho người dân luôn là vấn đề trước mắt cũng như lâu dài đối với mọi

quốc gia, mọi thời đại. Bước sang đầu thế kỷ XXI, trong bối cảnh toàn cầu hoá và

hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều quốc gia vẫn đang phải đối mặt với vấn đề đảm bảo

an ninh lương thực – nhân tố hàng đầu đảm bảo ổn định và phát triển xã hội, một

nội dung quan trọng trong đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia. An ninh lương thực

đang ngày càng “nóng” lên, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia và cộng đồng

quốc tế khi thế giới mới trải qua cuộc khủng hoảng lương thực năm 2008. Theo

FAO (WFS, 1996), An ninh lương thực là trạng thái mà ở đó tất cả mọi người, tại

mọi thời điểm, đều có sự tiếp cận cả về mặt vật chất và kinh tế với nguồn lương

thực đầy đủ, an toàn và đủ dinh dưỡng, đáp ứng chế độ ăn uống và thị hiếu lương

thực của mình, đảm bảo một cuộc sống năng động và khỏe mạnh. Khái niệm an

ninh lương thực có thể được sử dụng ở nhiều cấp độ khác nhau: cấp độ toàn cầu,

cấp độ khu vực và cấp độ quốc gia. Để đảm bảo an ninh lương thực của một quốc

gia thì quốc gia ấy phải đáp ứng được những điều kiện cơ bản của an ninh lương

thực nói chung, bao gồm: (1) Sự sẵn có nguồn lương thực; (2) Sự tiếp cận với

nguồn lương thực; (3) Sự ổn định của nguồn cung lương thực; và (4) Sự an toàn,

chất lượng của nguồn lương thực cung ứng.

Theo quan điểm toàn diện về an ninh lương thực của mỗi quốc gia, vấn đề

không chỉ là sản xuất ra lượng lương thực để đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của

55

người dân mà còn cần phải quan tâm đến cả ba vấn đề sau đây: (1) Vấn đề sản xuất:

Phải có đủ lương thực để cung cấp cho toàn xã hội trong mọi hoàn cảnh, ở tất cả các

vùng miền, địa phương trong cả nước, tại mọi thời điểm. (2) Vấn đề phân phối: Phải

có hệ thống cung ứng lương thực đến tay người tiêu dùng với mức giá mà cả người

mua và người bán chấp nhận được. (3) Vấn đề thu nhập: Phải tạo điều kiện để mọi

người đều có việc làm, có thu nhập để có đủ tiền mua lương thực đáp ứng nhu cầu

của bản thân và gia đình.

Thách thức về an ninh lương thực đến từ những tác động cơ bản sau:

Trước hết, từ chính sách của các nước lớn về nông nghiệp và thị trường nông

sản. Hàng rào bảo hộ của các nước phát triển đối với hàng nông sản, đặc biệt là

hàng rào phi thuế quan đã cản trở đáng kể thương mại hàng nông sản từ các nước

đang phát triển sang, điều này gây cản trở cho sự phát triển nông nghiệp ở các quốc

gia đang phát triển có lợi thế về nông nghiệp.

Tiếp đó là từ những vấn đề mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, biến

động của thị trường thế giới, và chính sách năng lượng toàn cầu. Các quốc gia đều

đang chịu những ảnh hưởng nghiêm trọng của hiện tượng biến đổi khí hậu, gây hậu

quả to lớn cản trở phát triển kinh tế, tạo ra nguy cơ mất an ninh lương thực ngay ở

những quốc gia vốn có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp. Các hiện tượng thời tiết

cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều ảnh hưởng tới năng suất nông nghiệp, nước

biển dâng xâm lấn các vùng đồng bằng ven biển làm suy giảm diện tích canh tác nông nghiệp…Theo tính toán của các nhà khoa học, nhiệt độ trái đất cứ ấm lên 10 C

thì sản lượng trên ruộng lúa giảm 10% (Nguyễn Văn Hưởng, 2014). Những biến

động của thị trường thế giới cũng là yếu tố tạo áp lực lên vấn đề an ninh lương thực.

Tại các thời điểm khủng hoảng kinh tế, khi giá dầu thô tăng cao đã đẩy giá phân

bón và phí vận chuyển hàng nông nghiệp lên cao, nguồn dự trữ thực phẩm khan

hiếm cũng góp phần tăng giá lương thực thực phẩm. Trong bối cảnh đó, các nước

xuất khẩu lương thực chủ yếu trên thế giới cũng đồng loạt cắt giảm chỉ tiêu xuất

khẩu lương thực nhằm bảo đảm an ninh lương thực trong nước đã gây nên những

bất ổn, khủng hoảng về an ninh lương thực toàn cầu. Chính sách năng lượng toàn

56

cầu thời gian gần đây khi tìm kiếm nguồn nhiên liệu thay thế nhiên liệu hoá thạch

đã sử dụng cây lương thực như ngô, lúa mỳ, ngũ cốc làm nhiên liệu sạch (ethanol

và diesel sinh học) gây nhiều xáo trộn về nhu cầu và hoạt động xuất nhập khẩu

lương thực, đe doạ an ninh lương thực.

An ninh lương thực của một quốc gia được đảm bảo khi lương thực, thực

phẩm và các sản phẩm từ nông nghiệp an toàn được cung cấp đủ nhu cầu tiêu dùng

và dự trữ cho người sử dụng, phù hợp với lợi ích của quốc gia, dân tộc, phù hợp với

quyền lợi và sự ổn định của người nông dân.

Để đảm bảo an ninh lương thực, nhà nước cần có chính sách phù hợp để duy

trì diện tích đất đai, mặt nước cần thiết cho sản xuất nông nghiệp. Áp lực của quá

trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở các nước đang phát triển đòi hỏi chuyển đổi

mục đích sử dụng đất nông nghiệp cũng như hệ quả về môi trường của quá trình

này đang ảnh hưởng nhiều tới chính sách duy trì diện tích cần thiết cho phát triển

nông nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần đảm bảo các điều kiện cần thiết cho

sản xuất nông nghiệp bao gồm đảm bảo nguồn nhân lực cho sản xuất nông nghiệp,

đảm bảo điều kiện thủy lợi, tưới tiêu, đảm bảo các loại giống cây trồng có năng suất

cao, phòng chống sâu bệnh, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là

các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu của đất nước. Đảm bảo các nguồn phân bón,

thuốc trừ sâu phục vụ sản xuất nông nghiệp, đảm bảo quy hoạch sản phẩm nông

nghiệp theo cơ cấu vùng miền một cách hợp lý.

Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần đảm bảo các điều kiện sản xuất, kinh doanh

cho người nông dân, đảm bảo an ninh nguồn nước trong sinh hoạt và sản xuất. Điều

kiện sản xuất, kinh doanh cho người nông dân trong lĩnh vực nông nghiệp gồm điều

kiện về đất đai, điều kiện về máy móc nông nghiệp, điều kiện về giống cây trồng,

vật nuôi,... đây là những thành tố quan trọng để phục vụ cho hoạt động sản xuất

trong nông nghiệp. Ngoài ra yêu cầu về đảm bảo an ninh nguồn nước là một vấn đề

có tính khách quan mà trong điều kiện hiện nay tất cả các quốc gia trên thế giới

đang đề cập. Nhu cầu nước ngọt càng ngày càng lớn, trong lúc đó lượng nước ngọt

trên thế giới ngày càng giảm do ô nhiễm, do biến đổi khí hậu. Đảm bảo nguồn nước

57

để sản xuất, kinh doanh là yêu cầu hết sức quan trọng nhằm đảm bảo an ninh nông

nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.

Tựu chung lại, đảm bảo an ninh lương thực là phải tạo ra được các cơ chế

chính sách trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, sản xuất lương thực, thực phẩm

có hiệu quả, phù hợp với lợi ích của quốc gia, dân tộc, phù hợp với lợi ích của

người nông dân. Đảm bảo an ninh lương thực phải gắn với đảm bảo an ninh kinh tế

và đảm bảo an ninh trên các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Ba là, đảm bảo an ninh nguồn nước.

Vấn đề đảm bảo an ninh nguồn nước xuất phát từ tình trạng khủng hoảng

nguồn nước đang đe doạ nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của nhân loại, trở

thành vấn đề mang tính toàn cầu, tác động đến tất cả các quốc gia, dân tộc. Nguồn

nước là yếu tố đầu vào quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống con

người. Nước đóng vai trò thiết yếu trong quá trình sản xuất, tái sản xuất ra hàng

hoá, từ thực phẩm thiết yếu đến sản phẩm công nghệ hiện đại. Trong Thư nhân

ngày nước thế giới (21-03-2014), Liên Hợp Quốc đưa ra những cảnh báo đáng lo

ngại về nguồn nước sạch trên toàn cầu. Theo số liệu của Liên Hợp Quốc, hàng ngày

có 768 triệu người không được sử dụng nước sạch. Mỗi năm có 700 nghìn trẻ em

chết vì bệnh tiêu chảy do sử dụng nước bẩn. Bên cạnh đó, do dân số tăng, sự phát

triển kinh tế, khuynh hướng thay đổi cách sống và sinh hoạt cũng đe doạ, tạo áp lực

tới tài nguyên nước và sinh thái. Tình trạng thiếu hụt nguồn nước đã ảnh hưởng tới

2/5 dân số thế giới và dự đoán đến 2025, mức độ ảnh hưởng lên tới 2/3 dân số thế

giới. An ninh nguồn nước trở nên đặc biệt quan trọng hơn đối với các quốc gia châu

Á, một châu lục khô hạn nhất thế giới. Lượng nước bình quân đầu người ở châu Á

chưa bằng 1/10 lượng nước ở Nam Mỹ hay Australia, thấp hơn ¼ Bắc Mỹ, gần

bằng 1/3 châu Âu, ít hơn cả châu Phi. Trong khi đó nhu cầu nước ở châu Á là lớn

nhất thế giới. Thêm vào đó, châu Á là nơi có hiệu quả sử dụng nước và năng suất

nước thấp nhất thế giới. Cuộc khủng hoảng về nước xuất hiện khi cầu vượt quá

cung, do nhiều nguyên nhân kinh tế - xã hội khác nhau như nhu cầu về nước trong

58

quá trình CNH, HĐH đất nước, trữ nước cho nhà máy thuỷ điện, gia tăng dân số,

phát triển nông nghiệp… Tranh chấp nguồn nước đã và đang diễn ra giữa các quốc

gia chung lưu vực sông, quốc gia thượng nguồn và hạ nguồn nước. Việc quản lý và

sử dụng nguồn nước không hợp lý để lại hậu quả đối với các nước, các vùng lãnh

thổ nảy sinh xung đột lợi ích, mâu thuẫn tiềm ẩn và bùng phát những hệ luỵ mới.

Chẳng hạn như hệ thống đập thuỷ điện do Trung Quốc xây dựng ở thượng nguồn

sông Mekong đã và đang gây ảnh hưởng xấu cho các quốc gia hạ lưu (Việt Nam,

Campuchia và Lào), xung đội về nước giữa Trung Quốc với Ấn Độ, Pakistan, giữa

các quốc gia vùng Trung Á, giữa Israel và Palestine…

Như vậy, an ninh tài nguyên nước đã và đang tạo ra thách thức cho sự phát

triển ổn định kinh tế - xã hội của các quốc gia. Để đảm bảo an ninh nguồn nước,

dưới góc độ quản trị quốc gia, nhà nước cần có chiến lược tổ chức khảo sát tổng thể

tài nguyên nước, dự báo nhu cầu sử dụng nước (phục vụ phát triển kinh tế, sinh

hoạt, dự trữ…) của quốc gia để có cơ sở xây dựng chiến lược, quản lý, khai thác và

sử dụng hợp lý, có hiệu quả, bền vững. Bên cạnh đó, cần chủ động tích cực áp dụng

công nghệ mới trong sản xuất và tiêu dùng nhằm tiết kiệm và tránh gây ô nhiễm

nguồn nước. Trong bối cảnh hội nhập, cần tranh thủ nguồn lực bên ngoài trong việc

hỗ trợ khai thác, bảo tồn tài nguyên nước, tham gia xây dựng cơ chế phối hợp,

thông tin giữa các nước trong việc quản lý, khai thác tài nguyên nước xuyên quốc

2.2.2.3. Đảm bảo ổn định an toàn cho hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia

gia hợp lý, có hiệu quả, cùng có lợi, chủ động ứng phó, hạn chế tác động tiêu cực.

Hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia được coi là huyết mạch của nền kinh tế.

Tài chính tiền tệ là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sự

phát triển của kinh tế thị trường làm cho vị trí, vai trò của tài chính tiền tệ trong nền

kinh tế ngày càng cao. Ngược lại, sự lớn mạnh của hệ thống tài chính tiền tệ đã trực

tiếp đẩy nhanh sự phát triển của kinh tế thị trường và tăng trưởng kinh tế quốc gia.

59

Ở cấp độ vi mô, hệ thống tài chính tốt là cơ sở để tối ưu hoá việc sử dụng các

nguồn lực kinh tế. Tài chính tiền tệ vận hành lành mạnh thì việc sử dụng vốn tiền tệ

và các nguồn tài nguyên khác càng hợp lý và nền kinh tế quốc dân tuần hoàn hiệu

quả. Ở cấp độ vĩ mô, nhà nước sử dụng chính sách tài chính, tiền tệ để điều hành

nền kinh tế, điều tiết tổng cung và tổng cầu để nền kinh tế phát triển ổn định và nhịp

nhàng. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều vấn đề kinh tế được biểu hiện thông qua

tình hình tài chính tiền tệ. Từ những biểu hiện như biến động của giá cổ phiếu trên

thị trường chứng khoán, hay dao động của lãi suất có thể nhìn thấy “sức khoẻ” của

nền kinh tế trong từng thời kỳ.

Trong bối cảnh kinh tế thị trường phát triển vượt bậc, quá trình toàn cầu hoá

diễn ra mạnh mẽ do sự lan truyền thông tin xuyên biên giới, tư liệu sản xuất xã hội

được phân bổ và tối ưu hoá trên phạm vi toàn cầu, sự tăng vọt của lưu lượng và tốc

độ lưu chuyển vốn trong tự do hoá và điện tử hoá tài chính tiền tệ quốc tế đã làm

cho các giao dịch tài chính tiền tệ phát triển nhanh chóng. An ninh hệ thống tài

chính, tiền tệ trở nên hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của toàn bộ

nền kinh tế. Do hoạt động tài chính, tiền tệ liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời

sống kinh tế - xã hội, nên khi xuất hiện bất ổn trong lĩnh vực này thì rất dễ gây phản

ứng dây chuyền trong hệ thống kinh tế. Khủng hoảng tài chính tiền tệ nhanh chóng

lan ra thành khủng hoảng cả nền kinh tế, thậm chí dẫn đến khủng hoảng chính trị,

xã hội. Từ đó có thể thấy rằng, an ninh tài chính, tiền tệ gắn chặt với an ninh kinh tế

và an ninh quốc gia.

Từ sau chiến tranh lạnh, an ninh kinh tế trở thành một trong những mối quan

tâm hàng đầu trong các vấn đề an ninh đối với các quốc gia. Trong các nguy cơ đe

doạ an ninh kinh tế, sự bất ổn của hệ thống tài chính tiền tệ là một nguy cơ huy hiếp

trực tiếp. Dưới áp lực của toàn cầu hoá kinh tế, nếu tiềm lực kinh tế quốc gia không

đủ mạnh, thể chế tài chính, tiền tệ không kiện toàn, thiếu hụt cảnh báo nguy cơ và

cơ chế ngòng ngừa thì không thể xử lý kịp thời những biến động của tài chính tiền

tệ thì khủng hoảng tài chính tiền tệ có thể xảy ra.

60

Tào Hữu Phùng và cộng sự (2003) cho rằng: An ninh tài chính, tiền tệ là một

khái niệm cơ bản để chỉ một trạng thái (tình trạng) tài chính, tiền tệ ổn định, an

toàn, vững mạnh và không bị khủng hoảng. “Ổn định” tài chính, tiền tệ được hiểu là

các khâu, bộ phận hợp thành hệ thống tài chính duy trì hoạt động bình thường,

không có những biến động đột ngột, thất thường. Ổn định không có nghĩa là “đứng

yên” mà ổn định trong trạng thái vận động và phát triển liên tục của hệ thống tài

chính, tiền tệ quốc gia; ổn định không có nghĩa là giữ nguyên mọi thứ như cũ mà là

giữ “ổn định” của hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia trong tiến trình phát triển đi

lên, không ngừng cải tiến, hoàn thiện.

An toàn được hiểu là trạng thái, trong đó hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia

không bị nguy hiểm từ phía các tác động bên trong, bên ngoài. Giữ được an toàn tài

chính, tiền tệ đồng nghĩa với không tự gây hại cho mình, đồng thời ngăn chặn, làm

thất bại mọi sự tấn công, phá hoại từ bên ngoài. Nếu ổn định tài chính, tiền tệ là tiền

đề có tính chất nền tảng thì an toàn tài chính, tiền tệ là cốt lõi, chi phối toàn bộ quá

trình vận động, phát triển của hệ thống tài chính, tiền tệ.

Vững mạnh là trạng thái của một nền tài chính, tiền tệ có khả năng chịu đựng

và vượt qua được những nguy cơ, thách thức trên con đường phát triển. Vững mạnh

là cơ sở cho sự ổn định và an toàn, một trạng thái tài chính, tiền tệ yếu không thể

giữ vững được ổn định và an toàn.

Khủng hoảng tài chính, tiền tệ là khái niệm bao trùm được sử dụng chung

cho mọi loại khủng hoảng gắn với sự mất cân đối về tài chính, tiền tệ và thường gắn

với nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán, mất

cân đối cung cầu tiền tệ tại một thời điểm nhất định. Khủng hoảng tài chính là kết

quả nặng nề nhất và phản ánh ở mức cao nhất của sự mất an ninh tài chính, tiền tệ,

tránh được khủng hoảng là mục tiêu cao nhất của mọi giải pháp đảm bảo an ninh tài

chính, tiền tệ.

Các dạng khủng hoảng tài chính, tiền tệ phổ biến bao gồm: khủng hoảng

ngân hàng, khủng hoảng nợ, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng thị trường chứng

khoán, khủng hoảng cán cân thanh toán, khủng hoảng ngân sách,...

61

Để đảm bảo ổn định, an toàn cho hệ thống tài chính tiền tệ, một thành tố cơ

bản của an ninh kinh tế vĩ mô, nhà nước cần thực hiện được những nhiệm vụ sau

đây:

Một là, cần tích cực cải cách tài chính, tiền tệ trong nước để hạn chế tính “dễ

đổ vỡ” của tài chính tiền tệ, hoá giải nguy cơ mất an ninh kinh tế từ những biến

động, khủng hoảng của hệ thống này. Mặt khác, hệ thống luật pháp, quy định tài

chính tiền tệ cần từng bước kiện toàn thích ứng với điều kiện kinh tế trong nước và

phù hợp thông lệ quốc tế; Hạ thấp tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng thương mại, tăng

năng lực phòng ngừa nguy cơ; Tăng cường sự minh bạch trong vận hành hệ thống

tài chính tiền tệ, tín dụng.

Hai là, thực hiện mở cửa tài chính tiền tệ trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế với những bước đi và lộ trình phù hợp. Hoàn thiện cơ chế hình thành tỉ giá

hối đoái, duy trì tính linh hoạt của tỷ giá; Tăng cường quản lý dòng vốn quốc tế ra –

vào; Cẩn trọng trong việc vay nợ nước ngoài, phòng ngừa nguy cơ từ sự gia tăng

quá mức lệ thuộc vốn vào nước ngoài.

Ba là, hoàn thiện việc giám sát quản lý tài chính tiền tệ, tiếp cận tiêu chuẩn

quốc tế. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, ngành

ngân hàng dễ nảy sinh và tích tụ nguy cơ nhất. Vì vậy, cần tiếp cận tiêu chuẩn quốc

tế, áp dụng các nội dung, điều khoản và yêu cầu chủ yếu của Nguyên tắc cơ bản

trong giám sát quản lý ngân hàng một cách có hiệu quả (Nguyên tắc Basel 1997).

Bốn là, thiết lập hệ thống quản lý nguy cơ tài chính tiền tệ. Quản lý nguy cơ

tài chính tiền tệ cần được thực hiện ở cả hai cấp độ vĩ mô và vi mô. Ở cấp độ vĩ mô,

cần thiết lập hệ thống giám sát và hệ thống điều tiết nguy cơ thị trường, nâng cao

năng lực điều tiết, giám sát quản lý ngân hàng trung ương; duy trì quy mô dự trữ

ngoại hối đủ để can thiệp vào thị trường khi cần thiết; thực hiện lộ trình mở cửa hội

nhập với hệ thống tài chính quốc tế một cách thận trọng; tăng cường hợp tác và

phối hợp điều tiết tài chính tiền tệ với các tổ chức quốc tế. Ở cấp độ vi mô, cần thiết

lập và duy trì tốt chế độ bảo hiểm tiền gửi một cách hiệu quả, bảo đảm lợi ích của

62

người gửi và ngăn chặn khủng hoảng lan tràn khi có các cú sốc tâm lý của người

gửi tiền.

Quan trọng hơn cả, nhà nước cần hoạch định được chiến lược an ninh tài

chính tiền tệ quốc gia phù hợp. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế ngày càng mạnh

mẽ, ngay cả việc đóng cửa không giao lưu cũng không thể tự bảo vệ hệ thống tài

chính tiền tệ của mình. Vì vậy, duy trì và đảm bảo an ninh tài chính tiền tệ phải

được tiếp cận trong trạng thái động. Đảm bảo an ninh tài chính tiền tệ vừa góp phần

thúc đẩy kinh tế phát triển, vừa chủ động đối phó với nguy cơ bất ổn trong hệ thống

2.2.2.4. Phòng chống các loại tội phạm kinh tế gây ảnh hưởng tới an ninh kinh

tế quốc gia

nội tại và ảnh hưởng của biến động tài chính tiền tệ quốc tế.

Tội phạm kinh tế là tội phạm xâm hại sự ổn định và phát triển nền kinh tế

quốc dân, gây thiệt hại cho nhà nước, tổ chức hoặc công dân thông qua các hành vi

vi phạm qui định của pháp luật trong quản lý kinh tế.

Tội phạm kinh tế bao gồm: tội phạm xâm phạm sở hữu; tội phạm xâm phạm

trật tự quản lý kinh tế; tội phạm về chức vụ; tội phạm xâm hại môi trường; tội phạm

xâm phạm trật tự quản lý hành chính gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế… Ở các

nước có nền kinh tế đang phát triển hoặc mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường, do

thể chế kinh tế thị trường mới hình thành và chưa ổn định, tội phạm kinh tế thường

phức tạp, cả về quy mô, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả tác

hại do tội phạm gây ra. Đáng lưu ý là đã xuất hiện nhiều loại tội phạm mới trong

lĩnh vực kinh tế, thủ đoạn hoạt động tinh vi, triệt để lợi dụng những thành tựu của

khoa học, công nghệ hiện đại trong thực hiện hành vi phạm tội; và có sự cấu kết

chặt chẽ với các cá nhân, tổ chức tội phạm quốc tế.

Tính nguy hiểm của tội phạm kinh tế đối với an ninh kinh tế thể hiện ở sự

tinh vi, phức tạp và khó lường, tính chất nguy hiểm ngày càng tăng và có xu hướng

chính trị cao như: Làm tha hoá, suy thoái, biến chất đội ngũ cán bộ, công chức; làm

63

cho hoạt động của các cơ quan quản lý kinh tế và một bộ phận lớn các doanh

nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả; làm cho đường lối, chính sách phát triển

kinh tế - xã hội bị bóp méo, thậm chí không thực hiện được, gây thiệt hại nghiêm

trọng về kinh tế.

Để phòng ngừa ngăn chặn các loại tội phạm kinh tế, Nhà nước thông qua các

lực lượng chức năng trong bộ máy quản lý của mình cần thường xuyên tiến hành

thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức kinh tế và xử

lý, giải quyết những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự xảy ra trong các lĩnh vực,

địa bàn, quá trình, hoạt động kinh tế. Trong các hoạt động đó, thanh tra, kiểm tra

việc thực hiện các quy định pháp luật về kinh tế có ý nghĩa quan trọng.

Pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh tế, là phương tiện thực hiện

đường lối phát triển kinh tế của đất nước, đảm bảo sự phát triển đúng hướng ngăn

chặn những tiêu cực của nền kinh tế thị trường phát sinh trong quá trình hoạt động.

Đồng thời, pháp luật là cơ sở cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong phòng ngừa,

phát hiện, đấu tranh xử lý những hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, trong lĩnh

vực kinh tế. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định pháp

luật về kinh tế đối với các cơ quan, đơn vị, công ty, doanh nghiệp là hoạt động rất

quan trọng nhằm duy trì ổn định và phát triển kinh tế, phòng ngừa có hiệu quả các

thủ đoạn hoạt động lợi dụng kinh tế xâm phạm an ninh quốc gia.

Các nội dung tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát bao gồm: Thanh tra,

kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và những qui định của Nhà nước trên

lĩnh vực kinh tế đối với các cơ quan, đơn vị kinh tế, doanh nghiệp. Đặc biệt là các

cơ quan, doanh nghiệp có yếu tố hoặc liên quan nước ngoài. Thanh tra, kiểm tra

hoạt động xuất, nhập cảnh, cư trú, hoạt động của các thương nhân, lao động nước

ngoài; hoạt động xuất, nhập cảnh của cán bộ, nhân viên các cơ quan, kiểm tra việc

tổ chức bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật kinh tế một cách chặt chẽ, thanh tra việc

quản lý các chương trình, dự án triển khai ở các địa bàn nhạy cảm, phức tạp, liên

quan đến an ninh, quốc phòng, dân tộc, tôn giáo... Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi

phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức kinh tế và xử lý, giải quyết những vấn đề

64

phức tạp về an ninh, trật tự xảy ra trong các lĩnh vực, địa bàn, quá trình, hoạt động

kinh tế. Nhất là đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vấn đề sử dụng

lao động nước ngoài, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, kinh doanh các ngành, nghề có

điều kiện về an ninh, trật tự... Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan tiến

hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về an ninh, trật tự, an

toàn các hoạt động kinh tế, các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia. Xác định rõ

thẩm quyền của cơ quan an ninh kinh tế trong xử lý, xử phạt các hành vi vi phạm

hành chính, an toàn hoạt động kinh tế, kỹ thuật của các chủ thể trong nền kinh tế.

Đấu tranh và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế là nhiệm vụ

quan trọng của Nhà nước, trong đó phòng ngừa là cơ bản nhằm loại trừ nguyên

nhân, điều kiện vi phạm pháp luật, ngăn chặn vi phạm pháp luật xảy ra, phát hiện

kịp thời và xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và giáo dục cải tạo người

phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội.

Xử lý vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật kinh tế nói riêng

phải được tiến hành một cách kiên quyết. Trước hết, xử lý hành chính các vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực kinh tế: Việc chấp hành pháp luật về xử lý hành chính có

vai trò, ý nghĩa rất quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà

nước, tăng cường pháp chế, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển mọi mặt của

đời sống xã hội. Việc tuân thủ pháp luật đòi hỏi các tổ chức, cá nhân tuyệt đối

không được thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm.

Xử lý hình sự các tội phạm kinh tế: Sự nghiêm trị đối với các loại tội phạm

là đương nhiên và hết sức cần thiết, nhất là trong bối cảnh vi phạm pháp luật trong

lĩnh vực kinh tế còn tồn tại ở nhiều nơi, gây hậu quả lớn đến nền kinh tế của đất

nước và nền an ninh quốc gia. Việc xác định đúng mức độ, tránh “tội phạm hoá” và

“hình sự hoá” đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế trong

từng bối cảnh xã hội cụ thể là hết sức cần thiết không chỉ trong xây dựng pháp luật

hình sự mà cả trong thực tiễn áp dụng xử lý hình sự với tính chất là biện pháp đấu

tranh, nhằm giải quyết các nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh tội phạm. Qua

công tác xử lý hình sự đã góp phần vào công tác đấu tranh chống vi phạm pháp luật

65

- tội phạm trong lĩnh vực kinh tế được nâng lên một bước và ngày càng đạt hiệu quả

cao hơn.

2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng và điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế quốc

2.2.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Những yếu tố bên ngoài

Xu thế toàn cầu hoá cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI với quy mô và trình độ

cao hơn nhiều so với các giai đoạn trước là một yếu tố quan trọng chi phối, ảnh

hưởng đến đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia. Hệ quả của toàn cầu hoá là là sự gia

tăng nhanh chóng của trao đổi quốc tế về vốn, dịch vụ, hàng hoá, công nghệ… và

sự xuất hiện hàng loạt thể chế liên kết kinh tế mang tính toàn cầu. Toàn cầu hoá

kinh tế tạo ra sự thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của

đời sống, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến an ninh kinh tế quốc gia. Liên kết kinh tế quốc

tế là một xu thế, bên cạnh những lợi ích mà nước vừa và nhỏ tham gia hội nhập

được hưởng, thì cũng làm phát sinh vấn đề tất yếu là sự chi phối trong quan hệ kinh

tế toàn cầu của các nước lớn sẽ ngày càng gia tăng và quyết liệt hơn. Đây chính là

một yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới an ninh kinh tế các quốc gia, nhất là những

nước có nền kinh tế quy mô nhỏ. Chẳng hạn như xu hướng nới lỏng chính sách tiền

tệ và kích cầu nội địa đang được các nước lớn thực hiện góp phần thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế tại nước đó, nhưng cũng tạo ra thách thức với kinh tế thế giới, nhất là

nguy cơ lạm phát toàn cầu và “bong bóng” tài sản do việc hạ lãi suất cơ bản và tăng

cung tiền, nguy cơ rút vốn ồ ạt khỏi các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi

nếu biện pháp nới lỏng tiền tệ bị dừng lại đột ngột.

Áp lực từ bên ngoài thông qua các khuyến nghị và đòi hỏi “cải cách” liên

quan đến thể chế kinh tế, tài chính, tiền tệ khi tham gia các hiệp định thương mại tự

do, nhất là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định đối tác xuyên Thái

66

Bình Dương (TPP) cũng là một yếu tố gây sức ép đến đảm bảo an ninh kinh tế của

các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Trên thực tế, nhiều khuyến nghị cải cách

mạnh mẽ hơn, thông thoáng hơn về thủ tục hành chính, cải cách doanh nghiệp nhà

nước, xử lý nợ xấu, xử lý tham nhũng, khuyến khích sự phát triển của khu vực tư

nhân, đẩy mạnh thực hiện các cam kết hội nhập… là những cú hích tốt góp phần tạo

môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, phát triển kinh tế và thúc đẩy hội

nhập, nhưng nếu giải quyết không tốt thì nguy cơ sẽ là bị loại khỏi “cuộc chơi”, bị

“thâu tóm”, “sáp nhập”, chi phối, khiến nền kinh tế quốc gia mất ổn định, phải lệ

thuộc vào bên ngoài.

Những yếu tố bên trong

Thứ nhất, tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội là một yếu tố

cơ bản, nội tại có ảnh hưởng quan trọng đối với đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia.

An ninh chính trị liên quan tới sự ổn định chính trị, sự tồn tại của các thể chế chính

trị, hệ thống nhà nước và các ý thức hệ là nền tảng tư tưởng của quốc gia. Tình hình

chính trị xã hội ổn định tạo ra những điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế, thu

hút đầu tư trong và ngoài nước, giảm bớt nguy cơ đối với các hoạt động kinh tế, các

quá trình kinh tế.

Thứ hai, thể chế kinh tế, năng lực nội tại của nền kinh tế cũng là yếu tố ảnh

hưởng đến đảm bảo an ninh kinh tế. Những yếu kém nội tại của nền kinh tế, của hệ

thống tài chính, tiền tệ là yếu tố bên trong đe doạ an ninh kinh tế, có thể gây ra sự

“đổ vỡ” của hệ thống kinh tế huyết mạch, tạo ra khủng hoảng theo kiểu dây chuyền

nếu không được khắc phục kịp thời. Như vậy, “sức khoẻ”, hay “sức đề kháng” của

bản thân nền kinh tế là yếu tố ảnh hưởng tới đảm bảo an ninh quốc gia. Chẳng hạn

như nợ xấu do tình trạng làm ăn thua lỗ của doanh nghiệp khiến các tổ chức tín

dụng phải chịu áp lực lớn về trích lập quỹ dự phòng rủi ro, nhưng nghiệp vụ quản

trị rủi ro yếu nên không đáp ứng được yêu cầu. Hay thanh khoản yếu cũng là một

yếu tố ảnh hưởng đến ổn định hệ thống tín dụng khi cân đối “đầu vào, đầu ra”

không giải quyết được. Trong khi doanh nghiệp tiếp cận vốn khó khăn nhưng có

67

những tổ chức tín dụng thừa vốn nhưng không cho vay được cho thấy “sức khoẻ”

nền kinh tế có vấn đề, thể trạng yếu không hấp thụ được vốn.

Thứ ba, những yếu tố nội tại, chủ quan khác cũng là những yếu tố ảnh hưởng

tới đảm bảo an ninh kinh tế như: các mục tiêu kinh tế - xã hội được xác định và đặt

ra rất lớn trong khi năng lực thực tế của nền kinh tế còn chưa đáp ứng. Chẳng hạn

như mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý,

đảm bảo an sinh xã hội là mục tiêu lớn và trong nhiều trường hợp khó đạt được

đồng thời. Vì để đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát thì phải hạn chế cung tiền ra thị

trường, tức là hạn chế tăng trưởng tín dụng. Hạn chế tăng trưởng tín dụng sẽ ảnh

hưởng tới tăng trưởng kinh tế, cũng có nghĩa là có khả năng thiếu việc làm và ảnh

hưởng đến an sinh xã hội. Tăng trưởng suy giảm làm gia tăng nợ xấu và ngược lại,

nợ xấu làm tắc dòng chảy tín dụng, từ đó lại làm cho thị trường tiếp tục suy giảm.

Đây là những yếu tố có thể gây bất ổn an ninh kinh tế.

Thứ tư, với nền kinh tế mở, hội nhập quốc tế sâu rộng ở các nước có nền

kinh tế mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường thì còn xuất hiện những “xung đột”

ngay trong nội bộ nền kinh tế. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn biến phức tạp,

những yếu kém về thể chế kinh tế, về bộ máy quản lý và năng lực cán bộ chính là

2.2.3.2. Điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập

yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia

Để đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập, các quốc gia,

các nền kinh tế cần hội tụ được một số điều kiện cơ bản sau đây:

Một là, có thực lực kinh tế quốc gia vững mạnh.

Trong thế giới hiện đại, một nhận thức đã trở nên phổ biến là sự nghèo đói

của quốc gia chính là yếu tố gây mất an ninh kinh tế lớn nhất. Nói một cách khác,

năng lực của một nước trong việc bảo vệ an ninh kinh tế chủ yếu thể hiện ở sức sinh

tồn và cạnh tranh của nền kinh tế, năng lực chống lại nguy cơ uy hiếp kinh tế từ bên

trong lẫn bên ngoài. Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ (2002) chỉ ra

68

rằng, sự ảnh hưởng của ngoại giao, năng lực duy trì sức mạnh quân sự, sức hấp dẫn

của quan niệm giá trị Hoa Kỳ trên thế giới đều do thực lực kinh tế nước này quyết

định; nếu không có một chiến lược đảm bảo sức mạnh kinh tế to lớn của Hoa Kỳ thì

địa vị kinh tế tương ứng và năng lực tự vệ của đất nước sẽ rơi vào tình cảnh nguy

hiểm. Đối với các nước đang phát triển, sự suy yếu của kinh tế cũng có nghĩa là

nguy cơ mất chủ quyền an ninh quốc gia đã hiện hữu. Sau khủng hoảng tài chính,

tiền tệ Đông Á năm 1997, các quốc gia chịu khủng hoảng như Indonesia, Hàn Quốc

chấp nhận khoản vay của IMF đã buộc phải chấp nhận cơ chế “tự do hoá” thị

trường do IMF áp đặt và theo một khía cạnh nhất định là đã mất đi một phần chủ

quyền kinh tế của nước mình. Một số quốc gia khác không thoát ra được khỏi

khủng hoảng tài chính, tiền tệ mà tiếp tục rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội –

chính trị lâu dài, do đó, từ bất ổn an ninh kinh tế dẫn đến an ninh quốc gia nói

chung bị uy hiếp nghiêm trọng.

Với nhận thức nước yếu không đảm bảo được an ninh kinh tế như trên, có

thể khẳng định phát triển kinh tế là điều kiện cơ bản để đảm bảo an ninh kinh tế.

Kinh tế không phát triển hoặc kém phát triển thì năng lực sinh tồn của kinh tế và

năng lực chống lại uy hiếp bên trong và bên ngoài sẽ giảm xuống. Kinh tế không

phát triển còn là nhân tố trực tiếp gây ra sự mất an ninh lớn nhất cho nền kinh tế,

thậm chí là an ninh quốc gia. Tuy nhiên, cũng cần xử lý tốt mối quan hệ giữa an

ninh và phát triển, vì không ít vấn đề an ninh kinh tế thường nảy sinh cùng với sự

phát triển kinh tế. Nói một cách khác, bản thân phát triển kinh tế đã ẩn chứa nguy

cơ, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, nguy cơ bên trong và nguy cơ bên

ngoài mà sự phát triển kinh tế quốc gia phải đối mặt ngày càng lớn. Phòng chống

nguy cơ, bảo vệ an ninh kinh tế có thể làm tăng thêm “giá thành” phát triển của

kinh tế vĩ mô, hạ thấp hiệu suất kinh tế, tuy nhiên về lâu dài, thực lực kinh tế có

được nhờ kết quả phát triển bền vững lại là nền tảng cho việc đảm bảo an ninh kinh

tế quốc gia.

69

Hai là, có thể chế kinh tế phù hợp.

Trong thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri thức, một trong những yếu tố quyết

định năng lực cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia là thể chế kinh tế. Việc lựa chọn

thể chế nói chung, thể chế kinh tế nói riêng liên quan chặt chẽ tới sự hưng thịnh hay

suy yếu của sức cạnh tranh quốc gia. Ngày nay, nền kinh tế thị trường và thể chế

kinh tế thị trường đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Giá trị mà nó mang lại cho

đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người, cho sự phát triển và thịnh vượng của

mỗi quốc gia đã được thừa nhận mặc dù bản thân kinh tế thị trường cũng có những

mặt trái, những ngoại ứng tiêu cực cho phúc lợi kinh tế của một bộ phận dân cư

hoặc một nhóm ngành nghề nào đó trong xã hội và tiềm ẩn một số nguy cơ gây

khủng hoảng, bất ổn kinh tế. Mặc dù đã được thừa nhận rộng rãi, mức độ áp dụng

kinh tế thị trường và mức độ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở các nền kinh tế

là khác nhau. Các “luật chơi” trong nền kinh tế thị trường trong lịch sử được hình

thành một cách tự phát từ quá trình thử - sai khi các tác nhân tự nguyện tương tác

trên thị trường. Quá trình tự diễn biến này mất rất nhiều thời gian. Nếu chính phủ

một nước biết chủ động tham khảo và học hỏi các “luật chơi” đã thành công ở các

nền kinh tế khác hoặc các thị trường khác thì việc hình thành các “luật chơi” hiệu

quả cho các thị trường mới ở quốc gia mình có thể sẽ được rút ngắn hơn.

Như vậy, việc thiết lập thể chế kinh tế hoàn thiện trên nền tảng của kinh tế

thị trường là một trong những điều kiện quan trọng để ứng phó với những biến động

bên ngoài, duy trì sự phát triển kinh tế. Trong thời gian qua, tất cả các quốc gia từ

những nước phát triển như Nhật, Đức, Pháp, hay là các nước công nghiệp mới nổi ở

Đông Á, Mỹ Latinh, hoặc các quốc gia chuyển đổi mô hình ở khu vực Đông Âu,

Trung Quốc… đều đang tích cực đổi mới thể chế kinh tế vốn có, hoàn thiện kinh tế

thị trường, đi sâu cải cách kinh tế, tài chính tiền tệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế.

Những nỗ lực đó càng cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng thể chế kinh tế

thị trường hiện đại trong quá trình đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia.

70

Các thiết chế kinh tế, chính trị của một quốc gia có nền kinh tế mở, hội nhập

với kinh tế toàn cầu trong xu thế tri thức hoá luôn chịu áp lực của đổi mới để thích

ứng với tính chất cạnh tranh của thị trường. Cần có sự nhanh nhạy, lan toả và liên

tục đổi mới, các hoạt động kinh tế và dân chủ hoá trong đời sống xã hội phải

thường xuyên diễn ra. Có như vậy mới tạo điều kiện giải phóng sức sản xuất để

phát triển kinh tế, góp phần củng cố và tăng cường an ninh kinh tế và sự ổn định ở

mức cần thiết đối với hệ thống chính trị.

Ba là, có quan hệ quốc tế đa dạng.

Trong thời đại toàn cầu hoá, sự phát triển kinh tế của một nước không thể

tách rời thị trường quốc tế và các mối quan hệ quốc tế song phương, đa phương. Thị

trường quốc tế không chỉ là nơi các nước tiến hành trao đổi hàng hoá, dịch vụ, khoa

học công nghệ, vốn, lao động và kinh nghiệm quản lý, mà còn là nơi mà lợi ích kinh

tế của các nước dễ nảy sinh xung đột, va chạm và cạnh tranh khốc liệt. Nếu như

một nước không thể trụ chân trên thị trường quốc tế thì lợi ích quốc gia đó sẽ bị tổn

hại, an ninh kinh té bị uy hiếp. Toàn cầu hoá và khu vực hoá đem lại sự ràng buộc

về lợi ích giữa các quốc gia, bởi vậy, tích cực tham dự hợp tác quốc tế và khu vực,

cùng chia sẻ lợi ích, cùng gánh vác nguy cơ là điều kiện cần thiết cho đảm bảo an

ninh kinh tế. Hầu hết các nước hiện nay đều coi việc tham dự vào hợp tác quốc tế

và khu vực dưới nhiều hình thức là cách thức quan trọng để đảm bảo an ninh kinh tế

của quốc gia. Ngoại giao kinh tế là một kênh quan trọng để bảo vệ lợi ích quốc gia,

đảm bảo an ninh kinh tế. Các cơ chế quốc tế như WTO, IMF, WB và các tổ chức

hợp tác khu vực như EU, APEC, ASEAN… đã phát huy tác dụng tích cực trên

nhiều lĩnh vực như thúc đẩy hợp tác thương mại khu vực và quốc tế, duy trì sự ổn

định kinh tế chung và làm tăng sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau.

Với những nước đang phát triển có tiềm lực kinh tế còn hạn chế, thông qua

quan hệ quốc tế đa dạng sẽ xây dựng được các mối quan hệ lợi ích đan xen chặt chẽ

giữa các đối tác kinh tế, nhất là những đối tác có tiềm lực mạnh, tạo thế cân bằng và

kiềm chế lẫn nhau, qua đó không để một đối tác nào có thể gây hại cho nền kinh tế

71

quốc gia. Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại cũng là để tránh bị

phụ thuộc một chiều vào bất cứ đối tác hay khu vực nào. Như vậy, chủ động và tích

cực tham gia vào các thể chế hội nhập quốc tế với những bước đi và nhịp độ phù

hợp chính là điều kiện quan trọng để đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia.

2.2.4. Tiêu chí đánh giá đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia

Để đánh giá tình hình đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong từng giai đoạn

cụ thể, có thể căn cứ vào các tiêu chí định tính và các tiêu chí định lượng. Udovic

(2006) đưa ra một số yếu tố vĩ mô để làm căn cứ đánh giá tình trạng bảo đảm an

ninh kinh tế quốc gia. Đó là các yếu tố như: Sự ổn định của các loại thị trường, mức

độ thương mại tự do, năng lực cạnh tranh cao, phát triển bền vững, tăng trưởng kinh

tế, tỉ lệ lạm phát và thất nghiệp thấp, tỉ giá hối đoái ổn định, cán cân thanh toán cân

bằng, nợ công trong giới hạn kiểm soát, sự ổn định các yếu tố sản xuất (như dầu

lửa, khí đốt…), khả năng ngăn ngừa và phản ứng với các cuộc tấn công được dự

báo trước, giải quyết các vấn đề liên quan tới tội phạm ma tuý, buôn lậu… Những

yếu tố quan trọng này là những chỉ báo căn bản về mức độ đảm bảo an ninh kinh tế

cho phép đo lường, kiểm soát và lập kế hoạch ứng phó.

Senkus và Raczkowski (2013) cũng đề xuất và mô tả các yếu tố và tiêu chí

đánh giá an ninh kinh tế ở cả ba cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và cá nhân. Ở cấp

độ quốc gia, an ninh kinh tế có thể đo bằng 10 chỉ tiêu cụ thể (bảng 2.1.)

Bảng 2.1. Những yếu tố và thước đo tình trạng an ninh kinh tế

STT Yếu tố/Thước đo Trạng thái mong đợi

Mô tả

1

Hiệu quả chi tiêu Kết quả - Chi phí ≥ 0

Đầu tư cho kinh tế, xã hội, môi

trường theo dự án có thể tính toán

hiệu quả ở từng giai đoạn và so

sánh với kế hoạch dự kiến (có tính

đến hiệu quả xã hội và chi phí thay

72

thế)

2

Sự đa dạng của

Đa dạng của nguồn

Một trong những điều kiện của an

nguồn năng lượng

năng lượng, đa dạng

ninh kinh tế cấp quốc gia là sự đang

của nguồn năng lượng

dạng về năng lượng. Năng lượng

nhập khẩu.

cung ứng không chỉ cần phong phú

về chủng loại mà còn phong phú về

nguồn cung nếu là từ nhập khẩu.

3

Các kế hoạch

Quản lý được rủi ro về

Chính phủ không chỉ thực hiện dự

quản lý rủi ro

kinh tế, xã hội, sinh

báo chiến lược mà còn cần chuẩn bị

thái.

các phương án phòng chống khi có

rủi ro xảy ra

4

Chỉ số phúc lợi

Chỉ số cần được quy

Chỉ số này cần được đối chiếu, so

con người

chuẩn với các nước

sánh với các nước phát triển hơn

khác

5

Việc làm và sự

Chỉ số cần được quy

Chỉ số này cần được đối chiếu, so

bình đẳng

chuẩn với các nước

sánh với các nước phát triển hơn

khác

6

Tuổi thọ

Chỉ số cần được quy

Chỉ số này cần được đối chiếu, so

chuẩn với các nước

sánh với các nước phát triển hơn

khác

7

Giáo dục

Chỉ số cần được quy

Chỉ số này cần được đối chiếu, so

chuẩn với các nước

sánh với các nước phát triển hơn

khác

8

Cấu

trúc

thất

Thất nghiệp cơ cấu ở

Cấu trúc thất nghiệp là yếu tố rất

nghiệp

mức thấp

quan trọng đối với an ninh kinh tế.

Mức độ cao của thất nghiệp cơ cấu

tạo ra rủi ro lớn về bất ổn và mất an

ninh kinh tế.

9

Nợ công

Thấp trong mức có thể Xu hướng của nợ công cũng cần

được theo dõi

73

10

Quản lý chất thải Tỷ lệ tái chế

Khi tỷ lệ tái chế cao thì tỷ lệ ô

nhiễm môi trường thấp

Nguồn: Senkus và Raczkowski (2013)

Các tác giả Senkus và Raczkowski (2013) cũng lưu ý rằng các tiêu chí nêu

trên có tính mở và còn có thể tranh luận, đồng thời nhấn mạnh nếu có quá nhiều yếu

tố và thước đo cũng có nghĩa là rất dễ mất kiểm soát đối với những yếu tố đó. Trên

thực tế, chỉ nên chọn khoảng 5 đến 6 yếu tố chiến lược để xây dựng thước đo và

kiểm soát tình hình đảm bảo an ninh kinh tế.

Trên cơ sở những tiêu chí đánh giá về đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia được

đề xuất trong những nghiên cứu quốc tế nêu trên, đồng thời căn cứ vào các nội dung

của khung lý thuyết về đảm bảo an ninh kinh tế đã phân tích ở mục 2.2.3, tác giả

luận án lựa chọn những tiêu chí sau đây để đánh giá mức độ đảm bảo an ninh kinh

tế quốc gia:

Các tiêu chí định lượng

Sự ổn định, an toàn và tăng trưởng của nền kinh tế qua các giai đoạn chính là

biểu hiện của mức độ an ninh kinh tế được đảm bảo và có thể được đo bằng các chỉ

tiêu kinh tế vĩ mô như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (không thấp nhưng cũng không

quá cao đến mức tăng trưởng “nóng”); Tỷ lệ lạm phát dưới hai con số và hợp lý so

với tỷ lệ tăng trưởng GDP; Tỷ giá hối đoái ổn định; Tỷ lệ nợ công/GDP hợp lý, đảm

bảo khả năng trả nợ, có cơ chế quản lý nợ hữu hiệu...

Các tiêu chí định tính

Căn cứ vào nội dung đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội

nhập, có thể đánh giá mức độ đảm bảo an ninh kinh tế theo mức độ thực hiện các

nội dung đó như: Mức độ phù hợp của chiến lược và thể chế kinh tế trong quá trình

hội nhập; mức độ đảm bảo ổn định các yếu tố nguồn lực kinh tế thiết yếu như năng

lượng, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nước, lương thực...; mức độ đảm bảo ổn định,

an toàn cho hệ thống tài chính, tiền tệ; thành quả và hạn chế của việc phòng chống

các loại tội phạm kinh tế gây ảnh hưởng đến an ninh kinh tế.

74

2.3. Kinh nghiệm đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam

2.3.1. Kinh nghiệm đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập

2.3.1.1. Kinh nghiệm đảm bảo an ninh kinh tế của Hàn Quốc

KTQT ở một số quốc gia

Kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế phát triển, đứng thứ ba ở châu Á và đứng

thứ 15 trên thế giới theo GDP (1.130 tỷ USD/ năm 2012). Sau Chiến tranh Triều

Tiên, kinh tế Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng, từ một trong những nước nghèo

nhất thế giới trở thành một trong những nước giàu nhất. Cuối thế kỷ XX, Hàn Quốc

là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế

giới hiện đại. Hàn Quốc cũng là một nước phát triển có sự tăng trưởng kinh tế

nhanh, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 5% mỗi năm. Cùng với sự phát

triển về kinh tế, đời sống của nhân dân được nâng cao rất nhanh, trở nên ngang

bằng thậm chí cao hơn các quốc gia phát triển khác ở châu Âu và Bắc Mỹ.

Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Hàn Quốc giai đoạn 1986-2016

Nguồn: http://www.tradingeconomics.com/south-korea/gdp-growth-annual

Năm 1997, như nhiều nước châu Á khác, Hàn Quốc bị khủng hoảng kinh tế

nặng nề. Theo các chuyên gia kinh tế, nguyên nhân của những bất ổn dẫn đến

khủng hoảng kinh tế năm 1997 tại Hàn Quốc là do nước này đã tiến hành tự do hóa

khu vực kinh tế đối ngoại trong điều kiện hệ thống tài chính - ngân hàng còn nhiều

75

yếu kém, đồng thời, Hàn Quốc cũng chịu tác động hiệu ứng lan truyền của cuộc

khủng hoảng bắt nguồn từ Thái Lan. Để tháo gỡ khó khăn, chính phủ Hàn Quốc đã

phải chấp nhận vay khẩn cấp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) 57 tỷ USD với những

điều kiện ngặt nghèo, tiến hành cải cách mạnh mẽ, hướng tới một nền kinh tế mở,

có tính thị trường. Các giải pháp đã được áp dụng trong thời gian này là: Cải tổ khu

vực tài chính; Cải tổ khu vực doanh nghiệp; Cải cách khu vực hành chính công; Cải

cách khu vực lao động; Các chính sách tự do hóa và mở cửa thị trường. Mặt khác,

đã áp dụng chính sách "thắt lưng buộc bụng", huy động quốc dân quyên góp tiền

vàng ủng hộ chính phủ. Kết quả là Hàn Quốc đã thành công trong việc khắc phục

khủng hoảng từ 1998 - 2000, trả xong nợ của IMF. Chiến lược phát triển kinh tế

hướng ngoại lấy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng đã góp phần quan trọng vào sự

chuyển đổi kinh tế toàn diện của Hàn Quốc. Dựa trên chiến lược này, nhiều chương

trình phát triển đã được thực hiện thành công.

Hình 2.2: GDP của Hàn Quốc giai đoạn 1986-2016 (đơn vị tỷ USD)

Nguồn: http://www.tradingeconomics.com/south-korea/gdp

Trong cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ giai đoạn 2007 – 2008, Hàn Quốc

lại gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Mặc dù không phải là trung tâm, nhưng Hàn

Quốc là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất tại khu vực Châu Á

của sự suy thoái kinh tế toàn cầu trong giai đoạn này. Sự ảnh hưởng này bắt nguồn

76

từ nhiều nguyên nhân trong đó có 4 nhóm nguyên nhân chính đó là: Thứ nhất là nền

kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu với các thị trường cơ bản là Mỹ,

Nhật và Trung Quốc; Thứ hai là các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn bị ám ảnh nhiều

bởi cuộc khủng hoảng tài chính của Hàn Quốc năm 1997, cộng theo đó là các dự

báo tăng trưởng rất xấu về kinh tế Hàn Quốc trong 2009 và căn bệnh kinh niên về tổ

chức đình công của các liên đoàn lao động Hàn Quốc; Thứ ba là tiếp theo cuộc

khủng hoảng thẻ tín dụng năm 2003, bong bóng nhà đất năm 2005, nạn thất nghiệp

từ suy thoái kinh tế lần này khiến nhu cầu tiêu dùng trong nước của Hàn Quốc giảm

mạnh. Thứ tư là nền kinh tế Hàn Quốc không chỉ phụ thuộc lớn vào xuất khẩu mà

còn phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu, đặc biệt là việc nhập khẩu nguyên nhiên vật

liệu. Sự mất giá nghiêm trọng của đồng Won khiến các doanh nghiệp nhập khẩu

của Hàn Quốc lâm vào hoàn cảnh hết sức khó khăn.

Để đảm bảo an ninh kinh tế, Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt các giải pháp

đồng bộ sau đây:

Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm (Early Warning System - EWS)

Nhận thức được hậu quả nghiêm trọng khi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra,

ngay khi “sóng gió“ vừa tạm qua đi, Chính phủ Hàn Quốc đã có những bước đi sớm

trong việc tìm kiếm các biện pháp ngăn ngừa khủng hoảng, cụ thể là tập trung vào

phát triển những công cụ nhằm giám sát thị trường và cảnh báo sớm khủng hoảng,

bao gồm: Hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tiền tệ được xây dựng tại Trung tâm

Tài chính Quốc tế Hàn Quốc (KCIF) (từ tháng 4/1999); Hệ thống giám sát trực

tuyến dòng ngoại hối (từ tháng 4/1999); Cơ quan Tình báo Tài chính Hàn Quốc

(FIU); Giám sát sự lành mạnh của thị trường ngoại hối (Cơ quan Dịch vụ Giám sát

tài chính thực hiện).

Hoạt động cảnh báo sớm kinh tế của Hàn Quốc được thực hiện bởi 7 cơ quan

theo các lĩnh vực cụ thể: tiền tệ - ngoại hối, thị trường tài chính, năng lượng, hàng

hóa - nguyên liệu cơ bản, môi trường, lao động và bất động sản. Cơ quan đầu mối

xây dựng và phát triển hệ thống cảnh báo sớm kinh tế là Bộ Tài chính và Kinh tế

77

Hàn Quốc, trong đó Trung tâm Tài chính Quốc tế Hàn Quốc là cơ quan chủ chốt.

Bộ Tài chính và Kinh tế có nhiệm vụ phối hợp với các bộ, ban, ngành liên quan

trong việc thu thập số liệu dùng cho công tác cảnh báo. Hệ thống cảnh báo sớm

được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu định tính và

định lượng, trong đó, mô hình định lượng được thiết kế nhằm phát hiện các dấu

hiệu khủng khoảng, còn phương pháp định tính nhằm giám sát những vấn đề mà mô

hình định lượng không đề cập đến.

Hệ thống cảnh báo sớm mang tính định tính gồm 4 nhóm công tác ứng với 4

nhiệm vụ cụ thể: (1) Nhóm tình báo thị trường: có nhiệm vụ giám sát tỷ giá hối

đoái, thu nhập cố định, cổ phiếu, chứng khoán phái sinh, thị trường hàng hóa; (2)

Nhóm nghiên cứu và phân tích: có nhiệm vụ giám sát các nền kinh tế là những đối

tác lớn gồm Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ…; (3) Nhóm giám sát thị trường: có

nhiệm vụ giám sát liên tục các sự kiện, chương trình nghị sự mới xảy ra (đây là

công cụ hàng đầu nhằm phát hiện rủi ro); và (4) Một bộ phận của Nhóm EWS: giám

sát những thay đổi, chương trình nghị sự có liên quan tới Hàn Quốc theo quan điểm

của các nước khác.

Ổn định thị trường ngoại hối

Trong những năm 2008-2009, Hàn Quốc đã cố gắng giảm bớt những tác

động từ cơn sốc tài chính bên ngoài và đảm bảo tính thanh khoản bằng ngoại tệ trên

thị trường thông qua các hợp tác song phương về các gói hoán đổi ngoại tệ và tăng

cường việc quản lý chặt chẽ dự trữ ngoại tệ.

Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) ký hợp đồng hoán đổi tiền tệ với

FED trị giá 30 tỷ USD. Theo đó, BOK gửi đồng Won vào FED, đổi lại BOK được

sử dụng USD để cứu trợ hệ thống ngân hàng trong nước. Hàn Quốc và Nhật Bản

cũng có thoả thuận hoán đổi ngoại tệ giữa đồng won và yên tương đương với 20

nghìn tỷ đô la. Bên cạnh đó, quốc gia này còn có một thoả thuận hoán đổi tiền tệ

trong thời hạn 3 năm với Trung Quốc trị giá 38 nghìn tỷ Won (tương đương với

25,1 tỷ USD).

78

Tái cấu trúc doanh nghiệp

Chính phủ Hàn Quốc đánh giá việc thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp là một

phương án tuy không mới nhưng lại rất phù hợp với bối cảnh hiện nay. Trọng tâm

của Hàn Quốc là tích cực cứu các doanh nghiệp quan trọng và cơ cấu lại một loạt các

ngành kinh tế mũi nhọn, tiến hành tin giản nhân sự doanh nghiệp Nhà nước. Phương

án thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp được tiến hàng bằng cách: Chính phủ thành lập

Quỹ tái cơ cấu doanh nghiệp và giúp đỡ các doanh nghiệp đang phải đối mặt với

những khó khăn về mặt tài chính bằng cách mua lại tài sản của những doanh nghiệp

đó. Đây cũng là phương án đã giúp Hàn Quốc trở thành quốc gia đầu tiên nhanh

chóng thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế 10 năm trước đây. Quyết sách lần này của

Chính phủ Hàn Quốc được hi vọng là sẽ phát huy hiệu quả tương tự.

Xây dựng và củng cố các chính sách tài khóa để kích thích cầu nội địa

Thông qua các gói hỗ trợ về kinh tế. Chính phủ tập trung hỗ trợ các doanh

nghiệp vừa và nhỏ và các hộ gia đình có thu nhập thấp. Để kích thích cầu nội địa

Chính phủ đã đã ban hành chính sách tài khoá nới lỏng với một gói ngân sách kích

cầu trị giá gần 14 nghìn tỷ Won (trong đó 11 nghìn tỷ chi tiêu Chính phủ, 3 nghìn tỷ

hỗ trợ về thuế) nhằm tăng số lượng dự án công, tạo cơ hội tham gia đấu thầu và

triển khai dự án cho các doanh nghiệp trong nước, đồng thời kích thích chi tiêu của

người dân. Một kế hoạch kích cầu được Hàn quốc công bố giữa tháng 3-2009 cho

biết Chính phủ dành thêm 4,6 tỷ USD cho mục tiêu kích cầu, tập trung vào đối

tượng không được hưởng phúc lợi xã hội, người thất nghiệp, người có thu nhập

thấp. Một trong những biện pháp được thực hiện là tặng phiếu mua hàng cho những

người này.

Chính phủ tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tránh rơi vào bẫy

thanh khoản cũng như các gia đình có thu nhập thấp bằng cách mở rộng bảo lãnh

tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ giá trị 6 nghìn tỷ won, cung cấp miễn phí

các dịch vụ đào tạo, tư vấn quản lý cho doanh nghiệp nhỏ và đào tạo tư vấn khởi

nghiệp cho người dân, giảm lãi suất và tăng cường hỗ trợ về tài chính. Chính phủ đã

79

thông qua khoản bảo lãnh vay nợ nước ngoài cho các ngân hàng và doanh nghiệp

trong nước trị giá 100 tỷ USD trong thời hạn vay 3 năm kể từ ngày vay. Chính phủ

bỏ ra 1,3 nghìn tỷ won cho các ngân hàng quốc doanh như Ngân hàng phát triển

Hàn Quốc, Ngân hàng công nghiệp Hàn Quốc và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn

Quốc để cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay nhằm hỗ trợ về tài chính.

Cải cách thể chế kinh tế nhằm hỗ trợ về đầu tư, khuyến khích nghiên cứu

phát triển

Hàn Quốc tiến hành cải cách mạnh mẽ luật pháp như cải tiến và giảm bớt

những quy định không cần thiết về môi trường, quyền sử dụng đất và các vấn đề sử

dụng lao động, giảm bớt gánh nặng về thuế cho các doanh nghiệp.

Các quy định về xây dựng nhà máy, mở rộng cơ sở hay tái định cư trong khu

phức hợp công nghiệp giữa khu vực quản lý phát triển và khu vực kiểm soát dân số

sẽ bị dỡ bỏ. Các hạn chế trong việc mở rộng cơ sở nhà máy ngoài khu phức hợp

công nghiệp cũng bị huỷ bỏ hoàn toàn, đồng thời huỷ bỏ việc cấm xây dựng toà nhà

quy mô lớn trong khu vực bỏ trống với điều kiện là những toà nhà này cần đảm bảo

giới hạn kiểm soát về dân số, thực hiện tăng cường cung cấp đất công nghiệp khu

vực quản lý phát triển, và toàn bộ khu vực kinh tế tự do Incheon sẽ được coi là một

khu vực quản lý tăng trưởng, xem xét và thông thoáng hơn các quy định về môi

trường vốn được đánh giá là quá mức ngặt nghèo so với các quốc gia khác. Chính

phủ lên kế hoạch khích lệ đầu tư mới và xúc tiến tạo việc làm thông qua việc cải

cách các quy định trong lĩnh vực dịch vụ. Hàn Quốc tiếp tục tăng cường tính cạnh

tranh của các dịch vụ giá trị gia tăng cao như truyền hình, quảng cáo, thiết kế, đồng

thời hạ thấp các rào cản gia nhập các dịch vụ như giáo dục hay y tế.

Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc còn khuyến khích nghiên cứu và phát

triển cho tiềm năng phát triển dài hạn. Chính phủ yêu cầu các tập đoàn phải tiếp tục

đẩy mạnh đầu tư chiều sâu trên cơ sở nền tảng công nghệ mới thân thiện với môi

trường nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các tập đoàn, của hàng hóa sản

80

phẩm Hàn Quốc trên trường quốc tế. Ở Hàn Quốc, hiện nay tỷ lệ thuế được khấu

trừ so với chi phí dành cho hai lĩnh vực này ở lĩnh vực công nghiệp là 30%, công

nghệ hạt nhân là 25%.

Tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế

Mục đích là nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường và ảnh hưởng của Hàn

Quốc cho sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, tìm kiếm các cơ hội đầu tư cho các tập

đoàn và doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc tại các thị trường đang phát triển, mới

nổi như Nga, Ấn Độ, Đông Âu, Trung Quốc, ASEAN, Việt Nam,… Nâng cấp các

mối quan hệ hiện tại lên mối quan hệ chiến lược với các cường quốc nhiều tài

nguyên và thị trường như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam…Chương trình

tái cơ cấu nền kinh tế đã giúp Hàn Quốc tiếp tục phát triển và phòng tránh tốt trước

những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Bằng những chính

sách phản ứng kịp thời và mạnh mẽ nhất với những nguyên tắc, chiến lược tái cơ

cấu trên 6 lĩnh vực được thực hiện: tài chính và doanh nghiệp, hệ thống giám sát tài

chính, thủ tục phá sản, quản trị doanh nghiệp chính sách vĩ mô, mạng lưới an sinh

xã hội và cấu trúc tài chính quốc tế, Hàn Quốc đã đạt được những thay đổi tích cực

về hiện đại hóa khuôn khổ pháp lý, thể chế thị trường tài chính thông lệ kinh doanh,

2.3.1.2. Kinh nghiệm đảm bảo an ninh kinh tế của Malaysia

năng lực của Chính phủ trong đối phó với nguy cơ tiềm ẩn và suy thoái kinh tế.

Sau khi giành độc lập, Malaysia chủ trương phát triển kinh tế dựa vào nội

lực, phát triển theo hướng công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và phát triển nông

thôn. Mục tiêu của chính sách là phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ. Tuy nhiên,

chính sách phát triển nền kinh tế theo hướng chủ yếu dựa vào nội lực không phát

huy hiệu quả, nền kinh tế bị suy thoái, sản xuất hàng xuất khẩu dựa vào nguyên liệu

nhập khẩu, bất bình đẳng đa sắc tộc gia tăng. Điều này tạo ra những bất ổn về tình

hình chính trị - xã hội, đẩy nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả và tiềm ẩn rất nhiều

nguy cơ phụ thuộc sâu hơn vào bên ngoài.

81

Trước những bất ổn về kinh tế - chính trị - xã hội, Malaysia đã phải điều

chỉnh chính sách theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng xã

hội (chính sách kinh tế mới – NEP), trong đó đặc biệt chú trọng đến chính sách thu

hút đầu tư nước ngoài FDI và coi đây là "chìa khóa" để phát triển khu vực chế tạo,

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài của

Malaysia tập trung vào các đối tác đầu tư lớn như các nước công nghiệp phát triển,

đặc biệt là Nhật Bản và Mỹ. Chính sách này đã có tác động hai mặt tới vấn đề an

ninh kinh tế của Malaysia: thứ nhất, có tác động tích cực, tạo ra sự tăng trưởng cao

trong nhiều năm và giải quyết được vấn đề bất ổn trong chính trị - xã hội. Điều này

tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh và đảm bảo ổn định tình hình chính trị -

xã hội. Thứ hai, chính sách tạo ra những tác động tiêu cực làm cho sự phát triển

trong nền kinh tế bị mất cân đối: phát triển nền kinh tế dựa vào ngành chế tạo, phụ

thuộc vào xuất khẩu của ngành công nghiệp điện tử trong đó sở hữu thuộc người

nước ngoài. Vấn đề phát triển kinh tế mất cân đối và phụ thuộc vào xuất khẩu của

ngành điện tử được đánh giá là nguy cơ của mất an ninh kinh tế.

Đến nửa đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX, nền kinh tế của Malaysia vẫn tiếp tục

đạt mức tăng trưởng cao, tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp thấp, thu nhập bình quân trên

đầu người tăng. Đây là những điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế, tuy nhiên, trong

thời điểm đó, nền kinh tế Malaysia đã dần bộc lộ những nguy cơ tiềm ẩn của sự bất

ổn, đặc biệt có sự yếu kém trong chính sách kinh tế vĩ mô. Đây chính là nguyên

nhân chính dẫn đến sự mất an ninh kinh tế trong cuộc khủng hoảng tài chính khu

vực vào cuối năm 1997. Hơn nữa, việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài FDI nhằm phát triển công nghiệp đã dẫn đến tác động tiêu cực đến môi

trường. Vấn đề ô nhiễm môi trường được báo động ở Malaysia, tình trạng ô nhiễm

môi trường nước do các chất thải công nghiệp là tình trạng đáng chú ý. Trong quá

trình phát triển, đặt Malaysia vào tình thế lựa chọn là bảo vệ môi trường hay tính

hấp dẫn của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây chính là thách thức lớn trong quá trình

đảm bảo an ninh kinh tế của Malaysia.

82

Trước tình hình chung của khu vực cũng như những yếu kém trong quá trình

phát triển kinh tế, khủng hoảng tài chính tất yếu xảy ra. Malaysia là một nước chịu

tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng này, vấn đề an ninh kinh tế được quan

tâm hàng đầu. Chính phủ Malaysia đã phải sử dụng rất nhiều chính sách cứng rắn

nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng. Các biện pháp này là nội dung chủ yếu của

kế hoạch phục hồi nền kinh tế Malaysia và được thực hiện từ tháng 9 năm 1998.

Các chính sách thực hiện bao gồm: Ổn định đồng nội tệ; Củng cố lòng tin của các

nhà đầu tư; Duy trì ổn định thị trường tài chính; Cải thiện tình hình kinh tế vĩ mô;

Đảm bảo công bằng xã hội; Phục hồi các ngành kinh doanh bị khủng hoảng nặng.

Nhờ các chính sách trên mà nền kinh tế của Malaysia đã có sự phục hồi rõ rệt. Tăng

trưởng GDP từ mức -6,7% năm 1998 đã tăng lên mức tăng trưởng dương (1%) năm

1999 và có thể đạt được từ 7 – 8,5% năm 2000, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác đều

được cải thiện đáng kể (Phùng Xuân Nhạ, 2001).

Như vậy, trường hợp của Malaysia cho thấy tăng trưởng cao và ổn định là

điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế. Trong quá trình phát triển kinh tế, với mục tiêu

tăng cường an ninh kinh tế, Malaysia đã rất thành công với chiến lược tăng trưởng

nhanh dựa vào thu hút các nguồn lực bên ngoài. Tuy nhiên, chiến lược này đã

không phát huy hiệu quả trong dài hạn do những hạn chế về chính sách kinh tế vĩ

mô. Điều này làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không ổn định, an ninh kinh tế bị

2.3.1.3. Kinh nghiệm đảm bảo an ninh kinh tế Indonesia

đe dọa.

Trước khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế

của Indonesia luôn đạt ở mức khá khoảng từ 6-7% năm. Mức tăng trưởng này tạo

tiền đề cho sự gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người từ 920 USD vào năm

1994 lên 1086 USD năm 1997. Tỷ lệ lạm phát được cải thiện, những năm đầu thập

kỷ 1990 tỷ lệ lạm phát là 8-9%/năm giảm xuống còn 6,5% vào năm 1996 và 5,1%

vào đầu năm 1997 (Kim Ngọc, Hồng Nhung, 2001).

83

Đặc điểm nổi bật trong thập kỷ 1990 là quá trình tư nhân hóa hệ thống ngân

hàng và mở cửa cho sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài diễn ra nhanh

chóng. Hệ thống ngân hàng của Indonesia bao gồm một số lượng lớn các thành viên

bao gồm: Ngân hàng Indonesia (với tư cách là ngân hàng trung ương), ngân hàng

thương mại thuộc sở hữu nhà nước, ngân hàng tư nhân cấp quốc gia, ngân hàng liên

doanh, ngân hàng thuộc sở hữu của chính quyền địa phương, ngân hàng nông thôn,

trung gian tiền tệ và ngoại tệ khác hoạt động dưới sự điều tiết và giám sát của Ngân

hàng Indonesia. Sự hoạt động tự do của hệ thống ngân hàng cộng với chính sách lãi

suất cao đã làm cho khả năng tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước của các

nhà sản xuất, kinh doanh. Sự tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn nhưng việc sử

dụng các nguồn vốn thực sự chưa hiệu quả làm cho tổng nợ nước ngoài của khu vực

tư nhân tăng lên nhanh chóng. Hơn nữa, nợ khó đòi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng

số vốn vay của hầu hết các ngân hàng. Nguyên nhân của tình trạng này là do các

ngân hàng đã cho vay quá nhiều vào những lĩnh vực có độ rủi ro cao như bất động

sản, thị trường cổ phiếu, việc phát triển thể chế của các ngân hàng còn hạn chế, việc

sử dụng các chính sách vĩ mô còn nhiều bất cập, mức độ công khai thông tin, công

tác giám sát và sự minh bạch của hoạt động ngân hàng còn yếu. Những biểu hiện

yếu kém trên của hệ thống ngân hàng đã làm giảm tác động của tự do hóa tài chính

đối với hiệu quả phân bổ nguồn lực – cuộc khủng hoảng tài chính đã diễn ra.

Khủng hoảng tài chính cộng với sự bất ổn chính trị đã dẫn đến hậu quả mà

nền kinh tế Indonesia phải gánh chịu hết sức nặng nề. Phát triển kinh tế giảm sút

làm trầm trọng thêm những khoản nợ khó đòi; xuất khẩu giảm; thất nghiệp tăng

nhanh; tỷ lệ đói nghèo tăng, chủ yếu ở các vùng nông thôn. Đến giữa năm 1998,

nền kinh tế phải gánh chịu thêm hậu quả do bạo loạn gây ra. Điều này đặt ra yêu

cầu phải có những chính sách cải cách sâu rộng và thích hợp để đảm bảo quá trình

phát triển kinh tế bền vững. Một số chính sách cải cách nền kinh tế đã được thực

hiện ở Indonesia như: cải cách hệ thống ngân hàng; Cải cách về luật pháp; Phát

triển chương trình mạng lưới an toàn xã hội.

Cải cách hệ thống ngân hàng

84

Vấn đề của hệ thống ngân hàng ở Indonesia chính là sự quản lý và sử dụng

vốn vay không hiệu quả. Điều này ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn vốn cho các

khu vực kinh tế dẫn đến ảnh hưởng hiểu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh của

sản phẩm trên thị trường quốc tế. Để cải cách ngân hàng, chính phủ đã cải cách theo

hướng loại bỏ các ngân hàng yếu kém. Các ngân hàng được chia thành ba loại: loại

A gồm các ngân hàng có tỷ lệ đủ vốn hoạt động trên 4%; loại B gồm các ngân hàng

có tỷ lệ từ 4% đến âm 25%; và loại C gồm các ngân hàng có tỷ lệ này nhỏ hơn âm

25%. Các ngân hàng loại B và C có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng được yêu

cầu về vốn. Đồng thời, chính phủ đưa ra các chương trình tái tạo vốn cho các ngân

hàng, trong đó chính phủ sẽ cung cấp 80% tỷ lệ đủ vống hoạt động cho ngân hàng

vào 20% còn lại sẽ do các ngân hàng tự đóng góp. Các ngân hàng nằm trong

chương trình tái tạo vốn được mua trái phiếu của Ngân hàng trung ương (Ngân

hàng trung ương mua từ Bộ Tài chính) và được hưởng phần lãi suất chênh lệch.

Ngoài ra, chính phủ còn quy định mới về vốn tối thiểu cho một ngân hàng nước

ngoài hoặc mở một ngân hàng địa phương. Các chính sách này có tác động trực tiếp

và tích cực đến sự hoạt động hiệu quả của hệ thống ngân hàng.

Cải cách về luật pháp

Việc cải cách luật pháp trước đây ở Indonesia chưa được quan tâm đúng mức

ở những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Vấn đề luật pháp không

nghiêm minh cộng với nạn tham nhũng rất cao đã làm giảm hiệu quả của các biện

pháp kinh tế. Điều này đặt ra yêu cầu chính phủ Indonesia phải thực hiện ngay quá

trình cải cách luật luật pháp. Điểm xuất phát đầu tiên là cải cách hệ thống tòa án.

Tuy nhiên, vấn đề sửa đổi các bộ luật và ban hành các bộ luật mới lại chưa được

chú trọng.

Phát triển chương trình mạng lưới an toàn xã hội

Chương trình mạng lưới an toàn xã hội được đưa ra vào nửa cuối năm 1998,

với ba mục tiêu cơ bản là an ninh lương thực, đưa ra kế hoạch để tăng thu nhập cho

người dân và duy trì khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Để thực hiện

85

được các mục tiêu trên, chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp khác nhau từng lĩnh

vực cụ thể trong đó phân chia thành các chương trình quan trọng và không quan

trọng. Khu vực quan trọng nhất trong Chương trình đó là giáo dục, chính phủ đầu tư

kinh phí lớn cho giáo dục đặc biệt là cho người nghèo. Tiếp theo là lĩnh vực y tế,

chính phủ hỗ trợ người dân tiếp cận được với các dịch vụ ý tế trong lúc cần thiết.

2.3.2.1. Cần có chiến lược và chính sách phát triển kinh tế phù hợp với yêu cầu

của hội nhập để giữ được trạng thái ổn định cho nền kinh tế

2.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho cho Việt Nam

Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, chiến lược phát triển kinh tế hướng

ngoại lấy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng đã góp phần quan trọng vào sự

chuyển đổi kinh tế toàn diện của quốc gia này. Tuy nhiên, việc phụ thuộc vào một

số các thị trường lớn trong cả hoạt động xuất khẩu hàng hoá và nhập khẩu nguyên

vật liệu hàm chứa nhiều rủi ro khi nền kinh tế thế giới biến động. Đây cũng là một

trong những nguyên nhân gây ra cú sốc đối với kinh tế Hàn Quốc trong hai lần

khủng hoảng, 1997 và 2008 mà Việt Nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm. Trong

bối cảnh khủng hoảng, nhờ nỗ lực tiến hành cải cách mạnh mẽ, xây dựng nền kinh

tế thị trường dân chủ, phá bỏ quyền lực của các tài phiệt (Chaebols), coi trọng các

công ty vừa và nhỏ, giảm sự can thiệp của nhà nước, chống cấu kết chính trị - kinh

doanh, Hàn Quốc đã nhanh chóng ra khỏi khủng hoảng kinh tế 1997, và phát triển

mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tiếp theo.

Ở khía cạnh này, từ kinh nghiệm của Malaysia, một số bài học có thể rít ra

cho Việt Nam là:

Thứ nhất, thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế theo hướng tự chủ

không có nghĩa là chỉ dựa hoàn toàn vào nguồn lực bên trong mà cần thu hút các

nguồn lực bên ngoài nhằm đẩy nhanh quá trình tăng trưởng nền kinh tế. Tuy nhiên,

trong quá trình thu hút nguồn lực bên ngoài như nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài FDI không nên quá tập trung vào một ngành hoặc một số ngành, dựa vào một

86

số ít các đối tác (như Malaysia chỉ dựa chủ yếu phát triển ngành điện tử và tập trung

vào các đối tác công nghiệp lớn như Nhật Bản, Mỹ). Nền kinh tế không được phụ

thuộc lớn vào bên ngoài.

Thứ hai, thực hiện chính sách tăng trưởng nhanh với thúc đẩy thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài cần kết hợp với tính hiệu quả của các chính sách vĩ mô nhằm

tạo ra tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế. Các chính sách vĩ mô trong nền kinh tế

cần phải minh bạch hóa, các biện pháp kinh tế của chính phủ đảm bảo tính khả thi

và hoạt động của các khu vực kinh tế quốc doanh hiệu quả.

Thứ ba, tăng trưởng kinh tế cần phải kết hợp với đảm bảo công bằng xã hội

và bảo vệ môi trường. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế, sự

công bằng xã hội sẽ đảm bảo an ninh chính trị và bảo vệ môi trường đảm bảo an

ninh môi trường. Malaysia đã từng rơi vào tình trạng ô nhiễm môi trường do phát

triển công nghiệp thái quá. Do đó, kinh nghiệm Malaysia cho thấy cần đảm bảo an

ninh môi trường, an ninh kinh tế trong mối quan hệ tổng thế của an ninh quốc gia.

Cũng cần chú ý duy trì ổn định chính trị để tạo môi trường thuận lợi cho các

cải cách kinh tế. Bài học từ Indonesia cho thấy khi tình hình chính trị bất ổn thì các

vấn đề cải cách kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. Do đó, trong quá trình đảm bảo an ninh

kinh tế cần thực hiện trong mối quan hệ tổng thể với đảm bảo an ninh chính trị.

2.3.2.2. Tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế toàn diện, sâu rộng và kịp thời khi

nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn

Kinh nghiệm của các nước như Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia đều cho

thấy, trong bối cảnh bất ổn kinh tế do khủng hoảng, tái cấu trúc phải được thực hiện

ở tất các các cấp độ của nền kinh tế bao gồm tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế, tái cơ

cấu ngành, cơ cấu vùng và tái cơ cấu các doanh nghiệp. Trong đó, tiến hành đồng

thời tái cơ cấu tài chính và doanh nghiệp.

Tái cấu trúc đi phải đi cùng với nó là thay đổi mô hình tăng trưởng theo

hướng thị trường, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển

87

xanh và thân thiện với môi trường. Tái cấu trúc kinh tế theo hướng hội nhập vào

nền kinh tế toàn cầu thông qua việc tham gia ngày càng sâu rộng vào chuỗi giá trị

toàn cầu của các ngành, cũng như các mạng lưới sản xuất khu vực và quốc tế.

Tái cấu trúc kinh tế cần chú trọng cân đối giữa nguồn tiết kiệm trong nước và

tiết kiệm nước ngoài để tránh phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn nước ngoài, cân đối

giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Tái cấu trúc nền kinh tế phải

theo hướng nâng cao hiệu quả tiêu thụ năng lượng và phát triển các nguồn năng

lượng thay thế nhằm giảm mức độ nhạy cảm về năng lượng và mức độ phụ thuộc

vào nhập khẩu.

Tái cấu trúc theo hướng phát triển dựa trên quan hệ hài hòa giữa thị trường

trong nước và thị trường quốc tế. Nền kinh tế phát triển theo hướng “đứng vững

trên hai chân” một mặt đẩy mạnh xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, mặt khác tăng

cường phục vụ thị trường nội địa và thúc đẩy đầu tư trong nội bộ nền kinh tế.

Bài học khủng hoảng tài chính ở Indonesia đã cho thấy việc tư nhân hoá vội

vã và mở cửa cho hệ thống ngân hàng nước ngoài tràn vào trong khi thể chế tài

chính và chính sách vĩ mô còn bất cập và yếu kém trong hoạt động ngân hàng nội

địa là nguyên nhân dẫn đến mất an toàn tài chính, tiền tệ, một bài học mà Việt Nam

cần tránh. Ngay cả Hàn Quốc, một quốc gia có trình độ phát triển kinh tế cao thuộc

OECD cũng đã từng rơi vào khủng hoảng khi tiến hành tự do hóa khu vực kinh tế

2.3.2.3. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm

đối ngoại trong điều kiện hệ thống tài chính - ngân hàng còn nhiều yếu kém.

Qua nghiên cứu việc xây dựng và phát triển hệ thống cảnh báo sớm của Hàn

Quốc, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho công tác cảnh báo sớm kinh tế

của Việt Nam như sau:

Để xây dựng được một hệ thống cảnh báo sớm tương đối hoàn chỉnh và hiệu

quả, các nước có nền kinh tế mạnh như Hàn Quốc cũng phải mất một khoảng thời

gian không ngắn. Vì vậy, với điều kiện của Việt Nam hiện nay, công tác cảnh báo

88

sớm cần phải được xây dựng từng bước, trước tiên trong một số ngành, lĩnh vực lựa

chọn, sau đó mới tiến tới xây dựng hệ thống cảnh báo sớm ở cấp quốc gia.

Phải xác định rõ lĩnh vực kinh tế - xã hội cần cảnh báo trong mỗi giai đoạn

phát triển, chủ yếu theo dõi chặt chẽ, nâng cao chất lượng phân tích và dự báo tình

hình trong nước và quốc tế, đặc biệt những biến động về tình hình kinh tế, tài chính

thế giới, chủ động xây dựng các phương án ứng phó, hạn chế tác động bất lợi từ bên

ngoài tới hệ thống tài chính, ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế,...

Cần có một quy chế rõ ràng về công tác cảnh báo, giúp thống nhất và phân rõ

phạm vi, trách nhiệm của các đơn vị tham gia thực hiện công tác cảnh báo. Bên

cạnh đó, cần hình thành một cơ quan đầu mối trong việc thu thập, lựa chọn các kết

quả cảnh báo để trình Chính phủ. Công tác cảnh báo sớm rất cần các thông tin đầy

đủ, chính xác và cập nhật; do vậy, các cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ

cảnh báo nên là cơ quan có chức năng cung cấp thông tin hoặc các cơ quan đầu mối

về thông tin.

Hiện nay, ở nước ta chưa có cơ quan chính thức nào thực hiện chức năng

cảnh báo sớm kinh tế. Việt Nam mới chỉ đang tham gia ở cấp độ khu vực ASEAN,

2.3.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế

bao gồm cả các quốc gia: Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan và Singapore.

Hội nhập là định hướng chủ đạo và vẫn tiếp tục là con đường lớn trong sự

phát triển của kinh tế nước ta, ngay cả trong việc xử lý hệ quả của khủng hoảng.

Chúng ta phải nhanh nhạy trong việc tìm kiếm thị trường ta có ưu thế, ít bị ảnh

hưởng, ít chịu sự cạnh tranh; nhanh chóng thoát ra khỏi một nền kinh tế gia công,

tìm kiếm những công đoạn có giá trị, hàm lượng trí tuệ cao hơn và có hiệu quả hơn.

Tổ chức thực hiện và phối hợp tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các

cam kết quốc tế về thương mại và đầu tư, trước hết là các cam kết trong khuôn khổ

WTO, ASEAN, ASEAN+ và một số cam kết song phương khác. Bên cạnh đó, để

đảm bảo tiếp cận thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, chúng ta cần tiếp tục chú

89

trọng việc đàm phán và ký kết các hiệp định mở cửa thị trường với một số đối tác

chọn lọc, có tính đến các yếu tố chiến lược trong quan hệ giữa Việt Nam với đối tác

đó cũng như với khu vực và với toàn cầu.

90

Kết luận chương 2

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, khi các quốc gia

đều nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế thì những xung đột, đối

kháng lợi ích kinh tế giữa các quốc gia diễn ra thường xuyên hơn, hình thức đa

dạng hơn và tính chất ngày càng phức tạp. Các nước trên thế giới đều phải đối mặt

với những thách thức mới đe doạ an ninh và ổn định. Đó là những vấn đề về an ninh

tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng... với

những đối tượng mới như công ty xuyên quốc gia, giới đầu cơ quốc tế, tội phạm có

tổ chức xuyên quốc gia về kinh tế... Những vấn đề đó khiến cho việc đảm bảo an

ninh kinh tế càng trở thành vấn đề trung tâm trong đảm bảo an ninh quốc gia, an

ninh khu vực và an ninh quốc tế. Đảm bảo an ninh kinh tế bao gồm việc xây dựng

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và thể chế kinh tế đáp ứng yêu cầu hội nhập;

Đảm bảo ổn định những yếu tố nguồn lực thiết yếu của nền kinh tế; Đảm bảo ổn

định an toàn cho hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia và phòng chống các loại tội

phạm kinh tế gây ảnh hưởng tới an ninh kinh tế quốc gia. Nhận biết được cơ sở lý

thuyết, những yếu tố ảnh hưởng tới đảm bảo an ninh kinh tế và những điều kiện

đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia là cần thiết để có thể triển khai phân tích thực

trạng và đề xuất giải pháp đảm bảo an ninh kinh tế ở Việt Nam.

91

Chương 3

THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI

NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2015

3.1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam và tác động đến an

ninh kinh tế

3.1.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp

thiết của việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước

hoà vào trào lưu phát triển chung của thế giới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,

Đảng ta luôn chú trọng việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại,

coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối quốc tế của mình.

Cũng chính vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của

nhân dân ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã luôn giành được sự đồng tình,

ủng hộ, sự giúp đỡ rộng rãi của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu cấp bách phải nhanh chóng

vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, phá thế bao vây cấm vận của các thế

lực thù địch, đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, trước hết

trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, đồng thời được thực

hiện tích cực hơn.

92

Bảng 3.1: Tóm tắt các mốc hội nhập chính của Việt Nam

Các tổ chức

Thành viên

Thời gian

tự do

thành viên thứ 8 của AFTA

1995

Khu vực mậu dịch ASEAN (AFTA),

1995

Khu vực đầu tư ASEAN (AIA);

Thành viên

ký Hiệp định khung với EU

(1995);

1996

tham gia Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)

1998

Tham gia Diễn đàn APEC

2000

ký Hiệp định Thương mại với

Hoa Kỳ dựa trên những nguyên tắc cơ bản của WTO

2006

ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA)

10 nước ASEAN và Hàn Quốc

2007

WTO

Trở thành thành viên thứ 150

2008

ASEAN - Nhật Bản (AJCEP)

10 nước ASEAN và Nhật Bản

2008

Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) Việt Nam và Nhật Bản

2009

ASEAN - Ấn Độ (AITIG)

10 nước ASEAN và Ấn Độ

2009

ASEAN - Úc-Niu Di-lân

10 nước ASEAN và Úc, Niu Di-

lân

2011

Việt Nam - Chi-lê

Việt Nam và Chi-lê

2012

tế

Hiệp định khu vực về đối tác kinh (RCEP toàn diện ASEAN+6)

10 nước ASEAN, Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Niu Dilân

Việt Nam và khối EU

2015

Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU)

Armenia,

Belarus,

2015

Việt Nam – Liên minh kinh tế Á Âu

Nga, Kazakhstan, Kyrgyzstan

93

Việt Nam – Hàn quốc

Việt Nam và Hàn Quốc

2015

Hiệp định đối tác xuyên Thái

Niu Di-lân, Xin-ga-po, Chi-lê,

2015

Bình Dương (TPP)

Bru-nây,

EAFTA (ASEAN+3)

10 nước ASEAN, Trung Quốc,

Đang nghiên cứu

Nhật Bản, Hàn Quốc

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu

trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Chúng ta đã thực sự bắt đầu triển khai

mạnh việc tham gia hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế kể từ khi gia nhập

ASEAN và các định chế kinh tế, tài chính thương mại của ASEAN như: Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư ASEAN (AIA); ký Hiệp định

khung với EU (1995); tham gia Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn

đàn APEC năm 1998; ký Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (2000) dựa trên những

nguyên tắc cơ bản của WTO. Từ năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành

viên thứ 150 của WTO. Điều này đã đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình

hội nhập kinh tế của Việt Nam. Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

của nước ta đã xúc tiến với bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả rất đáng

khích lệ. Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực,

trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện

thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn.

3.1.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới an ninh kinh tế Việt Nam

Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan và các quan hệ quốc tế đang

phát triển theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá. Trong bối cảnh đó, nước nào

cũng muốn tạo dựng cho mình một tư thế quốc tế năng động, linh hoạt. Thực tế cho

thấy, một quốc gia càng đa dạng hoá được quan hệ đối ngoại của mình, thì quốc gia

đó càng có nhiều khả năng thực hiện chính sách độc lập, tự chủ hơn. Về phương

diện kinh tế, nước nào tận dụng được lợi thế tương đối của mình và từ đó, tranh thủ

94

được vị trí tối ưu trong quan hệ quốc tế, thì càng giữ được tư thế tự chủ hơn. Hội

nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá thương mại, tự do hoá dịch vụ,

tự do hoá đầu tư. Trên danh nghĩa của quá trình hội nhập, mọi quốc gia đều bình

đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhưng thực tế do xuất phát điểm của quá trình hội

nhập ở mỗi quốc gia khác nhau về vốn, công nghệ, tiềm năng, lợi thế, kinh

nghiệm... mà mức độ bình đẳng trên thực tế có khác nhau.

Sau 30 năm Đổi mới, Việt Nam đã được xếp vào nhóm nước đang phát triển

có thu nhập trung bình thấp, thế và lực đã được nâng lên. Kết quả của hội nhập

quốc tế diễn ra mạnh mẽ trong thời gian qua đã mở phạm vi đối tác FTA của Việt

Nam đã khá rộng và toàn diện, trong 3 - 5 năm tới sẽ chạm đến các dấu mốc quan

trọng của nhiều Hiệp định và dần tiến đến tự do hóa thuế quan hầu hết các mặt hàng

nhập khẩu với các đối tác thương mại chính. Những tác động tích cực của hội nhập

kinh tế quốc tế đến đảm bảo an ninh kinh tế Việt Nam thể hiện trên những điểm cơ

bản như: (1) Tạo điều kiện mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản

thương mại để tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Trong

thời gian tới, khi các cam kết FTA bước vào giai đoạn cắt giảm sâu, đặc biệt các

FTA với Hoa Kỳ, EU có hiệu lực sẽ thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, đem đến nhiều

cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hóa của Việt Nam đồng thời giúp đa dạng hóa

thị trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc vào các thị trường nguyên liệu truyền thống;

(2) Đối với chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế quốc tế

đã thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng

hóa xuất khẩu theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo

hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có

giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn. Điều này góp phần nâng

cao nội lực của nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những tác động về an ninh

kinh tế trong quá trình phát triển, đặc biệt là mối đe dọa sự ổn định kinh tế do quá

trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Có thể kể đến những tác

động đó là: (1) toàn cầu hoá và kinh tế tri thức làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa

95

các nền kinh tế quốc gia, do vậy Việt Nam dễ bị tổn thương hơn trước các biến

động lớn nhỏ của tình hình kinh tế quốc tế; (2) cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia,

giữa các doanh nghiệp trở nên gay gắt hơn, những cái giá phải trả do cạnh tranh

cũng đắt hơn, đặc biệt là đối với những nước có xuất phát điểm kinh tế thấp như

Việt Nam; (3) quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang diễn ra ở hầu hết các nước,

trong đó vị trí bất lợi thuộc về các nước kém phát triển trong phân công lao động

quốc tế; (4) ảnh hưởng ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia (TNCs)

trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và những tác động hai mặt của các TNCs tới an

ninh kinh tế, chính trị các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam; (5) mâu

thuẫn, xung đột có xu hướng tăng lên giữa các nước do sự phân bổ không bình đẳng

về lợi ích và thua thiệt, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài những tác động đó; và

(6) sức ép đổi mới thể chế kinh tế, chính trị quốc gia trong toàn cầu hoá và hội nhập

đang ngày càng gia tăng đối với Việt nam trong từng giai đoạn hội nhập .

Từ sau khi Việt nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới

WTO, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế đã có những tác động cả tích cực và

tiêu cực đến tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nước ta, từ đó nảy sinh

những nguy cơ, thách thức mới đối với an ninh quốc gia nói chung, an ninh kinh tế

nói riêng. Bên cạnh bốn nguy cơ lớn mà Đảng ta đã xác định (gồm “diễn biến hoà

bình”, tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng XHCN, tham nhũng) vẫn tồn tại và

đe doạ an ninh quốc gia, nay đã xuất hiện những nguy cơ mới như: Nguy cơ “tự

diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, nguy

cơ khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực và toàn cầu dẫn đến khủng hoảng kinh

tế, nguy cơ ô nhiễm, huỷ hoại môi trường sống, tàn phá tài nguyên thiên nhiên;

nguy cơ xung đột xã hội ở cả nông thôn và thành thị bởi phân hoá giàu nghèo, tình

trạng thất nghiệp, mâu thuẫn về lợi ích trước tình trạng đô thị hoá ào ạt; nguy cơ gia

tăng các loại tội phạm, đáng chú ý là tội phạm kinh tế, tội phạm sử dụng công nghệ

cao và các tệ nạn xã hội; hội nhập kinh tế gắn liền với sự mở rộng hợp tác quốc tế

để cạnh tranh thông qua các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, công nghệ của các

doanh nghiệp, công ty. Sự thông thoáng thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác giữa

96

các doanh nghiệp, công ty của các nước đặt ra hàng loạt những vấn đề về an ninh

quốc gia.

Trong bối cảnh biến đổi nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới, các

vấn đề an ninh xuyên quốc gia nổi lên trên nhiều lĩnh vực, trong đó có an ninh kinh

tế thách thức sự ổn định và phát triển của quốc gia, tác động sâu sắc đến mọi mặt

đời sống nhân loại. Xu thế toàn cầu hoá, nhất là toàn cầu hoá kinh tế buộc các quốc

gia đang phát triển như Việt Nam phải hội nhập thì các vấn đề toàn cầu như đói

nghèo, biến đổi khí hậu, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, nguồn tài nguyên giữa các

quốc gia, khu vực đang tiềm ẩn các nguy cơ, thách thức mới, thậm chí đã bộc lộ tác

động tiêu cực tới an ninh kinh tế Việt Nam. Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội

XI nêu rõ: “nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang

thay đổi nhanh và khó lường”, “...các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội

phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh

học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng”, “Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài

chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng

cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”. Những thách thức này đặt

ra nhiệm vụ tăng cường quốc phòng an ninh, đòi hỏi nhận thức triệt để hơn về

những nguy cơ bên ngoài và nguy cơ bên trong ảnh hưởng tới tình hình và công tác

đảm bảo an ninh quốc gia nói chung, an ninh kinh tế nói riêng trong bối cảnh hội

nhập tiếp tục diễn ra sâu rộng.

3.2. Tình hình đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập KTQT

ở Việt Nam

3.2.1. Xây dựng chiến lược hội nhập và thể chế kinh tế trong quá trình hội

nhập gắn với an ninh kinh tế quốc gia

Trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã coi trọng

hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhận thức của Đảng về mối

quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại có sự bổ sung, phát triển

97

và hoàn thiện dần qua các giai đoạn. Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, Đảng

đã xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế

trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa

phương” (Văn kiện ĐH Đảng toàn tập, 2007, T53, 111). Quá trình Đổi mới, nhận

thức của Đảng và Nhà nước đã dần hoàn chỉnh hơn, đầy đủ hơn về sự kết hợp giữa

kinh tế với quốc phòng – an ninh. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế

quốc tế, Đảng nhận thức đối ngoại là một mặt trận quan trọng, góp phần ngăn ngừa

xung đột, tạo dựng môi trường hoà bình để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Nhận thức về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia

cũng đã có sự phát triển phù hợp với tình hình thế giới, khu vực và trong nước, hài

hoà giữa nhu cầu bảo vệ và khả năng đất nước, là cơ sở để thống nhất các nguồn lực

bảo vệ an ninh quốc gia. Cương lĩnh năm 1991, Đảng nhận định về mục tiêu, nhiệm

vụ bảo vệ Tổ quốc là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của

Tổ quốc, ... bảo vệ trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân...”. Đến

Nghị quyết trung ương 8 khoá IX và Nghị quyết trung ương 8 khoá XI, mục tiêu,

yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc được nhận thức toàn diện và mở rộng hơn, bảo vệ

tổ quốc không những là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền... mà còn là bảo vệ

sự nghiệp Đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo vệ lợi

ích quốc gia – dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn

hoá...”. Đại hội XI của Đảng đã đưa vấn đề “ứng phó với các mối đe doạ an ninh

phi truyền thống” vào nhiệm vụ an ninh, quốc phòng và nhấn mạnh vấn đề an ninh

chủ động.

Nhận thức của Đảng về xây dựng chiến lược đảm bảo an ninh quốc gia ngày

càng rõ ràng, đầy đủ hơn. Trong giai đoạn 2003 – 2013, Đảng đã ban hành hai nghị

quyết về chiến lược bảo vệ tổ quốc, thể hiện rõ nhận thức về mối quan hệ biện

chứng giữa chiến lược bảo vệ tổ quốc với các chiến lược khác. Chiến lược bảo vệ tổ

quốc cùng với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hợp thành hệ thống chiến lược

quốc gia hoàn chỉnh ở cấp độ cao nhất để cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược,

giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế, kết hợp chặt chẽ giữa

98

xây dựng và bảo vệ, đảm bảo mỗi bước phát triển kinh tế, nâng cao thực lực, vị thế

đất nước là một bước tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc.

Trong quá trình hội nhập, nhận thức về đối tác, đối tượng đã có bước phát

triển mạnh mẽ. Việc xác định đối tác, đối tượng dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân

tộc, thấy rõ sự đan xen, chuyển hoá giữa đối tượng, đối tác; xác định lấy đối tác làm

cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế rộng rãi. Nhận thức về nguy cơ, thách thức đối

với an ninh quốc gia cũng có sự phát triển, từ nhận thức an ninh quốc gia chủ yếu là

vấn đề nội bộ đến quan điểm an ninh tổng hợp, toàn diện. Phát triển nhận thức về an

ninh phi truyền thống, về an ninh chủ động, an ninh mạng...

Ngày nay, sự phát triển kinh tế được coi là yếu tố hàng đầu quyết định sức

mạnh tổng hợp quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, một trong những thách thức

lớn nhất đối với nước ta, đó là nguy cơ tụt hậu về kinh tế do trình độ xuất phát điểm

thấp. Sự tụt hậu, nghèo nàn, chậm phát triển về kinh tế là nguyên nhân vừa sâu xa,

vừa cơ bản và trực tiếp nhất khiến bất kỳ dân tộc nào cũng phải đối mặt hiểm hoạ

rơi vào vòng lệ thuộc nước ngoài trên nhiều phương diện. Do đó, đối với nước ta,

nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế càng phải thực sự được đặt cao là trọng tâm

hàng đầu, nhằm tăng cường sức mạnh vật chất - kỹ thuật làm nền tảng bảo vệ độc

lập dân tộc. Sức mạnh kinh tế được thể hiện trước hết ở thực lực, tiềm năng và cơ cấu

hiện đại của nền kinh tế. Ưu tiên số một trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN. Phát triển kinh tế gắn chặt với phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường; thực

hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển. Đây là một yêu cầu

tất yếu đặt ra nhằm giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường, tránh

nguy cơ chệch hướng trong phát triển kinh tế nói riêng và trong toàn bộ quá trình đổi

mới nói chung.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định:

“Để phát triển bền vững, đảm bảo sự ổn định, tăng khả năng độc lập, tự chủ của đất

nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và đảm bảo an ninh kinh tế, đi đôi với

cũng cố quốc phòng, anh ninh”. “Về an ninh kinh tế, phải giữ vững cân đối vĩ mô;

99

ngoài an ninh lương thực, an ninh năng lượng, cần tăng nhanh dự trữ ngoại tệ, kiểm

soát chặt chẽ nợ nước ngoài; phát huy cao nhất các nguồn lực để xây dựng kết cấu

hạ tầng và phát triển có hiệu quả một số ngành và sản phẩm thiếu yếu”…“Duy trì

cho được sự ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh về tài chính, tiền tệ, năng

lượng, lương thực, thông tin, không để xảy ra những rối loạn, xáo động lớn” (Văn

kiện ĐH Đảng toàn quốc lần thứ XII, 2016).

Trên cơ sở nhận thức và quan điểm của Đảng, Nhà nước đã thể chế hoá quan

điểm kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và

đối ngoại thành các chính sách, văn bản pháp quy; cụ thể hoá quan điểm kết hợp đó

vào thực tiễn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược bảo vệ tổ

quốc, trong các quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội

và các quy hoạch, kế hoạch quốc phòng, an ninh. Cụ thể, Chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội 2011 - 2020 đã khẳng định phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt,

trong đó phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an

ninh kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chiến lược Phát triển bền vững giai

đoạn 2011 – 2020 cũng được Chính phủ phê duyệt năm 2012 trong đó đặt ra các

mục tiêu cụ thể về đảm đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các cân đối lớn; giữ

vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính.

Trên thực tế, Việt Nam đã có nhiều chủ trương, biện pháp thực thi, ứng phó

với những nguy cơ, rủi ro và bất ổn về kinh tế và các lĩnh vực có liên quan như an

ninh môi trường, biến đổi khí hậu thể hiện trong Luật Môi trường, Chương trình

quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; an ninh lương thực trong Chiến lược phát

triển bền vững lương thực quốc gia..., các vấn đề có liên quan đến an ninh kinh tế

khác như tài chính tiền tệ, ngân hàng, các hoạt động tội phạm kinh tế có yếu tố

nước ngoài...

Có thể thấy, chủ trương nhất quán của Đảng và nhà nước Việt Nam là chủ

động hội nhập quốc tế sâu rộng và bền vững, phát huy nội lực, tận dụng cơ hội ngăn

chặn, ứng phó kịp thời với những thách thức, nguy cơ an ninh kinh tế nói riêng, an

ninh phi truyền thống nói chung để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.

100

3.2.2.1. Đảm bảo ổn định an toàn nguồn cung năng lượng

3.2.2. Đảm bảo ổn định những yếu tố nguồn lực thiết yếu cho nền kinh tế

Năng lượng là yếu tố cơ bản đảm bảo phát triển kinh tế bền vững ở cả những

nước phát triển và những nước đang thực hiện CNH, HĐH. Nhu cầu năng lượng

của Việt Nam đang ngày càng tăng cao trong khi nguồn cung năng lượng, tuy đa

dạng nhưng không thật sự dồi dào.

Đến năm 2013, trữ lượng dầu khí của Việt Nam được phát hiện là 1,3 tỷ tấn

quy dầu, tiềm năng còn lại ước đạt 2,8 đến 3,6 tỷ tấn quy dầu (Wendy Lausen,

2013). Theo tổng công ty than và khoáng sản Việt Nam, tổng trữ lượng than ở Việt

Nam tính ở mức -300m so với mực nước biển là 48,7 tỷ tấn, trong đó trữ lượng than

xác định cân đối vaò quy hoạch là 7,2 tỷ tấn. Tiềm năng thuỷ điện ở nước ta về lý

thuyết là 300 tỷ kwh, hiện các công trình thuỷ điện mới khai thác khoảng 8.075

MW. Năng lượng gió cũng là một tiềm năng tốt và có triển vọng khai thác thương

mại. Theo khảo sát của WB, ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có tiềm năng gió

lớn nhất với tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.000 MW, tức là gấp hơn 10 lần

tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Ngoài ra, với đường bờ biển

dài và khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam còn có tiềm năng rất lớn về năng lượng

sóng, thuỷ triều, năng lượng sinh học... Tuy nhiên, khai thác chúng là một bài toán

lớn về kỹ thuật, kinh tế và môi trường. Giai đoạn 2001 – 2010, tổng sản xuất năng

lượng sơ cấp (than, dầu khí, thuỷ điện) tăng từ 32 triệu tấn dầu quy đổi lên 62 triệu

tấn, gấp 1,9 lần, bình quân tăng 6,8%/năm (Tạ Ngọc Tấn và cộng sự, 2015). Việt

Nam có thể sản xuất hàng năm 65-70 tỷ kwh điện và sẽ được khai thác hết bởi các

công trình thuỷ điện hiện tại và sắp tới. Sản lượng than sẽ chỉ đủ cung cấp cho

khoảng 12.000 MW, tương đương dưới 72 tỷ kwh/năm, kể cả giai đoạn 2025 –

2030. Khí đốt ở các mỏ ngoài khơi chỉ đủ để sản xuất 100 tỷ kwh/năm (tại các nhà

máy điện khí) và khoảng 3-5% lượng khí đốt cần cung cấp cho các hộ công nghiệp

101

khai thác. Tiềm năng khai thác dầu thô sẽ chạm trần 17-19 triệu tấn/năm và suy giảm dần sau năm 2015.(Viện Năng lượng Việt Nam, 2011)

Về cầu năng lượng, giai đoạn 2001 – 2010, tổng tiêu thụ năng lượng thương

mại cuối cùng (tại điểm nhận của hộ tiêu thụ) tăng từ 11,9 triệu tấn dầu quy đổi lên

35 triệu tấn (gấp 2,9 lần), điện tiêu thụ bình quân đầu người tăng từ 289 kwh lên

998 kwh/người/năm. Dự báo đến năm 2020 và 2030, tổng nhu cầu năng lượng

thương mại cuối cùng sẽ đạt tương ứng 78,8-83,6 triệu tấn và 152-175 triệu tấn dầu

quy đổi, nghĩa là gấp hơn 2 lần năm 2010 (Phạm Thị Thanh Bình, 2014). Dự báo

tăng trưởng nhu cầu năng lượng của Việt Nam là 8,1-8,7% giai đoạn 2001 – 2020.

Nguyên nhân gia tăng nhu cầu tiêu thụ năng lượng ở Việt Nam là do: Một là, tăng

trưởng kinh tế nước ta ở mức khá cao trên thế giới, do vậy nhu cầu năng lượng tăng

nhanh. Hai là, Việt Nam sử dụng năng lượng không hiệu quả, tiêu hao năng lượng

cho một đơn vị sản phẩm trong nhiều ngành công nghiệp ở Việt Nam cao hơn nhiều

so với các nước trong khu vực (cao hơn Thái Lan và Malaixia khoảng 1,5-1,7 lần).

Tỷ lệ giữa nhu cầu năng lượng so với tăng GDP của Việt Nam là gấp gần 2 lần,

trong khi ở các nước phát triển, tỷ lệ này là dưới 1 (Phạm Thị Thanh Bình, 2014).

Tóm lại, khả năng khai thác các nguồn năng lượng sơ cấp trong nước vượt

trên nhu cầu trong giai đoạn đến 2015, cán cân năng lượng của Việt Nam trong vài

năm tới còn nghiêng về xuất khẩu. Nhưng từ khoảng 2015 trở đi, cán cân cung –

cầu năng lượng sơ cấp (than, dầu mỏ, khí đốt, thuỷ điện và các dạng năng lượng tái

tạo khác ở nước ta sẽ bắt đầu thiếu hụt”, khoảng cách cung – cầu ngày càng lớn,

mặc dù mới tính toán theo phương án nhu cầu trung bình, chưa tính phương án nhu

cầu cao. Vì vậy, an ninh năng lượng quốc gia là vấn đề đặt ra ngày càng cấp thiết

3.2.2.2. Đảm bảo an ninh lương thực

trong thời gian tới.

An ninh lương thực có quan hệ mật thiết với an ninh kinh tế và an ninh quốc

gia. Khi đề cập đến nội hàm của an ninh kinh tế, đa số các học giả hiện nay đều xác

102

định một trong những bộ phận quan trọng là an ninh lương thực. Ở Việt Nam, an

ninh lương thực là việc có đầy đủ, ổn định lương thực cho toàn dân trên phạm vi

toàn quốc, cả trước mắt và lâu dài, để không ai bị đói và mọi người đều được hưởng

cuộc sống năng động, khoẻ mạnh.

Vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia ở Việt Nam đã được thể hiện

trong quá trình thực hiện Đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu phát triển

nông nghiệp trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 là:

“Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. Khai

thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hoá lớn với

năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng

và kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân, bảo

đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia”. Thành tựu nổi bật nhất về kinh tế của

Việt Nam sau 30 năm đổi mới là phát triển nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương

thực, đã đáp ứng được nhu cầu trong nước, đảm bảo dự trữ quốc gia và liên tục xuất

khẩu gạo.

Với những chủ trương và chính sách cụ thể đầu tư cho phát triển sản xuất

nông nghiệp, tăng sản lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, trong những năm

vừa qua Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tích đáng ghi nhận về sản xuất

lương thực, thực phẩm (Bảng 3.2.). Sản lượng cây lương thực vẫn được giữ ổn định

và tăng lên qua các năm, không chỉ đảm bảo nhu cầu lương thực trong nước, dự trữ

quốc gia mà còn phục vụ xuất khẩu. Sản xuất lúa đã dịch chuyển theo hướng giảm

dần diện tích, tăng năng suất và chất lượng gạo để phù hợp với nhu cầu thị trường

trong nước và xuất khẩu. Tuy diện tích trồng lúa giảm, nhưng mục tiêu về sản

lượng lương thực vẫn được đảm bảo, một trong những giải pháp mà Việt Nam đang

áp dụng là mở rộng diện tích lúa lai. Đồng bằng sông Cửu Long vẫn chiếm trên

90% lượng gạo xuất khẩu cả nước.

103

Bảng 3.2. Sản lượng cây lương thực qua các năm

Năm

2000

2005

2010

2015

Sản lượng lúa

32.530

35.833

40.006

45.216

Cây lương thực khác

2.009

3.789

4.626

5.282

Tổng sản lượng

34.539

39.622

44.632

50.498

Đơn vị: Nghìn tấn

Nguồn: Tổng cục thống kê (2016).

Nét mới trong sản xuất lương thực ở Việt Nam hiện nay thể hiện ở sự chuyển

dịch cơ cấu sản lượng: tăng dần tỷ trọng ngô và các cây lương thực khác. Điều này

sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu cho các ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn

nuôi, thay thế cho nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu thức ăn cho chăn nuôi quy mô công

nghiệp đang tăng nhanh, giảm gánh nặng về lương thực cho cây lúa.

Về lưu thông và tiêu dùng lương thực, những năm gần đây, Việt Nam đã có

những chuyển biến mạnh mẽ về tất cả các lĩnh vực từ sản xuất, dự trữ, tiêu dùng

lương thực, khả năng tiếp cận lương thực của người dân đến lưu thông, phân phối

lương thực giữa các vùng, miền và tới tay người tiêu dùng. Do sản lượng lương

thực tăng nhanh hơn đáng kể tốc độ tăng dân số, nên sản lượng lương thực bình

quân đầu người của Việt Nam đã tăng liên tục. Ngay cả với những năm thiên tai

diễn ra nghiêm trọng, lương thực vẫn được phân phối cho những vùng khó khăn kịp

thời, đảm bảo an ninh lương thực cho hầu hết nhân dân.

Cùng với sự gia tăng thu nhập, nhu cầu tiêu dùng gạo của người dân Việt

Nam đang có xu hướng giảm xuống (Bảng 3.3.). Trong khi đó, tỷ lệ thịt, cá, trái

cây... trong bữa ăn hàng ngày của người dân tăng lên. Người dân đã chú trọng hơn

104

đến chất lượng dinh dưỡng, độ an toàn của lương thực, thực phẩm, qua đó nâng cao

chất lượng cuộc sống toàn diện của mình.

Bảng 3.3. Tiêu dùng một số loại lương thực thực phẩm bình quân đầu

người/tháng

Đơn vị tính: kg

2004

2006

2008

2010

2012

2014

Gạo

12,0

11,4

11,0

9,7

9,6

9,0

Lương thực khác (quy gạo) 1,0

1,0

0,9

1,1

1,0

1,0

Thịt các loại

1,4

1,5

1,4

1,8

1,8

1,9

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2016)

Về khả năng tiếp cận lương thực, tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều

năm qua đã giúp cải thiện đáng kể thu nhập của người dân (Bảng 3.4). Thu nhập

tăng là điều kiện quan trọng hàng đầu để người dân dễ dàng hơn trong việc tiếp cận

với nguồn lương thực, thực phẩm: chi tiêu nói chung và chi tiêu cho lương thực,

thực phẩm nói riêng của người dẫn đã được cải thiện.

Đơn vị tính: nghìn đồng

Bảng 3.4. Thu nhập bình quân đầu người/tháng theo giá hiện hành

2004

2006

2008

2010

2012

2014

Cả nước

484

636

995

1.387

2.000

2.637

Thành thị

815

1.058

1.605

2.130

2.989

3.964

Nông thôn

378

506

762

1.070

1.579

2.038

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2016).

Về lưu thông, phân phối lương thực, thị trường lưu thông lương thực ngày

càng được mở rộng cả về quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia, đảm bảo

105

lưu thông thuận lợi giữa các vùng, các khu vực, kể cả các vùng núi, vùng xa xôi hẻo

lánh, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và từng

địa phương. Hệ thống chợ nông thôn được quan tâm phát triển, là đầu mối tập trung

giao lưu hàng hóa, tạo điều kiện cho hoạt động lưu thông lương thực, thực phẩm

được dễ dàng và kích thích sản xuất phát triển. Bên cạnh đó hệ thống siêu thị và các

trung tâm thương mại đang dần lớn mạnh, góp phần không nhỏ vào lưu thông hàng

hóa, lương thực, thực phẩm. Nếu như năm 1995, Việt Nam chỉ có 10 siêu thị và hai

trung tâm thương mại, thì năm 2007 có khoảng 200 siêu thị và đại siêu thị, 32 trung

tâm thương mại, hơn 1.000 cửa hàng tiện lợi, gần 10.000 chợ (trong đó có khoảng

6.790 chợ tại khu vực nông thôn và 3.210 chợ tại khu vực thành thị), đã và đang

xây dựng hơn 150 chợ đầu mối buôn bán hàng nông sản cấp địa phương (Viện

Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 2008). Chỉ tính riêng siêu thị thì đến năm

2010, số lượng siêu thị trên cả nước là 571. Số lượng này đã tăng thành 799 siêu thị

năm 2015 (Tổng cục Thống kê, 2016). Sự phát triển nhanh và rộng khắp của hệ

thống chợ, siêu thị, trung tâm thương mại tạo điều kiện cho người dân thuận lợi hơn

trong việc tiếp cận nguồn lương thực, thực phẩm, phục vụ đời sống bản thân, gia

đình.

Cho đến nay, về cơ bản, an ninh lương thực của Việt Nam vẫn đang được

đảm bảo. Tuy nhiên, Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới, khốc liệt

hơn đe doạ an ninh lương thực trong tương lai gần. Những thách thức này nếu

không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực quốc

gia trên tất cả các giác độ: Sự sẵn có và sự ổn định của nguồn lương thực, khả năng

tiếp cận lương thực của người dân, chất lượng và sự an toàn của nguồn lương thực

cung ứng. Có thể kể đến những vấn đề như:

Một là, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng do phải chuyển

sang mục đích sử dụng khác trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá. Theo ước

tính của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong thời gian từ năm 2000 đến tháng

4/2008, đã có khoảng 500.000 ha đất canh tác được chuyển sang sử dụng cho mục

106

đích khác. Điều đáng nói là 50% số đất nông nghiệp bị thu hồi trong thời gian qua

nằm trong những vùng canh tác trọng điểm, trong đó có 80% diện tích thuộc loại

đất màu mỡ. Theo tính toán, năm 2020, dân số cả nước sẽ xấp xỉ 100 triệu người,

năm 2030 sẽ có khoảng 110 triệu người. Tổng nhu cầu lúa cho năm 2015 là 32,1

triệu tấn, năm 2020 là 35,2 triệu tấn, và năm 2030 là 37,5 triệu tấn. Nhưng hiện nay

do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, sản lượng lúa suy giảm mỗi năm từ 400 đến

500 nghìn tấn. Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã báo

động, với tốc độ mất đất lúa như hiện nay, đến năm 2020 có thể không còn lúa gạo

cho xuất khẩu (Tạ Ngọc Tấn và cộng sự, 2015).

Các chuyên gia nông nghiệp cho rằng, để có được những cánh đồng lúa hai

vụ/năm với năng suất 10 tấn/ha/năm phải trải qua quá trình diễn biến tự nhiên cộng

với sự lao động miệt mài của người nông dân. Tuy nhiên, rất đáng tiếc là nhiều diện

tích đất nông nghiệp sau khi bị thu hồi để chuyển mục đích sử dụng lại bị bỏ hoang,

trong khi không ít nông dân bị mất kế sinh nhai do mất đất. Điều đáng nói là việc

chuyển đổi đất lúa sang mục đích khác là đơn chiều, hầu như không thể quay trở lại

trồng lúa được nữa. Việc thu hồi đất nông nghiệp có tác động nhiều mặt, trong đó

điều dễ nhận thấy là sản lượng lương thực bị giảm đi ở nhiều vùng. Bên cạnh đó,

một bộ phận không nhỏ người nông dân bị mất đất trở nên không còn kế sinh nhai,

không có thu nhập, thậm chí có nguy cơ rơi vào cảnh nghèo đói. Cả hai tác động

này đều ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực.

Hai là, tình trạng biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh ngày càng gây ra

những hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp, đe doạ an ninh lương thực

Việt Nam. Theo đánh giá của các nhà khoa học thế giới, Việt Nam là một trong

năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu là

một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng xói mòn và rửa trôi đất, lượng

mưa nhiều hơn, nhiệt độ tăng làm hủy hoại cây trồng, làm xuất hiện và gia tăng các

loại sâu hại, làm lây lan dịch bệnh và sâu bệnh. Biến đổi khí hậu cũng là nguyên

nhân gây ra mất đất canh tác và đất ở, đặc biệt với vùng ven biển của Việt Nam và

107

vùng đất thấp ở đồng bằng sông Cửu Long. Với kịch bản nước biển dâng cao hơn

1m so với hiện nay, diện tích mặt đất ngập sâu trên 1m trong vòng 1 tháng trên toàn

đồng bằng sông Cửu Long sẽ chiếm 68% diện tích tự nhiên, diện tích bị nhiễm mặn

trên 4g/lit là 1,7 triệu ha. Có thể có tới 17-19 triệu người dân Việt Nam mất đất ở

(Tạ Ngọc Tấn và cộng sự, 2015). Những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu,

thiên tai và dịch bệnh đã khiến cho sản lượng lương thực và các sản phẩm nông

nghiệp bị giảm đáng kê, đồng thời thu nhập và cuộc sống của người nông dân trở

nên khó khăn hơn, vì vậy ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực.

Ngoài ra còn có những hạn chế về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn

gây khó khăn cho phát triển sản xuất và tiêu thụ nông sản. Hệ thống kết cấu hạ tầng

chuyên dùng thương mại kém phát triển, số xã chưa có chợ còn lớn, chưa hình

thành được các trung tâm thương mại, dịch vụ nông thôn, thiếu hệ thống kho lạnh,

xe lạnh, cầu, cảng... phục vụ lưu thông hàng hóa. Các hệ hống giao thông nông

thôn, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc, các dịch vụ sản xuất như thú y, sản xuất

giống... phục vụ sản xuất nông nghiệp còn rất thiếu và yếu. Bên cạnh đó, từ khi hệ

thống hợp tác xã tan rã, mạng lưới bán lẻ được hình thành một cách tự phát, phân

tán, manh mún và lạc hậu, không được đầu tư hiện đại hoá một cách thỏa đáng. Hệ

thống các công trình thuỷ lợi lạc hậu, chủ yếu phục vụ ngành trồng trọt, nhiều vùng,

nhiều loại cây trồng còn thiếu nước tưới, việc sử dụng nước còn lãng phí, quản lý

nước và các công trình thuỷ lợi còn yếu kém... Những hạn chế nêu trên đây không

chỉ ảnh hưởng đến năng suất, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, mà còn gây ách

tắc về giao lưu hàng hoá và chia cắt vùng sản xuất với thị trường, cản trở quá trình

phát triển kinh tế hàng hoá và quá trình tự do hoá thị trường nội địa, đặc biệt là ở

nông thôn. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập và khả năng tiếp cận

nguồn lương thực của người nông dân và cư dân nông thôn.

108

3.2.2.3. Đảm bảo an ninh nguồn nước

An ninh nguồn nước giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược bảo dảm an

ninh kinh tế quốc gia ở Việt Nam. Tài nguyên nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 830 tỷ m3, tập trung ở lưu vực của 13 con sông lớn ở cả ba miền Bắc,

Trung, Nam. Trong khi đó 40% lượng nước mặt phát sinh ngoài lãnh thổ Việt Nam

tạo ra thách thức đối với quản lý, sử dụng nguồn nước, phòng ngừa những nguy cơ

do khủng hoảng nguồn nước gây ra. Những vấn đề về an ninh nguồn nước của Việt

Nam bắt nguồn từ đặc điểm địa lý tự nhiên, trên 60% dòng chảy sông ngòi là từ

nguồn nước ngoài lãnh thổ Việt Nam. Tổng lượng nước mưa của Việt Nam là cao

nhưng phân bố không đồng đều về thời gian và không gian. Có những vùng lượng

mưa hàng năm rất thấp, chỉ từ 400-700 mm/năm như Phan Rang, Ninh Thuận, có

vùng lượng mưa rất cao, đến 8000mm/năm (Bạch Mã, Thừa Thiên Huế). Đồng

bằng sông Cửu Long mùa khô dài 7 tháng trong năm, lượng mưa chỉ chiếm 10%,

còn mùa mưa kéo dài 5 tháng với 90% lượng mưa cả năm. 75-85% tổng lượng dòng

chảy sông Mekong trong năm tập trung vào mùa mưa lũ, còn lại chia đều cho các tháng. Lượng nước mùa lũ sông Mekong lên tới 40.000m3/s nhưng mùa khô xuống thấp đến 1.200-1.700 m3/s tạo nên tình trạng lũ nặng vào mùa mưa và hạn hán, xâm

nhập mặn vào mùa khô. Mùa khô, tình trạng thiếu nước nghiêm trọng cho sản xuất

và đời sống thường xuyên xảy ra ở các vùng như Tây Bắc, Tây Nguyên. Đây là bất

lợi lớn trong quản lý, điều tiết sử dụng nguồn nước, xuất hiện chênh lệch cung –

cầu, thừa và thiếu giữa các vùng miền, về thời gian và không gian.

Chất lượng nguồn nước Việt Nam cũng đang suy giảm nghiêm trọng do áp

lực tăng dân số, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, đảm bảo an ninh năng lượng,

an ninh lương thực, đặc biệt là do quản lý nhà nước về tài nguyên rừng, tài nguyên

nước kém hiệu quả, thiếu đồng bộ. Điển hình là sự phát triển thuỷ điện vừa và nhỏ

ở miền Trung đã khiến cho 80% trữ lượng thuỷ năng các dòng sông được khai thác

hoặc đưa vào quy hoạch khai thác. Các hồ chứa thuỷ điện chiếm khoảng 86% dung

tích các hồ chứa cả nước. Trong giai đoạn 2006-2012 có 19.792 ha rừng phải

109

chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất xây thuỷ điện, đến nay mới trồng rừng thay

thế được 735 ha (3,7% diện tích). Mục tiêu tận dụng nguồn thuỷ năng là đúng

hướng nhưng do quy hoạch yếu kém, xây dựng tràn lan, nóng vội nên để lại hệ quả

nghiêm trọng: rừng bị tàn phá, bão lũ bất thường, cạn kiệt tài nguyên nước.

Nhu cầu nước cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam ngày càng tăng cao. Năm 1990 nhu cầu nước dân dụng và công nghiệp là khoảng 50 tỷ m3/năm, năm 2000 tăng lên 65 tỷ m3/năm, năm 2010 tăng lên 72 tỷ m3/năm. Theo dự báo, đến năm 2020 sẽ là 80 tỷ m3, năm 2030 là 87-90 tỷ m3/năm. Nhu cầu nước gia tăng

trong khi nguồn nước suy giảm cả về số lượng lẫn chất lượng là thách thức lớn cho

phát triển bền vững. Theo dự báo, nguồn nước Việt Nam sẽ giảm đi khoảng 40 tỷ m3 vào năm 2025, tổng lượng nước mùa khô sẽ giảm đi khoảng 13 tỷ m3 (Tạ Ngọc

Tấn và cộng sự, 2015)

3.2.3. Đảm bảo ổn định an toàn cho hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia

Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế từ Đại hội VI của Đảng năm 1986. Tuy

nhiên, phải đến đầu những năm 1990, hệ thống tài chính tiền tệ của Việt Nam mới

bắt đầu cải cách và tiến vào con đường tự do hóa tài chính vào cuối những năm

1990, theo đó quá trình này diễn ra dưới cả áp lực từ nội tại nền kinh tế và áp lực

3.2.3.1. Cải cách hệ thống tài chính tiền tệ và kiện toàn luật pháp để đáp ứng

yêu cầu hội nhập và hạn chế tính dễ đổ vỡ của hệ thống

hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong những năm 80 của thế kỷ trước, hệ thống ngân hàng của Việt Nam

được tổ chức theo mô hình ngân hàng đơn cấp (one-tier system) trong đó Ngân

hàng Nhà nước là ngân hàng duy nhất của đất nước, đóng vai trò kiểm soát cả về

khối lượng, chi phí và hoạt động phân bổ tín dụng cho các lĩnh vực. Mô hình

này đã bắt đầu được cải cách kể từ năm 1990 với sự hình thành của một hệ

110

thống ngân hàng hai cấp (two-tier system). Điều này đã làm thay đổi hoàn toàn

cơ cấu tổ chức của lĩnh vực ngân hàng.

Kể từ đầu những năm 2000, Hiệp định thương mại Việt Mỹ (2001) và sau

đó là việc gia nhập vào WTO (2007) đã cho phép bước sang một giai đoạn mới

trong quá trình cải cách. Thực vậy, tự do hóa hệ thống ngân hàng tới năm 2010

là một cam kết do chính phủ Việt Nam đưa ra trong khuôn khổ Hiệp định thương

mại Việt Mỹ, cam kết này sau đó đã được áp dụng đối với tất cả các quốc gia

thành viên của WTO theo quy định của điều khoản tối huệ quốc. Giai đoạn cải

cách mới này tạo điều kiện cho các ngân hàng quốc tế có mức tham gia mạnh

hơn trong cơ cấu vốn của các ngân hàng Việt Nam. Giai đoạn cải cách mới đã

được văn bản hóa trong một văn kiện khung - văn kiện này còn được gọi là lộ trình

- do thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký ngày 24 tháng 5 năm 2006 đã tạo ra những

cải cách Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và công tác giám sát ngân hàng (với việc

từng bước triển khai các tiêu chí kiểm soát rủi ro của Hiệp định Basel I và sau đó

là Basel II); cổ phần hóa một phần ngân hàng thương mại Nhà nước SOCB

(equitization); sau đó, mở cửa lĩnh vực ngân hàng ở một mức độ lớn hơn cho

các ngân hàng nước ngoài tham gia (hiện nay ngân hàng nước ngoài được tham

gia vào vốn của các ngân hàng đã được cổ phần hóa ở mức 30% đối với nhóm

ngân hàng và 15% đối với một ngân hàng nước ngoài).

Song song với việc hình thành của một hệ thống ngân hàng hai cấp, mục tiêu

là tạo điều kiện tăng vốn tư nhân trong cơ cấu vốn của khu vực ngân hàng, việc tự

do hóa lãi suất và quyết tâm phát triển thị trường tài chính cho thấy tinh thần của

các cuộc cải cách được triển khai là đoạn tuyệt với cơ chế áp chế tài chính. Áp chế

tài chính là một khái niệm lý thuyết dùng để chỉ tất cả các hình thức kiểm soát

trực tiếp hoặc gián tiếp mà Nhà nước tiến hành đối với hệ thống tài chính. Các hoạt

động kiểm soát này có thể được thực hiện dưới các hình thức khác nhau: tỷ trọng

áp đảo của vốn Nhà nước trong cơ cấu vốn của hệ thống ngân hàng; ấn định lãi

suất theo cơ chế mệnh lệnh hành chính (điều này nhìn chung dẫn tới tình trạng lãi

suất thực thường rất thấp hoặc xuống mức âm); quy định hạn mức tín dụng và

111

trong một số trường hợp quy định duy trì dự trữ bắt buộc ở mức cao nhằm tài trợ

cho thâm hụt ngân sách Nhà nước.

Thực hiện chủ trương xây dựng mô hình ngân hàng 2 cấp từ năm 1990 đến

nay, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước phát triển đáng

kể. Đặc biệt sau khi Việt Nam ký kết Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ năm 2000,

tiếp đến là thời kỳ chuẩn bị lộ trình gia nhập WTO (2006)…hoạt động của hệ thống

ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực không chỉ về

quy mô, đa dạng các sản phẩm dịch vụ mà còn thể hiện sự năng động và nâng cao

tính chuyên nghiệp trong kinh doanh ngân hàng nhằm hướng tới những mô hình

tập đoàn đa năng.

1991 1995 1997 1999 2001 2004 2005 2006 2007 2010

NH TMQD

4

5

5

5

5

5

5

5

5

4

NH TMCP

48

51

48

39

39

37

37

37

39

4

CN NHNN

18

24

26

26

26

29

31

33

40

0

NHLD

4

4

4

4

4

4

5

5

10

1

Tổng NH

74

84

83

74

74

75

78

80

94

9

Bảng 3.5. Số lượng ngân hàng giai đoạn 1991 - 2010

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Cùng với sự gia tăng về số lượng, quy mô hoạt động của các ngân hàng cũng

phát triển không ngừng.

112

Hình 3.1: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn hệ thống NHTM từ 2000 –

2014

Trên thực tế, cải cách ngân hàng ở Việt Nam hiện dẫn tới tình hình tín dụng -

ngân hàng phát triển rất nhanh. Tình hình trên cho thấy, những thách thức mà hệ

thống ngân hàng phải đối mặt: đó là duy trì được khả năng kiểm soát cải cách khi

tiến hành tự do hóa tài chính, đồng thời xây dựng các cơ chế công cụ chính cho

công tác điều tiết quá trình huy động tài chính cho một nền kinh tế thị trường, trong

khi tín dụng lại có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Trong trường hợp này, rủi ro tiềm

tàng sẽ là tự do hóa, sẽ làm cơ cấu tài chính thay đổi nhanh hơn khả năng thích ứng

của chính sách công về vấn đề cẩn trọng, cả trên cấp độ thông qua các văn bản có

tính ràng buộc hơn lẫn việc triển khai các văn bản đó trên thực tế. Xét từ kinh

nghiệm lịch sử tài chính của các nước đang phát triển, đó thực sự là một rủi ro lớn.

Thực vậy, quá trình quá độ từ cơ chế áp chế sang tự do hóa tài chính là

một giai đoạn có nhiều nguy cơ tiềm tàng và đôi khi dẫn tới khủng hoảng tài

chính tại một số nước đang phát triển kể từ những năm 1980. Nói cách khác, sự

phát triển nhanh của hệ thống ngân hàng vốn có phương thức tổ chức đang trong

quá trình chuyển đổi đòi hỏi càng phải xây dựng một hệ thống điều tiết phù hợp với

yêu cầu của một nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng mạnh và đang trong

quá trình hội nhập từng bước vào nền tài chính thế giới. Việt Nam cũng như đa số

113

các quốc gia trên thế giới đó là duy trì chức năng c ủa Ngân hàng Trung ương

vừa thực thi chính sách tiền tệ và vừa giám sát hoạt động các ngân hàng thương

mại.

3.2.3.2. Mở cửa hội nhập hệ thống tài chính tiền tệ quốc tế theo lộ trình

Xét về trình tự tự do hóa tài chính ở Việt Nam, Việt Nam tiến hành cải cách

tự do hóa lãi suất từ những năm đầu 1990 bằng việc chuyển từ lãi suất thực âm

sang lãi suất thực dương nhưng vẫn giữ trần lãi suất và sàn lãi suất. Quá trình tự

do hóa lãi suất diễn ra khá nhanh chóng. Tháng 8 năm 2000 NHNN đã thực hiện cơ

chế điều hành lãi suất theo luật NHNN (cơ chế điều hành LS cơ bản). Từ tháng 4

năm 2002 đến tháng 5 năm 2008 lãi suất đồng tiền Việt Nam được tự do hóa hoàn

toàn, tuy nhiên từ tháng 5 năm 2008 do nhiều biến động của tình hình kinh tế vĩ

mô, quá trình tự do hóa tài chính được tạm dừng, nhường chỗ cho các biện pháp

can thiệp trực tiếp bằng quản lí hành chính.

Quá trình tự do hóa tỷ giá được diễn ra một cách khá thận trọng từ tháng

2/1999, Việt Nam thực hiện điều hành tỷ giá trên cơ sở thị trường ngoại tệ liên

ngân hàng và thực hành chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh với biên độ nhất định.

Song từ năm 2008 đến nay, do nhiều biến động vĩ mô, chính sách tỷ giá lại được

thắt chặt với các can thiệp khá mạnh khiến cho cơ chế tỷ giá chuyển dần về nhóm

“cứng nhắc”. Ngoài ra, quá trình tự do hóa hoạt động của các ngân hàng, các định

chế tài chính cũng được thực hiện song song với quá trình tự do hóa tỷ giá, khoảng

những năm 2000, bắt đầu bằng việc giảm chỉ định tín dụng cho vay và phân biệt

cho vay chính sách với cho vay thương mại, thực hiện cổ phần hóa các NHTMNN

giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành ngân hàng. Tuy nhiên, từ năm 2008,

NHTW áp dụng phân nhóm NHTM và phân bổ chỉ tiêu tín dụng cho từng nhóm

nhằm hạn chế tác động của các biến động vĩ mô, khiến cho tự do hóa ngành ngân

hàng có xu hướng chững lại. Đối với các định chế tài chính, TTCK được thành lập

từ 2003 cùng với việc phát triển các quỹ đầu tư góp phần gia tăng sự lưu chuyển

114

vốn trong thị trường tài chính. Bên cạnh đó, tự do hóa lĩnh vực bảo hiểm cũng được

thúc đẩy mạnh từ những năm 2000 mặc dù thị trường này bắt đầu mở cửa từ những

năm 1990.

Tự do hóa tài khoản vốn được bắt đầu từ năm 1991 với việc mở cửa thị

trường vốn vào dài hạn mà chủ yếu là tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp FDI và gián

tiếp ODA. Song phải đến giai đoạn 2005, Việt Nam mới mở cửa thị trường vốn ra

dài hạn dưới hình thức đầu tư gián tiếp ra nước ngoài và dưới dạng tiền gửi. Tự do

hóa tài khoản vốn ngắn hạn vẫn còn đang trong giai đoạn cân nhắc và rất thận trọng

khi tiến hành.

Như vậy, tự do hóa tài chính của nước ta thực sự được tiến hành toàn diện

trên các lĩnh vực từ những năm 2000 và nhanh, mạnh từ năm 2006 khi chúng ta

chính thức trở thành thành viên WTO. Việt Nam tiến hành tự do hóa tài chính theo

mô hình IMF đề xuất với việc tự do hóa lãi suất trước, tự do hóa luồng vốn dài hạn

vào trước đi kèm với đổi mới khu vực kinh tế nhà nước (Hình 3.2.).

Hình 3.2. Tiến trình tự do hóa tài chính của Việt Nam

Nguồn: Phạm Thị Minh Uyên và cộng sự (2015)

115

Tự do hóa lãi suất là nội dung được thực hiện triệt để nhất trong số những nội

dung của tự do hóa tài chính. Hiện nay, do những biến động kinh tế vĩ mô trong

nước và thế giới (khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008, khủng hoảng nợ công ở

châu Âu, khủng hoảng chính trị) khiến cho quản lí hành chính với lãi suất lại

được thiết lập trở lại bởi NHTW. Những động thái của NHTW gồm có khống

chế trần lãi suất tiền gửi và khống chế trần lãi suất cho vay. Các can thiệp này

của NHTW đã làm cho quá trình tự do hóa lãi suất tạm thời bị ngưng lại thể hiện

ở diễn biến lãi suất cho vay và lãi suất huy động của Việt Nam có nhiều biến động

(Hình 3.3.).

Hình 3.3. Diễn biến lãi suất VNĐ giai đoạn 2009 - 2014

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Về tự do hóa hoạt động của các ngân hàng và các định chế tài chính

Việc kiểm soát hoạt động của các ngân hàng và các định chế tài chính

được NHTW dần nới lỏng tạo điều kiện cho các TCTD được tự chủ kinh doanh,

bình đẳng hơn giữa các loại hình ngân hàng. Các TCTD được quyền chủ động

trong các quyết định cho vay, loại bỏ chỉ định tín dụng, được tự do kinh doanh

dựa trên các nguyên tắc thị trường. NHTW ban hành hàng loạt các văn bản

pháp luật nhằm hướng dẫn hoạt động cho các NHTM và các định chế tài chính.

Tuy nhiên, trong những giai đoạn nhất định, NHNN lại có những quy định thắt chặt

116

hơn hoạt động của hệ thống NHTM. Ví dụ, năm 2012 NHNN thực hiện phân

nhóm NHTM và “phân bổ” chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng nhóm: Nhóm

1 được tăng trưởng tín dụng 17%; Nhóm 2 tăng trưởng tín dụng 15%; Nhóm 3 được

tăng trưởng tín dụng 8%; Nhóm 4 không được tăng trưởng tín dụng. Chính sách

kiểm soát này khiến ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng tín dụng của

hệ thống TCTD trên toàn giai đoạn 2012 đến nay (Hình 3.4).

Hình 3.4. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của tổ chức tín dụng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Đối với thị trường chứng khoán, quỹ đầu tư, bảo hiểm: vượt qua giai đoạn

khởi đầu của thị trường chứng khoán (2000 - 2005) và giai đoạn bùng nổ của thị

trường chứng khoán (2006 - 2007) số lượng các tổ chức chứng khoán (TCCK)

được tăng lên nhanh chóng. Cuối năm 2007, số lượng TCCK là 78 loại, quy mô

chứng khoán niêm yết toàn thị trường là 505 loại và tổng giá trị giao dịch trên

TTCK là 86.082,44 tỷ đồng tính đến thời điểm ngày 28 tháng 12 năm 2007 (Trần

Thị Mộng Tuyết, 2008). Từ 2008 đến nay, với nhiều biến động kinh tế vĩ mô, hoạt

động các TCCK cũng chịu nhiều ảnh hưởng. Số lượng các TCCK vẫn tăng, nhưng

mức độ tăng chững lại, tổng giá trị niêm yết trên thị trường đạt 425 nghìn tỷ đồng,

tổng giá trị vốn huy động thông qua kênh này đạt 237 nghìn tỷ đồng (UBCKNN,

2014). Song song với sự phát triển của thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư

117

cũng phát triển khá tương đồng về quy mô, tốc độ với TTCK. Tính đến cuối năm

2011, số lượng các công ty quản lí quỹ là 47 công ty. Số lượng các quỹ mới được

hình thành năm 2009 - 2011 rất ít do biến động kinh tế thế giới dẫn đến khó khăn

trong huy động vốn ở thị trường trong nuớc.

Tự do hóa giao dịch vốn

Quá trình tự do hóa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện bằng

việc ban hành hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm kiến tạo môi

trường pháp lý hoàn thiện góp phần xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Ví dụ

như: Luật Ðầu tư nuớc ngoài ban hành 1987 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần với các

mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996 và năm 2000. Năm 2005, Quốc

hội đã ban hành Luật Ðầu tư có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, thay thế

Luật Ðầu tư nuớc ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nuớc. Như vậy, xét về

chính sách pháp luật dẫn đường cho các hoạt động kinh tế, tự do hóa giao dịch vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài cơ bản được thực hiện, ngày càng tạo ra môi trường đầu

tư công bằng cho các chủ thể kinh tế. Nhờ vậy, tổng số vốn đầu tư trực tiếp từ nước

ngoài FDI tăng khá nhanh chóng. Việt Nam được coi là điểm đến đầu tư hấp dẫn

của Đông Nam Á nói riêng, châu Á nói chung (Bảng 3.6). Bên cạnh đó, Chính

phủ ban hành Nghị định Số: 78/2006/NÐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Ðầu tư

2005 về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nuớc ngoài. Ðầu tư trực tiếp ra nước ngoài

nhờ đó cũng có những chuyển biến đáng kể (Bảng 3.7).

Bảng 3.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI giai đoạn 2006 – 2014

Đơn vị: (triệu đô la Mỹ)

Số dự án

Tổng số vốn đăng ký

Tổng số vốn thực hiện

Năm

987 2006 12004 4100

1544 2007 21347.8 8030

1557 2008 71726 11500

1208 2009 23107.3 10000

118

2010 19886.1 11000 1237

2011 15598.1 11000 1193

2012 13013.3 10460 1301

2013 22352.2 11500 1530

2014 21920 12500 1843

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Bảng 3.7. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Đơn vị: Triệu USD

Năm Số dự án Phần vốn đăng ký

2006 36 221

2007 80 977.9

2008 104 3147.5

2009 91 2597.6

2010 108 3503

2011 82 2531

2012 84 1546.7

2013 89 4420

1786 2014 109

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Một mức độ cao hơn trong các cấp độ tự do hóa giao dịch vốn chính là tự do

hóa đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp. Đây là dòng vốn dễ biến động, dễ tạo ra

119

những nguy cơ và có liên quan khá mật thiết với khủng hoảng tài chính. Do đó,

trong lộ trình tự do hóa dòng vốn này, các nước luôn thể hiện thái độ rất cẩn trọng.

Đối với nước ta, đầu tư gián tiếp thường thống qua kênh TTCK hoặc góp vốn mua

cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam. So sánh trên toàn giai đoạn 2001 - 2014

cho thấy, hoạt động đầu tư gián tiếp vào nước ta tăng cả về quy mô và tỷ trọng

trong tổng vốn đầu tư nước ngoài (Bảng 3.8). Tuy nhiên, trước những biến động

khó lường của kinh tế thế giới, cần kiểm soát dòng vốn này thật thận trọng bởi

những thất bại thị trường như thông tin bất đối xứng, hoạt động đầu cơ của các nhà

đầu tư nước ngoài sẽ dễ dẫn đến những tổn thương nghiêm trọng cho TTCK nói

riêng, TTTC Việt Nam nói chung.

Bảng 3.8. Khối lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK

Mua vào Bán ra

Năm

Số lượng Giá trị (triệu đồng) Số lượng Giá trị (triệu đồng)

161.600 12100 45000 2360 2001

4.259.339 121210 874879 25500 2002

3.385.420 99900 323.010 5820 2003

2004 22.096.711 1226600 6.507.253 486500

2005 41.940.420 3002440 31.151,37 2766750

2006 152.718.070 12373490 83.059,35 7599670

2007 513.754.396 66616070 348.56.437 43141420

2008 592.750.000 38044000 526.350.000 30928000

120

2009 866.084.156 40086015 871.412.496 36826743

2010 103.582.370,10 44.883.480,37 76.559.306,50 29.515.133,38

2011 92.298.150,20 29.757.383,89 96.453.868,70 28.449.571,68

2012 122.291.502,10 32.577.740,57 116.047.037,40 29.389.597,85

2013 132.324.694,80 44.685.856,29 123.410.746,10 39.180.721,23

2014 193.704.355,50 65.593.400,76

68.479.687,45 172.885.946,20 Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TPHCM

Tóm lại, tự do hóa tài chính của Việt Nam đang bước vào giai đoạn giữa của

lộ trình. Trong thời gian tới, Việt Nam chắc chắn phải tăng tốc trong lộ trình tự do hóa

tài chính để tới năm 2018, Việt Nam phải thực hiện được cam kết mở cửa tất cả các

thị trường của nền kinh tế. Với những hạn chế của nền kinh tế nội tại, chắc chắn quá

trình này sẽ mang lại những thời cơ tốt đẹp (nếu ta biết chọn lọc đón nhận) nhưng

3.2.3.3. Thiết lập hệ thống quản lý nguy cơ và giám sát theo chuẩn quốc tế

cũng đồng thời tiềm ẩn nhiều nguy cơ có thể gây tổn hại đến “cơ thể” kinh tế nước ta.

Để theo kịp với đà phát triển trên, hoạt động thanh tra ngân hàng không chỉ

dừng lại ở hoạt động kiểm tra sự tuân thủ Luật pháp của các ngân hàng mà đã

từng bước xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng với nội dung kết hợp giữa

những yếu tố định lượng như giám sát vốn điều lệ so với vốn pháp định, mức tăng

trưởng tín dụng, với những yếu tố định tính như: đánh giá cơ cấu tài sản nợ, tài

sản có, xây dựng và tiến hành khảo sát các tỷ lệ đảm bảo an toàn, chất lượng tín

dụng… qua các thời kỳ để đánh giá mức độ rủi ro trong kinh doanh, trong đầu tư,

uy tín của ngân hàng, khả năng thanh khoản, các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập

của ngân hàng…

Ngân hàng Nhà nước cũng đã xây dựng các tiêu chí đánh giá ngân hàng theo

tiêu chuẩn CAMELS nhằm phân loại ngân hàng cụ thể hơn theo các phân hạng từ

121

tốt đến xấu. Mỗi cấu phần trong tiêu chuẩn CAMELS sử dụng hệ thống tính điểm

từ 1-5, cụ thể như sau:

Cấp độ 1: kết quả thanh tra tốt - Thanh tra đưa ra những điểm cần lưu ý của

ngân hàng

Cấp độ 2: một vài sai phạm không đáng kể - Thanh tra đưa ra những điểm

cần lưu ý

Cấp độ 3: thẩm định dưới mức hài lòng, có lo ngại - Thanh tra đưa ra những

khuyến nghị cần điều chỉnh

Cấp độ 4: lo ngại nghiêm trọng, cần theo dõi đặc biệt - Thanh tra sẽ lập kế

hoạch xử lý cụ thể, thường là lệnh ngưng hoạt động trong một thời gian nếu các sai

phạm không được chỉnh sửa

Cấp độ 5: có phát sinh những vấn đề rất nghiêm trọng - Thanh tra sẽ ra lệnh

ngưng hoạt động đối với ngân hàng và có biện pháp xử lý ngay

Hoàn thiện và đa dạng các phương pháp giám sát

Nếu trước đây hoạt động giám sát ngân hàng chủ yếu là giám sát tại chỗ (tổ

chức thanh tra tại nơi làm việc của đối tượng bị thanh tra trên cơ sở kiểm tra, xem

xét tài liệu có liên quan như báo cáo tài chính, các chứng từ sổ sách,…) thì phương

pháp đang được chú trọng là giám sát từ xa (là việc gián tiếp kiểm tra qua tổng hợp

và phân tích các báo cáo tài chính để đánh giá thông tin và đánh giá chất lượng hoạt

động của các ngân hàng). Để triển khai kết hợp các phương pháp này Ngân hàng

Nhà nước đã thành lập Phòng giám sát và phân tích hoạt động giám sát ngân hàng.

Sự kết hợp này là cần thiết vì song song với phương pháp giám sát tại chỗ mang

tính truyền thống, giám sát từ xa với chế độ báo cáo định kỳ hoặc đột xuất làm cơ

sở dữ liệu cho việc phân tích, xử lý dữ liệu tài chính sẽ được triển khai một cách có

hệ thống. Từ đó, vừa giúp cho Ngân hàng Nhà nước có tư liệu để so sánh những

chỉ tiêu biến động qua các năm, vừa tạo căn cứ cho chủ thể giám sát kịp thời phát

hiện những rủi ro có nguy cơ phát sinh, ngoài ra, phương pháp này còn cung cấp

thêm nguồn thông tin quan trọng để nâng cao chất lượng của phương pháp giám sát

tại chỗ.

122

Với những thành quả bước đầu trong xây dựng bộ máy giám sát ngân hàng đã

góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt trong bối cảnh khủng

hoảng tài chính toàn cầu bùng phát từ cuối 2007 - 2009, các ngân hàng đã tuân thủ

khá nghiêm túc những vấn đề về kiểm soát tín dụng, chính sách lãi suất, tỷ giá, dự

trữ bắt buộc, điều đáng ghi nhận là các ngân hàng ngày càng có ý thức hơn trong

đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong kinh doanh, cơ cấu lại tài sản có và nâng cao

khả năng quản trị rủi ro trong bối cảnh khủng hoảng… Vì vậy, theo đánh giá của

Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống năm 2009 chỉ ở

mức 2,46% và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh như ROA và ROE

đều tăng trưởng khá tốt qua các năm như chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở

hữu đạt xấp xỉ 19% > so với năm 2008 chỉ là 11,9%.

Bảng 3.9. Đối chiếu việc thực hiện các nguyên tắc giám sát của BASEL I

trong hoạt động giám sát của NHNN

Nguyên tắc

Đã đáp ứng

Đang xúc

Chưa đáp

Nội dung của nguyên tắc

số

6

tiến 13

ứng 6

Chức năng - nhiệm vụ - sự độc lập - sự

1

X

minh bạch và hợp tác

2

Phạm vi hoạt động ngân hàng

X

3

Các tiêu chí cấp phép

X

4

Chuyển đổi quyền sở hữu

X

5

Các sáp nhập cơ bản

X

6

An toàn vốn

X

7

Quy trình quản trị rủi ro

X

8

Rủi ro tín dụng

X

9

Các tài sản có vấn đề, dự trữ & dự phòng

X

10

Giới hạn tín dụng với khách hàng lớn

X

11

Nguy cơ rủi ro với các bên liên quan

X

12

Rủi ro chuyển đổi và RR chính trị

X

123

13

RR thị trường

X

14

RR thanh khoản

X

15

RR hoạt động

X

16

RR lãi suất trong ghi sổ của ngân hàng

X

17

Kiểm toán và kiểm soát nội bộ

X

18

Phòng tránh RR trong dịch vụ tài chính

X

19

Phương pháp giám sát

X

20

Kỹ thuật giám sát

X

21

Thông tin báo cáo giám sát

X

22

Chế độ kế toán và công bố thông tin

X

23

Thực hiện yêu cầu & kết luận thanh tra

X

24

Giám sát tổng thể

X

25

Phối hợp giám sát trong & ngoài nước

X

TỔNG

6

13

6

Nguồn: Dự án cải cách ngân hàng – Ngân hàng Nhà nước

Tuy nhiên, một số chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng đã được vận

dụng song các bộ chỉ tiêu giám sát còn chưa đồng bộ hoặc chưa phù hợp với tình

hình Việt Nam nên cũng gây hạn chế khi đánh giá và phân tích. Điều đáng quan

tâm là trong 25 nguyên tắc giám sát theo tiêu chuẩn của BASEL I thì hoạt động

giám sát của NHNN đáp ứng chưa đến 30%.

Kết quả khảo sát nêu trên được Công ty Kiểm toán Ernst & Young tiến hành

từ 2006. Với chỉ đạo của NHNN hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã phấn đấu hoàn

thiện dần các nguyên tắc BASEL I. Hiện nay đang ở giai đoạn đầu thực hiện

BASEL II, Tuy nhiên, sau khủng hoảng tài chính tại Mỹ, Ủy ban BASEL thế giới

đã ban hành bộ chuẩn mực BASEL III và các ngân hàng trên thế giới đã từng

bước triển khai từ 2012. Do đó, các ngân Hàng Việt Nam phải xây dựng chuẩn an

toàn từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo môi trường kinh doanh của định

chế ngân hàng phù hợp với quá trình hội nhập.

124

- Hệ thống kế toán và kiểm toán còn nhiều bất cập chưa đạt những chuẩn

mực quốc tế nên chưa tạo nên mối quan hệ hỗ trợ cho công tác giám sát

Cơ sở hạ tầng còn hạn chế nên hệ thống thông tin chưa đồng bộ, thống

nhất giữa các vùng miền nên khả năng tiếp cận, xử lý thông tin không kịp thời.

Từ đó không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động giám sát mà còn ảnh hưởng đến cả

công tác dự báo.

Về bảo hiểm tiền gửi, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập theo

quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 9/11/1999 của Thủ tướng chính phủ và

chính thức hoạt động từ ngày 7/7/2000. Mặc dù vậy, luật Bảo hiểm tiền gửi

(BHTG) được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2012 tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa

XIII và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013, tiền gửi được bảo hiểm được quy

định cụ thể trong Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005. BHTG Việt

Nam (DIV) đã chính thức là thành viên của Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi Quốc tế

(IDAI) vào tháng 2/2003. Từ khi có mặt trên thị trường vào năm 2000, hạn mức chi

trả bảo hiểm là 30 triệu VND/1 người gửi tiền khi phát sinh nghiệp vụ phải chi trả

BHTG, nhưng đến năm 2005, con số này đã lên tới 50 triệu VND/1 người gửi

tiền. Nguồn vốn điều lệ ban đầu của BHTG ở nước ta là 1000 tỷ đồng hoàn toàn

do chính phủ cấp, đến nay đã lên tới 20 lần nguồn vốn ban đầu (Trần Thị Lan

Hương, 2015).

Tính đến hết năm 2013, số dư tiền gửi được bảo hiểm đã lên tới 2.026 nghìn

tỷ đồng, đã chi trả cho 39 tổ chức tham gia bảo hiểm bị đổ vỡ ứng với số tiền trên

1800 tỷ đồng và cho đến cuối năm 2014 vừa qua, số lượng các Ngân hàng thương

mại tham gia BHTG đã tăng 41,5% so với năm 2002, BHTG nước ta cũng cấp

7800 chứng nhận tham gia BHTG cho các tổ chức tham gia bảo hiểm, các chi nhánh

và phòng giao dịch (Trần Thị Lan Hương, 2015).

Các tổ chức BHTG trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đã và

đang đóng một vai trò hết sức tích cực trong việc hỗ trợ ổn định hệ thống tài

chính tiền tệ. Nhìn từ quá khứ cho đến nay, hoạt động của tổ chức này càng

được thể hiện rõ trong những giai đoạn của khủng hoảng kinh tế-tài chính.

125

Trong những giai đoạn khó khăn ấy, hoạt động của BHTG đã giúp tăng niềm tin

cho những người gửi tiền, hỗ trợ đắc lực cho công cuộc tái thiết kinh tế và phục

hồi hệ thống tài chính sau khủng hoảng. Ở nước ta, nhìn chung BHTG đã có

những bước phát triển rõ rệt từ khi được thành lập cho đến nay. Điều này được

thể hiện ở tổng nguồn vốn và quỹ bảo hiểm ngày càng được mở rộng, các ngân

hàng và các định chế tài chính gặp khó khăn cũng đã được giúp đỡ phần nào.

Tuy nhiên, so với thế giới, chỉ xét riêng trong khu vực Đông Nam Á, BHTG

nước ta còn rất nhỏ bé. Hiện tại, hạn mức bảo hiểm tối đa cho một người gửi

tiền ở một TCTD chỉ là 50 triệu đồng. Theo nhiều chuyên gia, con số này bây giờ

là quá thấp, đặc biệt với bối cảnh kinh tế thế giới và ngay cả môi trường vĩ mô

trong nước còn tiểm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay.

Sau 15 năm hoạt động, bảo hiểm tiền gửi đã từng bước phát triển và đáp

ứng nhu cầu của nền kinh tế. Điều này chứng minh chính sách bảo hiểm tiền gửi

của Nhà nước là đúng đắn, phát huy các giá trị tích cực trong việc góp phần bảo

đảm an toàn cho hoạt động ổn định và bền vững của hệ thống tài chính - ngân

hàng. Chính sách này đã không ngừng nâng cao việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp

của nhà đầu tư gián tiếp (người gửi tiền) như thực hiện việc chi trả bảo hiểm cho

người gửi tiền ở rất nhiều quỹ tín dụng ngân hàng. Đồng thời, bảo hiểm tiền

gửi còn góp phần không nhỏ vào việc ngăn chặn tình trạng rút tiền hàng loạt

trước những tác động tiêu cực của thông tin kinh doanh trong nền kinh tế thị

trường, ổn định niềm tin và lợi ích thường xuyên cho nhà đầu tư gián tiếp. Bảo

hiểm tiền gửi cũng đã giúp cho nhà nước và xã hội phòng tránh được sự đổ vỡ dây

chuyền của các quỹ tín dụng.

3.2.4. Phòng chống các loại tội phạm kinh tế gây ảnh hưởng tới an ninh

kinh tế quốc gia

Trong giai đoạn 2011 – 2015, vi phạm, tội phạm kinh tế, đặc biệt là tội phạm

lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản diễn biến rất phức tạp, xảy ra ở hầu

126

hết các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm như tài chính, ngân hàng, xây dựng cơ

bản, buôn lậu... gây thiệt hại lớn tài sản của nhà nước, doanh nghiệp với nhiều

phương thức, thủ đoạn phạm tội mới, tính chất, mức độ rất tinh vi. Lực lượng Cảnh

sát phòng chống tội phạm đã tập trung phát hiện, khởi tố, điều tra nhiều vụ án đặc

biệt nghiêm trọng trên các lĩnh vực.

Phát hiện

Thu hồi (tỷ VND)

Thiệt hại (tỷ

Năm

VND)

Vụ

Đối tượng

Tổng

Kinh tế

Tham nhũng

2011

15.130

13.055

13.141

4.000

3631

369

2012

15.690

14.031

14.612

4.200

3.817

383

2013

16.636

17.073

10.100

6.450

4.300

2.150

2014

17.597

16.208

23.049

5.856

3.830

2.026

2015

15.914

14.628

14.628

6.000

5.000

1.000

2011-2015

80.967

74.995

75.530

26.506

20.578

5.928

Bảng 3.10. Kết quả xử lý tội phạm kinh tế giai đoạn 2011 – 2015

3.2.4.1. Phòng chống tội phạm về tài chính, tín dụng, ngân hàng

Nguồn: Bộ Công An (2016)

Trong 5 năm từ 2011-2015, lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm đã

phát hiện, điều tra trên 160 vụ với mức thiệt hại do tội phạm gây ra trên 20.000 tỷ

đồng. Riêng C46 thụ lý điều tra trên 20 vụ với tổng mức thiệt hại trên 10.000 tỷ

đồng (vụ Huỳnh Thị Huyền Như gây thiệt hại trên 4000 tỷ đồng, vụ công ty Thái

Sơn thiệt hại 1.500 tỷ đồng, vụ ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi

nhánh Nam Hà Nội thiệt hại 3.900 tỷ đồng...). Kết quả điều tra cho thấy trong các

127

vụ án kinh tế này, thủ đoạn phạm tội không mới nhưng do công tác quản trị, điều

hành ngân hàng thương mại còn bộc lộ nhiều sơ hở, hầu hết các vụ án trong lĩnh

vực này đều có sự tiếp tay trực tiếp hoặc gián tiếp của cán bộ ngân hàng hoặc do

chính cán bộ ngân hàng thực hiện.

Bên cạnh một số thủ đoạn “truyền thống” như: (1) Làm giả các giấy tờ có giá

như cổ phiếu, trái phiếu, sổ đỏ, bảo lãnh của ngân hàng để lừa đảo chiếm đoạt tài

sản (vụ lừa đảo xảy ra tại Tổng công ty Thương mại kỹ thuật và Đầu tư thuộc Tập

đoàn Dầu khí Việt nam, các đối tượng đã làm giả 85 chứng thư bảo lãnh của ngân

hàng để chiếm đoạt 549 tỷ đồng); (2) Lập khống hồ sơ mua bán hàng hoá hay dùng

cùng một tài sản thế chấp nhiều nơi để vay vốn, chiếm đoạt (vụ công ty Thái Sơn

lập khống hồ sơ mua bán hàng hoá là sắt thép, dùng tài sản thế chấp nhiều nơi để

vay của 17 tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí

Minh, gây thiệt hại 1.500 tỷ đồng); (3) Do nhu cầu vốn, nhiều ngân hàng thương

mại huy động vốn ngầm cao hơn nhiều lãi suất do Ngân hàng nhà nước quy định,

mở sổ sách riêng để hạch toán chi thưởng cho người gửi làm tăng nguy cơ tiềm ẩn

để cán bộ thoái hoá biến chất, tham ô, cố ý làm trái... Đã xuất hiện một số thủ đoạn

mới lợi dụng sơ hở trong luật Tổ chức tín dụng, Luật chứng khoán... một số nhà đầu

tư (trên thực tế là người nắm giữ một số lượng cổ phiếu lớn, có ảnh hưởng chi phối

tại các ngân hàng thương mại cổ phần) đã sử dụng tiền huy động của ngân hàng để

“bơm” cho các công ty “sân sau” dưới dạng hợp đồng uỷ thác đầu tư để kinh doanh

bất động sản, chứng khoán... phục vụ “lợi ích nhóm” hoặc dùng tiền của ngân hàng

để mua cổ phiếu, cổ phần của các ngân hàng thương mại cổ phần khác (thông qua

việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp tạo “sở hữu chéo”, nhằm thâu tóm ngân

hàng để lũng đoạn, đầu cơ (vụ Nguyễn Đức Kiên, chủ tịch Hội đồng quản trị của 3

công ty: Công ty CP Đầu tư thương mại B&B, Công ty TNHH đầu tư tài chính Á

châu Hà Nội và công ty CP đần tư ABC Hà Nội, phạm các tội “kinh doanh trái

phép”, “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước gây

hậu quả nghiêm trọng và trốn thuế”. Qua điều tra các vụ án trong lĩnh vực ngân

hàng, C46 đã tổng kết rút ra các thủ đoạn của tội phạm kinh tế như tham ô, lừa đảo,

128

cố ý làm trái, thiếu tinh thần trách nhiệm, nhận hối lộ và sử dụng công nghệ cao...

để phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm kinh tế trong lĩnh vực này.

Cũng trong lĩnh vực tín dụng, giai đoạn 2011 – 2015 đã phát hiện hơn 120 vụ

vỡ nợ liên quan đến hoạt động “tín dụng đen” với số tiền mất mát lên tới hàng chục

nghìn tỷ đồng, tập trung nhiều ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Do chính sách

tiền tệ của Ngân hàng nhà nước thắt chặt kéo dài, các doanh nghiệp không tiếp cận

được nguồn vốn ngân hàng, phải tìm cách đi vay ngoài xã hội để duy trì hoạt động

sản xuất kinh doanh và đầu tư vào các dự án còn dở dang; người có tiền nhàn rỗi

không muốn gửi vào ngân hàng vì lo lạm phát, lãi suất thấp, đồng tiền mất giá...

Nắm bắt được tâm lý này, các đối tượng dùng lãi suất cao đánh vào lòng tham của

người cho vay, cùng với thủ đoạn tinh vi: thời gian đầu thực hiện nghĩa vụ và thời

hạn đầy đủ cả gốc và lãi bằng cách lấy tiền của người sau trả cho người trước để tạo

lòng tin, làm cho nhiều người không chỉ lấy tiền, tài sản của gia đình mà còn huy

động của người thân, quen để cho vay. Các đối tượng lừa đảo sau khi đã gom được

3.2.4.2. Buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả

số tiền lớn thì bỏ trốn.

Hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng

không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm... diễn biến phức tạp, trên nhiều tuyến

mặc dù các lực lượng chức năng đã rất quyết liệt trong công tác phòng ngừa, phát

hiện, điều tra xử lý.

Trên tuyến biên giới phía bắc, quy mô buôn lậu trên tuyến giảm đáng kể sau

khi xảy ra sự việc Trung Quốc tranh chấp, xâm phạm biển, đảo Việt Nam. Tuy vậy,

vào dịp giáp Tết Nguyên đán, tình hình buôn lậu vẫn diễn biến phức tạp. Mặt hàng

buôn lậu chủ yếu là hàng tiêu dùng, với thủ đoạn truyền thống là xé lẻ hàng hoá vận

chuyển bằng xe khách, xe tải nhẹ từ biên giới vào sâu nội địa, đan xen hàng hoá có

xuất hoá đơn từ các chợ vùng biên như Móng Cái, khu kinh tế mở Quảng Ninh, chợ

Tân Thanh, Đồng Đăng Lạng Sơn. Việc cư dân biên giới được mua hàng miễn thuế

129

với tổng giá trị 2 triệu đồng/người/ngày theo quyết định 254/2006/TTg cũng bị các

đối tượng buôn lậu lợi dụng để nhập lượng hàng hoá lớn vào nội địa. Chế tài xử lý

hành chính đối với các đối tượng này rất nhẹ, chưa có tác dụng răn đe.

Trên tuyến hàng không, bằng nhiều thủ đoạn khác nhau và thường có sự móc

nối, tham gia của một số cán bộ, nhân viên (đại diện hàng không Việt Nam ở nước

ngoài, bộ phận vận chuyển hàng hoá, cán bộ Hải Quan tại cửa khẩu...), các đối

tượng nhập lậu những loại hàng gọn nhẹ, có thuế suất cao như vàng, điện thoại di

động, hàng điện tử, tân dược, ngoại tệ, cổ vật, kim cương, ma tuý, sừng tê giác, sản

phẩm từ ngà voi... Riêng năm 2013, C46 liên tiếp bắt giữ và khởi tố 8 vụ tại sân bay

quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất, thu số lượng lớn tang vật trị giá hàng chục tỷ đồng.

Trên tuyến đường biển, lợi dụng chính sách tạm nhập, tái xuất, các đối tượng

trà trộn hàng cấm, hàng có giá trị cao khai báo hàng thuộc diện tạm nhập, tái xuất

để đưa hàng vào cảng biển Việt Nam, sau đó làm thủ tục tái xuất, đưa hàng lên tàu

biển vận chuyển đến phao số 0 thì chuyển sang thuyền nhỏ đưa vào bờ tập kết rồi

tiêu thụ. Trong năm 2013, C46 triệt phá đường dây vận chuyển buôn bán thuốc lá

điếu do nước ngoài sản xuất lớn nhất từ trước đến nay ở tỉnh Quảng Ninh, thu giữ

12.000 cây thuốc lá ngoại nhập lậu.

Tuyến bưu điện, các đối tượng nước ngoài móc ngoặc với các đối tượng

trong nước tổ chức bán hàng thông qua đường bưu điện để buôn lậu, trốn thuế. Thủ

đoạn của các đối tượng là lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan quản lý, đưa

các thông tin quảng cáo sai lệch trên các phương tiện thông tin đại chúng để lôi kéo

khách hàng và dùng dịch vụ bưu chính vận chuyển, Thanh toán khi khác hàng có

nhu cầu. Điển hình, C46 đã triệt phá đường dây vận chuyển, tiêu thụ hàng hoá do

nước ngoài sản xuất (12.500 chiếc điện thoại nhái nhãn hiệu Iphone) không có hoá

3.2.4.3. Tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài

đơn, chứng từ qua đường bưu điện do đối tượng người Trung Quốc cầm đầu.

Lợi dụng chính sách ưu đãi, sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp trong

130

việc thành lập công ty tại Việt Nam, một số đối tượng người nước ngoài thành lập

công ty liên doanh hay công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Sau đó dùng

các thủ đoạn lừa đảo như lập khống bộ chứng từ mua – bán, khai tăng giá trị hợp

đồng ngoại thương và câu kết, mua chuộc cán bộ thoái hoá, biến chất trong các cơ

quan quản lý, giám sát để hợp thức hoá chứng từ, khi chiếm đoạt được tài sản thì

trốn về nước hoặc trốn đi nước thứ ba. Vụ án tại Ngân hàng NN & PTNT chi nhánh

Nam Hà Nội có 5 bị can mang quốc tịch nước ngoài (1 Maroc, 1 Pháp và 3

Canada). Từ vụ việc này, cơ quan công an đã kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước

chấn chỉnh hoạt động cho vay, nhật là đối với các dự án nước ngoài thế chấp bằng

hàng hoá nhập khẩu; kiếm nghị với Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Hải quan tăng

cường công tác quản lý giám sát hàng hoá nhập khẩu.

Lợi dụng các quy định trong cơ chế chính sách về cấp vốn ODA và công tác

quản lý, giám sát, sử dụng vốn ODA còn nhiều bất cập, các tổ chức, cá nhân trong

nước và nước ngoài, tìm cách thông đồng, móc ngoặc với nhau để trục lợi thông

qua việc trúng thầu thi công hoặc làm đơn vị giám sát công trình. Điển hình là vụ

Công ty tư vấn Giao thông Nhật Bản (JTC) hối lộ 11 tỷ đồng cho một số cán bộ

Ban quản lý đường sắt Việt Nam trong quá trình triển khai dự án ODA (xây dựng

tuyến đường sắt đô thị số 1 Hà Nội, giai đoạn 1)

Lợi dụng các chính sách ưu đãi trong khuyến khích đầu tư, nhiều doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tìm mọi thủ đoạn để trốn thuế, chủ

yếu qua hình thức chuyển giá: (1) chuyển lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi

có có thuế suất thấp; (2) chuyển giá thông qua chuyển giao tài sản hữu hình (máy

móc, thiết bị, công nghệ..) hoặc vô hình (định giá thương hiệu); (3) chuyển giá

thông qua chuyển giao dịch vụ, chi phí; (4) chuyển giá thông qua xác định giá

chuyển nhượng hàng hoá, nguyên vật liệu... nhằm làm kết quả kinh doanh thua lỗ

hay giảm lợi nhuận để trốn thuế gây thất thu ngân sách. Một số vụ điển hình như

Tập đoàm Metro Cash & Carry Việt Nam bị điều chỉnh, truy thu hơn 500 tỷ đồng,

Tập đoàn Keangnam bị điều chỉnh 1.220 tỷ đồng và truy thu 200 tỷ đồng. Các vụ

việc cho thấy công tác quản lý, giám sát khối doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước

131

ngoài của cơ quan nhà nước còn yếu kém, không phát hiện, không đưa vào diện

kiểm tra các doanh nghiệp “nghi vấn” khi kê khai lỗ nhưng vẫn đầu tư mở rộng hoạt

động kinh doanh như Metro Cash & Carry Việt Nam trong 12 năm hoạt động kê

khai lỗ 11 năm. Mặt khác, công tác xử lý còn hạn chế, khó khăn vì phải chứng minh

hành vi vi phạm tại công ty mẹ ở nước ngoài.

3.3. Đánh giá chung

3.3.1. Theo các chỉ tiêu định lượng

Tốc độ tăng trưởng kinh tế:

Quy mô nền kinh tế, giá trị GDP tăng đều trong suốt những năm đổi mới.

Sau 30 năm, giá trị sản lượng của nền kinh tế tăng 5,6 lần. Đó là nhờ tốc độ tăng

GDP cao được duy trì liên tục, trong đó năm 1986 đạt 2,84% (thấp nhất) và năm

1995 đạt 9,54% (cao nhất), trung bình trong những năm Đổi mới đạt khoảng 6,7%.

Với tốc độ tăng trưởng này, cứ sau 10 năm GDP tăng gấp đôi.

Bảng 3.11. Tốc độ tăng trưởng trung bình và tính ổn định của tăng trưởng

1986 –

1991 –

1996 –

2001 –

2006 –

1986 -

1990

1995

2000

2005

2014

2014

Tỷ lệ tăng trưởng GDP

4,4

8,2

7,0

7,5

6,55

6,69

(%)

Hệ số ổn định tăng

28,3

23,4

26,2

8,5

20,8

27,8

trưởng GDP (%)

% so với sản lượng

92,2

104,7

77,4

62,7

81,3

90

tiềm năng

GDP giai đoạn 1986 – 2014

Nguồn: Phùng Hữu Phú và cộng sự (chủ biên), 2016

132

Trong thời kỳ Đổi mới, GDP tăng trưởng liên tục và được duy trì, nhờ đó

Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp trong nhóm các nước đang

phát triển. Kết quả tăng trưởng kinh tế đã góp phần quan trọng nâng cao năng lực

nội tại của nền kinh tế.

Tỉ lệ lạm phát

Mức lạm phát giai đoạn 1996 - 2000 là 6,9% và giai đoạn 2001 - 2005 là

7,5%. Năm 2006 lạm phát giảm xuống ở mức 6,6%, thì năm 2007 lạm phát đạt mức

2 con số là 12,63%. Năm 2008 lạm phát lên đến 21,9% và đỉnh điểm là 23% vào

tháng 9 năm 2008, sang năm 2009, mức tăng giá cả ở mức 6,32%.

Trong giai đoạn 2005 – 2014, tốc độ tăng cung tiền tại Việt Nam liên tục duy

trì trên dưới 26%/năm và tín dụng nội địa cũng tăng 25%/năm. Có thời điểm cung

tiền M2 tăng đột biến dẫn đến lạm phát tăng mạnh. Cụ thể năm 2007 cung tiền M2

tăng đến 46,1%, ngay sau đó chỉ số lạm phát tăng vọt lên 19,9% năm 2008. Năm

2010 khi cung tiền M2 tăng 33,3% kéo theo mức lạm phát năm 2011 là 18,7%.

Hình 3.5. Mối quan hệ giữa cung tiền và lạm phát ở Việt Nam giai đoạn

2005 – 2014

Nguồn: Đinh Tuấn Minh, Phạm Thế Anh (2015), tr 178

133

Chỉ đến năm 2011, khi có Nghị quyết của Đảng và Chính phủ về ưu tiên

hàng đầu cho ổn định kinh tế vĩ mô thì lạm phát mới ổn định dần từ 2013 đến nay.

Năm 2014, chính sách điều hành kinh tế vĩ mô bước đầu đạt mục tiêu kép, vừa có

tăng trưởng GDP đạt mức khả quan đồng thời lạm phát thấp ở mức 4,11%. Thêm

vào đó, thanh khoản trên thị trường tiền tệ và tín dụng ổn định giúp lãi suất huy

động và cho vay đều giảm.

Về tỉ giá hối đoái, sau khi hợp nhất hai tỉ giá chính thức và tỉ giá trên thị

trường tự do, từ năm 1990, về cơ bản Việt Nam áp dụng cơ chế neo tỉ giá vào đồng

đô la Mỹ. Tỉ giá chính thức với tỉ giá trên thị trường liên ngân hàng được điều chỉnh

ở những mức độ khác nhau tuỳ thời điểm.

Chế độ neo tỉ giá mà Việt Nam áp dụng trong những năm vừa qua tạo mầm

mống bất ổn cho môi trường kinh tế vĩ mô. Ngân hàng nhà nước luôn phải trong

trạng thái đối phó khi tỉ giá thực trong nền kinh tế biến động mạnh. Cần lưu ý rằng

trong chế độ neo tỉ giá, việc chuyển từ trạng thái dư cung ngoại tệ sang thiếu hụt

cung ngoại tệ diễn biến rất nhanh. Đây là điều Việt Nam đã trải qua trong giai đoạn

đầu năm 2008 và giữa năm 2011 (Đinh Tuấn Minh, Phạm Thế Anh, 2015). Những

biến động nhanh và mạnh của tỉ giá gây bất ổn cho nền kinh tế và ảnh hưởng xấu

tới an ninh kinh tế quốc gia.

Hình 3.6. Tỷ giá danh nghĩa VND/USD giai đoạn 1985-2013

Nguồn: Đinh Tuấn Minh, Phạm Thế Anh (2015), tr 179.

134

Về chỉ tiêu nợ công, nợ công của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh cả về số

tuyệt đối lẫn số tương đối khi so sánh với GDP. Nếu năm 2003, nợ công mới chỉ là

234 nghìn tỉ đồng thì đến năm 2014, gánh nặng nợ phải trả đã là 1.900 nghìn tỉ

đồng. Tỉ trọng nợ công so với GDP tương tự cũng tăng từ 38,3% năm 2003 lên

56,3% năm 2010 và khoảng 60,3% năm 2014. So với tỉ lệ nợ công bình quân của

các nước đang phát triển là 35,3% GDP thì tỉ lệ nợ công của Việt Nam ở mức cao.

Nợ công/GDP

Nợ nước

Trái phiếu chính

Năm

(%)

ngoài/GDP (%)

phủ (tỉ đồng)

2003

672

-

28,9

2004

1.419

-

29,9

2005

2.235

-

27,8

2006

7.885

-

26,7

2007

18.939

33,8

28,2

2008

7.008

36,2

25,1

2009

9.178

52,6

29,3

2010

28.545

56,3

42,2

2011

81.715

54,9

41,5

2012

167.589

55,7

41,1

2013

194.801

54,2

37,3

2014

288.722

60,3

-

Bảng 3.12. Trái phiếu chính phủ và nợ công của Việt Nam

Nguồn: Đinh Tuấn Minh, Phạm Thế Anh (2015), tr 183

135

Cơ cấu nợ công có sự thay đổi khi tỉ lệ vay nợ nước ngoài giảm dần. Năm

2010 nợ công nước ngoài chiếm 59,7% nợ công thì đến năm 2014, tỉ lệ nợ công

nước ngoài giảm xuống còn 45,5%. Tuy nhiên, giá trị trái phiếu phát hành trong

nước của chính phủ tăng đột biến kể từ sau năm 2008. Sau 6 năm, giá trị trái phiếu

phát hành tăng 41 lần từ 7 nghìn tỉ đồng năm 2008 tăng vọt lên 288 nghìn tỉ đồng

năm 2014.

3.3.2.1. Những thành quả đạt được

3.3.2. Theo các tiêu chí định tính

Trong giai đoạn 2007 – 2015, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra

sôi động. Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2015 cho thấy

đất nước đã đạt được những thành quả quan trọng về kinh tế, đảm bảo ở một mức

độ nhất định tính ổn định của nền kinh tế, hoá giải những nguy cơ, rủi ro đe doạ an

ninh kinh tế. Những thành quả cơ bản thể hiện trên các khía cạnh sau đây:

Về xây dựng chiến lược hội nhập và thể chế kinh tế trong quá trình hội nhập

gắn với đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia

Nghiên cứu quá trình xây dựng chủ trương, chiến lược của Việt Nam trong

quá trình hội nhập và xử lý các vấn đề an ninh kinh tế nảy sinh, có thể thấy mỗi một

giai đoạn, khi tình hình và các nhân tố mới đe doạ an ninh quốc gia nói chung và an

ninh kinh tế nói riêng xuất hiện, Việt Nam đều có sự điều chỉnh, bổ sung các quan

điểm và nội hàm an ninh quốc gia cho phù hợp với tình hình mới. Từ khi Chiến

tranh lạnh kết thúc, có nhiều vấn đề mới đe doạ an ninh kinh tế xuất hiện, đặc biệt

là trào lưu toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, sự biến đổi theo chiều hướng xấu của khí

hậu, tình trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường gây ảnh

hưởng xấu tới các điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Nhiều vấn đề trong nước phát

sinh từ quá trình chuyển đổi nền kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp hoá,

đô thị hoá… đã tích tụ, phát triển thành những vấn đề phức tạp đe doạ sự ổn định

kinh tế xã hội như phân hoá thu nhập, ô nhiễm môi trường, thiên tai dịch bệnh, vấn

136

đề an ninh năng lượng, lương thực, nguồn nước… Đường lối, quan điểm của Đảng

và Nhà nước đã được bổ sung phát triển. Việt Nam đã coi trọng đảm bảo an ninh

kinh tế, coi đó là bộ phận không tách rời của an ninh quốc gia, và đề cao các biện

pháp đối phó tổng hợp bằng chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, bằng nội lực kết

hợp với hợp tác quốc tế.

Trong chiến lược phát triển, để đối phó với những nguy cơ gây bất ổn kinh

tế, Việt Nam đã coi trọng và nhấn mạnh quan điểm phòng ngừa là chính, thể hiện

bằng việc quản lý nền kinh tế theo pháp luật, tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý

nghiêm những hành vi vi phạm. Có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững,

tích cực thực hiện các dự án, chương trình quốc gia để chủ động đối phó với những

nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế, đồng thời xây dựng những lực lượng chuyên trách

để ứng phó kịp thời khi nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế xuất hiện. Nhà nước đã ban

hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, phòng chống tội

phạm… mở đường cho kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Việt

Nam đã tạo được môi trường, điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, thực

hiện thành công nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, chương trình mục

tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng trật tự pháp luật và kỷ cương

xã hội trong các hoạt động kinh tế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của các chủ thể kinh tế, giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa các

chủ thể trong nền kinh tế thị trường.

Trong quá trình hội nhập, nước ta đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế đa

phương như WTO, ASEAN, tham gia nhiều thoả ước, công ước quốc tế và khu vực

về biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, nhân quyền, kiểm soát hải quan… và nhiều

hoạt động song phương với các nước. Nhờ vậy, vị thế của Việt Nam được nâng lên

trên trường quốc tế do thái độ tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.

Cũng nhờ đó mà Việt Nam chủ động hơn trong việc đối phó với những nguy cơ gây

bất ổn kinh tế quốc gia từ trong nước và quốc tế.

137

Về đảm bảo ổn định những yếu tố nguồn lực cơ bản cho nền kinh tế

Đảm bảo an ninh kinh tế trước hết là đảm bảo được sự phát triển bền vững

của nền kinh tế, tăng cường khả năng thích ứng và ít bị tổn thương của nền kinh tế

trước những biến động của tình hình quốc tế. Trong quá trình hội nhập và đẩy mạnh

phát triển kinh tế giai đoạn 2007-2015, thị trường yếu tố sản xuất thế giới có rất

nhiều biến động, đặc biệt là giá dầu thô tăng giảm thất thường. Tuy vậy, những yếu

tố đầu vào thiết yếu cho nền kinh tế về cơ bản được đảm bảo ổn định. Việt Nam đã

bước đầu có chiến lược và biện pháp hợp lý trong vấn đề tiết kiệm và sử dụng năng

lượng hiệu quả, đồng thời tích cực tìm kiếm các nguồn năng lượng mới cho phát

triển kinh tế trong tương lai dựa trên quan điểm kết hợp hài hoà giữa hiệu quả kinh

tế, an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường. Cụ thể là, khai thác hợp lý, đa dạng

nguồn tài nguyên trong nước, kết hợp với xuất nhập khẩu hợp lý trên cơ sở giảm

dần, tiến đến không xuất khẩu nhiên liệu sơ cấp, đáp ứng nhu cầu năng lượng cho

phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn nhiên liệu và bảo đảm an ninh năng lượng cho

tương lai.

Về đảm bảo an ninh lương thực, quá trình 30 năm Đổi mới cho thấy rõ

những thành tựu to lớn của Việt Nam trong xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo an ninh

lương thực quốc gia, đồng thời duy trì vị thế của nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế

giới, góp phần vào đảm bảo an ninh lương thực thế giới. Ngành nông nghiệp của

Việt nam đã đạt được các thành tựu rất đáng kể và đóng vai trò cực kỳ quan trọng

trong việc đảm bảo an ninh lương thực, chiếm gần 21% GDP của đất nước và có

ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của gần 80% dân số cả nước. An ninh lương thực

quốc gia ở quy mô toàn quốc đang được đảm bảo, trong đó vai trò của sản xuất,

cung ứng lúa gạo là quan trọng.

Về đảm bảo ổn định, an toàn cho hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia

Tài chính, ngân hàng là công cụ điều hành nền kinh tế quan trọng của nhà

nước, là kênh huy động vốn cho các chương trình, dự án, thực hiện các mục tiêu

kinh tế và thực thi chính sách tiền tệ. Trong xu thế tự do hoá tài chính và toàn cầu

hoá kinh tế, các nước phải đối mặt với rủi ro về tài chính ngày càng lớn. Mặc dù

138

vậy, kết quả hoạt động tài chính ngân hàng của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2015 đã

có nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh

tế, đảm bảo an sinh xã hội, kiềm chế lạm phát, đảm bảo khả năng thanh khoản của

hệ thống ngân hàng.

Về phòng chống các loại tội phạm kinh tế

Trong bối cảnh đất nước đứng trước nhiều khó khăn thách thức từ bên ngoài

và từ nội tại nền kinh tế, công tác phòng, chống tội phạm kinh tế đã được chú trọng

cả về biện pháp phòng ngừa và điều tra xử lý tội phạm. Các lực lượng chức năng,

tiêu biểu là lực lượng công an đã tham mưu, đề xuất nhiều chủ trương, giải pháp

khắc phục vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng, quản lý thị trường vàng,

xử lý nợ xấu, quản lý, cấp phép khai thác tài nguyên khoáng sản… góp phần đảm

bảo ổn định thị trường, chống thất thoát tài sản của nhà nước. Các lực lượng chức

năng đã phối hợp xác minh làm rõ năng lực tài chính của nhiều tổ chức, cá nhân

nước ngoài có dự án hợp tác, đầu tư vào Việt Nam, qua đó tham mưu lựa chọn các

đối tác có năng lực tài chính, công nghệ cao, chủ động ngăn chặn kịp thời các đối

tượng lợi dụng đầu tư để lừa đảo hoặc có hoạt động phương hại đến lợi ích kinh tế,

an ninh quốc gia. Điều tra, xác minh, đấu tranh xử lý những hành vi sai phạm

nghiêm trọng liên quan đến hoạt động của các ngân hàng, góp phần giữ ổn định hệ

thống tổ chức tín dụng. Đề xuất chính phủ chỉ đạo khắc phục kịp thời những sơ hở,

thiếu sót trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế, ngân sách, bình ổn giá cả thị

trường, thực hiện hiệu quả chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế, không để tội phạm

lợi dụng hoạt động phạm tội. Các lực lượng chức năng cũng đã phối hợp triển khai

cao điểm đấu tranh chống tội phạm buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại, góp

phần kiềm chế, làm giảm hoạt động buôn lậu trên các tuyến, các địa bàn trọng điểm,

3.3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân

chống thất thu thuế cho nhà nước.

Trong quá trình hội nhập quốc tế, ảnh hưởng của những biến động, bất ổn

139

của nền kinh tế thế giới tác động ngày càng trực tiếp tới an ninh kinh tế Việt nam.

Đặc biệt trong giai đoạn 2010 đến 2015, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, nhất là

khủng hoảng nợ công ở một số nước châu Âu, những bất ổn chính trị tại nhiều khu

vực như Trung Đông, Thái Lan, Ucraina, Campuchia… làm cho giá cả các mặt

hàng trọng yếu trên thế giới như vàng, dầu mỏ tăng giảm thất thường đã ảnh hưởng

tới sự ổn định và quá trình phục hồi kinh tế Việt nam. Bối cảnh này làm bộc lộ rõ

hơn những hạn chế, yếu kém nội tại của công tác bảo đảm an ninh kinh tế.

* Những hạn chế trong đảm bảo an ninh kinh tế:

Thứ nhất, xét về tổng thể, thể chế và luật pháp Việt Nam chưa đáp ứng được

với sự phát triển của đất nước nói chung và sự phát triển kinh tế nói riêng. Việt

Nam chưa có hành lang pháp lý đủ mạnh để đối phó với những nguy cơ đe doạ an

ninh kinh tế. Trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế, cần sớm bổ sung các luật

quan trọng như Luật về các tình trạng khẩn cấp, các vấn đề về người nước ngoài

nhập cảnh, cư trú, thực hiện các hoạt động kinh tế trên lãnh thổ nước ta. Một số luật

vừa ban hành đã phải sửa đổi do không đáp ứng được tình hình hoặc chế tài không

cao như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường… Bên cạnh đó, việc thực thi pháp

luật cũng còn nhiều vấn đề cần chấn chỉnh.

Thứ hai, việc đảm bảo nguồn cung các yếu tố đầu vào thiết yếu cho nền kinh

tế như năng lượng, lương thực, nước sạch của Việt Nam còn hạn chế và đang đứng

trước những vấn đề lớn, do áp lực của tăng trưởng kinh tế, do sử dụng kém hiệu quả

các nguồn tài nguyên này. Về tình trạng hiệu quả sử dụng năng lượng thấp, có thể

kể đến những vấn đề như: rào cản kỹ thuật (do công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ và

chậm đổi mới, tỷ lệ hao hụt quá cao trong khâu truyền tải, thiếu hiểu biết và thiếu ý

thức của con người); rào cản kinh tế (thiếu vốn đầu tư, phát triển công nghệ trong

ngành năng lượng); rào cản thể chế chính sách (chính sách thúc đẩy đầu tư và sử

dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả…). Theo dự báo, cán cân cung – cầu năng

lương sơ cấp sẽ thiếu hụt từ khoảng năm 2015 trở đi, Việt Nam sẽ trở thành nước

140

nhập khẩu năng lượng trước năm 2020 làm xuất hiện những rủi ro mới đe doạ an

ninh kinh tế từ giác độ an ninh năng lượng.

An ninh lương thực của Việt Nam cũng đứng trước thách thức về tính bền

vững khi còn có sự chênh lệch về tiếp cận lương thực giữa các nhóm, và giữa một

số vùng trong cả nước; Sản xuất lương thực chịu sự tác động mạnh từ tình trạng

biến đổi khí hậu toàn cầu và các cú sốc từ thị trường lương thực thế giới do tác

động của toàn cầu hoá; yêu cầu phát huy lợi thế so sánh từ địa vị quốc gia xuất khẩu

gạo hàng đầu để gia tăng năng suất và thu nhập cho người sản xuất lương thực.

Nhận thức về vai trò của nông nghiệp bị ảnh hưởng của xu thế phát triển công

nghiệp thế giới và tâm lý chủ quan, coi nhẹ, thiếu quan tâm đến nông nghiệp của

một số nhà quản lý và hoạch định chính sách. Ở nhiều địa phương có tình trạng sẵn

sàng “hy sinh” nông nghiệp để phát triển công nghiệp, dịch vụ vì lợi ích trước mắt.

Về an ninh nguồn nước, ngoài đặc thù về địa lý, địa chất ảnh hưởng tới

nguồn cung nước ở Việt Nam thì thiên tai (hạn hán) và biến đổi khí hậu đang đe

doạ nghiêm trọng đến yếu tố đầu vào quan trọng này của nền kinh tế. Tuy vậy còn

phải kể đến hạn chế từ phía chủ quan, sự kém hiệu quả, thiếu đồng bộ trong quản lý

tài nguyên rừng, tài nguyên nước. Do quy hoạch, quản lý, dự báo xây dựng thuỷ

điện tràn lan, nóng vội nên tài nguyên rừng bị tàn phá, bão lũ bất thường, tài nguyên

nước cạn kiệt, nguồn nước bị ô nhiễm, hệ sinh thái nghèo kiệt, xói mòn đất nghiêm

trọng.

Thứ ba, với xuất phát điểm thấp của nền kinh tế và công cuộc cải cách

hệ thống ngân hàng mới thật sự bắt đầu từ hơn 20 năm qua, những yếu kém

trong cơ chế quản lý và năng lực giám sát của hệ thống ngân hàng nước ta là khó

tránh khỏi. Trước xu thế cạnh tranh và hội nhập sâu rộng, hoạt động giám sát tài

chính của Việt Nam vẫn đang đối mặt với những tồn tại cần khắc phục. Cụ thể,

mặc dù nội dung, phương pháp thanh tra có thay đổi song vẫn chưa đáp ứng kịp yêu

cầu quản lý. Vấn đề cốt lõi ở chỗ yêu cầu giám sát ngân hàng hiện nay không

những cần nhận dạng được rủi ro của ngân hàng mà còn cần đánh giá được cả

khả năng quản trị rủi ro và chiến lược phòng ngừa rủi ro của ngân hàng. Điều này

141

nội dung giám sát của thanh tra NHNN chưa đầy đủ cũng như trình độ đội ngũ

chuyên gia ngân hàng còn hạn chế. Hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng

khoán (các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ) rất phức tạp, chưa được kiểm

sát chặt chẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với sự phát triển lành mạnh của thị trường

chứng khoán Việt Nam. hoạt động của khối doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước

ngoài diễn biến rất phức tạp, trong đó nổi lên là hành vi chuyển giá và nợ đọng thuế

ở mức cao, gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước.

Thứ tư, tình hình tội phạm kinh tế vẫn có những diễn biến phức tạp, khó

lường với thủ đoạn đa dạng, xảy ra trên nhiều lĩnh vực từ sản xuất đến thương mại

và dịch vụ gây bất ổn cho an ninh kinh tế. Ngoài các dạng tội phạm kinh tế truyền

thống như lừa đảo tín dụng “đen”, buôn bán hàng giả, tiền giả, buôn lậu, hiện nay

đã gia tăng loại tội phạm kinh tế sử dụng công nghệ cao, tội phạm có yếu tố nước

ngoài và những hình thức phạm tội mới như rửa tiền, lừa đảo tín dụng ngân hàng

trong nước và lừa đảo tài chính quốc tế. Những hình thức tội phạm kinh tế mới này

gây ra thiệt hại lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng xấu tới quan hệ kinh tế giữa Việt

Nam với các nước.

Ngoài ra, còn có thể thấy những hạn chế về đảm bảo an ninh kinh tế liên

quan đến hạn chế về nội lực của nền kinh tế Việt Nam. Đó là sự duy trì quá lâu mô

hình tăng trưởng theo chiều rộng nên năng suất lao động, giá trị gia tăng, hiệu quả

kinh tế thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực, từ đó ảnh hưởng tới “sức đề

kháng” của nền kinh tế và khả năng đầu tư, trong đó có đầu tư cho đảm bảo an ninh.

Bên cạnh đó, an ninh ở những lĩnh vực khác như an ninh xã hội, an ninh môi trường

có một số tác động tiêu cực đến an ninh kinh tế (do những “lỗ hổng” về thể chế và

bị một số đối tác nước ngoài lợi dụng) đã để lại một số hậu quả lâu dài, nghiêm

trọng về môi trường, làm cho tình hình kinh tế có những biến động bất lợi.

142

* Những nguyên nhân của hạn chế

Hạn chế về đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập xuất

phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Có thể kể đến những nguyên

nhân khách quan như:

Trong hai thập kỷ từ 1995 đến 2015, nền kinh tế thế giới có nhiều diễn biến

thăng trầm gián tiếp gây bất ổn hoặc rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam. Mức độ hội

nhập của Việt Nam càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, ảnh hưởng từ các cuộc suy

thoái kinh tế thế giới lên nền kinh tế nước ta càng nhanh và rõ nét. Nếu như năm

1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ dẫn đến khủng hoảng kinh tế khởi phát ở

Đông Nam Á rồi lan rộng ra thế giới chỉ ảnh hưởng gián tiếp với mức độ hạn chế

đến nền kinh tế Việt Nam, thì khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 khởi phát từ

Mỹ và một số nước phát triển châu Âu đã nhanh chóng gây ảnh hưởng đến sự ổn

định của kinh tế Việt Nam, làm cho kinh tế trì trệ, xuất khẩu khó khăn và một số bất

ổn kinh tế vĩ mô.

Những vấn đề mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường,

cạn kiệt tài nguyên, an ninh năng lượng, an ninh lương thực đã có những diễn biến

phức tạp, khó lường gây ra ảnh hưởng hoặc tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng đến an ninh

kinh tế nước ta. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên,

năng lượng, công nghệ và thị trường… diễn ra ngày càng gay gắt giữa các nước

trên thế giới.

Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân của những hạn chế trong công tác bảo đảm

an ninh kinh tế xuất phát từ phía chủ quan, đòi hỏi được nhận thức đúng để tìm giải

pháp khắc phục. Những nguyên nhân chủ quan cơ bản là:

Thứ nhất, nhận thức về các mối đe doạ an ninh kinh tế đối với quốc gia trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn có bất cập, chưa đầy đủ và chưa theo kịp

những diễn biến nhanh chóng của tình hình. Thách thức an ninh kinh tế rất đa dạng,

trải rộng trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Nguồn gốc của những rủi

ro thách thức an ninh kinh tế rất phức tạp, có cả yếu tố phát sinh từ thiên nhiên

143

nhưng cũng có nhiều yếu tố sinh ra từ hoạt động của con người, có yếu tố phát sinh

từ rủi ro thị trường nội địa nhưng cũng có yếu tố phát sinh từ mặt trái của hội nhập

kinh tế quốc tế. Hình thức của bất ổn kinh tế cũng rất đa dạng, có thể là các mối đe

doạ của tình trạng khan hiếm lương thực, thiếu hụt và tranh chấp tài nguyên nước,

năng lượng, tội phạm công nghệ cao, đầu cơ tài chính… Việc phân loại nguồn gốc

phát sinh rủi ro, hình thức bất ổn ảnh hưởng đến an ninh kinh tế chưa rõ ràng dẫn

đến việc xác định cơ chế, phương thức ứng phó để đảm bảo an ninh kinh tế chưa

phù hợp.

Thứ hai, hệ thống thể chế, pháp luật quản lý kinh tế của Việt Nam còn chưa

cập nhật trước những vấn đề mới xuất hiện tạo khả năng uy hiếp an ninh kinh tế

quốc gia, chế tài còn thiếu và yếu trên các lĩnh vực như an ninh tài chính, an ninh

nguồn nước, di cư xuyên biên giới… Tính tương thích của pháp luật Việt nam với

pháp luật quốc tế về phòng ngừa, ứng phó với an ninh kinh tế chưa cao, đặc biệt

trong lĩnh vực điều chỉnh về hoạt động buôn bán lao động trái phép, rửa tiền, hoạt

động uy hiếp an ninh tài chính, an ninh nguồn nước… Bên cạnh đó, những rào cản

về thể chế kinh tế vẫn chưa được tháo gỡ kịp thời và quyết liệt, hiệu quả. Điều đó

đã dẫn đến thiếu bền vững và kém hiệu quả trong phát triển, và là một nguyên nhân

gây ra bất ổn, yếu kém trong bảo đảm an ninh kinh tế quốc gia khi hội nhập sâu

rộng vào kinh tế khu vực và toàn cầu.

Thứ ba, chưa xác định rõ vị trí, vai trò của các cơ quan chính phủ thuộc các

ngành, vai trò của chính quyền địa phương và các lực lượng chức năng khác để có

sự phối hợp đủ mức, cần thiết trong công tác đảm bảo an ninh kinh tế. Đối phó với

nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế là nhiệm vụ của nhà nước, trong đó có huy động sức

mạnh tổng hợp của Nhà nước, nhân dân và các tổ chức chính trị, kinh tế xã hội

khác. Tuy nhiên, để thực hiện được việc đó cần có sự xác định rõ vị trí, vai trò của

các chủ thể để tránh chồng chéo nhiệm vụ hoặc bỏ rơi nhiệm vụ trong quá trình

thực hiện. Những rủi ro đe doạ an ninh kinh tế hết sức đa dạng đòi hỏi sự tham gia

đồng bộ của các Bộ ngành như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài nguyên

môi trường, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công

144

an… cũng như Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp. Cơ chế phối hợp giữa các lực

lượng chức năng, các Bộ, Ban, Ngành hiện còn phức tạp tạo ra độ trễ khi phải xử lý

các vấn đề có liên quan đến rủi ro đe doạ an ninh kinh tế quốc gia. Việc huy động từ

nguồn xã hội hoá như các tổ chức kinh tế xã hội và người dân trong bảo vệ an ninh

kinh tế quốc gia cũng còn chưa hiệu quả, chưa phát huy tối đã tiềm năng của các

nguồn lực này.

Thứ tư, chưa tận dụng được hết những khả năng ứng phó với bất ổn về kinh

tế từ cơ chế hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Mặc dù Việt Nam luôn chủ động,

tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhưng trên thực tế, nước ta còn chưa tận dụng hết

những cơ chế, phương thức đa tầng, linh hoạt của hợp tác quốc tế hợp tác về phòng

ngừa và ứng phó với các mối đe doạ an ninh kinh tế từ bên ngoài. Do sự phát triển

nhanh chóng của toàn cầu hoá, sự liên hệ nhiều mặt về chính trị, kinh tế, văn hoá

giữa các nước và các khu vực ngày càng liên quan mật thiết đến lợi ích căn bản của

các nước. Sự liên hệ và phụ thuộc này làm cho mọi quốc gia không thể chỉ dựa vào

lực lượng của nước mình, càng không thể dựa vào hành động đơn phương để giải

quyết các vấn đề an ninh kinh tế chung của bản thân và của cộng đồng quốc tế. Tuy

nhiên, do mỗi nước theo đuổi những mục tiêu và mối quan tâm khác nhau xuất phát

từ lợi ích quốc gia mình, vì vậy nhiều khi các nước cùng cam kết trên các diễn đàn,

tuyên bố chung về phối hợp ứng phó với an ninh kinh tế nhưng hành động lại không

nhất quán, không phù hợp nên hợp tác ứng phó chưa đi vào thực chất. Hiện nay,

Việt Nam đã tham gia Cơ chế hợp tác trong khung khổ Liên hợp quốc, Cơ chế hợp

tác khu vực trong khung khổ ASEAN hoặc ASEAN và các đối tác (gọi là

ASEAN+) về các vấn đề an ninh kinh tế như kiểm soát di cư xuyên biên giới,

phòng chống biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, khai thác và

sử dụng nguồn nước trên các con sông xuyên quốc gia… Nhà nước cần khai thác

triệt để hơn các cơ chế hợp tác này để có nguồn lực và sự phối hợp quốc tế cần thiết

cho đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia.

145

Kết luận chương 3

Hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn và một đặc trưng quan trọng

của thế giới hiện nay. Xu thế này chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi

to lớn cấu trúc của hệ thống thế giới cũng như bản thân các chủ thể và mối quan hệ

giữa chúng. Việt Nam đã tích cực, chủ động hội nhập từng bước vào nền kinh tế thế

giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thực sự sôi động kể từ năm

1995 đến nay (2015) với nhiều sự kiện đánh dấu sự tham gia của Việt Nam vào sân

chơi toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động đến an ninh kinh tế của Việt

Nam trên nhiều khía cạnh, đem lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế nhưng cũng đặt ra

những khó khăn thách thức mới trong việc đảm bảo an ninh kinh tế.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế của

Việt Nam đã được quan tâm và triển khai trên các nội dung chủ yếu như xây dựng

chiến lược hội nhập và thể chế kinh tế gắn với đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia,

đảm bảo ổn định những yếu tố đầu vào thiết yếu cho nền kinh tế, đảm bảo ổn định,

an toàn cho hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia, phòng chống các loại tội phạm kinh

tế gây ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế. Việt Nam đã đạt được một số

thành tựu quan trọng trong công tác đảm bảo an ninh kinh tế đồng thời cũng còn

một số hạn chế cần khắc phục để đảm bảo duy trì tốt hơn an ninh kinh tế cho bước

hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới trong tương lai.

146

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ TRONG QUÁ

TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM ĐẾN 2025

4.1. Bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra đối với an ninh kinh tế Việt

Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến 2025

4.1.1. Bối cảnh mới của hội nhập và phát triển kinh tế Việt Nam

Trong tiến trình tiếp tục hội nhập kinh tế thế giới đến 2025 và giai đoạn tiếp

theo, Việt Nam đứng trước những thời cơ quan trọng nhưng cũng phải đổi mặt với

những nguy cơ không nhỏ để bảo đảm an ninh kinh tế trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Có thể kể đến những thời cơ, thuận lợi cần tích cực khai thác và tận

dụng sau đây:

Trước hết, thông qua việc thực hiện các cam kết đã ký với các tổ chức, định

chế quốc tế trong quá trình hội nhập, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các

thành viên khác trong tham gia và hoạch định chính sách thương mại toàn cầu. Như

vậy, Việt Nam có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế giới mới

công bằng, hợp lý hơn. Đồng thời, Việt Nam cũng có điều kiện để bảo vệ lợi ích

kinh tế của đất nước, của doanh nghiệp và thực hiện chiến lược đan xen, cân bằng

lợi ích kinh tế có lợi cho sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế.

Hai là, tiếp tục hội nhập toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới thông qua

các định chế như WTO, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới giúp Việt Nam

mở rộng thị trường thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư do được hưởng những

ưu đãi từ chế độ “đối xử tối huệ quốc” (MFN) và “đối xử quốc gia” (NT) với mức

thuế suất thấp của các nước thành viên. Điều đó sẽ góp phần bảo đảm sự cung cấp

các yếu tố đầu vào thiết yếu cho nền kinh tế, đồng thời bảo đảm thị trường đầu ra,

làm chỗ dựa cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Sự giảm dần các hàng rào

thuế quan và phi thuế quan, các phân biệt đối xử chính thức và phi chính thức, kinh

tế và phi kinh tế sẽ tạo cơ hội không chỉ cho các công ty lớn, mà còn cho cả các

147

công ty nhỏ của Việt Nam tham gia bình đẳng vào guồng máy kinh tế thế giới. Đây

là thời cơ để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu và thay thế dần một số mặt hàng nhập

khẩu, nâng cao khả năng bảo đảm an ninh kinh tế quốc gia.

Ba là, tiếp tục hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ tạo ra những mối quan hệ đa

dạng với các nước có điều kiện kinh tế - chính trị khác nhau, tăng cường sự đan

xen, phụ thuộc giữa Việt Nam và các nước trong cộng đồng quốc tế, góp phần nâng

cao vị thế quốc tế và tạo điều kiện để Việt Nam thực hiện có hiệu quả đường lối đối

ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Trên cơ sở đó, Việt Nam có thể

tham gia bình đẳng trong giao lưu và thực hiện các quan hệ kinh tế, chính trị quốc

tế. Việt Nam có thể tận dụng mạng lưới và các nguồn lực quốc tế để đẩy mạnh hợp

tác ứng phó với những đe doạ an ninh kinh tế trên các lĩnh vực như ứng phó với

biến đổi khí hậu, phối hợp phòng chống tội phạm kinh tế xuyên quốc gia, phối hợp

chính sách kinh tế vĩ mô trong khu vực và toàn cầu để xử lý biến động bất thường

của nền kinh tế… Đây là điều kiện thuận lợi để chúng ta có thể chủ động bảo đảm

an ninh kinh tế quốc gia.

Bốn là, với mối giao lưu quốc tế ngày càng rộng mở, Việt Nam có thể học

hỏi kinh nghiệm trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của các nước đi

trước, tránh được những sai sót, tìm các biện pháp rút ngắn thời gian để thực hiện

CNH, HĐH đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện để Việt Nam dần

điều chỉnh các chính sách và thể chế kinh tế theo chuẩn mực của các tổ chức và các

định chế kinh tế quốc tế, tạo môi trường thuận lợi hơn cho việc đẩy mạnh chuyển

giao công nghệ từ các nước vào Việt Nam; theo đó, mở ra thời cơ rút ngắn khoảng

cách về trình độ phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Năm là, hội nhập kinh tế quốc tế là thời cơ quan trọng đồng thời đặt ra yêu

cầu bức thiết để các doanh nghiệp Việt Nam chấn chỉnh tổ chức quản lý sản xuất,

đổi mới công nghệ, nắm bắt thông tin, tăng cường khả năng cạnh tranh không

những trên thị trường thế giới mà ngay cả ở thị trường nội địa, từ đó nâng cao sức

mạnh kinh tế của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế. Điều đó không chỉ

bảo đảm cho sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế, mà còn có thể ngăn

148

ngừa, đối phó có hiệu quả với những biến động của môi trường kinh tế trong nước

và quốc tế.

4.1.2. Những vấn đề nảy sinh áp lực đối với việc đảm bảo an ninh kinh tế

Bên cạnh những thời cơ kể trên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng nảy sinh nhiều

nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế Việt Nam. Các nguy cơ xuất phát từ sự phát triển

không đều giữa các nước và điểm xuất phát thấp của Việt Nam, do sự đan xen và

phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, dễ làm lây lan các biến động kinh tế bất

lợi. Điều này đặt ra cho việc bảo đảm an ninh kinh tế của nước ta không ít khó

khăn, thách thức. Có thể nêu lên những nguy cơ, thách thức chính sau đây:

Một là, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về

kinh tế giữa các quốc gia. Sự gia tăng với quy mô ngày càng lớn về trao đổi hàng

hoá, công nghệ, dịch vụ, tài chính, vốn, sức lao động giữa các quốc gia dẫn đến tình

trạng an ninh kinh tế của các quốc gia cũng có sự gắn kết, tuỳ thuộc lẫn nhau.

Khủng hoảng kinh tế của một hay một số nước sẽ kéo theo khủng hoảng của những

nước khác có liên quan. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ xảy ra ở Mexico, ở

Đông Á (1997) và ở Mỹ (2008) là những minh chứng cho tình trạng này.

Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế với xuất phát điểm thấp về trình

độ phát triển kinh tế. Do tổng GDP của nền kinh tế và GDP bình quân đầu người

thấp, nên tiết kiệm thấp và đầu tư chưa cao, trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất

còn rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo đánh giá của Ngân

hàng thế giới, năm 2014, GNI bình quân đầu người của Việt Nam là 1.890 USD,

GNI bình quân đầu người theo ngang giá sức mua (PPP) là 5.350 USD trong khi đó

con số tương đương của Trung Quốc là 7.380 USD và 13.130 USD; của Malaixia là

10.760 USD và 23.850 USD; của Thái lan là 5.370 USD và 13.950 USD (World

Development Indicators, 2015). Sự tụt hậu về kinh tế của Việt Nam có thể dẫn đến

sự lệ thuộc một chiều vào các nền kinh tế lớn hơn trong quá trình hội nhập quốc tế,

tăng nguy cơ bất ổn kinh tế mỗi khi nền kinh tế khu vực và thế giới có biến động.

149

Hai là, toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ 4.0 thúc đẩy sự điều

chỉnh cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia, từ đó làm thay đổi cơ cấu quan hệ kinh tế và

sự phân công lao động quốc tế cũng như vị thế của nền kinh tế các quốc gia trên

trường quốc tế. Trong từng nước, tính quy luật của quá trình điều chỉnh cơ cấu sẽ

làm cho các ngành kinh tế dựa vào tri thức (các ngành công nghệ cao, dịch vụ…)

ngày càng chiếm ưu thế và đóng góp cao vào GDP. Khuynh hướng này tất yếu dẫn

đến sự thay đổi trong phân công lao động quốc tế, trong đó các nước phát triển nắm

ưu thế về vốn và tri thức có điều kiện phát triển nhanh và ổn định hơn. Các nước

đang phát triển, do trình độ nền kinh tế còn thấp sẽ vẫn là người cung cấp cho thị

trường thế giới tài nguyên thiên nhiên, sản phẩm sơ chế với giá trị gia tăng thấp.

Rủi ro về giá cả trên thị trường nông sản, nguyên liệu thô và sản phẩm chế biến

công nghệ thấp luôn là áp lực đối với đảm bảo an ninh kinh tế của các nước đang

phát triển

Đối với Việt Nam, hiện nay cơ cấu kinh tế còn nhiều điểm chưa hợp lý, đặc

biệt là cơ cấu xuất nhập khẩu, gây khó khăn trong việc chống đỡ các tác động tiêu

cực từ bên ngoài. Trong giai đoạn 2010 - 2015, tuy Việt Nam đã có sự thay đổi

trong việc điều chỉnh sự phát triển kinh tế và chiến lược xuất nhập khẩu, nhưng tình

trạng xuất khẩu sản phẩm thô chưa qua chế biến hoặc chỉ mới được sơ chế vẫn

chiếm tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu cao. Ví dụ, dầu thô chiếm 17,5%, gạo chiếm

9%, cà phê chiếm 5%, hải sản chiếm 8,5% kim ngạch xuất khẩu. Các sản phẩm

công nghiệp vẫn là các sản phẩm có chứa hàm lượng lao động cao, như dệt may

chiếm 14,6%, giầy dép chiếm 12,2% kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng có kỹ

thuật và công nghệ cao đã bước đầu được chú ý, nhưng tỷ trọng vẫn còn thấp, như

hàng điện tử, máy tính, linh kiện chỉ chiếm 5% kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy, giá cả

hàng xuất khẩu của Việt Nam thường bị chèn ép trên thị trường và thường rẻ hơn

10 - 20% so với giá bình quân trên thế giới. Mặt khác còn phải kể đến những bất

hợp lý trong cơ cấu thị trường xuất khẩu. Ví dụ như sự phụ thuộc quá lớn của Việt

Nam vào thị trường Trung Quốc cả ở khía cạnh thị trường xuất khẩu nông sản và

nguyên liệu thô lẫn ở khía cạnh thị trường nhập khẩu tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu

150

dùng. Điều này tiềm ẩn nguy cơ rủi ro kinh tế cao khi có những biến động tiêu cực

trong quan hệ giữa hai nước, gây bất lợi cho công tác bảo đảm an ninh kinh tế.

Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm cho cạnh tranh về kinh tế giữa các

quốc gia ngày càng gay gắt hơn. Năng lực cạnh tranh kém dẫn đến nhiều ngành

kinh tế, nhiều doanh nghiệp, thậm chí cả nền kinh tế quốc gia bị tụt hậu, thậm chí

phá sản. Tình trạng này đặt nền kinh tế các nước trước áp lực lựa chọn tiếp tục đầu

tư cho những ngành kém hiệu quả bằng chính sách bảo hộ hoặc chuyển đổi cơ cấu

kinh tế. Sự lựa chọn này tiềm ẩn rủi ro gây bất ổn cho nền kinh tế quốc dân.

Hiện nay, năng lực kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế Việt Nam còn lạc hậu

khá xa so với các quốc gia phát triển trên thế giới. Khi đã hội nhập vào những định

chế quốc tế như WTO và tham gia TPP, Việt Nam phải giảm thuế xuất nhập khẩu

theo lộ trình, bãi bỏ các loại trợ cấp mang tính thương mại đối với hầu hết các loại

hàng hoá và dịch vụ. Nhà nước cũng không được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp

vào các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, theo báo cáo của Bộ

Khoa học - Công nghệ thì công nghệ nước ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20

năm, mức độ hao mòn từ 30 đến 50%, hiệu suất sử dụng từ 25 đến 30% (Bùi Ngọc

Quỵnh, 2012), nên hệ quả tất yếu là mức tiêu hao nguyên vật liệu cao, chất lượng

sản phẩm thấp, mẫu mã đơn điệu..., dẫn đến giá thành sản xuất nhiều sản phẩm

công nghiệp chủ yếu của nước ta cao hơn mức chuẩn quốc tế. Nếu các doanh

nghiệp Việt Nam không nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất

lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá

thì hậu quả là sẽ có hàng loạt doanh nghiệp bị phá sản, thất nghiệp sẽ gia tăng, tạo

nên sức ép rất lớn về vấn đề xã hội.

Bốn là, cùng với quá trình toàn cầu hoá, các công ty xuyên quốc gia (TNCs)

phát triển thành mạng lưới rộng khắp toàn cầu và có ảnh hưởng ngày càng tăng đối

với nền kinh tế quốc gia và quan hệ kinh tế quốc tế. Hiện nay trên thế giới có

khoảng hơn 60.000 TNCs và gần 500.000 chi nhánh ở các nước. Các TNCs nắm

giữ 9/10 vốn FDI thực hiện trên thế giới và các kết quả nghiên cứu, chuyển giao

công nghệ, tạo ra hơn 1/3 tổng số GDP của tất cả các nước và kiểm soát 60% tổng

151

mậu dịch quốc tế. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, để thích ứng với xu thế toàn

cầu hoá và tăng khả năng cạnh tranh, kiểm soát thị trường thế giới, nhiều công ty

tiến hành mua bán, sáp nhập. Tổng giá trị mua bán, sáp nhập đã lên tới gần 20.000

tỷ đô la Mỹ (Hồ Thế Hoè, 2011). Vì mục tiêu lợi nhuận và thâu tóm thị trường, các

TNCs có thể gây bất ổn cho an ninh kinh tế các quốc gia, đặc biệt là những nước

đang phát triển.

Đối với Việt Nam, cùng với sự cải thiện môi trường đầu tư, những cam kết

của Việt Nam về quyền tự do cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh hàng hoá, về

việc cho phép các công ty nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt

Nam..., dẫn đến các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng và

hình thức hợp tác liên doanh sẽ có xu hướng chuyển mạnh sang loại hình doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài. Do được hưởng những ưu đãi về thuế, lợi tức và

những lợi thế về trình độ công nghệ, vốn, marketting..., các doanh nghiệp nước

ngoài đã, đang và sẽ dần chiếm thị phần trong nước, tạo ra sức ép cạnh tranh lớn đối

với các doanh nghiệp trong nước. Theo đó, sự lệ thuộc của nền kinh tế Việt Nam

vào nước ngoài có nguy cơ gia tăng.

Năm là, quá trình toàn cầu hoá và tri thức hoá kinh tế tăng cường sức ép đổi

mới các thiết chế kinh tế, chính trị và nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà

nước phù hợp với yêu cầu của tự do hoá, mở cửa kinh tế và xã hội dân sự. Tham gia

và xu thế toàn cầu hoá, các nước đều phải thực hiện điều chỉnh các thiết chế kinh tế,

chính trị không thích hợp với một nền kinh tế thị trường hội nhập, đồng thời phải

không ngừng nâng cao năng lực quản lý kinh tế. Đây là một quá trình đầy khó khăn

phức tạp, đòi hỏi có những bước đi và biện pháp đồng bộ, thích hợp. Những sai lầm

trong quá trình này có thể gây hậu quả tai hại cho an ninh kinh tế nói riêng và an

ninh quốc gia nói chung.

Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã tích cực kiện toàn hoạt động của hệ

thống tài chính, ngân hàng; sắp xếp lại các ngân hàng cổ phần; củng cố thể chế hoạt

động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính; thực hiện một số nghiệp vụ

ngân hàng mới…, tuy nhiên vẫn còn nhiều công cụ tài chính của nền kinh tế thị

152

trường chưa được áp dụng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, thể chế kinh tế thị trường

Việt Nam vẫn còn chưa hoàn thiện, thể hiện ở hệ thống luật pháp, chính sách quản

lý xã hội, quản lý kinh tế chưa ổn định; một số điểm chưa phù hợp với thông lệ và

tập quán quốc tế. Những điều này tạo ra nguy cơ mất ổn định về kinh tế-xã hội khi

nền kinh tế thế giới có biến động bất thường.

Các mối đe doạ an ninh kinh tế đối với Việt Nam trong thời gian tới sẽ còn

diễn biến phức tạp về tính chất, mở rộng về nội dung, gia tăng thêm mức độ đe doạ

đối với nền kinh tế. Diễn biến đó do nhiều tác nhân, cả trong nước và ngoài nước

gây ra, cả nhân tạo và thiên tạo, có những tác nhân biến đổi phức tạp và khó lường

như tình trạng biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, mặt trái của kinh tế thị

trường, của toàn cầu hoá, của việc sử dụng thành tựu khoa học công nghệ một cách

cực đoan, và sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc. Những thời cơ và nguy cơ đặt ra

cho sự phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh kinh tế của Việt Nam trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế luôn diễn biến đan xem phức tạp, thời cơ có thể chuyển

hoá thành nguy cơ và ngược lại, nguy cơ cũng có thể chuyển thành thời cơ nếu

được xử lý phù hợp. Do đó, chủ động ứng phó với nguy cơ thách thức và tận dụng

tốt thời cơ sẽ tùy thuộc vào sự nỗ lực của nhà nước, các tổ chức kinh tế và cộng

đồng dân cư Việt Nam để bảo đảm tốt hơn an ninh kinh tế quốc gia.

4.2. Những quan điểm cơ bản về đảm bảo an ninh kinh tế trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế

4.2.1. Đảm bảo an ninh kinh tế phải đặt trong mối liên hệ gắn bó mật thiết

với việc đảm bảo an ninh quốc gia trên tất cả các lĩnh vực

Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đã và đang tác động mạnh mẽ tới mọi quốc

gia – dân tộc, trong đó có Việt Nam. Quan điểm về an ninh quốc gia của Việt Nam

đã được thể hiện rõ nét và sâu sắc trong các văn kiện, đường lối chủ trương của

Đảng và Nhà nước trong thời kỳ Đổi mới. Trước hết, bảo đảm an ninh quốc gia là

nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước trong tình hình mới. Bảo đảm an ninh

153

quốc gia bao gồm ngăn chặn và ứng phó có hiệu quả với những thách thức an ninh

truyền thống và an ninh phi truyền thống. Đây là hai mặt của một vấn đề, đan xen

và hoà quyện lẫn nhau, tác động đến an ninh quốc gia, đến phát triển kinh tế - xã

hội và sự tồn vong của chế độ xã hội và của quốc gia – dân tộc.

Hoạt động kinh tế luôn gắn liền với lợi ích thiết thân của mỗi người dân, là

cơ sở, điều kiện mà quốc gia, dân tộc dựa vào đó để tồn tại và phát triển. Lợi ích

kinh tế là lợi ích cơ bản nhất, trung tâm nhất của lợi ích quốc gia. Đảm bảo an ninh

kinh tế gắn liền với sự duy trì và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, vì thế an

ninh kinh tế luôn chiếm vị trí chủ đạo và là nền tảng của an ninh quốc gia. Trong

quá trình phát triển, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, kinh tế luôn

là lĩnh vực dễ nảy sinh những mối nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia ngay trong từng

quá trình, từng hoạt động kinh tế hay trong từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế cụ thể.

Tuy nhiên, không thể có an ninh kinh tế nếu không duy trì được an ninh

trong lĩnh vực quân sự (quốc phòng), chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường và phát

triển con người. An ninh trong từng lĩnh vực đó vừa là tiền đề, vừa là điều kiện cho

nhau. Nhưng nếu chỉ quan tâm nhấn mạnh quá nhiều tới an ninh của một lĩnh vực

nào đó thì có thể sẽ tác động tiêu cực hoặc ảnh hưởng tới an ninh của lĩnh vực khác.

Ví dụ việc nhấn mạnh thái quá vào an ninh quân sự sẽ dẫn tới việc tập trung nguồn

lực quá mức vào đây và làm mất đi một phần nguồn lực quan trọng cho phát triển

kinh tế. Tương tự như vậy, đối với an ninh chính trị, nếu đặt vấn đề này quá mức

cần thiết sẽ có thể đưa đến tình trạng “nhìn đâu cũng thấy địch”, không dám mở

cửa, không dám đổi mới, như vậy khó có thể phát triển kinh tế được.

Với nhận thức đó, bảo vệ an ninh quốc gia không chỉ bao gồm giữ vững chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là bảo vệ chế độ, bảo vệ an ninh trên

tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng. An ninh kinh tế là một

trong các khía cạnh của an ninh quốc gia, đảm bảo an ninh kinh tế do đó phải đặt

trong mối liên hệ chặt chẽ với đảm bảo an ninh trên các lĩnh vực khác. Đảm bảo an

ninh kinh tế là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược bảo vệ tổ

quốc trong thời kỳ Đổi mới và hội nhập quốc tế. Đối phó hiệu quả với những mối

154

đe doạ an ninh kinh tế sẽ góp phần đảm bảo ổn định, vững chắc tổ quốc, phát triển

kinh tế bền vững góp phần bảo vệ vững chắc tổ quốc, bảo vệ chế độ, giữ vững hoà

bình, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

4.2.2. Đảm bảo an ninh kinh tế trong bối cảnh hội nhập phải gắn liền với

nâng cao nội lực của nền kinh tế

Vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế gắn bó chặt chẽ với thực lực của nền kinh tế

quốc dân. Phát triển ổn định kinh tế, tăng cường thực lực kinh tế là sự đảm bảo căn

bản cho an ninh kinh tế của một nước. Một nền kinh tế mạnh sẽ có sức chống chịu

tốt hơn với những biến động xấu từ bên ngoài tác động, sẽ nhanh chóng vượt qua

những bất ổn nảy sinh từ nội tại nền kinh tế trong quá trình phát triển. Tăng cường

năng lực thích ứng của nền kinh tế gắn liền với sự phát triển bền vững kinh tế. Phát

triển kinh tế là một quá trình lâu dài và phát triển bền vững biểu hiện ở tăng trưởng

liên tục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội và môi trường. Thực tế cho thấy những nền

kinh tế phát triển bền vững đều có nền chính trị và kinh tế vĩ mô ổn định, có khả

năng chống chịu tốt với những cú sốc về kinh tế từ bên ngoài cũng như giải quyết

tốt các biến động nội tại của nền kinh tế.

Đối với Việt Nam, giải quyết tốt mối quan hệ giữa hội nhập và xây dựng nền

kinh tế độc lập, tự chủ, chấn hưng nền kinh tế quốc gia chính là cách để đảm bảo an

ninh kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là phương tiện chấn hưng nền kinh tế quốc

gia và ngược lại, sự phát triển của nền kinh tế sẽ tạo ra thực lực để nâng cao hiệu

quả của hội nhập và bảo đảm an ninh kinh tế. Theo quan điểm này, các chính sách

kinh tế vĩ mô cần được tiến hành một cách linh hoạt, đồng bộ, phối hợp chặt chẽ, hỗ

trợ và bổ sung lẫn nhau, nhằm đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế thị trường,

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.

Một khía cạnh nữa cần quan tâm để tăng cường nội lực kinh tế là nâng cao

hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp. Đây là

vấn đề có tính quyết định thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cũng là

155

vấn đề quyết định để tăng cường sức đề kháng, chống chịu của nền kinh tế trước

những rủi ro uy hiếp an ninh kinh tế. Nâng cao nội lực của nền kinh tế cần gắn liền

với việc chủ động, tích cực, đa dạng hoá, đa phương hoá trong hội nhập quốc tế để

khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của Việt Nam trong quan hệ đa phương, từ đó

nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chỉ với sức cạnh tranh cao của nền kinh

tế, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc gia trong hệ thống tài chính, ngân hàng, giao

thông vận tải, điện lực, dầu khí, bưu chính-viễn thông... Việt Nam mới phát triển

bền vững, giữ vững được thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế, tạo

nền tảng vững chắc để bảo vệ an ninh kinh tế và an ninh trên các lĩnh vực khác của

đất nước. Để phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, Nhà nước

cần tiếp tục cải cách hệ thống luật pháp, chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù

hợp với sự nghiệp đổi mới, phù hợp với hệ thống luật pháp quốc tế, theo hướng

khoa học, lấy hiệu quả làm trọng tâm, nhằm phát huy cao nhất năng lực, sức sản

xuất, kinh doanh của các ngành, các vùng trên cả nước. Các bộ, ngành, địa phương

bên cạnh việc tích cực, chủ động trong chiến lược, kế hoạch, chăm lo cải cách quản

lý, hiện đại hoá, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, cũng cần nắm vững yêu

cầu, luật lệ kinh tế của các định chế quốc tế, tích cực khai thác, mở rộng thị trường

cả ở trong nước và nước ngoài, gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội

với tăng cường quốc phòng – an ninh, coi đây là hai mặt có quan hệ mật thiết,

không thể tách rời. Nhà nước cần đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, thiết lập, phát triển

và mở rộng các mối quan hệ quốc tế trên cơ sở các hiệp định kinh tế song phương

và đa phương giữa Việt Nam với các nước, khu vực và các tổ chức kinh tế quốc tế.

Đây là tiền đề để tạo điều kiện, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước vươn ra các

thị trường nước ngoài, tham gia vào hệ thống sản xuất, kinh doanh, phân phối toàn

cầu của nền kinh tế thế giới.

156

4.2.3. Đảm bảo an ninh kinh tế phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa nội lực

và khai thác tốt ngoại lực trong bối cảnh hội nhập

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều vấn đề,

nhiều mối nguy cơ xuất hiện đe doạ an ninh kinh tế đòi hỏi một tiềm lực mạnh để

có thể đối phó hiệu quả. Trên quan điểm kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng,

an ninh và đối ngoại trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, cần phải xác định rõ đảm

bảo an ninh kinh tế là nhiệm vụ trọng yếu của toàn dân, của tất cả các cấp, các

ngành và lĩnh vực trong nền kinh tế dưới sự chỉ đạo hoạt động của nhà nước. Để đối

phó có hiệu quả với những nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế cần phát huy cao độ mọi

nguồn lực trong nước theo tinh thần “tự lực cánh sinh”. Với xuất phát điểm thấp

hiện nay của nền kinh tế trong tương quan so sánh với nhiều quốc gia khác trong

khu vực và trên thế giới, trước áp lực của hội nhập quốc tế, nhà nước cần coi trọng

việc huy động và sử dụng mọi nguồn lực xã hội để thúc đẩy kinh tế phát triển, đẩy

lùi các nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế quốc gia. Phải coi việc huy động và sử dụng

tối đa nội lực là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành và mọi người, trên cơ sở gắn

kết giữa xây dựng với tự bảo vệ thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi; kết hợp theo quy

hoạch, kế hoạch của từng địa phương; kết hợp theo khu vực và vùng lãnh thổ,

ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội, trên phạm vi toàn quốc, dưới sự chỉ đạo tập trung

thống nhất của Nhà nước trung ương.

Mặt khác, cũng do sự phát triển nhanh chóng của toàn cầu hoá, sự liên hệ

phụ thuộc nhiều mặt như chính trị, kinh tế, văn hoá và giao lưu nhân dân giữa các

nước, các khu vực ngày càng nhiều và càng liên quan mật thiết đến lợi ích căn bản

của các nước. Sự phụ thuộc và hợp tác trong lĩnh vực an ninh nói chung, an ninh

kinh tế nói riêng giữa các nước cũng đạt đến mức cao chưa từng có đối với một

quốc gia. Cục diện an ninh thế giới hiện nay theo kiểu lợi thì cùng có lợi, hại thì

cùng có hại làm cho mỗi quốc gia không thể chỉ dựa vào lực lượng của nước mình,

càng không thể dựa vào hành động đơn phương của một quốc gia để giải quyết các

vấn đề liên quan đến an ninh chung của cộng đồng quốc tế. Tư duy mới về an ninh

157

quốc gia cũng khẳng định cần tích cực, chủ động mở rộng hợp tác khu vực và quốc

tế (song phương và đa phương) để khai thác tốt các yếu tố ngoại lực nhằm ngăn

chặn, ứng phó kịp thời với những thách thức về an ninh kinh tế, đảm bảo sự phát

triển bền vững của đất nước.

Trong thời đại toàn cầu hoá, các nước đều coi việc tham gia vào hợp tác

quốc tế và khu vực dưới nhiều hình thức là cách thực quan trọng để bảo đảm an

ninh kinh tế của quốc gia. Các định chế kinh tế quốc tế như WTO, IMF, WB và các

tổ chức hợp tác khu vực như EU, NAFTA, APEC, ASEAN... đã phát huy tác động

tích cực trên các lĩnh vực như thúc đẩy hợp tác mậu dịch quốc tế, góp phần phát

triển ổn định kinh tế các nước và tăng thêm sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau. Lĩnh

vực hợp tác của nhiều loại tổ chức quốc tế và khu vực đã mở rộng từ kinh tế sang

chính trị và an ninh, có tác dụng quan trọng đối với ổn định và an ninh của khu vực.

Do đó, hợp tác quốc tế trong giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, trong

đó có an ninh kinh tế là tất yếu và gắn liền với đảm bảo an ninh quốc gia của Việt

Nam.

4.3. Giải pháp đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế của Việt Nam đến năm 2025

4.3.1. Tăng cường nhận thức về an ninh kinh tế, định dạng rủi ro kinh tế

để có đối sách xử lý phù hợp

Trước hết, các thách thức an ninh kinh tế đang nổi lên và diễn biến phức tạp

do mặt trái của toàn cầu hoá, của kinh tế thị trường và của việc sử dụng thành tựu

khoa học, công nghệ. Trên cơ sở các quan điểm bảo đảm an ninh kinh tế trong quá

trình hội nhập, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội, trong đó có các chủ thể chịu

trách nhiệm quản lý như các cơ quan nhà nước, các đối tượng chịu tác động trực

tiếp của bất ổn kinh tế như doanh nghiệp và người dân về các thách thức, tác động,

ảnh hưởng của bất ổn an ninh kinh tế đối với đời sống mỗi người, với cộng đồng và

với an ninh quốc gia. Từ đó, mỗi chủ thể từ trách nhiệm của mình mới có thể chủ

158

động phòng ngừa và ứng phó với những rủi ro kinh tế có thể gặp phải. Bởi vì nhiều

vấn đề an ninh kinh tế có thể phát sinh từ yếu tố nhân tạo nên việc phòng ngừa với

các mối đe doạ an ninh có thể bắt đầu bằng việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm

của từng cá nhân và cộng đồng xã hội, thông qua những hành vi cụ thể như: ý thức

tích cực trong bảo vệ môi trường sinh thái, tỉnh táo trước mặt trái của kinh tế thị

trường và toàn cầu hoá, tôn trọng các giá trị khác biệt và chia sẻ lợi ích giữa các

nhóm cộng đồng... Trên nền tảng ý thức được nâng cao mới có thể ứng phó hiệu

quả với các rủi ro đe doạ an ninh kinh tế ở những cấp độ cao hơn như xây dựng

đồng bộ thể chế, cơ chế, chính sách, bộ máy và con người cụ thể.

Nâng cao nhận thức cho các thành phần trong xã hội về mối đe doạ an ninh

kinh tế có thể bằng những cách thức khác nhau. Trước hết là thông qua các hình

thức truyền thông để tác động đến nhận thức cho cộng đồng xã hội. Tiếp đến là lồng

ghép các biện pháp giáo dục, nâng cao nhận thức cho người dân, doanh nghiệp

trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy

nhiên để có sức lan toả và bền vững, các vấn đề nhận thức về an ninh kinh tế phải

được đưa vào chương trình đào tạo từ bậc đại học trở lên đối với một số chuyên

ngành đặc thù về kinh tế, an ninh, quản lý nhà nước, từ đó thúc đẩy nghiên cứu

chuyên sâu và truyền bá tri thức có hệ thống đối với vấn đề an ninh kinh tế nói

riêng và an ninh phi truyền thống nói chung.

Thứ hai, do nguồn gốc của những rủi ro, nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế rất

phức tạp, hình thức của những bất ổn cũng đa dạng nên để có đối sách tốt cần định

dạng từng loại bất ổn kinh tế với đặc điểm khác nhau để xác định những cơ chế,

phương thức xử lý phù hợp. Có thể phân loại các mối đe doạ an ninh kinh tế theo

những nguồn gốc như: rủi ro phát sinh từ thị trường và do những yếu kém nội tại

của nền kinh tế; rủi ro phát sinh từ mặt trái của toàn cầu hoá, rủi ro từ mặt trái của

việc sử dụng thành tựu khoa học công nghệ; và những rủi ro phát sinh từ việc tranh

chấp tài nguyên, năng lượng, nguồn nước.

159

Đối với các mối đe doạ an ninh kinh tế phát sinh từ rủi ro của thị trường và

những yếu kém nội tại của nền kinh tế (như an ninh tài chính, tiền tệ) thì việc chủ

động và tích cực ứng phó phải bắt đầu bằng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,

cấu trúc lại chức năng của nhà nước nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của thị

trường khi rơi vào khủng hoảng. Quy luật của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh,

các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật, kể cả chủ thể nước ngoài. Trong khi

kinh tế nhà nước được xác định là giữ vai trò chủ đạo thì hiệu quả kinh doanh của

các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thời gian qua không hiệu quả, lợi nhuận thấp,

tham nhũng tiêu cực diễn biến phức tạp đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải tái cơ

cấu. Trong thời gian tới, kinh tế thế giới được dự báo sẽ tiếp tục khó khăn, suy thoái

kinh tế toàn cầu chưa phục hồi, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây bất ổn. Trong khi đó, nền

kinh tế Việt Nam chưa có bước đột phá, kết quả kém, sức cạnh tranh thấp, thiếu bền

vững. Thị trường tài chính, tiền tệ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây

ảnh hưởng, tác động lớn đến an ninh kinh tế trong giai đoạn tái cơ cấu hiện nay.

Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế một mặt tạo ra những tác dụng tích cực, thúc đẩy

tăng trưởng, phát triển. Tuy nhiên, cần triển khai đồng bộ, quyết liệt và có cơ chế

giám sát hiệu quả để hạn chế phức tạp, rủi ro như thất thoát tài sản nhà nước, hình

thành các nhóm lợi ích, phân hoá giàu nghèo... ảnh hưởng xấu đến phát triển và gây

khó khăn cho quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô.

Đối với một số mối đe doạ phát sinh từ mặt trái của toàn cầu hoá, tính chủ

động, tích cực thể hiện ở việc thúc đẩy hợp tác quốc tế để phòng ngừa, ứng phó

ngay từ gốc rễ vấn đề, từ quốc gia có thể phát sinh, lan truyền mối đe doạ đó.

Đối với các mối đe doạ an ninh kinh tế phát sinh từ mặt trái của việc sử dụng

thành tựu khoa học, công nghệ, cần chủ động xây dựng đội ngũ chuyên gia tinh

nhuệ, có trình độ công nghệ cao, đủ năng lực phòng ngừa và ứng phó hiệu quả.

Đối với các mối đe doạ an ninh kinh tế phát sinh từ tranh chấp tài nguyên,

các yếu tố đầu vào quan trọng của nền kinh tế hoặc từ năng lực sử dụng tài nguyên

chưa hiệu quả, tính chủ động tích cực thể hiện ở việc định hình chiến lược thay thế

hoặc hạn chế khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao hiệu quả sử

160

dụng tài nguyên, đàm phán với các đối tác trong chia sẻ, khai thác và sử dụng các

nguồn tài nguyên.

Đối với các mối đe doạ an ninh kinh tế do tai biến môi trường, biến đổi khí

hậu... do tính thất thường của nó, tính chủ động tích cực thể hiện ở việc xây dựng hệ

thống cảnh báo, dự báo, phòng ngừa, bố trí lực lượng ứng phó và xử lý.

4.3.2. Xây dựng thể chế kinh tế, khuôn khổ pháp luật đáp ứng yêu cầu của

hội nhập và gắn với đảm bảo an ninh kinh tế

Nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế ở nước ta là chuyển từ mô hình kinh tế

kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển dịch này bao gồm hàng loạt thay đổi sâu rộng

về cơ cấu thành phần kinh tế, chế độ và hình thức sở hữu các tư liệu sản xuất, hình

thức tổ chức và cơ chế quản lý kinh tế. Mặc dù mang định hướng xã hội chủ nghĩa,

nhưng nền kinh tế thị trường của nước ta vẫn phải thể hiện đầy đủ bản chất và

những đặc trưng chung của kinh tế thị trường. Về bản chất, kinh tế thị trường là hệ

quả tất yếu của trình độ xã hội hoá các lực lượng sản xuất; là hệ thống các quan hệ

kinh tế do nền sản xuất hàng hoá tạo ra; là kiểu tổ chức nền sản xuất có “đầu vào”

và “đầu ra” đều là hàng hoá; là chuỗi sản xuất- kinh doanh trong đó các chủ thể

kinh tế vừa độc lập vừa lệ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh và hợp tác với nhau nhằm

mục tiêu đạt giá trị gia tăng ngày càng nhiều hơn.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay,

không chỉ đổi mới kinh tế, mà cả đổi mới chính trị ngày càng trở thành nhu cầu bức

xúc hơn. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu đổi mới nội

tại, đồng thời tạo cơ hội cho đổi mới kinh tế và chính trị rộng lớn hơn, đồng bộ và

toàn diện hơn, sâu sắc và triệt để hơn. Sự tác động ấy, một mặt, trực tiếp buộc

chúng ta phải thay đổi một số thể chế, luật pháp, quy trình thực hiện, quan điểm và

phương pháp đánh giá các vấn đề kinh tế, xã hội, v.v.. Mặt khác, nó thúc đẩy nhu

cầu nội tại, bên trong của Việt Nam về đổi mới một cách mạnh mẽ hơn. Đổi mới ở

161

giai đoạn hiện nay và sắp tới gắn bó chặt chẽ và chịu tác động của toàn cầu hoá và

hội nhập quốc tế lớn hơn nhiều so với khi chúng ta bắt đầu đổi mới năm 1986. Nhu

cầu đổi mới thể chế kinh tế và đi cùng với nó là đổi mới thể chế chính trị để đáp

ứng yêu cầu mới của phát triển kinh tế, yêu cầu của hội nhập và để đảm bảo an ninh

kinh tế ngày càng trở nên bức thiết.

Trong thời gian tới, nhà nước cần tiếp tục đổi mới kịp thời và thường xuyên

các thiết chế kinh tế, chính trị, chủ động, tích cực hoàn thiện thể chế kinh tế, nâng

cao tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về phòng ngừa

và ứng phó với thách thức an ninh kinh tế. Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện thể chế

kinh tế để vận hành tốt cơ chế thị trường, bổ sung thiết chế xử lý những vấn đề mới

xuất hiện, gây áp lực và nguy cơ cho nền kinh tế như an ninh tài chính, an ninh

thông tin, an ninh nguồn nước... Nhà nước cũng cần bổ sung thêm các định chế để

hạn chế tác động tiêu cực đối với nền kinh tế do xu hướng bảo hộ trong thương mại

quốc tế như: chống bán phá giá, hàng rào kỹ thuật, bảo vệ môi trường... gây bất lợi

cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Đối với các vấn đề an ninh kinh tế mà các nước dễ tìm được điểm tương

đồng do có lợi ích chung, cần rà soát lại những điểm chưa thống nhất giữa pháp luật

Việt Nam và điều ước quốc tế trên từng lĩnh vực để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Đây là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi cho các nước cùng phối hợp phòng ngừa và đấu

tranh, kể cả thực hiện tương trợ tư pháp khi đối diện với các mối đe doạ an ninh

kinh tế. Đối với các vấn đề an ninh kinh tế nhạy cảm, phức tạp, mỗi nước do lợi ích

của mình có cách tiếp cận và diễn giải riêng, khó có thể điều chỉnh pháp luật quốc

nội để đảm bảo tính tương thích (như an ninh nguồn nước, an ninh nghề cá, an ninh

lương thực...) thì cần tích cực phát huy vai trò của các thể chế đa phương và pháp

luật quốc tế, qua đó vừa bảo vệ độc lập, chủ quyền của Việt Nam trên lĩnh vực luật

pháp, vừa tăng cường hợp tác quốc tế phòng ngừa và ứng phó với thách thức an

ninh kinh tế bằng các hình thức phù hợp.

162

4.3.3. Chủ động phòng ngừa những bất ổn đe doạ các yếu tố nguồn lực

4.3.3.1. Đảm bảo an ninh năng lượng

thiết yếu của nền kinh tế và bất ổn trong hệ thống tài chính tiền tệ

An ninh năng lượng là vấn đề sống còn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia

trên thế giới. Nhiều nước, trong đó có Việt Nam đã đưa vào kế hoạch thực hiện các

chiến lược nhằm đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước mình. Hiện nay Việt

Nam đã có “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn

2030” và đã triển khai xây dựng “Chiến lược tăng trưởng xanh (2011 – 2030) và

tầm nhìn 2050”. Hai chiến lược này tuy khác nhau nhưng có điểm chung là hướng

tới sử dụng hiệu quả tài nguyên năng lượng của đất nước. Trên quan điểm phát triển

năng lượng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù

hợp với xu thế hội nhập quốc tế, thiết lập an ninh năng lượng quốc gia gắn với an

ninh quốc gia và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, để đảm bảo an ninh năng

lượng Việt Nam cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản như:

Đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh và mỗi người dân, cần tiết kiệm và

nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, bao gồm đổi mới công nghệ để tăng hiệu

quả khai thác và bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng tiết kiệm. Nhà nước cần

tăng cường công tác khảo sát, thăm dò các nguồn tài nguyên năng lượng để nâng

cao tiềm năng và trữ năng năng lượng. Đây là giải pháp thường xuyên nhằm tăng

cường khả năng khai thác, sản xuất các nguồn năng lượng sơ cấp, giảm bớt sự phụ

thuộc vào bên ngoài. Đa dạng hoá các nguồn năng lượng là giải pháp tổng hợp bao

gồm giải pháp đa dạng hoá khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng khác nhau

như phát triển sử dụng năng lượng hạt nhân cho phát điện, nhập khẩu điện từ các

nước láng giềng như Lào, Campuchia, Trung Quốc... Đa dạng hoá các chủ sở hữu

khai thác kinh doanh ngành năng lượng nhằm huy động các nguồn lực và công nghệ

hiện đại đảm bảo nguồn cung năng lượng. Tăng cường năng lực nội địa về cung cấp

các sản phẩm năng lượng là giải pháp có tính nguyên tắc trong đó cần quan tâm tới

163

xây dựng các cơ sở chế biến, dự trữ năng lượng, xây dựng các nhà máy lọc dầu

nhằm chủ động sản xuất các sản phẩm dầu cung cấp cho nền kinh tế; có kế hoạch

xây dựng các kho xăng dầu để tăng số ngày đảm bảo dự trữ nhiên liệu quốc gia lên

tới 60 ngày năm 2020 và 90 ngày vào năm 2030. Nhà nước cũng cần thúc đẩy phát

triển năng lượng tái tạo. Hiện nay tiềm năng loại năng lượng này còn rất lớn nhưng

do kết cấu hạ tầng hạn chế, chính sách chưa đủ mạnh và nguồn lực hạn hẹp nên

chưa tận dụng được nguồn năng lượng bền vững này. Khắc phục được những điểm

yếu trên không chỉ giúp đảm bảo an ninh năng lượng mà còn có ý nghĩa về tăng

cường năng lực an ninh quốc phòng do các nguồn năng lượng tái tạo phân bố nhiều

ở các vùng miền núi, biên giới, hải đảo. Giải pháp về giá, hình thành và phát triển

thị trường năng lượng, thị trường điện lực cạnh tranh là giải pháp lâu dài thúc đẩy

sử dụng tiết kiệm năng lượng, thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả trong sản xuất – truyền

tải – phân phối và sử dụng năng lượng. Giá năng lượng cần được xác định phù hợp

với cơ chế thị trường, phản ánh đúng giá đầu vào, Nhà nước chỉ điều tiết thông qua

4.3.3.2. Đảm bảo an ninh lương thực

chính sách thuế và các công cụ quản lý khác.

Quá trình 30 năm Đổi mới, Việt nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn trên

các lĩnh vực, trong đó nổi bật là lĩnh vực nông nghiệp với việc xoá đói giảm nghèo,

đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, duy trì vị thế của nước xuất khẩu gạo hàng

đầu, góp phần đảm bảo an ninh lương thực thế giới. Tuy nhiên, đảm bảo an ninh

lương thực quốc gia còn thiếu bền vững. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập

quốc tế, đứng trước những khó khăn thách thức mới ảnh hưởng trực tiếp đến an

ninh lương thực, nhà nước cần triển khai một số giải pháp cấp bách như:

Tái cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sản xuất về nông nghiệp. Cần rà

soát lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của thị trường

trong nước và thế giới, phát huy, khai thác được lợi thế tự nhiên của từng vùng sinh

thái, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, hình thành vùng sản xuất tập

164

trung, thâm canh gắn với công nghiệp chế biến. Phát triển thị trường ngoài nước và

trong nước, xây dựng chuỗi sản xuất, thu hút vốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp,

kết hợp chặt chẽ 3 khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ, hướng tới xây dựng mô hình

sản xuất nông nghiệp đa chức năng, phát triển bền vững. Đảm bảo an ninh lương

thực là không để người dâu thiếu lương thực và có tỷ lệ dự trữ quốc gia và xuất

khẩu hợp lý. Việt Nam cần tính toán để tăng sản lượng để đảm bảo an ninh lương

thực quốc gia, duy trì xuất khẩu 3-4 triệu tấn gạo, coi trọng chất lượng, tăng gạo

chất lượng cao cho xuất khẩu. Nghiên cứu trồng thêm một số loại cây lương thực

khác để bổ sung nguồn lương thực, chuyển một số vùng trồng lúa năng suất thấp

sang chăn nuôi hoặc phát triển các loại rau quả đặc sản.

Nhà nước cần có cơ chế chính sách thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học

công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý

nông nghiệp. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là hệ

thống kênh mương để đảm bảo đủ nước phục vụ sản xuất lúa, cây lương thực chủ

yếu của quốc gia. Chủ động nghiên cứu, dự báo thời tiết, cảnh báo thiên tai cho

nông nghiệp, xây dựng chính sách bảo trợ cho nông dân về những rủi ro do thiên

nhiên và do thị trường.

Tích cực chủ động tham gia vào chương trình an ninh lương thực thế giới.

Ngoài việc sản xuất nông nghiệp trong nước có thể triển khai hợp tác sản xuất lúa

gạo ở các nước khác và tham gia vào chương trình bình ổn giá lương thực trên thế

giới. Tích cực tham gia vào chương trình hợp tác quốc tế chống biến đổi khí hậu,

tham gia vào sáng kiến Hạ nguồn sông Mekong và các chương trình hợp tác trong

Uỷ ban sông Mekong để bảo vệ vùng sản xuất lúa chủ yếu của quốc gia ở đồng

bằng Sông Cửu long và đảm bảo nguồn cung nước ngọt cho sản xuất nông nghiệp.

Chủ động tham gia vào hiệp hội xuất khẩu gạo để đảm bảo ổn định giá cả và lợi ích

cho người nông dân. Có chính sách thu mua lương thực để đảm bảo giá cả ổn định

cho nông dân yên tâm sản xuất, đồng thời tích cực mở rộng thị trường xuất khẩu.

165

4.3.3.3. Đảm bảo an ninh nguồn nước

Tài nguyên nước của Việt Nam đang có xu hướng suy thoái cả về số lượng

và chất lượng trong khi nhu cầu về nước cho phát triển kinh tế và đời sống xã hội

ngày càng tăng. Do đặc điểm là nước hạ nguồn các sông lớn của khu vực nên Việt

Nam rất bị động trong việc quản lý, sử dụng nguồn nước đồng thời phải gánh chịu

hậu quả của việc sử dụng nước bất hợp lý ở các nước thượng nguồn. Để đảm bảo an

ninh nguồn nước, Việt Nam cần có những giải pháp đối với việc sử dụng tài nguyên

hiện có và phối hợp với các nước trong khu vực để hạn chế những bất lợi của quốc

gia hạ nguồn sông.

Trước hết, dưới góc độ quản lý tài nguyên, Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Tài

nguyên và Môi trường cần nghiên cứu khảo sát tổng thể tài nguyên nước và dự báo

nhu cầu sử dụng nước quốc gia để có cơ sở xây dựng chiến lược quản lý bền vững.

Cần chủ động và tích cực áp dụng khoa học – công nghệ tiên tiến trong sản xuất và

tiêu dùng nhằm tiết kiệm, sử dụng hợp lý tài nguyên nước quốc gia, tái tạo nguồn

nước sau sản xuất và tiêu dùng, xử lý ô nhiễm nguồn nước, ngăn chặn nhiễm mặn

và xử lý nước mặn phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Phát triển thuỷ điện vì

mục tiêu an ninh năng lượng và phát triển nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực

cần tính toán tương quan với an ninh nguồn nước. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện

hành lang pháp lý, thể chế, chính sách nhằm quản lý và khai thác nguồn tài nguyên

nước quốc gia hợp lý, có hiệu quả và bền vững.

Tích cực hợp tác quốc tế và khu vực trong việc quản lý, khai thác tài nguyên

nước nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước để phát triển kinh tế. Việt Nam cần chủ

động, tăng cường hợp tác hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau, xây dựng lòng tin, cơ chế

phối hợp, thông tin giữa các nước trong việc quản lý, khai thác tài nguyên nước

xuyên quốc gia hợp lý, có hiệu quả, cùng có lợi, cùng phát triển, đảm bảo an ninh

nguồn nước, chủ động ứng phó, hạn chế tác động tiêu cực. Cần chú trọng đặc biệt

tới hợp tác giữa các đối tác có chung nguồn nước xuyên biên giới (sông Hồng, sông

Đà, sông Mekong...)

166

4.3.3.4. Đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính tiền tệ

Hệ thống tài chính, tiền tệ là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế. Trong

thời gian tới, trước hết Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện bộ khung pháp lý tạo điều

kiện nền tảng để xây dựng mô hình giám sát tài chính nói chung và giám sát ngân

hàng nói riêng. Hiện nay chúng ta đã cơ bản có được các bộ luật cho các ngành

ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và hoạt động thanh tra, giám sát cũng được

đề cập đến trong các bộ luật trên. Song nhìn chung vẫn chưa cụ thể và rõ ràng.

Do đó, cần hướng đến xây dựng cũng như hoàn thiện các dự luật, các quy chế

về giám sát ngân hàng, giám sát hoạt động bảo hiểm, giám sát hoạt động chứng

khoán nhằm tăng cường tính pháp lý cho hệ thống giám sát tài chính. Đặc biệt

môi trường pháp lý phải góp phần tăng cường ý thức trách nhiệm công khai

thông tin cũng như là thước đo uy tín của các đối tượng giám sát.

Hai là, cần xây dựng mô hình giám sát phù hợp và hiệu quả. Khi nghiên cứu

các mô hình giám sát tài chính của các nước cho thấy, mỗi quốc gia sẽ tự thiết kế

một mô hình giám sát theo dạng hợp nhất hoặc đa cực, tùy theo đặc điểm, mức độ

phát triển trong từng thời kỳ. Với sự phát triển đa dạng và xu thế tự do hóa của thị

trường dịch vụ tài chính nên điều cần thiết là trước mắt sẽ tạo nên mối quan hệ

phối hợp giữa các bộ phận giám sát trên các lĩnh vực tài chính nhằm từng bước xây

dựng mô hình giám sát hợp nhất trong tương lai. Song điều cần nhấn mạnh là hệ

thống giám sát có hiệu quả thì sẽ góp phần ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng hoặc

nếu quốc gia có bị rơi vào khủng hoảng thì mức độ thiệt hại cũng không cao như

các nước có hệ thống giám sát kém.

Hiện nay, Ngân hàng nhà nước đang tiếp tục triển khai cho những chuẩn

mực của BASEL II, để thực hiện đúng tiến độ nhằm nâng cao chất lượng hệ thống

giám sát, nhà nước cần có chiến lược tổng thể để từng bước hoàn thiện các nhân

tố như: cải cách mô hình tổ chức của Ngân hàng nhà nước nhằm tăng cường tính

độc lập cho Ngân hàng nhà nước, hoàn thiện nội dung, quy trình, bộ chỉ tiêu giám

sát, phương pháp giám sát, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đào tạo chuyên gia… Trong đó

167

chi phí xây dựng hệ thống giám sát thường tập trung chủ yếu ở khâu đào tạo

nhân sự và xây dựng cơ sở hạ tầng. Do đó vấn đề cân nhắc giữa lợi ích và chi phí

cần được nghiên cứu để đạt hiệu quả tối ưu. Đặc biệt, sau cơn bão khủng hoảng

toàn cầu vừa qua, câu lạc bộ Basel gồm 20 quốc gia trong khối G20 đã đưa ra

quy định mới về vốn và thanh khoản của các ngân hàng thương mại gọi là

BASEL III đã áp dụng vào 2012, trong đó chú trọng tăng cường mạnh khả năng

tự giám sát của các ngân hàng thương mại buộc phải nâng cao tiêu chuẩn năng

lực tài chính và quản trị rủi ro để họ có thể đủ sức vượt qua những biến động của

nền kinh tế. Như vậy, hệ thống giám sát hiệu quả cần được xây dựng từ cả hai

phía bao gồm cả cơ quan giám sát và cả đối tượng giám sát.

Ba là, thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường minh bạch tài chính, nâng

cao độ tin cậy của hệ thống thông tin tài chính. Đây là hệ thống các giải pháp kết

hợp cả về kinh tế - chính trị và xã hội bao gồm: (1) Ban hành những quy định

cụ thể về chế độ công khai tài chính, trong đó cần xác định cụ thể mức độ công

khai của các loại thông tin tài chính, loại nào phải minh bạch, loại nào được phép

bảo mật; (2) Xây dựng hệ thống thông tin đa chiều từ các cơ quan quản lý, từ các

đối tượng giám sát, từ khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính. Đặc biệt cần thành

lập các doanh nghiệp đánh giá, xếp hạng tín nhiệm để làm tăng thêm nguồn tư liệu

từ thông tin tài chính; (3) Hoàn thiện hệ thống kế toán - kiểm toán theo chuẩn mực

quốc tế. Đặc biệt nhà nước cần có biện pháp ngăn chặn tình trạng cạnh tranh không

lành mạnh thông qua giảm phí kiểm toán trong hoạt động kiểm toán hiện nay, vì

điều này sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, gây tổn hại đến chất lượng

thông tin công bố; (4) Thực hiện công tác tuyên truyền nâng cao ý thức các ngân

hàng thực hiện minh bạch tài chính… tiến đến cần xem việc minh bạch tài chính là

thước đo đánh giá sự tín nhiệm, uy tín của các đối tượng giám sát được cơ quan

giám sát công bố trước thị trường theo định kỳ.

168

4.3.4. Xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế

Đổi mới quản lý nhà nước là hoạt động thường xuyên, lâu dài của mỗi quốc

gia để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế nhằm thích ứng với bối

cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng. Là một nền kinh

tế đang trong quá trình chuyển đổi, Việt Nam không chỉ cần tích cực, khẩn trương

trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật kinh tế, mà quan trọng hơn là phải đổi mới sâu

sắc cả về tư duy lẫn phương pháp thực hiện quản lý nhà nước đối với nền kinh tế.

Về tư duy quản lý, nhà nước cần xử lý đúng mối quan hệ giữa thị trường và

kế hoạch để giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Trong

khi tôn trọng đầy đủ vai trò của thị trường trong việc phân bổ các nguồn lực và điều

tiết các hoạt động kinh tế mang tính kinh doanh, Chính phủ cần có chiến lược, kế

hoạch để mở rộng và phát triển thị trường; ưu tiên đẩy mạnh quan hệ quốc tế; định

hướng lộ trình và các chính sách cụ thể để thực hiện có hiệu quả. Mục tiêu của quá

trình này là nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Chính phủ trong việc quản

lý và điều hành nền kinh tế. Muốn vậy, bên cạnh việc thực hiện chức năng quản lý

hành chính nhà nước, Chính phủ cần đổi mới trong việc thực hiện chức năng phục

vụ phát triển kinh tế - xã hội để làm tốt vai trò là chủ thể dẫn dắt và định hướng

phát triển nền kinh tế.

Về phương pháp thực hiện, nhà nước cần đổi mới phương thức quản lý nền

kinh tế thông qua việc giảm tối đa các can thiệp hành chính vào hoạt động của thị

trường và doanh nghiệp. Thay vào đó, cần tập trung vào quản lý kinh tế vĩ mô, điều

tiết nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,

hoạch định chính sách để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất

nước, trên cơ sở các nguyên tắc của thị trường.

Về xây dựng bộ máy quản lý, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ cấu tổ

chức Chính phủ, ngoài các bộ thuộc khối đối ngoại, an ninh, quốc phòng, nội chính

mà nước nào cũng có thì các bộ thuộc khối kinh tế cần được tổ chức, sắp xếp lại

vừa thích hợp với thực tế Việt Nam, vừa có sự tương thích với các nước đối tác để

169

phù hợp với điều kiện hội nhập. Cần tăng cường các cơ quan hoạch định chính sách

kinh tế vĩ mô, cải thiện sự phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,

Ngân hàng Nhà nước, bảo đảm các số liệu về thông tin kinh tế được thu thập đầy đủ

và có chất lượng để phục vụ quá trình ra quyết định, tăng khả năng phản ứng nhanh

và nhất quán của Chính phủ với các điều kiện kinh tế thay đổi.

Để nâng cao khả năng ứng phó nhanh với tình hình quốc tế và xử lý các vấn

đề quốc tế, việc xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo tình hình kinh tế quốc gia là

một trong những vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Hệ thống dự báo, cảnh

báo, bao gồm: hệ thống các cơ quan dự báo, cảnh báo; các nguyên tắc, phương pháp

dự báo, cảnh báo tiên tiến và hệ thống các chỉ tiêu phục vụ công tác dự báo, cảnh

báo các biến động của nền kinh tế, để giúp Chính phủ điều chỉnh kịp thời các chính

sách kinh tế cho phù hợp với tình hình kinh tế trong nước, khu vực và thế giới. Vấn

đề này tuy không mới, nhưng trong giai đoạn hiện nay, nó ngày càng trở thành một

công cụ quản lý kinh tế vĩ mô hữu hiệu và cần thiết, cấp bách hơn. Bởi, khi các

nước trên thế giới tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng, mức độ

giao thoa kinh tế giữa các nước, các khu vực kinh tế ngày càng lớn, thì các vấn đề

liên quan đến phát triển kinh tế của một quốc gia với các quốc gia khác trên thế giới

ngày càng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại, chịu sự ảnh hưởng lẫn nhau.

Việt Nam cần chú trọng hoàn thiện quản lý nhà nước về kinh tế, từ xây dựng

hệ thống thể chế đến tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức và chế độ công vụ

chuyên nghiệp. Không ngừng nâng cao trình độ, năng lực quản lý nhà nước về kinh

tế cho phù hợp với yêu cầu của toàn cầu hoá và kinh tế tri thức. Phân định rõ chức

năng quản lý nhà nước chuyên ngành đối với từng lĩnh vực có liên quan đến an ninh

kinh tế để tránh chồng chéo hoặc bỏ sót chức năng. Chủ động xây dựng lực lượng,

đầu tư nguồn lực cho quản lý an ninh kinh tế ở từng lĩnh vực, từng địa bàn, từng nội

dung cụ thể. Xây dựng các lực lượng chuyên ngành quản lý an ninh kinh tế đủ về số

lượng, đồng bộ về cơ cấu, có trình độ đủ sức phòng ngừa, cảnh báo, ứng phó với

từng loại thách thức an ninh kinh tế. Quy hoạch, bố trí lại lực lượng quản lý an ninh

kinh tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, đặt trong tổng thể đảm bảo chiến lược an

170

ninh quốc gia trong thời kỳ mới. Tại các bộ/ngành trọng yếu có liên quan đến an

ninh kinh tế như Bộ Công an, Quốc phòng, Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài chính, Tài

nguyên và môi trường, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công thương... các lực

lượng chuyên trách phải được đào tạo tinh thông nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ, có bản

lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức hội nhập quốc tế, thường xuyên được trao

đổi, chia sẻ thông tin từ các đối tác quốc tế, được tiếp cận các công nghệ và thành

thạo trong sử dụng các phương tiện kỹ thuật để phòng ngừa, ứng phó có hiệu quả.

Cần tiếp tục hoàn thiện chế độ chính sách để đội ngũ cán bộ, công chức quản

lý kinh tế an tâm công tác và không ngừng trau dồi đạo đức nghề nghiệp. Có đội

ngũ cán bộ giỏi mới có khả năng phát hiện kịp thời, phòng ngừa, ứng phó và đấu

tranh có hiệu quả, đúng pháp luật, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế đối với các

mối đe doạ an ninh kinh tế.

4.3.5. Tăng cường hợp tác quốc tế về đảm bảo an ninh kinh tế

Với tư duy và cách tiếp cận mới thì vấn đề an ninh quốc gia nói chung, an

ninh kinh tế nói riêng không phải là việc riêng của mỗi quốc gia, mà trong một số

khía cạnh khi giải quyết cần có sự hợp tác của khu vực và quốc tế. Vì vậy, hợp tác

quốc tế trong giải quyết các vấn đề an ninh kinh tế tất yếu gắn liền với đảm bảo an

ninh kinh tế của Việt Nam.Việc mở rộng quan hệ đối ngoại, đẩy mạnh hợp tác với

các nước, các tổ chức quốc tế, các cơ quan an ninh, cảnh sát quốc tế trong đấu tranh

phòng chống tội phạm kinh tế, ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng kinh tế, phối hợp

chính sách xử lý các vấn đề phát sinh là cần thiết và cần đẩy mạnh khai thác. Việt

Nam cũng cần chủ động tham gia thiết lập hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế hợp

tác với các nước trong khu vực và quốc tế, các tổ chức quốc tế có liên quan, trong

đó chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các nước ASEAN trong đối phó với

các đe doạ bất ổn kinh tế từ bên ngoài, đặc biệt trong phòng chống tội phạm kinh tế

xuyên quốc gia, đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu, khai thác nước ngọt sông

Mekong với các chương trình, kế hoạch và cơ chế phù hợp. Đây sẽ là một trong

171

những giải pháp tốt góp phần giảm thiểu những tác động của những mối đe doạ an

ninh kinh tế. Trong thời gian tới, các mối quan hệ hợp tác này cần được nâng cao

hơn nữa cả về hiệu quả và tính thiết thực.

Trong quá trình hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực, Việt Nam cần

xác định những lĩnh vực ưu tiên và hình thức hợp tác phù hợp. Cụ thể, trong giai

đoạn hiện nay cần ưu tiên hợp tác chống biến đổi khí hậu để hạn chế ảnh hưởng đến

sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời cũng là đảm bảo an

ninh nguồn nước cho sản xuất và đời sống nhân dân. Đồng thời cần chú ý đến hợp

tác quốc tế trong đấu tranh với các loại tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là tội

phạm kinh tế quốc tế và tội phạm công nghệ cao liên quan đến hoạt động buôn bán

người, rửa tiền, lừa đảo tài chính...

Để thực hiện tăng cường hợp tác quốc tế trong đảm bảo an ninh kinh tế, nhà

nước cần tập trung vào những bước đi cụ thể như:

Một là, tăng cường đối thoại, hợp tác song phương và đa phương trên cơ sở

xây dựng được cơ chế hợp tác giữa chính phủ các nước, cần phát huy hiệu quả của

các kênh hợp tác song phương và đa phương ở khu vực như các tổ chức quốc tế, các

hội nghị, đối thoại an ninh, ngoại giao trong giải quyết các thách thức an ninh phi

truyền thống nói chung, an ninh kinh tế nói riêng. Xây dựng cơ chế hợp tác khu vực

trong khung khổ ASEAN và ASEAN+ Hội nghị cấp Bộ trưởng, Hội nghị quan chức

cấp cao và Nhóm làm việc trong khuôn khổ ASEAN; thực hiện các tuyên bố và kế

hoạch hành động. Phát huy vai trò của ASEAN, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF)

và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), tăng cường hợp

tác giữa ASEAN mà Việt Nam là thành viên với các nước khác. Đẩy mạnh việc xây

dựng các cơ chế hợp tác mới, mở rộng các hình thức và nội dung hợp tác giữa các

nước trong khu vực.

Cũng cần chú trọng tiếp tục xây dựng lòng tin đối với các quốc gia, các tổ

chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên, vì đây là nền tảng quan trọng cho mọi

hoạt động hợp tác quốc tế của nước ta. Trong các quan hệ quốc tế, Việt nam luôn

được đánh giá cao và là một chủ thể có trách nhiệm. Tuy nhiên, cần thận trọng xử

172

lý một số khía cạnh cụ thể để tránh xuất hiện sự hoài nghi từ các quốc gia, tổ chức

quốc tế, chẳng hạn như thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến hoạt động

phòng chống rửa tiền, phòng chống tội phạm kinh tế xuyên quốc gia, hay phòng

chống tham nhũng. Cần tích cực nội luật hoá quy định trong các điều ước quốc tế

mà Việt Nam là thành viên cũng như thực hiện tốt các quy định pháp luật này để

đảm bảo thực hiện đầy đủ các cam kết đưa ra trong các quan hệ quốc tế.

Hai là, tăng cường hợp tác nâng cao năng lực dự báo thách thức an ninh kinh

tế. Trong những năm qua, các nước ASEAN đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh hợp tác

xây dựng cơ chế phòng ngừa rủi ro tài chính và đấu tranh với tội phạm kinh tế, tuy

nhiên, trong dự báo thách thức an ninh kinh tế, các nước ASEAN còn bộc lộ nhiều

hạn chế. Trước sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực, sự gia tăng

thách thức về an ninh kinh tế, Việt Nam cần tham gia sâu rộng hơn vào việc xây

dựng và thực hiện các dự án, tăng cường khả năng phối hợp giữa các bộ, ngành liên

quan của các nước, thiết lập và hoàn thiện cơ chế ứng phó khẩn cấp trong khu vực

để kịp thời thông báo tình hình, tăng cường năng lực ứng phó với các bất ổn kinh tế.

Ba là, tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học công nghệ để ứng phó với

các thách thức an ninh đang nổi lên. Khoa học công nghệ là một yếu tố rất quan

trọng, tác động đến khả năng, hiệu quả của việc ứng phó với nhiều khía cạnh của

những thách thức an ninh kinh tế. Đẩy mạnh hợp tác song phương với các nước

phát triển có thể tranh thủ được nguồn lực tài chính, khoa học công nghệ, đào tạo

nhân lực và chia sẻ kinh nghiệm xây dựng thể chế và chính sách cho phòng ngừa và

ứng phó với những mối đe doạ an ninh kinh tế, Việt Nam cần tận dụng sự hỗ trợ

của những quốc gia có tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ phát triển để xây dựng

và hiện đại hoá hệ thống thông tin, xây dựng hệ thống cảnh báo nhằm làm giảm hậu

quả do thách thức an ninh kinh tế. Cần đẩy mạnh phối hợp nghiên cứu phục vụ yêu

cầu phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn cho đời sống nhân dân.

173

Kết luận chương 4

Trong tiến trình tiếp tục hội nhập kinh tế thế giới đến 2020 và giai đoạn tiếp

theo, Việt Nam đứng trước những thời cơ quan trọng nhưng cũng phải đổi mặt với

những nguy cơ không nhỏ để bảo đảm an ninh kinh tế trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Những thời cơ và nguy cơ đặt ra cho sự phát triển kinh tế và bảo

đảm an ninh kinh tế của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế luôn

diễn biến đan xem phức tạp, thời cơ có thể chuyển hoá thành nguy cơ và ngược lại,

nguy cơ cũng có thể chuyển thành thời cơ nếu được xử lý phù hợp.

Để đảm bảo an ninh kinh tế trong giai đoạn tiếp theo, cần quán triệt các quan

điểm cơ bản như: Đảm bảo an ninh kinh tế phải đặt trong mối liên hệ gắn bó mật

thiết với việc đảm bảo an ninh quốc gia trên tất cả các lĩnh vực; Đảm bảo an ninh

kinh tế phải gắn với tăng cường khả năng thích ứng và năng lực chống lại các nguy

cơ uy hiếp nền kinh tế; Đảm bảo an ninh kinh tế phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa

nội lực và khai thác tốt ngoại lực trong bối cảnh hội nhập.

Trên cơ sở những quan điểm trên, một số giải pháp cơ bản và cần thiết phải

thực hiện để bảo đảm an ninh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo là: Tăng

cường nhận thức về an ninh kinh tế, định dạng rủi ro kinh tế để có đối sách xử lý

phù hợp; Xây dựng thể chế kinh tế, khuôn khổ pháp luật đáp ứng yêu cầu của hội

nhập và gắn với đảm bảo an ninh kinh tế; Chủ động phòng ngừa những bất ổn đe

doạ các yếu tố đầu vào thiết yếu của nền kinh tế và bất ổn trong hệ thống tài chính

tiền tệ; Xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế; Tăng cường

hợp tác quốc tế về đảm bảo an ninh kinh tế. Chủ động ứng phó với nguy cơ thách

thức và tận dụng tốt thời cơ sẽ tùy thuộc vào sự nỗ lực thực hiện đồng bộ các giải

pháp của nhà nước, các tổ chức kinh tế và cộng đồng dân cư Việt Nam để bảo đảm

tốt hơn an ninh kinh tế quốc gia.

174

KẾT LUẬN

An ninh kinh tế là một bộ phận cấu thành của an ninh quốc gia, bên cạnh các

yếu tố an ninh chính trị, quân sự… Tuỳ thuộc vào bối cảnh lịch sử, giai đoạn phát

triển mà một quốc gia đặt nặng trọng tâm vào khía cạnh quân sự, chính trị hoặc

kinh tế của an ninh quốc gia. Kể từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, dưới tác động của

toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ, an ninh kinh tế trở thành trọng tâm

trong chiến lược an ninh quốc gia của nhiều nước trên thế giới.

Đảm bảo an ninh kinh tế là việc duy trì được một nền kinh tế ổn định, vững

mạnh, thích ứng được với những biến động của quốc tế cũng như tình hình trong

nước, kiểm soát các nguy cơ, bảo đảm sự an toàn, phát triển bền vững của nền kinh

tế quốc dân. Đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập bao gồm

nhiều nội dung, trong đó cốt lõi là xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và

thể chế kinh tế trong quá trình hội nhập gắn với đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia;

Đảm bảo ổn định những yếu tố nguồn lực thiết yếu của nền kinh tế như năng lượng,

lương thực, nguồn nước; Đảm bảo ổn định an toàn cho hệ thống tài chính tiền tệ

quốc gia; Phòng chống các loại tội phạm kinh tế gây ảnh hưởng tới an ninh kinh tế

quốc gia.

Giai đoạn 2007 -2015 là thời kỳ hội nhập quốc tế sôi động của Việt Nam với

nhiều dấu mốc quan trọng của hội nhập trên các lĩnh vực, đặc biệt là sự kiện Việt

Nam gia nhập WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động đến an ninh kinh tế

của Việt Nam trên nhiều khía cạnh, đem lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế nhưng

cũng đặt ra những khó khăn thách thức mới trong việc đảm bảo an ninh kinh tế.

Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong công tác đảm bảo an ninh

kinh tế như duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm

soát các yếu tố nguy cơ đe doạ an ninh kinh tế từ nội bộ nền kinh tế cũng như từ các

tác nhân bên ngoài. Tuy nhiên, quá trình phát triển cũng bộc lộ rõ hơn những hạn

chế, yếu kém nội tại của công tác bảo đảm an ninh kinh tế. Nhiều nguyên nhân của

những hạn chế xuất phát từ phía chủ quan như nhận thức về các mối đe doạ an ninh

175

kinh tế đối với quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn có bất cập; hệ

thống thể chế, pháp luật quản lý kinh tế của Việt Nam còn chưa cập nhật trước

những vấn đề mới; chưa tận dụng những khả năng ứng phó với bất ổn về kinh tế từ

cơ chế hợp tác quốc tế…

Để đảm bảo an ninh kinh tế trong tiến trình tiếp tục hội nhập kinh tế thế giới

đến 2020 và giai đoạn tiếp theo, trên cơ sở các quan điểm đã xác định, cần thực

hiện đồng bộ các giải pháp từ tăng cường nhận thức về an ninh kinh tế, định dạng

rủi ro kinh tế đến xây dựng thể chế kinh tế, khuôn khổ pháp luật đáp ứng yêu cầu

của hội nhập; Chủ động phòng ngừa những bất ổn đe doạ các yếu tố đầu vào thiết

yếu của nền kinh tế và bất ổn trong hệ thống tài chính tiền tệ; Xây dựng và kiện

toàn bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế; Tăng cường hợp tác quốc tế về đảm bảo

an ninh kinh tế. Đối phó hiệu quả với những mối đe doạ an ninh kinh tế sẽ góp phần

đảm bảo ổn định, vững chắc tổ quốc, bảo vệ chế độ, giữ vững hoà bình, ổn định

chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Tuy nhiên, an ninh kinh tế là một khái niệm có nội hàm rộng, có thể tiếp cận

theo nhiều cấp độ khác nhau; bảo đảm an ninh kinh tế quốc gia cũng chứa đựng

nhiều nội dung rộng và phức tạp. Với giới hạn dung lượng của một luận án tiến sĩ

chuyên ngành kinh tế chính trị và hạn chế về nguồn lực nghiên cứu của tác giả, còn

một số cách tiếp cận khác của an ninh kinh tế theo cấp độ an ninh kinh tế cá nhân

(hộ gia đình) và cấp độ doanh nghiệp, hoặc những khía cạnh cụ thể khác về bảo

đảm an ninh kinh tế quốc gia trong quá trình hội nhập như đảm bảo an ninh đối với

từng ngành kinh tế cụ thể, an ninh kinh tế trong di chuyển lao động quốc tế, di

chuyển vốn hay chuyển giao công nghệ, an ninh kinh tế trong mối tương quan với

an ninh chính trị, an sinh xã hội... cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn ở những

công trình sau.

176

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

1. ADB (2005), Các cơ chế cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính: Áp dụng cho khu

vực Đông Á, Hà Nội (bản dịch).

2. Phạm Thị Thanh Bình (2014), Tăng trưởng kinh tế với an ninh năng lượng và

vấn đề an ninh năng lượng của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 10/02

3. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch Hàn Quốc (2009), Hàn Quốc Đất nước – Con

người, Hàn Quốc.

4. Chen Fang Ying, Jiang Tong, 2012, Vấn đề an ninh kinh tế trong an ninh quốc

gia, Trong “An ninh quốc gia, những vấn đề an ninh phi truyền thống”, Tạ

Ngọc Tấn (biên soạn), NXB Chính trị quốc gia, 2013.

5. Phạm Minh Chính (2011), Một số vấn đề an ninh kinh tế trong toàn cảnh kinh tế

thế giới và Việt Nam gần đây, in trong An ninh kinh tế và nền kinh tế thị trường

ở Việt Nam, NXB Công An nhân dân.

6. Phan Thế Công (2013), Đối phó với khủng hoảng kinh tế toàn cầu của Hàn

Quốc và bài học tham khảo cho Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia: “Các vấn

đề Lý luận cơ bản về nước Công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN và

kinh nghiệm quốc tế về phát triển nước Công nghiệp hiện đại”, (đề tài cấp Nhà

nước KX. 04. 07/11-15), NXB ĐH Kinh tế quốc dân, trang 365-380

7. Clinton (1993), Bài phát biểu về chính sách đối ngoại Mỹ tại trường Đại học

Georgetown.

8. Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (1994), Báo cáo phát triển con

người, UNDP.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, NXB Chính trị Quốc gia.

177

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, tập 51, tr 111.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, NXB Chính trị Quốc gia, tr 113 – 114.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10-4-2013.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Hoàng Minh Hằng (2007), Vấn đề an ninh năng lượng ở Đông Á: thực trạng và

giải pháp. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4.

15. Phương Hiếu (2005), “Đảm bảo an ninh quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế”,

tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 9.

16. Phạm Ngọc Hiền, Kiều Tiến Hùng, Nguyễn Trường Thọ, Nguyễn Trung Kiên

(2011), Hỏi đáp về Bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội

nhập quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Phạm Ngọc Hiền, Nguyễn Trường Thọ, Nguyễn Trung Kiên (2011), Hội nhập

kinh tế quốc tế, những vấn đề đặt ra đối với công tác công an, Nhà xuất bản

Công an nhân dân, Hà Nội.

18. Nguyễn Thị Hồng (2004), Quản lý cán cân thanh toán trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế, Tạp chí Tài chính, 10.

19. Trần Thị Lan Hương (2015), Bảo hiểm tiền gửi góp phần chống đỡ khủng hoảng:

Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo An ninh tài

chính tiền tệ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, NXB Đại học Kinh

tế quốc dân, Hà Nội.

20. Trần Văn Hoà (2011), Phòng chống tội phạm công nghệ cao, in trong An ninh

kinh tế và nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công An nhân dân.

178

21. Hồ Thế Hoè (2011), An ninh kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, in trong An

ninh kinh tế và nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công An nhân dân.

22. Nguyễn Văn Hưởng (2014), An ninh phi truyền thống: Nguy cơ, thách thức, chủ

trương và giải pháp đối phó ở Việt nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

23. Châu Vinh Khôn, Đào Kiên, Trần Phượng Anh (1998), Nghiên cứu chiến lược

an ninh kinh tế quốc gia của nước ngoài. Học báo Thái Bình Dương, kỳ 3, tr.78.

24. Đinh Tuấn Minh, Phạm Thế Anh (chủ biên) (2015), Báo cáo phát triển nền kinh

tế thị trường Việt Nam năm 2014, NXB Tri thức.

25. Ngô Quang Minh (2009), “Một số vấn đề về khủng hoảng kinh tế thế giới và

giải pháp chống suy thoái kinh tế của Việt Nam”, Hội thảo khoa học quốc gia

“Ngăn chặn suy giảm Kinh tế Việt Nam”, ĐHKTQD, Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Minh (2007), An ninh kinh tế quốc gia rồi sẽ đi về đâu? Tạp chí

Tia sáng, số 13.

27. Vũ Quang Minh (2014), Về an ninh kinh tế, in trong trong “Một số vấn đề về an

ninh kinh tế thời kỳ hội nhập”, NXB Công an nhân dân.

28. Nguyễn Quế Nga, 2009, An ninh lương thực ở Tiểu vùng sông Mekong mở rộng

dưới tác động của biến đổi khí hậu, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị

thế giới, số 1 (153)

29. Phạm Quý Ngọ (2011), Công tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong

tình hình mới, in trong An ninh kinh tế và nền kinh tế thị trường ở Việt Nam,

NXB Công an nhân dân.

30. Kim Ngọc và Hồng Nhung (2001), "Vấn đề an ninh kinh tế ở Indonesia", trong

Viện Kinh tế thế giới - Trung tâm Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, chủ biên,

An ninh kinh tế ASEAN và vai trò của Nhật Bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, tr. 185 - 205.

179

31. Lê Xuân Nghĩa (2005),Thiết lập hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm khủng hoảng tài

chính, tiền tệ, ngân hàng, Tạp chí Tài chính, 12.

32. Phùng Xuân Nhạ (2001), "An ninh kinh tế của Malaixia", Viện Kinh tế thế giới

- Trung tâm Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, An ninh kinh tế ASEAN và vai

trò của Nhật Bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 206 - 226.

33. Nguyễn Nhâm (2011), Vị thế Việt Nam trong bảo đảm an ninh lương thực thế

giới, in trong An ninh kinh tế và nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Công

An nhân dân.

34. Nguyễn Thiện Nhân (2002), “Khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á 1997 –

1999. Nguyên nhân, hậu quả và bài học với Việt Nam”, Tạp chí phát triển kinh

tế. 12/2002. tr. 17-27.

35. Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, NXB

Đà Nẵng.

36. Phùng Hữu Phú và cộng sự (đồng chủ biên) (2016), Một số vấn đề lý luận – thực

tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua

30 năm Đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, trang 187.

37. Tào Hữu Phùng và các cộng sự (2003), Bảo đảm an ninh tài chính Việt Nam

trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài cấp Nhà nước, Viện nghiên cứu

Tài chính.

38. Lê Tất Phương (2009), “Kinh nghiệm quốc tế về công tác cảnh báo sớm kinh tế

và bài học có thể rút ra cho Việt Nam”, Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế-

xã hội Quốc gia, Hà Nội.

39. Văn Quang (2003), An ninh kinh tế trong toàn cầu hoá kinh tế, Tạp chí Cộng

sản, số 22, 23.

40. Bùi Ngọc Quỵnh (2012), Vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình Việt

Nam hội nhập WTO, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 4

180

41. Nguyễn Ngọc Sơn (2009), “Tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn

cầu: Kinh nghiệm của các nước và khuyến nghị cho Việt Nam”, Tạp chí kinh tế

phát triển, 150 (12).

42. Trần Mạnh Tảo (2014), An ninh lương thực thế giới và những hàm ý cho Việt

Nam, tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới, số 11 (223).

43. Tạ Ngọc Tấn, Phạm Thành Dung, Đoàn Minh Huấn (đồng chủ biên) (2015), An

ninh phi truyền thống: Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn, NXB Lý luận chính

trị, Hà Nội

44. Võ Trí Thành và Lê Xuân Sang (đồng chủ biên) (2004) Phát triển và hòan thiện

thị trường vốn và thị trường tiền tệ ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh

tế trung ương

45. Nguyễn Trường Thọ (2015), Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia trên lĩnh vực

kinh tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo “Một số vấn đề về

anh ninh kinh tế trong thời kỳ Hội nhập”. Hà Nội.

46. Thương vụ Việt Nam tại Hàn Quốc (2009), Báo cáo về tác động của cuộc khủng

hoảng kinh tế 2008-2009 tới tình hình thương mại Hàn Quốc và các biện pháp

ứng phó, Seoul.

47. Trần Trọng Toàn (2014), Vài nét về vấn đề an ninh kinh tế, in trong “Một số

vấn đề về an ninh kinh tế thời kỳ hội nhập”, NXB Công an nhân dân.

48. Phạm Quốc Trụ (2001), Quan niệm về an ninh quốc gia dưới tác động của xu

thế toàn cầu hoá, Tạp chí Cộng sản, số 12.

49. Phạm Quốc Trụ (2014), Bối cảnh quốc tế và vấn đề an ninh kinh tế của các quốc

gia. Kỷ yếu Hội thảo “Một số vấn đề về anh ninh kinh tế trong thời kỳ Hội

nhập”. Hà Nội.

50. Nguyễn Anh Tuấn (2011), Một số giải pháp về an ninh năng lượng Việt Nam.

Viện Năng lượng - Bộ Công thương. http://ievn.com.vn/

181

51. Phạm Thị Minh Uyên, Phùng Danh Thắng, Phan Thế Công (2015), Tự do hoá tài

chính và nhận diện các nguy cơ từ tự do hoá tài chính trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “An ninh tài

chính tiền tệ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc

tế”, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.

52. Viện Năng lượng Việt Nam (2011), Báo cáo Quy hoạch điện Quốc gia giai

đoạn 2011 – 2020 có xét đến 2030, Chính phủ phê duyệt 7/2011

53. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2008), Đảm bảo an ninh lương

thực trên thế giới và ở Việt Nam, Trung tâm Thông tin – Tư liệu.

54. Lục Trung Vĩ (chủ biên), (2005), On non-traditional security, NXB Thời sự,

Trung Quốc.

55. Wendy Lausen (2013), Trữ lượng dầu khí ở Biển Đông và thực trạng khai thác –

cơ hội hay thách thức? Tạp chí Nghiên cứu biển Đông, số tháng 9

56. Wu Hong Ying (2012), An ninh tài nguyên nước trong an ninh quốc gia, in

trong Tạ Ngọc Tấn (biên soạn), An ninh quốc gia, những vấn đề an ninh phi

truyền thống, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.

Tiếng Anh

57. Brown M. A., Yu Wang, Benjamin K. Sovacool, Anthony Louis D’Agostino

(2014). Forty years of energy security trends: A comparative assessment of 22

industrialized countries. Energy Research & Social Science 4, 64-77.

58. Chasek P. S. (2000), The Global Environment In the Twenty-first Century:

Prospect for International Cooperation, The United Nation University.

59. Chen, H., Peng, W., and Shu, C. (2009), The Potential of the Renminbi as an

International Currency, Working paper.

182

60. Cheng Joseph Y. S. (2008). A Chinese View of China’s Energy Security.

Journal of Contemporary China, 17(55), 297-317.

61. Cho, Y.J. (2002), Financial Crisis in Korea: Causes and Challenges, IMF

Discussion Paper.

62. Cherp A., Jewell J. (2014). The concept of energy security: Beyond the four As.

Energy Policy75, 415-421.

63. Coq C. L., Paltseva E. (2009). Measuring the security of external energy supply

in the European Union. Energy Policy, 37(11), 4474-4481.

64. Delhaise, P.F. (1998), Asia in Crisis: The Implosion of the Banking and Finance

System, John Wiley & Sons, Singapore.

65. Harris P. G. (2001), The Environment, International Relation, and U.S Foreign

Policy, Georgetown University Press, Washington, D.C

66. IEA: World Energy Outlook 2002, http://www.iea.org

67. IMF, Global Financial Stability Report. Various years.

68. Ito, T. (2001), Growth, Crisis, and the Future of Economic Recovery in East

Asia, in Stiglitz, J. and Yusuf, S. (eds), Rethinking the East Asian Miracle,

World Bank and Oxford University Press

69. Kahler M. (2004), Economic Security in an Era of Globalization – Definition

and Provision, The Pacific Reviewer, Vol. 17, Issue 4

70. Kaminsky G, Lidonzo S, Reinhart CM (1997), Leading Indicators of Currency

Crises, IMF staff papers, Vol.45.

71. Kruyt, Bert, van Vuuren, D.P., de Vries, H.J.M., Groenenberg, H. (2009).

Indicators for energy security. Energy Policy, 37 (6), 2166-2181.

183

72. Kwark Noh-Sun, Rhee Chanyong, Yang Doo-Yong (2008), Ten years after the

Korean crisis – Crisis, Adjustment and Long-run economic growth, Korea

Institute for International Economic Policy. pp. 296-334.

73. Landsberg, M.H. and Paul Burkett (2001), Economic crisis and restructuring in

South Korea. Beyond the free market - Statist debate, Critical Asian Studies. pp.

403-430.

74. Löschel A., Ulf Moslener, Dirk T.G. Rübbelke (2010). Indicators of energy

security in industrialised countries. Energy Policy, 38(4), 1665-1671.

75. McKibbin, W., and Martin, W. (1999), The East Asian Crisis: Investigating

Causes and Policy Responses, WB Working Paper, World Bank

76. Myers N. (1993), Ultimate Security: the Environment Basis of Political

Stability, W.W.Norton&Company, New York

77. Nabi, I. and Shivakumar, J. (2001), Back from the Brink: Thailand’s Response

to the 1997 Economic Crisis, Directions in Development Papers, World Bank.

78. Neu C.R., Charles Wolf, Jr, 1994, The economic dimensions of National

Security, National Defense Research Division

79. Obstfeld, M. (1994), The Logic of Currency Crises, NBER Working Paper No

4640.

80. Park Won-Am (2002), “Indicators and Analysis of Vulnerability to Economic

crisis: Korea”, EADN Regional Project on Indicators and Analysis of

Vulnerabilities to Economic crisis.

81. Park, Y.C., and Bae, K.H. (2002), Financial Liberalization and Economic

Integration in East Asia, Paper presented at the PECC Finance Forum

Conference „Issues and Prospects for Regional Cooperation for Financial

Stability and Development‟, Honolulu, August 11-13.

184

82. Pomerleano, M. (1998), Corporate Finance Lessons from the East Asian Crisis,

World Bank ViewPoint No. 17815.

83. Ren J., Sovacool Benjamin K. (2014). Enhancing Chinas energy security:

Determining influential factors and effective strategic measures. Energy

Conversion and Management 88, 589-597

84. Sheila R. Ronis (2011), Economic Security – Neglected Dimension of National

Security, Institute for National Strategic Studies, National Defense University

85. Senkus và Raczkowski (2013), Economic Security in the Context of

Sustainability, Rural Development, Vol.6, Book 1, ss 454-462

86. Sovacool Benjamin K. (2011), Evaluating energy security in the Asia pacific:

Towards a more comprehensive approach. Energy Policy, 39, 7472-7479.

87. Udovic (2006), Economic Security, Large and small states in enlarged European

Union, Center for International Relations, Ljubljana

88. Vo Tri Thanh, Dinh Hien Minh, Nguyen Hong Yen and Tran Thi Ngoc Diep

(2003), An Assessment of the Risks Associated with Vietnam’s Balance of

Payments, Report to the Regional Research Project on “Indicators and Analyses

of Vulnerabilities to Economic Crises”, Published in EADN Regional Project on

Indicators and Analyses of Vulnerabilities to Economic Crises, TDRI, Bangkok.

89. Vo Tri Thanh, Serey Chea, Sarat Ouk, and Le Xuan Sang (2007), How Have the

CLV Been Exposed to Financial Vulnerabilities?, Paper presented at the

conference “Ten Years after the Asian Crisis: Vulnerabilities of East Asia”,

Bangkok.

90. Winzer C. (2012). Conceptualizing energy security. Energy Policy 46, 36-48

91. WEF (World Economic Forum), Financial Development Report 2008-2009

185

92. Ye Wei-ping (2010), Exploring the Definition of National Economic Security

and its Evaluation Index System, Journal of Renmin University of China, V(4):

93-98

186