BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------0------
ĐỖ DUY HƯNG
ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO CHÍ QUÂN ĐỘI
ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG
CỦA QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ------0------
ĐỖ DUY HƯNG
ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO CHÍ QUÂN ĐỘI ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CỦA QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ngành: Báo chí học
Mã số: 932 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. TẠ NGỌC TẤN
HÀ NỘI – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số
liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ
ĐỖ DUY HƯNG
MỤC LỤC
Trang
1
10
37
MỞ ĐẦU TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO CHÍ QUÂN ĐỘI ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CỦA QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1 Khái quát về báo chí quân đội; về báo Quân đội nhân dân và 37
kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam
1.2 Lý luận chung về nhận thức chính trị - tư tưởng của quân 47
nhân trong giai đoạn hiện nay
54
70
1.3 Những vấn đề lý luận chung về ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân Chương 2: NỘI DUNG, HÌNH THỨC ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO CHÍ QUÂN ĐỘI ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CỦA QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Nhận thức của cơ quan báo chí quân đội về định hướng nhận 70
thức chính trị - tư tưởng của quân nhân
2.2 Nội dung thông tin định hướng nhận thức chính trị - tư tưởng 75
cho quân nhân
2.3 Hình thức và phương thức chuyển tải thông tin định hướng 90
nhận thức chính trị - tư tưởng cho quân nhân
98
Chương 3: HIỆU QUẢ TIẾP NHẬN THÔNG TIN TỪ BÁO CHÍ QUÂN ĐỘI VỀ NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CỦA QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1 Các yếu tố tác động đến nhận thức chính trị - tư tưởng của 98
quân nhân trong giai đoạn hiện nay
3.2 Nhu cầu, thói quen tiếp nhận thông tin định hướng chính trị - tư 106
tưởng từ báo chí quân đội của quân nhân
112
3.3 Đánh giá hiệu quả tiếp nhận thông tin từ báo chí quân đội về nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong giai đoạn hiện nay
124
Chương 4: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO CHÍ QUÂN ĐỘI ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CỦA QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 4.1 Dự báo tình hình ảnh hưởng đến nhận thức chính trị - tư 124
tưởng của quân nhân
135
4.2 Một số giải pháp nâng cao sự ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với công tác giáo dục nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 150 153 154 165
CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt QĐND QPVN PT-TH Viết đầy đủ Quân đội nhân dân Quốc phòng Việt Nam Phát thanh và Truyền hình
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ngày nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa có bước phát triển mới cả về nội dung, tính chất, phạm vi, phương thức
hoạt động và đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao. Quân đội ta với tư cách
là một lực lượng vũ trang, một công cụ đặc biệt của Đảng, của giai cấp công
nhân Việt Nam, lực lượng nòng cốt để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
tiến hành chiến tranh nhân dân, không những phải nâng cao sức chiến đấu,
sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở các quy mô cường độ khác nhau,
bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nền hòa bình cho Tổ
quốc, mà còn phải làm tròn trách nhiệm đội quân công tác, tham gia giải quyết
các vấn đề của đời sống chính trị - xã hội của đất nước, phòng chống có hiệu quả
chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhất là phòng chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Cán bộ sỹ quan quân đội là nhân tố quyết định sức mạnh của quân đội,
là lực lượng nòng cốt để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa
bình, ổn định chính trị đất nước. Vì vậy, công tác đào tạo cán bộ quân đội nói
chung và vai trò của việc tuyên truyền qua tài liệu, sách, báo, tạp chí luôn có
vị trí rất quan trọng và là yêu cầu cấp thiết, khách quan trong thời kỳ hiện nay.
Gắn liền với sự trưởng thành, phát triển của Quân đội suốt mấy chục
năm qua, báo chí quân đội là một bộ phận hợp thành báo chí cách mạng Việt
Nam, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng trong mỗi thời
kỳ. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực
tiếp là Tổng cục Chính trị, báo chí quân đội luôn giữ vững định hướng chính
trị, tích cực tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và các hoạt động của lực
lượng vũ trang nhân dân theo tôn chỉ, mục đích của từng cơ quan báo chí.
2
Cùng với đó, báo chí quân đội còn tuyên truyền về công cuộc đổi mới, xây
dựng đất nước trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại trong bối
cảnh hội nhập quốc tế; tuyên truyền về công tác xây dựng Đảng, tích cực phát
hiện, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến, v.v. Đồng thời, báo chí
quân đội là lực lượng xung kích, nòng cốt, vũ khí sắc bén tuyên truyền, đấu
tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, chống tiêu cực, tham nhũng,
lãng phí, bảo vệ trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội và lợi ích chính
đáng của nhân dân, góp phần định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận xã
hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về thông tin của bộ đội và nhân dân.
Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết của Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính
trị, bên cạnh kết quả đạt được, công tác thông tin tuyên truyền của báo chí
quân đội còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Đó là, hình thức thông tin, tuyên
truyền chưa thật phong phú, chưa thu hút được nhiều bạn đọc; nội dung tuyên
truyền có mặt còn giản đơn, chưa cập nhật và bám sát thực tiễn đời sống của
bộ đội và nhân dân. Sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí trong quân đội,
giữa cơ quan báo chí quân đội với các cơ quan chức năng chỉ đạo, quản lý báo
chí chưa thường xuyên, chặt chẽ trong đấu tranh với các quan điểm sai trái,
thù địch và trước những sự kiện phức tạp, nhạy cảm. Công tác thông tin,
tuyên truyền, định hướng dư luận bằng tiếng nước ngoài trên các báo, tạp chí
điện tử chưa được quan tâm đúng mức, nội dung, hình thức chưa phong phú,
sức thuyết phục chưa cao, chưa đến được với đông đảo bạn đọc trong và
ngoài nước, v.v.
Mặt khác, thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội
chính trị tiếp tục tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng trên tất cả
các lĩnh vực, trong đó chống phá trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa là “mũi đột
phá”, xuyên tạc về lý luận, gây hoang mang trong tư tưởng, gây hoài nghi về
mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, làm giảm sút lòng tin của các
tầng lớp nhân dân Việt Nam vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng
3
thực hiện mục tiêu “phi chính trị hóa” Quân đội và “vô hiệu hóa” lực lượng
vũ trang thông qua chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Ngoài ra, mặt trái của nền kinh tế thị trường tác
động tiêu cực đến đời sống của bộ đội. Những yếu tố đó có tác động không
nhỏ tới nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân, trong đó có các học viên
đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội.
Những hạn chế, tác động kể trên cần được tiếp tục nghiên cứu cơ bản,
hệ thống, chuyên sâu, làm cơ sở cho việc nhận thức đúng đắn và tổ chức
thông tin tuyên truyền phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” một cách
hiệu quả ở quân đội và các nhà trường quân đội hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài "Ảnh hưởng của
báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân
trong giai đoạn hiện nay " làm đề tài nghiên cứu của mình theo chuyên ngành
báo chí học, nhằm nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, điều kiện, hiệu quả tác
động của báo chí quân đội tác động đến nhận thức chính trị - tư tưởng của
quân nhân và để tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng của báo chí
quân đội.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực tế, đánh giá về ảnh hưởng của báo
chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong giai
đoạn hiện nay qua khảo sát học viên đào tạo cấp phân đội để đề xuất quan điểm,
giải pháp nâng cao hiệu quả tác động của báo chí quân đội đối với quân nhân ở các
nhà trường quân đội nước ta hiện nay, góp phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ quân đội đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, thực sự là lực lượng nòng cốt
chính trị, tư tưởng của quân đội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu xây dựng khung lý thuyết và công cụ để khảo sát ảnh
4
hưởng của báo chí quân đội đến nhận thức chính trị - tư tưởng của các học
viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội nước ta hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng và rút ra tính chất, đặc điểm sự tác động
của các nhân tố, điều kiện chi phối chất lượng hiệu quả ảnh hưởng của báo chí
quân đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của các học viên đào tạo sĩ
quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội nước ta hiện nay.
- Dự báo những xu hướng và đề xuất giải pháp nâng cao sự ảnh hưởng
của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của các học viên đào
tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu
Sự ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư
tưởng của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam qua khảo sát học viên đào tạo
cấp phân đội.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những yếu tố của báo chí quân đội tác động tới quá trình
tiếp nhận và thay đổi nhận thức chính trị - tư tưởng của học viên đào tạo cán
bộ cấp phân đội, trình độ đại học các nhà trường quân đội ở nước ta hiện nay.
Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát và kế thừa kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học đã công bố có liên quan trực tiếp đến báo chí
quân đội và học viên đào tạo cán bộ cấp phân đội, trình độ đại học ở nhà
trường trong quân đội, đại diện cho 4 khối chuyên môn quân sự trong quân
đội là tham mưu, chính trị, hậu cần, kĩ thuật (khảo sát Trường Sĩ quan Lục
quân 1, Trường Sĩ quan Chính trị, Học viện Hậu cần, Học viện Kĩ thuật
Quân sự).
Về đối tượng quân nhân, tác giả khảo sát học viên đào tạo cán bộ cấp
phân đội. Bởi vì, học viên cấp phân đội, sau khi tốt nghiệp trở thành sỹ
quan công tác ở các đơn vị trong toàn quân theo chuyên ngành đã học. Với
5
tuổi đời còn trẻ, thời gian phục vụ quân đội còn rất dài và trở thành đội ngũ
kế cận thế hệ cán bộ, sỹ quan đi trước, họ sẽ là lớp cán bộ nòng cốt huấn
luyện, giáo dục chiến sỹ trong toàn quân. Mặt khác, trong quá trình học tập
ở nhà trường, học viên đang định hình về nhận thức chính trị - tư tưởng và
là giới trẻ tiếp xúc, tương tác nhiều với phương tiện truyền thông, mạng xã
hội. Do đó, tác giả chọn mẫu khảo sát điển hình là học viên cấp phân đội
của các trường quân sự Việt Nam hiện nay, vừa có ý nghĩa đại diện bộ
phận chiến lược của quân nhân trong điều kiện mới, vừa đáp ứng yêu cầu
cấp bách việc nâng cao chất lượng chính trị - tư tưởng trong đào tạo sỹ
quan quân đội hiện nay.
Về báo chí quân đội, luận án tập trung khảo sát Báo Quân đội nhân
dân (báo in và điện tử), Kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam. Đây là
những kênh thông tin, dưới sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, trực tiếp
là Tổng cục Chính trị, đại diện cho các loại hình báo chí trong Quân đội tác
động đến quân nhân trong toàn quân.
Luận án khảo sát báo chí quân đội và học viên đào tạo cán bộ cấp
phân đội trong thời gian 2 năm, từ đầu năm 2016 đến hết năm 2017.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Báo chí quân đội là một kênh quan trọng trong công tác giáo dục, nâng
cao nhận thức chính trị - tư tưởng cho quân nhân, nhận thức và thực tiễn công
tác báo chí đã thể hiện đúng quan điểm đó chưa?
Ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng cho quân nhân trong điều kiện hiện nay ra sao, đâu là thành công và
hạn chế, đâu là nguyên nhân của thành công và hạn chế?
Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả tác động của báo chí quân
đội đối với công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân?
Giải pháp, điều kiện để nâng cao chất lượng ảnh hưởng của báo chí
quân đội đối với công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân trong
6
bối cảnh hiện nay là gì?
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí, về giai cấp và
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng gắn với
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng căn cứ vào
các lý thuyết báo chí hiện đại làm cơ sở lý luận cho đề tài của mình.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích và
tổng hợp, hệ thống, lịch sử - lôgíc, tổng kết thực tiễn, phỏng vấn, điều tra xã
hội học. Cụ thể như sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả hướng vào thu thập và xử lý
những thông tin, cơ sở lý thuyết liên quan đến hệ thống báo chí quân đội và
nhận thức chính trị tư tưởng của quân nhân, cụ thể như: Thành tựu lý thuyết
đã đạt được liên quan trực tiếp đến chủ đề nghiên cứu; các kết quả nghiên cứu
cụ thể đã công bố trên các ấn phẩm; số liệu thống kê; chủ trương, chính sách liên
quan đến nội dung nghiên cứu; nguồn tài liệu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Trên cơ sở phân tích hệ thống văn
bản, báo cáo tổng kết thực tiễn, các tác phẩm báo chí, ý kiến trưng cầu về sự
tác động của báo chí quân đội tới nhận thức tư tưởng của cán bộ, chiến sỹ
trong toàn quân, luận án tổng hợp vấn đề, rút ra những kết luận, nhận định về
những thành công và hạn chế trong thông tin của báo chí quân đội đối với sự
trau dồi phẩm chất đạo đức, giữ vững bản lĩnh chính trị của quân nhân trong
giai đoạn xã hội hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh có nhiều biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và các thế lực thù địch tăng cường sự
chống phá quyết liệt trên mọi phương diện của cuộc sống.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử-logic: Trên cơ sở phân tích vấn đề
7
theo lịch sử vận động, dùng để tìm nguồn gốc phát sinh (nguồn gốc xuất xứ,
hoàn cảnh nảy sinh), quá trình phát triển và biến hóa (điều kiện, hoàn cảnh,
không gian, thời gian…. có ảnh hưởng) để phát hiện bản chất và quy luật vận
động của sự ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị của
quân nhân..
Nghiên cứu lịch sử-logic vấn đề là cơ sở để phát hiện những thành tựu
lý thuyết đã có nhằm thừa kế, bổ sung và phát triển các lý thuyết đó, hoặc
phát hiện những thiếu sót, không hoàn chỉnh trong các tài liệu đã có… từ đó
tìm thấy chỗ đứng của đề tài nghiên cứu của từng cá nhân.
Phương pháp phỏng vấn: Tác giả phỏng vấn lãnh đạo cơ quan báo chí,
nhà báo, các chuyên gia trong lĩnh vực báo chí, truyền thông (16 người), đội
ngũ chính trị viên tiểu đoàn và học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội (40
người), để phát hiện những nhận định, đánh giá nhận thức chính trị - tư tưởng
của đội ngũ thuộc cấp khi tuyên truyền và tiếp nhận thông tin từ báo chí quân
đội. Tất cả các tư liệu đều được xử lý theo một chuẩn, một hệ thống để tìm ra
được các ý kiến gần nhau hoặc trùng nhau của đa số chuyên gia. Những ý kiến
đó là những cơ sở tin cậy để đi đến các kết luận chung, những luận điểm về vấn
đề nghiên cứu.
Phương pháp điều tra bằng phiếu: tác giả phát phiếu điều tra với số
lượng 500 phiếu (mỗi nhà trường 125 phiếu), với đối tượng điều tra là học viên
đào tạo cấp phân đội ở 4 học viện, trường sĩ quan quân đội; 150 phiếu với nhà
báo nhằm xây dựng thang số có ý nghĩa định lượng cho nghiên cứu.
Phương pháp hệ thống: Đó là cơ sở để từ những thống kê số lượng, tần
suất và các thang số nghiên cứu tổng hợp đánh giá nội dung, hình thức tin bài
viết về giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội; mức độ, cách thức
tiếp nhận và chuyển hóa nhận thức tư tưởng của quân nhân, qua sự đánh giá
những yếu tố trên để rút ra những kiến nghị, giải pháp cho báo chí quân đội
trong việc tuyên truyên, vạch rõ, ngăn chặn những thủ đoạn âm mưu chống
8
phá của các thế thù địch và biểu hiện tiêu cực bởi sự tác động của mặt trái
kinh tế thị trường, tình hình phức tạp trong và ngoài nước. Đồng thời, tuyên
tuyền và khẳng định giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; giáo dục truyền thống của dân tộc, quân đội, đơn vị.
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Đó là cơ sở để có thể đánh giá chất
lượng, hiệu quả quá trình thực hiện các hoạt động trên thực tế của công tác
thông tin, tuyên truyền trên báo chí quân đội, công tác tổ chức, hướng dẫn
quân nhân tiếp nhận thông tin trên báo chí quân đội gắn với mục đích nâng
cao nhận thức chính trị - tư tưởng.
6. Đóng góp khoa học của luận án
Nghiên cứu lý luận về ảnh hưởng của báo chí quân đội đến nhận thức
chính trị - tư tưởng của quân nhân ở các nhà trường quân đội, có ý nghĩa như
một nghiên cứu trường hợp cụ thể trong điều kiện hiện nay. Kết quả nghiên cứu của
đề tài có thể là tài liệu tham khảo về nội dung và phương pháp nghiên cứu làm việc
tương tự.
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần phát triển lý luận báo chí truyền
thông trong mối quan hệ với công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân
nhân - một đối tượng đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi mà những diễn
biến chính trị kinh tế trên thế giới ngày càng phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp và
mạnh mẽ trên đất nước ta.
7. Ý nghĩa của luận án
* Về mặt lý luận
Phân tích, làm rõ sự ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức
chính trị - tư tưởng của học viên các nhà trường quân đội ở nước ta hiện nay, góp
phần củng cố, khẳng định quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp và đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc, kiên quyết làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình",
9
"phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch.
* Về thực tiễn
Kết quả của luận án có thể tham khảo cho các cơ quan có trách nhiệm
trong việc hoạch định chính sách nhằm phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong quân đội và xã hội. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo
phục vụ công tác nghiên cứu sự phát triển về lý luận và thực tiễn nghiệp vụ
báo chí trong nước nói chung, trong Quân đội nói riêng.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 4 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của báo chí quân đội
đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2: Nội dung, hình thức ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với
nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Hiệu quả tiếp nhận thông tin từ báo chí quân đội về
nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong giai đoạn hiện nay.
Chương 4: Dự báo tình hình và một số giải pháp nâng cao sự ảnh
hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của quân
nhân trong giai đoạn hiện nay.
10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng
của quân nhân là sự định hướng, quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách,
quan điểm của Đảng, Nhà nước và Quân đội thể hiện trên nội dung tác phẩm
báo chí, tác động tới nhận thức, tư tưởng của quân nhân, để họ luôn “Trung
với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Ngoài sự quán triệt của chỉ huy các
cấp, giáo dục - đào tạo ở nhà trường, định hướng chính trị - tư tưởng của báo
chí quân đội là một trong những phương thức giáo dục chính trị - tư tưởng
hiệu quả đối với quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Do đó, trên
cơ sở nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài, tác giả tổng hợp thành những
vấn đề sau:
1. Công trình nghiên cứu khoa học sự ảnh hưởng, tác động của báo
chí đối với nhận thức, tư tưởng của công chúng
Trải qua một quá trình cách mạng lâu dài, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo nhân dân thực hiện những nhiệm vụ to lớn và phức tạp. Phù hợp với
tính chất của các nhiệm vụ cách mạng đó, trong những điều kiện lịch sử cụ
thể, nội dung và phương thức công tác tư tưởng cũng có sự biến đổi nhất định.
Tuy nhiên, nhận thức của Đảng về vai trò, vị trí công tác tư tưởng trong toàn
bộ hoạt động của mình là nhất quán. Công tác tư tưởng luôn luôn được coi là
một lĩnh vực hoạt động có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác của Đảng.
Với khả năng tác động một cách rộng lớn nhanh chóng và mạnh mẽ
vào toàn bộ xã hội, hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng có vai
trò và ý nghĩa hết sức to lớn trong công tác tư tưởng. Việc giáo dục lý tưởng,
giáo dục chính trị, xây dựng lối sống mới luôn gắn liền với việc kế thừa và phát
huy những giá trị tích cực trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Đấu
tranh với những âm mưu, những luận điệu phản tuyên truyền chống Đảng,
11
chống chế độ là một nội dung và mục đích quan trọng của công tác tư tưởng.
Bài báo “Vai trò báo chí trong hoạt động chống diễn biến hòa bình về tư
tưởng văn hóa” của PGS.TS Tạ Ngọc Tấn – Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền
số 5.1995. Chiến lược “diễn biến hòa bình” sử dụng các phương tiện thông tin
đại chúng, tuyên truyền và các sản phẩm vật chất khác tác động vào ý thức con
người làm bào mòn những giá trị tinh thần tích cực theo hướng phù hợp với
mục tiêu đặt ra của các thế lực thù địch. Sự nguy hại lớn hơn là ở chỗ những
tác động đó nhằm vào những người trẻ tuổi, lớp người không được thử thách
chiến tranh, chưa rèn luyện thực tiễn, nhạy cảm với “thị hiếu” mới. Tác giả
khẳng định việc đấu tranh chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tư tưởng -
văn hóa là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với công cuộc xây dựng đất nước,
vô hiệu hóa sự tác động có mục đích của kẻ thù vào ý thức con người mới có
khả năng giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Tác giả đã đưa ra ba phương
hướng giải quyết vấn đề này. Thứ nhất, thông tin kịp thời cho xã hội về các sự
kiện, hiện tượng có liên quan đến nhận thức, thị hiếu, thẩm mỹ và tình cảm của
nhân dân. Thứ hai, báo chí giáo dục để hướng tới hình thành những nền tảng ý
thức, tư tưởng, tình cảm vững chắc trong cư dân, cho họ có cơ sở luôn hướng
về phía những giá trị tốt đẹp. Thứ ba, vạch trần kịp thời những âm mưu, thủ
đoạn chính trị, những luận điệu, hành vi chống phá của các thế lực thù địch. Để
thực hiện được những phương hướng trên, việc cần thiết và có ý nghĩa quan
trọng là phát triển một hệ thống báo chí mạnh, đa dạng, có khả năng không chỉ
đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhu cầu thông tin phong phú của xã hội mà còn
phải dần tạo được một vai trò nhất định trong giao lưu thông tin quốc tế.
Bài báo “Khuynh hướng chính trị tư tưởng trong báo chí” của tác giả
PGS, TS Tạ Ngọc Tấn, được đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số
8.1996. Bài báo trình bày khuynh hướng chính trị - tư tưởng tồn tại trong báo
chí như một hiện tượng khách quan, không thể phủ nhận; được biểu hiện
trong từng tác phẩm, trong từng sản phẩm báo chí cụ thể một cách tế nhị.
Trong quá trình chủ động hình thành khuynh hướng chính trị - tư tưởng, yếu
12
tố con người là chủ đạo. Do đó việc đào tạo bồi dưỡng, chuẩn bị, lựa chọn, bố
trí cán bộ là vấn đề quyết định, rất quan trọng.
Đề tài “Tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống tích cực
của thanh niên sinh viên hiện nay” của PGS. TS Tạ Ngọc Tấn (Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, năm 1998), làm rõ những biểu hiện, chiều hướng vận
động của lối sống thanh niên sinh viên hiện nay, xác định được vai trò ảnh
hưởng của các yếu tố khác nhau trong đời sống xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng
của báo chí đối với những diễn biến phức tạp trong lối sống của thanh niên
sinh viên; xác định những cơ sở khoa học, thực tiễn và dựa vào đó để hình
thành những giải pháp đồng bộ nhằm huy động, kiểm soát và sử dụng hiệu
quả toàn bộ hệ thống báo chí vào việc giáo dục, hình thành lối sống tích cực
cho thanh niên sinh viên hiện nay.
Cuốn “Mác-Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh bàn về báo chí xuất bản”
(năm 2004) cung cấp cho bạn đọc tài liệu nghiên cứu, học tập tư tưởng của
Mác- Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh về báo chí, xuất bản. Nhà Xuất bản
Chính trị quốc gia phối hợp cùng Vụ Báo chí, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương tổ chức nghiên cứu, tuyển chọn và xuất bản cuốn sách Mác-Ăngghen,
Lênin, Hồ Chí Minh bàn về báo chí, xuất bản, do PGS.TS. Vũ Duy Thông
chủ biên. C.Mác-Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh là những lãnh tụ vĩ
đại của giai cấp vô sản đã bắt đầu cuộc đời hoạt động của mình bằng tiếng nói
đấu tranh của báo chí. Bằng những bài báo, tác phẩm của mình, các nhà cách
mạng vô sản đã tiến hành luận chiến bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng
nhân dân lao động, bác bỏ và đánh bại các luận điệu của thế lực thù địch. Báo
chí cách mạng thực sự là vũ khí chiến đấu của giai cấp công nhân, là cơ quan
tuyên truyền, tham gia vào việc tổ chức và phát triển xã hội bằng hoạt động
ngôn luận của mình, với mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, vì
sự tiến bộ và giải phóng con người.
Cuốn sách “Hồ Chí Minh về báo chí” do tác giả Tạ Ngọc Tấn tuyển
chọn và giới thiệu các bài nói, bài viết về vấn đề báo chí của Chủ tịch Hồ Chí
13
Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Cuốn sách không chỉ có ích
đối với nhà báo, các cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí, mà còn giúp cho bạn
đọc có thêm tư liệu học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
báo chí trong giai đoạn mới. (Nxb Chính trị quốc gia, 2004)
Cuốn sách “Những vấn đề của báo chí hiện đại” của tác giả Hoàng
Đình Cúc, Phạm Dũng (Nxb Lý luận chính trị, năm 2007). Cuốn sách tập hợp
các bài nghiên cứu của hai tác giả, đề cập đến 19 vấn đề đang được đặt ra
trong các mặt hoạt động của báo chí ở nước ta từ lý luận đến thực tiễn và
công tác giảng dạy, nghiên cứu, đào tạo... Cuốn sách gồm hai phần: Phần một,
nghiên cứu những vấn đề chung của báo chí; Phần hai, nghiên cứu về nghề
báo, nhà báo và tác phẩm báo chí.
“Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở
các nước tư bản phát triển” là cuốn sách do TS Lưu Văn An chủ biên (năm
2008); đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện, dựa trên cơ sở phân
tích chặt chẽ, đưa dẫn chứng một cách phù hợp, làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận cũng như vai trò của truyền thông đại chúng trong thực tiễn hệ thống tổ
chức quyền lực chính trị ở một số nước tư bản phát triển; đồng thời đưa ra
những đánh giá mang tính khách quan về những giá trị và hạn chế của truyền
thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản
phát triển; từ đó rút ra ý nghĩa, những giá trị phù hợp nhằm phát triển truyền
thông đại chúng ở Việt Nam.
Đề tài “Vai trò của báo chí và dư luận xã hội trong cuộc đấu tranh
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay” của tác giả Lương Khắc Hiếu (năm
2009). Đề tài nghiên cứu một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về báo chí,
dư luận xã hội với cuộc đấu tranh chống tham nhũng; khảo sát, đánh giá thực
trạng về vai trò của báo chí trong việc tạo lập dư luận xã hội đấu tranh chống
tham nhũng ở nước ta; đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của
báo chí trong việc tạo lập dư luận xã hội đấu tranh chống tham nhũng ở nước
ta hiện nay.
14
Luận án Tiến sĩ Truyền thông đại chúng của tác giả Đỗ Chí Nghĩa (2010)
viết về “Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận xã hội”, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội. Luận án nghiên cứu, làm rõ lý luận về mối quan
hệ giữa báo chí và dư luận xã hội; điều kiện, bối cảnh tình hình đất nước và
quốc tế đặt ra với hoạt động báo chí nói chung, với việc định hướng dư luận
xã hội của báo chí nói riêng; nghiên cứu đánh giá mức độ tác động, khả năng
định hướng dư luận xã hội của báo chí thông qua khảo sát công chúng khu vực
Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ; nhìn nhận những ưu, nhược điểm và chỉ ra những
bài học kinh nghiệm, những vấn đề cần tiếp tục giải quyết, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả định hướng dư luận xã hội của báo chí.
Cuốn sách “Quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí” do tác giả Lê Văn Toan chủ
biên (năm 2011, Nxb Chính trị quốc gia) trình bày các quan điểm, cách nhìn
nhận về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của báo chí, tính nhân dân dân, tính tự
do, tổ chức tờ báo, phương pháp làm báo, báo chí với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Giáo trình “Báo chí và dư luận xã hội” của tác giả Nguyễn Văn Dững
(Nxb Lao động, 396tr, năm 2011). Nội dung cuốn sách gồm 04 chương, đề
cập đến những vấn đề bản chất dư luận xã hội, bản chất hoạt động báo chí.
Tác giả cung cấp những khái niệm, cấu trúc, một số dạng biểu thức của dư
luận xã hội, chủ thể và khách thể, quá trình hình thành, chức năng của dư luận
xã hội; phân tích khái niệm, nhận diện đặc điểm báo chí hiện đại; mối quan hệ
tác động của báo chí và dư luận xã hội; nhà báo và dư luận xã hội.
Cuốn “Công chúng báo chí” của tác giả Phạm Thị Thanh Tịnh (Nxb
Chính trị - Hành chính, năm 2013), nghiên cứu thực trạng nhu cầu và điều
kiện tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng hiện nay; những vấn đề đặt ra
và giải pháp tạo lập các điều kiện để phát triển và thỏa mãn nhu cầu thông tin
báo chí hiện nay.
15
Luận án “Khuynh hướng chính trị của báo chí Mỹ” (Khảo sát các bài xã
luận của New York Times và Wall Street Journal từ 2009 đến 2012) của tác
giả Vũ Thanh Vân (Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2015), phân tích
nội dung các bài xã luận của NYT và WSJ về các vấn đề đối nội trong thời
gian từ năm 2009 đến 2012 nhằm xác định các biểu hiện định tính và định
lượng về khuynh hướng chính trị của NYT và WSJ, từ đó chỉ ra khuynh
hướng của các tờ báo này trong thực tế đồng thời rút ra ý nghĩa lý luận và
thực tiễn của khuynh hướng chính trị đối với hoạt động báo chí.
Bài viết "Các phương pháp tác động lên nhận thức xã hội của các
phương tiện thông tin đại chúng" của T. Rovinskaja, Tạp chí Kinh tế thế giới
và quan hệ quốc tế (số 6, năm 2008), bàn luận về các yếu tố và sức mạnh ảnh
hưởng của các phương tiện thông tin đại chúng đến nhận thức và hành vi của
các cá nhân và xã hội; một số phương pháp tác động lên nhận thức xã hội của
các phương tiện thông tin đại chúng.
N. Ledjukova tác giả bài "Phép đo chức năng của phương tiện thông
tin đại chúng", Tạp chí Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế (số 1, năm 2011),
tập trung phân tích các phương tiện thông tin đại chúng dưới các khía cạnh:
Báo chí là bạn đồng hành của sự thật; phương tiện thông tin đại chúng là một
ngành công nghiệp; phương tiện thông tin đại chúng là công cụ gây ảnh
hưởng, với sự phát triển của công nghệ thông tin, các phương tiện thông tin
đại chúng ngày càng mở rộng vai trò của mình trong đời sống xã hội.
2. Công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục chính trị - tư tưởng
trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được
thành lập theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, tiền thân của Quân đội nhân
dân Việt Nam. Đây là đội quân tuyên truyền với ý nghĩa lấy chính trị làm
trọng, động viên, tuyên truyền để tập trung lực lượng tiến hành nhiệm vụ quân
sự. Với 34 chiến sĩ, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã lập nên
nhiều chiến công oanh liệt và phát triển, trưởng thành, trở thành Quân đội
16
nhân dân Việt Nam anh hùng, quyết chiến quyết thắng.
Trong suốt hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân
đội nhân dân Việt Nam, Quân ủy Trung ương luôn chú trọng công tác giáo dục,
tuyên truyền, định hướng chính trị - tư tưởng cho quân nhân, được tiến hành
thường xuyên liên tục, quán triệt từ trên xuống dưới thành hệ thống, tạo sự thống
nhất tư tưởng, ý chí trong toàn quân, sẵn sàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao. Theo cuốn "Từ điển bách khoa quân sự Xô-Viết" đưa ra định nghĩa: “Giáo
dục chính trị - tư tưởng trong các lực lượng vũ trang là hệ thống các biện pháp
nhằm hình thành cho sĩ quan và chiến sĩ có đủ trình độ tư tưởng và sẵn sàng
hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu để giành chiến thắng trong chiến tranh”.
Trong luận án tiến sĩ tâm lý học “Những điều kiện tâm lý sư phạm nâng
cao hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân ở đơn vị cơ sở”, tác
giả Cao Xuân Trung quan niệm: chính trị - tư tưởng là hệ thống các quan
niệm, quan điểm, hệ tư tưởng của giai cấp, nhà nước, các lực lượng xã hội về
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra khái niệm
“giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân là hoạt động có mục đích, có tổ
chức và bằng phương pháp khoa học của người giáo dục tác động vào nhận
thức, tình cảm, ý chí của quân nhân nhằm hình thành, phát triển ở họ thế giới
quan, lý tưởng, niềm tin, phẩm chất chính trị - tư tưởng đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng của Đảng, của quân đội trong từng giai đoạn cách
mạng” [98, tr.30].
Trong luận án tiến sĩ triết học “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị
- tư tưởng trong quân đội trước yêu cầu mới của cuộc đấu tranh tư tưởng ở
nước ta hiện nay”, theo tác giả Nguyễn Văn Cần: Công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam là hoạt động nhằm bảo vệ, phát
triển, truyền bá và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
vào thực tiễn công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân
Việt Nam. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng giữ vị trí quan trọng hàng đầu
17
đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân
Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Là nhân tố
quyết định bảo đảm cho lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam luôn trung
thành tuyệt đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, với Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, với nhân dân lao động Việt Nam, luôn có ý chí cách
mạng kiên cường, quyết tâm sắt đá, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình
độ chuyên môn vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
Vào những năm 90 của thế kỷ trước, đất nước đang bước vào thời kỳ
đổi mới, tình hình xã hội có nhiều biến động, các tác giả tập trung nghiên cứu
về tư tưởng chính trị trong quân đội, nhằm tìm ra giải pháp củng cố cho quân
nhân có được bản lĩnh đối mặt với những khó khăn, thử thách.
Trong luận án “Đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển phẩm chất
chính trị của thanh niên quân đội ta trong giai đoạn hiện nay”, Nguyễn Văn
Quyết, Học viện Chính trị Quân sự, năm 1990, trình bày phẩm chất chính trị,
tính cấp thiết phải đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển trong thanh
niên quân đội. Phương hướng và biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh quá trình
hình thành và phát triển phẩm chất chính trị của thanh niên quân đội.
Luận án “Nâng cao phẩm chất chính trị quân nhân của Quân đội nhân
dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới” của tác giả Dương Văn Lượng
bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 1994, đã nêu lên
bản chất, vai trò, thực trạng và những yêu cầu mới của phẩm chất chính trị
quân nhân trong quân đội ta hiện nay; những nhân tố khách quan, chủ quan
tác động đến phẩm chất chính trị quân nhân hiện nay. Và đề xuất cơ sở
phương pháp luận cho việc nâng cao phẩm chất chính trị quân nhân của Quân
đội nhân dân Việt Nam.
Luận án của tác giả Trần Ngọc Tuệ, Học viện Chính trị Quân sự, năm
1996 nghiên cứu “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay”. Trong công trình, tác giả trình bày những yếu tố chủ
18
quan, khách quan tác động đến công tác tư tưởng trong quân đội; khảo sát
thực trạng công tác tư tưởng trong quân đội, từ đó đề xuất những giải pháp
chủ yếu để nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong quân đội.
Luận án “Nâng cao bản lĩnh chính trị của sĩ quan trẻ Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Đình Tu, Học viện Chính trị Quân sự, năm
1996. Tác giả phân tích thực trạng bản lĩnh chính trị của sĩ quan trẻ của Quân
đội nhân dân Việt Nam; rút ra những nguyên nhân, mâu thuẫn cần giải quyết
trong quá trình nâng cao bản lĩnh chính trị; đề xuất một số biện pháp cơ bản
để nâng cao bản lĩnh chính trị của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam.
Luận án “Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
trong phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở thanh niên Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Đức Tiến, Học viện Chính trị Quân sự, năm
1999, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan trong phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở thanh niên Quân đội
nhân dân Việt Nam. Đưa ra một số giải pháp giải quyết mối quan hệ khách
quan - chủ quan để phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở thanh niên quân đội
trong tình hình hiện nay.
Luận án “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng ở đơn vị cơ sở làm
nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu của các binh đoàn chủ lực Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Văn Dưỡng, Học viện Chính trị Quân sự, năm
2001, luận giải đặc điểm của công tác tư tưởng ở các đơn vị huấn luyện của
các binh đoàn chủ lực, hiệu quả và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của công tác
này; rút ra một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng ở các
đơn vị huấn luyện quân đội.
Luận án “Nâng cao nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh của sĩ quan cấp
phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Trung Thông, Học
viện chính trị Quân sự, năm 2004, phân tích, luận giải cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc nâng cao nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh của cấp sĩ quan phân
đội Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
19
cao nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh của cấp sĩ quan quân đội hiện nay.
Hiện nay, trong nước có nhiều công trình nghiên cứu về các giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, công tác giáo dục chính trị
trong quân đội nói chung và ở các nhà trường quân đội nói riêng, như:
Luận án “Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học
viên các học viện quân sự ở nước ta hiện nay”, Lương Ngọc Vĩnh, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, năm 2012, luận giải làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận cơ bản về hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng và hiệu
quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các học viện quân
sự. Đánh giá thực trạng hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong
học viên các học viện quân sự những năm gần đây và xác định những vấn đề
cần giải quyết. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng trong học viên các nhà trường quân đội ở nước ta hiện nay.
Và một số công trình tiêu biểu như: “Nâng cao nhận thức về chiến
lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cho
học viên đào tạo cử nhân cấp phân đội bậc đại học ở Học viện Hậu cần hiện
nay” của tác giả Nguyễn Hồng Châu; bài báo “Tác động của cơ chế thị
trường dẫn đến sự phát triển nhân cách học viên đào tạo sĩ quan hiện nay”
của tác giả Nguyễn Bá Dương; luận án tiến sĩ “Bồi dưỡng phẩm chất chính trị
của học viên đào tạo cán bộ chỉ huy - tham mưu binh chủng hợp thành cấp
trung, sư đoàn ở Học viện Lục quân giai đoạn hiện nay” của tác giả Hồ Viết
Hải, cuốn “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị trong đào tạo sĩ quan hải
quân hiện nay” của Tổng cục Chính trị… Mặc dù nghiên cứu ở các phạm vi,
góc độ tiếp cận khác nhau nhưng nhìn chung, các công trình đều thống nhất
quan niệm cho rằng, nhà trường quân đội có những nét đặc thù ảnh hưởng đến
hiệu quả công tác tư tưởng. Những đặc điểm đó là: cơ cấu tổ chức mang đặc
trưng của một cơ sở đào tạo; nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo, bồi dưỡng và
nghiên cứu khoa học; có khối lượng cơ sở vật chất tương đối lớn; quản lý thời
gian chặt chẽ; đối tượng chủ yếu là giảng viên và học viên - đội ngũ trí thức
20
khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, có nhiều đặc trưng tâm lý
khác biệt với các đơn vị chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Học
viên các nhà trường quân đội đều có đặc điểm chung là trình độ văn hoá cao, đồng
đều, có đầy đủ ưu thế, hạn chế của lớp người trẻ tuổi…
Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tiếp
tục tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó chống phá trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa là “mũi đột phá”. Do đó,
một số tác giả đã nghiên cứu và xuất bản, phát hành các tài liệu, ấn phẩm về
đấu tranh, phòng chống diễn biến hòa bình.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Bá Dương xuất bản cuốn sách “Phòng,
chống diễn biến hòa bình trên lĩnh vực chính trị và vấn đề bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng hiện nay”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, năm
2010. Nội dung đề cập đến rất nhiều vấn đề, trong đó đi sâu phân tích vị trí
của Quân đội nhân dân Việt Nam - lực lượng chính trị của Đảng và do Đảng
lãnh đạo. Tác giả chỉ rõ: nếu Đảng Cộng sản mắc phải những sai lầm về
đường lối chính trị, đường lối xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc, thiếu
quan tâm củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, coi nhẹ
vai trò công tác đảng, công tác chính trị thì quân đội sẽ rệu rã, nhanh chóng
thoái hóa biến chất, mất phương hướng xây dựng, chiến đấu, mất mục tiêu, lý
tưởng cách mạng. Sức mạnh chiến đấu của quân đội đã bị kẻ thù vô hiệu hóa,
quân đội trở thành "cái xác không hồn", quân đội ấy đã trúng mưu kế "phi
chính trị hóa" của các thế lực thù địch. Thực tiễn những sai lầm về đường lối
chính trị, đường lối xây dựng quân đội của Đảng Cộng sản Liên Xô và sự
biến chất, mất phương hướng chiến đấu của Quân đội Xô Viết và quân đội
các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trong những năm 90 của thế kỷ XX đã
chứng minh điều đó [20, tr. 224]. Đây là bài học kinh nghiệm xương máu đối
với chúng ta trong quá trình chăm lo xây dựng quân đội về mặt chính trị, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Tiến sĩ Trần Ngọc Tuệ (chủ biên) cuốn sách “Đấu tranh chống "diễn
21
biến hòa bình" trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng trong quân đội hiện nay”,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, năm 2012. Cuốn sách tập trung làm
rõ âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch và một số
vấn đề lý luận về đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực chính trị
- tư tưởng trong quân đội. Đánh giá thực trạng, rút ra một số kinh nghiệm đấu
tranh chống "diễn biến hòa bình" và dự báo tình hình, xác định yêu cầu, đồng
thời đề xuất những giải pháp cơ bản đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên
lĩnh vực chính trị - tư tưởng trong quân đội. Đánh giá về những hạn chế,
khuyết điểm trong đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực chính
trị - tư tưởng trong quân đội những năm qua, các tác giả chỉ ra bốn vấn đề
sau: một là, việc quán triệt và triển khai tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan cấp trên về đấu tranh
chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng chưa đầy đủ, sâu
sắc; hai là, công tác chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các biểu hiện "tự diễn
biến" còn nhiều thiếu sót; ba là, còn thiếu những biện pháp tích cực, cụ thể để
ngăn chặn và kiểm soát các tài liệu, các nguồn thông tin thẩm thấu vào trong
các đơn vị quân đội; bốn là, chưa phát huy tốt sức mạnh tổng hợp trong tổ
chức đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng
[89, tr. 91-99].
Luận án tiến sĩ triết học của Trần Doãn Tiến “Phê phán các quan điểm
sai trái về tư tưởng chính trị trên mạng internet góp phần bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2010, luận án đề cập một cách khá toàn diện về những vấn
đề: Quan niệm về tư tưởng, chính trị và phê phán các quan điểm sai trái về tư
tưởng, chính trị; nhận diện các quan điểm sai trái về tư tưởng, chính trị trên
mạng internet; tính đặc thù của việc phê phán các quan điểm sai trái về tư
tưởng, chính trị trên mạng internet; đánh giá thực trạng việc phê phán các
quan điểm sai trái về tư tưởng, chính trị trên mạng internet ở nước ta thời gian
qua; đưa ra một số quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả phê phán các
22
quan điểm sai trái về tư tưởng, chính trị trên mạng internet, góp phần bảo vệ
chế độ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong tình hình mới. Luận giải những vấn
đề đặt ra trong quá trình phê phán các quan điểm sai trái về tư tưởng, chính trị
trên mạng internet, tác giả cho rằng: Trạng thái mất cảnh giác đang mâu thuẫn
với mục tiêu bảo vệ chế độ trong tình hình mới, bằng công cụ đặc thù mạng
internet; phương thức đấu tranh tư tưởng trên mạng internet chậm được đổi
mới đang mâu thuẫn với thủ đoạn chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực
thù địch; thông tin chính thống trên mạng internet hạn chế, đang mâu thuẫn
với số lượng lớn quan điểm sai trái phong phú, đa dạng, đa chiều của các thế
lực thù địch.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Bá Dương xuất bản cuốn sách "Bình mới,
rượu cũ" của chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá Việt Nam”, Nhà
xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, năm 2015. Cuốn sách tập trung phân
tích, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn mới của chiến lược "Diễn biến hòa
bình" chống phá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
hiện nay; trong đó, tác giả nhấn mạnh: Âm mưu cơ bản, lâu dài và xuyên suốt
của chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng nước ta là xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thủ tiêu chế độ Xã hội chủ
nghĩa và thành quả cách mạng mà nhân dân ta bằng xương máu của mình xây
đắp nên; từ đó hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa có lợi
cho chủ nghĩa đế quốc. Một trong những đóng góp quan trọng của cuốn sách
là tác giả đã đề xuất hệ thống các giải pháp, biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi âm
mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", "phi
chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị. Đồng
thời, nhấn mạnh sự cần thiết phải đẩy mạnh nghiên cứu dự báo, nắm tình hình
địch; chủ động đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" của các tổ chức,
các lực lượng, trong đó, tác giả đã phân tích khá sâu sắc nội dung các giải
pháp về đào tạo, bồi dưỡng lực lượng kế cận, kế tiếp là đội ngũ cán bộ nghiên
cứu, giảng viên lý luận chính trị ở các nhà trường quân đội, cơ quan báo chí,
23
truyền hình, v. v., để họ tự tin, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong đấu tranh
phòng, chống "diễn biến hòa bình" trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay. Theo tác giả, trước, trong và sau Đại hội lần thứ XII của
Đảng, đặc biệt là khi triển khai, đưa Nghị quyết đại hội lần thứ XII vào cuộc
sống, cần phát huy tốt hơn nữa vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ
nghiên cứu, giảng viên lý luận chính trị ở các nhà trường quân đội với ba cấp
độ: thứ nhất, nghiên cứu đưa nội dung Nghị quyết vào các bài giảng; thứ hai,
tổ chức biên soạn các tài liệu phổ biến nội dung văn kiện Đại hội XII cho các
đối tượng, trong đó nhấn mạnh đến nhiệm vụ phòng, chống "diễn biến hòa
bình"; thứ ba, phát huy vai trò của đội ngũ này trong đấu tranh chống "diễn biến
hòa bình" trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các trang mạng xã hội.
Cuốn sách “Hãy cảnh giác với “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam”
của Trung tướng, PGS.TS Nguyễn Đình Minh do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
phát hành năm 2016. Cuốn sách gồm sáu chương cung cấp cho bạn đọc những
thông tin cơ bản, cập nhật về chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch và cuộc đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”;
phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Tác giả nghiên cứu, trình bày nội dung với 6
vấn đề, bao gồm: Quá trình hình thành, bản chất, âm mưu và tác hại của chiến
lược “diễn biến hòa bình”; quan điểm của Đảng về đấu tranh phòng, chống “diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; thực trạng đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa
bình” ở Việt Nam; mối quan hệ giữa “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ; biểu hiện mới và tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân; dự báo âm mưu , thủ đoạn mới và
giải pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” nội bộ ở Việt Nam.
Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng “Quân đội nhân dân Việt Nam
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, mã số:
24
2009.83.015, đơn vị chủ trì: Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ
Quốc phòng, 2011. Thực chất đề tài đi sâu nghiên cứu hoạt động đấu tranh
phòng, chống "diễn biến hòa bình" của Quân đội nhân dân Việt Nam trên mặt
trận tư tưởng, lý luận hiện nay. Đề cập đến lực lượng đấu tranh trên mặt trận
tư tưởng, lý luận của quân đội, các nhà khoa học cho rằng: Lực lượng giữ vai
trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và trực tiếp tổ chức đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng, lý luận trong quân đội là cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính trị, chính
ủy, chính trị viên, đội ngũ cán bộ các cấp. Lực lượng nòng cốt đấu tranh trên
mặt trận tư tưởng, lý luận là cơ quan chính trị, đội ngũ chính ủy, chính trị
viên, đội ngũ cán bộ tuyên huấn, đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu lý
luận chính trị, khoa học xã hội nhân văn trong các học viện, nhà trường và các
cơ quan nghiên cứu, đội ngũ phóng viên các báo, tạp chí khoa học xã hội và
nhân văn quân đội [16, tr. 19; 42]. Vai trò của lực lượng nòng cốt thể hiện ở
chỗ, họ là lực lượng trực tiếp tác chiến, đấu tranh tư tưởng, lý luận; đồng thời
họ còn là lực lượng định hướng, hướng dẫn và tổ chức các bộ phận, các "binh
chủng", tạo nên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận thống nhất, rộng khắp có
chiều sâu, có mũi nhọn…[16, tr. 19]. Đánh giá thực trạng quân đội tham gia
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, đề tài nhấn mạnh: toàn quân đã có
nhận thức đúng, chỉ đạo kịp thời, chặt chẽ và tổ chức triển khai tốt nhiệm vụ
đấu tranh chống "diễn biến hòa bình"; từng bước xây dựng, tổ chức lực lượng
nòng cốt và huy động sức mạnh tổng hợp của cán bộ, chiến sĩ, nhất là các
đồng chí công tác trong lĩnh vực báo chí, tuyên truyền tham gia hoạt động
này. Kết quả đấu tranh tư tưởng, lý luận trong quân đội đã góp phần quan
trọng vào việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Tuy nhiên, ngoài
những mặt mạnh là cơ bản, thực trạng đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận trong quân đội vẫn còn những hạn chế nhất định: nhận thức của lãnh đạo,
chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ ở một số đơn vị về mục tiêu, nhiệm vụ đấu tranh tư
tưởng, lý luận chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong đấu tranh tư tưởng, lý luận còn
25
hạn chế, bất cập. Công tác tư tưởng, lý luận có mặt thiếu sắc bén, thiếu sức
thuyết phục, tính chiến đấu chưa cao, chưa kịp thời, linh hoạt. Tính khoa học,
sức thuyết phục của một số bài đấu tranh trực diện với các quan điểm phản
diện, sai trái, thù địch chưa cao, số lượng chưa nhiều. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, đề tài đưa ra những yêu cầu đối với quân đội đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới: thứ nhất, giữ vững và mở rộng trận
địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, quan
điểm của Đảng, bảo đảm cho quân đội vững mạnh về chính trị; thứ hai, gắn
chặt cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, chống sự suy thoái
về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống với xây dựng trận địa tư tưởng vững
mạnh trong quân đội; thứ ba, phải có các giải pháp toàn diện, đồng bộ, khoa
học, không ngừng tăng cường sức mạnh tổng hợp đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng, lý luận của quân đội trong tình hình mới; thứ tư, đẩy mạnh tổng kết
thực tiễn đấu tranh, coi trọng nghiên cứu, dự báo tình hình, kịp thời phát hiện
và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên mặt trận đấu tranh tư
tưởng, lý luận. Trên cơ sở thực trạng và yêu cầu, đề tài đưa ra các giải pháp
cơ bản: Nâng cao nhận thức, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, lực
lượng trong quân đội với nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận; tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành, các cơ quan,
đơn vị đối với nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận; xác định đúng,
trúng nội dung và sử dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp đấu tranh trên
mặt trận tư tưởng, lý luận; tổ chức, xây dựng lực lượng đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ quân đội đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận; xây dựng và
hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng cường cơ sở vật chất cho quân đội đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Về tài liệu nước ngoài, trước những năm 1990, một số lượng lớn các
công trình, tài liệu về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô được
được dịch sang tiếng Việt, như: “Phương pháp luận công tác tư tưởng” của
D.A. Vôn-cô-gô-nốp, “Hình thành niềm tin cho thế hệ trẻ” của V.A.Xu-
26
khôm-lin-xki, “Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô” của
X.I.Xu-rơ-ni-tren-cô… Nhiều công trình sử dụng thuật ngữ giáo dục chính trị
- tư tưởng để chỉ hoạt động truyền bá nội dung về chính trị, nhưng chưa luận
bàn về khái niệm. Cuốn “Từ điển bách khoa quân sự Xô-Viết” (tiếng Nga) đã
đưa ra một định nghĩa: “Giáo dục chính trị - tư tưởng trong các lực lượng vũ
trang là hệ thống các biện pháp nhằm hình thành cho sĩ quan và chiến sĩ có
đủ trình độ tư tưởng và sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu để
giành chiến thắng trong chiến tranh” [10, tr.10]. Tuy không đưa ra khái niệm
nhưng cuốn “Công tác đảng - chính trị trong lực lượng vũ trang Xô-Viết” đề
cập khá rõ mục đích của giáo dục chính trị - tư tưởng là hình thành giác ngộ
chính trị cao và niềm tin cộng sản vững chắc cho quân nhân. Nội dung của nó
là “Chủ nghĩa Mác-Lênin, chính sách, nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên
Xô, những thành tựu trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội, truyền thống cách
mạng của Đảng, quân đội và nhân dân; tình hữu nghị giữa các dân tộc và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em; tình hình thời sự chính trị quốc tế và hoạt
động đối ngoại của Đảng, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù…”[12, tr.65-66].
Cuốn “Đảng lãnh đạo quân đội của quân đội Liên Xô, Cu-ba, CHDC Đức,
Triều Tiên” khẳng định, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của tổ chức
Đảng và cơ quan chính trị các cấp trong quân đội các nước Xã hội chủ nghĩa
đều phải giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối quan điểm của Đảng, “làm
cho các chiến sĩ trong công tác của họ tin tưởng tuyệt đối Đảng, vào những
nghị quyết của Đảng và trên cở sở của chủ nghĩa Mác-Lênin, giáo dục bản
chất cách mạng của người lính xã hội chủ nghĩa, ý thức giai cấp, ý thức dân
tộc và tinh thần chiến đấu độc lập” [30, tr.42].
Những năm gần đây, nước ta đã xuất hiện nhiều công trình của các tác
giả Trung Quốc hoặc của các tác giả Việt Nam nghiên cứu về công tác tư
tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo bản dịch tiếng Việt, các nhà
nghiên cứu Trung Quốc chỉ sử dụng một thuật ngữ duy nhất là công tác giáo
dục chính trị tư tưởng. Mặc dù chưa đưa ra khái niệm, nhưng các tác giả đã
27
chỉ ra những đặc trưng cơ bản của công tác này. Trong cuốn giáo trình “Công
tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới” của Cục cán bộ, Ban Tuyên huấn
Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc, các tác giả coi giáo dục niềm tin
vào lý tưởng là nội dung cốt lõi; giáo dục lý luận cơ bản, đường lối cơ bản,
cương lĩnh cơ bản của Đảng, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể, chủ
nghĩa xã hội là nội dung hàng đầu của công tác chính trị tư tưởng [13, tr.226-
270]. Trong bài viết “Giáo dục chính trị tư tưởng là linh hồn của giáo dục
phẩm chất” đăng trên Tạp chí Cầu thị (Trung Quốc) năm 2009, tác giả Lý
Vĩnh Thắng coi giáo dục chính trị tư tưởng là linh hồn của giáo dục phẩm
chất con người. Mục đích của hoạt động này là hình thành phẩm chất chính trị
tư tưởng, yếu tố “về căn bản quyết định lý tưởng, đức tin, phẩm chất đạo đức
và phương thức hành vi của nó” [79, tr.2]. Giáo trình “Công tác chính trị của
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc” dùng trong các học viện, nhà trường
trong thời kỳ mới, của Nhà xuất bản Đại học Quốc phòng Quân giải phóng
nhân dân Trung Quốc, năm 1986, coi công tác giáo dục tư tưởng là một hoạt
động quan trọng của công tác chính trị trong quân đội với ba nội dung cơ bản
là: giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác và “bốn nguyên tắc” cơ bản; giáo dục
những vấn đề cơ bản xây dựng hiện đại hoá Chủ nghĩa xã hội Trung Quốc và
xây dựng hiện đại hoá, chính quy hoá quân đội cách mạng; giáo dục chính trị
tư tưởng thường xuyên. Trong đó, nội dung giáo dục chính trị tư tưởng
thường xuyên gồm: giáo dục nhiệm vụ và tình thế, phẩm chất đạo đức, truyền
thống, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, pháp chế và dân
chủ xã hội chủ nghĩa, kỷ luật tổ chức…[61].
Việc giáo dục chính trị - tư tưởng ở Quân đội Lào, được tác giả Sỏn
Xay Chăn Nha Lạt nêu ra trong luận án “Giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ
sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Lào hiện nay”, năm 2012, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án trình bày những vấn
đề lý luận về giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội
nhân dân Lào. Đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, kinh nghiệm và đề
28
xuất yêu cầu và các giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng giáo dục chính
trị, tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Lào hiện nay.
Hiện nay, trên mạng internet và mạng MISTEN (mạng nội bộ quân
đội), có thể dễ dàng tìm đọc các tài liệu đề cập đến hoạt động tuyên truyền
chính trị bằng tiếng Anh, như: “Propaganda”, “What are Tool of
Propaganda?”, “Propaganda in NaZi Germany”… Trong số tài liệu này, các
học giả phương Tây sử dụng phổ biến thuật ngữ tuyên truyền (propaganda)
hoặc tuyên truyền chính trị (political propaganda) hoặc tâm lý quân nhân để
chỉ hoạt động truyền bá các nội dung liên quan đến việc giành, giữ chính
quyền của các đảng phái chính trị. Trong đó, mục đích của tuyên truyền chính
trị là nhằm thay đổi quan điểm và hành vi của đối tượng, từ chỗ phản đối, thờ
ơ đến việc ủng hộ cương lĩnh, đường lối, chính sách của đảng tranh cử hoặc
đảng cầm quyền.
Bài viết của tác giả Kapralov F (2016), "Khuynh hướng huấn luyện tâm
lý quân nhân Nhật Bản" đăng trên Tạp chí Bình luận quân sự nước ngoài (số
4), tr.35-41. Nghiên cứu tính chất toàn diện trong khuynh hướng huấn luyện
tâm lý cho quân nhân của Nhật Bản; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến
khuynh hướng huấn luyện - đào tạo này, như: truyền thống lịch sử dân tộc,
những chặng đường chiến đấu của các đơn vị và lực lượng tự vệ từ năm 1945
đến nay, hệ thống dạy và học phổ cập trong xã hội Nhật Bản, đường lối chính
trị của Chính phủ và Đảng cầm quyền, dư luận xã hội và các tầng lớp khác
nhau trong xã hội về chiến tranh và thực hiện nghĩa vụ quân sự trong lực
lượng tự vệ.
Bài tạp chí "Vấn đề tư tưởng - tâm lý của quân nhân Mỹ" của P.Sitov,
Tạp chí Bình luận quân sự nước ngoài (số 9, năm 2013). Theo các chuyên gia
quân sự Mỹ, trạng thái tư tưởng - tâm lý cao đòi hỏi phải bao gồm các phẩm
chất cơ bản như: tính kỷ luật, tinh thần chiến đấu, ý chí quyết thắng, tự chủ,
lòng tự trọng, trung thực, tận tâm với công việc, nhận thức danh dự người sĩ
quan, người lính v.v… Các yếu tố ảnh hưởng tiêu cực tới trạng thái tư tưởng -
29
tâm lý của binh sỹ như: quan tâm nhiều đến quyền lợi vật chất, coi thường
địch, đánh giá cao mình, phụ thuộc vào tiện nghi, không sáng tạo trong chiến
đấu, phân biệt chủng tộc, thể hiện chủ nghĩa cá nhân, thích danh vọng, không
hòa đồng, căng thẳng trong các mối quan hệ, nghiện ngập.
3. Công trình khoa học nghiên cứu về ảnh hưởng của báo chí quân
đội trong việc tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân
hiện nay
Luận văn “Tuyên truyền nhiệm vụ quốc phòng toàn dân trên hệ thống
báo chí quân đội trong giai đoạn hiện nay”, Nguyễn Thị Tâm Bắc, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, năm 2004. Luận văn hệ thống hóa lại việc thực hiện
tuyên truyền nhiệm vụ xây dựng quốc phòng toàn dân trong từng giai đoạn
cách mạng cụ thể của hệ thống báo chí quân đội. Qua đó, nêu ra một số kiến
nghị và giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin về quốc phòng toàn dân trên
hệ thống báo chí quân đội.
Luận văn "Thông tin đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình trên
Báo Quân đội nhân dân" (Khảo sát từ tháng 01/2009 đến 6/2012), Nguyễn
Quang Vững, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2012. Luận văn trình bày
những vấn đề lý luận về diễn biến hòa bình và thực tiễn công tác đấu tranh
phòng chống diễn biến hòa bình trên Báo Quân đội nhân dân; khảo sát, phân
tích những tác phẩm đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình đăng tải trên
hai chuyên mục “Làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình” và “Phòng,
chống diễn biến hòa bình” của Báo Quân đội nhân dân, tổng kết bài học kinh
nghiệm, rút ra thành công và hạn chế; đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao chất lượng thông tin đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa
bình trên Báo Quân đội nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Thông qua việc khảo sát (có chọn lọc) các tác phẩm trong chương trình
“Dành cho các bạn trẻ trong quân đội” trên sóng phát thanh Quân đội nhân
dân, trang “Tuổi trẻ với Tổ quốc” của báo Quân đội nhân dân, trên cơ sở phân
tích, luận văn nhằm đánh giá một cách khái quát về chất lượng, hiệu quả công
30
tác giáo dục đối tượng chiến sỹ trẻ của chương trình và chuyên trang này. Từ
đó, rút ra những vấn đề về lý luận và thực tiễn, để đưa ra những giải pháp,
kiến nghị, nhằm góp phần nâng cao chất lượng, đổi mới, giúp chương trình và
chuyên trang ngày càng phát triển. Đây là nội dung nghiên cứu được trình bày
trong Luận văn “Báo chí quân đội với vấn đề giáo dục chiến sỹ trẻ hiện nay”
của tác giả Nguyễn Trần Thùy Vinh tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà
Nội, năm 2014.
Luận văn “Báo Quân đội nhân dân với công tác tuyên truyền đối ngoại
quân sự”, Hoàng Thị Bắc, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, năm
2014, khái quát hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến công tác tuyên
truyền đối ngoại quân sự nói chung và đối ngoại quân sự trên báo Quân đội
nhân dân nói riêng; khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác tuyên
truyền đối ngoại quân sự trên báo Quân đội nhân dân từ tháng 1/2013 đến
tháng 6/2014; đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền đối ngoại quân sự trên báo Quân đội nhân dân trong thời gian tới.
Luận văn “Báo chí Quân khu 9 với vấn đề tuyên truyền quốc phòng
toàn dân” (Khảo sát Báo chí Quân khu 9 năm 2014), Hoàng Văn Khiêm, năm
2015, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và hình thành nhận thức lý thuyết về
vấn đề báo chí nói chung và Báo chí Quân khu 9 nói riêng, tuyên truyền quốc
phòng toàn dân. Khảo sát tìm hiểu thực trạng công tác tuyên truyền quốc
phòng toàn dân của báo in và chương trình Truyền hình Quốc phòng toàn dân
Quân khu 9. Tìm hiểu những thành công và hạn chế về nội dung và hình thức
của báo in và chương trình truyền hình quốc phòng toàn dân hiện nay. Chỉ rõ
những vấn đề đang đặt ra và gợi ý giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền
quốc phòng toàn dân trên Báo Quân khu 9, nhằm đáp ứng yêu cầu của Đảng,
Nhà nước và nhu cầu thông tin ngày càng cao của cán bộ, chiến sĩ và nhân
dân đồng bằng sông Cửu Long.
Tài liệu nước ngoài về “Hoạt động tuyên truyền báo chí của các cơ
quan tâm lý chiến của lực lượng vũ trang Mỹ ở Ápganixtan và Irắc” của tác
31
giả: A.Nal’deev, đăng trên Tạp chí Nga “Bình luận quân sự nước ngoài”, số
8/2008, tr. 23-25. Bài viết đề cập đến mục đích chủ yếu của tuyên truyền báo
chí, đó là làm mất tinh thần, làm sai lạc dẫn đến ngừng chống đối và đầu hàng
của các đơn vị vũ trang; giành thiện cảm và bảo đảm sự hợp tác của người
dân địa phương. Hình thức tuyên truyền đa dạng cho từng đối tượng là người
dân địa phương và lực lượng vũ trang, từ truyền đơn mang nội dung gây
khiếp sợ đến xuất bản báo chí bằng tiếng địa phương được lan truyền rộng rãi
trong nhân dân, thậm chí có mặt ở các trường học. Để tuyên truyền thắng lợi,
thứ nhất, khi chuẩn bị chiến dịch tâm lý cần phải suy nghĩ kỹ chủ đề và nội
dung các tư liệu thông tin - tuyên truyền, các tư liệu này phải được chuẩn bị
có tính đến đặc điểm tâm lý - dân tộc của người dân và phải có thông tin
thuyết phục; thứ hai, thu thập, hệ thống hóa và phổ biến thông tin gây mất uy
tín những kẻ cầm đầu các tổ chức khủng bố và phá hoại, nhưng không giành
các nỗ lực và nguồn lực để cải chính các thông tin do các chiến binh lan
truyền. Trong quá trình các chiến dịch như vậy, chủ yếu vẫn sử dụng các hình
thức tác động thông tin - tâm lý truyền thống: đài phát thanh và truyền hình,
tuyên truyền báo chí và tuyên truyền miệng. Khẳng định tuyên truyền báo chí
vẫn là một trong những phương tiện tác động thông tin - tâm lý hiệu quả nhất
đối với quân đội và người dân đối phương.
Khi bàn về kinh nghiệm đấu tranh tuyên truyền trên Internet có bài:
“Kinh nghiệm nước ngoài trong lĩnh vực đấu tranh chống hoạt động tuyên
truyền cho chủ nghĩa khủng bố trên Internet” của tác giả S. Zavalov đăng trên
Tạp chí “Bình luận quân sự nước ngoài”, số 4.2014. Internet được coi là mạng
thông tin phổ biến nhất hiện nay, phổ biến trên toàn thế giới. Bên cạnh các
mặt tích cực của mạng cũng có những khuynh hướng tiêu cực, thường là
chiều hướng tư tưởng dẫn tới sự phát sinh và leo thang các xung đột. Từ đó,
tác giả đã chỉ ra tính cần thiết của việc các quốc gia phải đưa ra các biện pháp
đối phó tương ứng, trong đó có các biện pháp kiểm soát không gian Internet
và kiểm soát khán thính giả Internet. Trong môi trường không gian Internet
32
cực kì rộng lớn ở những nơi truy cập công cộng vào www, như các thư viện
hoặc nhà trường, các bộ lọc được sử dụng, có tác dụng hạn chế việc truy cập
vào các trang mạng chứa đựng thông tin lệch chuẩn, trong đó có tài liệu của
các phần tử cực đoan. Điều này đã hạn chế rất nhiều những thông tin không
chính thống được đăng tải lên các trang mạng và hạn chế tối đa việc truy cập
của người dùng vào các trang thông tin chưa được xác thực và đăng ký với cơ
quan có thẩm quyền. Các nhà chức trách của các quốc gia đã đưa ra nhiều
chính sách yêu cầu cá nhân tổ chức sử dụng Internet phải đăng ký và chịu
trách nhiệm dân sự và hình sự đối với những gì mình đăng tải.
Bài viết “Làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của tuyên truyền đối
ngoại qua truyền hình quân sự trên Internet” của tác giả Cứu Tiên Hạc trên
Tạp chí “Phóng viên Quân sự”, số 1.2013. Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ
của ngành truyền hình internet đã thu hút số lượng khán giả xem clip truyền
hình internet ngày càng tăng. Các clip truyền hình quân sự trên internet trở
thành một loại hình truyền hình đặc thù trên internet, đó là lấy internet làm
phương tiện, lấy đề tài quân sự làm nội dung, lấy hình ảnh làm hình thức
tuyên truyền. Mạng hóa các nội dung quân sự đã mở rộng được phạm vi tuyên
truyền, mở rộng tính đa dạng, tính thời sự, hiệu quả của tin tức quân sự. Đồng
thời, đặc điểm không bị hạn chế về không gian, thời gian, địa lý, đã làm cho
truyền hình quân sự trên internet trở thành “vũ khí” của tuyên truyền đối
ngoại và cổ vũ văn hóa quân sự. Tác giả đã đưa ra các phương pháp để phát
triển loại hình này. Đi sâu hợp tác về nội dung, khai thác nguồn tin từ cơ sở,
liên kết với các cơ quan truyền thông địa phương, tập trung mọi nỗ lực, phát
huy sức ảnh hưởng của truyền hình quân sự internet. Và cách thức thực hiện
như theo sát điểm nóng, chủ động lên tiếng; phát huy vai trò cầu nối, sợi dây
liên kết trong quá trình hội tụ, phát huy, phát triển văn minh quân sự; chú
trọng hình tượng, xây dựng hiệu ứng có thương hiệu của truyền hình quân sự
internet; sử dụng người nổi tiếng làm người dẫn chương trình; hình thức
chương trình phong phú; tiến hành truyền bá đa ngôn ngữ; tích hợp truyền
33
thông, tăng cường sức thẩm thấu của truyền hình quân sự internet; chia sẻ
truyền hình nhờ vào các mạng trạm hợp tác với các cơ quan truyền thông
nước ngoài.
Bài viết "Báo chí quân sự nước ngoài" trên tạp chí Bình luận quân sự
nước ngoài của tác giả Sevastyanov S tìm hiểu tình hình phát triển và sự đa
dạng phong phú về ấn phẩm của ngành báo chí quân sự ở các cường quốc:
Mỹ, Anh, Pháp, Đức... Đánh giá vai trò quan trọng của các phương tiện thông
tin đại chúng, internet và các ấn phẩm định kỳ (báo chí) trong việc củng cố và
duy trì mức độ cao của trạng thái tâm lý-tinh thần cho quân nhân của Lực
lượng vũ trang quốc gia ở các nước. Giới thiệu khái quát một số báo, tạp chí
quân sự uy tín và nổi tiếng trên thế giới hiện nay.
I.V. Maneev, V.N. Apanasenko đồng tác giả bài "Các phương tiện
thông tin đại chúng - một công cụ hữu hiệu tạo ra hình ảnh tốt của người
quân nhân Bộ Nội vụ Nga", Tạp chí Tư tưởng quân sự (số 4, năm 2015),
khẳng định ý nghĩa và vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong
việc xây dựng hình ảnh tốt của người quân nhân thuộc Bộ Nội vụ Nga trong
điều kiện xã hội hiện nay.
Bài viết "Về công việc của các cơ quan chỉ huy quân sự với các phương
tiện thông tin đại chúng trong thời kỳ xung đột vũ trang", Tạp chí Tư tưởng
Quân sự (số 6, năm 2007), tác giả V. I. Timofeev khái quát các nguyên nhân
tác động của các phương tiện thông tin đại chúng đối với bộ đội và các cuộc
xung đột quân sự; phương pháp và nội dung công việc của các cơ quan chỉ
huy quân sự với các phương tiện thông tin đại chúng trong thời kỳ xung đột
vũ trang.
Tác giả - Đại tá Ju. N. Klenov, Cục trưởng Cục Thông tin và các quan
hệ xã hội quân khu Lêningrat viết về kinh nghiệm phối hợp hoạt động của các
sĩ quan chỉ huy Quân khu Lêningrat với các phương tiện thông tin đại chúng
trong bài "Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan chỉ huy quân khu
Lêningrat với các phương tiện thông tin đại chúng", Tạp chí Tư tưởng quân
34
sự (số 1, năm 2007).
Bài viết "Lục quân và các phương tiện thông tin đại chúng đi cùng", Tạp
chí Mỹ “Military Review”, tập 83 (số 5, năm 2003) của Tammy L.Miracle
viết: một số nhà lãnh đạo lục quân Mỹ cho rằng không để cho giới báo chí
tiếp cận hành động quân sự là một sai lầm. Tướng Wesley K.Clark, đã về hưu
và hiện là một nhà phân tích quân sự, cho rằng do “tâm trạng Việt Nam”,
quân đội đã phạm sai lầm khi hạn chế việc đưa tin trên báo chí trong thời gian
diễn ra cuộc chiến tranh vùng Vịnh Pếch-xích. Clark nói “trận đánh bằng xe
tăng của sư đoàn 1 thiết giáp thật không thể tưởng tượng được và có lẽ là trận
đánh bằng lực lượng thiết giáp lớn từ trước đến nay. Vậy mà không một hình
ảnh nào được đưa lên báo hoặc ghi lại cho lịch sử”. Một sĩ quan lục quân Mỹ
nói về Ap-ga-ni-xtan: “Không có ai ở đó để kể lại câu chuyện về những thanh
niên Mỹ xông lên làm nhiệm vụ vĩ đại này một cách thành công đến như vậy
trên địa hình thực sự hiểm trở. Đó là một cơ hội bị bỏ lỡ mà tôi nghĩ rằng
chúng ta (sẽ) không gặp lại trong tương lai.”
4. Đánh giá và những vấn đề cần nghiên cứu
Trên cơ sở tìm kiếm, tổng hợp, nghiên cứu các công trình khoa học
trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài, tác giả rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, về các công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục chính trị - tư
tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Các công trình khoa học đã xây dựng được cơ sở lý luận, thống nhất
đưa ra khái niệm nội dung của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong
quân đội. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng được khảo sát với nhiều đối
tượng quân nhân ở các đơn vị khác nhau trong toàn quân. Các công trình
nghiên cứu đã đề xuất nhiều biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
chính trị - tư tưởng, hướng vào giải quyết các vấn đề thuộc chủ thể, đối tượng,
môi trường xã hội khách quan và đổi mới các yếu tố, các bộ phận của bản
thân công tác chính trị - tư tưởng. Trong đó, hầu hết các công trình đều đề cập
đến việc nâng cao nhận thức, tăng cường đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ,
35
người chỉ huy các cấp đối với công tác tư tưởng; phát huy sức mạnh tổng hợp
của các tổ chức, các lực lượng, mọi lĩnh vực; nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chính trị làm nòng cốt; phát huy tính tích cực, tự giác học tập và rèn luyện
của đối tượng; kết hợp giáo dục chính trị với tổ chức phong trào hành động
cách mạng, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; tiếp tục đổi mới nội dung,
hình thức công tác chính trị - tư tưởng; xây dựng môi trường văn hoá giáo dục
lành mạnh, tốt đẹp; đảm bảo và phát huy tác dụng của cơ sở vật chất, phương
tiện… Các công trình nghiên cứu nói trên cũng cung cấp khá nhiều thông tin
có giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc về đấu tranh phòng, chống diễn
biến hòa bình, trong đó có đề cập vấn đề phát huy vai trò của báo chí cách
mạng và phương tiện truyền thông đại chúng của quân đội trong đấu tranh với
các âm mưu thủ đoạn của thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.
Mặt khác, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài tuy tên gọi khác nhau
nhưng đều khẳng định công tác chính trị - tư tưởng có một hoạt động hướng
vào xây dựng niềm tin, lý tưởng chính trị với nội dung truyền bá chủ yếu là tri
thức về lĩnh vực chính trị theo nghĩa rộng nhất của từ này.
Tuy nhiên, các công trình khoa học chưa khảo sát, nghiên cứu sâu, toàn
diện đến giải pháp tuyên truyền, định hướng, giáo dục chính trị - tư tưởng qua hệ
thống báo chí quân đội tác động đến nhận thức của quân nhân trong điều kiện cụ
thể hiện nay.
Thứ hai, về các công trình khoa học nghiên cứu về tác động của báo chí
đối với nhận thức, tư tưởng của công chúng; nghiên cứu về ảnh hưởng của báo
chí quân đội trong việc tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân
nhân hiện nay
Các công trình nghiên cứu đã chỉ rõ khả năng tác động một cách rộng
lớn nhanh chóng và mạnh mẽ vào toàn bộ xã hội, vai trò quan trọng các
phương tiện thông tin đại chúng trong công tác tư tưởng, định hướng tinh
thần, trong đấu tranh, chống diễn biến hòa bình; khái quát hệ thống những vấn
đề lý luận liên quan đến công tác tuyên truyền nhiệm vụ xây dựng quốc
36
phòng toàn dân, đối ngoại quân sự, chống diễn biến hòa bình của hệ thống
báo chí quân đội. Và các tác giả cũng đã khảo sát thực trạng tuyên truyền của
một số cơ quan báo chí riêng lẻ (Báo Quân đội nhân dân, Phát thanh Quân đội
nhân dân, Báo chí Quân khu 9…) tác động tới quân nhân, tìm ra thành công
và hạn chế về nội dung và hình thức. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị và giải
pháp để nâng cao chất lượng thông tin về quốc phòng toàn dân trên hệ thống báo
chí quân đội.
Tuy nhiên, các công trình khoa học này chưa nghiên cứu sự ảnh hưởng
của báo chí quân đội đối với đối tượng là học viên sỹ quan cấp phân đội ở 4 khối
tham mưu, chính trị, hậu cần, kĩ thuật - những người sẽ giữ vai trò chủ chốt trong
xây dựng quân đội nói chung và giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân
trong thời gian tới.
37
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO CHÍ
QUÂN ĐỘI ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CỦA
QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Khái quát về báo chí quân đội; về báo Quân đội nhân dân và
kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam
1.1.1. Khái niệm báo chí quân đội
Báo chí quân đội là một bộ phận nằm trong hệ thống báo chí nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là tiếng nói của Quân ủy Trung ương
và Bộ Quốc phòng, của Đảng ủy, chỉ huy các cấp, các ngành trong quân đội;
là diễn đàn tin cậy của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về hai nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là phương tiện thông tin đại
chúng thiết yếu đối với đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ trong toàn
quân. Báo chí trong QĐND Việt Nam là một bộ phận quan trọng của công tác
tư tưởng, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và Quân đội, góp
phần xây dựng quân đội nhân dân về chính trị; động viên, cổ vũ cán bộ, chiến
sĩ hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Báo chí quân đội đã cùng với hệ thống
báo chí của cả nước tích cực tuyên truyền sâu rộng các quan điểm đường lối
của Đảng, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, tuyên truyền, cổ vũ
phong trào hành động cách mạng của quân đội, của nhân dân, xứng đáng là
vũ khí đấu tranh sắc bén trên mặt trận chính trị - tư tưởng, quốc phòng - an
ninh, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh. Báo chí quân đội đã tích cực đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối
của Đảng, chống lại các quan điểm sai trái, tham gia đấu tranh chống tham
nhũng, chống tiêu cực, được Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội tin
tưởng. Ở Việt Nam, báo chí trong QĐND Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo toàn
diện của Quân ủy Trung ương, sự quản lý thống nhất của Bộ Quốc phòng mà
trực tiếp là Tổng cục Chính trị, đồng thời chịu sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo
38
Trung ương, sự quản lý Nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông; bảo
đảm cho báo chí quân đội đúng đường lối, quan điểm, phương hướng tư
tưởng của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của quân đội.
Từ những khái quát trên, có thể định nghĩa: báo chí quân đội là những sản
phẩm báo chí của các cơ quan báo chí Quân đội nhân dân Việt Nam, dưới sự
chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, đảng ủy chỉ huy các cấp, các ngành trong
quân đội, tuyên truyền về hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, phục vụ đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân
và nhân dân cả nước.
1.1.2. Đặc điểm báo chí quân đội
Ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã
nói rằng: “Chi 1 đôla cho tuyên truyền bằng chi 5 đôla cho quốc phòng”. Cố
vấn an ninh Mỹ dưới thời Tổng thống Richard Nixon, Kissinger cho rằng:
“Uy lực của một đài phát thanh tự do ngang với 20 sư đoàn”.
Đối với nước ta, báo chí quân đội là một bộ phận quan trọng trong công
tác tuyên truyền của Đảng, Nhà nước. Các nhà báo được xem là chiến sỹ xung
kích trên mặt trận văn hóa - tư tưởng. Báo chí là công cụ sắc bén tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đồng thời, là cầu nối, kịp thời phản ánh những tâm tư, nguyện vọng,
những nhu cầu cấp thiết của nhân dân. Do đặc thù hoạt động trong lĩnh vực
quân sự, báo chí quân đội có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, báo chí quân đội do các cơ quan quân đội quản lý, điều hành
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng
Gắn liền với sự trưởng thành, phát triển của QĐND Việt Nam suốt mấy
chục năm qua, báo chí quân đội là một bộ phận hợp thành báo chí cách mạng
Việt Nam, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng trong mỗi
thời kỳ. Hiện nay, toàn quân có 60 cơ quan báo chí được Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp giấy phép hoạt động; trong đó, có 07 cơ quan báo chí do
Tổng cục Chính trị trực tiếp chỉ đạo, quản lý; 12 báo quân khu, quân chủng,
39
Báo Biên phòng và Báo Quốc phòng Thủ đô; 41 tạp chí chuyên ngành thuộc
các tổng cục, học viện, viện nghiên cứu, các trường đại học, bệnh viện. Đội
ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên phát triển về số lượng,
chất lượng; có trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Cơ
sở vật chất, trang bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ tác nghiệp báo chí được
đầu tư đáng kể, tạo điều kiện cho báo chí quân đội phát triển theo phương
châm: cách mạng, chuyên nghiệp, hiện đại. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Tổng cục Chính trị, báo chí
quân đội luôn giữ vững định hướng chính trị, tích cực tuyên truyền đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng và các hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân, QĐND,…
theo tôn chỉ, mục đích của từng tờ báo, tạp chí. Cùng với đó, báo chí quân đội
còn tuyên truyền về công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước trên các lĩnh vực:
kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế; tuyên
truyền về công tác xây dựng Đảng, tích cực phát hiện, biểu dương, nhân rộng
các điển hình tiên tiến, v.v. Đồng thời, là lực lượng xung kích, nòng cốt, vũ
khí sắc bén tuyên truyền, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch,
chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, bảo vệ trận địa tư tưởng của Đảng
trong Quân đội và lợi ích chính đáng của nhân dân, góp phần định hướng
dư luận, tạo sự đồng thuận xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về thông
tin của bộ đội và nhân dân.
Thứ hai, chủ yếu tuyên truyền về đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước, về quốc phòng - an ninh, xây dựng quân đội, hoạt động
của lực lượng vũ trang; là mũi xung kích thường trực trên mặt trận đấu tranh
chính trị - tư tưởng, phản bác các quan điểm phản động, sai trái, của các thế
lực thù địch
Báo chí quân đội đã luôn đồng hành cùng những chặng đường đấu
tranh kiên cường của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, vì độc lập dân tộc, vì
chủ nghĩa xã hội. Trong các cuộc kháng chiến anh dũng chống xâm lược, bảo
40
vệ Tổ quốc, báo chí quân đội đã trở thành một binh chủng quan trọng trên mặt
trận tư tưởng; nhiều tác phẩm báo chí đã thực sự thúc giục đồng bào cả nước
cùng ra trận đánh đuổi đế quốc, giành lại non sông gấm vóc cho dân tộc.
Bước vào thời kỳ đổi mới, báo chí quân đội tiếp tục tham gia trong việc
định hướng dư luận xã hội, tuyên truyền, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo, đóng góp to lớn vào sự nghiệp chung của cả dân tộc. Báo chí
quân đội đã thông tin kịp thời, phân tích sâu sắc những diễn biến hằng ngày
trên các lĩnh vực, ở khắp mọi miền của Tổ quốc; phản ánh, tuyên truyền, nhân
lên các điển hình tiên tiến; tham gia giám sát, phản biện, đóng góp ý kiến xây
dựng các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; mở rộng quan hệ đối ngoại, quảng bá, giới thiệu
đất nước, con người, văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế… Đặc biệt, trên
mặt trận phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa,
báo chí đã phát huy thế mạnh, tích cực tham gia phản bác các luận điệu sai
trái, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch; bảo vệ quan điểm, đường
lối của Đảng; đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, các biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ. Nhiều cơ quan báo, đài, tạp chí của quân đội
đã xây dựng, duy trì và phát huy hiệu quả các chuyên trang, chuyên mục về
phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, viết và
đăng tải hàng chục nghìn tin, bài, tập trung đấu tranh phản bác các thông tin
bịa đặt, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch. Những bài đấu tranh,
phản bác đã bám sát hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, và các luận điểm chống phá của các
thế lực thù địch, tổ chức khá bài bản, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; có
nhiều tin, bài có lý luận và thực tiễn tốt, phân tích, luận giải sâu sắc, được độc
giả đón nhận và đánh giá cao. Thông qua tin, bài viết, những quan điểm,
đường lối của Đảng được bảo vệ; đồng thời, vạch trần rõ âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch, phản động, giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân nâng
41
cao nhận thức và hành động đúng, không bị mắc mưu các thế lực phản động.
Báo chí quân đội góp phần phân tích, luận giải, khẳng định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng chỉ đạo cơ bản trong sự nghiệp
xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã chứng minh, chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống tư tưởng
khoa học của giai cấp công nhân, là thế giới quan khoa học và phương pháp
luận của giai cấp và chính đảng của nó, nhằm đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự kế thừa các giá trị tốt đẹp
của dân tộc; của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Chính vì vậy, chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng Việt Nam. Đồng thời. báo chí
quân đội góp phần khẳng định chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất của
cách mạng Việt Nam, là sự lựa chọn phù hợp với quy luật và xu thế khách
quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng của nhân dân.
Thứ ba, đội ngũ nhà báo đồng thời cũng là quân nhân và công chúng
tiếp nhận chủ yếu là cán bộ, chiến sĩ quân đội và các tổ chức, cá nhân công
tác có liên quan đến lĩnh vực quân sự
Hiểu đúng các vấn đề là cơ sở để các nhà báo vững vàng tâm thế khi
đấu tranh với kẻ thù, và giữ vững tính Đảng là nguyên tắc hàng đầu của báo
chí nước ta, trở thành kỷ luật thông tin và bổn phận, trách nhiệm của nhà báo,
là yếu tố bảo đảm cho báo chí phục vụ hiệu quả lợi ích tối thượng của nhân
dân, của dân tộc. Đội ngũ nhà báo của báo chí quân đội được rèn luyện và
trưởng thành trong môi trường quân sự nên nắm vững các hoạt động của quân
đội, thường xuyên quán triệt về chính trị - tư tưởng. Ngoài chuyên môn báo
chí, họ được học tập nâng cao trình độ về huấn luyện quân sự, quốc phòng -
an ninh và các chuyên ngành theo đặc thù công tác, do đó khi sáng tạo tác
phẩm báo chí sẽ đảm bảo sát với thực tiễn hoạt động vũ trang.
42
Báo chí quân đội (báo in) được phát hành rộng rãi trong lực lượng vũ
trang, và các cấp bộ đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội. Báo
điện tử và phát thanh, truyền hình được truyền tải toàn quốc và quốc tế.
Nhưng với chế độ đặc thù hoạt động quân sự, đối tượng tiếp nhận chủ yếu là
quân nhân trong toàn quân. Do đó, trên nền tảng kiến thức quân sự, quân nhân
tiếp nhận thông tin trên báo chí quân đội sẽ nhanh chóng, hiệu quả và có phản
hồi, tương tác nhiều hơn đối tượng khác.
1.1.3. Báo Quân đội nhân dân
Báo QĐND là cơ quan của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng,
tiếng nói của lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam, là một trong những
cơ quan báo chí hàng đầu của Đảng, Nhà nước, Quân đội, đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Đảng ủy cơ quan Tổng cục Chính trị, sự chỉ đạo về mọi mặt
của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, tuyên truyền, phản ánh hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tuyên truyền trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội trong nước và quốc tế. Báo QĐND được phát hành
rộng rãi trong lực lượng vũ trang nhân dân và các cấp bộ đảng, chính quyền,
các tổ chức chính trị - xã hội. Với chức năng như trên, báo QĐND có những
nhiệm vụ như sau:
Tuyên truyền sâu rộng trong lực lượng vũ trang và toàn dân về hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa;
hướng dẫn, động viên, cổ vũ lực lượng vũ trang nhân dân và toàn dân tham gia
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, giữ vững ổn định chính
trị và trật tự an toàn xã hội, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội;
Thông tin và định hướng dư luận về các vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hoá, xã hội của đất nước và các vấn đề quốc tế đúng với quan điểm, đường
lối đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa;
Phát hiện, biểu dương những nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người mới Xã hội chủ nghĩa,
cổ vũ phong trào thi đua yêu nước trong các cấp, các ngành và toàn xã hội;
43
Tuyên truyền phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh; đấu tranh chống các quan điểm phản động, sai trái của các thế lực
thù địch, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa;
Xây dựng đội ngũ thông tin viên, cộng tác viên trong cả nước nhằm
nâng cao tính quần chúng và tính xã hội của báo QĐND;
Phát huy vai trò, uy tín và vị thế của báo QĐND, tích cực tham gia có
hiệu quả các hoạt động xã hội;
Hiện nay, báo QĐND có 4 ấn phẩm, gồm: báo QĐND hàng ngày 8
trang, số lượng phát hành 5 vạn bản; báo QĐND Cuối tuần 16 trang, số lượng
phát hành 2,8 vạn bản; nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng 32 trang, xuất bản
hàng tháng, phát hành 2,4 vạn bản; báo điện tử QĐND phiên bản tiếng Việt,
Anh, Trung Quốc, Lào, Khơme.
Để hoàn thành các nhiệm vụ nêu trên, những năm qua được sự quan
tâm của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cùng sự chỉ đạo sát sao của
Tổng cục Chính trị, báo QĐND đã thường xuyên nâng cao chất lượng nội
dung tin, bài, ảnh trên các ấn phẩm báo QĐND hàng ngày, báo QĐND Cuối
tuần, nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng, báo QĐND điện tử (phiên bản tiếng
Việt, tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Lào, tiếng Kherme). Đặc biệt, báo
thường xuyên chú trọng nâng cao chất lượng các bài viết chính luận, bình
luận, chuyên luận phân tích, bình luận sâu sắc về các vấn đề trong nước, quốc
tế có giá trị, góp phần định hướng dư luận và giáo dục bạn đọc. Hiện nay, báo
QĐND đang tích cực phấn đấu đến năm 2020 trở thành hệ thống báo điện tử
đa phương tiện, đa ngôn ngữ và là kênh thông tin đúng đắn, phong phú, sinh
động hấp dẫn; đồng thời tận dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, mở
rộng phạm vi ảnh hưởng của tờ báo trong lực lượng vũ trang và nhân dân cả
nước cũng như đáp ứng tốt yêu cầu phục vụ tuyên truyền thông tin đối ngoại
của Đảng, Nhà nước, quân đội trên phạm vi toàn cầu.
Về cơ cấu tổ chức, Báo QĐND tổ chức các phòng ban theo chức trách
44
chuyên môn, riêng khối nội dung được tổ chức theo chuyên trang được thể
hiện trên mặt báo. Hiện nay, Báo QĐND có cơ cấu 23 phòng, ban bao
gồm: Ban biên tập; Phòng Thư ký tòa soạn; Phòng biên tập Quốc phòng - an
ninh; Phòng biên tập Công tác đảng, Công tác chính trị; Phòng biên tập Văn
hóa - Thể thao; Phòng biên tập Kinh tế - Xã hội - Nội chính; Phòng biên tập
Thời sự quốc tế; Phòng Bạn đọc - Cộng tác viên và Hoạt động xã hội; Phòng
biên tập báo QĐND Cuối tuần; Phòng biên tập nguyệt san Sự kiện và Nhân
chứng; Phòng biên tập báo QĐND Điện tử; Phòng Phát hành - Quảng cáo;
Phòng Công nghệ Thông tin; Ban Ảnh; Ban đại diện báo QĐND tại TP Hồ
Chí Minh; Ban đại diện báo QĐND tại Đồng bằng Sông Cửu Long; Ban đại
diện báo QĐND miền Trung - Tây Nguyên; Cơ quan thường trực Nam Trung
Bộ; Cơ quan thường trực báo QĐND tại Quân khu 4; Cơ quan thường trú báo
QĐND tại Tây Bắc (Điện Biên); Phòng Chính trị; Phòng Trị sự - Hành
chính; Ban Tài chính; Ban Tư liệu.
Ngoài ra, để kịp thời thu thập thông tin tại các địa bàn trọng yếu, vùng
sâu, vùng xa, từ nhiều năm nay Báo QĐND đã tổ chức điều chỉnh, sắp xếp
phóng viên thường trú các khu vực miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Hồ
Chí Minh tác nghiệp tại các địa bàn Gia Lai, Buôn Mê Thuột, Đà Lạt, Nha
Trang đang phát huy hiệu quả thiết thực.
Để đáp ứng nhiệm vụ thông tin tuyên truyền, Báo QĐND phấn đấu đến
năm 2020 là một cơ quan báo chí đa ấn phẩm, đa phương tiện, đa ngôn ngữ,
với tính chuyên nghiệp cao và hiện đại.
1.1.4. Kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam
Ngày 19/5/2013, nhân kỷ niệm 123 năm ngày sinh Bác Hồ, Lãnh tụ vĩ
đại của Nhân dân Việt Nam, Bộ Quốc phòng đã ra mắt kênh truyền hình
QPVN, phát sóng trên phạm vi toàn quốc. Kênh truyền hình QPVN là kênh
truyền hình độc lập của Bộ Quốc phòng, là cơ quan ngôn luận của Quân ủy
Trung ương, của Bộ Quốc phòng và là tiếng nói của lực lượng vũ trang và
nhân dân Việt Nam.
45
Kênh truyền hình QPVN bắt đầu chạy thử nghiệm từ tháng 2/2013 và
chính thức lên sóng toàn quốc sau đó 3 tháng, vào ngày 19/5/2013. Thời gian
đầu, kênh truyền hình QPVN phát sóng 18,5 giờ mỗi ngày, trong đó thời
lượng phát nội dung mới lên đến 9 giờ. Sau 3 tháng, kênh phát sóng 24/24h,
chương trình sản xuất mới lên tới hơn 10 tiếng/ngày.
Kênh có nội dung phong phú với 55 format, 7 nhóm nội dung chương
trình cơ bản, gồm: tin tức, tài liệu - chính luận, tài liệu - nhân văn, phim
truyện, thể thao - giải trí, tiếp sóng và phát lại chương trình của VTV, giới
thiệu chương trình và đệm sóng.
Qua các chương trình, quân dân cả nước được xem những tin tức thời
sự trong và ngoài nước; phản ánh, bình luận hoạt động quốc phòng, các hoạt
động chính trị, xã hội theo định hướng tuyên truyền của Đảng, Nhà nước; các tin
tức về kinh tế quốc phòng, hoạt động sản xuất, kinh doanh ở các khu kinh tế -
quốc phòng và các doanh nghiệp Quân đội. Bên cạnh đó, khán giả còn được xem
các chuyên đề, phim tài liệu chính luận về lịch sử, quân sự, vũ khí trong nước và
thế giới theo góc nhìn quốc phòng của Việt Nam,... Ngoài ra, kênh cũng giới
thiệu lịch sử truyền thống các đơn vị, quân binh chủng của QĐND Việt Nam,
giới thiệu các danh tướng đất Việt, các anh hùng lực lượng vũ trang trong lịch
sử, các trận đánh lịch sử của dân tộc Việt Nam...
Về hạ tầng phát sóng: Kênh truyền hình QPVN được xây dựng trên hệ
thống công nghệ xử lý tín hiệu thành phần bằng kỹ thuật số (DIGITAL-
COMPONENT) với chuẩn hình độ phân giải cao HD. Hệ thống trang thiết bị
xử lý tín hiệu đồng bộ từ tiền kỳ đến hậu kỳ và phát sóng, đảm bảo số hóa dữ
liệu 100% và được lưu trữ tập trung trên nền Itbase. Quy trình số hóa, lưu trữ
tập trung, quy trình phát sóng toàn bộ bằng file tạo thuận lợi cho kỹ thuật viên
vận hành hệ thống. Kênh phát sóng trên toàn quốc thông qua các hệ thống
truyền dẫn, phát sóng của VTV, VCTV (truyền hình cáp Đài truyền hình Việt
Nam), SCTV (truyền hình cáp Sài Gòn), BTS (truyền hình cáp Hà Nội),
HTVC (truyền hình cáp TP.HCM), One TV (dịch vụ truyền hình của FTP),
46
Next TV (dịch vụ truyền hình của Viettel). Lượng khán giả có cơ hội xem
kênh trên tất cả các hệ thống truyền dẫn phát sóng hiện nay là xấp xỉ 4 triệu
thuê bao truyền hình cáp và truyền hình trả tiền, trên 4 triệu thuê bao truyền
hình số mặt đất, hơn 3,5 triệu thuê bao vệ tinh phát sóng quảng bá và một
lượng khán giả không nhỏ theo dõi qua internet...
Kênh truyền hình QPVN được Bộ Quốc phòng giao cho 2 đơn vị phối
hợp sản xuất, Công ty Truyền thông Viettel và Trung tâm PT-TH Quân đội.
Mặc dù, cả 2 đơn vị cùng sản xuất nội dung song thế mạnh của Viettel là cung
cấp trang thiết bị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, còn thế mạnh của Trung tâm PT-TH
Quân đội là sản xuất nội dung chương trình. Giám đốc của Trung tâm PT-TH
Quân đội là Tổng biên tập của Kênh truyền hình QPVN.
Để sẵn sàng cho kênh truyền hình QPVN lên sóng, nhiều công tác đã
được chuẩn bị. Đặc biệt trong đó phải kể tới là việc ra đời Trung tâm PT-TH
Quân đội. Cũng vào ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sáng ngày
19/5/2011, trước khi kênh truyền hình QPVN lên sóng 2 năm, Bộ Quốc phòng
đã công bố quyết định thành lập Trung tâm PT-TH Quân đội, dựa trên cơ sở
sáp nhập hai phòng Phát thanh Quân đội Nhân dân và Truyền hình Quân đội
Nhân dân thuộc Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị. Sau khi thành lập,
Trung tâm là cơ quan báo hình, báo nói trực thuộc Tổng cục Chính trị, với
chức năng là cầu nối thông tin giữa lãnh đạo, chỉ huy của Quân đội và cán bộ,
chiến sĩ trong toàn quân. Đặc biệt, Trung tâm có nhiệm vụ đảm bảo thiết lập
và hoạt động của kênh PT-TH Quân đội độc lập, duy trì và nâng cao chất
lượng các chương trình phát thanh, truyền hình QĐND trên sóng Đài tiếng
nói Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam. Tuyên truyền về nhiệm vụ quân
sự - quốc phòng của đất nước, của các đơn vị, địa phương trên cả nước về xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận nhân dân; thông tin, tuyên
truyền về xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại với 3 chức năng là quân đội chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao
động sản xuất; phản ánh phong trào thi đua quyết thắng, hoạt động công tác
47
đảng, công tác chính trị, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, phát huy
phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong mọi hoàn cảnh.
1.2. Lý luận chung về nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân
trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Khái niệm quân nhân
Theo từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, quân nhân là công dân
đang phục vụ trong quân đội, gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và quân nhân
chuyên nghiệp. Trong QĐND Việt Nam, ngoài nghĩa vụ, quyền lợi theo Luật
Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam và các điều lệnh, điều lệ
của Quân đội, quân nhân còn nghĩa vụ và quyền lợi của công dân qui định
trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chức trách quân
nhân được quy định trong Điều lệnh quản lí bộ đội.
Sĩ quan QĐND Việt Nam (sĩ quan) là cán bộ của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động trong lĩnh
vực quân sự, được Nhà nước phong quân hàm cấp Úy, cấp Tá, cấp Tướng.
Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ (binh sĩ) là công dân Việt Nam thực hiện
nghĩa vụ quân sự được phong, thăng cấp bậc hàm Thượng sĩ, Trung sĩ, Hạ sĩ,
Binh nhất, Binh nhì.
Quân nhân chuyên nghiệp là quân nhân có trình độ chuyên môn kĩ
thuật, nghiệp vụ cần thiết cho công tác chỉ huy, chiến đấu và sẵn sàng chiến
đấu của quân đội, tự nguyện phục vụ tại ngũ, dài hạn hoặc từng thời hạn và
được phong cấp bậc quân hàm quân nhân chuyên nghiệp theo quy định của
Luật quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng.
Như vậy, quân nhân là sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và quân nhân
chuyên nghiệp đang thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao trong QĐND
Việt Nam.
1.2.2. Khái niệm nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân
Thuật ngữ giáo dục chính trị - tư tưởng, theo “Từ điển giải thích thuật
ngữ quân sự”, được định nghĩa: “giáo dục chính trị - tư tưởng, quá trình tác
48
động liên tục, có cơ sở khoa học, có định hướng vào đối tượng giáo dục nhằm
bồi dưỡng cho họ khả năng nhận thức chính trị đúng đắn, thái độ chính trị
phù hợp với quan điểm cách mạng, tinh thần kiên định đấu tranh vì chủ nghĩa
xã hội” [14, tr.259]. Giáo dục chính trị - tư tưởng là một nội dung cơ bản
trong việc đào tạo, rèn luyện quân nhân cách mạng, được tiến hành một cách
thường xuyên, có hệ thống đối với mỗi quân nhân trong suốt quá trình tại ngũ,
bằng huấn luyện chính trị theo các chương trình phù hợp với từng cấp quân
nhân, bằng công tác tuyên truyền và vận động chính trị và bằng sinh hoạt tập
thể trong quân đội.
Trong luận án tiến sĩ triết học “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị
- tư tưởng trong quân đội trước yêu cầu mới của cuộc đấu tranh tư tưởng ở
nước ta hiện nay”, tác giả Nguyễn Văn Cần đã đưa ra định nghĩa:
Giáo dục chính trị - tư tưởng trong quân đội là quá trình tác động có
mục đích, có tổ chức, có hệ thống của Đảng vào ý thức của cán bộ, chiến sĩ để
truyền bá những tư tưởng chính trị cơ bản, cốt lõi là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, làm cho chúng thấm sâu, chiếm vị trí thống trị tuyệt đối trong đời sống
tinh thần, định hướng suy nghĩ và hành động của cán bộ, chiến sĩ; xây dựng
cho họ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, bản lĩnh chính trị vững
vàng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; bồi dưỡng cho họ năng lực thực
hiện những tư tưởng chính trị của Đảng trong chiến đấu và mọi hoạt động
chính trị xã hội khác; tập hợp, đoàn kết, động viên, cổ vũ họ hành động tích
cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp
phần củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội [10, tr.11].
Nghĩa là, giáo dục chính trị - tư tưởng trong quân đội ta là sự thống
nhất tư tưởng của cấp uỷ, chỉ huy các cấp đối với đời sống tinh thần của cán
bộ, chiến sĩ, để truyền bá, thiết lập vị trí khoa học duy nhất đúng đắn của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng, rèn luyện cho quân nhân thế giới quan
49
khoa học, bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống cách mạng, hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân QĐND Việt Nam được hình
thành qua việc tiếp thu tri thức từ bốn con đường, biện pháp giáo dục chính trị -
tư tưởng, bao gồm: thông qua hoạt động huấn luyện, dạy học; các hoạt động giáo
dục thường xuyên ở đơn vị; phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức chính trị -
xã hội của đơn vị; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa: Nhận thức chính trị -
tư tưởng của quân nhân là kết quả tiếp thu tri thức chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước để họ hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, bản lĩnh
chính trị vững vàng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa vì mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần củng cố vững chắc trận địa tư tưởng
của Đảng trong quân đội.
1.2.3. Yêu cầu của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân
nhân trong điều kiện hiện nay
Dưới góc độ khoa học và quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quân đội do Đảng Cộng sản tổ chức ra bao giờ cũng
mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc, là lực lượng chính trị trung thành
để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động; xây dựng quân đội về chính trị là một nguyên tắc căn bản trong
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng.
Quân đội là một hiện tượng lịch sử. Quân đội ra đời trong giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu và loài
người bị phân chia thành các giai cấp. Sự xuất hiện của quân đội trong lịch sử
gắn liền với sự xuất hiện của các chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước và chiến
tranh. Quân đội là công cụ để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp,
một nhà nước nhất định.
Quân đội là lực lượng vũ trang để bảo vệ đất nước, chủ quyền, toàn vẹn
50
lãnh thổ, chống kẻ thù đe dọa độc lập, chủ quyền của nhân dân. Quân đội xuất
hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực
hiện chính trị. Mọi mặt hoạt động của quân đội đều bị quy định bởi chính trị
và phụ thuộc vào chính trị. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ,
các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giữa quân đội với giai cấp, với chế độ xã
hội, với nhân dân, với dân tộc. Quân đội bao giờ cũng gắn chặt với giai cấp,
nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc, không có và không
thể có quân đội “phi chính trị” hoặc “đứng ngoài chính trị”.
Trong khi chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện của quân đội, để làm
cho quân đội kiểu mới thực sự trung thành và phục vụ lợi ích của giai cấp,
V.I.Lê nin hết sức chăm lo xây dựng về chính trị, nhất là chăm lo củng cố và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, coi đây là vấn đề sống
còn, là một trong những nguyên tắc hết sức cơ bản trong xây dựng quân đội
kiểu mới.
Trong quá trình xây dựng quân đội về chính trị; xây dựng, củng cố và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, V.I.Lê nin đã thường
xuyên quan tâm xây dựng trên cả ba phương diện chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Đó là việc kiên định và thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai
cấp công nhân; giáo dục hệ tư tưởng Mác-Lênin, thực hiện đường lối nguyên
tắc tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan quân đội
theo quan điểm, đường lối giai cấp công nhân. Mặt khác, chú trọng xây dựng,
củng cố, phát triển mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân; tăng cường xây
dựng các mối quan hệ trong nội bộ quân đội trên tinh thần đoàn kết, dân chủ,
kỉ luật, trên cơ sở thống nhất về nghĩa vụ và quyền lợi; tăng cường, phát triển
mối quan hệ hữu nghị giữa quân đội các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần
quốc tế vô sản.
Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên quân đội nước ta là Quân
đội nhân dân, với ý nghĩa "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì
nhân dân phục vụ". Việc lấy tên là "Quân đội nhân dân" với mục đích thể hiện
51
và giữ vững bản chất giai cấp cùng yếu tố dân tộc của quân đội, đây là đội
quân có nguồn gốc nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ nền độc lập thống nhất và bản sắc dân tộc. Quân đội nhân
dân Việt Nam là một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân. Quân đội
nhân dân thực hiện sứ mệnh giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm
nòng cốt.
Do đó, công tác tư tưởng, công tác tổ chức là hai mặt hoạt động cơ bản,
chủ yếu của công tác đảng, công tác chính trị; kết hợp công tác tư tưởng với
công tác tổ chức là một nguyên tắc căn bản trong mọi hoạt động của công tác
đảng, công tác chính trị; nó được tiến hành gắn liền với quá trình và từng
bước phát triển, hoàn thiện của công tác đảng, công tác chính trị.
Tiến hành công tác đảng, công tác chính trị là một nguyên tắc cơ bản
trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. V.I.Lênin - Người
đặt nền móng cho công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội kiểu mới
của giai cấp công nhân đã khẳng định: “...ở đâu kỷ luật giữ được vững nhất, ở
đâu mà công tác chính trị trong quân đội, công tác của các chính ủy làm được
chu đáo nhất, thì ở đấy, nói chung, trong số chuyên gia quân sự ít thấy có
khuynh hướng phản bội hơn cả; ở đấy có rất ít cơ hội cho họ thực hiện ý định
của họ; ở đấy không hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân đội giữ gìn
được trật tự tốt hơn, và tinh thần của họ cũng cao hơn; ở đấy thu được nhiều
thắng lợi hơn...”. [55, tr.66].
Những bài học rút ra từ việc đổ vỡ hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX là sự cảnh tỉnh cho những ai xa rời
những nguyên lý, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng quân đội
kiểu mới, nhất là vấn đề xây dựng quân đội về chính trị, củng cố và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân quân đội kiểu mới.
Trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào
thực tiễn cách mạng nước ta, ngay từ khi tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang
52
cách mạng, xây dựng quân đội, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi
trọng xác lập và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ trong quân đội cách mạng công tác chính trị không thể
thiếu thốn, trái lại là công tác rất cần. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị và quân sự mà không có
chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng quân đội về chính trị gắn liền với những quan điểm xây dựng quân
đội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những tư tưởng đó là cơ sở cho xây dựng
quân đội vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
xác lập và không ngừng nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị;
xây dựng tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh và xây dựng đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, Đảng ta xác định:
“Tiến hành công tác đảng, công tác chính trị là một nguyên tắc trong xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng” (Nghị quyết số 27/NQ-TW
ngày 4/7/1985 của Bộ Chính trị về: “Tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam với sự nghiệp quốc phòng”).
Thực tiễn xây dựng QĐND Việt Nam và kinh nghiệm xây dựng quân đội
kiểu mới của các nhà nước xã hội chủ nghĩa đã chứng minh vai trò to lớn, không
thể thiếu của công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng, huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nghị quyết 79/NQ-ĐUQSTW của
Đảng ủy Quân sự Trung ương (tháng 3 năm 1992) khẳng định: “Xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng luôn được coi trọng hàng đầu”
Nội dung hoạt động chính về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
trong quân đội được biên soạn trong giáo trình Công tác Đảng, công tác chính
trị do Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam dành cho việc đào tạo sĩ quan cấp
phân đội như sau:
Thứ nhất, giáo dục những quan điểm tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa
53
Mác-Lênin, nhất là học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội, làm cơ
sở, nền tảng cho việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học
của mỗi cán bộ, chiến sĩ;
Thứ hai, giáo dục tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh giúp cho thực tiễn
hoạt động quân sự có hiệu quả. Triển khai thực hiện cuộc vận động của Bộ
Chính trị, Trung ương Đảng về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến
tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” của Thường vụ Quân ủy Trung ương (Chỉ
thị 788-CT/QUTW). Giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống văn hóa cho cán
bộ, chiến sĩ để cán bộ, chiến sĩ vượt qua khó khăn thử thách, hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao, để tuyệt đại đa số cán bộ, chiến sĩ quân đội có đạo đức cách
mạng trong sáng, lối sống giản dị và có thái độ kiên quyết đấu tranh phê phán
các quan điểm, tư tưởng sái trái, lạc hậu, lối sống thực dụng, thấp hèn, góp phần
đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Thứ ba, giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, kỉ luật quân đội: Tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt các
nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị các khóa và Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương...;
Giáo dục pháp luật Nhà nước và kỷ luật quân đội, làm cho cán bộ, chiến sĩ
hiểu rõ vị trí, vai trò, bản chất của pháp luật Nhà nước và kỷ luật quân đội,
nâng cao ý thức tự giác rèn luyện, chủ động điều chỉnh thái độ, hành vi, tạo sự
thống nhất về ý chí và hành động trong toàn quân. Giáo dục để cán bộ, chiến
sĩ hiểu rõ những vấn đề pháp luật có liên quan đến đời sống sinh hoạt và hoạt
động của quân đội, nêu cao ý thức sống và làm việc theo pháp luật, đấu tranh
với những vi trái pháp luật, dũng cảm ủng hộ cái đúng, cái tốt đẹp, đề cao cái
thiện, đấu tranh loại bỏ cái xấu, lên án cái ác, thực hiện chính quy hóa trong
xây dựng quân đội.
Thứ tư, giáo dục, tuyên truyền đường lối, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm
vụ quân đội, nâng cao ý chí chiến đấu, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân đội,
54
nâng cao ý chí chiến đấu, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được coi là “công tác
chủ yếu trong toàn bộ công tác tư tưởng”, là một trong những điều kiện đầu
tiên, quyết định thắng lợi mọi nhiệm vụ của quân đội” trong giai đoạn hiện nay.
Thứ năm, giáo dục lịch sử truyền thống, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa
xã hội, nhất là truyền thống quân đội và truyền thống từng đơn vị; bồi dưỡng
cho cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần đạo lý “uống nước, nhớ nguồn”, từ đó nâng
cao lòng nhiệt tình cách mạng, ý thức trách nhiệm sâu sắc về bản chất, mục
tiêu, chức năng, nhiệm vụ của quân đội; giáo dục nhiệm vụ quốc tế vô sản,
động viên cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng chiến đấu hy sinh làm tròn nghĩa vụ quốc
tế với cách mạng Lào và Campuchia.
Thứ sáu, giáo dục nhận biết âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, đặc biệt là
chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chúng; giáo dục tính tự
giác, tích cực trong lĩnh hội kiến thức, kỹ năng quân sự, biến thành niềm tin,
bản lĩnh cho cán bộ, chiến sĩ.
1.3. Những vấn đề lý luận chung về ảnh hưởng của báo chí quân
đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân
1.3.1. Khái niệm về ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận
thức chính trị - tư tưởng của quân nhân
Theo Điều 3 Luật Báo chí năm 2016 “Báo chí là sản phẩm thông tin về
các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm
thanh, được sáng tạo, xuất bản định kì và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo
công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử”.
Báo chí phản ánh sự vận động của xã hội, là một thành tố văn hóa của
mỗi cộng đồng, quốc gia - dân tộc và nhân loại. Ngay từ khi ra đời, báo chí đã
khẳng định vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, là một phương tiện
truyền thông không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
Quá trình hình thành và phát triển của báo chí hiện đại luôn chịu sự tác
động của chế độ chính trị xã hội. Bởi vì, báo chí ra đời và phát triển trong xã
hội có giai cấp. Như Lênin đã đưa ra khái niệm về giai cấp là “những tập đoàn
55
to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường
thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như
vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc
nhiều mà họ được hưởng” [55, t39, tr 17-18]. Trên cơ sở khả năng tích tụ của
cải và thống nhất về lợi ích, xã hội xuất hiện giai cấp. Tập đoàn người sở hữu
nhiều về của cải, lợi ích trở thành giai cấp thống trị đối với số người có ít của
cải lợi ích hơn. Để đảm bảo sự tồn tại, phát triển thuận lợi cho lợi ích của
mình, giai cấp thống trị sẽ tìm mọi biện pháp đấu tranh giải quyết các mâu
thuẫn thông qua các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, tôn giáo,
thông tin... Trong đó, báo chí là phương thức hoạt động chính trị xã hội có
tính chất sáng tạo tham gia trực tiếp vào các mối quan hệ xã hội, can thiệp vào
quá trình vận động của xã hội, có uy lực quan trọng trong đời sống thường
ngày của nhân dân. Do đó “hoạt động báo chí bị ảnh hưởng có tính chất chi
phối của các mối quan hệ giai cấp, phản ánh quyền lợi và đấu tranh nhằm
thực hiện các mục tiêu của một giai cấp nhất định”[75].
Trong mọi thời điểm, báo chí luôn có những tác động mạnh mẽ tới mọi
mặt của đời sống xã hội, làm thay đổi nhận thức và hành vi con người và tổ
chức xã hội. Bên cạnh tác dụng định hướng dư luận, báo chí còn có vai trò
quan trọng trong giáo dục một cách hệ thống và liên tục nhằm hình thành
những nền tảng ý thức, tư tưởng, tình cảm tốt đẹp và vững chắc cho công
chúng, góp phần to lớn vào việc xây dựng nền tảng tinh thần của con người và
xã hội. Báo chí có lợi thế lớn trong chức năng giáo dục. Các thông tin khách
quan thông qua các hình thức tuyên truyền phong phú được công chúng tiếp
nhận một cách tự nhiên. Mục đích giáo dục là làm cho các yếu tố tiên tiến,
tích cực, từng ngày, từng giờ tác động vào tất cả các tầng lớp công chúng
trong xã hội, đây là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho nhân dân luôn có thái
độ, ý thức hướng về những giá trị tích cực trong xã hội, biết cảnh giác và chọn
56
lọc, loại thải những thông tin tiêu cực hoặc thông tin nhằm mục đích phá hoại.
Kết quả của giáo dục, ở một khía cạnh nào đó, có ý nghĩa như sự miễn dịch
đối với những tác động về mặt tư tưởng từ phía kẻ thù của chế độ. Theo đó
báo chí cần làm tốt việc giáo dục, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân
dân để mọi cá nhân luôn quan tâm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc; ngăn chặn xu hướng lai căng, pha tạp về văn hóa, khắc phục tâm lý tự ti
dân tộc, sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn;
phê phán lối sống buông thả, tâm lý vọng ngoại, xa rời bản sắc dân tộc.
Báo chí là một trong những phương tiện quan trọng của Đảng thực hiện
chức năng giáo dục chính trị - tư tưởng. Hoạt động giáo dục chính trị - tư
tưởng trên báo chí dựa trên sự tác động có tính thuyết phục bằng việc thông
tin các sự kiện, hiện tượng, các vấn đề của đời sống hiện thực mà trong đó
hàm chứa những giá trị cần khẳng định. Để bảo đảm tính thuyết phục đối với
những giá trị ấy, báo chí phải đưa ra được những minh chứng dựa trên những
cơ sở vững chắc cho các nhận định, đánh giá và luận điểm của mình. Sự minh
chứng chặt chẽ và khoa học kết hợp với sự phản ánh kịp thời, phong phú các
sự kiện, hiện tượng, vấn đề của đời sống hiện thực là cơ sở để tạo nên một
chất lượng mới trong nhận thức của công chúng - sự nhận thức một cách lý
trí, tự giác những quan điểm về cuộc sống, những lý tưởng xã hội, những giá
trị của hiện thực. Đó là những nền tảng tác động và định hướng tính chất, mức
độ của chính kiến, niềm tin và tình cảm cách mạng của công chúng - chất
lượng mà công tác giáo dục chính trị tư tưởng cần phải hướng tới. Đây chính
là sự ảnh hưởng của báo chí truyền thông đối với công chúng. Trong truyền
thông đại chúng, khả năng và mức độ ảnh hưởng là một sự kết hợp hiệu quả
của cả ba yếu tố, chủ thể truyền thông; thông điệp; đối tượng tiếp nhận. Người
truyền đạt muốn thông điệp của họ truyền tải qua các phương tiện thông tin
đại chúng sẽ được người nghe tiếp nhận và chấp thuận. Trong quá trình truyền
thông tùy vào nguồn phát, thông điệp, kênh truyền thông và sự tiếp nhận của
công chúng mà đạt được hiệu quả truyền thông. Hiệu quả truyền thông hay
57
nói cách khác là ảnh hưởng của truyền thông là mức độ tạo ra những hiệu ứng
xã hội phù hợp với mục đích của chủ thể truyền thông - đó là thay đổi được
nhận thức, thái độ và hành vi của công chúng. Từ các quan niệm nêu trên, có
thể hiểu "Ảnh hưởng là sự tác động nhằm tạo ra những hiệu ứng xã hội phù
hợp với mục đích của chủ thể đó là thay đổi được nhận thức, thái độ và hành
vi của một người, nhóm người hay cả công chúng".
Mục tiêu của một phương tiện thông tin đại chúng và một nhà báo
muốn đạt tới lại có bản chất chủ quan và do đó, có thể ở mức độ lớn hơn hoặc
nhỏ hơn, khác biệt với trạng thái cần thiết khách quan. Vì vậy, các nhà báo
hoạt động sáng tạo báo chí đều hết sức cần xem xét những mục tiêu đề ra
trong bối cảnh những nhu cầu khách quan của phát triển xã hội đối với một
tình huống cụ thể mà xung quanh đó hoạt động báo chí diễn ra. Không phải
ngẫu nhiên mà người ta luôn nhấn mạnh rằng, báo chí xem nhiệm vụ của
mình là thỏa mãn các nhu cầu của xã hội thông tin. Nhu cầu về thông tin - đó
là nhu cầu về tổng thể những thông tin mà xã hội cần đến để hoạt động bình
thường và phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, tinh thần và
những lĩnh vực khác. Báo chí có sứ mạng hoàn thành vai trò đặc thù của mình
trong việc đảm bảo thông tin về những nhu cầu ấy. Tuy nhiên, việc đáp ứng
nhu cầu thông tin còn phải xét đến thời điểm cụ thể của lịch sử về khả năng
của báo chí, trình độ của cán bộ, mức độ đảm bảo về các nguồn lực, về thông
tin, và cả năng lực sử dụng, khai thác của người sử dụng thông tin đều có giới
hạn. Vì vậy, hiệu quả của báo chí là mức độ mà báo chí đạt đến các mục tiêu
đáp ứng những nhu cầu của xã hội về thông tin đại chúng có tính đến những
khả năng thực tế của những người sản xuất thông tin, cũng như của người sử
dụng thông tin. Và trong báo chí quân đội, người sản xuất thông tin là các cơ
quan báo chí của quân đội và người sử dụng thông tin chủ yếu là các quân
nhân. Hiệu quả của sự ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức
chính trị tư tưởng của quân nhân chính là mức độ của việc đáp ứng nhu cầu
thông tin về chính trị - tư tưởng và cả việc tiếp cận, khai thác, sử dụng, tiếp
58
thu nguồn thông tin đó của quân nhân trong toàn quân. Nhận thức chính trị -
tư tưởng của quân nhân QĐND Việt Nam được hình thành qua việc tiếp thu
tri thức từ công tác giáo dục chính trị - tư tưởng và tiếp thu từ nguồn nghiên
cứu tài liệu, sách, báo chí có sự định hướng theo đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước và Quân đội.
Trong quân đội, việc tuyên truyền định hướng qua kênh báo chí quân
đội là một phương thức giáo dục chính trị - tư tưởng có sức ảnh hưởng mạnh
mẽ đến quân nhân trong toàn quân và là một bộ phận của báo chí cách mạng
Việt Nam. “Giáo dục là một trong những chức năng có tính mục đích trong
hoạt động tư tưởng của báo chí. Giáo dục chính trị - tư tưởng nhằm biến tri
thức mà mỗi con người thụ nhận được thành chất lượng nội tại, thành quan
điểm và lập trường tích cực của bản thân họ”[78, tr.93]. Sự ảnh hưởng của
báo chí quân đội chính là sự giáo dục chính trị - tư tưởng thông qua việc định
hướng tuyên truyền một cách chính xác đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước.
Vì vậy, từ những phân tích, luận giải trên trên, có thể rút ra định nghĩa:
"Ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của
quân nhân là sự tác động của báo chí quân đội đối với quá trình hình thành
và thay đổi nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân phù hợp với yêu cầu
đặt ra".
1.3.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước, Quân đội định hướng đối với
báo chí quân đội trong giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân
Báo chí quân đội luôn khẳng định được vai trò, vị trí của mình, thực sự
là công cụ đắc lực, đóng góp trực tiếp và hiệu quả vào công tác tư tưởng, lý
luận của Đảng, góp phần quan trọng vào việc xây dựng QĐND Việt Nam
không ngừng trưởng thành, lớn mạnh; động viên, cổ vũ lớp lớp cán bộ, chiến
sĩ lực lượng vũ trang và toàn dân hoàn thành thắng lợi công cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những
59
diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản, Quân đội
vẫn phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức rất lớn; các thế lực thù địch
tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy tự diễn biến, tự
chuyển hóa; thực hiện âm mưu phi chính trị hóa quân đội... Đặc biệt, trước
thềm các Đại hội Đảng toàn quốc, các thế lực thù địch, cơ hội phản động đang
tập trung đẩy mạnh chống phá cương lĩnh, đường lối chính trị, nhân sự của
Đảng. Một trong những phương thức, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù là sử
dụng truyền thông, mạng xã hội để hạ uy tín của Quân đội, đòi xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; chia rẽ tình đoàn kết quân - dân, hạ uy
tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội...
Tình hình trên đặt ra cho công tác tư tưởng, văn hóa, công tác thông tin,
tuyên truyền báo chí và đội ngũ những người làm báo trong Quân đội những
yêu cầu rất mới, rất toàn diện, cả về nội dung, hình thức, phương pháp thông
tin tuyên truyền; cả về bản lĩnh, tư duy, trí tuệ, năng lực sáng tạo và tính
nguyên tắc, kỷ luật của đội ngũ những người làm báo.
Đối với đội ngũ những người làm báo, tại Đại hội lần thứ 2 Hội nhà
báo Việt Nam ngày 16.4.1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có lời dạy: “Nhiệm
vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành nhiệm vụ
ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập
trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hóa, phải đi sâu vào
nghiệp vụ của mình. Cần phải luôn luôn cố gắng, mà cố gắng thì nhất định
thành công”.
Để hoàn thành trọng trách nặng nề và sứ mệnh vẻ vang, quán triệt các
chỉ thị, yêu cầu của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cơ quan quản
lý, thông tấn, báo chí, xuất bản và đội ngũ những người làm báo trong Quân
đội tiếp tục tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường
lối quan điểm của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công
tác tư tưởng, lý luận, văn hóa, công tác thông tin tuyên truyền, nhất là Nghị
quyết Trung ương 5, khóa X “Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước
60
yêu cầu mới” đã chỉ rõ: “Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp
thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ
thành tựu của công cuộc đổi mới. Coi trọng đúng mức việc phát hiện, biểu
dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp phần ngăn
chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu các tiêu cực và tệ
nạn xã hội; phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản
động, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng; tiếp tục phát
huy tiềm lực và ưu điểm, khắc phục những yếu kém, khuyết điểm, nâng cao
chất lượng tư tưởng, tính hấp dẫn, mở rộng đối tượng độc giả, vươn lên hiện
đại về mô hình tổ chức hoạt động, về cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ”.
Triển khai và thực hiện tốt đề án “Hiện đại hóa các cơ quan báo chí
quân đội giai đoạn 2014-2018”; gắn với việc quán triệt, triển khai thực hiện
tốt Kết luận của Bộ Chính trị về thực hiện đề án “Quy hoạch báo chí toàn
quốc đến năm 2025”. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ phóng
viên, biên tập viên, các nhà quản lý báo chí đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của nhiệm vụ trong tình hình mới.
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc, tôn chỉ, mục đích trong
hoạt động báo chí, báo chí quân đội có nhiệm vụ thông tin tuyên truyền về các
vấn đề như sau:
Thứ nhất, Tuyên truyền lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quán triệt các nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị đến từng cán bộ, chiến sĩ để nâng
cao nhận thức, nhiệt tình cách mạng, kiên quyết thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, Làm cho bộ đội nhận rõ kẻ thù, luôn luôn nêu cao cảnh giác
cách mạng, lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế vô sản, nâng
cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu quên
mình bảo vệ Tổ quốc.
61
Thứ ba, Tuyên truyền đạo đức cách mạng, truyền thống vẻ vang của
dân tộc, giai cấp công nhân, của Đảng, của quân đội và đơn vị, giáo dục ý
thức tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa và điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy
định của quân đội. Xây dựng lối sống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, sống có lý
tưởng, trong sạch, lành mạnh, trung thực, có ý thức bảo vệ của công, chăm lo
lợi ích của đơn vị và của đất nước. Phê phán lối sống thực dụng, dối trá, ích
kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền.
Thứ tư, Bồi dưỡng kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật quân sự cần
thiết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ phát huy
tinh thần tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo, có ý thức trách nhiệm cao,
làm việc có hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Thứ năm, Tuyên truyền để bộ đội vận động nhân dân nơi đóng quân
chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Thứ sáu, Tích cực đấu tranh chống những tàn tích văn hóa phong kiến,
thực dân, tư sản. Kịp thời ngăn chặn và đạp tan mọi âm mưu, hoạt động
phản tuyên truyền của địch reo rắc vào trong đơn vị. Bài trừ mọi hủ tục mê
tín, dị đoan.
Như vậy, căn cứ vào nhiệm vụ tuyên truyền do Đảng, Nhà nước, Quân
đội giao cho, nội dung định hướng giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí
quân đội được xác định bao gồm 6 chủ đề: Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin;
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh; giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng;
giáo dục nhiệm vụ chính trị quân đội và đơn vị; giáo dục truyền thống dân
tộc, quân đội và đơn vị; giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Với
6 nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng, báo chí quân đội giáo dục thế giới
quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng cho quân nhân, đặc biệt là học
viên quân sự, tạo cho họ niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định đi theo
con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là độc lập dân tộc
62
gắn liền với Chủ nghĩa xã hội để xác định phương hướng lập thân, lập nghiệp;
có mục tiêu lý tưởng phấn đấu rõ ràng, có năng lực trong giải quyết mọi
nhiệm vụ một cách độc lập, sáng tạo, có hiệu quả; luôn luôn có tình cảm cách
mạng và ý chí vững vàng; vượt qua mọi khó khăn thử thách trong học tập tại
trường và rèn luyện trong thực tiễn; có được lòng tự hào dân tộc, niềm tin, ý
chí bản lĩnh kiên cường và tầm nhận thức sâu rộng trước những âm mưu phá
hoại của kẻ thù, bảo vệ lý tưởng cao đẹp của mình. Giáo dục chính trị - tư
tưởng cho quân nhân vừa tuân theo quy luật nhận thức, vừa chịu sự chi phối
của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận. Đây là một quá trình mang
đặc điểm của nhận thức chính trị, đòi hỏi học viên quân sự tích cực tham gia
học tập, rèn luyện trong môi trường đào tạo tại nhà trường để nâng cao nhận
thức của mình, phát triển những cái mình đã có được từ trước, đã trở thành
bản năng thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức, thành những tri thức
khoa học phản ánh trình độ cao. Cơ chế tác động của báo chí quân đội tác
động tới nhận thức học viên về nội dung chính trị - tư tưởng thông qua chế độ
đọc báo, nghe đài trong ngày theo điều lệnh quản lý bộ đội của QĐND Việt
Nam và nhu cầu tiếp nhận thông tin của từng cá nhân.
1.3.3. Tiêu chí đánh giá ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với
nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân
Giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân hiện nay được thể hiện ở
những tiêu chí về nhận thức chính trị, tình cảm, niềm tin ý chí chính trị và sự
phát triển ấy được thông qua hành vi chính trị của họ.
Về nhận thức chính trị: Giáo dục chính trị - tư tưởng nhằm làm cho
quân nhân có trình độ cao về nhận thức chính trị, tức là phải có tri thức ngày
càng sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sơ đó có khả năng phân tích
tổng hợp, khái quát thành các quan điểm chính trị, thành tư tưởng chính trị
của mình.
Về tình cảm, niềm tin, ý chí chính trị: Tình cảm và niềm tin chính trị là
63
một đặc trưng bản chất trong tư tưởng chính trị của quân nhân, là cơ sở vững
chắc để xây dựng lý tưởng Chủ nghĩa cộng sản và đấu tranh chống lại mọi thế
lực thù địch trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội của quân nhân, được
biểu hiện là những phản ứng của mỗi quân nhân đối với vấn đề chính trị. Thái
độ, tình cảm của quân nhân về các hiện tượng trong sinh hoạt chính trị, cũng
như các vấn đề liên quan đến chính trị càng mạnh mẽ, càng sâu sắc thì tư
tưởng chính trị của họ càng phát triển. Sự kết hợp giữa tri thức chính trị và
tình cảm chính trị tạo thành niềm tin chính trị. Niềm tin chính trị là động lực
mạnh mẽ, thúc đẩy và quy định mức độ khám phá, hiểu biết về chính trị bởi
nó trực tiếp quy định hành động chính trị của mỗi người. Từ đó nâng cao tư
tưởng chính trị và biến thành ý chí, thành hành động thực tiễn chính trị của
quân nhân, thể hiện ở sự quyết tâm, lòng kiên trì vượt khó, đó cũng là sự độc
lập, sáng tạo, nhạy bén trong việc tìm ra những giải pháp tối ưu để hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
Về hành vi chính trị: Tư tưởng chính trị của quân nhân được biểu hiện
thông qua hành vi chính trị của họ. Hành vi chính trị của quân nhân là những
cử chỉ, lời nói, thái độ, hành động thể hiện sự ứng xử trong các mối quan hệ
chính trị xã hội nhất định, phản ánh một trình độ nhất định tư tưởng chính trị
của họ. Tính chất và mức độ biểu hiện hành vi chính trị của quân nhân phải
được thử thách trong môi trường chính trị, đặc biệt là trong những điều kiện
khó khăn đòi hỏi quân nhân phải huy động tối đa mọi khả năng để xử lý các
tình huống cụ thể. Đánh giá hành vi chính trị của quân nhân phải đặt trong bối
cảnh cụ thể môi trường chính trị mới có thể đánh giá đúng khách quan, chính
xác và hiệu quả.
Theo Từ điển tiếng Việt, hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm
đem lại. Trong cuốn Truyền thông đại chúng, tác giả Tạ Ngọc Tấn cho rằng:
hiệu quả truyền thông của báo chí là việc đạt mục đích cao nhất trên thực tế
của hoạt động báo chí.
Hiệu quả truyền thông được nghiên cứu trên nhiều cấp độ khác nhau; ở
64
mỗi cấp độ, tính hiệu quả của hoạt động báo chí có sự khác nhau do phụ thuộc
vào nhiều yếu tố tác động quy định nên, như: Hiệu quả tiếp nhận: là cấp độ
thấp nhất, đầu tiên và đơn giản nhất. Việc đánh giá hiệu quả truyền thông ở
cấp độ này dựa trên số lượng phát hành ấn phẩm của báo in, thời lượng phát
sóng của đài phát thanh, truyền hình, lượng truy cập trang web của báo
mạng... Hiệu ứng xã hội: là biểu hiện tác động của báo chí thông qua các sản
phẩm báo chí tới xã hội, được dư luận xã hội quan tâm. Hiệu quả thực tế: là
những thay đổi của đời sống xã hội thông qua tác động của báo chí. Đây là
cấp độ cao nhất, là mục đích hướng tới của báo chí nhằm tạo biến đổi về số
lượng, chất lượng của các tiến trình, các lĩnh vực đời sống xã hội. Hiệu quả
thực tế của báo chí được hiểu một cách gián tiếp, vì nó được đánh giá trên
những vận động của các tiến trình, lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Mặt khác,
sự tác động của báo chí bao giờ cũng chỉ là một phần tạo nên hiệu quả đó; vì
vậy việc đánh giá hiệu quả thực tế của báo chí khá phức tạp.
Do đó, tiêu chí đánh giá sự ảnh hưởng nội dung giáo dục chính trị - tư
tưởng trên báo chí quân đội đến nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân,
có tác động cụ thể như sau:
- Về giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin: quân nhân hiểu được về nguyên lý
cơ bản, tính quy luật tất yếu đi đến chủ nghĩa xã hội của nhân loại; những vấn
đề cơ bản về chiến tranh và quân đội, các nguyên tắc xây dựng quân đội của
giai cấp vô sản; phân biệt được những nội dung xuyên tạc, chống phá chủ
nghĩa Mác-Lênin.
- Về giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh: nhằm làm cho quân nhân hiểu
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; tư
tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta và kế thừa, tiếp thu, phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân
loại. Đồng thời, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng lớn trong phát
triển tư tưởng, đạo đức, phong cách cho quân nhân hiện nay.
65
- Về giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng: gióp họ hiểu rõ, nắm
vững và có cơ sở để thực hiện có hiệu quả ® êng lèi chÝnh trị, quân sự cña
§¶ng trong tõng giai ®o¹n c¸ch m¹ng, từ đó có cơ sở để thực hiện nhiệm vụ
truyên truyền, giáo dục và vận động nhân dân chấp hành, thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Về giáo dục nhiệm vụ chính trị quân đội và đơn vị: giúp họ nhận thức
rõ chức trách của bản thân, nhiệm vụ của quân đội; nắm vững tình hình thế
giới, khu vực, thời cơ và thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới. Hiểu rõ mối quan hệ gắn bó giữa nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, từ đó, quân nhân ý thức sâu sắc
trách nhiệm bản thân, có tinh thần chủ động, xây dựng tâm thế vững vàng, sẵn
sàng hành động và ý chí quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ.
- Về giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị: quân nhân thấy
được chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng là truyền thống
được hình thành, phát triển qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta và đã trở thành giá trị truyền thống vẻ vang của dân tộc, nhằm hình
thành ở họ tinh thần yêu nước, lòng tự hào về truyền thống quật cường của
dân tộc trước các thế lực đế quốc xâm lược. Đồng thời, với truyền thống
quyết chiến, quyết thắng của quân đội, của đơn vị có vai trò to lớn trong giáo
dục chính trị, tư tưởng cho quân nhân, giúp họ hiểu được những chặng đường
chiến đấu vẻ vang của quân đội, của đơn vị, hình thành những tình cảm cao
đẹp và có ý thức giữ gìn, phát huy trong điều kiện mới.
- Về giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù: quân nhân nhận
thức sâu sắc bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, để nêu cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, không mơ hồ trước âm mưu, thủ đoạn của chúng và tạo cơ sở
để đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trận địa tư tưởng,
bảo vệ đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, nghiên cứu sự ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận
thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong giai đoạn hiện nay, thực chất là
66
đánh giá mức độ tác động của thông điệp về nhận thức chính trị - tư tưởng
qua các tác phẩm báo chí đến quân nhân theo mục đích của cơ quan báo chí
và đội ngũ nhà báo, phóng viên quân đội. Hiệu quả của sự tác động là làm cho
quân nhân hiểu biết, nắm vững và để thực hiện tốt theo 6 nội dung: giáo dục
chủ nghĩa Mác-Lênin; giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh; giáo dục đường lối,
quan điểm của Đảng; giáo dục nhiệm vụ chính trị quân đội và đơn vị; giáo
dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị; giáo dục bản chất, âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù. Do đó, để hiểu đúng vấn đề nghiên cứu, trước tiên, luận án
cần phải làm rõ khái niệm các từ khóa về ảnh hưởng; báo chí quân đội; nhận
thức chính trị - tư tưởng; quân nhân, nhằm xây dựng khung lý thuyết và công
cụ khảo sát thực trạng tuyên truyền thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng trên
báo chí quân đội. Vì vậy, để đánh giá, phân tích chất lượng thông tin chính
xác, khoa học, luận án phải khảo sát nhận thức của đội ngũ chủ thể báo chí về
giáo dục chính trị - tư tưởng, để đối chứng so sánh giữa nhận định chủ quan
của nhà báo với thực trạng truyền thông trên sản phẩm báo chí để tìm ra
nguyên nhân của thành công và hạn chế; đồng thời, nghiên cứu những yếu tố
ảnh hưởng tới hiệu quả tiếp nhận thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng của
quân nhân trong bối cảnh hiện nay. Từ đó, luận án đề xuất một số giải pháp
nâng cao sự ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị - tư
tưởng của quân nhân, dựa trên dự báo tình hình bối cảnh thời gian tới.
67
Tiểu kết chương 1
Công tác chính trị - tư tưởng trong quân đội có vai trò quan trọng trong
sự định hướng của báo chí quân đội đối với nhận thức chính trị của quân
nhân. Từ khi chỉ thị thành lập quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết rõ yêu
cầu thành lập quân đội lấy tên là Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân,
nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự, là quân đội trước hết phải làm công
tác tuyên truyền tư tưởng để tập hợp lực lượng động viên toàn dân đi tham gia
chiến đấu. Do đó, cùng với sự nghiệp tuyên truyền của báo chí nước ta, trong
đó có hệ thống báo chí quân đội đã phát huy truyền thống vẻ vang của báo chí
cách mạng Việt Nam trong 95 năm qua, trở thành một trong những động lực
thúc đẩy sự phát triển của đất nước, xây dựng QĐND cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ
Quốc phòng, sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng cục Chính trị, báo chí quân đội đã
bám sát thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của bộ đội và đời sống xã
hội, thực hiện đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, Nhà
nước; xứng đáng là lực lượng nòng cốt, tin cậy của báo chí cách mạng Việt
Nam trong việc thông tin, tuyên truyền toàn diện về chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa - xã hội, an ninh, đối ngoại, là diễn đàn nghiên cứu, trao đổi lý
luận về nghệ thuật quân sự, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, phát huy vai trò tiên phong trên mặt trận tư
tưởng - văn hóa, báo chí quân đội với các loại hình: Báo in, báo điện tử, báo
nói, báo hình đã phản ánh sinh động những vấn đề thực tiễn cuộc sống; phát
hiện, biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến, tích cực trong đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội; đấu tranh với các quan điểm
sai trái, phản động, thù địch; tuyên truyền sâu rộng về công cuộc đổi mới, sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mà toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta đang thực hiện; góp phần định hướng thông tin, xây dựng
niềm tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, tạo sự đồng thuận trong xã hội và đáp ứng nhu cầu quyền
68
được thông tin của quân nhân và nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới diễn biến ngày càng phức
tạp, khó lường, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, xung đột sắc tộc, các thách
thức an ninh phi truyền thống nổi lên gay gắt, có nguy cơ xảy ra chiến tranh
khu vực. Tình hình trong nước thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản
động cơ hội chính trị tiếp tục tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó đột phá vào lĩnh vực tư tưởng văn hóa nhằm
làm tan rã niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Vì lẽ đó, Công tác
chính trị - tư tưởng trong quân đội được tăng cường thông qua nghị quyết
51/NQTW ngày 20-7-2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng
khóa IX “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế
độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong
Quân đội nhân dân Việt Nam”. Công tác chính trị - tư tưởng trong quân đội
được truyền tải qua các phương thức: quán triệt của các cấp chỉ huy thông qua
hệ thống chính trị; giáo dục đào tạo tại nhà trường, đơn vị cơ sở; sự định
hướng của hệ thống báo chí quân đội.
Ảnh hưởng của báo chí quân đội đến nhận thức chính trị tư tưởng của
quân nhân chính là sự tác động của 6 nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng,
thông qua các tác phẩm báo chí truyền tải kiến thức về nền tảng tư tưởng,
đường lối, quan điểm của Đảng; nhiệm vụ của quân đội, đơn vị và chức trách
của quân nhân; truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân đội, đơn vị; những kế
hoạch và hoạt động chống phá nước ta của thế lực thù địch. Những thông tin
đó tác động đến nhận thức của quân nhân, làm cho họ hiểu, nắm vững làm cơ
sở thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà Đảng, Nhà nước,
Quân đội giao cho, tất cả vì lợi ích của dân tộc. Sự ảnh hưởng tác động của
báo chí quân đội đến nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân là rất lớn,
bởi vì nó tác động hàng ngày hàng giờ trong công tác và sinh hoạt đời sống
của bộ đội, nhất là những học viên đào tạo sĩ quan trong nhà trường quân đội.
Nhà trường quân đội là cái nôi đào tạo ra các sĩ quan chỉ huy, đây là những
hạt nhân trong việc giáo dục chính trị - tư tưởng ở các đơn vị trong toàn quân
69
sau này. Do đó, với chức năng tư tưởng của báo chí, báo chí quân đội có
nhiệm vụ xác lập vị trí tuyệt đối hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với các quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm: Giáo dục
chủ nghĩa Mác-Lênin; giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh; giáo dục đường lối,
quan điểm của Đảng; giáo dục nhiệm vụ chính trị quân đội và đơn vị; giáo
dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị; giáo dục bản chất, âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù.
Vì vậy, để thẩm định sức ảnh hưởng của báo chí quân đội, luận án cần
phải được sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên sâu, khoa học nhằm
khảo sát từng nội dung và hình thức truyền tải kiến thức giáo dục chính trị - tư
tưởng trên các tác phẩm báo chí và đánh giá hiệu quả tiếp nhận thông tin của
quân nhân trong giai đoạn hiện nay, dựa trên việc xác định các yếu tố tác
động đến tư tưởng của họ.
70
Chương 2
NỘI DUNG, HÌNH THỨC ẢNH HƯỞNG CỦA BÁO CHÍ QUÂN
ĐỘI ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CỦA
QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Nhận thức của cơ quan báo chí quân đội về định hướng nhận
thức chính trị - tư tưởng của quân nhân
2.1.1. Quan điểm của lãnh đạo, chỉ huy cơ quan báo chí quân đội
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng,
Tổng cục Chính trị và các cơ quan chức năng, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan
báo chí quân đội luôn chỉ đạo cơ quan báo quán triệt nghiêm túc chỉ đạo, định
hướng của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng
Tổng cục Chính trị và hướng dẫn của cơ quan cấp trên về công tác báo chí
tuyên truyền và bám sát tôn chỉ mục đích, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được
giao. Đặc biệt, trước tình hình diễn biến phức tạp, đội ngũ nhà báo, phóng
viên, biên tập viên phải chủ động bám sát tình hình, nhạy bén, tỉnh táo trước
những diễn biến phá hoại của các thế lực thù địch. Chủ động đấu tranh kiên
quyết, sắc bén với những âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế lực thù
địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia tuyên truyền
về các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Lãnh đạo tập
trung tuyên truyền về nhiệm vụ quân sự - quốc phòng của đất nước và của các
đơn vị, địa phương trên cả nước; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; về quán triệt thực hiện Nghị quyết
Đại hội lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết của các cấp; về hoạt động lãnh
đạo, chỉ đạo, kiểm tra thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng của các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng. Thông tin, tuyên truyền về
xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại với ba chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao
động sản xuất; phản ánh phong trào thi đua quyết thắng, hoạt động công tác
71
đảng, công tác chính trị; xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, phát huy
phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” gắn với việc tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống,
cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Tuyên truyền hoạt động đối
ngoại quân sự, quốc phòng; giới thiệu quan điểm Quốc phòng Việt Nam và
các thành tựu của Quân đội, của nhân dân Việt Nam với bạn bè quốc tế;
quảng bá hình ảnh Việt Nam, QĐND Việt Nam; kịp thời phản ánh, định
hướng dư luận trước những vấn đề bạn đọc và xã hội quan tâm.
Báo QĐND và Trung tâm PT-TH Quân đội là 2 cơ quan ngôn luận của
Quân ủy Trung ương luôn chấp hành nghiêm các yêu cầu, chỉ thị của Đảng và
Nhà nước về chức năng tuyên truyền giáo dục chính trị - tư tưởng trong toàn
quân và cả nước.
Báo QĐND tiếp tục duy trì hiệu quả các chuyên mục: “Đấu tranh làm
thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, mở mới chuyên mục “Phòng, chống
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, với các bài viết có tính chiến đấu, sức thuyết
phục được dư luận đánh giá cao. Thực hiện đề án "Hiện đại hóa các cơ quan
báo chí quân đội giai đoạn 2014-2018” và đề án "Quy hoạch phát triển và
quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025”, Báo QĐND đã đưa vào hoạt động
và duy trì hiệu quả chương trình truyền hình (video) và chương trình phát
thanh (audio) trên giao diện báo QĐND điện tử. Số lượng phát hành các ấn
phẩm, đặc biệt là nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng, tiếp tục tăng. Báo
QĐND điện tử có lượng truy cập tăng mạnh. Công tác xây dựng cơ quan, xây
dựng các tổ chức được Đảng ủy, Ban biên tập Báo QĐND đặc biệt quan tâm,
chú trọng; làm tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, phóng viên,
góp phần xây dựng cơ quan ngày càng phát triển, đủ khả năng hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao.
Thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đại tướng Ngô Xuân
Lịch nhận định đánh giá cao Báo QĐND như sau: “Thời gian qua, Báo
QĐND tiếp tục khẳng định vị thế, uy tín là một trong những tờ báo chính trị
72
hàng đầu của đất nước, được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội tin cậy, bạn
đọc yêu mến, đánh giá cao. Báo đã hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, tuyên
truyền đúng đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kịp
thời định hướng, đi đầu trong đấu tranh chống "diễn biến hòa bình”, chống
quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động. Báo QĐND tiếp tục có
nhiều đổi mới về nội dung, hình thức tuyên truyền làm cho các ấn phẩm ngày
càng hấp dẫn bạn đọc”. (Báo QĐND điện tử, tin ngày 15.6.2017)
Thời gian qua, cùng với Báo QĐND, Trung tâm PT-TH Quân đội tập
trung nghiên cứu, tuyên truyền sâu sắc về đường lối, chủ trương của Đảng, về
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của đất nước, quân đội, hoạt động của cán bộ,
chiến sĩ toàn quân; tích cực tham gia đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”,
phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch (điển hình là chương
trình truyền hình “Nhận diện sự thật”); tuyên truyền sâu rộng về nhiệm vụ đối
ngoại quốc phòng và các nhiệm vụ khác của toàn quân. Điều đó được xác
nhận khi trả lời phỏng vấn về vai trò giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân
nhân trên báo chí, lãnh đạo cơ quan báo chí trong quân đội nhận định: "Trang
bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học, bồi dưỡng bản lĩnh chính trị
đạo đức, lối sống, ý thức chấp hành kỷ luật quân đội, tinh thần cảnh giác
cách mạng cho quân nhân; xây dựng nền tảng lý luận rèn luyện bản lĩnh cho
quân nhân tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, góp phần xây
dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức chiến đấu của quân đội".
2.1.2. Nhận thức của nhà báo, phóng viên báo chí quân đội
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng; sự chỉ đạo về nghiệp vụ của các Ban, Bộ, ngành Trung ương; các cơ
quan quản lý báo chí, cơ quan thông tấn và đội ngũ các thế hệ những người
làm báo trong Quân đội đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, đóng góp
tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, thực sự là
những chiến sĩ cách mạng, những người lính xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn
73
hóa của Đảng.
Trong những năm tháng kháng chiến, nhiều nhà báo đã có mặt ở khắp
các chiến trường, những nơi ác liệt của chiến tranh để phản ánh cuộc chiến
đấu anh dũng và sáng tạo của chiến sĩ, đồng bào. Hàng trăm nhà báo - chiến sĩ
đã ngã xuống nơi chiến trường hay trong ngục tù của thực dân, đế quốc, hiến
dâng cả cuộc đời mình cho sự nghiệp vẻ vang của dân tộc.
Trong gần 30 năm đổi mới đất nước, để đáp ứng với yêu cầu xây dựng
Quân đội trong tình hình mới, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư phát triển hệ thống báo chí quân đội với
đầy đủ các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Hiện nay, về biên
chế có hàng nghìn nhà báo chuyên nghiệp, cán bộ, công chức, chuyên viên kỹ
thuật đang làm việc trong các cơ quan báo chí và rất đông đảo đội ngũ cộng
tác viên trong và ngoài quân đội.
Qua khảo sát 2 cơ quan Báo QĐND và Trung tâm PT-TH Quân đội, tác
giả thu nhận được về trình độ đội ngũ nhà báo được đào tạo ở bậc đại học
(89%), sau đại học (8,1%), cao đẳng (2,9%); với kinh nghiệm trong nghề từ
15 năm đến 35 năm là 14,2%, từ 5 năm đến 15 năm là 52,2%, dưới 5 năm
chiếm 33,6%. (Phụ lục 1)
Như vậy, với thực trạng về trình độ đào tạo, kinh nghiệm lãnh đạo quản
lý và năng lực của đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kĩ thuật viên của
Báo QĐND, của Trung tâm PT-TH Quân đội như số liệu khảo sát, sẽ chi phối
đến việc tuyên truyền thông tin giáo dục chính trị, tư tưởng cho quân nhân
trên báo chí hiện nay; nhất là chất lượng phóng viên, biên tập viên có tỷ lệ
trình độ đại học là cơ bản, tỷ lệ sau đại học rất ít, kinh nghiệm nghề nghiệp
trên 5 năm đến 15 năm là chủ yếu, dưới 5 năm chiếm tỷ lệ khá nhiều, còn lại
số nhỏ tỷ lệ đội ngũ có kinh nghiệm chuyên môn sâu trong nghề từ 15 năm
đến 35 năm. Điều đó đã ảnh hưởng nhiều đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn và công tác quản lý sử dụng báo chí để giáo dục chính trị - tư
tưởng cho bộ đội. Đa số đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kĩ thuật viên đều
74
nhận thức sâu về giáo dục chính tư tưởng nhằm mục đích để giáo dục lý
tưởng cách mạng, lập trường chính trị, lòng yêu nước, tự hào dân tộc; phẩm
chất đạo đức, lối sống cách mạng; nghĩa vụ trách nhiệm với nhiệm vụ được
giao; ý thức trách nhiệm chính trị - xã hội; kỉ luật quân đội, nhận diện âm
mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch (với tỉ lệ khảo sát nhận định là từ
50,4% đến 82,5%). Tuy nhiên, trong đó phần nhận thức về kỉ luật quân đội và
nhận diện âm mưu thủ đoạn của các thế lực địch còn hạn chế (khoảng 50%).
Điều này trùng khớp với việc tìm hiểu kiến thức về từng lĩnh vực trên bằng
các hình thức qua nghiên cứu tài liệu, đọc sách báo, xem nghe truyền hình,
phát thanh và nghe lãnh đạo, chuyên gia thuyết giảng (58,8% - 88,2%), còn
lại số nhà báo được dự các lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn và dài hạn hoặc
tiếp thu qua giao tiếp xã hội chiếm 32,4% - 40,4% (Phụ lục 2). Kiến thức về
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối quan
điểm của Đảng, nhiệm vụ chính trị của quân đội, truyền thống dân tộc, quân
đội, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ được đội ngũ nhà báo chú ý tìm hiểu, tiếp thu
qua các nguồn thông tin, còn kiến thức về chống chiến lược diễn biến hòa
bình của địch còn ít quan tâm, chưa được chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu. Phù
hợp với kết quả điều tra xã hội học, khi được hỏi về việc cập nhật kiến thức
chính trị - tư tưởng, nhà báo, phóng viên của Báo Quân đội nhân dân trả lời
"thường tìm hiểu các tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục
Chính trị; qua các hội nghị, tập huấn; qua sách báo tạp chí. Khi viết cần có
những kiến thức toàn diện cả về lý luận và thực tiễn, nắm vững đường lối
chính sách pháp luật hiện hành, để đưa ra quan điểm đúng, chính xác trong
tác phẩm báo chí"
Trong quá trình tác nghiệp viết về đề tài giáo dục chính trị - tư tưởng
được sự quan tâm của lãnh đạo trong truyền thông, trình độ nghiệp vụ đội ngũ
phóng viên có chất lượng tốt, nguồn tư liệu về chính trị - tư tưởng phong phú,
trang thiết bị truyền thông tương đối đầy đủ và có chế độ khen thưởng kịp
thời. Tuy nhiên, trong quá trình sáng tác các tác phẩm báo chí, nhà báo vẫn
75
còn chưa có kinh nghiệm để hiểu rõ phương thức truyền thông mới, khó tiếp
cận với các chuyên gia, nhà quản lý, thiếu thông tin giáo dục chính trị - tư
tưởng. Mặt khác, sức hút của lĩnh vực chính trị - tư tưởng đối với công chúng
còn yếu; chưa có nhiều kênh để tiếp nhận và lắng nghe ý kiến phản hồi của
công chúng là những yếu tố hạn chế khách quan tác động tới công tác truyền
thông giáo dục chính trị - tư tưởng. (Phụ lục 3)
2.2. Nội dung thông tin định hướng nhận thức chính trị - tư tưởng
cho quân nhân
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đẩy mạnh thực hiện nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trước hết, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác giáo dục chính trị - tư tưởng. Tăng cường giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục
nhiệm vụ; giáo dục kỷ luật, đạo đức, lối sống; giáo dục truyền thống; giáo dục
về bản chất, âm mưu của kẻ thù. Quán triệt chủ trương đó, Báo QĐND và
Trung tâm PT-TH Quân đội chủ động, tích cực tuyên truyền thông tin giáo
dục chính trị tư tưởng trên báo in, điện tử và kênh truyền hình QPVN. Tác giả
khảo sát 2 năm (2016, 2107) với số lượng 4.500 tác phẩm trên báo in, điện tử và
9.600 tác phẩm trên kênh QPVN. Các tác phẩm về đề tài này vẫn còn chưa được
phân bổ đều số lượng trong các số báo và chuyên mục của từng vấn đề, còn bộc
lộ một số vấn đề cần nghiên cứu sau đây.
2.2.1. Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin
Hiện nay, những biến đổi trên thế giới nhanh chóng, phức tạp, khó
lường, các thế lực thù địch đang tìm mọi thủ đoạn hòng xuyên tạc, phủ nhận
từng luận điểm trong học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta
luôn xác định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng,
là kim chỉ nam cho việc giáo dục chính trị - tư tưởng, hoạch định đường lối,
76
chính sách với nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước. Do đó, toàn Đảng phải
đẩy mạnh học tập lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là yêu
cầu mang tính nguyên tắc, là tiêu chí đánh giá mức độ kiên định, trung thành
của Đảng với hệ tư tưởng nền tảng của mình. Cho nên, công tác tuyên truyền
hệ tư tưởng của Đảng trên báo chí quân đội có vai trò rất quan trọng trong
việc giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân.
Khảo sát thực tế trên báo QĐND và kênh truyền hình QPVN, số lượng
tác phẩm báo chí về giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin chiếm 0.2 % tổng số tin
bài trong năm, chủ yếu là được đăng tải, phát sóng qua những ngày lễ kỉ
niệm. Thực tế cho thấy, tác phẩm viết về chủ nghĩa Mác-Lênin trên báo QĐND
và kênh QPVN cũng rất ít, hầu như chỉ có 1- 2 tác phẩm vào dịp kỉ niệm ngày
sinh của C.Mác và V.Lênin. Tiêu biểu là bài: Kỷ niệm 146 năm ngày sinh V.I.
Lênin (số báo 19775 ngày 23.4.2016); Kỷ niệm 198 năm ngày sinh của Các Mác
(số báo 19786 ngày 5.5.2016); loạt bài về kỉ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga;
Giá trị trường tồn của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, số 20076 ngày
24.2.2017; Cách mạng Tháng Mười Nga với Chủ tịch Hồ Chí Minh, số 20301
ngày 9.10.2017; Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch
sử loài người, số 20330 ngày 7.11.2017; bài xã luận “Mốc son chói lọi”, số
20330 ngày 7.11.2017; Phóng sự ảnh “Sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ 20”, số
20330 ngày 7.11.2017.
Trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có
những diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận hết
sức gay go quyết liệt. Để góp phần giữ vững vị trí chủ đạo của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từng bước hiện thực hóa mục tiêu, lý
tưởng xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta, báo chí quân đội phải phản ánh,
chứng minh trên thực tế tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng kết quả hiện thực, bằng những thắng lợi
của công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, các cơ quan ngôn
77
luận của Quân đội kiên trì đấu tranh với các tư tưởng, quan điểm sai trái,
những nhận thức không đúng để bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, làm cho các giá trị tiến bộ của nhân loại trở nên sống động trong
hiện thực và trong tâm hồn, trái tim mỗi con người, trở thành giá trị vĩnh hằng
của thời đại. Do đó, báo chí quân đội cần tăng cường sáng tác các tác phẩm về
chủ nghĩa Mác-Lênin với những nội dung phong phú, dễ hiểu, gần gũi với
thực tiễn, làm cho độc giả có hứng thú trong việc đón nhận.
2.2.2. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, anh hùng giải phóng
dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới; suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với
dân, phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại. Nhân
cách Hồ Chí Minh vừa cao xa, gần gũi, vĩ đại, khiêm tốn và tình cảm, là tấm
gương sáng cho các thế hệ con người Việt Nam học tập và noi theo. Chính vì
vậy, hiện nay, Quân ủy Trung ương đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân, góp
phần xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh; xây dựng QĐND
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ngăn chặn đẩy lùi suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Do đó, báo chí quân đội tăng cường nhiều hình
thức truyền bá sâu rộng tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn xã hội.
Nhằm triển khai kế hoạch chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87 của
Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”, chỉ thị 788 của Thường vụ Quân ủy Trung ương
về cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ
đội Cụ Hồ” làm cho bộ đội hiểu rõ, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ, Báo QĐND và Trung tâm PT-TH Quân đội xây dựng các chuyên
mục hướng về đề tài này như: Lời Bác dạy, Gương người tốt, việc tốt. Qua sự
nghiên cứu nội dung báo, truyền hình, tác giả nhận thấy ban biên tập đã chủ
động xây dựng các bài viết, chương trình hướng tới việc tạo chuyển biến tích
78
cực về đạo đức, lối sống, ý thức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ; các
chuẩn mực về phẩm chất chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống của “Bộ đội Cụ
Hồ”; trang bị những kiến thức cần thiết về kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là kĩ
năng sống, văn hóa ứng xử, giao tiếp cho bộ đội. Số lượng bài báo trên Báo
QĐND về tư tưởng Hồ Chí Minh trong một năm là 304 bài, chiếm tỷ lệ
2.81% tổng số bài báo trong năm (10.800 bài), chiếm tỷ lệ 17.7% tổng số bài
trong 6 chuyên mục giáo dục chính trị - tư tưởng (1708 bài). Chuyên mục Học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các bài dự thi về
những tấm gương bình dị mà cao quý, Điển hình làm theo lời Bác, Bộ đội hậu
cần làm theo lời Bác. Đối với kênh QPVN thì chuyên mục giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh được truyền tải trên chương trình “Lời Bác dạy” chiếm tỷ lệ
10% các chuyên mục về giáo dục chính trị - tư tưởng (3 số/1 tuần, thứ 3, 5, 7).
Đối với báo QĐND, các chủ đề tiêu biểu giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
được thể hiện phong phú cụ thể trong nội dung bài viết. Tư tưởng về quyền
làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân
được nêu lên trong chuyên mục 70 năm Quốc hội Việt Nam, bài Tư tưởng Hồ
Chí Minh với Hiến pháp và pháp quyền trên số báo 19668 ngày 5.1.2016 thể
hiện tư tưởng của Người về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân ngay từ khi nước nhà giành được độc lập; Tư tưởng về quốc phòng
toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có bài viết Tạo diện mạo mới
cho công tác bảo đảm đời sống bộ đội, số báo 19670 ngày 7.1.2016; Tư tưởng
về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh mà Người luôn quan niệm xây
dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” được phản ánh qua các bài Xây dựng
Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, số báo 19697 ngày 3.2.2016; Sự
quan tâm đặc biệt của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, số 20298 ngày 6.10.2017; bài viết kỉ niệm 70 năm tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc”; Bác Hồ dạy cách chữa “căn bệnh” chủ nghĩa cá nhân, số
báo 19684 ngày 21.1.2016...
Tuyên truyền đa dạng, phản ánh trung thực kết quả học tập và làm theo
79
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phổ biến nhân rộng những mô
hình mới, cách làm sáng tạo, những điển hình tiên tiến, gương người tốt việc
tốt trong học tập và làm theo được phản ánh qua loạt bài: Nghị lực phi thường
của thương binh Hoàng Phi Thường, số báo 19679 ngày 16.1.2016; Người
cựu chiến binh hết lòng tôn kính và noi gương Bác, số báo 19715 ngày
23.2.2016; Sống hết mình vì nghĩa tình đồng đội, số báo 19740 ngày
19.3.2016; Câu chuyện cảm động về người lính Việt Nam trên đất Lào, số báo
19755 ngày 5.4.2016; Vinh dự 7 lần được gặp Bác Hồ, số báo ngày 19808
ngày 27.5.2016; Người trưởng thôn dân vận khéo, luôn gương mẫu đi đầu, số
báo 19841 ngày 29.6.2016; Chuyên mục Cùng bàn luận “Ngăn chặn tham
nhũng chính sách”, số 20029 ngày 4.1.2017; Ông chủ của “sân khấu tình
thương”, số 20101 ngày 21.3.2017 (Cựu chiến binh nhận nuôi, dạy nghệ thuật
cho trẻ em cơ nhỡ, giúp đỡ trẻ nhiễm chất độc da cam); Động lực, sức lan tỏa
khi cán bộ làm trước, nêu gương, số 20156 ngày 16.5.2017; Sáng tạo và thiết
thực trong học tập và làm theo Bác, số 20240 ngày 8.8.2017... Những bài
viết, chương trình đã truyền tải các hoạt động của tập thể, đơn vị, cá nhân học
tập và làm theo Bác về tất cả các mặt trong đời sống, xây dựng thành tấm
gương tiêu biểu có tác dụng cổ vũ, nêu gương cho mọi người noi theo. Từ đó,
giá trị tinh thần ấy lan tỏa tới các học viên quân sự, là những người đọc và
xem thông tin về giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành cho bản thân có
tư tưởng, lối sống tích cực trong đời sống hàng ngày ở đơn vị và địa phương.
2.2.3.Giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng
Báo chí quân đội, trong điều kiện mới, phải tuyên truyền cho quân nhân
tiếp tục nhất quán với mục tiêu độc lập dân tộc, nhận thức rõ tính tất yếu độc
lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội, sự lựa chọn duy nhất đúng trên con
đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Nhất quán với quan điểm của Đảng ta
về mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về chủ trương xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân trong
thời kỳ mới, về thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
80
Đối chứng với những lựa chọn của đội ngũ nhà báo và của học viên
quân sự, tác giả khảo sát về nội dung giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng
trên Báo QĐND có 236 tác phẩm chiếm 2.19% tổng số 10.800 tác phẩm
trong năm và chiếm 13.8% tổng số 1708 tác phẩm về giáo dục chính trị - tư
tưởng. Tỷ lệ tin, bài được đăng tải, phát sóng trên Báo QĐND và Kênh
QPVN giữ được mức ổn định, đều đặn trong các tháng. Đối với kênh QPVN,
tin bài về chuyên mục giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng, làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chiếm 30% lưu lượng sản phẩm phát sóng, với
các fomat tiêu biểu: Nhận diện sự thật, Người quan sát, Đối ngoại quốc
phòng, Thời sự quốc phòng, Bản tin Ngày mới, Bản tin trưa thu hút được sự
quan tâm của quân nhân.
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác tuyên truyền có nhiệm vụ to lớn là giúp cán
bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
để cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Hơn lúc nào hết, công
tác tuyên truyền của Đảng phải thực sự là cầu nối truyền tải những thông tin
của Đảng, Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, động viên
các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia lao động sản xuất, phục vụ đắc lực
sự nghiệp cách mạng của Đảng, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với mục đích như vậy, Báo QĐND tuyên
truyền triển khai đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước bắt đầu từ
việc đưa nghị quyết vào cuộc sống, nhằm thực hiện cụ thể hóa từng vấn đề
của nghị quyết như bài: Sớm đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng
vào cuộc sống, số báo 19696 ngày 2.2.2016; Triển khai thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng ở Đắc Lắc, số báo 19833 ngày 21.6.2016; Cùng bàn
luận: Xây dựng nền hành chính pháp quyền XHCN, số báo 19827 ngày
5.6.2016; “Văn hóa Đảng” với việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, số
81
báo 19697 ngày 3.2.2016.
Từ những nội dung của nghị quyết, báo chí quân đội đẩy mạnh việc
khơi dậy, tạo dựng, phát triển khối đại đoàn đết dân tộc thông qua các bài
viết: Đại đoàn kết dân tộc – nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, số 19690 ngày 27.1.2016; Phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự
cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thi đua thực hiện thắng lợi nghị
quyết Đại hội, số 19692 ngày 29.1.2016; Thắng lợi từ ý Đảng lòng dân đồng
thuận, số 19804 ngày 23.5.2016; Xây dựng phong cách làm việc khoa học,
tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, số 19692 ngày 29.1.2016; Đẩy
mạnh nghiên cứu khoa học nghệ thuật quân sự góp phần bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, số 20029 ngày 4.1.2017; Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với QĐND và CAND, số 20097 ngày 17.3.2017…Các
tác phẩm đã phản ánh chủ trương, chính sách của Đảng trong việc khơi dậy
lòng yêu nước, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân
dân, vì lợi ích của toàn dân và phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính
trị cùng với nhân dân thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội các cấp.
Đồng thời, báo chí quân đội cũng chú trọng thông tin tới công chúng
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chính sách xây dựng cán
bộ, đường lối đối nội, đối ngoại và đặc biệt là các quan điểm về công tác
phòng chống tham nhũng, phê phán thói xa hoa lãng phí trong cơ quan Nhà
nước, được đăng tải trên Báo QĐND có các bài điển hình như: Quan điểm, tư
tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số 19764
ngày 12.4.2016; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo Nghị
quyết Đại hội XII, số 19797 ngày 16.5.2016; Thể chế hóa và thực hiện tốt
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”, số 19809
ngày 28.5.2016; Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trong thời
kỳ mới, số 19968 ngày 5.1.2016; Cán bộ chống tham nhũng càng phải vừa
hồng vừa chuyên, số 19780 ngày 28.4.2016; Ngoại giao Nghị viện góp phần
thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, số 19668
82
ngày 5.1.2016; Phát huy bản sắc Việt để thành công trong hội nhập, số 19700
ngày 6.2.2016; Thúc đẩy công tác kiều bào, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, số 19788 ngày 7.5.2016...
Những bài báo điển hình đã truyền tải được thông tin mục đích, yêu cầu
của Đảng quán triệt các chính sách, đường lối quan điểm tới toàn quân, toàn
dân, cụ thể hóa từng lĩnh vực mà Đảng và Nhà nước cần triển khai thông tin
tới toàn xã hội. Đồng thời, báo chí quân đội cũng thông qua các tác phẩm báo
chí tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược, các kế
hoạch, quy hoạch về quân sự, quốc phòng, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với củng cố quốc phòng, an ninh. Với góc nhìn thực tiễn, các tác giả đã truyền
tới quân nhân thông điệp của Đảng, Nhà nước về chính sách, phương thức tối
ưu để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ Tổ quốc và xây dựng
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thông qua các tác phẩm báo chí.
2.2.4. Giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị
Trong điều kiện mới, cán bộ, chiến sĩ quân đội ta tiếp tục nhất quán với
mục tiêu độc lập dân tộc, nhận thức rõ tính tất yếu độc lập dân tộc phải gắn
với chủ nghĩa xã hội, sự lựa chọn duy nhất đúng trên con đường phát triển của
dân tộc Việt Nam. Quân nhân quán triệt quan điểm của Đảng về mục tiêu bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về chủ trương xây dựng nền quốc
phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân trong thời kỳ mới, về
thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Và trên thực tiễn, Báo QĐND có số lượng 482 tác phẩm tuyên truyền
về nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị, chiếm tỷ lệ 4.5% tổng số tin bài
của cả năm và 28.2% tin bài về giáo dục chính trị - tư tưởng (Phụ lục 14).
Trên Kênh QPVN, nội dung giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn
vị; giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị được tất cả các fomat
đều hướng đến với tỷ lệ 60% (Phụ lục 15).
Những bài viết, chương trình trên báo đài quân đội đã kịp thời thông tin
về các nhiệm vụ thực hiện trên các mặt cuộc sống của lực lượng vũ trang
83
trong cả nước. Cụ thể đã tuyên truyền tích cực mạnh mẽ các lĩnh vực:
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cấp ủy, chỉ huy các cấp đã
phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành trung ương, địa phương đẩy mạnh
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân”, xây dựng khu
vực phòng thủ vững chắc, ưu tiên xây dựng thế trận ở địa bàn trọng điểm,
tuyến đảo, biên giới; phối hợp tốt với các lực lượng tăng cường kiểm soát,
đấu tranh chống vi phạm, tội phạm, buôn lậu và gian lận thương mại; bảo đảm
an toàn hoạt động kinh tế biển và các sự kiện chính trị quan trọng của đất
nước. Tiêu biểu có các chương trình truyền hình, tin bài: Chuyên mục Quốc
phòng, Quốc phòng địa phương, Biên cương xanh, Hậu phương chiến sỹ;
Toàn quân giúp dân hơn 1 triệu ngày công lao động, số 19676 ngày
13.1.2016; Son sắt niềm tin, sẵn sàng cao nhất, ngày 19677 ngày 14.1.2016;
Biên giới Tây Nam thắm tình quân dân, số 19681 ngày 18.1.2016; Đảo xa -
Đất liền cùng phấn đấu, số 19682 ngày 19.1.2016; Toàn quân dành hơn 470
tỷ đồng thực hiện công tác chính sách dịp Tết Bính Thân, số 19704 ngày
12.2.2016...
Các đơn vị trong toàn quân tích cực triển khai các giải pháp xây dựng
Quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh
chiến đấu; chấp hành nghiêm quy định sẵn sàng chiến đấu, chủ động bổ sung,
điều chỉnh các văn kiện tác chiến và tổ chức luyện tập theo các phương án;
tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập binh chủng hợp
thành, diễn tập khu vực phòng thủ; hoàn thành tốt nhiệm vụ làm nòng cốt
tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu
nạn; tích cực giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới…Những
nội dung đó được phản ánh qua các tác phẩm: Xây dựng hải quân cách mạng
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, số 19707 ngày 15.2.2016; Chủ động triển khai
các giải pháp thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, số 19708 ngày
16.2.2016; Tăng cường giáo dục quốc phòng an ninh trên địa bàn, số 19732
84
ngày 11.3.2016; Xây dựng bộ đội đặc công tinh nhuệ, hiện đại, số 19735 ngày
14.3.2016; Chung sức xóa đói, giảm nghèo ở các xã biên giới, số 19704 ngày
12.2.2016...
Cùng với đó, triển khai quyết liệt việc tổ chức lực lượng và bảo đảm vũ
khí trang bị cho Quân đội; thực hiện sáp nhập, giải thể, điều chuyển, thành lập
mới một số lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh, cơ động” nhưng không
tăng quân số. Triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp Quân đội; chấn chỉnh, tăng cường quản lý và
sử dụng đúng mục đích đất quốc phòng. Thực hiện tốt công tác hậu cần, kỹ
thuật bảo đảm cho các nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu; tích
cực khai thác, làm chủ vũ khí trang bị mới; đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tổ
chức tốt nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe bộ đội; hoàn thành quy hoạch và đẩy
mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng. Các mặt công tác bảo đảm hậu cần,
kĩ thuật cho bộ đội trong toàn quân được chuyển tải qua các tác phẩm điển
hình như: Luyện rèn, cần kiệm vì ngày mai lập nghiệp, số 19751 ngày
30.3.2016; Tạo sức đột phá trong công tác hậu cần, số 19760 ngày 8.4.2016;
Nỗ lực nghiên cứu làm chủ vũ khí, khí tài hải quân hiện đại, số 19712 ngày
20.2.2016.
Đồng thời, báo chí quân đội tuyên truyền tích cực về công tác đối ngoại
quốc phòng được thực hiện tốt theo đúng đường lối đối ngoại của Đảng. Cùng
với các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, ngoại giao nhân dân đã tạo
nên “thế trận ngoại giao” rộng khắp, vững chắc, hiệu quả; trong đó, đã đẩy
mạnh hợp tác quốc phòng song phương, đa phương, ưu tiên hợp tác với quân
đội các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn và các nước bạn bè
truyền thống; nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, thực hiện đề án tăng cường
hợp tác quốc phòng Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia; tham gia tích
cực các hoạt động năm APEC 2017, Tuần lễ Cấp cao tại Đà Nẵng; chủ động
tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc, góp phần giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
85
Đảng bộ Quân đội đã triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với Chỉ thị số 05-
CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; tổ chức tốt việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình
theo 27 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được xác định trong Nghị
quyết; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; nội bộ luôn đoàn kết,
thống nhất cao, trận địa tư tưởng của Đảng được giữ vững và tăng cường; bảo
đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội.
Tiêu biểu cho thông tin tuyên truyền đó có các tác phẩm: Sáng tạo trong quản
lý tư tưởng bộ đội, số 19766 ngày 14.4.2016; Tạo niềm tin cho chiến sĩ từ
ngày đầu, số 19774 ngày 22.4.2016; Hội nghị toàn quốc sơ kết 1 năm thực
hiện Chỉ thị 05 CT/TƯ của Bộ Chính trị khóa XII: Phấn đấu xây dựng con
người Việt Nam mới theo gương Bác Hồ kính yêu, số 20159 ngày 19.5.2016;
Xây lý tưởng đẹp, nhân mô hình hay, số 20247 ngày 15.8.2017; Phát huy
truyền thống, tập trung xây dựng cơ quan tham mưu chiến lược vững mạnh, số
20262 ngày 30.8-2017; Các chương trình truyền hình Nữ quân nhân, Sống trong
quân ngũ, Sao nhập ngũ, Phóng sự, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật quân đội..
Nội dung thông tin giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị
được Báo QĐND, Kênh truyền hình QPVN đầu tư chú trọng khai thác, phản
ánh thông qua các tác phẩm báo chí nhằm chuyển tải tới quân nhân về các
nhiệm vụ chính trị quan trọng trong toàn quân, giúp cho họ hiểu và thực hiện
hiệu quả cao nhất nhiệm vụ được giao, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền
của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2.5. Giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị
Giáo dục truyền thống của quân đội, của đơn vị kết hợp với giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng sẽ tạo cho quân nhân tinh
thần quyết chiến, quyết thắng, hình thành niềm tin vào sự thắng lợi của các
cuộc chiến tranh chính nghĩa.
Khảo sát nội dung thông tin đăng trên Báo QĐND về giáo dục truyền
86
thống dân tộc, quân đội và đơn vị trong năm có 602 tin bài, chiếm tỷ lệ 5.6%
tổng số tin bài trong năm; 35.2% tổng số tin bài về giáo dục chính trị - tư
tưởng. Kênh truyền hình QPVN phát tin bài về lĩnh vực này chiếm 60% trong
nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng (Phụ lục 14, 15) trên các format: Đi tìm
đồng đội, Kỉ vật thiêng liêng, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật quân đội, Kỉ lục
quân sự, Sự kiện và Nhân chứng, Hồ sơ chiến tranh, Người lính trở về. Với
các thông số thực trạng chiếm tỷ lệ cao, thông tin giáo dục truyền thống dân
tộc, quân đội và đơn vị đã khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, làm động
lực cho mỗi quân nhân nỗ lực phấn đấu làm tốt công việc được giao và
thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, lối sống cao đẹp.
Giáo dục truyền thống giúp cho thế hệ trẻ trong toàn quân nắm rõ hơn
về lịch sử dân tộc, từ đó thấy được những giá trị truyền thống, ý thức cội
nguồn dân tộc, cốt cách và bản chất con người Việt Nam. Nhiều bài viết về
các nhân chứng lịch sử, những cán bộ từng trực tiếp tham gia chiến đấu có
nhiều thành tích. Qua những câu chuyện kể, thế hệ trẻ trong quân đội đã phần
nào hiểu thêm về những khó khăn, vất vả của các thế hệ cha anh trong những
năm tháng chiến đấu ác liệt; những tấm gương chiến đấu anh dũng đã trực
tiếp viết nên những trang sử vẻ vang của đơn vị. Nhờ đó, thế hệ trẻ của đơn vị
đã được "tiếp thêm lửa" truyền thống để viết tiếp các chiến công, thành tích
mới. Tiêu biểu có các bài như: Chiến công đêm giao thừa, số 19664 ngày
1.1.2016; Nguyễn Chơn – Vị tướng dạn dày trận mạc, số 19667 ngày
4.1.2016; Bức tượng đài bất tử, số 19692 ngày 29.1.2016; Con đường Bộ đội
Quân nhu, số 19705 ngày 13.2.2016; Tiếp nối truyền thống, thi đua lao động
sáng tạo, số 19725 ngày 4.3.2016; Kết nạp Đảng ngay tại chiến trường, số
19710 ngày 18.2.2016;
Hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về, ở các đơn vị trong toàn quân lại tổ
chức thăm hỏi, chúc Tết nhân dân nơi đơn vị đóng quân, cùng với nhân dân đón
Tết sum vầy, phấn khởi. Những hoạt động truyền thống đón Tết cổ truyền dân tộc
của các đơn vị cũng là dịp thực hiện công tác dân vận thể hiện sự gắn bó, đoàn kết
87
quân dân, được phản ánh qua loạt bài trong các số báo Xuân, như Ấm áp tết nghĩa
tình quân dân, số 19703 ngày 11.2.2016; Xuân ấm biên cương, số 19707 ngày
15.2.2016;
Chủ đề tri ân, chính sách hậu phương thường xuyên được các tác giả
đăng tải qua các bài Nghĩa tình nơi chiến trường xưa, số 19708 ngày 16.2.2016;
Chăm sóc thương binh, bệnh binh như chăm sóc người thân, số 20102 ngày
22.3.2017; Quan tâm thực hiện chính sách đối với quân đội và hậu phương,
số 20128 ngày 17.4.2017; Suốt đời tri ân sự hi sinh của đồng đội, số 20143
ngày 3.5.2017; Dầm mình giúp dân chống lũ, số 20284 ngày 22.9.2017...
Các chuyên mục, chương trình, bài viết truyền tải chủ đề giáo dục
truyền thống nhằm củng cố, bồi dưỡng kiến thức về lịch sử, truyền thống,
khơi dậy niềm tự hào mà còn góp phần xây dựng và phát triển môi trường văn
hóa quân sự. Qua đó, xây dựng phẩm chất, nhân cách người quân nhân cách
mạng, góp phần tích cực xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần, làm cơ sở tạo
sức mạnh tổng hợp cho Quân đội. Đây là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, Quân đội. Vì vậy, cấp ủy các cấp cần
tăng cường giáo dục làm cho mỗi quân nhân trong đơn vị hiểu rõ mục đích, ý
nghĩa, vai trò của giáo dục truyền thống đối với việc khơi dậy niềm tự hào
trong mỗi cá nhân, tổ chức đối với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của
Đảng, Quân đội, Nhà trường. Đồng thời, làm cho đời sống văn hóa tinh thần ở
đơn vị cơ sở thêm đa dạng, phong phú, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực
mạnh mẽ thôi thúc mọi người vươn lên hoàn thành tốt hơn nữa chức trách,
nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng và phát triển môi trường văn hóa
quân sự.
Đặc biệt, thông tin tuyên truyền giáo dục truyền thống để giúp mỗi cán
bộ, chiến sỹ hiểu sâu sắc những giá trị truyền thống tiêu biểu của đơn vị là
biểu hiện cụ thể của văn hóa giữ nước, bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc
Việt Nam, truyền thống vinh quang của Đảng Cộng sản Việt Nam và truyền
thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ đó, mỗi quân nhân
88
nhận thức, quán triệt sâu sắc và không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nhằm phát
huy hơn nữa truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” với những phẩm chất cao đẹp:
trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với Tổ quốc, với
nhân dân; quyết chiến, quyết thắng, biết đánh, biết thắng; mưu trí, dũng cảm,
kiên cường trong chiến đấu; kiên trì, bền bỉ, sáng tạo trong công tác và lao
động; gắn bó mật thiết với nhân dân, đoàn kết chặt chẽ, kỷ luật tự giác,
nghiêm minh; có tinh thần tương thân tương ái, tình đồng chí, đồng đội cao
đẹp; thủy chung, son sắt, trọn nghĩa, vẹn tình với bạn bè quốc tế, v.v. Và
không ngừng trau dồi phẩm chất cách mạng, bồi dưỡng năng lực và đạo đức, lối
sống, củng cố niềm tin, xây dựng bản lĩnh, ý chí của người quân nhân cách mạng.
2.2.6. Giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù
Nội dung tuyên truyền chống phá chủ yếu của các thế lực thù địch tập
trung tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ niềm tin của nhân dân
vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền bá tư tưởng tư sản,
đòi “tam quyền phân lập”, kêu gọi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa
tiến tới xóa bỏ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mà nhân dân ta
xây dựng. Chúng phủ nhận những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, quốc phòng an ninh, đối ngoại hợp tác quốc tế; tập trung xuyên tạc bản
chất của cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; phủ
nhận những cố gắng, nỗ lực trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Nhiều tài liệu xuyên tạc được kẻ địch tung lên mạng nói xấu, bôi nhọ đời tư,
hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các lãnh tụ của Đảng, anh hùng cách
mạng, những người đã trở thành những tấm gương sáng trong lòng dân tộc.
Về phương thức, thủ đoạn tuyên truyền chống phá, các đối tượng
thường sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm dưới dạng
sách, báo chí ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình rồi tìm cách chuyển về
trong nước; sử dụng các đài truyền hình, phát thanh ở nước ngoài phát các
89
bản tin bằng tiếng Việt đưa các nội dung xuyên tạc về tình hình Việt Nam
(RFI, BBC, VOA, RFA...); triệt để sử dụng iternet, mạng xã hội để lan truyền
thông tin tiêu cực, xấu độc có nội dung chống phá Việt Nam.
Trong báo chí quân đội, tác giả khảo sát trên báo QĐND và kênh
QPVN, các chuyên mục về đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của thế
lực thù địch có 84 tin bài trong năm, chiếm tỷ lệ 4.9% tin bài về nội dung giáo
dục chính trị - tư tưởng và 0.8% tổng số các bài trong năm. So với các nội
dung giáo dục chính trị - tư tưởng còn lại thì nội dung này chưa được đăng tải,
phát sóng nhiều trong quá trình truyền thông, chưa phát huy tối đa sự mạnh mẽ
trong đấu tranh tư tưởng với kẻ địch.
Đối với nội dung giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, tác
giả khảo sát các tác phẩm điển hình trên báo QĐND và kênh truyền hình QPVN
có những tin bài, chương trình, chuyên mục như: Nhận diện sự thật (1 số/tuần,
thứ 7); Đổi mới chứ không “đổi màu”, số 19682 ngày 19.1.2016; Lợi dụng
truyền thông để tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam - Một thủ đoạn
nguy hiểm của các thế lực thù địch, số 19687 ngày 24.1.2016; Không thể
xuyên tạc, phủ nhận thành tựu nhân quyền của Việt Nam, số 19695 ngày
1.2.2016; Cảnh giác với những chiêu trò xuyên tạc hình ảnh lực lượng vũ
trang, số 19811 ngày 30.5.2016; Cảnh giác với luận điệu đánh đồng “môi
trường và chính trị”, số 20079 ngày 27.2.2017; Nhận dạng các chiêu trò
giăng bẫy thanh niên trên mạng xã hội, số 19763 ngày 11.4.2016... Đây là
những tác phẩm báo chí vạch mặt những thủ đoạn, âm mưu của các thế lực
thù địch chống phá những thành tựu của đất nước mà Đảng ta và nhân dân
gây dựng. Kẻ địch sử dụng các chiêu trò nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân
tộc, niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng; làm suy yếu và kêu gào luận
điệu “phi chính trị” đối với lực lượng vũ trang.
Đồng thời, Đảng, Nhà nước thường xuyên quán triệt tư tưởng cách
mạng, xây dựng, nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, kịp thời chấn chỉnh
những hiện tượng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, mất đoàn kết nội bộ, làm
90
mất niềm tin của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên. Những nội dung đó
được truyền tải qua các tác phẩm báo chí như: Rèn luyện phẩm chất đạo đức
chống nguy cơ “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa”, số 19735 ngày 14.3.2016;
Củng cố niềm tin của nhân dân từ hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, số 19742 ngày 21.3.2016; Kịp thời đấu tranh với các luận điệu sai
trái, xuyên tạc về bầu cử, số 19747 ngày 26.3.2016; Không được lợi dụng sự
cố môi trường để xuyên tạc, kích động, gây rối, số 19787 ngày 6.5.2016; Sự
lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định bảo đảm dân chủ ở Việt Nam, số
19800 ngày 19.5.2016; Lười học tập lý luận chính trị - một biểu hiện suy
thoái tư tưởng của cán bộ - đảng viên, số 20158 ngày 18.5.2017; Một nền báo
chí tự do của nhân dân vì nhân dân, số 20197 ngày 26.6.2017; Ngăn ngừa
tình trạng nói và viết không đúng quan điểm đường lối của Đảng, số 20207
ngày 6.7.2017; Đảng viên không thể tiên phong, gương mẫu nếu suy thoái, số
20381 ngày 28.12.2018…Thông tin tuyên truyền về giáo dục bản chất âm
mưu của các thế lực thù địch được học viên quân sự tiếp cận qua tác phẩm
báo chí và tích lũy cho bản thân những kiến thức trong việc đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng với thế lực thù địch.
2.3. Hình thức và phương thức chuyển tải thông tin định hướng
nhận thức chính trị - tư tưởng cho quân nhân
2.3.1. Hình thức trình bày
Căn cứ vào yêu cầu, mục đích của tòa soạn, báo chí quân đội tổ chức
các chuyên trang, chuyên đề, chuyên mục để chuyển tải, phản ánh các nội
dung giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân. Theo khảo sát về tần suất
thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng trên các bài viết của báo, tác giả nhận
được ý kiến trả lời của quân nhân như sau: rất nhiều (16.5%), nhiều (57.5%),
bình thường (24.7%), ít (1%) và rất ít (0.2%) (Phụ lục 9). Như vậy, tần suất số
lượng tin bài về nội dung này được đăng, phát trên báo là phù hợp với mục
đích, chức năng của báo chí quân đội là định hướng tư tưởng cho quân nhân.
Với mục đích đó mà các thể loại tác phẩm báo chí cũng rất đa dạng khi truyền
91
thông giáo dục chính trị - tư tưởng. Tác giả khảo sát ý kiến của các nhà báo về
thể loại báo chí để truyền thông thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng và
nhận được kết quả như biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 2.1: Hình thức truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng được thể hiện
trên báo chí quân đội hiện nay theo nhận định của đội ngũ nhà báo
Báo chí quân đội sử dụng đa dạng các loại hình thể loại tác phẩm báo
chí để phản ánh nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng, theo sự nhận định của
những người viết bài, sản xuất chương trình, thì những loại hình được sử
dụng nhiều nhất là tin tức 82.5%, tiếp theo bình luận 62%, xã luận 57.7%, bài
phản ánh 55.5%, phóng sự 50.4%, các thể loại còn lại có tỷ lệ dưới 40%. Và
theo đội ngũ nhà báo đánh giá sức hút về những hình thức truyền thông giáo
dục chính trị - tư tưởng thể hiện trên báo chí quân đội ở các mức: rất hấp dẫn
18.7%, hấp dẫn 44%, bình thường 30.6%, chưa hấp dẫn 6% và đơn điệu 0.7%
(Phụ lục 3). Những kết quả trên phản ánh việc thông tin vẫn còn mang biểu
hiện sự mô tả, tường thuật các sự kiện, sự việc, chưa tập trung nhiều vào
nhóm thể loại phân tích chuyên sâu, tính nghiên cứu cao để tác động mạnh mẽ
đến nhận thức của quân nhân. Nhất là đối với học viên quân sự cấp phân đội
tuổi đời còn trẻ, cho nên hình thức báo chí cần phải đa dạng, phong phú và
phù hợp với sự trẻ trung, năng động của tuổi trẻ. Thực trạng đó cũng được các
92
học viên quân sự đánh giá qua phỏng vấn: "Báo chí quân đội đã thể hiện tốt
nội dung và hình thức, dễ đọc, dễ hiểu, khoa học, truyền tải tốt đường lối,
quan điểm của Đảng; tuy nhiên, chưa có nhiều bài viết chuyên sâu, tính đa
dạng còn hạn chế, cơ bản là phản ánh, đưa tin chưa có nhiều bài viết nói về
biện pháp xử lý, giải quyết, khắc phục".
Để có nhận định khoa học khách quan, tác giả khảo sát các nội dung giáo
dục chính trị - tư tưởng trên Báo QĐND và Kênh Truyền hình QPVN với thời
gian 2 năm (2016, 2017) và có được kết quả về thể loại tác phẩm báo chí được
đăng tải, phát sóng phù hợp với các ý kiến đánh giá của các nhà báo.
Biểu đồ 2.2: Thể loại tác phẩm báo chí giáo dục chính trị - tư tưởng của Báo QĐND và Kênh QPVN
Thông qua khảo sát, tác giả nhận thấy thể loại được thể hiện trên báo
như sau: tin tức (8.78%), bài phản ánh (76.23%), ghi chép (5.74%), chính
luận (2.93%), phỏng vấn (1.64%), các dạng bài khác (dưới 1%). Đối chiếu
với sự nhận định của nhà báo về những thể loại báo chí thể hiện nội dung
giáo dục chính trị tư tưởng có sự chênh lệch khá lớn. Trong khi đó, học
viên trả lời câu hỏi “hình thức truyền thông nào của báo chí quân đội về
chính trị - tư tưởng mà đồng chí được tiếp cận nhiều nhất?”, thì có 91.8% ý
kiến lựa chọn các sản phẩm báo chí (tin, bài, phóng sự, chuyên trang,
chuyên mục, chương trình trực tiếp) về chính trị - tư tưởng, 12.5% ý kiến
93
chọn chiến dịch truyền thông về chính trị - tư tưởng, 19.7% ý kiến chọn sự
kiện truyền thông về chính trị - tư tưởng, 22.1% ý kiến chọn hội thảo, hội
Biểu đồ 2.3: Hình thức truyền thông của báo chí quân đội về
chính trị - tư tưởng được học viên quân sự tiếp cận
nghị, tọa đàm, tờ rơi, sách.
Thực trạng lựa chọn đó phản ánh sự mong muốn, tin tưởng và dễ tiếp
nhận thông tin chính trị - tư tưởng từ các sản phẩm báo chí quân đội của học
viên quân sự. Như vậy, từ ý định chủ quan của đội ngũ tác giả cho đến thực
tiễn cũng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tiễn. Điều
đó, đòi hỏi các cơ quan báo chí quân đội cần phải tích cực cân đối giữa các
thể loại tác phẩm báo chí và làm đa dạng phong phú các nguồn thông tin về
giáo dục chính trị - tư tưởng để đổi mới, hấp dẫn, lôi cuốn đối với bạn đọc
tuổi trẻ là học viên các nhà trường quân sự.
2.3.2. Phương thức chuyển tải
Để đánh giá các phương thức chuyển tải nội dung giáo dục chính trị -
tư tưởng của báo chí quân đội đến quân nhân, tác giả đã khảo sát lựa chọn của
94
học viên các nhà trường quân đội về loại hình báo chí được tiếp cận nhiều
Biểu đồ 2.4: Loại hình báo chí học viên tiếp cận nhiều nhất thông qua phương tiện truyền thông
nhất thông qua các phương tiện truyền thông hiện nay.
Theo khảo sát thực tế ở đơn vị, học viên tiếp cận báo chí nhiều nhất vẫn
là báo in 89% (chủ yếu đọc báo giấy 84.3%), tiếp đó là xem truyền hình (sử
dụng tivi 66%, điện thoại 8.5%, máy tính 5%), còn báo điện tử và phát thanh
chiếm tỷ lệ khoảng 56 - 57%. Những thông số trên phản ánh đúng với thực
trạng chế độ đọc báo, nghe đài, xem truyền hình tại đơn vị nhà trường. Do
thực hiện 11 chế độ trong ngày, nên học viên đọc báo giấy và xem truyền
hình chủ yếu vào khung thời gian từ 18h30 - 20h tại doanh trại, còn đọc báo
điện tử khi có thời gian nghiên cứu tại thư viện và ngày nghỉ mới được sử
dụng điện thoại thông minh. Riêng các chương trình phát thanh thường phát
trùng vào giờ tăng gia sản xuất, vệ sinh nội vụ, thể dục thể thao nên có nhiều
hạn chế trong việc lắng nghe tin bài. Với phương thức báo giấy QĐND, tuy
có phân chuyên trang nhưng các bài viết về đề tài đó vẫn còn chưa đủ hết
trang hoặc có nhiều bài chuyển trang sang vùng khác dẫn tới việc gây khó
chịu cho người đọc. Mặt khác, báo in QĐND có khổ giấy quá to cả về chiều
ngang chiều dọc, gây sự mệt mỏi theo dõi trong quá trình đọc và không tạo sự
95
hấp dẫn đối với bạn đọc, nhất là tuổi trẻ. Báo điện tử phát huy được tính tiện
ích, cập nhật thông tin kịp thời, nhưng vì điều kiện huấn luyện của đơn vị, cho
nên học viên quân sự ít được tiếp cận. Tuy nhiên, với kết quả khảo sát việc
đọc, xem, nghe thông tin trên các loại phương tiện truyền thông khác nhau, do
đó vấn đề đặt ra việc tích hợp nhiều loại hình báo chí trong một cơ quan báo
chí là đúng với đòi hỏi của thực tiễn, nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin
của quân nhân trong giai đoạn hiện nay.
96
Tiểu kết chương 2
Những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy
Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị, hệ thống báo chí trong
quân đội đã có sự phát triển vượt bậc về số lượng, chất lượng và loại hình báo
chí. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, báo chí quân đội luôn được coi là
một thành tố quan trọng trong các mặt hoạt động Công tác đảng, Công tác
chính trị của QĐND Việt Nam, góp phần tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Bên cạnh đó, báo chí quân đội còn thực hiện chức năng phát hiện, dự
báo tình hình, tham gia tổng kết lý luận, tổng kết thực tiễn về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, xây dựng QĐND, củng cố nền quốc phòng toàn dân
và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để công tác thông tin, tuyên
truyền khách quan, chính xác và mang lại hiệu quả thiết thực, báo chí quân
đội luôn bám sát thực tiễn cuộc sống, nhất là những nơi còn nhiều khó khăn,
gian khổ, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo để tuyên truyền sâu rộng về
phong trào hành động cách mạng của nhân dân, phong trào thi đua quyết
thắng của lực lượng vũ trang nhân dân, kịp thời phát hiện, cổ vũ, biểu dương,
nhân rộng các điển hình tiên tiến. Báo chí quân đội còn là vũ khí sắc bén đấu
tranh với kẻ thù và các thế lực thù địch trên mặt trận chính trị tư tưởng, văn
hoá, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, góp phần làm lành mạnh hoá đời
sống xã hội cũng như nhu cầu thông tin của bộ đội và nhân dân. Tuy nhiên,
qua khảo sát báo QĐND và kênh QPVN, báo chí quân đội còn bộc lộ một số
điểm cần khắc phục như sau:
Thứ nhất, các nội dung giáo dục, định hướng về: tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối quan điểm của Đảng; nhiệm vụ của quân đội, đơn vị;
truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị được truyền tải phong phú, có
nhiều thông điệp phản ánh tương đối sâu sát thực tiễn, được đăng tải với
97
tần suất, số lượng nhiều. Song vẫn còn những điểm hạn chế, nội dung từng
chủ đề có thời điểm chưa đáp ứng đầy đủ thông tin cho sự kiện chính trị, còn
viết bài theo theo lối mòn cũ, chưa đổi mới tạo sự nhàm chán cho độc giả.
Thông tin giáo dục Mác-Lê nin còn quá ít số lượng tác phẩm, chưa được
đăng tải thường xuyên, chủ yếu các tác phẩm về Mác-Lênin xuất hiện nhân
dịp kỉ niệm, ngày lễ. Tác phẩm báo chí viết về chủ đề về giáo dục âm mưu
thủ đoạn của kẻ thù được đăng tải thường xuyên, nhưng số lượng còn chưa
nhiều, hình thức chưa đa dạng so với các chủ đề còn lại.
Thứ hai, hình thức thể loại báo chí vẫn tập trung nhiều ở dạng tin tức,
bài phản ánh, bình luận, xã luận, phóng sự, phỏng vấn; còn thể loại khác chưa
được phát huy trong thể hiện nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng. Những
hạn chế đó do đội ngũ nhà báo còn thiếu kiến thức về chính trị - tư tưởng,
chưa có nhiều chuyên gia hợp tác viết về mảng đề tài này. Mặt khác, các cơ
quan báo chí quân đội cần phát triển xây dựng báo chí đa phương tiện để khắc
phục những hạn chế của từng loại hình báo chí, nhằm đáp ứng toàn diện nhu
cầu thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân trong toàn quân.
Tóm lại, so với yêu cầu đề ra, chất lượng thông tin, tuyên truyền của
báo chí quân đội còn có mặt hạn chế. Nội dung, hình thức của một số tờ báo
chưa thật sinh động, hấp dẫn. Số lượng và chất lượng bài viết đấu tranh phản
bác quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng ngày càng tăng, nhưng
lĩnh vực văn học còn ít. Năng lực tác nghiệp, tính chuyên nghiệp, nhất là khả
năng khai thác và xử lý thông tin, định hướng dư luận của một số nhà báo
Quân đội chưa theo kịp yêu cầu. Việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên ở một số cơ
quan báo chí có thời điểm chưa được chú trọng. Phương thức chuyển tải chưa
có nhiều đổi mới hiện đại để bắt nhịp với xu thế sử dụng công nghệ cao tạo
nên sức hấp dẫn, tinh gọn, bắt mắt và do đó, chưa tạo được sức hút đông đảo
bạn đọc về chủ đề giáo dục chính trị - tư tưởng.
98
Chương 3
HIỆU QUẢ TIẾP NHẬN THÔNG TIN TỪ BÁO CHÍ QUÂN ĐỘI VỀ
NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CỦA QUÂN NHÂN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Các yếu tố tác động đến nhận thức chính trị - tư tưởng của
quân nhân trong giai đoạn hiện nay
3.1.1. Bối cảnh thế giới
Trong những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
nhưng dự báo tình hình chung sẽ còn diễn biến phức tạp và bất trắc, khó
lường. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Chiến tranh
cục bộ, xung đột và chạy đua vũ trang, xung đột sắc tộc tôn giáo, hoạt động
can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên và cạnh
tranh kinh tế tiếp tục diễn ra gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh
truyền thống và phi truyền thống, an ninh mạng, an ninh tài chính, an ninh
năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên
tai dịch bệnh… có nhiều diễn biến phức tạp.
Các quốc gia có sự điều chỉnh chiến lược phát triển, tăng cường liên
kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong thương mại, đầu tư, nhân lực,
khoa học, công nghệ.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động,
nhưng tiềm ẩn nhiều nhân tố dễ gây mất ổn định, là khu vực cạnh tranh quyết
liệt về chiến lược giữa các nước lớn; tranh chấp chủ quyền biên giới, lãnh thổ,
biển, đảo sẽ diễn biến phức tạp hơn. Cộng đồng ASEAN tiếp tục phát triển và
hội nhập sâu rộng, nhưng phải đối mặt với một số thách thức từ bên trong và
nhiều thách thức từ bên ngoài.
Sự biến đổi của tình hình thế giới, khu vực đem lại cả thuận lợi và thời
cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, sự
99
biến động đó đòi hỏi quân nhân phải luôn có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về
chính trị - tư tưởng, có lập trường bản lĩnh, vững vàng, nhận rõ đối tác, đối
tượng để bảo vệ tuyệt đối lợi ích của đất nước, dân tộc.
3.1.2. Bối cảnh trong nước
Trong hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, tạo những điều kiện thuận lợi để ổn định và phát triển, thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên,
cũng cần nhận rõ những nguy, thách thức đan xen, tác động phức tạp, nhất là
khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Việc thực hiện các Hiệp định
thương mại tự do đã có và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, cùng với việc hình thành cộng đồng ASEAN mở ra nhiều cơ hội thuận
lợi cho phát triển, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức. Kinh tế
phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Trong 10
năm gần đây, chất lượng hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp; phát triển chưa bền vững cả về kinh tế, văn
hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, tiềm ẩn những
nhân tố và nguy cơ mất ổn định.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường tạo ra sự phân hóa giàu, nghèo, sự
chênh lệch, khác biệt về mức sống, lối sống, ảnh hưởng đến tư tưởng, tâm lý,
tình cảm của cán bộ, chiến sĩ quân đội; cùng với đó, các thế lực thù địch, phần
tử cơ hội chính trị, chống đối tiếp tục đẩy mạnh chống phá cách mạng nước
ta, tác động xấu đến nhận thức, tình cảm của quân nhân, ảnh hưởng trực tiếp
đến việc nâng cao bản lĩnh chính trị, niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, hiện nay, sự bùng nổ của công nghệ thông tin làm cho thông
tin có thể đến với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân từ nhiều nguồn, nhiều chiều,
các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề này để tuyên truyền, xuyên tạc,
kích động chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội ta, nhất là trên mạng
Internet nhằm truyền bá lối sống thực dụng, hình thành tâm lý sùng bái đồng
100
tiền, đua đòi hưởng lạc, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng, sa sút niềm tin vào
Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa…
Nguy cơ chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo và việc sử dụng vũ khí công nghệ cao, khả năng phản ứng
nhanh, hủy diệt lớn…, sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng, bản lĩnh
chính trị, niềm tin chiến thắng của quân nhân.
Mặt khác, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu tham nhũng,
lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đảng ta đã chỉ rõ: “Hiện nay, một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”.
Trên thực tế, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu
hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây
bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước. Tình trạng trên có nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do những
nguyên nhân chủ quan: “Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm
sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân
dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi
chưa đến nơi đến chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với
làm, hoặc làm chiếu lệ”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các
ngành, kể cả cấp Trung ương, chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, giảm sút
sức chiến đấu và thiếu kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong
quân đội, còn một số biểu hiện thụ động, trông chờ, dựa dẫm, ỷ lại tập thể, sợ
trách nhiệm, ngại khó khăn gian khổ; nội bộ thiếu thống nhất, nói không đi
đôi với làm… đã tác động đến việc nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách
101
nhiệm của quân nhân phấn đấu xứng danh "Bộ đội Cụ Hồ".
Nói chung, với những yếu tố về tình hình thế giới; mặt trái kinh tế thị
trường; diễn biến hòa bình; tự diễn biến, tự chuyển hóa; an ninh mạng tác
động tới nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân, cần phải tính đến nhu
cầu tiếp nhận thông tin của cá nhân. Trong đời sống xã hội ngày nay, thông
tin trở thành nhu cầu cần thiết của con người và nhu cầu đó không ngừng tăng
lên cùng với sự gia tăng của các mối quan hệ xã hội. Đó là các nhu cầu thông
tin về sản phẩm dịch vụ, hàng hoá; các thông tin về chính trị, xã hội, kinh tế...
giúp con người định hướng đúng, làm chủ được đời sống của mình và thực
hiện đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm của người công dân. Tuy nhiên, sự
bùng nổ thông tin dẫn đến xuất hiện nhiều nguồn thông tin nhiễu loạn, chưa
được kiểm chứng, thì vai trò của báo chí được phát huy thế mạnh của mình.
Báo chí là một trường học rộng lớn, một kho tàng tri thức khổng lồ về xã hội,
văn hóa, khoa học, kỹ thuật, tri thức chính trị…, mỗi cá nhân đều có thể tìm
kiếm tri thức, học hỏi kinh nghiệm để hoàn thiện bản thân. Thông tin trên báo
chí được kiểm chứng, đa dạng, phong phú, hấp dẫn, sinh động về mọi lĩnh
vực, mọi vấn đề, giúp công chúng nhận thức đúng đắn bản chất các hiện
tượng, sự kiện đang diễn ra trong xã hội.
3.1.3. Yêu cầu xây dựng quân đội về nhận thức chính trị - tư tưởng
trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch
Dưới góc độ nghiên cứu, quán triệt, tích cực triển khai thực hiện Nghị
quyết Trung ương số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với thực hiện Chỉ
thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và thực tiễn công tác
của quân nhân ở các đơn vị trong toàn quân, mỗi quân nhân cần phải xây
dựng cho bản thân bản lĩnh chính trị vững vàng để phòng chống lại sự tác động,
ảnh hưởng từ những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, đặc biệt là tác động xấu từ các
102
quan điểm sai trái tán phát trên không gian mạng đối với xã hội hiện nay.
Để không hoang mang, dao động trước sự tác động ấy, cán bộ, đảng
viên phải có bản lĩnh chính trị thật sự vững vàng. Thế nhưng do khả năng
"miễn dịch" và “sức đề kháng” hạn chế nên trước những tác động ấy, một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã có những biểu hiện hoang mang, dao
động. Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tăng cường khả năng "miễn
dịch", nâng cao "sức đề kháng” cho cán bộ, đảng viên và nhân dân là việc làm
thường xuyên. Trước yêu cầu mới hiện nay, đây là vấn đề cần được đặc biệt
coi trọng. Sự vững vàng về bản lĩnh, ý chí, niềm tin sẽ có vai trò rất quan
trọng quyết định "sức đề kháng", khả năng "miễn dịch" của mỗi người trước
các tác động tiêu cực từ những hành động sai trái, thông tin xấu độc ngoài xã
hội, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Đối với mỗi cá nhân, bản lĩnh đó chính là sự vững vàng, tính kiên định,
sự chủ động thể hiện trong hành động trước những thử thách mà cuộc sống
đặt ra. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên và toàn Đảng ta, bản lĩnh chính trị là
phẩm chất hàng đầu không thể thiếu. Bản lĩnh chính trị của Đảng chính là sự
kiên định với mục tiêu, lý tưởng - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên
định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên
định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng... Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng vững vàng về bản lĩnh phải
luôn kiên định, không dao động trước mọi hoàn cảnh, có ý chí, quyết tâm
phấn đấu, vượt lên mọi gian khổ, khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao. Đảng viên vững vàng về bản lĩnh chính trị phải luôn nêu cao tính chiến
đấu, kiên quyết đấu tranh vạch trần, phản bác những quan điểm sai trái, thù
địch, góp phần làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động trong chiến lược “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch; đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thời gian qua, đúng như nhận định của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư,
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
103
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ: “Các thế lực
thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", lợi
dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ
hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ súy cho lối sống
hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa". Đồng thời, chúng còn “cấu
kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá
cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn”. Đặc biệt, chúng tìm mọi
phương kế tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng những giọng điệu xuyên tạc nguy hiểm,
chúng muốn gieo rắc vào cán bộ, đảng viên tư tưởng hoài nghi về mục tiêu,
con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn.
Trước sự chống phá ấy, cơ bản toàn Đảng, toàn dân ta có khả năng
"miễn dịch" và "sức đề kháng" tốt, luôn vững vàng bản lĩnh chính trị; nhận
thức đúng về bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tích cực, chủ động đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch... Tuy
nhiên, những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, những khó khăn,
phức tạp nảy sinh trong quá trình hội nhập, đặc biệt là sự chống phá quyết liệt
bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi của các thế lực thù địch, phản động đã
làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức ta hoang mang, dao động,
giảm sút ý chí, niềm tin. Nghị quyết hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII đã chỉ rõ: “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn
chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu
tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; việc đấu tranh, phản bác
những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản
động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả
104
chưa cao”. Một số cán bộ, đảng viên không chủ động tự giác, tích cực kiên
quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc mà còn cổ
xúy, phụ họa “té nước theo mưa”. Một bộ phận cán bộ, đảng viên không thiết
tha với việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không
muốn tham gia các buổi học tập, quán triệt chủ trương, đường lối nghị quyết
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Do "sức đề kháng", khả
năng "miễn dịch" trước các tác động tiêu cực từ những thông tin xấu độc, sự
chống phá của các thế lực thù địch, phản động mà trong xã hội đã có sự xuất
hiện của những quan điểm phủ định mục tiêu và con đường đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội của nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII đã chỉ rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, trong đó biểu hiện đầu tiên được đề cập là: “Phai nhạt lý tưởng cách
mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Một trong những biện pháp đấu tranh phòng, chống những biểu hiện ấy
là mỗi cán bộ, đảng viên phải xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng
trên cơ sở tăng cường "sức đề kháng", khả năng "miễn dịch" trước những tác
động tiêu cực từ những hành động sai trái, thông tin xấu độc, sự chống phá
của các thế lực thù địch, phản động. Có thể nói, bản lĩnh chính trị vững vàng
là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng
viên và toàn Đảng ta. Bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên không phải
tự nhiên mà có. Bản lĩnh chính trị là sản phẩm của quá trình giáo dục, bồi
dưỡng, học tập và rèn luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn
phong trào hành động cách mạng. Bên cạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng hàng
đầu của việc đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng trong Đảng, để xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững
vàng, từng cán bộ, đảng viên vừa phải tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao
trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, vừa phải đắm mình vào phong trào
hành động cách mạng để rèn luyện, tu dưỡng, bồi đắp.
105
Để ngăn chặn những tác động xấu từ các quan điểm sai trái, thù địch,
nhất là trên không gian mạng, đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp tổng thể, từ
việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan quản lý Nhà
nước,... đến ý thức tham gia xây dựng môi trường thông tin, một không gian
mạng an toàn, lành mạnh của mỗi người. Trong đó, phát huy vai trò của báo
chí trong tuyên truyền, giáo dục nhằm tạo cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
có "sức đề kháng", đủ “miễn dịch” trước những quan điểm sai trái, thông tin
xấu độc... góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh; trước hết, chúng ta
phải tuyên truyền, giáo dục để mọi người hiểu rõ bản chất cách mạng, khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tính đúng đắn, sáng tạo
trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta. Qua tuyên truyền phải định hướng,
cung cấp thông tin để người dân hiểu đúng, hiểu sâu về lịch sử truyền thống
dân tộc, về thành tựu của cách mạng, nhất là sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đồng thời, chủ động thông tin kịp thời, phong phú và có định
hướng cho công chúng về các sự kiện, vấn đề nảy sinh trong nước cũng như
trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu nhận thức, thị
hiếu chính đáng của nhân dân, thông qua đó để định hướng tư tưởng, hướng dẫn
nhận thức, xây dựng, củng cố niềm tin.
Cùng với đó là đẩy mạnh tuyên truyền để quân nhân và nhân dân nhận
thức rõ âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt
trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương thức, thủ đoạn truyền bá
những quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch sử dụng ngày càng tinh vi,
khó nhận biết. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, theo dõi, các cơ quan chức
năng cần thông báo, phổ biến kịp thời để nhân dân nhận biết được những
chiêu trò mà các thế lực thù địch, phản động áp dụng, từ đó đề cao tinh thần
cảnh giác, không mắc mưu, tăng cường "sức đề kháng", đề cao trách nhiệm,
tính tự giác trong đấu tranh, phản bác. Đề cao tinh thần cảnh giác là tốt và rất
cần thiết, nhưng trong điều kiện hội nhập trở thành một xu thế lớn của thế giới
106
hiện đại thì cần tránh tư tưởng cảnh giác cực đoan, nhìn đâu cũng thấy “thù
địch”. Quá trình hội nhập đồng thời mở ra cả thời cơ và thách thức, đưa tới cả
thuận lợi lẫn khó khăn, đó là lẽ đương nhiên. Chúng ta không nên cảnh giác
một cách cực đoan, cứng nhắc mà bỏ lỡ thời cơ đón những làn gió trong lành,
những thời cơ, vận hội, những nhân tố tích cực phục vụ cho sự nghiệp phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
3.2. Nhu cầu, thói quen tiếp nhận thông tin định hướng chính trị - tư
tưởng từ báo chí quân đội của quân nhân
3.2.1. Nhu cầu tiếp nhận thông tin định hướng chính trị - tư tưởng
Gi¸o dôc chÝnh trÞ - t t ëng cho quân nhân trên các phương tiện báo
chí quân đội bằng phương thức tuyên truyền có mục đích, kế hoạch và tổ chức
chặt chẽ của ban biên tập và đội ngũ nhà báo các nội dung giáo dục chính trị -
tư tưởng, nhằm giúp họ có nhận thức, thái độ và hành vi chính trị đúng đắn,
góp phần phát triển toàn diện nhân cách người quân nhân cách mạng, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Chứng thực điều đó,
khi được hỏi về vai trò giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân trong
QĐND Việt Nam, đội ngũ sĩ quan quản lý bộ đội đánh giá: "Giáo dục chính
trị - tư tưởng góp phần giáo dục đường lối chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội, giáo dục truyền thống dân
tộc góp phần xây dựng thế giới quan, phương pháp luận, niềm tin vào Đảng,
vào Quân đội, xây dựng đoàn kết, khắc phục khó khăn, hoàn thiện nhân cách
người quân nhân cách mạng, là nhân tố tác động trực tiếp tới tư tưởng, ý
thức, trách nhiệm tình cảm, tư duy của quân nhân".
Như vậy, chủ thể giáo dục chính trị, tư tưởng cho quân nhân trên các
phương tiện báo chí quân đội chính là các nhà báo quân đội (phóng viên, biên
tập viên, cộng tác viên). Trong các chủ thể đó, các nhà báo có trách nhiệm
viết bài phản ánh các nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân
theo chương trình giáo dục của Tổng cục Chính trị quy định cho từng đối
tượng quân nhân. Còn cán bộ chỉ huy đơn vị cơ sở có nhiệm vụ tổ chức các
107
hoạt động giáo dục cụ thể cho quân nhân thông qua các bài viết trên báo chí
quân đội, nhằm giúp họ nhận thức và chuyển hóa các nội dung giáo dục chính
trị, tư tưởng thành niềm tin, thế giới quan và bản lĩnh chính trị của cá nhân.
Do đó, nhu cầu tiếp nhận thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng của quân
nhân bao gồm: Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin; Giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh; Giáo dục đường lối quan điểm của Đảng; Giáo dục nhiệm vụ chính trị của
quân đội và đơn vị; Giáo dục truyền thống của dân tộc, quân đội và đơn vị; Giáo
Biểu đồ 3.1: Mức độ biểu hiện của những thông tin liên quan đến
giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội
dục bản chất âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Để nắm bắt nhu cầu tiếp nhận từng nội dung thông tin cụ thể, tác giả
khảo sát đối tượng bạn đọc quân nhân (497 đồng chí) là các học viên quân sự
108
đào tạo cấp phân đội của 4 học viện, nhà trường quân đội đại diện cho bốn
khối chuyên môn quân sự bao gồm: Trường Sỹ quan Chính trị, Trường Sỹ
quan Lục quân 1, Học viện Hậu cần, Học viện Kĩ thuật quân sự. Qua đó, tác
giả nhận được kết quả về nhu cầu tiếp cận 6 nội dung thông tin giáo dục chính
trị - tư tưởng tương đối đều nhau. Điều đó cho thấy, các nội dung đó đều có
sự tác động đến nhận thức của quân nhân khi cần thông tin chính thống để
xây dựng cho mình bản lĩnh, lập trường tư tưởng vững vàng. Nhu cầu tìm
hiểu thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng của đội ngũ học viên cũng được
biểu hiện qua việc trả lời khi được phỏng vấn: "Thông qua việc giáo dục
chính trị - tư tưởng, quân nhân sẽ có nền tảng tư tưởng đúng đắn, góp phần
hình thành hệ tư tưởng yêu nước, yêu chế độ, tuyệt đối tin tưởng vào Đảng,
vào tổ chức. Đồng thời, giúp quân nhân có thể tự nhìn nhận, đấu tranh với
các quan điểm, luận điệu sai trái, phản động".
Qua biểu đồ 3.1 cho thấy về số lượng quân nhân tiếp nhận thông tin
chính trị - tư tưởng khá cao, trong đó đánh giá nội dung thông tin phong phú
đạt tỉ lệ trên 50%, bình thường khoảng trên dưới 20%, còn lại là đơn điệu 2%.
Tỉ lệ ở trên cũng tương ứng với ý kiến trả lời của quân nhân về mức độ tác
động chung của thông tin về chính trị - tư tưởng ở mức rất sâu 15.69%, sâu
Biểu đồ 3.2: Những hạn chế về nội dung truyền thông giáo dục
65.59%, bình thường 18.11% và sơ sài 0.4%.
109
chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội
Đồng thời, học viên khi tiếp cận với từng nội dung thông tin định
hướng chính trị - tư tưởng đã có những đánh giá khác nhau về mức độ tác
động sâu sắc tới nhận thức của mình: Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin 66%;
Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh 80.7%; Giáo dục đường lối, quan điểm của
Đảng 78.1%; Giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị 69.4%;
Giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị 66.4%; Giáo dục bản chất,
âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù 74.6% và còn lại 3.42% chọn vấn đề khác (Phụ
lục 10). Tuy nhiên, với các thông số trên, tác giả thấy nhận định của quân
nhân về sự tác động của các thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng còn có
nhiều chuyên mục, chuyên đề khi được truyền thông trên báo chí quân đội
còn chưa hiệu quả, chưa phản ánh hết mong muốn của quân nhân về nội dung
chính trị - tư tưởng; chưa thông tin kịp thời, đầy đủ và đôi lúc làm cho quân
nhân mơ hồ về chính trị - tư tưởng.
3.2.2. Thói quen tiếp nhận thông tin định hướng chính trị - tư tưởng
Học viên đào tạo cán bộ cấp phân đội là những thanh niên trong độ tuổi
từ 18 đến 25, đã tốt nghiệp trung học phổ thông (một số là chiến sĩ đang thực
hiện nghĩa vụ quân sự) đăng ký dự thi vào các trường quân đội. Khác với sinh
viên dân sự, những thanh niên này phải trải qua vòng sơ tuyển về chính trị và
thể lực ở cơ quan quân sự địa phương, có đủ điều kiện phục vụ lâu dài trong
quân đội mới được dự thi vào các trường quân đội. Sau khi trúng tuyển trong
kỳ thi tuyển sinh quân sự, thí sinh được triệu tập về các trung tâm huấn luyện
của Bộ Quốc phòng tham gia khoá huấn luyện quân sự trong thời gian 6 tháng
để trở thành người chiến sĩ trước khi trở thành học viên quân sự. Sau đó, học
viên trở về các học viện, trường sĩ quan và được phân ngành đào tạo theo nhu
cầu, kế hoạch sử dụng cán bộ của quân đội.
Thời gian đào tạo tại các học viện từ 4 đến 6 năm, trong đó đào tạo cử nhân
các ngành hậu cần, kỹ thuật và bác sĩ quân y tuyến cơ sở là 4 năm, kỹ sư 5 năm,
dược sĩ quân y 6 năm. Trong quá trình học tập tại các trường quân đội, học viên
110
thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của hạ sĩ quan, chiến sĩ. Kết thúc
khoá học ra trường, học viên được phong quân hàm sĩ quan cấp thiếu uý, trung uý
và được Bộ Quốc phòng điều động đến nhận công tác ở các trung đội, đại đội, tiểu
đoàn trong toàn quân.
Quá trình học tập tại học viện, học viên được quản lý chặt chẽ theo các
chế độ quy định của quân đội. Ngoài thời gian lên lớp, học viên phải thực hiện
đầy đủ 11 chế độ trong ngày, 3 chế độ trong tuần. Mọi hoạt động học tập, sinh
hoạt chủ yếu diễn ra trong doanh trại, theo giờ giấc quy định chặt chẽ, thống
nhất. Giờ tự học của học viên cũng được đặt dưới sự quản lý của đơn vị. Ngày
nghỉ, học viên chỉ được phép ra ngoài doanh trại với tỷ lệ hạn chế. Ngoài ra,
học viên còn tham gia các hoạt động tăng gia sản xuất, làm sạch, đẹp doanh trại
và các hoạt động thể dục thể thao, văn hoá văn nghệ do đơn vị tổ chức. Học
viên được quân đội bảo đảm đầy đủ nhu cầu vật chất, tinh thần, các phương
tiện học tập, rèn luyện, sinh hoạt theo chế độ quy định. Nội dung học tập là
chương trình đào tạo đại học theo các chuyên ngành đặc thù của quân đội.
Ngoài nhiệm vụ học tập, học viên các học viện, trường sĩ quan phải
tham gia vào các hoạt động rèn luyện để trở thành người cán bộ quân đội.
Hoạt động rèn luyện rất phong phú, từ rèn luyện thể lực để có khả năng chịu
đựng gian khổ trong môi trường hoạt động quân sự; rèn luyện phương pháp,
tác phong lãnh đạo, chỉ huy của người cán bộ quân đội cho đến rèn luyện thói
quen chấp hành kỷ luật, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống. Các hoạt động
chính trị - xã hội sau giờ học trên lớp đều thuộc hoạt động rèn luyện nhằm
hình thành những phẩm chất nhân cách của người cán bộ quân đội tương lai.
Trong 11 chế độ thực hiện trong ngày, có chế độ đọc báo, nghe đài,
xem truyền hình từ 18h30 – 20h tại doanh trại để các học viên nắm bắt, cập
nhật các thông tin thời sự, chuyên mục, chuyên đề tình hình trong và ngoài
nước. Mặt khác, trong quá trình giờ nghỉ hoặc tự học tập tại thư viện của
trường, học viên tự lựa chọn thông tin theo nhu cầu của riêng mình. Theo điều
tra xã hội học, tác giả lấy ý kiến của các học viên ở các trường thì thời gian
111
tiếp cận báo chí chủ yếu là khoảng thời gian 17h – 24h với tỉ lệ 67%, còn lại
là các khoảng thời gian khác với thời lượng dao động là 2h hàng ngày. Các
học viên tiếp cận thông tin chính trị - tư tưởng chủ yếu thông qua Báo QĐND
(báo in 91.7%, báo điện tử 13.2%), Kênh truyền hình QPVN (70.8%), còn lại
Tạp chí Quốc phòng toàn dân 29%, Báo Biên phòng 1.8%, Báo Hải quân Việt
Nam điện tử 2%, Báo điện tử Phòng không - Không quân 1.4%, báo điện tử
của các Quân khu 0.6%, Tạp chí Văn hóa quân sự 43.6% và các sản phẩm báo
chí khác 8.6%. Với thực trạng sản phẩm báo chí ở các đơn vị nhà trường
tương đối đầy đủ, học viên tập trung chủ yếu đọc, xem báo QĐND và kênh
Truyền hình QPVN, đây là 2 sản phẩm báo chí, là cơ quan ngôn luận trực tiếp
của Quân ủy trung ương, còn lại các báo khác thì sự quan tâm cập nhật thông
tin không nhiều. Và những thông tin chính trị - tư tưởng dưới dạng tin tức thời
sự được 98% sự quan tâm của học viên, tiếp theo là chương trình phát thanh,
truyền hình trực tiếp 48%; chuyên trang, chuyên đề, chuyên mục 30.8%; câu
chuyện truyền thanh 24.7%; tiểu mục, tiết mục 9% và các chương trình khác
còn lại là 0.4%. Theo kết quả điều tra thì những dạng tin tức thời sự, chương trình
trực tiếp, chuyên trang, chuyên đề, chuyên mục thường hấp dẫn bạn đọc, có tác
động nhiều hơn các dạng chương trình khác, bởi vì tính thời sự, trực quan sinh
động và tập trung vào từng nội dung chuyên đề cụ thể, có tính định hướng cao.
112
Biểu đồ 3.3: Các sản phẩm báo chí học viên thường tiếp cận
3.3. Đánh giá hiệu quả tiếp nhận thông tin từ báo chí quân đội về
nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong giai đoạn hiện nay
3.3.1. Hiệu quả tiếp nhận
Sử dụng c¸c ph ¬ng tiÖn báo chí quân đội là phương thức gi¸o dôc
chÝnh trÞ - t t ëng cho quân nhân nói chung, học viên nói riêng có hiệu quả
nhất. Trong các phương tiện trên, trước hết phải nói đến c¸c ấn phẩm, nội
dung bài viết, chương trình cập nhật trên Báo QĐND và phát sóng trên Kênh
QPVN liên quan đến giáo dục chính trị - t t ëng cho quân nhân; đây là con
đường cơ bản, phổ biến nhất để các đơn vị cơ sở tiến hành giáo dục chÝnh trÞ,
t t ëng cho học viên. Theo quy định của Tổng cục Chính trị, hàng ngày các
đơn vị cấp đại đội và tương đương phải tổ chức cho quân nhân đọc báo, có
nhiều loại báo chí đến với học viên như: báo Công an nhân dân, báo Hà nội
mới, báo Tiền phong, báo Nhân Dân, báo QĐND, kênh QPVN…; trong đó
báo QĐND và kênh QPVN là 2 báo có tác dụng trực tiếp và cụ thể nhất trong
giáo dục chính trị - tư tưởng cho học viên, bởi trên báo này hàng ngày thường
xuyên có đăng các bài viết liên quan đến giáo dục cán bộ, chiến sĩ quân đội.
Bên cạnh đó, chương trình thời sự của VTV1, chương trình Quốc
phòng - An ninh và chương trình Chúng tôi là chiến sĩ của Đài truyền hình
Việt Nam; chương trình Thời sự, chương trình QĐND…trên Đài tiếng nói
Việt Nam, cũng là con đường giáo dục chính trị - tư tưởng cho quân nhân nói
chung, học viên nói riêng rất có hiệu quả. Bởi theo quy định quản lý bộ đội,
quân nhân ở các đơn vị cơ sở được bố trí thời gian đọc báo, xem truyền hình
và nghe đài hàng ngày, nhất là những chương trình có các nội dung giáo dục
chính trị - tư tưởng cho quân nhân.
Theo khảo sát, thì có khoảng trung bình trên 78% học viên đọc báo,
xem truyền hình về thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng trên Báo QĐND,
Kênh truyền hình QPVN và tác động sâu sắc đến nhận thức của quân nhân
qua 6 chủ đề cụ thể với tỷ lệ: giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin 66%, giáo dục tư
113
tưởng Hồ Chí Minh 80.7%, giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng 78.1%,
giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị 69.4%, giáo dục truyền
thống dân tộc, quân đội và đơn vị 66.4%, giáo dục bản chất, âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù 74.6%. Đồng thời, trả lời câu hỏi phỏng vấn về việc thông tin
tuyên truyền giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội tác động tới
quân nhân như thế nào?, nhóm 25 học viên nhận xét: "Báo chí quân đội là
kênh giáo dục tiếp nhận thông tin có tác động trực tiếp tới mọi quân nhân, là
phương tiện truyền thông chính thống giúp quân nhân nhận thức đúng đắn,
đầy đủ, từ đó hình thành thái độ, hành vi chính trị phù hợp. Nhiều nội dung
thông tin có ý nghĩa rất lớn làm thay đổi suy nghĩ của quân nhân, đặc biệt là
các nội dung đấu tranh với các thế lực thù địch, lột rõ bộ mặt kẻ thù". Điều
đó chứng minh sự ảnh hưởng của nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng trên
báo chí quân đội đến nhận thức có hiệu quả khá tốt, tuy nhiên vẫn có sự tiếp nhận
khác nhau từ tác động của từng nội dung cụ thể, phụ thuộc vào sức hấp dẫn, thu
Biểu đồ 3.4: Mức độ tác động của thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng
hút của các tác phẩm báo chí đối với quân nhân.
Kết quả mức độ ảnh hưởng của các nội dung giáo dục chính trị tư tưởng
đến nhận thức đội ngũ nhà báo và quân nhân, cụ thể như sau:
* Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin
114
Qua điều tra đối tượng quân nhân là học viên đào tạo cấp phân đội ở
các học viện, nhà trường quân đội, kết quả cho thấy 78,3% số quân nhân tiếp
cận thông tin giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và đánh giá nội dung thông tin
phong phú là 48,5%, còn lại 27,4% nhận định là bình thường và 2,4% đơn
điệu. Và theo nhận thức của đội ngũ nhà báo quân đội, mức độ hiệu quả thông
tin về giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin mạnh và rất mạnh là 92%, còn lại 7,3%
là trung bình (Phụ lục 3). Mà theo điều tra xã hội học đối với học viên, mức
độ tác động thông tin của báo chí quân đội về những nội dung liên quan đến
giáo dục chính trị - tư tưởng, cụ thể giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin là 98,4% ý
kiến trả lời (rất mạnh 15,5%, mạnh 58,4%, trung bình 22,7%, yếu 1,8%).
Những thông tin này được học viên lựa chọn 66% ý kiến là có tác động sâu
sắc tới nhận thức chính trị - tư tưởng (Phụ lục 10). Đây là tỷ lệ thấp so với các
nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng khác, do số lượng và tần suất của mảng
nội dung này còn ít, chưa phong phú. Điều đó cho thấy nhận thức vai trò quan
trọng của thông tin cho đến sản phẩm thể hiện trên báo còn khoảng cách rất
lớn. Xuất phát từ việc hiểu biết chưa sâu về kiến thức chủ nghĩa Mác-Lênin
của phóng viên, nhà báo và thiếu chuyên gia viết về mảng đề tài này. Báo chí
quân đội cần dành cho mảng chủ đề này số lượng, tần suất đăng tải nhiều hơn
nữa, nhằm củng cố, truyền đạt linh hoạt kiến thức chủ nghĩa Mác-Lênin.
* Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
Khảo sát nhận định của phóng viên, biên tập viên, kĩ thuật viên thì có
99.3% nhất trí giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung tác động tới nhận
thức của quân nhân, trong đó mức độ rất mạnh là 55.5%, mạnh 43.1%, còn lại
0.7% trung bình (Phụ lục 3).
Đối với quân nhân thì mức độ tác động tới nhận thức sâu sắc của nội
dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ cao 80.7% (Phụ lục 10). Khi
tiếp cận với báo chí, quân nhân thường đọc thông tin về tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với tần suất cao chiếm 82.9%, trong đó đánh giá
thông tin phong phú là 64.2%, bình thường 18.1%, đơn điệu 0.6% (Phụ lục 9).
115
Và có 98.8% ý kiến trả lời của học viên về mức độ tác động của thông tin
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, theo đó có 32.4% ý kiến đánh giá mức độ rất
mạnh, 56.7% ý kiến đánh giá mạnh, trung bình 9.1% và yếu 0.6% (Phụ lục
10). Nhìn vào kết quả khảo sát, tác giả nhận thấy thông tin giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh phong phú và tác động mạnh, sâu sắc tới nhận thức chính trị - tư
tưởng của học viên. Bởi vì, sự tương quan trùng khớp sự đánh giá của đội ngũ
sản xuất tác phẩm báo chí với việc tiếp nhận thông tin đó của học viên.
* Giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng
Qua việc lấy ý kiến của nhà báo về mức độ hiệu quả thông tin giáo dục
đường lối quan điểm của Đảng thì có 99.3% số ý kiến đề cao vai trò quan
trọng, trong đó mức độ rất mạnh là 59.9%, mạnh 36.5%, trung bình 2.9%
(Phụ lục 3). Bên cạnh đó, khảo sát về việc quân nhân tiếp cận thông tin giáo
dục đường lối, quan điểm của Đảng là 87.1%, và đánh giá về thông tin đó
được thể hiện với mức độ phong phú là 64.6%, bình thường là 20.9%, đơn
điệu là 1.6% (Phụ lục 9). Mức độ tác động thông tin của báo chí quân đội về
giáo dục đường lối quan điểm của Đảng đối với quân nhân được 98.6% ý kiến
trả lời, thì có 35.4% ý kiến là rất mạnh, 55.5% mạnh, trung bình 6.6%, yếu
1%. Và khi được hỏi về những nội dung thông tin giáo dục chính trị - tư
tưởng tác động sâu sắc tới nhận thức của mình, thì tác giả nhận được 78% các
ý kiến trả lời lựa chọn cho nội dung giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng
(Phụ lục 10). Đây là nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng được thông tin
phong phú và có tác động rất hiệu quả tới nhận thức của công chúng.
* Giáo dục nhiệm vụ chính trị quân đội và đơn vị
Khảo sát lấy ý kiến nhà báo việc đánh giá sự tác động của báo chí quân
đội về nội dung giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị, tác giả
nhận được 99.3% ý kiến trả lời và chọn mức độ tác động rất mạnh là 61.3%,
mạnh 36.5%, trung bình 0.7%, yếu 0.7% (Phụ lục 3). Qua các thông số trên
thì thông tin về giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị có sự tác
động rất lớn tới nhận thức của quân nhân theo nhận định của đội ngũ các tác
116
giả sáng tạo những tác phẩm báo chí về nội dung này. Các thông tin này được
biểu hiện trên báo, kênh truyền hình với mức phong phú là 57.7%, ý kiến
chọn mức bình thường 22.1% và đơn điệu 1% theo sự đánh giá của độc giả là
học viên quân sự các học viện, nhà trường quân đội (Phụ lục 9). Đồng thời,
98.8% học viên đánh giá mức độ tác động của nội dung giáo dục nhiệm vụ
chính trị của quân đội, đơn vị tới quân nhân rất mạnh 31.6%, mạnh 57.3%, trung
bình 8.5% và yếu 1.4% (Phụ lục 10).
* Giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị
Với nội dung này, tác giả nhận được 99.3% câu trả lời của đội ngũ
phóng viên, nhà báo. Trong đó, có 62% ý kiến cho rằng thông tin giáo dục
truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị có tác động rất mạnh, 35.8% mạnh,
còn lại 1.5% là trung bình (Phụ lục 3). Điều này cũng tương đối tương quan
với 98.8% ý kiến của quân nhân cập nhật thông tin này với mức độ là: rất
mạnh 27.2%, mạnh 58.3%, trung bình 12.3% và yếu 1% (Phụ lục 10). Các tin
tức được cập nhật trên báo đài với thực trạng phong phú 51.7%, bình thường
23.3%, đơn điệu 1% theo sự trả lời của 76% quân nhân khi được hỏi về nội
dung đó ra sao (Phụ lục 9). Với các số liệu khảo sát đã minh chứng thông tin
giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị đã phát huy hiệu quả khá
tốt tới tư tưởng của quân nhân. Thực trạng các tin bài được tác giả khảo sát
trên sản phẩm báo chí cũng đã truyền đạt được thông điệp tới bạn đọc về
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quân đội và đơn vị.
* Giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.
Khi khảo sát nội dung này, tác giả xin ý kiến của nhà báo, phóng viên
qua bảng hỏi thì nhận được 98.5% câu trả lời, trong đó mức độ tác động rất
mạnh là 59.1%, mạnh 32.1%, trung bình 7.3% (Phụ lục 3). Đồng thời, đối với
công chúng là quân nhân thì có 78.2% thường xuyên tiếp cận thông tin về
giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn và có 51.1% ý kiến cho rằng thông tin
trên phong phú, 24.7% bình thường, đơn điệu 2.4% (Phụ lục 9). Với lượng
truy cập thường xuyên như trên, tác giả có đặt câu hỏi về mức độ tác động về
117
nội dung này đến nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân thì 99% ý kiến
trả lời bao gồm mức độ rất mạnh 32.4%, mạnh 50.9%, trung bình 14.1% và
yếu 1.6% (Phụ lục 10). Những thông số khảo sát qua đội ngũ nhà báo, phóng
viên đối chiếu với nhận định của quân nhân cho thấy nội dung này còn chưa
được khai thác mạnh mẽ, đa dạng hóa thông tin và cần có nhiều hình thức thu
hút bạn đọc hơn nữa trong quá trình tuyên truyền.
Qua sự tiếp nhận thông tin định hướng chính trị - tư tưởng trên báo chí
quân đội đã giúp nâng cao phẩm chất, năng lực chính trị của học viên, góp
phần giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong đơn vị, làm cơ sở nâng cao
chất lượng sức mạnh chiến đấu tổng hợp của các học viện, nhà trường quân
sự nói riêng và quân đội nói chung trong giai đoạn cách mạng mới. Sự tác
động đó đúng như nhận định của đội ngũ sĩ quan quản lý học viên: "Là kênh
thông tin tuyên truyền giáo dục chính trị - tư tưởng một cách thường xuyên
liên tục gắn với chế độ nền nếp của đơn vị, tác động trực tiếp đến nhận thức
của quân nhân nhằm nâng cao ý thức chính trị của cán bộ, học viên trong
thực hiện nhiệm vụ, chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội. Chủ
động định hướng, nâng cao trách nhiệm, củng cố niềm tin, tự hào dân tộc, bồi
dưỡng phẩm chất quân nhân". Từ các tác phẩm báo chí, học viên cập nhật
được tình hình trong nước và quốc tế; tích lũy được những kiến thức về chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm bắt kịp thời các quan điểm
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của
Quân đội, đơn vị trong toàn quân; hiểu rõ thêm về truyền thống vẻ vang của
dân tộc, của quân đội; nhận diện các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù
địch. Đặc biệt, là những tác phẩm về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng góp phần ngăn chăn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ. Từ đó, học viên xây dựng cho bản thân thế giới
quan khoa học, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần yêu nước, tự tôn dân
118
tộc, kiên định trước những khó khăn của đất nước và sự tấn công của các thế lực
thù địch trên mặt trận tư tưởng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Phát huy
tinh thần đó, học viên quân sự nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục
khó khăn, tích cực học tập, rèn luyện, tu dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt và
phẩm chất người quân nhân cách mạng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt
nhiệm vụ trên giao, chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội và pháp luật Nhà
nước, đồng thời, quan tâm đến các lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước, tích
cực tham gia các hoạt động vì cộng đồng mang lợi ích cho nhân dân địa
phương nơi đóng quân.
Những điều đó rất đúng với đánh giá của Cục Tuyên huấn, Tổng cục
Chính trị về công tác tư tưởng (trong tài liệu bổ trợ học tập chính trị năm
2018) như sau: "Công tác tư tưởng đã thực sự góp phần giữ vững trận địa tư
tưởng của Đảng trong quân đội, phát huy bản chất cách mạng, truyền thống
"Bộ đội Cụ Hồ", xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến
đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao”.
Song song với những thành tựu đạt được, việc tiếp thu thông tin giáo
dục chính trị - tư tưởng vẫn còn khoảng gần 30% số học viên không thấy tác
động sâu sắc đến nhận thức của mình, nhất là giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin,
giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị, giáo dục truyền thống dân
tộc, quân đội, đơn vị. Bởi vì, hình thức chưa thật sự thu hút, hấp dẫn người
đọc và có nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng thông tin chưa kịp thời, đầy
đủ, một số chuyên mục chưa hiệu quả, đôi lúc còn mơ hồ.
Sù ph¸t triÓn m¹nh mÏ cña khoa häc kü thuËt vµ c«ng nghÖ, làm cho
c¸c ph ¬ng tiÖn th«ng tin ®¹i chóng ngµy cµng ph¸t huy t¸c dông trong cung
cÊp th«ng tin và phæ biÕn c¸c gi¸ trÞ v¨n ho¸ nh©n lo¹i. Do vËy, cán bộ chỉ huy
119
đơn vị cơ sở cÇn ph¸t huy søc m¹nh cña c¸c ph ¬ng tiÖn nh : s¸ch, b¸o, ®µi
ph¸t thanh, v« tuyÕn truyÒn h×nh, m¹ng internet, nhất là báo chí quân đội như:
Chương trình Quốc phòng toàn dân trên truyền hình, Báo QĐND và Chương
trình phát thanh QĐND trên Đài tiếng nói Việt Nam…để gi¸o dôc chÝnh trÞ,
t t ëng cho qu©n nh©n nói chung, học viên nói riêng.
Đồng thời, cần kÕt hîp víi c¸c h×nh thøc, biÖn ph¸p kh¸c ®Ó n©ng cao
chÊt l îng, hiÖu qu¶ gi¸o dôc; sử dụng c¸c ph ¬ng tiÖn báo chí trªn, giúp học
viên cËp nhËt th«ng tin phong phó, ®a d¹ng, n©ng cao nhËn thøc toµn diÖn vÒ
c¸c vÊn ®Ò kinh tÕ, chÝnh trÞ - x· héi trong n íc vµ quèc tÕ. Tuy nhiªn, ®ßi hái
các nhà báo quân đội và cán bộ chỉ huy đơn vị cơ sở ph¶i cã ®Þnh h íng râ
rµng vÒ mÆt t t ëng vµ nh÷ng quy ®Þnh, giíi h¹n cô thÓ trong ®¸nh gi¸ vµ
khai th¸c th«ng tin. Tr¸nh kÎ thï lîi dông ph ¬ng tiÖn th«ng tin ®Ó kÝch ®éng,
tuyªn truyÒn, xuyªn t¹c nãi xÊu §¶ng, chÕ ®é, tuyªn truyÒn v¨n ho¸ ®éc h¹i.
Bên cạnh việc gi¸o dôc chÝnh trÞ, t t ëng cho học viên th«ng qua các
phương tiện truyền thông và báo chí quân đội, thì cần phải phối hợp chặt chẽ
với giáo dục thông qua ho¹t ®éng huÊn luyÖn, cũng như c¸c ho¹t ®éng gi¸o
dôc th êng xuyªn ë ®¬n vị; đồng thời ph¸t huy søc m¹nh tæng hîp c¸c tæ chøc
chÝnh trÞ - x· héi cña ®¬n vÞ trong gi¸o dôc chÝnh trÞ, t t ëng cho học viên.
3.3.2. Những nguyên nhân tồn tại
Trong công tác đảng - công tác chính trị ở các học viện nhà trường luôn
chú trọng về việc đáp ứng nguồn thông tin báo chí cho học viên. Với các sản
phẩm báo chí đầy đủ, phong phú đã giúp cho học viên tiếp cận tương đối toàn
diện thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng. Báo chí được truyền tải trên các
phương tiện theo các loại hình đa dạng như báo giấy, máy tính, điện thoại, ti
vi, trong đó học viên thường tiếp cận thông tin báo chí qua báo giấy, radio và
tivi. Trong thời lượng khoảng 2h/ngày, học viên tiếp cận thông tin chính trị -
tư tưởng có sự định hướng chọn lọc của cán bộ quản lý ở các tiểu đoàn và do
bản thân tự cập nhật tại thư viện hoặc thiết bị điện thoại cầm tay vào ngày
nghỉ, giờ nghỉ. Chính vì vậy, nguồn tin giáo dục chính trị - tư tưởng của báo
120
chí quân đội tác động trực tiếp đến quân nhân, làm cho quân nhân luôn có bản
lĩnh chính trị vững vàng và xây dựng lối sống trong sáng, có phẩm chất đạo
đức cách mạng. Mặt khác, theo khảo sát về phương tiện tiếp cận mà học viên
sử dụng chủ yếu (báo giấy, tivi, radio) cũng hạn chế được các thông tin ngoài
luồng độc hại, tránh sự tác động tiêu cực tới nhận thức tư tưởng.
Giáo dục chính trị, tư tưởng cho học viên nhằm phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hình thành các giá trị chính trị, tư tưởng cho họ, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục...Khi học viên có tri thức, hiểu biết về
chính trị, tư tưởng sẽ có nghị lực vươn lên đạt được nhiều thành tựu trong
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, lòng dũng cảm, trân trọng giá trị quân sự, biết
yêu thương, sẻ chia mang tính nhân văn sâu sắc, những thông tin giáo dục tư
tưởng sẽ có tác dụng lớn đối với tinh thần của họ. Trong giáo dục chính trị -
tư tưởng cho học viên, yếu tố con người hết sức quan trọng bởi đây là hạt
nhân truyền tải các thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng cho học viên. Nếu
những bài viết trên báo chí quân đội có trí tuệ, nhạy bén, sáng tạo, cập nhật
thông tin mang tính thời sự, khai thác nhiều khía cạnh sẽ mang tới cho học
viên cái nhìn trung thực, tổng quan về một vấn đề đặt ra thì tầm ảnh hưởng về
nhận thức của họ sẽ đem lại những định hướng giá trị đúng đắn.
Trong số những thành tựu quan trọng nhất mà loài người đạt được trong
thời gian gần đây, những phát triển nhảy vọt của các kỹ thuật truyền thông giáo
dục là một hiện tượng gây kinh ngạc và có những ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, hầu
hết các môi trường giáo dục đều có sự tham gia của công nghệ thông tin. Bên
cạnh sự cải tiến không ngừng về tốc độ, dung lượng, tính đa dạng, các phương
tiện truyền thông đại chúng tăng nhanh khả năng chuyển tải lẫn chất lượng kỹ
thuật đem lại hiệu quả giáo dục nhanh chóng và đa dạng các loại hình giáo dục
được số hóa... Những thay đổi ấy làm cho các phương tiện truyền thông có khả
năng lan xa và thấm sâu, làm thay đổi bản chất của xã hội cũng như đời sống
tâm lý, các chuẩn mực văn hóa và những thói quen của con người. Hạ tầng kỹ
thuật xuất bản, in ấn, thu phát thông tin của các phương tiện báo chí quân đội
121
đang đứng trước xu thế số hóa rất nhanh, tạo áp lực quản lý về nội dung trong
bối cảnh hội tụ công nghệ và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ.
Để đáp ứng được nhu cầu phát triển thì kinh phí hoạt động trở thành
mối quan tâm đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó có
báo chí quân đội và có những ảnh hưởng trực tiếp nhất định đến việc lựa
chọn, đặt mua và bổ sung các nguồn tài nguyên thông tin, phương tiện kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng đưa vào phục vụ. Thực tế cho thấy hoạt động của các
phương tiện truyền thông đại chúng đều phụ thuộc vào tính khả thi của nguồn
kinh phí; do vậy ngân sách cấp cần phải đảm bảo tính cân đối.
Sử dụng c¸c ph ¬ng tiÖn báo chí quân đội để tiến hành giáo dục chính
trị, tư tưởng cho học viên cần phải tiến hành chọn lọc về nội dung, vì thông tin đa
chiều trên báo chí có tác động rất lớn đến tư tưởng bộ đội. Mỗi ngày, mỗi giờ,
hàng vạn hình ảnh, thông tin, sự kiện lớn, nhỏ đến cực nhỏ được đăng tải đều
ảnh hưởng đến tư tưởng, tinh thần bộ đội.
Trong thời đại ngày nay, việc cập nhật thông tin bằng phương tiện hiện
đại, tin nóng, tin nhanh, tin độc...về giáo dục các giá trị nói chung, giáo dục
chính trị - tư tưởng nói riêng đang diễn ra hàng ngày ở từng cơ quan truyền
thông giáo dục. Tuy nhiên, cách xử lý thông tin trong lĩnh vực giáo dục chính trị,
tư tưởng cho học viên của báo chí quân đội sẽ khẳng định đẳng cấp của mình.
Thực tiễn đang đòi hỏi chính những người làm báo sẽ tự phân loại
mình; đứng trước nỗi buồn đau, bất hạnh, mất mát của người khác, việc đưa
hay không đưa, đưa tin như thế nào là một cách để độc giả nhận ra được nhân
cách cùng cái tâm của chính người cầm bút mang tới cho học viên những gì họ
cần là nguyên tắc nghề nghiệp mà mỗi người làm báo phải làm.
Điều đó cũng đòi hỏi, mỗi nhà báo phải hiểu rõ tâm lý quân nhân để
biết chia sẻ, cảm thông với những khó khăn của họ khi thực hiện nghĩa vụ
quân sự, biết cách để phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của báo chí,
chọn lọc và đưa những nội dung có ý nghĩa tích cực nhằm giáo dục chính
trị - tư tưởng cho học viên.
122
Tiểu kết chương 3
Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Quân đội, các đơn vị cơ sở
đang nỗ lực tìm phương thức, biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị
- tư tưởng cho quân nhân nói chung, học viên nói riêng; một trong các phương
thức đó là thông qua các phương tiện báo chí quân đội. Với chức năng đặc biệt
to lớn của các phương tiện báo chí quân đội, sự phối hợp cùng các đơn vị cơ sở
là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng
cho học viên. Giáo dục chính trị - tư tưởng cho học viên trên các phương tiện
báo chí quân đội, chính lµ qu¸ tr×nh nhµ gi¸o dôc sử dụng các nội dung gi¸o
dôc chÝnh trÞ - t t ëng trên các phương tiện báo chí quân đội để giáo dục học
viên, góp phần phát triển toàn diện nhân cách của họ. Qu¶n lý gi¸o dôc chính
trị, tư tưởng cho học viên trên các phương tiện báo chí quân đội, là những tác
động có tổ chức và kế hoạch chặt chẽ của chủ thể quản lý trong sử dụng
những nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng trên các phương tiện báo chí
quân đội để giáo dục học viên, nh»m giúp họ có nhận thức, tình cảm, thái độ
và hành vi chính trị đúng đắn, góp phần phát triển toàn diện nhân cách, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trong giai đoạn hiện nay, bối cảnh, tình hình thế giới có nhiều diễn
biến phức tạp, khó lường; tình hình trong nước có nhiều thuận lợi đi kèm với
thách thức, mặt trái nền kinh tế thị trường và sự tha hóa tư tưởng của một bộ
phận cán bộ, đảng viên tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của quân
nhân. Đồng thời, Đảng yêu cầu xây dựng quân đội vững vàng về bản lĩnh
chính trị trước các âm mưu, thủ đoạn chống phá nước ta của các thế lực thù
địch. Qua việc nghiên cứu đánh giá hiệu quả tiếp nhận của quân nhân về
thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội, dựa trên sự tác
động của các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của quân nhân hiện nay, có thể
rút ra vấn đề nghiên cứu sau:
Một là, ở trong quân đội, vì thực hiện điều lệnh quản lý bộ đội và điều
123
kiện môi trường công tác, huấn luyện, học tập, do đó cơ chế đọc xem của
người quân nhân là chế độ đọc báo nghe đài và nhu cầu thông tin của cá nhân.
Vì vậy, nhu cầu tiếp cận thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng là thường
xuyên thông qua báo chí chính thống, nhất là báo QĐND và kênh QPVN. Báo
giấy và truyền hình vẫn là sự lựa chọn tiếp cận nhiều nhất với thời lượng
khoảng 2h hằng ngày. Cho nên, thông tin chính thống về giáo dục chính trị tư
tưởng được các quân nhân tiếp nhận là chủ yếu, hạn chế được rất nhiều luồng
thông tin độc hại, chưa được kiểm duyệt về độ chân thực, đúng đắn.
Hai là, các nội dung giáo dục trên báo chí quân đội ảnh hưởng đến
quân nhân với tỉ lệ khảo sát mức độ tương đối cao (66% - 80,7%). Tuy nhiên,
như phần đánh giá ở chương 2, có nội dung giáo dục chính trị tư tưởng được
đăng tải với số lượng nhiều, tần suất xuất hiện thường xuyên, nhưng sự ảnh
hưởng sâu sắc đến nhận thức của quân nhân lại không cao. Điều đó chứng tỏ,
một số tác phẩm báo chí chưa có chất lượng tốt, hình thức còn chưa thu hút
được bạn đọc, công chúng ở những thời điểm nhất định.
Ba là, với tỉ lệ trung bình khoảng 70% sự tác động sâu sắc của các nội
dung thông tin chính trị tư tưởng, báo chí quân đội góp phần xây dựng tư
tưởng, bản lĩnh chính trị cho quân nhân trong quá trình xây dựng quân đội và
sẵn sàng chiến đấu cao, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đồng thời,
luôn đấu tranh với sự chống phá của kẻ địch trên mặt trận tư tưởng, giữ vững
niềm tin vào Đảng, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực trạng đó cũng
đặt ra cho báo chí quân đội cần phải tiếp tục có các giải pháp nâng cao chất
lượng sản phẩm báo chí nhằm tác động mạnh mẽ hơn nữa đến nhận thức tư
tưởng của quân nhân, giảm thiểu tỉ lệ 30% còn lại chưa thấy có tác động
nhiều trong lĩnh vực này.
Tóm lại, các giải pháp để thực hiện khắc phục những hạn chế của báo
chí quân đội khi ảnh hưởng đến nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân,
phải căn cứ vào thực trạng tiếp nhận và dự báo được tình hình diễn biến tiếp
theo của thế giới, trong nước, quân đội tác động đến đời sống, môi trường
124
công tác của bộ đội.
Chương 4
DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ ẢNH
HƯỞNG CỦA BÁO CHÍ QUÂN ĐỘI ĐỐI VỚI NHẬN THỨC CHÍNH TRỊ
- TƯ TƯỞNG CỦA QUÂN NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1. Dự báo tình hình ảnh hưởng đến nhận thức chính trị - tư
tưởng của quân nhân
4.1.1. Tình hình thế giới, khu vực
Đảng ta luôn nhận định, nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong
bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến
tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa
an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những
vấn đề toàn cầu như an ninh truyền thống, an ninh năng lượng, an ninh lương
thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp; xuất
hiện nhiều hình thái chiến tranh mới. Kinh tế thế giới đứng trước nguy cơ
khủng hoảng do ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19.
Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh
giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp. Từ sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực
hiện thủ đoạn chiến lược thúc đẩy “tự diễn biến”, tiến tới “cách mạng màu”
nhằm xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội, chống phá nền độc lập của các quốc
gia, dân tộc mà chúng cần khống chế. Chủ nghĩa đế quốc đang tăng cường các
biện pháp bao vây kinh tế, đồng thời đưa ra những lôi kéo về kinh tế kèm theo
điều kiện về chính trị thúc đẩy “tự diễn biến”, tự chuyển hóa nền kinh tế.
Đồng thời truyền bá các giá trị “dân chủ”, “tự do” của phương Tây vào các
quốc gia có chủ quyền. Chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan, thực dụng,
cường quyền nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng. Nhiều nước tăng ngân
125
sách quốc phòng, chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt và trở thành xu thế
phổ biến, đặc biệt một số nước đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường
năng lực hải quân với những thế hệ vũ khí mới.
Nhân loại bước vào giai đoạn hội nhập, toàn cầu hóa xã hội toàn diện,
xu hướng hợp tác và đấu tranh đan xen, thúc đẩy cuộc chạy đua và cạnh tranh
gay gắt về kinh tế, khoa học, công nghệ, thông tin và văn hóa giữa các quốc
gia. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa hoc công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc
đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Toàn cầu hóa
kinh tế là một quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả tích cực và
tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia dân tộc, đặc biệt là các
nước kém phát triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 phát triển mạnh mẽ, đã và đang
có những bước nhảy vọt và tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội
cũng như các hoạt động của lĩnh vực quân sự. Sự phát triển kinh tế tri thức
làm phát triển những quan niệm, tư tưởng về chiến tranh, quân đội, quốc
phòng, an ninh, đồng thời tác động mạnh mẽ đến quá trình xây dựng các tổ
chức, con người trong quân đội theo hướng tăng dần yếu tố tri thức, ứng dụng
ngày càng rộng rãi các thành tựu công nghệ vào giáo dục, đào tạo cán bộ, kiện
toàn biên chế, tổ chức, trang bị vũ khí, kỹ thuật, phương thức tác chiến của
quân đội.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á tiếp tục
phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế, chính trị ngày càng quan trọng trong
duy trì hòa bình, ổn định thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng là trọng điểm cạnh
tranh gay gắt giữa các cường quốc. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển đảo
tiếp tục diễn ra căng thẳng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ dễ xảy ra xung đột, đặt ra
thách thức lớn đối với an ninh, an toàn hàng hải, hàng không.
4.1.2. Tình hình trong nước
Việt Nam với những thành tựu và kinh nghiệm hơn 30 năm đổi mới đã
tạo cho mình thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Tuy
126
nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động
tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Do đó, Đảng và Nhà
nước ta đang chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất
mọi nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững vì
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn
nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông đã và đang trở thành điểm nóng, gây ra bức xúc trong dư luận xã
hội, ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, tình cảm, thái độ của quân nhân. Đồng
thời, cũng là cái cớ để thế lực thù địch thực hiện chiến lược diễn biến hòa
bình, lợi dụng khoét sâu mâu thuẫn, phân tán lực lượng, tiến tới thực hiện lật
đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy
mạnh xuyên tạc các quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chính trị, quân sự của Đảng ta. Chúng tăng cường xâm nhập về văn
hóa nhằm phá hoại chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhằm thực hiện mục
tiêu vô hiệu hóa lực lượng vũ trang.
Trong tình hình hiện nay, chúng đặc biệt chú trọng đến trạng thái tâm
lý, tâm trạng xã hội, tập trung lôi kéo người có công, đối tượng chính sách,
cựu chiến binh, tướng lĩnh quân đội đã nghỉ hưu…để tuyên truyền, xuyên tạc
vị trí, vai trò, chức năng của quân đội. Đặt lợi ích kinh tế đối lập với lợi ích
quốc phòng. Đối lập giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từng
bước vô hiệu hóa lực lượng vũ trang. Các thế lực thù địch sẽ đẩy mạnh hoạt
động của các trang mạng xã hội trên internet để xuyên tạc, bôi nhọ danh dự
các đồng chí lãnh đạo của Đảng, quân đội nhằm phá hoại công tác nhân sự
của đại hội đảng các cấp.
127
Về lực lượng, phương tiện, các thế lực thù địch sẽ tìm mọi cách liên
thông, kết nối với các nhóm cơ hội về chính trị, nhất là những người Việt có
tư tưởng chống đối ở trong nước và nước ngoài, tăng cường các hoạt động
chống phá; tận dụng triệt để mạng internet, kết hợp với tuyên truyền miệng,
phát tán các tin, bài viết, tài liệu có nội dung chống đối, xuyên tạc trong các
tầng lớp nhân dân… Bên cạnh việc tận dụng các website, bloger, tạp chí, tập
san, báo, đài phát thanh trực tuyến của các tổ chức, cá nhân có sẵn, chúng sẽ
mở các trang mạng mới, tích cực tán phát "thư ngỏ", trực tiếp thu thập các ý
kiến, chữ ký, tạo dư luận giả về sự đồng tình các "nhóm kiến nghị"…
Do đó, việc kiểm soát, kiểm chứng thông tin trên các phương tiện
truyền thông rất khó và phức tạp, bởi vì mối quan hệ tương tác qua lại cùng
phát triển là xu hướng phối hợp giữa báo điện tử và mạng xã hội trong thời
đại số hóa. Trong thời đại thế giới phẳng và kết nối chặt chẽ qua mạng xã hội
hiện nay, thì bất kỳ ai cũng có thể trở thành một nhà báo công dân với chiếc
máy điện thoại có camera, các nhà báo không phải là những người duy nhất
có khả năng lan truyền thông tin.
Hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lên án mạnh mẽ tệ tham
nhũng, quyết tâm đấu tranh phòng ngừa và chặn đứng, đẩy lùi tham nhũng.
Nhận xét, đánh giá về tình hình tham nhũng và những quốc sách phòng,
chống tham nhũng đã được nhiều lần nêu lên trong các nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, quyết định của các cơ quan chức năng, đoàn thể quần
chúng. Những chủ trương, biện pháp phòng, chống tham nhũng của Đảng và
Nhà nước đã liên tục được tuyên truyền đến người dân bằng các phương tiện
thông tin đại chúng, bằng học tập, hội nghị, hội thảo chuyên đề ở từng cấp,
từng ngành, từng khu vực. Tình hình tham nhũng và phòng, chống tham
nhũng trở thành đề tài thường xuyên trong các báo cáo chỉ đạo định kỳ của
Chính phủ, của các cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm chính về vấn đề
này. Đồng thời, nó cũng là những câu chuyện thường ngày phản ánh sự bất
bình, bức xúc của mỗi người dân cả ở thành thị lẫn nông thôn, không phân
128
biệt vùng, miền.
Những diễn biến nhanh chóng, sâu sắc và rất phức tạp của tình hình thế
giới, trong nước đã tác động rất mạnh mẽ vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm,
niềm tin của cán bộ, chiến sĩ của quân đội ta, gây ra không ít xáo trộn, phân
tâm. Trong các đơn vị quân đội đã xuất hiện biểu hiện dao động của một bộ
phận cán bộ, chiến sĩ, ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin, lý tưởng chiến đấu
khả năng hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng xây dựng đơn vị của quân đội.
Trong điều kiện mới, cán bộ, chiến sĩ quân đội ta ngày càng nhận thức
đầy đủ các vấn đề xã hội. Những nhận thức đúng đắn sẽ góp phần củng cố
niềm tin, tạo động lực phát huy tính tích cực, chủ động của mỗi quân nhân
trong góp phần khắc phục các vấn đề xã hội nảy sinh. Đây là vấn đề rất quan
trọng trong củng cố tư tưởng, ý thức tự giác cho cán bộ, chiến sĩ. Đại bộ
phận cán bộ, chiến sĩ tin tưởng vào chế độ xã hội mới, vào tương lai tiền đồ
của đất nước, tin vào khả năng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
quá trình phát triển, vào khả năng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trước những khó khăn, thách thức mà chúng ta phải đối phó,
những tiêu cực mới nảy sinh, vẫn có một bộ phận cán bộ, chiến sĩ tiếp tục có
biểu hiện suy giảm lòng tin đối với đường lối đổi mới của Đảng và khả năng
giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, suy giảm lòng tin đối với khả
năng của quân đội trong bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Biểu hiện này hiện nay vẫn đang tồn tại và sẽ tiếp tục tồn tại trong thời
gian tới. Mức độ biểu hiện sẽ gia tăng và có diễn biến ngày càng nghiêm
trọng khi quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước không được thực hiện,
những nguy cơ thách thức đã được cảnh báo không được đẩy lùi.
Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ không nhận thức sâu sắc các giá trị truyền
thống của dân tộc, quê hương, thậm chí còn biểu hiện lãng quên quá khứ, mơ
hồ về thực tại và không biết đến tương lai. Một bộ phận quân nhân có xu
hướng chỉ quan tâm đến hưởng thụ, chịu ảnh hưởng tâm lý tiêu dùng, hướng
129
ngoại, tuyệt đối hóa các giá trị bên ngoài, quay lưng lại với truyền thống dân
tộc. Trong cán bộ, chiến sĩ xuất hiện lối sống tuyệt đối hóa giá trị vật chất
kinh tế, lấy đồng tiền để đo giá trị của con người. Một bộ phận quân nhân suy
giảm tình đồng chí, đồng đội, thiếu chia sẻ cảm thông, thờ ơ, bàng quan trước
khó khăn của đồng đội, đồng bào, nhiều người xem mục đích sống chỉ vì lợi
ích cá nhân của mình, với suy nghĩ mạnh ai người đấy được. Bên cạnh đó là
lối sống buông thả không cần biết hậu quả như thế nào miễn là thỏa mãn được
những ham muốn trước mắt.
4.1.3. Yêu cầu đặt ra đối với nhận thức chính trị - tư tưởng của quân
nhân trong thời gian tới
Công tác tư tưởng trong Quân đội là một bộ phận công tác tư tưởng của
Đảng; một mặt công tác trọng yếu, hàng đầu của công tác đảng, công tác
chính trị. Thực hiện tốt công tác này, sẽ trực tiếp góp phần giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, xây dựng Quân đội vững
mạnh về chính trị, làm nền tảng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh
chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Thời gian tới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi là cơ bản, chúng ta
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đan xen, tác động mạnh, thường
xuyên, đa chiều đến công tác tư tưởng trong Quân đội. Đáng chú ý là, tình
hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; xu thế
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sự bùng nổ thông tin dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang đặt ra yêu cầu mới đối với công
tác tư tưởng, nhất là việc định hướng nhận thức, tư tưởng cho bộ đội trước
những luồng thông tin nhạy cảm, phức tạp, trái chiều. Việc phổ biến, quán
triệt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, chủ trương của Quân ủy
Trung ương, Bộ Quốc phòng đến với bộ đội, nhất là ở đơn vị cơ sở, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo đòi hỏi phải kịp thời và sâu rộng hơn. Trong điều
kiện chiến tranh hiện đại, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, vấn đề xây
dựng bản lĩnh chiến đấu, niềm tin chiến thắng cho bộ đội đặt ra nhiều thách
130
thức mới. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”,
thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thực hiện “phi chính trị
hóa”, “dân sự hóa” Quân đội, làm phai nhạt hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”; kích
động, xuyên tạc, tạo dư luận xấu, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm niềm tin
của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang. Cùng với đó, sự
xâm nhập của lối sống thực dụng, văn hóa xấu độc, mặt trái kinh tế thị trường
đang hằng ngày, hằng giờ tác động tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng, đạo đức,
lối sống, nhân cách quân nhân.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, nâng cao nhận
thức chính trị - tư tưởng của quân nhân ngang tầm với nhiệm vụ của Quân đội
trong tình hình mới, yêu cầu đặt ra là:
Một là, tiếp tục tăng cường quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của
Đảng, bám sát thực tiễn tình hình, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Trong tình
hình hiện nay, công tác tư tưởng trong Quân đội phải tiếp tục quán triệt sâu
sắc những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, xây dựng
Quân đội, bảo vệ Tổ quốc, trực tiếp là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa X) về Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước
yêu cầu mới, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần
thứ X. Cấp uỷ, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp cần
hết sức coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành công tác tư tưởng;
thường xuyên nắm chắc thực trạng tình hình tư tưởng trong cơ quan, đơn vị
mình để xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng; chấn
chỉnh kịp thời những hạn chế, khuyết điểm. Nội dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ
đạo công tác tư tưởng của các cấp ủy phải cụ thể, bám sát kế hoạch, hướng
dẫn, chỉ đạo của trên, sát với tình hình đơn vị; tập trung giải quyết những vấn
đề trọng tâm, trọng điểm, khâu yếu, mặt yếu, kịp thời phát hiện và giải quyết
những vấn đề tư tưởng nảy sinh, những khó khăn, vướng mắc, tạo sự thống
131
nhất cao về tư tưởng và hành động, không để bị động, bất ngờ về tư tưởng,
củng cố niềm tin để cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tại đơn vị. Công tác giáo dục
chính trị phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các cấp
ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp. Tiếp tục thực hiện tốt Đề án “Đổi
mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, Quy chế giáo
dục chính trị trong Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam, các chỉ
thị, hướng dẫn công tác giáo dục chính trị; không ngừng đổi mới nội dung,
hình thức, phương pháp, gắn giáo dục chính trị với thực hiện nhiệm vụ huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu, rèn luyện kỷ luật, xây dựng chính quy, hoạt động
văn hóa, văn nghệ trong Quân đội. Giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức
sâu sắc những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục, quán triệt tình hình, nhiệm vụ cách
mạng, nhiệm vụ của Quân đội, đơn vị; phân tích rõ bản chất, âm mưu, thủ
đoạn mới của các thế lực thù địch, làm cho bộ đội nhận thức đúng đối tượng,
đối tác của cách mạng, thấy rõ thời cơ, thách thức của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm, sẵn
sàng chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống. Đồng thời, coi trọng giáo
dục chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa; giáo dục lịch sử, truyền thống, bản
sắc văn hoá dân tộc, truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng, của Quân
đội, đơn vị và địa phương. Đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức,
lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật; trang bị những kiến thức cơ bản về kỹ năng
sống, văn hoá ứng xử, giao tiếp cho bộ đội, tạo sự chuyển biến toàn diện,
đồng bộ, vững chắc cả về nhận thức, niềm tin, ý chí quyết tâm thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ.
Ba là, tăng cường công tác tư tưởng trong quản lý bộ đội, tạo sự thống
nhất cao về nhận thức và hành động trong cán bộ, chiến sĩ, góp phần làm thất
132
bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.
Các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và thực hiện tốt nội dung,
quy trình, các bước của công tác quản lý tư tưởng; thường xuyên nắm chắc
tình hình, diễn biến tư tưởng của bộ đội; phân tích, đánh giá, giải quyết kịp
thời, hiệu quả những vấn đề tư tưởng nảy sinh, giữ vững ổn định, vững vàng
về tư tưởng, sự thống nhất, đồng thuận trong đơn vị. Thông qua hoạt động
huấn luyện, học tập, công tác, sinh hoạt, làm cho bộ đội nắm chắc, hiểu sâu
hơn về đối tượng, đối tác, về nhiệm vụ mới, tin tưởng vào cách đánh, lòng tin
ở vũ khí trang bị và lãnh đạo, chỉ huy các cấp; nắm bắt tình hình tư tưởng,
tình cảm, tâm trạng của cán bộ, chiến sĩ, kịp thời giải quyết những vướng
mắc, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của bộ đội. Kết hợp chặt chẽ giữa
quản lý tư tưởng với quản lý kỷ luật, giáo dục thuyết phục với các biện pháp
hành chính, biểu dương, khen thưởng kịp thời gương người tốt, việc tốt; đồng
thời, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật, làm rõ trách nhiệm
của lãnh đạo, chỉ huy, làm tốt việc rút kinh nghiệm trong công tác giáo dục,
quản lý kỷ luật, bảo đảm an toàn trong cơ quan, đơn vị. Giáo dục nâng cao
cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Phát huy vai trò của
ban chỉ đạo, bộ phận chuyên sâu, tổ thư ký, cơ quan giúp việc cấp ủy các cấp
và lực lượng nòng cốt đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư
tưởng - văn hóa. Các cơ quan báo chí, xuất bản, các học viện, nhà trường, trực
tiếp là đội ngũ cán bộ cơ quan chiến lược, cán bộ nghiên cứu khoa học, phóng
viên, biên tập viên trong toàn quân tiếp tục nêu cao trách nhiệm, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong đấu tranh tư tưởng, lý luận. Chủ động phản
bác những quan điểm, tư tưởng sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch và những phần tử phản động, cơ hội chính trị, nhất là trên internet,
mạng xã hội, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Tăng cường quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, duy trì nghiêm
133
quy định về bảo mật thông tin, quy chế người phát ngôn, quy chế tuyển chọn,
bố trí cán bộ, nhân viên, nhất là đối với các cơ quan cơ mật, trọng yếu, hoạt
động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn học - nghệ thuật; không để sơ hở, thiếu
sót, vi phạm để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, chính
sách, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững
mạnh toàn diện, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, tạo nền tảng
vững chắc để nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng. Vai trò của các cấp ủy, tổ
chức đảng là một trong những nhân tố có tính quyết định đến chất lượng công
tác tư tưởng trong đơn vị. Do vậy, việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, xây dựng các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh là yêu
cầu hàng đầu trong nâng cao chất lượng công tác tư tưởng trong từng cơ quan,
đơn vị và toàn quân. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt sâu sắc các nghị
quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên để triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng
điểm, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc trong công tác xây dựng Đảng.
Quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa
XII), Chỉ thị 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và
Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội
Cụ Hồ”. Duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sinh hoạt đảng, nâng cao chất lượng
quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết, giữ vững nguyên tắc tổ chức, lãnh
đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, tự phê bình và phê bình,
giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ. Đi đôi với công tác xây dựng
Đảng, phải xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, đẩy mạnh cải
cách hành chính, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, nếp sống văn hóa cho
cán bộ, chiến sĩ. Tập trung quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung
134
ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận
động Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong
Quân đội gắn với phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa;
thường xuyên quan tâm, chăm lo đảm bảo quyền lợi, lợi ích chính đáng, hợp
pháp của quân nhân, công nhân, viên chức, lao động quốc phòng; đẩy mạnh
tăng gia, sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, thực hiện
tốt chính sách hậu phương quân đội. Đó là cơ sở, nền tảng để thực hiện tốt
công tác tư tưởng ở mỗi cơ quan, đơn vị.
Năm là, thường xuyên nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy, chính
ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ các cấp; phát huy sức
mạnh tổng hợp trong tiến hành công tác tư tưởng. Để tổ chức triển khai toàn
diện, đồng bộ, tích cực, có hiệu quả các mặt công tác tư tưởng, phải thực sự
coi công tác này là trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên,
cơ quan chính trị các cấp; với sự tham gia tích cực của các tổ chức quần
chúng, hội đồng quân nhân và mọi cán bộ, đảng viên, trong đó nòng cốt là đội
ngũ chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị, cán bộ các cấp, khắc phục triệt
để biểu hiện “giao khoán” cho cơ quan chính trị, cán bộ chính trị. Cấp ủy, chỉ
huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ các cấp làm
công tác tư tưởng theo quy trình thống nhất từ trên xuống, từ trong ra, cấp
trên làm tư tưởng cho cấp dưới, đảng viên làm tư tưởng cho quần chúng,
chiến sĩ làm tư tưởng cho nhau, làm từ trong cấp ủy ra toàn đảng bộ và đơn
vị, cán bộ, đảng viên gương mẫu làm trước, quần chúng tự giác học tập noi
theo. Các cơ quan, đơn vị tăng cường giáo dục, quán triệt, đề cao trách nhiệm
của các tổ chức, các lực lượng trong tiến hành công tác tư tưởng, phát huy vai
trò của các tổ chức quần chúng ở cơ sở. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơ quan chính trị các cấp có cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, thường xuyên bồi
dưỡng nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý, tiến hành công tác tư
tưởng, nhất là bồi dưỡng phương pháp, kinh nghiệm giải quyết những vấn đề
135
tư tưởng nảy sinh trong thực tiễn và năng lực đấu tranh tư tưởng, lý luận. Tiếp
tục xây dựng, hoàn thiện, vận hành có hiệu quả các quy chế, cơ chế phối hợp
giữa Quân đội với các ban, bộ ngành, đoàn thể Trung ương, với cấp ủy, chính
quyền, đoàn thể địa phương để thực hiện có hiệu quả công tác tư tưởng đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trước những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, xảo trá của kẻ thù, một bộ
phận cán bộ, chiến sĩ thiếu bản lĩnh chính trị, mơ hồ mất cảnh giác trước
những đòn tấn công về tư tưởng của địch, lẫn lộn bạn thù, ảo tưởng về chủ
nghĩa tư bản... Trạng thái đó sẽ có cơ sở để gia tăng khi một bộ phận cán bộ,
chiến sĩ coi nhẹ việc học tập chính trị để nâng cao nhận thức âm mưu, thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Do đó, những vấn đề về nhận thức
chính trị - tư tưởng của quân nhân trong thời gian tiếp theo, đặt ra yêu cầu
công tác tuyên truyền giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội phải
quán triệt sâu sắc nghị quyết, quan điểm, chỉ thị về công tác tư tưởng trong
tình hình mới của Quân ủy Trung ương để nâng cao chất lượng nội dung, hình
thức các tác phẩm báo chí đáp ứng việc giữ vững bản lĩnh chính trị cho bộ đội
trong giai đoạn mới.
4.2. Một số giải pháp nâng cao sự ảnh hưởng của báo chí quân đội đối
với công tác giáo dục nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân trong
giai đoạn hiện nay
4.2.1. Quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng về nhận
thức chính trị - tư tưởng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, Quân
đội đối với báo chí quân đội
Trong tình hình thế giới, trong nước như hiện nay, việc đổi mới, tăng
cường sự lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí, truyền
thông là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác báo chí
và hoạt động báo chí theo đúng đường lối, chính sách, nguyên tắc của Đảng.
Cơ quan tuyên huấn, cơ quan quản lý báo chí luôn định hướng kịp thời về chủ
136
đề, nội dung cần thông tin tuyên truyền, phổ biến trong công tác đấu tranh
chống suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhất là các động thái, biểu
hiện, nguyên nhân, điều kiện và giải pháp đấu tranh. Uốn nắn, chấn chỉnh,
phát hiện và xử lý kịp thời đối với các hành vi vi phạm, sai lầm về đường lối
chính trị, trái quy định của pháp luật trong hoạt động của cơ quan báo chí và
hoạt động báo chí.
Mặt khác, tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các cấp ủy
đảng trong việc lãnh đạo, quản lý, phát triển hệ thống báo chí, truyền thông,
nhằm phát huy tốt nhất vai trò của báo chí, truyền thông trong thông tin, tuyên
truyền, thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong
Ðảng, trong toàn quân; coi trọng việc cổ vũ, thúc đẩy nhân tố mới, điển hình
tiên tiến, hạn chế những tác động tiêu cực, bất lợi. Tích cực, chủ động đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu
quả thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Không ngừng nâng cao chất lượng
tư tưởng, văn hóa, tính chiến đấu, tính nhân văn, tính hấp dẫn, tăng cường cơ
sở vật chất, kỹ thuật, các nguồn lực cần thiết cho hệ thống báo chí, truyền thông.
Để sự lãnh đạo của Đảng được thực thi hiệu quả, thiết thực nhất, các cơ
quan quản lý phải luôn chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xây
dựng Ðảng, đề cao trách nhiệm cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu,
trong các cơ quan báo chí, truyền thông. Làm tốt công tác định hướng thông
tin, cung cấp kịp thời thông tin cho báo chí những vấn đề, sự kiện quan trọng,
phức tạp, nhạy cảm. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển hệ
thống báo chí, truyền thông đại chúng, tránh trùng lặp, chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ, gây lãng phí nguồn lực.
Đảm bảo cho sự rõ ràng và vận hành nhịp nhàng, hiệu quả công tác
truyền thông, cơ quan pháp lý tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định của
Ðảng và các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực báo chí, truyền thông,
làm rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan lãnh
đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước, cơ quan chủ quản và từng cơ quan báo
137
chí, truyền thông, các chủ thể truyền thông xã hội trên môi trường internet.
Tiếp tục tăng cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam và Bộ Quốc phòng trong
công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động báo chí, truyền thông. Tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp và giáo dục các chủ thể trong
hoạt động báo chí, truyền thông tự giác thực hiện.
Sự lãnh đạo của Ðảng đối với báo chí, truyền thông trong thời gian tới
không chỉ là điều kiện, là động lực quan trọng để làm tốt công tác tư tưởng,
tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
của đất nước, mà còn bảo đảm quyền sáng tạo của báo chí, truyền thông, giúp
báo chí, truyền thông hoàn thành trách nhiệm nặng nề, sứ mệnh cao cả của
mình đối với đất nước, nhân dân.
4.2.2. Nâng cao trình độ nhận thức chính trị - tư tưởng, nghiệp vụ
của đội ngũ nhà báo, phóng viên và xây dựng chế độ ưu đãi hợp lý
Để tiếp tục nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền trên báo chí, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển của quân đội trong thời gian tới, Hội Nhà
báo và các cơ quan báo chí quân đội tăng cường hơn nữa công tác giáo dục
chính trị tư tưởng cho đội ngũ những người làm báo, nâng cao nhận thức lý
luận chính trị, đạo đức nghề nghiệp, thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng gắn với tiếp tục đẩy mạnh
"Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII). Thường xuyên quan tâm bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm báo. Đội ngũ những người làm báo phải
thường xuyên nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác học hỏi, trau dồi kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, sâu sát cơ sở, phản ánh kịp thời hơi
thở cuộc sống, phát hiện kịp thời những nhân tố mới, những vấn đề có ý nghĩa
xã hội sâu sắc. Có nhiều bài viết, phóng sự hay với hàm lượng thông tin cao,
phong phú và hấp dẫn. Các nhà báo phải thực sự có lòng yêu nghề, bút sắc, mắt
sáng, lòng trong, “cái tâm, cái tầm, cái tài”; thực hiện tốt lời dạy của Bác
138
Hồ “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí
sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần
phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và
văn hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của
Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực tế, quần chúng lao động để có được nhiều
tác phẩm báo chí hay, phục vụ nhiệm vụ chính trị của đơn vị". Cán bộ, phóng
viên báo chí quân đội cần nắm bắt kịp thời những vấn đề, nhất là những vấn
đề lớn, những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, để tuyên truyền đúng đường lối,
góp phần định hướng dư luận. Nhà báo quân đội cũng cần tiếp tục phát huy
thế mạnh, kinh nghiệm, thành tích đạt được trong lĩnh vực đấu tranh với các
thế lực phản động, thù địch, qua đó góp phần bảo vệ hệ tư tưởng, quan điểm,
đường lối của Đảng, bảo vệ vững chắc những thành quả đã đạt được trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Đồng thời, thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào
tạo trình độ ngoại ngữ và những hiểu biết về quan hệ quốc tế cho đội ngũ
người làm báo. Coi trọng công tác rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý
báo chí; thực hiện nghiêm các quy định, quy trình về bổ nhiệm, miễn nhiệm,
thi đua, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí. Có
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ có năng lực, đủ phẩm chất cho
hệ thống báo chí. Mặt khác, Tổng cục Chính trị tạo điều kiện thuận lợi về cơ
sở vật chất, nguồn lực và cơ chế để các cơ quan báo chí chủ lực phát triển, trở
thành những trung tâm báo chí đa phương tiện mạnh, đủ năng lực chiếm lĩnh
mặt trận thông tin, làm tốt công tác định hướng tư tưởng và dư luận xã hội.
Bên cạnh đó, cấp ủy chỉ huy các cơ quan báo chí chủ động xây dựng kế
hoạch nội dung định hướng tuyên truyền, tiếp tục bám sát chỉ đạo của Quân
ủy Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Chính trị tập trung
tuyên truyền công tác chuẩn bị đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chú trọng biểu dương những mô hình,
gương điển hình trong cán bộ, đảng viên trong toàn quân và làm theo gương
139
Bác; tăng cường tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về
bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; nắm bắt tình hình, tham mưu thực
hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền, đấu tranh phản bác các thông tin sai
trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
4.2.3. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, đa dạng hóa các ấn phẩm
bảo đảm thông tin trung thực, nhanh nhạy, chính xác, kịp thời, hấp dẫn và phù
hợp với đối tượng tuyên truyền
Trong toàn bộ trước tác của mình, C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-
nin, những người thầy của Cách mạng vô sản, đặc biệt quan tâm đến vai trò
nhân tố chính trị, tinh thần, coi đây là yếu tố quyết định sự thành bại của cách
mạng. Để xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần cho quần chúng và biến nhân
tố chính trị, tinh thần trở thành sức mạnh vật chất trong thực tiễn cách mạng,
những người cộng sản phải làm tốt công tác tư tưởng, mà trước tiên là chiến
thắng trên mặt trận tuyên truyền, cổ động. Qua đó, khích lệ tinh thần đoàn kết,
tập hợp sức mạnh to lớn của quần chúng hướng vào thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ chung. Khi nói về vai trò, chức năng của báo chí cách mạng, V.I.
Lênin đã chỉ rõ: “Tờ báo không chỉ là người tuyên truyền tập thể và cổ động
tập thể mà còn là người tổ chức tập thể”[54, tr12] và thực tiễn đã chứng minh,
báo chí luôn là “người lính” xung kích, có vai trò quan trọng trên mặt trận
tuyên truyền, cổ động, định hướng tư tưởng.
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh ra nền báo chí
cách mạng Việt Nam. Người cho rằng “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách
mạng. Cây bút, trang giấy là những vũ khí sắc bén của họ”. Chính nhờ những
vũ khí sắc bén ấy, Bác đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và dẫn dắt con
đường cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Để báo chí phát huy tốt vai trò,
chức năng của mình, Người căn dặn những người làm báo “Mỗi khi viết một
bài báo, thì tự đặt câu hỏi: viết cho ai xem? viết để làm gì? viết thế nào cho
phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc?”[40]. Khi Báo Quân đội nhân dân ra số
140
báo đầu tiên (ngày 20-10-1950), Bác đã căn dặn: “Nói những điều thật thiết
thực, đúng đường lối chính trị, ít tếu, viết ngắn, giản dị, vẽ dễ hiểu, trình bày
rõ ràng, ít tiếp sang trang khác”[56]. Lời dạy đó không chỉ cần thiết cho riêng
Báo Quân đội nhân dân, báo chí quân đội mà cho cả nền báo chí cách mạng
Việt Nam.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về báo chí, những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý trực tiếp của
Tổng cục Chính trị, báo chí quân đội đã hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ
vẻ vang của mình. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ giải phóng dân
tộc, báo chí quân đội đã tích cực tuyên truyền, cổ động góp phần khơi dậy
lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, xây đắp niềm tin và ý chí dám
đánh, biết đánh, quyết đánh và quyết thắng cho quân và dân ta. Bước vào thời
kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng với sự lớn mạnh của Quân đội, báo chí
quân đội có bước phát triển toàn diện cả về quy mô, tổ chức, số lượng và chất
lượng các sản phẩm báo chí, trở thành những đơn vị truyền thông lớn trong hệ
thống báo chí quốc gia. Mọi hoạt động báo chí trong Quân đội đều tuân thủ
nghiêm các quy định của Luật báo chí và sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng
của Quân ủy Trung ương và Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng Tổng
cục Chính trị; tuyên truyền kịp thời, hiệu quả về hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc
biệt, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được Báo chí Quân đội tuyên truyền sâu rộng,
đậm nét, đa dạng, phong phú, có sức thuyết phục, đạt hiệu quả cao. Xây dựng
được nhận thức khoa học, tình cảm đúng đắn của toàn quân, toàn dân với
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Trước các vấn đề mới, báo
chí quân đội đã kịp thời thông tin, phản ánh đúng bản chất sự kiện, định hướng
nhận thức, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.
Trước sự bùng nổ của các phương tiện thông tin và truyền thông, các
sản phẩm của báo chí quân đội luôn đảm bảo độ tin cậy, đúng định hướng
chính trị, có sự đổi mới về nội dung, hình thức chuyển tải đa dạng, phong
phú. Vì thế, dù tuyên truyền những vấn đề về định hướng, chỉ đạo nhưng
141
không khô khan, máy móc mà uyển chuyển, đậm tính nghệ thuật, có sức
thuyết phục bạn đọc, khích lệ tinh thần hăng hái huấn luyện, sẵn sàng chiến
đấu, học tập, công tác và lao động sản xuất của toàn quân. Những năm qua,
nhiều sản phẩm báo chí quân đội có chất lượng cao, được Hội đồng Giải
thưởng báo chí quốc gia và giải báo chí ở các lĩnh vực, các bộ, ngành Trung
ương tôn vinh ở thứ hạng cao; nhiều nhà báo quân đội có uy tín, vị thế trong
nền báo chí nước nhà.
Tuy nhiên, trước xu thế toàn cầu hóa đang tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội; trong đó, báo chí là lĩnh vực tiên phong, khơi nguồn mọi
thông tin nên chịu sự tác động mạnh mẽ. Với báo chí quân đội, do tính đặc
thù, chuyên ngành, chuyên biệt nên có trách nhiệm, nghĩa vụ phải đứng vững
trên nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, giữ vững nguyên tắc, tôn chỉ mục
đích hoạt động. Đồng thời, phải vượt lên chính mình để chiếm lĩnh trận địa
thông tin, khẳng định vị trí, góp phần cùng báo chí cả nước làm chủ thông tin,
không để thông tin sai lệch dẫn dắt dư luận xã hội. Muốn vậy, báo chí quân
đội luôn phải bảo đảm thông tin chính xác, chuẩn mực và nhanh nhạy. Chính
xác, chuẩn mực là một thuộc tính, yêu cầu cao của báo chí nói chung, là yêu
cầu mang tính nguyên tắc của báo chí quân đội. Ngày nay, nhiều tờ báo chạy
theo xu hướng thị trường đã bỏ qua yêu cầu chính xác, chuẩn mực nên đã để
lại hậu quả, ảnh hưởng không nhỏ đối với nền báo chí nước ta, làm “tổn
thương” bạn đọc. Nhanh nhạy là yêu cầu ngày càng cao của báo chí, nếu
không nhanh, không mới thì không phải là báo chí theo đúng nghĩa
Newspaper (báo hằng ngày), mà trở thành “món lương khô”. Các cơ quan báo
chí quân đội phần lớn là những cơ quan báo chí lớn, uy tín nên thông tin
không thể quá cũ, quá chậm mà phải hòa vào dòng chảy thông tin chủ lưu của
đất nước và thế giới. Vì vậy, báo chí quân đội phải quán triệt, thực hiện triệt để
những yêu cầu trên, vừa phải nhanh nhạy, nhưng phải rất chính xác, chuẩn mực.
Trong thời kỳ kháng chiến, nhân dân cả nước theo dõi từng trận đánh,
chia sẻ khó khăn, gian khổ với bộ đội, thì hiện nay, bạn đọc vẫn đang theo dõi
142
từng số báo, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình để nắm được các
hoạt động của quân đội, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Khi
xảy ra những sự kiện “nóng”, nếu chúng ta không kịp thời lên tiếng để thông
tin, định hướng dư luận thì bạn đọc không chờ đợi chúng ta mà sẽ đi tìm
nguồn thông tin khác. Vì vậy, trong những trường hợp phức tạp, “nhạy cảm”,
báo chí quân đội luôn bám sát chỉ đạo, định hướng của Quân ủy Trung ương,
Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về quan điểm, liều lượng, mức độ thông
tin,… để kịp thời đến với bạn đọc. Đặc biệt, báo chí quân đội phải chú trọng
việc điều tra xã hội học đối với công chúng là quân nhân để thu nhận ý kiến
đóng góp, kịp thời điều chỉnh nội dung, hình thức sản phẩm báo chí cho phù
hợp với nhu cầu thị hiếu của họ.
Song song với đó, các cơ quan báo chí quân đội phải có sự chủ động
báo cáo, đề xuất với Tổng cục Chính trị, cơ quan chức năng xin ý kiến; đồng
thời, có cơ chế phối hợp khai thác thông tin từ nhiều nguồn; lựa chọn thông
tin chuẩn mực, chính xác để đăng tải, giúp bạn đọc tiếp nhận thông tin kịp
thời, khách quan, do đó có nhận thức đúng bản chất của sự kiện. Đội ngũ
những người làm báo trong Quân đội cần xác định rõ: nhanh nhạy là điều
đáng quý, nhưng phải luôn đề cao tính chính xác và chuẩn mực. Có thể, trong
một vài trường hợp thông tin không nhanh bằng các báo khác, nhưng bù lại
đó là thông tin có độ tin cậy cao, có cái nhìn hệ thống về diễn biến, dự báo,
phân tích chiều hướng tiếp theo của sự kiện, cùng bạn đọc tìm “lối thoát” cho
sự kiện.
4.2.4. Chú trọng đầu tư hiện đại hóa trang bị, phương tiện tác nghiệp
và đẩy mạnh sự liên kết, phối hợp giữa các cơ quan báo chí quân đội
Báo chí là một binh chủng đặc biệt cần tiến thẳng lên hiện đại, bởi vì
cuộc “chiến tranh” thông tin cũng diễn ra theo quy luật “mạnh được, yếu
thua”. Báo chí quân đội có thế mạnh là thông tin khách quan, chính xác về sự
kiện, nhưng độ nhanh nhạy, kịp thời, phong phú và hiệu quả tác động vào tư
duy, tình cảm của bạn đọc để bạn đọc tin theo báo, làm theo báo thì còn
143
những hạn chế nhất định. Do vậy, trong thời gian tới các cơ quan báo chí
quân đội cần đẩy mạnh đầu tư về con người, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng,
xây dựng đội ngũ những người làm báo trong Quân đội “vừa hồng, vừa
chuyên”. Bên cạnh đó, Bộ Quốc phòng cần đầu tư trang thiết bị, phương tiện
cho báo chí quân đội theo kịp sự phát triển của xã hội. Trong mấy năm gần
đây, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã quan tâm đầu tư nhiều trang thiết
bị kỹ thuật, phương tiện tương đối hiện đại cho các cơ quan báo chí quân đội,
tuy nhiên vẫn chưa theo kịp sự phát triển quá nhanh của khoa học kỹ thuật và
công nghệ thông tin. Các cơ quan báo chí quân đội cần triển khai khảo sát
thực lực trang thiết bị, phương tiện và khả năng hiện có, xây dựng kế hoạch
mua sắm, hiện đại hóa theo đề án "Hiện đại hóa các cơ quan báo chí quân đội
giai đoạn 2014 – 2018” đã được phê duyệt và đề án "Quy hoạch phát triển và
quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025”.
Đồng thời, đẩy mạnh sự liên kết, phối hợp giữa các cơ quan báo chí
quân đội. Đây là việc làm rất cần thiết để phát huy vai trò, hiệu quả của báo
chí quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bạn đọc hiện nay
có rất nhiều nguồn thông tin khác nhau từ các loại hình báo chí, như: báo in,
phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Đối tượng bạn đọc chủ yếu của
báo chí quân đội là cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội và các đối tượng khác ở
trong và ngoài nước. Thời gian đọc báo, nghe đài, xem truyền hình của cán
bộ, chiến sĩ chủ yếu thực hiện theo quy định chế độ trong ngày, trong tuần;
ngoài ra, thời gian ngày nghỉ, giờ nghỉ có thể tiếp cận thông tin từ mạng
internet tại đơn vị hoặc bên ngoài. Vì vậy, để có lượng thông tin đa dạng,
phong phú, cách thể hiện sinh động, hấp dẫn, các cơ quan báo chí quân đội
cần có sự liên kết, phối hợp, trao đổi, chia sẻ thông tin, tích hợp đa phương
tiện. Cùng với đó, cần thống nhất hướng trọng tâm tuyên truyền vào những
nhiệm vụ quan trọng, sự kiện nổi bật, cung cấp thông tin đầy đủ, chi tiết, lý
giải, dẫn dắt bạn đọc dựa trên quan điểm của Đảng, định hướng, chỉ đạo của
Tổng cục Chính trị.
144
Báo chí đa phương tiện là xu thế phát triển của báo chí trong thời đại
toàn cầu hóa và bùng nổ thông tin. Một tác phẩm báo chí đa phương tiện
mang thông tin đến cho độc giả bao gồm chữ viết, hình ảnh, video, audio và
đồ họa. Do đó, các tờ báo mạng điện tử trong quân đội cần chú ý nhiều hơn
tới khả năng đa phương tiện. Đó không phải là sự xuất hiện rời rạc, mà phải là
sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố văn bản, hình ảnh (động, tĩnh), âm thanh,
đồ hoạ… trong một sản phẩm báo chí. Tờ báo lúc này không đơn thuần làm
nhiệm vụ cung cấp thông tin mà còn tạo điều kiện giúp độc giả chủ động
trong việc tận hưởng thông tin, chú ý nhiều hơn đến việc kéo độc giả vào
những hành vi mang tính cộng tác, tham gia phản hồi và tái phản hồi thông tin
một cách tích cực. Do đó, các tòa soạn báo chí quân đội xây dựng báo mạng
điện tử nên ứng dụng công nghệ Web 2.0, nó cho phép người đọc có thể đưa
lên mạng bất cứ thông tin gì. Với số lượng tham gia rất lớn, đến mức độ nào
đó, qua quá trình sàng lọc, thông tin sẽ trở nên vô cùng giá trị. Vì vậy, ưu thế
của Web 2.0 chính là sự tương tác giữa độc giả và tòa soạn. Đây chính là
kênh thông tin nắm bắt được ý kiến, quan điểm, tâm tư của quân nhân trong
thực hiện nhiệm vụ và sinh hoạt đời thường. Đồng thời, báo chí quân đội tập
trung xây dựng các chuyên trang điện tử chuyên sâu về giáo dục chính trị tư
tưởng bằng nhiều thứ tiếng để có thể vươn ra thế giới; gắn kết với mạng xã
hội để báo chí thiết lập những mối quan hệ và lắng nghe ý kiến của công
chúng, thu thập những thông tin gắn bó, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, với
địa phương của công chúng, giúp cho quân nhân có cách nhìn chân thực nhất
về các hoạt động thời sự trong nước và thế giới. Mặt khác, qua sự tương tác
trên báo, quân đội có thể huy động toàn quân tham gia đấu tranh phòng chống
lại các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trên mạng xã hội.
4.2.5. Tăng cường bản lĩnh chính trị, giáo dục định hướng cho quân
nhân về văn hóa đọc, tiếp nhận thông tin từ báo chí quân đội
Tiếp tục quán triệt, phổ biến, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của
quân nhân, giúp họ nhận diện đầy đủ và đúng đắn về vị trí, vai trò của báo chí
145
nói chung, trong đấu tranh chống suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống nói riêng để tạo sự đồng thuận xã hội. Làm tốt công tác hướng dẫn quân
nhân trong việc tiếp thu những giá trị văn hóa tích cực, tiến bộ của nhân loại;
cảnh giác, phê phán, đấu tranh với các biểu hiện du nhập sản phẩm văn hóa
tiêu cực, trái với những thuần phong, mỹ tục của dân tộc, trái với các giá trị
nhân văn, tiến bộ của nhân loại.
Trước yêu cầu xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở để nâng cao
chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, một trong các yếu tố quan trọng
hàng đầu là phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng tại đơn vị.
Qua đó, nhằm thống nhất về nhận thức và hành động, xây dựng cho cán
bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng,
với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Nhận rõ vị trí, vai trò của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, những
năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị và cấp
ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển
khai thực hiện đồng bộ các chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác này; ngày 31-3-2011, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã ban
hành Chỉ thị số 124-CT/QUTW về “Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác
giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”; Bộ Quốc phòng đã phê
duyệt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn
mới”. Trong đó, đã tập trung quán triệt cho đội ngũ cán bộ các cấp có nhận
thức sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Đề án và việc đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị trong giai đoạn hiện nay;
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, bảo đảm tiến
độ, cơ bản đạt được mục tiêu Đề án đã xác định; chú trọng hướng dẫn, chỉ
đạo, triển khai thực hiện bảo đảm tính liên tục, đồng bộ, thống nhất, gắn với
thực hiện quy chế công tác giáo dục chính trị trong Quân đội nhân dân và dân
146
quân tự vệ Việt Nam.
Bằng nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, nên mặc dù trước những diễn
biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, sự chống phá
quyết liệt của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa,
nhưng cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Công tác giáo dục chính trị đã kịp thời định hướng tư
tưởng cho cán bộ, chiến sĩ trước những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, góp phần
xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh
toàn diện, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; nâng cao bản lĩnh chính
trị, ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ; đấu
tranh có hiệu quả với chiến lược, âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch, phản động.
Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều
biến động, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, ảnh hưởng nặng nề của đại dịch
Covid-19. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, còn nhiều khó khăn,
thách thức: Sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, các thế lực phản động, thù địch,
cơ hội chính trị đẩy mạnh các hoạt động chống phá đối với Đảng, Nhà nước,
quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhất là trên lĩnh vực chính trị,
tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị
hóa” quân đội với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Việc điều
chỉnh tổ chức lực lượng, tinh giản biên chế; sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp
quân đội sẽ tiếp tục tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ
phận cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng, người lao động.
Trước tình hình đó, đòi hỏi công tác giáo dục chính trị tại đơn vị phải
tiếp tục được đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả, với mục tiêu xuyên suốt
là: Giữ vững, tăng cường trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, xây
147
dựng phẩm chất, nhân cách người quân nhân cách mạng, Bộ đội Cụ Hồ; bảo
đảm trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân
dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Để thực hiện tốt những yêu cầu đó, toàn quân cần tiếp tục quán triệt,
triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; Chỉ thị số 124-CT/QUTW của
Thường vụ Quân ủy Trung ương về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác
giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới; Đề án “Đổi mới công tác
giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”; các đơn vị tập trung thực
hiện tốt việc tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và
chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp; tiếp tục đổi mới
chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục chính trị tại đơn vị.
Trong đó chú trọng tổ chức các hoạt động tra cứu, học tập trên mạng nội
bộ; đọc báo, nghe đài, xem truyền hình thông qua việc đổi mới nội dung, hình
thức, phương pháp sinh hoạt chính trị, tư tưởng, thông báo chính trị - thời sự,
Ngày Chính trị và văn hóa tinh thần, tạo sự phong phú, hấp dẫn bộ đội.
Để nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, các đơn vị cần quan tâm đầu
tư đúng mức cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại. Cùng với công tác
bảo đảm của trên, các cơ quan, đơn vị cần phát huy nội lực, giữ gìn, khai thác,
sử dụng hiệu quả các trang thiết bị, kinh phí trên cấp, phát huy các phương
tiện, cơ sở vật chất sẵn có. Căn cứ điều kiện và khả năng của từng đơn vị để
đầu tư cho phù hợp, hiệu quả; chú trọng ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật hiện đại trong giáo dục chính trị; khai thác, phát huy tác dụng của nhà
văn hóa, thư viện, nhà truyền thống, phòng Hồ Chí Minh góp phần giáo dục,
truyền tải giá trị văn hóa - tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ.
148
Tiểu kết chương 4
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những
diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản, chúng ta
vẫn phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức rất lớn; các thế lực thù địch
tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy tự diễn biến, tự
chuyển hóa; thực hiện âm mưu phi chính trị hóa quân đội... Đặc biệt, trước
thềm Đại hội Đảng toàn quốc, các thế lực thù địch, cơ hội phản động đang tập
trung đẩy mạnh chống phá cương lĩnh, đường lối chính trị, nhân sự của
Đảng. Một trong những phương thức, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù là sử
dụng truyền thông, mạng xã hội để hạ uy tín của Quân đội, đòi xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; chia rẽ tình đoàn kết quân - dân, hạ uy
tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội.
Trong tình hình đó, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí
quân đội đối với công tác giáo nâng cao nhận thức chính trị - tư tưởng cho
quân nhân cần phải tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, báo chí quân đội phải luôn nghiêm túc quán triệt sâu sắc
đường lối, chủ trương, quan điểm, nghị quyết của Đảng bộ các cấp, nâng cao
hiệu quả quản lý của các đơn vị chủ quản và phối hợp chặt chẽ với các ban,
bộ, nghành trong công tác tuyên truyền.
Thứ hai, báo chí quân đội tập trung giáo dục nâng cao nhận thức chính
trị - tư tưởng cho đội ngũ nhà báo, phóng viên; đào tạo chuyên sâu và có kế
hoạch dài hạn về nghiệp vụ báo chí, bắt kịp với phương thức tác nghiệp hiện
đại trên thế giới. Đồng thời, các đơn vị chủ quản bảo đảm chế độ đời sống vật
chất, tinh thần đầy đủ, hợp lý cho họ và xây dựng rộng khắp mạng lưới cộng
tác viên có nghiệp vụ, nhất là các chuyên gia về lĩnh vực chính trị - tư tưởng.
Thứ ba, báo chí quân đội cần phải thường xuyên điều tra, nắm bắt nhu
cầu thông tin của quân nhân để có sự điều chỉnh về nội dung, hình thức đối
với sản phẩm báo chí của đơn vị mình; đa dạng hóa các ấn phẩm phù hợp với
149
xu thế thời đại, với đối tượng tuyên truyền và bảo đảm thông tin chân thực,
chính xác, kịp thời, hấp dẫn.
Thứ tư, báo chí quân đội chủ động tạo nguồn kinh phí, đề xuất và đầu
tư các trang thiết bị tác nghiệp hiện đại, đón đầu công nghệ mới để tăng hiệu
suất trong quá trình sản xuất chương trình, tác phẩm báo chí. Mặt khác, các cơ
quan báo chí trong quân đội phải liên kết chặt chẽ với nhau trong công tác
tuyên truyền, phối hợp, chia sẻ thông tin trên tất cả các loại hình báo chí.
Thứ năm, các đơn vị trong toàn quân cần tăng cường giáo dục chính trị,
tư tưởng cho bộ đội, nâng cao văn hóa đọc, giúp họ hiểu rõ vị trí, vai trò tuyên
truyền của báo chí quân đội và định hướng các nội dung chính trị - tư tưởng.
Chủ động dự báo, nắm bắt sát thực diễn biến tình hình trên thế giới,
trong nước và thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, báo chí quân đội sẽ góp
phần quan trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tại
đơn vị, thiết thực xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị, nâng
cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây
dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
150
KẾT LUẬN
Định hướng, giáo dục chính trị - tư tưởng thực chất là tuyên truyền và
bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Báo chí nước ta là công cụ truyền
thông của Đảng, vì vậy, trước hết, cần tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân để tạo sự thống nhất về
nhận thức chính trị, dẫn tới sự thống nhất trong hành động cách mạng mạnh
mẽ thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của từng thời kỳ cách mạng. Đồng
thời, báo chí cũng là diễn đàn của nhân dân, phản ánh một cách trung thực
tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Chức năng định hướng của báo chí chính là không ngừng nâng cao
nhận thức chính trị, tính tự giác của quần chúng nhân dân; nó là phương tiện
góp phần tạo nên nhận thức xã hội, định hướng tư tưởng và tạo lập dư luận xă
hội theo đúng định hướng tư tưởng của Đảng.
Với những chức năng đặc trưng đó, báo chí quân đội đã là bộ phận báo
chí trong nước phát huy được vai trò là cơ quan ngôn luận tuyên truyền đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Báo chí quân đội đã thực hiện tốt vai
trò là tiếng nói của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, thực sự là diễn
đàn tin cậy của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, cơ quan thông tin và khoa học xã
hội - nhân văn, khoa học kỹ thuật và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Do đó,
báo chí quân đội có sự ảnh hưởng đến nhận thức của quân nhân trong đời
sống và quá trình công tác. Ảnh hưởng của báo chí quân đội đối với nhận thức
chính trị - tư tưởng của quân nhân là sự tác động của những nội dung thông tin
tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng được truyền tải qua tác phẩm báo chí
trên phương tiện thông tin đại chúng quân đội đến quân nhân, làm cho họ luôn
trung thành, kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
góp phần củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.
Báo chí quân đội thường xuyên tuyên truyền 6 nội dung giáo dục chính
151
trị - tư tưởng, bao gồm: giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin; giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh; giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng; giáo dục nhiệm vụ chính
trị của quân đội, đơn vị; giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị;
giáo dục âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Đặc biệt, báo chí quân đội đã tích cực
mở rộng, nâng cao chất lượng các chuyên trang, chuyên mục về phòng, chống
“diễn biến hòa bình”, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với
nhiều bài viết sắc sảo, tính chiến đấu cao, có cơ sở lý luận và thực tiễn thuyết
phục, được dư luận đồng tình, ủng hộ. Điều đó góp phần đấu tranh, ngăn
chặn, hạn chế sự tác động của quan điểm sai trái, thông tin xấu độc, làm cho
toàn quân, toàn dân phấn khởi, tin tưởng, đóng góp trí tuệ, công sức thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng; nâng cao dân trí, bảo vệ và phát
huy bản sắc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Tuy nhiên, theo khảo sát của tác giả, so với yêu cầu đề ra, chất lượng
thông tin, tuyên truyền của báo chí quân đội còn có mặt hạn chế: Thứ nhất,
nội dung, hình thức của một số tờ báo chưa thật sinh động, hấp dẫn. Thứ hai,
số lượng và chất lượng bài viết đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
trên lĩnh vực tư tưởng ngày càng tăng, nhưng lĩnh vực văn học còn ít. Thứ ba,
năng lực tác nghiệp, tính chuyên nghiệp, nhất là khả năng khai thác và xử lý
thông tin, định hướng dư luận của một số nhà báo quân đội chưa theo kịp yêu
cầu. Thứ tư, việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên ở một số cơ quan báo chí có thời điểm
chưa được chú trọng. Do đó, hiệu quả ảnh hưởng của báo chí quân đội đến
nhận thức của quân nhân còn chưa mạnh mẽ, vẫn còn một bộ phận chưa bị tác
động sâu sắc bởi các thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng trên các tác phẩm
báo chí.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra
những yêu cầu mới rất cao và toàn diện. Nhiệm vụ của báo chí quân đội vì thế
mà có thuận lợi và khó khăn đan xen. Đáng chú ý là, các thế lực thù địch tiếp
tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” bằng những thủ đoạn mới hết
152
sức tinh vi, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, nhằm thực hiện mưu đồ
hạ thấp, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Tình hình đó đòi hỏi báo chí quân đội phải phát huy hơn nữa vai trò,
trách nhiệm trong công tác thông tin, tuyên truyền, đặc biệt là trong đấu tranh
chống “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi
chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Trong đó, cần tập trung thực
hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng về nhận thức
chính trị - tư tưởng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, Quân đội đối
với báo chí quân đội;
Hai là, nâng cao trình độ nhận thức chính trị - tư tưởng, nghiệp vụ của
đội ngũ nhà báo, phóng viên và xây dựng chế độ ưu đãi hợp lý;
Ba là, đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, đa dạng hóa các ấn phẩm
bảo đảm thông tin trung thực, nhanh nhạy, chính xác, kịp thời, hấp dẫn và phù
hợp với đối tượng tuyên truyền;
Bốn là, chú trọng đầu tư hiện đại hóa trang bị, phương tiện tác nghiệp và
đẩy mạnh sự liên kết, phối hợp giữa các cơ quan báo chí quân đội;
Năm là, tăng cường bản lĩnh chính trị, giáo dục định hướng cho quân
nhân về văn hóa đọc, tiếp nhận thông tin từ báo chí quân đội.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng QĐND Việt Nam
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đang đặt ra cho báo chí
quân đội những yêu cầu, nhiệm vụ mới với trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ
vang. Với truyền thống tốt đẹp của báo chí cách mạng, thực hiện đồng bộ
thống nhất các giải pháp mà đề tài đề xuất, các cơ quan báo chí quân đội sẽ
góp phần nâng cao nhận thức chính trị - tư tưởng của quân nhân, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ “phục vụ tốt nhân dân, phục vụ tốt cách mạng” như Chủ
tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã dạy. Đồng thời, đề tài góp phần bổ sung về lý
luận báo chí và làm tài liệu nghiên cứu cho các đề tài tiếp theo nghiên cứu về
hướng tuyên truyền báo chí quân đội.
153
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
1. Đỗ Duy Hưng (2017), "Thông tin trên mạng MISTEN nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa
trong quân đội", Tạp chí Khoa học quân sự, (số 4), tr.12-14.
2. Đỗ Duy Hưng (2019), "Nhận thức chính trị tư tưởng của quân nhân hiện
nay và những vấn đề đặt ra đối với công tác tư tưởng trong quân đội thời gian
tới", Tạp chí Khoa học quân sự, (số 10), tr.84-88.
3. Đỗ Duy Hưng (2019), "Kinh nghiệm quản lý thông tin tham gia đấu tranh
trên mạng xã hội cho quân nhân hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo "Nghiên cứu định
hướng, giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn
các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội", Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội, tr.680-690.
4. Đỗ Duy Hưng (2019), "Vai trò của báo chí quân đội trong việc giáo dục
chính trị tư tưởng cho quân nhân hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông, (số 12), tr.51-55.
5. Đỗ Duy Hưng (2020), "Phát huy vai trò của báo chí quân đội tuyên truyền,
giáo dục đạo đức cách mạng cho quân nhân", Tạp chí Tuyên giáo, (số 3),
tr.40-43.
154
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Lưu Văn An (2008), Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực
chính trị ở các nước tư bản phát triển, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo 94, Quân ủy Trung ương (2015), Kết quả đấu tranh chống
"diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng năm 2015, (Lưu hành nội
bộ), Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Nhận dạng các quan điểm sai
trái, thù địch, (Lưu hành nội bộ), Hà Nội.
4. Bộ Quốc phòng (2000), Điều lệ công tác Nhà trường Quân đội nhân dân Việt
Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
5. Bộ Quốc phòng (2015), Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
6. Bộ Quốc phòng (2013), Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong
quân đội giai đoạn 2011 - 2020, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
7. Nguyễn Ngọc Ba (2003), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nhân
cách người cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
8. Hoàng Thị Bắc (2014), Báo Quân đội nhân dân với công tác tuyên truyền
đối ngoại quân sự, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Tâm Bắc (2004), Tuyên truyền nhiệm vụ quốc phòng toàn dân
trên hệ thống báo chí quân đội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Cần (2001), Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng
trong quân đội trước yêu cầu cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Quân sự, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
11. Nguyễn Hồng Châu (2006), Nâng cao nhận thức về chiến lược "diễn biến
hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cho học viên
155
đào tạo sĩ quan Hậu cần cấp phân đội - bậc đại học ở Học viện Hậu
cần hiện nay, Đề tài khoa học cấp Học viện, Học viện Hậu cần.
12. Công tác Đảng - Chính trị trong các lực lượng vũ trang Xô-Viết (1981),
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
13. Cục Cán bộ, Ban Tuyên huấn Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc
(2005), Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Cục Khoa học công nghệ, BTTM (1985), Từ điển giải thích thuật ngữ
quân sự, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
15. Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị (2010), Sơ kết 5 năm công tác giáo
dục chính trị tại đơn vị (2006 - 2010), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
16. Dương Quốc Dũng (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Quân đội nhân dân Việt
Nam đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, Đề
tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng, Mã số: 2009.83.015, Viện Khoa học
Xã hội và Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng.
17. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, NXB Lao động, Hà Nội.
18. Hoàng Đình Cúc, Phạm Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện
đại” của tác giả, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
19. Nguyễn Bá Dương (2003), “Tác động của cơ chế thị trường đến sự phát
triển nhan cách học viên đào tạo sĩ quan hiện nay”, Thông tin
KHXH&NV quân sự, (số 88).
20. Nguyễn Bá Dương (2010), Phòng, chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh
vực chính trị và vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện
nay, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
21. Nguyễn Bá Dương (2015), "Bình mới, rượu cũ" của chiến lược "diễn biến
hòa bình" chống phá Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Dưỡng (2001), Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng ở đơn
vị cơ sở làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu của các binh đoàn chủ lực
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Khoa học lịch
156
sử, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa
X), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng lãnh đạo quân đội của quân đội Liên Xô, Cu-ba, CHDC Đức, Triều
Tiên (1976), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
31. Đảng ủy Quân sự Trung ương (2004), Điều lệ công tác đảng, công tác
chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
32. Đảng ủy Quân sự Trung ương (2007), Nghị quyết số 86/NQ-ĐUQSTW, ngày
29/3/2007 Về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới, Hà Nội.
33. Đảng ủy Quân sự Trung ương (2010), Tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991 của Bộ Quốc
phòng (1991 - 2011), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
34. Lương Văn Đồng, Tân Trọng Cần, Vương Triều Văn, Vương Hạnh
Phương (1993), Chiến lược diễn biến hòa bình của Mỹ, (Tổng cục II -
Bộ Quốc phòng Việt Nam dịch), Hà Nội.
35. Cứu Tiên Hạc (2013), “Làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của tuyên
157
truyền đối ngoại qua truyền hình quân sự trên Internet”, Tạp chí
“Phóng viên Quân sự”, (số 1).
36. Đoàn Ngọc Hải (2002), Tăng cường giáo dục lý tưởng, truyền thống cách
mạng cho đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam, NXB
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
37. Hồ Viết Hải (2007), Bồi dưỡng phẩm chất chính trị của học viên đào tạo
cán bộ chỉ huy - tham mưu binh chủng hợp thành cấp trung, sư đoàn ở
Học viện Lục quân giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị Quân sự.
38. Nguyễn Viết Hiển (2002), Những vấn đề có tính quy luật trong nâng cao
giác ngộ xã hội chủ nghĩa của đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quân
sự, Hà Nội.
39. Phạm Ngọc Hiền (2011), Hỏi - đáp về "diễn biến hòa bình" và "cách mạng
màu", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Vũ Hiền, Trần Quang Nhiếp (đồng chủ biên) (2000), Báo chí trong đấu
tranh chống "Diễn biến hòa bình", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Lương Khắc Hiếu (năm 2009), Vai trò của báo chí và dư luận xã hội
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Đề tài
khoa học cấp Bộ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
42. Học viện Chính trị (2010), Giữ vững nền tảng tư tưởng tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong tình hình mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh – Toàn tập, tập 13, NXB Chính trị quốc gia, H.2011, tr.466.
44. Hội đồng Giáo dục Quốc phòng - An ninh Trung ương (2011), Chiến lược
"diễn biến hòa bình" nhận diện và đấu tranh, T.1, NXB Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
45. Hội đồng Lý luận Trung ương (2004), Lẽ phải của chúng ta, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung
158
Quốc (2004), Xây dựng đảng cầm quyền - Kinh nghiệm của Việt Nam,
Kinh nghiệm của Trung Quốc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Phạm Văn Huynh (2013), Bồi dưỡng phương pháp công tác tư tưởng của
đội ngũ chính trị viên ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị, Hà Nội.
48. Dương Quốc Hưng, Bùi Thế Đức, Đặng Thị Phương Thảo...(2005), Tuổi
trẻ Việt Nam tích cực đấu tranh góp phần làm thất bại âm mưu "diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch: Tài liệu hỏi đáp dành cho cán
bộ, đoàn viên, thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội.
49. Nguyễn Mạnh Hưởng (2012), Góp phần chống "diễn biến hòa bình" trên
lĩnh vực quân sự, quốc phòng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đỗ Ngọc Khải (2012), Phát triển bản chất giai cấp công nhân của sĩ quan
cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
51. Nguyễn Minh Khải (chủ biên) (2014), Sự thật về vấn đề tôn giáo và dân
tộc ở Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
52. Hoàng Văn Khiêm (2015), Báo chí quân khu 9 với vấn đề tuyên truyền
quốc phòng toàn dân (Khảo sát Báo chí Quân khu 9 năm 2014), Luận
văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội
53. La Quốc Kiệt (chủ biên), (2003), Tu dưỡng đạo đức tư tưởng, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
54. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 39, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
56. Lịch sử Báo Quân đội nhân dân (1950 – 2010), NXB Quân đội nhân dân,
H.2010, tr 67.
57. Lê Thành Long (2015), Vai trò của giảng viên lý luận chính trị ở các nhà
trường quân đội nhân dân Việt Nam trong phòng, chống “diễn biến
hòa bình” hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
159
58. Dương Văn Lượng (1994), Nâng cao phẩm chất chính trị quân nhân của
quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, Luận án
Tiến sĩ Triết học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
59. Nguyễn Đình Minh (2016), Hãy cảnh giác với “diễn biến hòa bình” chống
phá Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Văn Minh (2015), Phòng, chống "tự diễn biến, tự chuyển hóa" trong
sử dụng mạng xã hội, Báo Quân đội nhân dân, ngày 25/5/2015.
61. Chương Tử Nghị (1986), Công tác chính trị của Quân giải phóng nhân
dân Trung Quốc, NXB Đại học Quốc phòng, Quân giải phóng nhân
dân Trung Quốc, sách dịch lưu hành trên trang thông tin điện tử nội bộ
Bộ Quốc phòng, Quân đội nhân dân Việt Nam.
62. Đỗ Chí Nghĩa (2010), Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận xã hội,
Luận án Tiến sĩ Truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội.
63. Hoàng Phê (chủ biên) (2016), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB
Hồng Đức, Hà Nội.
64. E. P. Prôkhôrốp (2004), Cơ sở lý luận của báo chí, NXB Thông tấn, Hà Nội.
65. Trần Đại Quang (2013), Một số vấn đề về phòng, chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
66. Nguyễn Văn Quyết (1990), Đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển
phẩm chất chính trị của thanh niên quân đội ta trong giai đoạn hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Khoa học quân sự, Học viện Chính trị Quân sự,
Hà Nội.
67. Quân ủy Trung ương (2010), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội
lần thứ IX, Hà Nội.
68. Quân ủy Trung ương (2014), 28 luận cứ đấu tranh phản bác những luận
điệu sai trái với quan điểm, đường lối của Đảng, làm thất bại âm mưu
"diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, Hà Nội.
160
69. Quốc hội (2008), Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
70. Quốc hội (2016), Luật Báo chí, Hà Nội.
71. Sỏn Xay Chăn Nha Lạt (2012), Giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ
quan, binh sĩ Quân đội nhân dân Lào hiện nay, Luận án Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
72. Nguyễn Tiến Sỹ (2010), “Mấy vấn đề về công tác chính trị của Quân giải
phóng nhân dân Trung Quốc”, Thông tin KHXH&NV quân sự, (số 127).
73. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Tạ Ngọc Tấn (1995), “Vai trò báo chí trong hoạt động chống diễn biến hòa
bình về tư tưởng văn hóa”, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền (số 5).
75. Tạ Ngọc Tấn (1996), “Khuynh hướng chính trị tư tưởng trong báo chí”,
Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền (số 8).
76. Tạ Ngọc Tấn (1998), Tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống
tích cực của thanh niên sinh viên hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
77. Tạ Ngọc Tấn (2004), Hồ Chí Minh về báo chí, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
78. Tạ Ngọc Tấn (2005), Cơ sở lý luận báo chí, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
79. Lý Vĩnh Thắng (2000), “Giáo dục chính trị tư tưởng là linh hồn của giáo
dục phẩm chất”, Tạp chí Cầu thị, Trung Quốc (số10), bản dịch, lưu thư
viện Học viện Chính trị, Hà Nội.
80. Nguyễn Vĩnh Thắng (chủ biên) (2006), Diễn biến hòa bình và đấu tranh
chống diễn biến hòa bình, (Hỏi và đáp), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
81. Võ Văn Thắng (2012), Góp phần chống suy thoái tư tưởng chính trị đạo
đức, lối sống theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
82. Nguyễn Trung Thông (2004), Nâng cao nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh
của sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án
Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
161
83. Vũ Duy Thông (2004), Mác-Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh bàn về báo chí
xuất bản”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Nguyễn Viết Thông (2004), “Một vài nét về giảng dạy và học tập các môn
chính trị tư tưởng ở các trường đại học Trung Quốc”, Tạp chí Công tác
tư tưởng, (số 5).
85. Nguyễn Đức Tiến (1999), Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan trong phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở thanh
niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ quân sự,
Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
86. Trần Doãn Tiến (2010), Phê phán các quan điểm sai trái về tư tưởng
chính trị trên mạng Internet góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
87. Phạm Thị Thanh Tịnh, (2013), Công chúng báo chí, NXB Chính trị -
Hành chính, Hà Nội.
88. Nguyễn Đình Tu (1996), Nâng cao bản lĩnh chính trị của sĩ quan trẻ
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Khoa học quân
sự, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
89. Trần Ngọc Tuệ (1996), Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Khoa học quân sự,
Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
90. Trần Ngọc Tuệ (chủ biên) (2012), Đấu tranh chống "diễn biến hòa bình"
trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng trong quân đội hiện nay, NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
91. Lê Văn Toan (2011), Quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí”, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
92. Tổng cục Chính trị (1999), Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm
thực hiện Di chúc của Người, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
162
93. Tổng cục Chính trị (2002), Tăng cường giáo dục lý tưởng, truyền thống
cách mạng cho đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt nam hiện
nay, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
94. Tổng cục Chính trị (2006), Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị trong
đào tạo sĩ quan hải quân hiện nay, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
95. Tổng cục Chính trị (2012), Đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên
lĩnh vực chính trị - tư tưởng trong quân đội hiện nay, NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
96. Tổng cục Chính trị (2009), Giáo trình Lý luận giáo dục quân nhân, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
97. Tổng cục Chính trị (2012), Giáo trình Công tác Đảng, công tác chính trị, NXB
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
98. Cao Xuân Trung (2002), Những điều kiện tâm lý sư phạm nâng cao hiệu
quả giáo dục chính trị tư tưởng cho quân nhân ở các đơn vị cơ sở hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Chính trị Quân sự.
99. Trương Thành Trung (chủ biên) (2011), Sự thật về dân chủ và nhân quyền
ở Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
100. Bế Xuân Trường, Nguyễn Bá Dương (2013), Xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Vũ Thanh Vân (2015), Khuynh hướng chính trị của báo chí Mỹ, Luận án
tiến sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí Tuyên truyền, Hà Nội.
102. Đ.A. Vôn-cô-gô-nốp (1984), Phương pháp luận công tác giáo dục tư
tưởng, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
103. Nguyễn Hồng Vinh (chủ biên) (2007), Phê phán, bác bỏ các quan điểm
sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam: Tài liệu tham khảo nội bộ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Nguyễn Trần Thùy Vinh (2014), Báo chí quân đội với vấn đề giáo dục
chiến sỹ trẻ hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, Hà Nội.
163
105. Lương Ngọc Vĩnh (2012), Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng trong học viên các học viện quân sự ở nước ta hiện nay, Luận
án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Báo chí Tuyên truyền, Hà Nội.
106. Nguyễn Quang Vững (2012), Thông tin đấu tranh phòng, chống diễn
biến hòa bình trên báo Quân đội nhân dân (Khảo sát từ tháng 01/2009
đến 6/2012), Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội.
107. V.A. Xu-Khôm-Lin-Xki (1983), Hình thành niềm tin cho thế hệ trẻ,
NXB Thanh niên.
108. X.I. Xu-rơ-ni-tren-cô (chủ biên), (1982), Hoạt động tư tưởng của Đảng
Cộng sản Liên Xô, NXB Thông tin Lý luận, Hà Nội.
Tài liệu nước ngoài
109. Полковник Ю. Н. Кленов (2007), "Взаимодействие органов
управления Ленинградского военого округа со средствами
массовой информации", Военная Мысль(1), c.72-80.
110. Ф. Капралов(2006), "Направленность психологической подготовки
японских военнослужащих", Журнал Зарубежного Военного
Обозрения (4), c.35-41.
111. Полковник И.В. Манеев(2015), "Средства массовой информации как
эффективный инструмент в формировании позитивного образа
военнослужащих внутренних войск МВД России, Военная
Мысль(4) c.47-52.
112. Н. Ледюкова(2011), "Мировая Экономика и Международные
Отношения”, Мировая Экономика и Международные
Отношения(1), c.69-76.
113. Т. Ровинская(2008), "Методы воздействия СМИ на общественное
сознание", Мировая Экономика и Международные Отношения(6),
c.100-103.
164
114. Полковник В.И. Тимофеев(2007), "О работе органов военного
управления со средствами массовой информации в период
вооруженного конфликта", Военная Мысль(6), c.48-61.
115. Полковник С.Севастьянов (2014), "Военная печать иностранных
государств", Зарубежное Военное Обозрение (11), c.29-36.
116. А. Нальдеев (2008), "Печатная пропаганда в деятельности органов
ПСО ВС США в Афганистане и Ираке", Зарубежное Военное
Обозрение (8), c.23-26.
117. С. Завьялов (2014), "Зарубежный опыт в области борьбы с
пропагандой терроризма в Интернете", Зарубежное Военное
Обозрение (4), c.34-40.
118. Подполковник П.Шитов (2013), "Морально-психологические
проблемы военнослужащих США", Зарубежное Военное
Обозрение (9), c.34-39.
119. Tammy L.Miracle (2003), "The army and embedded media", Military
Review, 83(1), pp.70-74.
120. http//www.constructing a postwar world, What are Tool of Propaganda?
121. http//www.historylearningsite.co.uk/propaganda_in_Nazi_Germany.htm,
Propaganda in NaZi Germany.
122. http//www.uv.es/EBRIT/macro/macro_5005_29.html, Propaganda
165
PHỤ LỤC KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ NHÀ BÁO CỦA BÁO QĐND VÀ KÊNH TRUYỀN HÌNH QPVN Số phiếu: 137 phiếu. Thời gian khảo sát: tháng 6, 7 năm 2017 Phụ lục 1: Cơ cấu giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, thâm niên trong nghề NỘI DUNG TT % Số phiếu
Giới tính
57,4 78 42,6 58
Độ tuổi
20 – dưới 30 30 – dưới 40 40 – dưới 50 từ 50 trở lên 32,1 44 42,3 58 20,4 28 7 5,1
Ngành học
41,0 55 11,2 15 10,4 14 37,3 50
Trình độ học vấn
4
Sau đại học 2,9 89,0 121 8,1 11
Thời gian công tác trong lĩnh vực báo chí
5 năm - dưới 15 năm 15 năm - dưới 35 năm 33,6 45 52,2 70 14,2 19
Đang giữ chức danh, nhiệm vụ nào sau đây
1. Phóng viên 2. Biên tập viên 3. Phát thanh viên 4. Kỹ thuật viên 5. Giảng viên 6. Nghiên cứu viên 7. Quản lý đơn vị báo chí 35,8 49 42,3 58 3 2,2 8 5,8 1 0,7 1 0,7 6 4,4 A4 Nam Nữ A5 A6 Ngành báo chí Ngành chính trị Ngành quân sự Ngành khác………….. A7 Trung cấp/cao đẳng Đại học A8 Dưới 5 năm A9
166
8. Quản lý ngành báo chí 9. Khác…………………… 0 0,0 8,0 11
Phụ lục 2: Nhận diện về giáo dục chính trị - tư tưởng của đội ngũ nhà báo
Theo đồng chí, giáo dục chính trị - tư tưởng nhằm mục đích gì
82,5 113 86,9 119 78,8 108 69,3 95 56,2 77 51,1 70 56,9 78 50,4 69 3 2,2 B1 Giáo dục lý tưởng cách mạng Giáo dục lập trường chính trị Giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc Giáo dục phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng Giáo dục nghĩa vụ, trách nhiệm với nhiệm vụ được giao Giáo dục kỉ luật quân đội Giáo dục ý thức trách nhiệm chính trị - xã hội Giáo dục nhận diện âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch Ý kiến khác............................................................
B2 Đồng chí tìm hiểu về đề tài giáo dục chính trị - tư tưởng bằng hình thức nào
Nghiên cứu tài liệu Đọc sách, báo Nghe đài phát thanh Xem truyền hình Nghe lãnh đạo, chuyên gia thuyết trình chuyên đề Dự lớp tập huấn ngắn hạn Dự lớp tập huấn dài hạn Giao tiếp xã hội Nguồn khác...........................................................
B3 88,2 120 77,9 106 59,6 81 60,3 82 58,8 80 40,4 55 33,1 45 32,4 44 7 5,1 Theo đồng chí, khi viết về đề tài giáo dục chính trị - tư tưởng, tác giả cần có kiến thức nào
96,3 131 84,6 115 78,7 107 61,8 84 58,8 80 61,0 83 55,9 76 46,3 63 5 3,7 Kiến thức về chủ nghĩa Mác-Lênin Kiến thức về tư tưởng Hồ Chí Minh Hiểu sâu về chủ trương, đường lối của Đảng Kiến thức về nhiệm vụ chính trị của quân đội Kiến thức về truyền thống dân tộc, quân đội Kiến thức về phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ” Kiến thức về chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của địch Kiến thức về nghiệp vụ báo chí truyền thông Khác...............................................................................
167
Phụ lục 3: Đánh giá về truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội
C1 Mức độ quan tâm của lãnh đạo các cơ quan báo chí trong truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
Nguyên nhân do đâu
Ít phóng viên am hiểu sâu về lĩnh vực này
51,5 41,9 5,9 0,0 0,0 20,0 26,7 33,3 70 57 8 0 0 15 3 4 5 Rất nhiều Nhiều Trung bình Ít Rất ít C2 Đây là mảng đề tài khó Các mảng đề tài này chưa tạo được nhiều nguồn thu
20,0 3 Các cơ quan chức năng chưa đầu tư kinh phí riêng để truyền thông chủ trương này
0,0 0 Khác...................................................................
C3 Theo đồng chí, mức độ hiệu quả thông tin của báo chí quân đội về những nội dung liên quan đến giáo dục chính trị - tư tưởng
70 56 10 0
76 59 1 0
82 50 4 0
99,3 136/137 51,1 40,9 7,3 0,0 99,3 136/137 55,5 43,1 0,7 0,0 99,3 136/137 59,9 36,5 2,9 0,0 99,3 136/137 61,3 84 Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin Rất mạnh Mạnh Trung bình Yếu Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh Rất mạnh Mạnh Trung bình Yếu Giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng Rất mạnh Mạnh Trung bình Yếu Giáo dục nhiệm vụ chính trị của Quân đội và đơn vị Rất mạnh
168
50 1 1
85 49 2 0
36,5 0,7 0,7 99,3 136/137 62,0 35,8 1,5 0,0 98,5 135/137 59,1 32,1 7,3 0,0 Mạnh Trung bình Yếu Giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị Rất mạnh Mạnh Trung bình Yếu Giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù Rất mạnh Mạnh Trung bình Yếu
C4 Theo đồng chí, những thuận lợi khi truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
Sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp 82,4 112
104 Trình độ nghiệp vụ đội ngũ phóng viên, nhà báo có chất lượng tốt 76,5
66,2 50,7 41,2 0,0 90 69 56 0 Nguồn tư liệu về chính trị - tư tưởng phong phú Trang thiết bị truyền thông đầy đủ Chế độ khen thưởng động viên kịp thời Khác............................................................................
C5 Theo đồng chí, những khó khăn khi truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
51,9 37,0 26,7 19,3 Sức hút của lĩnh vực chính trị - tư tưởng đối với công chúng còn yếu 54,8 31,9 70 50 36 26 74 43 Chưa có kinh nghiệm để hiểu rõ phương thức truyền thông mới Thiếu thông tin về giáo dục chính trị - tư tưởng Thiếu tài liệu, tư liệu về giáo dục chính trị - tư tưởng Thiếu trang thiết bị phương tiện truyền thông Khó tiếp cận với các chuyên gia, nhà quản lý
43,7 59 Chưa có nhiều kênh để tiếp nhận và lắng nghe ý kiến phản hồi của công chúng
0,0 0 Khác.....................................................................
C6 Theo đồng chí, những hình thức truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng nào được thể hiện trên báo chí quân đội hiện nay
1. Tin tức 82,5 113
169
2. Tường thuật 3. Bài phản ánh 4. Ghi nhanh 5. Phóng sự 6. Điều tra 7. Xã luận 8. Bình luận 9. Đàm luận 10. Phỏng vấn 11. Talkshow 12. Forum 13. Tiểu phẩm 14. Bài nghiên cứu khoa học 15. Ghi chép 16. Ký 17. Câu chuyện truyền thanh 18. Truyện ngắn 19. Tiểu thuyết 20. Thơ ca, nhạc họa 21. Khác................................ 35,8 55,5 35,0 50,4 29,9 57,7 62,0 23,4 43,8 17,5 6,6 16,8 31,4 40,9 27,7 29,2 24,1 21,2 25,5 1,5 49 76 48 69 41 79 85 32 60 24 9 23 43 56 38 40 33 29 35 2
C7 Theo đồng chí, những hình thức truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng thể hiện trên báo chí quân đội hiện nay như thế nào
18,7 44,0 30,6 6,0 0,7 0,0 25 59 41 8 1 0 Rất hấp dẫn Hấp dẫn Bình thường Chưa hấp dẫn Đơn điệu Khác....................
D Phụ lục 4: Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội
70,9 70,1 27,6 95 94 37 Quan điểm của các cơ quan báo chí Trình độ hiểu biết giáo dục chính trị - tư tưởng của nhà báo Lợi ích kinh tế của cơ quan báo chí
170
Sự hợp tác của các chuyên gia, nhà khoa học
15,7 45,5 40,3 6,0 21 61 54 8 Lợi ích kinh tế của báo chí Trình độ dân trí Khác....................................................................................
Phụ lục 5: Giải pháp nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội
E1 Theo đồng chí, giải pháp nào nhằm nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
88,8 119 Nâng cao trình độ chuyên môn, nhận thức cho những người quản lý, tổ chức sản xuất các sản phẩm báo chí
70,1 94 Thường xuyên tổ chức cập nhật kiến thức về giáo dục chính trị - tư tưởng cho nhà báo
65,7 88
Cơ quan báo chí thường xuyên tổ chức thu thập thông tin, phản hồi từ công chúng (đo rating) về các sản phẩm giáo dục chính trị - tư tưởng
60,4 81
Ngoài các sản phẩm báo chí, nên đa dạng hóa nhiều hình thức truyền thông khác (Chiến dịch truyền thông về giáo dục chính trị - tư tưởng; Sự kiện truyền thông về giáo dục chính trị - tư tưởng; Hội thảo, hội nghị, tọa đàm, tờ rơi, phát hành sách)
0,7 1 Khác..................................................................................
E2 Các cơ quan báo chí quân đội cần phải làm gì để nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
72,4 97 Tham gia hoạch định, đóng góp về thực hiện đề án giáo dục chính trị - tư tưởng
66,4 89 Đa dạng hóa các nội dung và hình thức truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
67,2 90 Đào tạo những nhà báo chuyên sâu về giáo dục chính trị - tư tưởng
61,2 82 Giới thiệu nhiều mô hình truyền thông tuyên truyền thông tin chính trị của các nước phát triển
66,4 89 Phối hợp, liên kết với các viện, trường để nghiên cứu, đào tạo công tác truyền thông dài hạn về giáo dục chính trị - tư tưởng
0,7 1 Khác.....................................................................
171
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC ĐỐI VỚI HỌC VIÊN QUÂN SỰ Ở 4 HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI Số phiếu: 497 phiếu Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Chính trị, Học viện Hậu cần, Học viện Kĩ thuật quân sự Thời gian khảo sát: tháng 6,7 năm 2017 Phụ lục 6: Thông tin chung về học viên quân sự ở các nhà trường quân đội
TT NỘI DUNG %
Số phiếu chọn
Giới tính
Nơi đóng quân thuộc khu vực 97,2 483 14 2,8
79,9 397 97 19,5 3 0,6 Thực trạng báo chí của đơn vị
74,2 369 24,1 120 1,4 0,0 7 0 A2 Nam Nữ A7 Đô thị Nông thôn Vùng sâu/vùng xa A8 Đầy đủ Khá đầy đủ Thiếu báo Không có
Đồng chí tiếp nhận thông tin từ các loại hình báo chí như thế nào
95,0 4,4 0,2 0,2 0,0 0,2 472 22 1 1 0 1 Phụ lục 7: Tiếp nhận thông tin từ báo chí quân đội của học viên quân sự B1 Hằng ngày Hằng tuần Hằng tháng Hằng quý Hằng năm Không bao giờ tiếp cận
B2 Đồng chí thường tiếp cận loại hình báo chí nào nhiều nhất thông qua phương tiện truyền thông gì sau đây
443 419 21 22 89,1 84,3 4,2 4,4 Báo in Báo giấy Máy tính Điện thoại
172
Truyền hình
57,1 20,5 16,9 28,8 75,3 5,0 8,5 66,0 55,7 4,8 8,5 44,3 284 102 84 143 374 25 42 328 277 24 42 220
Thời gian đồng chí tiếp cận báo chí để nắm bắt thông tin
67,4 30,6 1,2 0,4 0,4
335 152 6 2 2
Thời điểm đồng chí thường tiếp cận báo chí
25,8 4,6 1,6 0,8 128 23 8 4 Báo điện tử Máy tính Điện thoại Tivi Máy tính Điện thoại Tivi Phát thanh Máy tính Điện thoại Radio B3 Từ 30 phút - dưới 1 giờ/ngày Từ 1 giờ - dưới 2 giờ/ngày Từ 2 giờ - dưới 6 giờ/ngày Từ 6 giờ - dưới 8 giờ/ngày Hơn 8 giờ/ngày B4 Từ 5 giờ - 7 giờ 30 Từ 7 giờ 30 - 11 giờ 30 Từ 11 giờ 30 - 13 giờ 30 Từ 13 giờ 30 - 17 giờ
67,6 336 Từ 17 giờ - 24 giờ
Phụ lục 8: Nhận diện thông tin về giáo dục chính trị - tư tưởng
C1 Đồng chí thường tiếp cận thông tin về chính trị - tư tưởng qua sản phẩm báo chí nào
91,8 456 13,3 66 70,8 352 9 1,8 29,0 144 10 2,0 7 1,4 3 0,6 Báo Quân đội nhân dân Báo Quân đội nhân dân điện tử Kênh Truyền hình QPVN Báo Biên phòng Tạp chí Quốc phòng toàn dân Báo Hải quân Việt Nam điện tử Báo điện tử PK-KQ Báo điện tử QK 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9
173
43,7 217 Tạp chí Văn hóa quân sự
8,7 43 Khác……………………………
C2 Đồng chí thường tiếp cận thông tin giáo dục chính trị - tư tưởng qua dạng chương trình nào
98,2 488 45 9,1 30,8 153 24,7 123 48,1 239 2 0,4 Tin tức thời sự Tiểu mục, tiết mục Chuyên trang, chuyên đề, chuyên mục, tạp chí Câu chuyện truyền thanh Chương trình phát thanh, truyền hình trực tiếp Khác…………………………………………
Phụ lục 9: Đánh giá về công tác truyền thông giáo dục chính trị - tư
tưởng của báo chí quân đội
D1 Tần suất các tin, bài truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội như thế nào
16,5 57,5 24,7 1,0 0,2 82 286 123 5 1 Rất nhiều Nhiều Bình thường Ít Rất ít
D2 Đồng chí tiếp cận những thông tin nào liên quan đến giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội nhiều nhất và nội dung đó ra sao
Phong phú
Phong phú
78,3 389 241 48,5 136 27,4 12 2,4 412 82,9 319 64,2 90 18,1 3 0,6 433 87,1 321 64,6 104 20,9 8 1,6 402 80,9 Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin Phong phú Bình thường Đơn điệu Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh Bình thường Đơn điệu Giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng Bình thường Đơn điệu Giáo dục nhiệm vụ chính trị của Quân đội và đơn vị
174
Phong phú
Phong phú
Phong phú
57,7 22,1 1,0 76,1 51,7 23,3 1,0 78,3 51,1 24,7 2,4 287 110 5 378 257 116 5 389 254 123 12 Bình thường Đơn điệu Giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị Bình thường Đơn điệu Giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù Bình thường Đơn điệu
D3 Theo đồng chí, thông tin báo chí truyền thông về chính trị - tư tưởng ở mức độ nào
15,7 65,6 18,1 0,4
D4 78 Rất sâu 326 Sâu 90 Bình thường Sơ sài 2 Hình thức truyền thông nào của báo chí quân đội về chính trị - tư tưởng mà đồng chí được tiếp cận nhiều nhất
91,8 456 Các sản phẩm báo chí (tin, bài, phóng sự, chuyên trang, chuyên mục, chương trình trực tiếp) về chính trị - tư tưởng
62 98 110 12,5 19,7 22,1
237 233 29 47,7 46,9 5,8
Đồng chí có tương tác với báo chí quân đội chưa
17,3 23,5 59,0 86 117 293
Đồng chí tương tác với báo chí quân đội bằng hình thức nào
6,4 3,8 15,5 32 19 77 Chiến dịch truyền thông về chính trị - tư tưởng Sự kiện truyền thông về chính trị - tư tưởng Hội thảo, hội nghị, tọa đàm, tờ rơi, sách D5 Hình thức thể hiện các sản phẩm của báo chí quân đội có hấp dẫn không Hấp dẫn Trung bình Kém hấp dẫn D6 Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ D7 Gặp trực tiếp đại diện cơ quan báo chí Gọi điện thoại Gửi thư
175
19,7 6,0 98 30 Bình luận thông qua mạng Bình luận thông qua điện thoại di động
D8 Dung lượng, thời lượng của các chương trình truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội như thế nào
3,4 17 Quá nhiều
35,8 178 Nhiều
58,8 292 Vừa phải
Ít 1,4 7
0,4 2 Quá ít
D9 Thời điểm phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình liên quan đến giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội có phù hợp không
94,2 7,8 468 39 Phù hợp Chưa phù hợp
D10 Thời điểm phát hành, đăng tải các thông tin về giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội có kịp thời không
93,6
465 17
3,4
Kịp thời Chưa kịp thời
Phụ lục 10: Hiệu quả của báo chí quân đội trong truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
E1 Mức độ tác động thông tin của báo chí quân đội về những nội dung liên quan đến giáo dục chính trị - tư tưởng
98,4 1,8 22,7 58,4 15,5 98,8 0,6 9,1 56,7 32,4 98,6 1,0 489 9 113 290 77 491 3 45 282 161 490 5 Giáo dục chủ nghĩa Mác Lê nin Yếu Trung bình Mạnh Rất mạnh Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh Yếu Trung bình Mạnh Rất mạnh Giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng Yếu
176
6,6 55,5 35,4 98,8 1,4 8,5 57,3 31,6 98,8 1,0 12,3 58,4 27,2 99,0 1,6 14,1 50,9 32,4 33 276 176 491 7 42 285 157 491 5 61 290 135 492 8 70 253 161 Trung bình Mạnh Rất mạnh Giáo dục nhiệm vụ chính trị của quân đội và đơn vị Yếu Trung bình Mạnh Rất mạnh Giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị Yếu Trung bình Mạnh Rất mạnh Giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù Yếu Trung bình Mạnh Rất mạnh
E2 Những nội dung liên quan đến giáo dục chính trị - tư tưởng tác động sâu sắc đến nhận thức của đồng chí
66,0 80,7 78,1 69,4 66,4 74,6 3,4 328 401 388 345 330 371 17 Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh Giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng Giáo dục nhiệm vụ chính trị của Quân đội và đơn vị Giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị Giáo dục bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù Khác........................................................................
Phụ lục 11: Những hạn chế trong công tác truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội
F1 Nội dung truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội còn có những hạn chế gì
58,8 292 Nhiều chuyên mục, chuyên đề khi được truyền thông trên báo chí quân đội chưa hiệu quả
52,3 260 Chưa phản ánh hết mong muốn của quân nhân về nội dung chính trị - tư tưởng
13,9 69 Chưa thông tin kịp thời về nội dung chính trị - tư tưởng
177
18,5 8,5 5,6 92 42 28 Chưa thông tin đầy đủ về nội dung chính trị - tư tưởng Làm cho quân nhân nhận thức mơ hồ về chính trị tư tưởng Khác……………………………………………………
F2 Hình thức thể hiện của các chương trình truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội như thế nào
Thu hút Chưa thu hút Đơn điệu
F3 53,9 268 36,6 182 42 8,5 Tốc độ đường truyền truy cập, tần số phát sóng, công tác phát hành như thế nào
42,7 212 46,5 231 44 8,9 3 0,6 Tốt Khá Trung bình Yếu
F4 Nguyên nhân của những hạn chế đối với công tác truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội là do
75 15,1 58,4 290 38,6 192 Tác giả chưa am hiểu, nắm chắc vấn đề Nội dung phản ánh còn chung chung Thiếu những chuyên gia, nhà tư vấn hay
97 Chưa có dự báo, cảnh báo về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch 19,5
30 6,0 Khác…………………………………………
Phụ lục 12: Những giải pháp để nâng cao hiệu quả tuyên truyền giáo dục chính trị - tư tưởng của báo chí quân đội trong thời gian tới
G1 Theo đồng chí, báo chí quân đội cần có những giải pháp nào để nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng trong thời gian tới
72,2 359 Thông tin đa chiều về nội dung chính trị - tư tưởng
56,5 281 Tích cực sưu tầm, giới thiệu những chuyên đề chuyên sâu
55,1 274 Tổ chức sản xuất nhiều tin, bài, chương trình truyền hình thực tế về các nội dung chính trị - tư tưởng
71,4 355 Đa dạng hóa hình thức thể hiện
Sân khấu hóa các nội dung chính trị - tư tưởng 44,7 222
178
60,0 298 Đẩy mạnh tính tương tác giữa cơ quan báo chí với công chúng
28,8 143 Tăng thời lượng, dung lượng nội dung chính trị - tư tưởng
39,6 197 Thực hiện nhiều chiến dịch truyền thông, hội thảo, hội nghị, tọa đàm, phát tờ rơi, phát hành sách về các nội dung chính trị - tư tưởng
1,0 5 Giải pháp khác……………………………………………
G2 Báo chí quân đội cần phải làm gì để nâng cao chất lượng truyền thông về giáo dục chính trị - tư tưởng
73,0
363 Tăng cường vài trò lãnh đạo của Đảng trong công tác truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
64,0 318
Đào tạo nâng cao đạo đức, năng lực chuyên môn cho những người sản xuất, thực hiện các chương trình về giáo dục chính trị - tư tưởng
73,8 367 Thường xuyên thăm dò ý kiến của công chúng và đẩy mạnh tương tác giữa cơ quan báo chí với công chúng
54,5 271 Liên kết giữa các cơ quan báo chí quân đội với các cơ quan báo chí trong và ngoài nước
61,8 307 Đầu tư các trang, thiết bị, công nghệ số để thay đổi hình thức thể hiện các chương trình truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
G3 Các nhà quản lý và cơ quan báo chí cần tạo cơ chế như thế nào để các cơ quan báo chí nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
63,2 314 Có nguồn kinh phí dành riêng cho công tác truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
67,8 337 Đầu tư, nâng cấp các trang thiết bị cho các cơ quan báo chí nhằm nâng cao chất lượng truyền thông giáo dục chính trị - tư tưởng
61,2 304
61,4 305 Ký kết, hợp tác với các viện, trường thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo chí quân đội Tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí, nhà báo đi tham quan, tìm hiểu học hỏi nghiệp vụ ở các nước phát triển
0,8 4 Giải pháp khác…………………………