
3
CHƢƠNG 1 GIỚI THIỆU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong canh tác lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), thuốc bảo vệ
thực vật (BVTV) chứa hoạt chất Chlorpyrifos ethyl (nhóm Lân hữu cơ) và
Fenobucarb (nhóm Carbamate) thường được sử dụng phổ biến (Nguyen Thanh
Tam et al., 2015; Nguyễn Văn Toàn và Nguyễn Văn Công, 2018). Trong danh
mục thuốc BVTV cho phép sử dụng năm 2016 có đến 159 tên thuốc thương mại
có chứa Chlorpyrifos ethyl và 39 tên thương mại chứa hoạt chất Fenobucarb (TT
03/2016/TT-BNNPTNT). Các sản phẩm phối trộn sẵn hoạt chất Chlorpyrifos
ethyl với Fenobucarb được sử dụng như: Visa 5GR, Rockfos 550EC, Babsac
600EC, 750EC, Fenfos 650EC, Super Kill Plus 550EC. Ngoài ra, hai đơn chất
này cũng thường được phối trộn khi phun nhằm tiêu diệt cùng lúc rầy nâu và các
loài sâu hại khác nhau (Phạm Văn Toàn, 2013). Dù phun riêng lẻ từng hoạt chất
hay hỗn hợp thì sau cùng các hoạt chất này cùng tồn tại trong thành phần môi
trường. Do đó, sinh vật trong thực tế thường chịu tác động của nhiều độc chất
khác nhau. Sự phối trộn độc chất có thể làm (i) giảm (tác động đối kháng), (ii)
tăng (tác động hợp lực) hay (iii) không ảnh hưởng đến độc tính so với trường hợp
riêng lẻ (Trần Văn Hai, 2005).
Cá lóc (Channa striata) sống ở nhiều loại hình thủy vực, trong đó có đồng
ruộng (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993), nơi mà thuốc BVTV
thường xuyên được sử dụng. Vào mùa mưa, cá thường tìm đến đồng ruộng để
sinh sản (Amilhat and Lorenzen, 2005) nên chúng có nhiều nguy cơ phơi nhiễm
thuốc BVTV. Do đó, cá lóc là một trong những loài thủy sinh vật chịu nhiều tác
động bất lợi do phun thuốc BVTV cho lúa nên được để chọn lựa cho nghiên cứu.
Enzyme Cholinesterase (ChE) có vai trò quan trọng trong điều tiết chức
năng bình thường của quá trình truyền tín hiệu thần kinh qua các tế bào thần kinh
ở động vật sống. ChE rất nhạy cảm với thuốc BVTV gốc Lân hữu cơ và
Carbamate (Stenersen, 2004); khi ChE bị ức chế có thể ảnh hưởng đến hoạt động
hô hấp, di chuyển, bắt mồi và gây chết sinh vật (Peakall, 1992). Hầu hết các loài
thủy sinh vật chết khi ChE bị ức chế hơn 70% (Fulton and Key, 2001) và ngưỡng
giới hạn sinh học cho phép ChE bị ức chế không quá 30% mức bình thường
(Aprea et al., 2002). Đo hoạt tính ChE có thể giúp phát hiện sớm ảnh hưởng bất
lợi của môi trường đến sinh vật (Peakall, 1992; Cong et al., 2006). Do vậy, ChE
có thể sử dụng làm chỉ thị cảnh báo ô nhiễm và tác hại của ô nhiễm thuốc BVTV
gốc Lân hữu cơ và Carbamate đến sinh vật. Kỹ thuật tái kích hoạt khi ChE bị ức
chế bởi lân hữu cơ bằng pralidoxime (2-PAM) và phương pháp pha loãng rồi ủ
mẫu ở nhiệt độ và thời gian thích hợp khi ChE bị ức chế bởi Carbamate đã được
đề xuất áp dụng khi không có sinh vật đối chứng (Rotenberg, 1995).
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu trong điều kiện phòng thí nghiệm và ngoài
thực địa đã sử dụng ChE như chỉ dấu sinh học (Biomarker) cảnh báo nhiễm bẩn
thuốc BVTV (Andresscu et al., 2006; Laetz et al., 2009;…). Những nghiên cứu
bước đầu ở Việt Nam cho thấy có thể sử dụng ChE ở cá chép Cyprinus carpio, cá