BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ÁNH SÁNG ĐÈN LED ĐẾN MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH LÝ, NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT CỦA CÂY CẢI BÓ XÔI (Spinacia oleracea L.) TRỒNG THỦY CANH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ÁNH SÁNG ĐÈN LED ĐẾN MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH LÝ, NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT CỦA CÂY CẢI BÓ XÔI (Spinacia oleracea L.) TRỒNG THỦY CANH
Chuyên ngành: Sinh lí học thực vật Mã số: 9420112
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
1. GS. TS. Nguyễn Quang Thạch 2. PGS.TS.Trần Thị Thanh Huyền
Người hướng dẫn khoa học:
HÀ NỘI – 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án tiến sĩ “Nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng đèn
LED đến một số chỉ tiêu sinh lý, năng suất và phẩm chất của cây cải bó xôi
(Spinacia oleracea L.) trồng thủy canh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và tài liệu trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào. Số liệu công bố có sự cộng tác nghiên cứu, đã được đồng ý của các
cộng sự. Tất cả những tham khảo và kế thừa đều được trích dẫn và tham chiếu đầy đủ.
Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2021
Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Phương Dung
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận án tiến sĩ, Tôi đã nhận được sự hướng dẫn về chuyên
môn, sự giúp đỡ rất tận tình của các đơn vị, các thầy, cô và bạn bè cùng gia đình.
Nhân dịp này Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và trân trọng cảm ơn: GS.TS.
Nguyễn Quang Thạch, PGS. TS. Trần Thị Thanh Huyền, người Thày, người Cô đã
tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
án khoa học này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn: Viện Sinh học Nông nghiệp – Học viện
Nông Nghiệp Việt Nam; Bộ môn Sinh lý học thực vật và Ứng dụng – Khoa Sinh
học - Trường đại học Sư phạm Hà Nội; Bộ môn Sinh lý thực vật, Bộ môn Thực vật,
Trung tâm nghiên cứu giống cây trồng Việt Nam – Nhật Bản, Phòng thí nghiệm
trọng điểm Công nghệ sinh học thú y, Phòng thí nghiệm trung tâm KH&CNTP –
Học viện Nông Nghiệp Việt Nam; Bộ môn KNCL Rau quả – Viện Nghiên cứu Rau
quả, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực giúp tôi
thực hiện tốt nhất các nghiên cứu khoa học liên quan tới nội dung của luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Sinh học, Phòng sau đại học, Ban Giám
hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Ban chủ nhiệm Khoa Nông học, Ban Giám
đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận án.
Tôi xin được cảm ơn sự giúp đỡ của: PGS.TS. Mai Văn Chung – Trường Đại
học Vinh, TS. Vũ Ngọc Thắng, ThS. Nguyễn Thị Thủy – Học viện Nông nghiệp
Việt Nam đã chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật, hỗ trợ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn đồng hành, chia sẻ và tạo mọi điều kiện
tốt nhất để tôi hoàn thành luận án này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2021
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Phương Dung
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... vii
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... viii
DANH MỤC CÁC HÌNH .......................................................................................... xi
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN ..................................................................................... 5
1.1. Cây cải bó xôi và giá trị dinh dưỡng ................................................................ 5
1.1.1. Đặc điểm sinh học ............................................................................................. 5
1.1.1.1. Nguồn gốc ...................................................................................................... 5
1.1.1.2. Phân loại ......................................................................................................... 5
1.1.1.3. Hình thái, sinh lý sinh trưởng ......................................................................... 5
1.1.2. Giá trị dinh dưỡng và giá trị trong nghiên cứu khoa học .................................. 6
1.2. Ánh sáng đèn LED đối với sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng ..... 9
1.2.1. Các thông số ánh sáng và mức độ ảnh hưởng đến cây trồng ............................ 9
1.2.2. Tính ưu việt của việc sử dụng đèn LED (light-emitting diode) cho cây trồng ...... 12
1.2.2.1. Đặc điểm và tính ưu việt của đèn LED so với các nguồn sáng khác khi sử
dụng cho cây trồng .................................................................................................... 12
1.2.2.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế khi sử dụng đèn LED cho cây trồng .................. 14
1.2.3. Những nghiên cứu về sử dụng đèn LED cho cây trồng trên thế giới ............. 16
1.2.3.1. Những nghiên cứu về ánh sáng đèn LED đối với sự nảy mầm của hạt giống
cây trồng .................................................................................................................... 16
1.2.3.2. Những nghiên cứu về ánh sáng đèn LED đối với sinh trưởng, năng suất và
chất lượng cây trồng .................................................................................................. 17
1.2.3.3. Những nghiên cứu về ánh sáng đèn LED đối với điều khiển ra hoa ở
cây trồng ................................................................................................................... 24
iv
1.2.4. Một số nghiên cứu sử dụng đèn LED cho cây trồng ở Việt Nam ................... 26
1.3. Trồng cây bằng kỹ thuật thủy canh ............................................................... 28
1.3.1. Hệ thống thủy canh ......................................................................................... 28
1.3.1.1. Hệ thống thủy canh tĩnh ............................................................................... 29
1.3.1.2. Hệ thống thủy canh động ............................................................................. 30
1.3.2. Ứng dụng kỹ thuật thủy canh trong trồng rau trên thế giới và Việt Nam ....... 32
1.4. Những nghiên cứu về cây cải bó xôi trồng thủy canh và ảnh hưởng của ánh
sáng đến cây cải bó xôi ............................................................................................ 35
1.5. Một số kết luận rút ra sau tổng quan ............................................................. 39
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................... 41
2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu .................................................................... 41
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................... 41
2.1.2. Vật liệu ............................................................................................................ 41
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ................................................................... 42
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................................... 42
2.2.2. Thời gian nghiên cứu ...................................................................................... 42
2.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 42
2.3.1. Bố trí thí nghiệm ............................................................................................. 42
2.3.1.1. Nội dung 1 .................................................................................................... 43
2.3.1.2. Nội dung 2 .................................................................................................... 44
2.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi ........................................................................................ 45
2.3.2.1. Chỉ tiêu sinh trưởng ...................................................................................... 45
2.3.2.2. Chỉ tiêu về khả năng quang hợp ................................................................... 46
2.3.2.3. Chỉ tiêu về giải phẫu .................................................................................... 47
2.3.2.4. Chỉ tiêu về cấu trúc bộ rễ ............................................................................. 48
2.3.2.5. Chỉ tiêu về chất lượng dinh dưỡng ............................................................... 48
2.3.2.6. Chỉ tiêu về các hợp chống oxi hóa ............................................................... 48
2.3.2.7. Các chỉ số vệ sinh an toàn thực phẩm .......................................................... 49
2.3.3. Xử lý số liệu .................................................................................................... 49
v
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ......................................................... 50
3.1. Xác định các thông số kỹ thuật tối ưu trồng cải bó xôi bằng phương pháp
thủy canh hồi lưu ..................................................................................................... 50
3.1.1. Giống ............................................................................................................... 51
3.1.2. Dung dịch dinh dưỡng ..................................................................................... 54
3.1.3. EC dung dịch ................................................................................................... 56
3.1.4. pH dung dịch ................................................................................................... 59
3.1.5. Khoảng cách trồng .......................................................................................... 61
- ........................................................................................... 63
3.1.6. Các chỉ số vệ sinh an toàn thực phẩm ............................................................. 63
3.1.6.1. Hàm lượng NO3
3.1.6.2. Hàm lượng một số kim loại nặng (As, Hg, Cd, Pb) ..................................... 65
3.2. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng khác nhau đến sinh trưởng, năng suất và
phẩm chất của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu66
3.2.1. Sinh trưởng, sinh lý ......................................................................................... 66
3.2.1.1. Thông số tăng trưởng ................................................................................... 66
3.2.1.2. Sắc tố quang hợp .......................................................................................... 68
3.2.1.3. Khả năng quang hợp .................................................................................... 70
3.2.2. Đặc điểm cấu trúc bộ rễ .................................................................................. 74
3.2.3. Đặc điểm cấu trúc lá ........................................................................................ 76
3.2.3.1. Giải phẫu lát cắt ngang lá ............................................................................. 76
3.2.3.2. Đặc điểm của khí khổng ............................................................................... 79
3.2.4. Các yếu tố tạo nên năng suất và năng suất ...................................................... 83
3.2.5. Chất lượng và hàm lượng dinh dưỡng ............................................................ 86
3.2.5.1. Hàm lượng các nguyên tố khoáng................................................................ 86
3.2.5.2. Hàm lượng các chất dinh dưỡng và các chất chống oxi hóa ........................ 87
3.2.6. Các thông số vệ sinh an toàn thực phẩm ......................................................... 96
3.3. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến sinh trưởng, năng suất
và phẩm chất của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh
hồi lưu ....................................................................................................................... 97
vi
3.3.1. Sinh trưởng ...................................................................................................... 97
3.3.2. Sắc tố quang hợp và thông số quang hợp ........................................................ 99
3.3.3. Đặc điểm giải phẫu lá .................................................................................... 103
3.3.4. Đặc điểm của khí khổng ................................................................................ 105
3.3.5. Đặc điểm cấu trúc bộ rễ ................................................................................ 110
3.3.6. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất ................................................ 111
3.3.7. Chất lượng dinh dưỡng ................................................................................. 114
3.3.7.1. Hàm lượng nguyên tố khoáng .................................................................... 114
3.3.7.2. Hàm lượng chất dinh dưỡng ...................................................................... 116
3.3.7.3. Hàm lượng chất chống oxi hóa .................................................................. 119
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ................................................................................... 122
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .................... 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 124
PHỤ LỤC .....................................................................................................................
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Tên đầy đủ
ALS Hỗ trợ nâng cao chất lượng cuộc sống (Advanced Life Support) 1
B Màu xanh lam (Blue) 2
CEA Môi trường nông nghiệp được kiểm soát (Controlled 3 Environment Agriculture)
CT Công thức 4
Đ/C Đối chứng 5
EC Độ dẫn điện (Electical Conductivity) 6
FL Đèn huỳnh quang (Fluorescent Lamps) 7
FR Đỏ xa (Far Red) 8
G Xanh lá cây (Green) 9
HL Đèn halogen (Halogen Lamps) 10
HPS Đèn natri cao áp (Pressure Sodium Lamps) 11
LED Diode phát sáng (Light Emiting Diode) 12
13 MGDG Monogalactosyl diacylglycerol
MH Đèn halogen kim loại (Metal Halide Lamps) 14
NAR Tốc độ đồng hóa chất khô (Net Assimilation Rate) 15
NST Ngày sau trồng 16
PAR Bức xạ hoạt tính quang hợp (Photosynthetically active 17 radiation )
PPFD Mật độ dòng photon hữu hiệu cho quang hợp (Photosynthetic 18 photon flux density)
R Đỏ (Red) 18
RGR Tốc độ sinh trưởng tương đối (Relative Growth Rate) 19
SD Cây ngày ngắn (Short Day Plant) 20
SQDG Sulfoquinovosyl diacylglycerol 21
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần dinh dưỡng có trong 100g rau cải bó xôi ............................ 7
Bảng 3.1. Thời gian từng giai đoạn sinh trưởng của các giống cải bó xôi trên
hệ thống thủy canh hồi lưu .................................................................... 51
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của giống tới sự sinh trưởng của cải bó xôi trên hệ
thống thủy canh hồi lưu (42 NST) ........................................................ 52
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của giống tới yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
của cải bó xôi trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST) ..................... 53
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của các loại dung dịch dinh dưỡng tới sự sinh trưởng
của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi
lưu (42 NST) ......................................................................................... 54
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của các loại dung dịch dinh dưỡng tới yếu tố cấu thành
năng suất và năng suất của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên
hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST) ................................................... 55
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của EC tới sự sinh trưởng của cây cải bó xôi giống
PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST) ....................... 57
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của EC tới yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của
cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu
(42 NST)................................................................................................ 57
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của pH tới sinh trưởng của cây cải bó xôi giống PD512
trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST) ................................... 60
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của pH tới yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của
cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu
(42 NST)................................................................................................ 60
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của khoảng cách trồng tới sự sinh trưởng của cây cải
bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42
NST) ...................................................................................................... 62
ix
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của khoảng cách trồng tới yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống
- tích lũy trong cây cải bó xôi
thủy canh hồi lưu (42 NST) .................................................................. 63
Bảng 3.12. Kết quả phân tích hàm lượng NO3
giống PD512 trồng thủy canh hồi lưu thu hoạch sau thời gian
ngừng cung cấp dinh dưỡng khác nhau ................................................ 64
Bảng 3.13. Kết quả phân tích hàm lượng một số kim loại nặng trong cây cải bó
xôi giống PD512 trồng thủy canh hồi lưu (42 NST) ............................ 65
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng
cường độ PPFD = 190 µmol/m2/s) đến sinh trưởng của cải bó xôi
giống PD512 trồng thủy canh trong nhà (30 NST) ............................... 68
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng
cường độ PPFD = 190 µmol/m2/s) đến hàm lượng sắc tố quang
hợp của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh trong nhà (30
NST) ...................................................................................................... 70
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng
cường độ PPFD = 190 µmol/m2/s) đến khả năng quang hợp của cải
bó xôi giống PD512 trồng thủy canh trong nhà (30 NST) .................... 71
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng
cường độ PPFD = 190 µmol/m2/s) đến đặc điểm cấu trúc bộ rễ của
cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh trong nhà (30 NST) .............. 75
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng
cường độ PPFD = 190 µmol/m2/s) đến cấu trúc giải phẫu của lá cải
bó xôi giống PD512 trồng thủy canh trong nhà (30 NST) .................... 77
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng
(PPFD = 190 µmol/m2/s) đến các yếu tố tạo nên năng suất và năng
suất cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh trong nhà (30 NST) ...... 84
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng
cường độ PPFD = 190 µmol/m2/s) đến hàm lượng các nguyên tố
x
khoáng có trong cải bó xôi giống PD512 trồng canh trong nhà (30
NST) ...................................................................................................... 87
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đèn LED khác nhau đến thông
số sinh trưởng của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự
kết hợp của đèn LED màu đỏ - xanh trong nhà (21 NST) .................... 98
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến hàm lượng sắc
tố quang hợp của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự
kết hợp của ánh sáng đèn LED màu đỏ-xanh (21 NST) ..................... 100
Bảng 3.23. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến khả năng quang
hợp của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp
của đèn LED màu đỏ - xanh trong nhà (21 NST) ............................... 102
Bảng 3.24. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến cấu trúc giải
phẫu của lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết
hợp của đèn LED màu đỏ - xanh lam (21 NST) ................................. 104
Bảng 3.25. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến các tế bào biểu
bì lá của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp
của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST) ........................................ 107
Bảng 3.26. Ảnh hưởng của các cường độ ánh sáng khác nhau đến cấu trúc bộ
rễ của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của
ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST). .............................................. 110
Bảng 3.27. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến năng suất của cải
bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh sáng
đèn LED đỏ - xanh (21 NST)............................................................... 112
Bảng 3.28. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đèn LED khác đến hàm lượng
các nguyên tố khoáng có trong cải bó xôi giống PD512 trồng thủy
canh dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST). ..... 115
xi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Hình thái của cây cải bó xôi .................................................................... 5
Hình 1.2. Phổ hấp thu của chlorophyll và carotenoid ............................................ 10
Hình 1.3. Các phổ bước sóng ánh sáng ................................................................. 11
Hình 1.4. Những khoảng ánh sáng được hấp thụ bởi thực vật .............................. 11
Hình 1.5. Hệ thống thủy canh tĩnh ......................................................................... 30
Hình 1.6. Hệ thống thủy canh hồi lưu ................................................................... 31
Hình 3.1. Các giống cải bó xôi trồng thủy canh trong thí nghiệm (42 NST) ........ 53
Hình 3.2. Giống cải bó xôi PD512 trồng ở các dung dịch dinh dưỡng khác
nhau (42 NST) ....................................................................................... 56
Hình 3.3. Giống cải bó xôi PD512 trồng ở các mức EC dung dịch khác nhau
(42NST) ................................................................................................. 58
Hình 3.4. Giống cải bó xôi PD512 trồng ở các mức pH dung dịch khác nhau
(42 NST) ................................................................................................ 61
Hình 3.5. Giống cải bó xôi PD512 trồng ở các khoảng trồng cách khác nhau
(42 NST) ................................................................................................ 63
Hình 3.6. Động thái tăng trưởng chiều cao cây (A), số lá (B) của cải bó xôi
giống PD512 trồng thủy canh ở các phổ ánh sáng đèn LED khác
nhau (ở cùng PPFD = 190 µmol/m2/s) .................................................. 67
Hình 3.7. Đặc điểm cấu trúc bộ rễ của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy
canh ở các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (cùng PPFD = 190
µmol/m2/s) (30 NST). ............................................................................ 75
Hình 3.8. Cấu trúc giải phẫu lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh ở phổ
ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng cường độ PPFD = 190
µmol/m2/s) (30NST). ............................................................................ 78
Hình 3.9. Hình ảnh lớp biểu bì trên và dưới của lá cải bó xôi giống PD512
trồng thủy canh (ánh sáng vàng, cường độ 190 µmol/m2/s)
(30NST). ................................................................................................ 79
xii
Hình 3.10. Biểu bì trên của lá cải bó xôi giống PD512 ở các phổ ánh sáng khác
nhau (ở cùng 190 µmol/m2/s) (30NST). ................................................ 80
Hình 3.11. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của các phổ ánh sáng khác nhau (ở cùng
cường độ PPDF=190 µmol/m2/s) đến các thông số khí khổng ở lớp
biểu bì trên của lá cải bó xôi giống PD512 (30NST). ........................... 81
Hình 3.12. Biểu bì dưới của lá cải bó xôi giống PD512 ở các phổ ánh sáng khác
nhau (ở cùng cường độ 190 µmol/m2/s) (30NST). ................................ 82
Hình 3.13. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của các phổ ánh sáng khác nhau (ở cùng
cường độ PPDF=190 µmol/m2/s) đến các thông số khí khổng ở lớp
biểu bì dưới của lá cải bó xôi giống PD512 (30NST). .......................... 83
Hình 3.14. Cây cải bó xôi giống PD512 ở các công thức xử lý ánh sáng khác
nhau (ở cùng PPFD =190 µmol/m2/s) (30NST) .................................... 85
Hình 3.15. Hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong cải bó xôi giống PD512
trồng thủy canh ở các phổ ánh sáng khác nhau (ở cùng PPFD = 190
µmol/m2/s) (30 NST). ............................................................................ 88
Hình 3.16. Hàm lượng các chất chống oxi hóa có trong cải bó xôi giống PD512
trồng thủy canh ở các phổ ánh sáng khác nhau (ở cùng PPFD = 190
µmol/m2/s) (30 NST). ............................................................................ 89
Hình 3.17. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến cấu trúc giải phẫu
lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của đèn
LED màu đỏ - xanh lam (21 NST). ..................................................... 103
Hình 3.18. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến đặc điểm lớp tế
bào biểu bì trên ở lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới
sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST). ...................... 108
Hình 3.19. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến đặc điểm lớp tế
bào biểu bì dưới ở lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới
sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST). ...................... 109
xiii
Hình 3.20. Cấu trúc bộ rễ ở các cường độ ánh sáng khác nhau của cải bó xôi
giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn
LED đỏ - xanh (21 NST). .................................................................... 111
Hình 3.21. Hình ảnh cây cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh ở các cường
độ ánh sáng khác nhau dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ -
xanh (21 NST). .................................................................................... 114
Hình 3.22. Biểu đồ hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong cải bó xôi giống
PD512 trồng thủy canh ở các cường độ ánh sáng khác nhau dưới sự
kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST). ........................... 117
Hình 3.23. Biểu đồ hàm lượng các chất chống oxi hóa có trong cải bó xôi giống
PD512 trồng thủy canh ở các cường độ ánh sáng khác nhau dưới sự
kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST). ........................... 120
1 MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nền nông nghiệp với môi trường được kiểm soát hiện đang phát triển một
cách nhanh chóng với mục đích giải quyết vấn đề cung cấp thực phẩm không ổn
định, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và giảm tác động của các hoạt động nông
nghiệp đến môi trường (Miyagi & et al., 2017; Kozai, 2018) [78], [96]. Khả năng
quản lý chính xác các thông số vật lý và hóa học trong các hệ thống trồng cây trong
nhà kính (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, chất dinh dưỡng, v.v.) sẽ giúp kiểm soát năng
suất và nâng cao chất lượng thực vật (Graamans et al., 2018) [55].
Bên cạnh đó, rau xanh là nguồn thực phẩm quan trọng trong việc bổ sung dinh
dưỡng thiết yếu cho con người mỗi ngày. Một số loại rau còn được xem như loại
thực phẩm chức năng, được sử dụng như dược liệu quý giúp tăng cường sức khoẻ
và ngăn ngừa bệnh tật. Rau cải bó xôi (Spinacia oleracea L.) là loại cây được lựa
chọn trồng trong nhà kính và cả trong các hệ thống trồng cây thương mại (plant
factories) vì có chiều cao tương đối nhỏ lại cho phép sản xuất nhiều chu kỳ ngắn
hạn trong năm, lợi nhuận kinh tế nhanh hơn nhiều so với một số loại rau ăn lá khác
(Lu & Shimamura, 2018) [89]. Đây cũng là loại rau cung cấp giá trị dinh dưỡng cao
do có chứa một loại hoạt chất steroid (tên khoa học là phutoecdy) có tác dụng thúc
đẩy sự sản xuất protein trong cơ thể lên tới 20%, nhiều vitamin thiết yếu đối với cơ
thể như: A, K, D, E, khoáng chất Fe, P, Ca… và nguồn axit béo thực vật omega 3
dồi dào (Ko et al., 2014) [75]. Cây cải bó xôi hứa hẹn sẽ mang lại nhiều tiềm năng
trong phát triển sản xuất rau tại Việt Nam.
Từ nhu cầu thực tế đó, việc trồng rau theo hướng mới như: trồng rau không
dùng đất, không cần tưới, không cần sử dụng ánh sáng mặt trời và xây dựng mô
hình sản xuất quy mô khép kín là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Trồng rau thủy canh là
một trong những kỹ thuật sản xuất rau sạch phù hợp vì có khả năng tạo ra những
sản phẩm đồng nhất, chất lượng, sản phẩm sạch, số lượng cây trồng lớn hơn trên
một đơn vị diện tích nên năng suất cao, thu hoạch dễ dàng, tối ưu hóa phân bón,
2 lượng nước sử dụng, cây ít bị sâu bệnh và góp phần giải quyết tốt nhu cầu trồng rau
sạch tại nhà ở thành thị (Tomasi et al., 2015) [149].
Trong khi đó, công nghệ chiếu sáng bằng đèn LED được xem như nguồn
chiếu sáng mới cho kỹ thuật trồng cây trong nhà với những ưu điểm vượt trội như
tuổi thọ cao, kích thước nhỏ, có thể tạo ra các phổ ánh sáng đơn sắc phù hợp cho
cây trồng v.v... Mặt khác, khoảng 90% ánh sáng hấp thụ bởi lá cây thuộc vùng ánh
sáng màu xanh lam hoặc đỏ (Terashima et al, 2009) [147], vì đây là hai vùng ánh
sáng được diệp lục hấp thụ mạnh nhất. Do đó, sự sinh trưởng phát triển của cây bị
ảnh hưởng đáng kể bởi hai vùng ánh sáng này. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ
ra rằng, sự kết hợp giữa ánh sáng đèn LED màu đỏ và màu xanh theo tỷ lệ 1:1 có
thể làm tăng khối lượng tươi và khô ở nhiều loài thực vật như Lilium và cà chua
(Chen et al., 2014) [40]. Không những thế, đèn LED rất phù hợp với các ứng dụng
nghiên cứu (như trong buồng sinh trưởng, cho các ứng dụng nuôi cấy mô). Do đèn
LED là một thiết bị trạng thái rắn nên có thể dễ dàng tích hợp vào các hệ thống điều
khiển kỹ thuật số. Sử dụng đèn LED như một nguồn ánh sáng nhân tạo cho cây
trồng không chỉ để tối ưu hóa chất lượng quang phổ cho các loại cây trồng khác
nhau, các quá trình sinh lý khác nhau mà còn có thể tạo ra một hệ thống chiếu sáng
được điều khiển kỹ thuật số và tiết kiệm năng lượng.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu ảnh
hưởng của ánh sáng đèn LED đến một số chỉ tiêu sinh lý, năng suất và phẩm
chất của cây cải bó xôi (Spinacia oleracea L.) trồng thủy canh”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Xác định ảnh hưởng của chiếu sáng nhân tạo bằng đèn LED đến sinh
trưởng, năng suất và chất lượng của cây cải bó xôi được trồng trên hệ thống thủy
canh hồi lưu.
3
2.2. Mục tiêu cụ thể
Xác định được các thông số kỹ thuật tối ưu cho cây cải bó xôi trồng trên hệ
thống thủy canh hồi lưu (giống, dinh dưỡng, EC, pH, mật độ, thời gian thu hoạch
phù hợp).
Xác định ảnh hưởng của ánh sáng nhân tạo chiếu bằng đèn LED gồm phổ phát
quang và cường độ bức xạ hoạt tính quang hợp (PAR - Photosynthetically Active
Radiation) (sau đây được gọi là cường độ ánh sáng) đến sinh trưởng, năng suất và
phẩm chất của cây cải bó xôi trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu.
3. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của luận án như sau:
3.1. Nghiên cứu các thông số cơ bản cho kỹ thuật trồng cải bó xôi bằng phương
pháp thủy canh hồi lưu.
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng nhân tạo chiếu bằng đèn LED (phổ phát
quang và cường độ ánh sáng) đến sinh trưởng, năng suất và phẩm chất của cây cải
bó xôi trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4.1. Về mặt khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học có giá trị về
đặc điểm sinh lý học thực vật, năng suất và chất lượng của cây cải bó xôi trồng trên
hệ thống thủy canh hồi lưu được chiếu sáng nhân tạo bằng ánh sáng đèn LED.
Luận án là một công trình nghiên cứu khoa học có giá trị làm tài liệu tham
khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về lĩnh vực sinh lý thực vật nói riêng và
ngành nông nghiệp công nghệ cao nói chung.
4.2. Về mặt thực tiễn
Khuyến cáo sử dụng các thông số kỹ thuật tối ưu trồng cây cải bó xôi trên hệ
thống thủy canh hồi lưu (giống F1 PD512, dung dịch dinh dưỡng SH3, pH 6-6,5,
EC = 1200 µS/cm, khoảng cách trồng 15 cm x 12 cm, thời gian thu hoạch sau khi
ngừng cung cấp dinh dưỡng 4 ngày) đạt hiệu quả cao nhất.
Đề xuất được loại đèn LED phù hợp với ánh sáng đỏ - xanh (4R:1B) và cường
độ 190 µmol/m2/s để trồng rau cải bó xôi trên hệ thống thủy canh hồi lưu trong nhà.
4
5. Những đóng góp mới của luận án
5.1. Đã xác định được các thông số tối ưu cho quy trình trồng rau cải bó xôi trên hệ
thống thủy canh hồi lưu về giống, mật độ, dung dịch dinh dưỡng, pH, EC và thời
gian ngừng cung cấp dinh dưỡng trước khi thu hoạch.
5.2. Tìm được phổ ánh sáng nhân tạo của đèn LED phù hợp cho sinh trưởng của cây
cải bó xôi trồng thủy canh cho năng suất cao và chất lượng tốt là ánh sáng đỏ-xanh
lam với tỉ lệ 4R:1B và cường độ bức xạ hoạt tính quang hợp là 190 µmol/m2/s.
6. Cấu trúc luận án
Luận án được cấu trúc làm 6 phần: mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục các
công trình khoa học đã công bố, tài liệu tham khảo và phụ lục. Phần nội dung của
luận án được triển khai thành ba chương như sau:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu (35 trang)
Chương 2: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu (9 trang)
Chương 3: Kết quả và thảo luận (70 trang) với 28 bảng và 23 hình.
5 CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. Cây cải bó xôi và giá trị dinh dưỡng
1.1.1. Đặc điểm sinh học
1.1.1.1. Nguồn gốc
Rau cải bó xôi có tên khác là rau chân vịt, rau pố xôi, bố xôi, rau nhà chùa,
bắp xôi, rau bina. Tên khoa học là Spinacia oleracea L.. Đây là một loài thực vật có
hoa thuộc họ Dền (Amaranthaceae), thuộc lớp Hai lá mầm, có nguồn gốc ở miền
Trung và Tây Nam Á.
1.1.1.2. Phân loại
Phân loại khoa học (USDA, NRCS, 2010)
Giới (Regnum) Plantae
Lớp (Class) Magnoliopsida
Bộ (Ordo) Caryophyllales
Họ (Familia) Amarathanceae
Chi ( Genus) Spinacia
Loài ( Species) Oleracea
1.1.1.3. Hình thái, sinh lý sinh trưởng
* Hình thái, sinh lý sinh trưởng
(B) (C) (A)
Hình 1.1. Hình thái của cây cải bó xôi (A: Cây, B: Hoa ,C: Hạt) (http://www.botany.hawaii.edu/faculty/carr/chenopodi.htm) [174]
6
Cải bó xôi là cây trồng 1 năm, chiều cao khoảng 30 cm, lá hình oval, màu
xanh đậm, cuống nhỏ, các lá chụm lại tại gốc rất nhỏ, cả lá và thân đều giòn, dễ dập
gãy, hoa có màu vàng xanh. Đặc điểm cải này có vị ngọt, tính mát (theo Báo Y
dược Việt Nam 15/5/2017: http://ydvn.net/contents/view/20838.cay-cai-bo-xoi-
spinacia-oleracea.html) [170].
Cải bó xôi là cây rau ở xứ lạnh, ưa khí hậu mát lạnh, chịu được rét, không chịu
nóng. Cây sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 18-200C, sinh trưởng chậm khi nhiệt độ là
100C, cây có thể chịu nhiệt độ thấp -100C.
Cây cần ánh sáng nhẹ trong quá trình phát triển thân lá, ánh sáng quá mạnh
không có lợi cho cây. Cải bó xôi có khả năng chịu bóng râm, vì vậy có thể trồng
xen lẫn với các cây cao khác. Rau cải bó xôi là cây trồng mùa đông thích nghi với
ánh sáng hạn chế là một thuộc tính có giá trị trong điều kiện sử dụng nguồn ánh
sáng nhân tạo với chi phí cao. Hơn nữa, do có lá tương đối phẳng lớn (một đặc tính
hữu ích cho nghiên cứu sinh lý và hóa sinh), cũng như sinh trưởng mạnh, nên đáp
ứng với những thay đổi của điều kiện môi trường (Proietti et al., 2009) [118].
1.1.2. Giá trị dinh dưỡng và giá trị trong nghiên cứu khoa học
Đây là loại rau tốt cho sức khỏe, đồng thời cũng là một vị thuốc. Các khoáng
chất trong rau cải bó xôi giúp kiềm hóa, cân bằng chế độ ăn uống axit cao, nguyên
nhân của bệnh béo phì và các chứng bệnh khác. Các carotenoid được tìm thấy trong
cải bó xôi có tác dụng bảo vệ mắt khỏi các bệnh như đục thủy tinh thể và thoái hóa
điểm vàng… Vitamin K cùng với canxi và magiê có trong cải bó xôi giúp hệ xương
chắc khỏe. Hàm lượng viamin A giúp da khỏe mạnh, duy trì độ ẩm thích hợp.
Vitamin C có trong cải bó xôi hoạt động như một chất chống oxi hóa có thể hòa tan
trong nước, giúp làm giảm nguy cơ gây ra rất nhiều bệnh tật. Do đó, ăn cải bó xôi
có thể giúp chống lại nhiễm trùng và giữ cho hệ thống miễn dịch luôn khỏe mạnh.
Đây cũng là món uống có giá trị dinh dưỡng. Trong rau cải bó xôi có một loại hóa
chất steroid tên khoa học là phutoecdy có tác dụng thúc đẩy sự sản xuất protein tự
nhiên trong cơ thể lên tới 20% [172].
7 Bảng 1.1. Thành phần dinh dưỡng có trong 100g rau cải bó xôi
(USDA, Food Composition Databases)
Giá trị dinh dưỡng 100g khối lượng tươi
Calo 23 kcal
Lipit 0,4 g
Chất xơ 2,2 g
Protein 2,9 g
Đường 0,4 mg
Canxi 99 mg
Magie 79 mg
Kali 558 mg
Natri 79 mg
Sắt 2,7 mg
Cacbonhydrat 3,6 g
Vitamin C 28,1 mg
Vitamin A 9376 IU
Vitamin B6 0,2 mg
Vitamin K 483 mg
Vitamin E 2 mg
(http://ndb.nal.usda.gov/ndb/foods) [171]
Ngoài ra, nghiên cứu ứng dụng của rau cải bó xôi trong điều trị chống ung thư
cũng bước đầu có kết quả nhất định. Chế độ ăn nhiều rau quả được biết là làm giảm
nguy cơ ung thư. Điều này cũng có nghĩa, thực vật ăn được là nguồn tác nhân chống
ung thư tiềm năng. Rau cải bó xôi có khả năng cung cấp vượt trội vitamin K,
vitamin A, mangan, magiê, axit folic, sắt, vitamin C, vitamin B2, kali và nó bao
gồm rất nhiều chất xơ, vitamin B6, vitamin E và axit béo omega-3 rất cần thiết cho
việc duy trì, cải thiện và điều hòa các mô của con người. Hơn thế nữa, rau cải bó xôi
có chứa các chất chống oxi hóa chính của nhóm carotenoid và polyphenol. Rau cải
8 bó xôi chứa hầu hết sulfoquinovosyl diacylglycerol (SQDG) và monogalactosyl
diacylglycerol (MGDG) trong thành phần của glycoglycerolipid. Glycoglycerolipid
trong rau cải bó xôi khi dùng đường uống có thể ức chế sự phát triển tế bào ung thư
của con người và ức chế sự tăng sinh khối u rắn in vivo. Do đó, cải bó xôi là một
loại thực phẩm chức năng có khả năng chống ung thư. Nếu như rau mùi tàu có tổng
lượng glycoglycerolipid lớn nhất (793,3mg/100g khối lượng tươi), ớt ngọt có lượng
glycoglycerolipid nhỏ nhất (61,3 mg/100g khối lượng tươi) (trong số các 11 loại rau
được thử nghiệm) và rau mùi tàu có lượng digalactosyl diacylglycerol (DGDG) lớn
nhất (305,3mg/100g khối lượng tươi) thì trong khi rau cải bó xôi có nhiều MGDG
và SQDG nhất (lần lượt là 480,6 và 52,7 mg/100g khối lượng tươi). Rau cải bó
xôi cũng chứa lượng glycoglycerolipid lớn thứ hai (642,6 mg/100g khối lượng
tươi). Những kết quả này cho thấy, rau cải bó xôi (Spinacia oleracea L.) có thể
là một thực phẩm chức năng có khả năng chống ung thư khá mạnh (Maeda et al.,
2010) [92].
Hơn nữa, rau cải bó xôi là một trong những cây trồng ALS (Advanced Life
Support) của NASA, được chọn để tăng cường sự đa dạng trong chế độ ăn uống cho
các phi hành gia trên Trạm vũ trụ quốc tế, Mặt trăng và các căn cứ sao Hỏa. NASA
quan tâm đến rau cải bó xôi như một loại cây trồng ALS bởi: 1) sản xuất thành phần
chống độc (liên kết canxi), axit oxalic, 2) khả năng sinh sắt khả dụng cao (trong khi
các phi hành đoàn chuyến bay có thể bị giảm số lượng hồng cầu) (Johnson et al.,
1999) [68]. Với đặc tính tăng trưởng thấp và chu kỳ sinh trưởng ngắn (30 ngày),
rau cải bó xôi là một lựa chọn thích hợp trong số các loại rau ăn lá ALS để cung
cấp cho chế độ ăn của phi hành gia như một nguồn rau tươi linh hoạt. Trên quan
điểm thương mại, rau cải bó xôi đang ngày càng có tầm quan trọng kinh tế ở
nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Mỹ, nhất là khi rau cải bó xôi thủy canh đang
trở nên phổ biến rộng rãi. Chuyển giao công nghệ ALS và CEA (Controlled
Environment Agriculture) sang sản xuất thủy canh thương mại loại cây trồng có
thu nhập cao này đang làm cho việc sản xuất rau cải bó xôi quanh năm trở thành
hiện thực khả thi ở Mỹ.
9
Đây cũng là một loại cây rau được sử dụng rộng rãi cho nhu cầu rau xanh của
con người và nó được coi là cây trồng điển hình trong một số nghiên cứu. Rau cải
bó xôi cũng là loại cây trồng có khả năng thích nghi ở điều kiện nhiệt độ thấp do sự
điều chỉnh sâu sắc của quá trình trao đổi chất ở lá. Sự trao đổi chất này bao gồm cả
sự gia tăng các enzyme quang hợp (phụ thuộc ít nhiều vào trạng thái carbohydrate
và đặc điểm của lá) cũng như tăng khả năng thu dọn các dạng oxi hoạt hóa. Bên
cạnh đó là sự liên quan đặc biệt đến việc tăng hàm lượng axit ascorbic trong lục
lạp và rõ rệt hơn ở phiến lá (Schöner & Krause, 1990) [133]. Rau cải bó xôi cũng
đã được dùng làm cây mẫu (the model plant) để nghiên cứu sự thay đổi sinh lý
và chất lượng trong các điều kiện nhiệt độ và ánh sáng khác nhau. Kết quả đã
cho thấy hàm lượng axit ascorbic, nitrate và axit oxalic, có thể bị ảnh hưởng độc
lập bởi các thông số môi trường, chẳng hạn như nhiệt độ không khí hoặc cường
độ ánh sáng (Proietti et al., 2009) [118].
1.2. Ánh sáng đèn LED đối với sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng
1.2.1. Các thông số ánh sáng và mức độ ảnh hưởng đến cây trồng
Cây cần ánh sáng trong suốt cuộc đời của nó từ nảy mầm đến ra hoa và tạo hạt
giống. Ba thông số của ánh sáng nuôi cây được sử dụng trong ngành công nghiệp
nhà kính là: số lượng, chất lượng và thời gian. Tất cả ba thông số có hiệu quả khác
nhau đến cây trồng (Singh et al., 2015) [136]:
- Số lượng ánh sáng (cường độ): Số lượng hoặc cường độ ánh sáng là thông số
chính ảnh hưởng đến quang hợp, phản ứng quang hóa trong lục lạp của tế bào thực
vật. Trong đó, năng lượng ánh sáng được sử dụng để chuyển đổi CO2 trong khí
quyển thành các hợp chất carbohydrate.
- Chất lượng ánh sáng (phân phối quang phổ): Chất lượng ánh sáng dùng để
chỉ sự phân bố quang phổ của bức xạ, chẳng hạn phần bức xạ ở các vùng bước sóng
màu xanh lam, màu xanh lá cây, đỏ hoặc các vùng ánh sáng khác nhìn thấy hoặc
không nhìn thấy. Đối với quang hợp, thực vật phản ứng mạnh với ánh sáng đỏ và
xanh lam. Phân phối quang phổ ánh sáng cũng có ảnh hưởng đến quang phát sinh
hình thái ở thực vật, sinh trưởng phát triển và ra hoa.
10
- Thời gian chiếu sáng-tối (quang chu kỳ): Quang chu kỳ chủ yếu ảnh hưởng
đến ra hoa. Thời gian ra hoa ở thực vật có thể được kiểm soát bằng cách điều khiển
thời gian chiếu sáng.
Cây không hấp thụ tất cả các bước sóng của ánh sáng (bức xạ mặt trời), chúng
chỉ hấp thụ các bước sóng thích hợp theo yêu cầu của nó. Phần quan trọng nhất của
quang phổ ánh sáng trong khoảng 400-700 nm được gọi là bức xạ hoạt động của
quang hợp (PAR-photosynthetically active radiation), phạm vi quang phổ này tương
ứng với khoảng quang phổ nhìn thấy của mắt người (Chen et al., 2014) [40].
Chlorophyll (chlorophyll a và b) đóng một vai trò quan trọng trong quang hợp,
nhưng chúng không chỉ là chromophore. Cây còn có sắc tố quang hợp khác, được
gọi là sắc tố vệ tinh hay sắc tố kèm (ví dụ như carotenoid: β-carotene, zeaxanthin,
lycopene và lutein v.v), chúng tham gia vào sự hấp thụ ánh sáng và đóng một vai trò
quan trọng trong quang hợp tạo nên năng suất cây trồng (Hình 1.2).
Hình 1.2. Phổ hấp thu của chlorophyll và carotenoid
(Nguồn: Chen et al. , 2014) [40]
Phổ bức xạ mặt trời chủ yếu bao gồm ba phần: tia cực tím (UV), ánh sáng nhìn
thấy và tia hồng ngoại (Hình 1.3 và Hình 1.4):
11
Hình 1.3. Các phổ bước sóng ánh sáng
(Nguồn: http://dennangluongmattroigivasolar.blogspot.com/2019/01/nhung-phep-
do-can-biet-khi-su-dung-den-led-nong-nghiep.html) [175]
Hình 1.4. Những khoảng ánh sáng được hấp thụ bởi thực vật
(Phạm vi của các bước sóng được cảm nhận bởi các tế bào cảm quang thực
vật chính: phytochromes, cryptochromes, phototropins và UVR8, cho phép thực vật
thích nghi phát triển dựa vào ánh sáng.
(Nguồn: http://www.biologie.ens.fr/smdgs/spip.php?article57) [176].
- 200-280 nm (tia cực tím C): Đây là phần quang phổ có hại cho cây vì có
độc tính cao. UVC bị chặn bởi tầng ozone trên mặt đất, vì vậy nó không chiếu tới
được bề mặt trái đất.
- 280-315 nm (tia cực tím B): Phần này không phải là rất có hại nhưng khả
năng gây mất mầu ở lá cây.
- 315-380 nm (tia cực tím A): Phần ánh sáng này không có bất kỳ ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực nào đến sinh trưởng ở thực vật.
12
- 380-400 nm (tia cực tím A/ánh sáng nhìn thấy): Bắt đầu quang phổ của ánh
sáng nhìn thấy, bắt đầu quá trình hấp thụ ánh sáng bởi sắc tố thực vật (chlorophyll
và carotenoid).
- 400-520 nm (ánh sáng nhìn thấy): Chứa tia tím, xanh lam và dải màu xanh
lá cây. Đỉnh hấp thụ của chlorophyll xảy ra trong phạm vi này. Nó có ảnh hưởng rất
lớn đến quang hợp và tăng trưởng ở thực vật.
- 520-610 nm (ánh sáng nhìn thấy): Vùng ánh sáng này có chứa dải màu
xanh lá cây, màu vàng và màu da cam. Phạm vi này là ít hấp thụ bởi các sắc tố thực
vật. Nó ít ảnh hưởng đến quang hợp và tăng trưởng thực vật.
- 610-720 nm (ánh sáng nhìn thấy): Chứa dải màu đỏ. Sự hấp thụ phần lớn
xảy ra ở phạm vi này. Dải ánh sáng này ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự sinh trưởng
sinh dưỡng, quang hợp, ra hoa và nở hoa ở thực vật.
- 720-1000 nm (màu đỏ xa/hồng ngoại): Nảy mầm và ra hoa bị ảnh hưởng
bởi phạm vi này mặc dù hấp thụ ít xảy ra ở dải ánh sáng này.
- > 1000 nm (hồng ngoại): Tất cả hấp thụ ở vùng ánh sáng này được chuyển
thành nhiệt.
1.2.2. Tính ưu việt của việc sử dụng đèn LED (light-emitting diode) cho cây trồng
1.2.2.1. Đặc điểm và tính ưu việt của đèn LED so với các nguồn sáng khác khi
sử dụng cho cây trồng
LED là ánh sáng trạng thái rắn, phát ra từ một loại chất bán dẫn, cho phép
kiểm soát thành phần quang phổ và cường độ ánh sáng thích hợp để liên kết với các
bộ phận cảm biến và tiếp nhận ánh sáng của cây. Chính sự hoạt động của các bộ
phận cảm biến này sẽ ảnh hưởng đến hình thái thực vật, các quá trình sinh lý khác
nhau cũng như khả năng ra hoa và hiệu quả của quang hợp, do đó giúp cây tăng
trưởng tốt hơn. LED có khả năng sinh ra các dòng sáng phát quang cao nhưng nhiệt
bức xạ thấp và duy trì hiệu quả của ánh sáng trong nhiều năm, bên cạnh đó đèn
LED có khối lượng nhỏ, độ bền, tuổi thọ dài, thân thiện với môi trường và lượng
photon sản sinh ra tỉ lệ tuyến tính với dòng điện đầu vào (Xu, 2019) [162]. Các
nguồn ánh sáng truyền thống như đèn natri cao áp (pressure sodium lamps-HPS) và
13 đèn halogen kim loại (metal halide lamps-MH)được sử dụng cho trồng trọt không
hiệu quả lắm. Đèn HPS phát ra nhiệt độ cao, lớn hơn hoặc bằng 200oC, dẫn đến tỏa
nhiệt bức xạ đáng kể trực tiếp vào môi trường (Opdam et al., 2004) [106]. Nhiệt
bức xạ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của cây nếu đèn được đặt gần cây.
Đó là lý do tại sao những bóng đèn này luôn được đặt ở một chiều cao nhất định
(lớn hơn 2m). Mặc dù những nguồn này được sử dụng để tăng lượng photon quang
hợp nhưng có bước sóng không cần thiết nằm ngoài quang phổ bức xạ hoạt động
quang hợp và có chất lượng thấp để thúc đẩy tăng trưởng của cây, không những thế
lại tạo ra nhiệt bức xạ cao. Đặc tính sinh nhiệt bức xạ này hạn chế khả năng sử dụng
đèn HPS ở hệ thống nhà kính trong tương lai (Pattison et al., 2018; Nicole et al.,
2019) [103], [115]. Các bóng đèn huỳnh quang phát sáng phải được định kỳ thay
thế và tiêu tốn rất nhiều điện năng, đồng thời tỏa nhiệt ra môi trường bên ngoài
(Tennessen et al., 1994) [146]. Bên cạnh đó, các bóng đèn huỳnh quang có tuổi thọ
khoảng 20.000 giờ trong khi bóng đèn sợi đốt tối đa đạt khoảng 1000 giờ. Những
loại đèn này có vỏ mỏng manh và dễ vỡ, trong khí đó đèn LED không có lớp vỏ
như vậy nên không dễ hỏng và cháy như bóng đèn huỳnh quang. Thông thường, các
đèn LED được biết đến có tuổi thọ khoảng từ 30.000 đến 50.000 giờ và thậm chí
còn hơn thế nữa. Do nhiệt bức xạ sinh ra thấp, đèn LED có thể được đặt gần các cây
và được thiết kế để phát ra lượng ánh sáng lớn, thậm chí với cường độ cao (Xu,
2019) [162].
Thực tế, năng lượng là một yếu tố quan trọng đóng góp khoảng 20-30% tổng
chi phí sản xuất trong ngành công nghiệp nhà kính (Brumfield, 2007) [35]. Tất
nhiên, tỏa nhiệt là một yếu tố làm tăng chi phí đáng kể trong ngành công nghiệp nhà
kính, nhưng nhiệt được tạo ra bởi đèn HPS lại không góp phần đáng kể để giữ ấm
nhà kính cũng như cho sự phát triển tối ưu cây trồng. Do đó, một công nghệ mới
làm giảm đáng kể điện năng tiêu thụ và tạo ra nhiệt bức xạ thấp cho cây trồng, đồng
thời có khả năng duy trì, thậm chí cải thiện giá trị cây trồng (sinh khối và dinh
dưỡng) là mối quan tâm lớn đối với ngành công nghiệp nhà kính. Chính vì vậy, đèn
14 LED ra đời và góp phần đáng kể vào việc giải quyết những hạn chế nêu trên (Bantis
et al., 2016) [29].
Bên cạnh đó, đèn LED cũng phù hợp với các ứng dụng nghiên cứu (ví dụ như
trong buồng sinh trưởng, cho các ứng dụng nuôi cấy mô). Do đèn LED là một thiết
bị trạng thái rắn nên có thể dễ dàng tích hợp vào các hệ thống điều khiển kỹ thuật
số. Trên cơ sở đó, có thể xây dựng các chương trình chiếu sáng phức tạp như cường
độ hoặc thành phần quang phổ khác nhau trong suốt quá trình phát triển của cây
trồng (Nicole et al. , 2019) [103].
Ở Việt Nam có một số lĩnh vực đôi khi bắt buộc phải sử dụng cây nuôi cấy
mô, chẳng hạn như sản xuất cây giống hoa, cây lâm nghiệp. Vấn đề đặt ra là cần
phải có các nguồn sáng chuyên dụng vừa tiết kiệm năng lượng vừa cho kết quả
nhân giống tốt. Song, đèn huỳnh quang sử dụng trong các phòng nuôi cấy mô hiện
nay chỉ phù hợp cho mục đích chiếu sáng thông thường (phổ ánh sáng thích hợp
theo mắt người có bước sóng tập trung trong khoảng 500-600nm), trong khi vùng ánh
sáng đỏ là vùng diệp lục hấp phụ quan trọng nhất cho quang hợp thì rất thiếu. Các đèn
compact cũng thiếu vùng ánh sáng đỏ cho cây. Đèn thủy ngân có tỷ lệ ánh sáng đỏ cao
nhưng hiệu suất thấp. Đèn natri lại thiếu vùng ánh sáng xanh lam, vùng mà diệp lục sử
dụng mạnh. Vì thế, việc chế tạo đèn chỉ phát những tia sáng phù hợp với phổ hấp phụ
của diệp lục sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng ánh sáng của cây và làm giảm năng lượng
chi phí do phát ra ngoài bước sóng mà cây cần [160].
1.2.2.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế khi sử dụng đèn LED cho cây trồng
Đánh giá về hiệu quả kinh tế khi so sánh giữa ánh sáng truyền thống với ánh
sáng LED đã cho thấy, việc sử dụng đèn LED cho phép giảm chi phí sản xuất rau
dài ngày (vài năm), do hiệu quả sử dụng năng lượng cao, chi phí bảo trì thấp và tuổi
thọ cao. Do đó, đèn LED rất có tiềm năng để thay thế cho các nguồn chiếu sáng
hiện tại.
Về hiệu suất, một bóng đèn sợi đốt sẽ chuyển ít hơn 5% năng lượng điện đầu
vào thành ánh sáng, trong khi đèn LED thương mại có hiệu suất được biết đến lớn
15 hơn 50%. Điều này cho thấy tiềm năng hiệu quả sử dụng năng lượng của đèn LED
trong chiếu sáng (Singh et al. , 2015) [136].
Mặc dù, có thể cho rằng đèn LED có những đặc điểm phù hợp cho việc trồng
cây trong nhà kính như: Giảm tiêu thụ năng lượng lên đến 70% so với đèn chiếu
sáng truyền thống, khởi động nhanh chóng và hoạt động ở trạng thái ổn định, các
chức năng điện tử đơn giản, hiệu suất lượng tử tương đối cao; Nhiệt độ ổn định bên
trong buồng tăng trưởng và nhà kính; Cho phép kiểm soát thành phần quang phổ
của các bước sóng màu xanh lam, màu xanh lá cây, đỏ và bước sóng đỏ xa; Giảm
stress nhiệt trên cây trồng; Giảm tưới nước và duy trì độ thông gió; Thời gian sống,
độ an toàn và kích thước nhỏ gọn….. Tuy nhiên, chi phí vốn cao của hệ thống chiếu
sáng LED là một khía cạnh quan trọng liên quan đến những hạn chế khi hình thành
công nghệ LED cho hệ thống ánh sáng nhà kính. Song, phát triển công nghệ và sản
xuất hàng loạt dựa trên nhu cầu cao nói chung và trong ngành công nghiệp nhà kính
nói riêng trong tương lai, dự kiến sẽ làm giảm đáng kể chi phí vốn đầu tư. Một hệ
thống đèn LED được thiết kế đúng cách sẽ mang lại hiệu suất cao và tuổi thọ vượt
xa so với nguồn ánh sáng truyền thống. Nghiên cứu về ánh sáng đèn LED cho sự
phát triển của cây trồng đã được tiến hành trong nhiều năm trở lại đây. Ánh sáng
LED áp dụng với nhiều loại rau đã cho kết quả tốt về năng suất tối đa, chất lượng
dinh dưỡng tối ưu và sẽ là tiền đề cho việc chấp nhận rộng rãi hơn của công nghệ
ánh sáng LED ở hệ thống nhà kính trong tương lai (Singh et al. , 2015) [136].
Một số nghiên cứu đã được tiến hành đánh giá vai trò của đèn LED trong việc
tạo ra các sản phẩm thương mại trong hệ thống nhà kính. Các nhà khoa học tại Đại
học Purdue (Mỹ) đã thử nghiệm việc bổ sung chiếu sáng bằng đèn LED đỏ và xanh
cường độ cao để sản xuất cà chua quanh năm so với bổ sung ánh sáng bằng đèn
HPS truyền thống. Các kết quả cho thấy, những người trồng cà chua trong nhà kính
có thể đạt được cùng một lượng cà chua khi sử dụng đèn LED chỉ tiêu thụ 25%
năng lượng so với đèn truyền thống. Các kết quả tương tự đã được báo cáo cho các
loại cây trồng khác như dưa chuột và rau diếp. Đèn truyền thống (HPS) chỉ chuyển
30% năng lượng thành ánh sáng có thể sử dụng được và 30% bị mất dưới dạng
16 nhiệt, trong khi đèn LED có thể chuyển đổi đến 50% và có thể được tối ưu hóa cho
các bước sóng khác nhau (Kacira, 2011) [69].
Nhu cầu của thị trường đối với việc trồng cây trong nhà kính đã tăng rất nhanh
chóng nhằm đáp ứng các yêu cầu về rau và hoa (đặc biệt là rau, hoa trái vụ). Trên
phạm vi toàn cầu, Trung Quốc có hệ thống trồng cây trong nhà kính cao nhất còn
Tây Ban Nha là nhà sản xuất rau xanh chính ở Châu Âu. Kết quả khảo sát về nghề
làm vườn do Bộ Nông nghiệp Hà Lan đưa ra cho thấy cà chua, dưa chuột, rau xà
lách và rau diếp là những cây trồng quan trọng được sản xuất bởi công nghệ trồng
cây trong nhà kính ở châu Âu. Tại Đức, trong tất cả các ngành công nghiệp nhà
kính đang phát triển, thì cà chua được xem như là cây trồng chính của họ. Các điều
tra kinh tế đã báo cáo rằng 25-35% chi phí sản xuất cho trồng cà chua dành cho chế
độ nhiệt và chiếu sáng. Công nghệ trồng cây trong nhà kính đang tìm kiếm cách tiếp
cận hiệu quả năng lượng mới để giảm chi phí sản xuất và đèn LED có thể cung cấp
giải pháp ánh sáng nhà kính với hiệu quả năng lượng và tuổi thọ cao (Gómez et al.,
2013) [54].
1.2.3. Những nghiên cứu về sử dụng đèn LED cho cây trồng trên thế giới
1.2.3.1. Những nghiên cứu về ánh sáng đèn LED đối với sự nảy mầm của hạt
giống cây trồng
Ánh sáng đèn LED đã được nghiên cứu ứng dụng cho cây trồng ngay cả ở giai
đoạn nảy mầm của hạt giống. Tehrani et al. (2016) đã nghiên cứu ảnh hưởng của
ánh sáng đỏ và xanh lên sự nảy mầm, các đặc điểm giải phẫu và siêu cấu trúc của
lục lạp trong hạt cải dầu (Brassica napus 'Modena'). Hạt cải dầu đã nảy mầm ở 2, 4
và 8h dưới ánh sáng LED khác nhau: ánh sáng trắng (đối chứng), ánh sáng đỏ (638
nm) và ánh sáng xanh (450 nm). Tỷ lệ nảy mầm của hạt dưới ánh sáng đỏ tăng đáng
kể so với đối chứng; tuy nhiên ánh sáng xanh làm giảm đáng kể tỷ lệ nảy mầm của
hạt. Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy chiều dài chồi mầm, sinh khối, đường kính
thân được tăng lên đáng kể khi xử lý ánh sáng xanh lam. Có thể việc xử lý ánh sáng
xanh thúc đẩy quang hợp trong lá và tạo ra sinh khối cây cao hơn so với đối chứng
hoặc xử lý ánh sáng đỏ (Tehrani et al., 2016) [145].
17
Ánh sáng và nhiệt độ là yếu tố quan trọng cho sự nảy mầm và sinh trưởng của
thực vật. Để cải thiện sinh lý của rau diếp dưới nhiệt độ cao, nghiên cứu của Pardo
et al. (2016) đã đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng LED lên sự nảy mầm, chiều dài
thân mầm, khối lượng tươi, khối lượng khô và sắc tố quang hợp (chlorophyll a, b và
carotenoid) của cây rau diếp [100]. Tám cách xử lý ánh sáng kết hợp từ 4 bước sóng
ánh sáng (đỏ, xanh lam, xanh lá cây, trắng) ở 2 tần số (25, 50 Hz) và một công thức
đối chứng đã được nghiên cứu. Sự nảy mầm và sự phát triển của cây con được thực
hiện với thời gian chiếu sáng 12 giờ, nhiệt độ trung bình là 37°C mỗi ngày. Kết quả
cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê cao (p <0,01) ở các công thức xử lý ánh
sáng khác nhau. Ánh sáng đỏ ở tần số 50 Hz có tỉ lệ nảy mầm và chiều dài thân
mầm cao nhất, tăng 8 và 35% tương ứng so với đối chứng; khối lượng khô lớn nhất
thu được với ánh sáng màu xanh và đỏ ở 50 Hz và tăng hơn đối chứng tương ứng là
45 và 28%. Đối với sắc tố quang hợp, công thức xử lý có giá trị cao nhất tương ứng
với ánh sáng màu xanh lam ở 25 và 50 Hz. Kết quả tốt nhất cho các công thức là xử
lý với ánh sáng đỏ với tần số 50 Hz, ngoại trừ các sắc tố quang hợp ở công thức
được kết hợp với ánh sáng màu xanh (Pardo et al., 2016) [110] .
Những nghiên cứu kể trên cho thấy, ánh sáng đèn LED có ảnh hưởng đến giai
đoạn nảy mầm của hạt. Trong đó, ánh sáng đỏ có tác động thúc đẩy tỉ lệ nảy mầm
còn ánh sáng xanh thúc đẩy sinh trưởng của cây mầm.
1.2.3.2. Những nghiên cứu về ánh sáng đèn LED đối với sinh trưởng, năng suất
và chất lượng cây trồng
Không chỉ sử dụng ở ánh sáng đèn LED để tăng cường khả năng nảy mầm của
hạt. Cường độ ánh sáng, phổ phát quang và chu kỳ chiếu sáng rất cần thiết cho sự
phát triển, hình thái học, quá trình trao đổi chất và các phản ứng sinh lý khác nhau
của thực vật (Mitchell et al., 2015; Viršilė et al., 2017; Zhang et al., 2018) [95],
[154], [169].
18 * Nghiên cứu về phổ ánh sáng đèn LED đến sinh trưởng, năng suất và chất
lượng cây trồng:
- Đèn LED ánh sáng đỏ và xanh lam: Các hệ thống đèn LED chiếu sáng bổ
sung của thực vật thường có ba loại: kết hợp màu đỏ và màu xanh lam, tất cả màu
xanh lam, tất cả màu đỏ nên có thể cung cấp các bước sóng ánh sáng đỏ và xanh
lam mà bao trùm phạm vi bước sóng cần thiết cho quá trình quang hợp của cây. Có
hai đỉnh năng lượng trong quang phổ của đèn LED trắng hay được sử dụng là vùng
màu xanh lam có bước sóng 445nm và vùng màu vàng lục 550 nm. Tuy nhiên, dải
sóng 610 ~ 720nm mà thực vật cần tăng trưởng thiếu, khiến hiệu quả bổ sung ánh
sáng rất thấp. Vì tỷ lệ ánh sáng đỏ và ánh sáng xanh của ánh sáng mặt trời là khoảng
6,8: 1 hoặc hơn, trong khi đó để phù hợp đối với rau ăn lá, tỷ lệ này dưới 6,8: 1 (đỏ:
xanh <6,8: 1) và đối với hoa trang trí đặc biệt đối với cây ăn quả, tỷ lệ được phân bổ
lớn hơn 6,8: 1 (Johkan et al., 2012) [67]. Để giải quyết vấn đề này, sự đổi mới tỷ lệ
đỏ và xanh cần được nghiên cứu, tỷ lệ đỏ và xanh có thể được chuyển đổi giữa 4: 1
và 9: 1 nhằm cải thiện hơn nữa hiệu quả của hệ thống chiếu sáng bổ sung bằng đèn
LED (Xu et al., 2016) [163].
Sự thay đổi của quang phổ ánh sáng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các chỉ số
giải phẫu, sinh lý và hình thái của lá. Người ta đã chỉ ra rằng, phổ màu xanh tăng độ
dày của lớp biểu bì và các tế bào mô mềm lá, trong khi đó phổ đỏ giảm độ dày của
lớp biểu bì trên và mô xốp (Macedo et al., 2011) [91]. Mặc dù, ánh sáng đỏ (610-
720 nm) là cần thiết cho sự phát triển bộ máy quang hợp cũng như quá trình quang
hợp, nhưng ánh sáng màu xanh (400-500nm) cũng rất quan trọng cho sự tổng hợp
chlorophyll, lục lạp, sự đóng mở của khí khổng và quá trình quang phát sinh hình
thái. Tuy nhiên, các bước sóng khác nhau của ánh sáng màu đỏ (660, 670, 680 và
690 nm) và màu xanh (430, 440, 460 và 475 nm) có thể có ảnh hưởng không giống
nhau trên cây trồng phụ thuộc vào các loài thực vật (Li et al., 2017) [86].
Không những thế, sự kết hợp ánh sáng LED màu xanh lam và đỏ trong phổ
ánh sáng nhìn thấy đã được chứng minh là hiệu quả cho quang hợp và sự tăng
trưởng bình thường của các loại cây trồng khác nhau (Wang et al., 2016; Viršilė et
19 al. , 2017; Bian et al., 2018) [31], [154], [156]. Li et al. (2017) cũng đã chỉ ra rằng
so với đèn LED trắng, chiều cao và đường kính thân của cây cà chua được tăng
cường đáng kể nhờ sự kết hợp giữa đèn LED đỏ và xanh lam. Ngoài ra, ánh sáng đỏ
đơn sắc làm tăng hàm lượng fructose, glucose. Sự kết hợp của đèn đỏ và xanh lam
tăng cường đáng kể sự tích lũy carbohydrate, tinh bột và sucrose, đặc biệt là công
thức xử lý ánh sáng đỏ xanh với tỉ lệ 3:1. Đây đồng thời cũng là công thức có lượng
sucrose synthase (SS) đạt giá trị cao nhất, theo đó hàm lượng tinh bột cao hơn đáng
kể nên đã cải thiện năng suất và chất lượng của quả cà chua (Li et al., 2017) [86].
Tương tự, ảnh hưởng của đèn LED đơn sắc đỏ, xanh lam và sự kết hợp của chúng
với tỉ lệ 1: 1, 1: 2 và 2: 1 trên cây rau diếp (Lactuca sativa cv) đã được thực hiện
(Ngilah et al., 2018) [102]. Cây con được trồng ở dung dịch Hoagland, EC dao
động từ 1100 đến 1300 µS/cm và pH 6-7. Kết quả thu được cho thấy ánh sáng đơn
sắc đỏ không thích hợp để trồng loại rau này, trong khi phân tích phương sai chỉ ra
rằng cây được trồng dưới ánh sáng xanh có chiều cao cây lớn nhất sau năm tuần thu
hoạch, nhưng những cây này có số lượng lá thấp nhất. Khối lượng tươi cao nhất thu
được với 18 giờ chiếu sáng. Khi kết hợp 18h chiếu sáng với BR hoặc 2BR là tốt
nhất để trồng L. sativa cv (Ngilah et al. , 2018) [102]. Jishi et al. (2016) cũng thu
được kết quả tương tự trên đối tượng cây trồng này khi chuyển đổi các giờ bức xạ
của đèn LED xanh và đỏ (Jishi et al., 2016) [66].
Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng ánh sáng LED có hiệu quả trong
việc điều chỉnh hàm lượng phenylpropanoids, glucosinolates, polyphenol, flavonoid
và một số chất chống oxi hóa trong bắp cải Trung Quốc (Brassica rapa ssp.
Tekinensis) (Kim et al., 2015; Zhang et al., 2015; Lee et al., 2016) [73], [81], [168].
Trong nghiên cứu sử dụng phổ ánh sáng khác nhau (đỏ, xanh và trắng) chiếu bởi
đèn LED để tăng cường hàm lượng AsA (axit L-ascuricic) trong cây bắp cải Trung
Quốc, công thức LED màu xanh với cường độ 125 μmol/m2/s đã làm tăng hàm
lượng AsA lên 40% so với công thức đèn LED ánh sáng trắng. Trong khi đó, ánh
sáng LED màu xanh gây ra biểu hiện của các gen liên quan đến sinh tổng hợp AsA
nhưng làm giảm hàm lượng các gốc oxi hoạt hóa (ROS) (Kang et al., 2019) [70].
20 Trong nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng LED màu đỏ (80%) và xanh lam (20%)
đối với hàm lượng rutin trong lá cà chua. Kết quả cho thấy, rằng đèn LED bổ sung
gây ra sự tích tụ các chất chuyển hóa thứ cấp trong lá cà chua được trồng trong nhà
kính như nồng độ rutin, flavonoids cao hơn ở lá non và một phần ở lá trưởng thành
(Groher et al., 2019) [56]. Trước đó, Jiang et al. (2017) đã quan sát thấy năng suất
quả, hàm lượng chất rắn hòa tan và axit ascobic đều tăng khi ánh sáng LED bổ sung
từ bên dưới và bên trong tán cây cà chua (Jiang et al., 2017) [64].
Sinh trưởng của cây rau là yếu tố quyết định năng suất, chịu tác động mạnh
mẽ bởi ánh sáng, đồng thời hàm lượng các chất dinh dưỡng cũng thay đổi dưới các
chế độ chiếu sáng khác nhau. Nồng độ nitrate trong các bộ phận ăn được của thực
vật là yếu tố rất quan trọng. Nitrate chuyển hóa ở đa số các loài thực vật chịu tác
động của ánh sáng. Wojciechowska et al. (2016) [159] đã nghiên cứu ảnh hưởng
của việc bổ sung ánh sáng đèn LED và HPS cũng như bức xạ mặt trời đến nồng độ
nitrate và sự trao đổi chất ở cây rau xà lách bắp Valerianella locusta
'Nordhollandse' trong 30 và 60 ngày chiếu sáng. Hàm lượng nitrate giảm đáng kể ở
cây rau xà lách bắp được trồng dưới 90% ánh sáng đỏ + 10% ánh sáng LED xanh so
-/kg khối lượng tươi) được quan sát thấy ở ngày chiếu sáng thứ 60. Hoạt động
với các cây được trồng dưới ánh sáng HPS. Mức giảm lớn nhất (khoảng 1600 mg
NO3
của enzyme nitrate reductase (NRA) đã bị ảnh hưởng ở mức độ lớn hơn theo sự
tăng trưởng của thực vật khi xử lý ánh sáng. Trung bình, sau 30 ngày chiếu sáng,
mức độ hoạt động NRA và nitrate trong lá V. locusta cao hơn (khoảng 25% và
40%) so với 60 ngày sau xử lý (Wojciechowska et al., 2016) [159].
- Đèn LED ánh sáng xanh lá cây: Nếu như bước sóng đèn LED màu đỏ và
xanh lam được đặc trưng bởi hiệu quả photon cao nhất thì các bước sóng đèn LED
khác như xanh lá cây, đỏ xa và UV-A có hiệu quả photon thấp hơn đáng kể (Park &
Runkle, 2018) [113]. Ánh sáng xanh lá cây cũng được biết đến là kích thích quang
hợp sâu hơn trong tán cây (Bantis et al., 2018) [30], cải thiện khả năng quang hợp
và sinh trưởng của cây như kéo dài chiều cao thân, tạo chồi nách, tạo những thay
đổi về hình thái, giải phẫu lá (Bantis et al. , 2016; Bian et al. , 2018) [29], [31] tăng
21 cường hoạt động chống oxi hóa, hàm lượng các chất chống oxi hóa (Bian et al. ,
2018; De Keyser et al., 2019) [31], [46] và các hợp chất thơm trong lá (Carvalho et
al., 2016) [36]. Ánh sáng xanh lá cây cũng góp phần thúc đẩy sự sinh trưởng và
phát triển của cây trồng. Novičkovas et al. (2010) đã phát hiện ra rằng đèn LED
xanh lá cây (505 và 530 nm) kết hợp với đèn HPS (high pressure sodium) giúp cây
dưa chuột tăng trưởng tốt hơn. Tuy nhiên, chỉ riêng ánh sáng xanh lá cây không đủ
để hỗ trợ sự phát triển của thực vật bởi vì nó được cây hấp thụ ít nhất, nhưng khi sử
dụng kết hợp với ánh sáng đỏ, xanh lam và đỏ xa chắc chắn sẽ cho thấy một số phản
ứng sinh lý quan trọng. Các thí nghiệm với bước sóng khác nhau của đèn LED xanh
lam, đỏ và xanh lá cây cho phép xác định bước sóng tối ưu đặc hiệu đối với sự phát
triển của cây trồng. Các kết quả nghiên cứu quang phổ ánh sáng có thể được sử
dụng để thiết kế một quang phổ đáp ứng việc sử dụng ánh sáng một cách có hiệu
quả ở các loài thực vật cụ thể (Novičkovas et al., 2010) [104].
- Đèn LED ánh sáng vàng, cam, UV, đỏ xa: Bên cạnh những nghiên cứu kể
trên, ảnh hưởng của ánh sáng màu vàng và màu cam ít được nghiên cứu. Ánh sáng
đèn LED màu vàng bổ sung làm tăng hàm lượng caroten trong cây rau diếp, trong
khi ánh sáng màu cam bổ sung làm tăng hàm lượng các hợp chất phenol (Brazaitytė
et al., 2015) [34]. Một lượng nhỏ ánh sáng UV-A cũng có lợi cho thực vật bởi vì nó
kích thích tăng trưởng và tích lũy anthocyanin và tạo màu sắc ở lá (Wargent, 2016;
Neugart & Schreiner, 2018) [101], [158].
Ánh sáng đèn LED màu xanh lam 455nm, màu đỏ 627 và 660nm và đỏ xa
735nm được bổ sung ánh sáng đèn LED UV-A 380nm, xanh lá cây 510nm, màu
vàng 595nm hoặc màu cam 622nm ở cùng một cường độ 300 µmol/m2/s được sử
dụng để nghiên cứu trên cây rau diếp. Kết quả cho thấy, ánh sáng bổ sung không
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của rau diếp ở cùng một cường độ; tuy nhiên có tác
động rõ rệt đến hàm lượng nitrit, axit amin, axit hữu cơ và hàm lượng đường hòa
tan. Ánh sáng màu cam, xanh lá cây và UV-A có tác dụng khác biệt đối với quá
trình chuyển hóa ở rau diếp lá đỏ, lá xanh và tương tác với giá trị dinh dưỡng, mức
an toàn trong sản xuất rau diếp. Trong đó, ánh sáng xanh có tác động tích cực đến
22 hàm lượng các chất chuyển hóa sơ cấp trong rau diếp lá đỏ và lá xanh (Viršilė et al.,
2019) [153].
Mặt khác theo định nghĩa, bức xạ hoạt động quang hợp (PAR) bao gồm bước
sóng từ 400 đến 700 nm và do đó, ánh sáng hồng ngoại (FR, 700-800 nm) được loại
trừ khi đo và đánh giá mật độ dòng lượng tử quang hợp (PPFD-photosynthetic
photon flux density). Tuy nhiên, tỉ lệ ánh sáng đỏ/đỏ xa điều chỉnh phản ứng hình
thái và phát triển của cây qua trung gian là các phytochrome, thúc đẩy quá trình hấp
thụ bức xạ và quyết định sự sống còn của các cây ưa bóng. Các tác giả cho rằng, FR
trong quang phổ bức xạ sẽ ít có ảnh hưởng đến quá trình quang hợp nhưng sẽ làm
tăng khả năng hấp thụ bức xạ và sự phát triển của cây trồng, đẩy nhanh sự ra hoa
của các loài cây ưa sáng. Ánh sáng FR làm tăng sự phát triển của cây trồng gián tiếp
thông qua việc mở rộng phiến lá và trực tiếp thông qua việc tăng cường mạng lưới
đồng hóa của toàn cây và có thể thúc đẩy sự hình thành hoa ở một số ít loài (Park &
Runkle, 2017) [112] . Điều này cũng tương tự với những nghiên cứu đã chỉ ra trước
đó khi bổ sung ánh sáng màu đỏ (730 nm) với ánh sáng màu đỏ (640 nm) làm tăng
chiều dài lá và tổng sinh khối của rau diếp lá đỏ (Lactua sativa), trong khi khả năng
chống oxi hoá và anthocyanin lại giảm (Stutte et al., 2009) [141].
* Nghiên cứu về cường độ ánh sáng đèn LED đến sinh trưởng, năng suất và chất
lượng cây trồng:
Không chỉ phổ ánh sáng mà cường độ ánh sáng, chu kỳ chiếu sáng đều có tác
động đến sinh trưởng năng suất và chất lượng của cây trồng. Cây rau diếp thủy canh
(Lactuca sativa L. cv. Frill ice) được trồng ở 2 mức cường độ ánh sáng (200 và 250
μmol/m2/s) và hai chu kỳ chiếu sáng (14 và 16 giờ/ngày) dưới ba phổ ánh sáng đèn
LED với tỉ lệ đỏ/xanh (tỉ lệ R: B) là 1:2; 2:2 và đèn huỳnh quang có tỉ lệ R: B là 1:8
(đối chứng). Kết quả cho thấy, khối lượng tươi của lá và rễ của rau diếp cao hơn ở
những cây được trồng ở mức 200 μmol/m2/s với chu kỳ chiếu sáng 16 giờ/ngày bất
kể phổ ánh sáng nào ở giai đoạn cây con. Nói chung, hàm lượng vitamin C của rau
diếp trồng dưới đèn LED với tỉ lệ R/B=1/2 là thấp và không có sự khác biệt đáng kể
nào về hàm lượng nitrate giữa ba nguồn chiếu sáng. Xét về năng suất, chất lượng,
23 hiệu quả chiếu sáng và mức tiêu thụ điện giữa các nguồn chiếu sáng, cường độ 200
μmol/m2/s với chu kỳ chiếu sáng 16 giờ/ngày được cung cấp bởi đèn LED với tỉ lệ
R/B=2/2 phù hợp với sản xuất cây rau diếp thủy canh (Yan et al., 2019) [164].
Nghiên cứu khác trên cây cải dầu (Brassica napus L.) dưới ánh sáng đèn LED
đỏ (630 và 660nm) có bổ sung ánh sáng xanh (445nm) ở các cường đường độ khác
nhau từ 200µmol/m2s, 300µmol/m2s và 400µmol/m2s đã chỉ ra có ảnh hưởng khác
nhau đến sinh trưởng (chiều dài rễ, chiều cao cây, diện tích lá, khối lượng khô) cũng
như các yếu tố liên quan trực tiếp đến quá trình quang hợp (độ dẫn khí khổng, hàm
lượng CO2 trong các khoảng gian bào, cường độ thoát hơi nước). Cường độ ánh
sáng 300µmol/m2s được cho là có hiệu quả nhất cho sinh trưởng của cây cải dầu
trong các cường độ được nghiên cứu (Yao et al., 2017) [165].
Ngoài ra, để điều chỉnh theo chế độ ánh sáng khác nhau của môi trường, thực
vật đã phát triển nhiều cơ chế, bao gồm cả thay đổi hình thái và sinh lý ở các mức
độ khác nhau của lá. Mức độ ánh sáng thấp có thể dẫn đến tăng diện tích lá đặc
trưng (specific leaf area-SLA) và chiều cao cây. Những sự thích ứng này nhằm tối
đa hóa khả năng hấp thụ ánh sáng sẵn có, đáp ứng nhu cầu quang hợp (Macedo et
al., 2011) [91]. Trong khi, cường độ bức xạ cao có liên quan đến nhiều đặc tính
hình thái sinh lý phù hợp với điều kiện môi trường, như giảm diện diện tích lá đặc
trưng (SLA) để bảo vệ cây trồng khỏi bị bức xạ cao; tăng độ dày của lá do tăng số
lượng các lớp tế bào hoặc lớp tế bào mô giậu và mô xốp phát triển mạnh. Sự biến
đổi này giúp ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ những tổn thương do sự chiếu sáng quá mức
bởi năng lượng ánh sáng, đảm bảo quá trình quang hợp diễn ra thuận lợi (Fan et al.,
2013) [51].
Những kết quả trên cho thấy, cây có thể hoàn thành chu trình sống của nó dưới
ánh sáng đèn LED màu đỏ, màu xanh riêng lẻ, nhưng cây sinh trưởng tốt hơn khi sử
dụng bổ sung ánh sáng đèn LED đỏ với một tỉ lệ nhất định ánh sáng màu xanh lam.
Đa số các phổ ánh sáng được nghiên cứu như xanh lam, đỏ, vàng, cam, xanh lá cây,
đỏ xa, UV-A… đều có tác động đến cây trồng. Đồng thời, sự đáp ứng của cây trồng
(sự sinh trưởng, hàm lượng các chất dinh dưỡng, các chất chuyển hóa thứ cấp) đối
24 với phổ ánh sáng của các loài khác nhau là khác nhau. Bên cạnh đó, cường độ ánh
sáng và thời gian chiếu sáng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định đến
năng suất và chất lượng cây trồng. Trong đó, các cây trồng khác nhau sinh trưởng
tối ưu ở một ngưỡng cường độ thích hợp.
1.2.3.3. Những nghiên cứu về ánh sáng đèn LED đối với điều khiển ra hoa ở
cây trồng
Những nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng, sử dụng quang gián đoạn (night
interruption - NI) để điều khiển ra hoa của cây trồng có hiệu quả tích cực, như
nghiên cứu của Curry and Ervin (2010) với các loài Kalanchoe. Kết quả cho
thấy các loài Kalanchoe ra hoa với chu kì chiếu sáng trong ngày từ 9 đến 12
giờ, số lượng hoa giảm khi tăng thời gian chiếu sáng trong ngày từ 12 đến 14
giờ và các loài này đã không hình thành hoa khi sinh trưởng trong điều kiện chu
kỳ chiếu sáng 15 giờ (Currey & Erwin, 2010) [45].
Nghiên cứu của Shin et al. (2010) cũng cho thấy trên cây hoa tai thỏ ('Sierra
Scarlet' cyclamens) được trồng dưới quang gián đoạn (NI) (4h) bởi đèn LED đỏ, đỏ
xa, xanh lam, đỏ kết hợp với đỏ xa và đèn huỳnh quang trong nhà kính. Trong các
thí nghiệm, nhiệt độ ban đêm trung bình được duy trì ở mức trên 16oC. Quang chu
kỳ được cài đặt hoàn toàn tự động (9/15h, ngày/đêm). Quang gián đoạn được cung
cấp bởi đèn có cường độ bức xạ quang hợp như nhau là 4 ± 1 µmol/m2/s. Quang
gián đoạn với tất cả các nguồn ánh sáng thúc đẩy sự hình thành hoa và ra hoa so với
điều kiện ngắn ngày (SD) không được xử lý. NI với đèn LED xanh lam + đỏ phát
huy hiệu quả nhất trong số tất cả các nguồn sáng LED được nghiên cứu. Chiều dài
cuống lá dài hơn khi cây bị xử lý NI với đèn LED màu đỏ xa, chứng tỏ NI với đèn
LED màu đỏ xa đã làm giảm sự phát triển sinh dưỡng so với các nguồn ánh sáng
khác (Shin et al., 2010) [135].
Nghiên cứu khác của Park et al. (2017) cũng cho thấy Ảnh hưởng của các phổ
ánh sáng khác nhau trong quá trình quang gián đoạn đối với hình thái học, ra hoa
và gen phiên mã các cảm thụ quang ở cây phong lữ Pelargonium × hortorum L.H.
Bailey ‘Ringo 2000 Violet’ (là cây trung tính). Cây được trồng trong buồng sinh
25 trưởng với cường độ ánh sáng không đổi 180 µmol/m2/s. Ánh sáng được cung cấp
bởi đèn LED trắng (W) để tạo ra ngày dài (LD, 16h sáng/8h tối), ngày ngắn (SD,
10h sáng/14h tối), hoặc SD với 4h quang gián đoạn vào ban đêm. Việc thực hiện
quang gián đoạn (NI) cũng được thực hiện bởi các đèn LED màu xanh lá cây (NI-
G), xanh lam (NI-B), đỏ (NI-R), màu đỏ xa (NI-Fr) hoặc trắng (NI-W) với cường
độ giảm đáng kể là 10 µmol/m2/s (chỉ 5,5% cường độ của nguồn sáng chính). Chiều
cao cây lớn nhất ở công thức NI-Fr. Phần trăm nở hoa không bị ảnh hưởng bởi phổ
ánh sáng trong NI và tất cả các cây đều nở hoa ở mọi công thức xử lý. Trong các
công thức xử lý NI, ngày xuất hiện nụ tăng ở công thức NI-Fr. Tất cả các gen mã
hóa photoreceptors ngoại trừ phyB và FTL được biểu hiện cao trong điều kiện LD
bình thường. Khi xử lý NI với những phổ ánh sáng khác nhau, những gen mã hóa
photoreceptors này được biểu hiện ở mức cao hơn, ngoại trừ ở công thức NI-B so
với SD. Những kết quả này cho thấy rằng sự phát sinh hình thái, ra hoa và sự biểu
hiện của gen mã hóa photoreceptors bị ảnh hưởng bởi phổ ánh sáng khi xử lý NI
(Park et al., 2017) [114].
Bên cạnh đó, Park et al. (2016) cũng đã nghiên cứu về ảnh hưởng của nguồn
ánh sáng nhân tạo với phổ ánh sáng khác nhau đến sinh trưởng và đặc điểm ra hoa
của cây dạ yến thảo “Madness Rose”. Các đèn được sử dụng gồm: đèn huỳnh
quang dạng ống và dạng bóng (FL ống và FL bóng đèn), đèn LED dạng ống màu
trắng (LED ống), đèn halogen (HL), đèn halogen kim loại (MH) và đèn natri cao áp
(HPS) trong 10 tuần. Nhiệt độ, quang chu kỳ và mật độ photon quang hợp (PPFD)
trong phytotron lần lượt là 22 ± 2oC, 16h và 25 ± 2 µmol/m2/s. Các nguồn ánh sáng
kết hợp với HL thúc đẩy sự kéo dài của thân, chiều cao của cây và chiều dài lóng
giảm xuống khi tỉ lệ màu đỏ : đỏ xa (R: FR) tăng lên. Ngày nở hoa (từ dài nhất đến
ngắn nhất) xảy ra như sau: FL ống + HL> MH> HPS = FL ống + FL bóng đèn > FL
ống + LED ống> LED ống> FL ống. Kết quả đã cho thấy tỉ lệ R: FR của các nguồn
ánh sáng giảm đã thúc đẩy ra hoa. Chỉ có 20% cây được trồng dưới FL dạng ống ra
hoa, trong khi dưới tất cả các công thức xử lý khác 100% cây trồng nở hoa (Park et
al., 2016) [111].
26
Như vậy, sử dụng đèn LED để thực hiện quang gián đoạn với cây ngày ngắn
hoặc cây trung tính có tác dụng kìm hãm sự ra hoa hoặc kéo dài thời gian ra hoa của
chúng. Với cây ngày dài, trồng trong điều kiện ngày ngắn, rồi thực hiện quang gián
đoạn thì chúng sẽ ra hoa. Thời gian thực hiện quang gián đoạn, cường độ ánh sáng
sử dụng cho quang gián đoạn với mỗi loại cây trồng khác nhau là khác nhau. Phổ
ánh sáng lá yếu tố quang trọng hơn hết quyết định đến hiệu quả thành công của việc
điều khiển ra hoa bằng quang gián đoạn. Hai phổ ánh sáng là đỏ và đỏ xa ở khoảng
660 nm và 730 nm được sử dụng chủ yếu hoặc có thể sử dụng kết hợp với phổ ánh
sáng khác để nâng cao hiệu quả quá trình điều khiển ra hoa cho cây trồng.
1.2.4. Một số nghiên cứu sử dụng đèn LED cho cây trồng ở Việt Nam
Ở Việt Nam bước đầu đã có những nghiên cứu về ứng dụng của đèn LED
trong nông nghiêp, như nghiên cứu của Phan Ngọc Nhí & cs. (2016) về ảnh hưởng
của các loại đèn LED và thời gian chiếu sáng đến sự sinh trưởng và năng suất xà
lách GN 63 trồng thủy canh. Kết quả cho thấy, tổ hợp của công thức 2 LED tím (80
μmol/m2/s) ở công thức 20/4 (20 giờ chiếu sáng/4 giờ tối) cho sinh trưởng và năng
suất xà lách thương phẩm cao hơn các tổ hợp còn lại (0,90 kg/m2), ngoại trừ tổ hợp
3 LED trắng – 24/0, nhưng lại là công thức có chiều cao lớn nhất. Ngoài ra, tổ hợp
của công thức 3 LED tím với các mức thời gian chiếu sáng 24/0 và 20/4 cho kết quả
về độ Brix xà lách cao nhất (lần lượt là 3,25 và 3,20%) (Phan Ngọc Nhí & cs.,
2016) [7]. Những nghiên cứu mới đây của nhóm tác giả Nguyễn Thị Thủy & cs.
(2019) [13] về ảnh hưởng của ba phổ ánh sáng đèn LED khác nhau trắng, vàng và
tím đến sinh trưởng, năng suất của rau xà lách (Lactuca sativa) và rau cải bẹ
(Brassica juncea) cũng cho kết quả tương tự. Ánh sáng tím với cường độ 190
μmol/m2/s có ảnh hưởng tốt nhất đến sinh trưởng, năng suất của rau xà lách (tăng
33%) và rau cải bẹ trên hệ thống thủy canh hồi lưu trồng trong nhà, tăng lần lượt là
33% và 35% so với ánh sáng trắng (Nguyễn Thị Thủy & cs., 2019) [13].
Nghiên cứu của Nguyễn Khắc Hưng & cs. (2016) cho thấy đèn LED có tỉ lệ
ánh sáng đỏ (R) và xanh lam (B) phù hợp cho sự sinh trưởng của chồi và rễ cây sâm
dây trong điều kiện in vitro là R/B = 80/20. Ngoài ra, hàm lượng các sắc tố quang
27 hợp cũng như khối lượng chất khô tích lũy ở các chồi sinh trưởng dưới đèn LED
(R+B) đều cao hơn ánh sáng huỳnh quang trắng (Nguyễn Khắc Hưng & cs., 2016)
[4]. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu khác trên cây hông (paulownia) in vitro
cũng với tỉ lệ ánh sáng đó. Vì vậy, sinh trưởng và phát triển chồi là tốt nhất (chiều
cao thân chồi 44,3 cm, có 6,6 rễ, trọng lượng tươi 0,64 g/chồi và hàm lượng
chlorophyll đạt 4,397 mg/ml) (Nguyễn Đức Minh Hùng & cs., 2016) [3].
Nghiên cứu với mục đích khảo sát khả năng ứng dụng đèn LED trong nuôi cấy
in vitro cây cà phê vối năng suất cao giống TR11 đã được thực hiện. Sau 6 tháng
nuôi cấy, các mảnh lá nuôi cấy dưới các điều kiện ánh sáng khác nhau đều phát sinh
mô sẹo. Tuy nhiên, các mẫu lá nuôi cấy dưới điều kiện ánh sáng LED 4 (41%R:
21%B: 38%W) cho tỉ lệ tạo mô sẹo có khả năng phát sinh phôi cao nhất (81,48%
tổng số mẫu mô sẹo). Các ánh sáng LED nhìn chung cho tỉ lệ nảy mầm của phôi
soma cao hơn cũng như thời gian nảy mầm ngắn hơn so với ánh sáng đối chứng. Có
95% số phôi nảy mầm ở ánh sáng LED 2 (58%R: 21%B: 21%W) sau 20 ngày nuôi
cấy và chỉ 83,22% số phôi nảy mầm sau 30 ngày sinh trưởng dưới ánh sáng trắng.
Mặc dù ánh sáng LED gây bất lợi đến giai đoạn phát triển từ cây mầm thành cây
hoàn chỉnh, tuy nhiên, kết quả theo dõi ở điều kiện nhà lưới cho thấy các cây nuôi
cấy dưới đèn LED vẫn có khả năng sinh trưởng tốt sau 2 tháng ra cây (Nguyễn Thị
Mai & cs., 2016) [6].
Nguyễn Quang Thạch & cs. (2017) đã tìm hiểu ứng dụng đèn LED chiếu sáng
quang gián đoạn để ngăn cản sự ra hoa của cây tía tô xanh Hàn Quốc trồng trong
điều kiện ngày ngắn (vụ đông ở Việt Nam). Bởi vì, ra hoa sớm là hiện tượng không
mong muốn ở loài cây này vì làm giảm năng suất của cây. Thời gian chiếu sáng liên
tục trong ngày (14 giờ chiếu sáng) hoặc chiếu sáng liên tục trong ngày 10 giờ và
chiếu 1 giờ giữa đêm (quang gián đoạn) thích hợp nhất cho sự sinh trưởng, phát
triển, năng suất và kìm hãm sự ra hoa của cây rau tía tô xanh Hàn Quốc (Nguyễn
Quang Thạch & cs., 2017) [12].
Những nghiên cứu mới đây của Nguyễn Thị Thanh Phương & cs. (2019) về sử
dụng đèn LED W+R7W chiếu sáng bổ sung cho giống cúc Vàng đông với thời
28 lượng 4h, 6h, 8h có tác dụng kìm hãm sự hình thành nụ, kích thích sự sinh trưởng
và cho chất lượng cành hoa tốt hơn đèn đối chứng và các đèn LED khác. Trong đó,
thời gian chiếu 4h đã có tác động đến sinh trưởng, phát triển cành hoa cúc tương
đương với tác động của đèn đối chứng Compact CFL 20W chiếu trong 8h. Sử dụng
đèn LED W+R7W 4h, 6h, 8h chiếu sáng bổ sung điều khiển ra hoa cho cây hoa
cúc cho khả năng tiết kiệm điện 65 – 97,5% điện năng tiêu thụ so với sử dụng
đèn đối chứng Compact CFL 20W chiếu trong 8h (Nguyễn Thị Thanh Phương &
cs., 2019) [8].
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Vũ Thị Hằng & cs. (2019) đã xác định được ảnh
hưởng các loại ánh sáng đèn LED đỏ và thời gian ngắt đêm (night break – NB)
thích hợp đến sự ức chế ra hoa cây cỏ ngọt. Bởi cây cỏ ngọt là cây dễ dàng ra hoa
khi gặp điều kiện ngày ngắn. Khi ra hoa sự sinh trưởng thân lá bị hạn chế gây khó
khăn cho việc sản xuất sinh khối và tạo ngọn cắt cho giâm cành. Xử lý ngắt đêm với
các ánh sáng đỏ có bước sóng khác nhau (630nm, 660nm, 730 nm) với thời lượng 3
giờ (từ 0h đến 3h) đều ức chế sự ra hoa của cây cỏ ngọt, trong khi ở công thức
không ngắt đêm (ĐC) cây ra hoa 100%. Trong đó, ánh sáng đỏ 660nm cho hiệu quả
tối ưu vừa ức chế ra hoa vừa kích thích sự sinh trưởng thân lá, tạo nhiều cành giâm
phục vụ cho nhân giống (Vũ Thị Hằng & cs., 2019) [2].
Những kết quả trên đây cũng cho thấy, ở Việt Nam cũng đang từng bước vận
dụng sự phát triển của khoa học kỹ thuật để phát triển một lĩnh vực nông nghiệp
công nghệ cao với nhiều triển vọng lớn.
1.3. Trồng cây bằng kỹ thuật thủy canh
1.3.1. Hệ thống thủy canh
Hệ thống thủy canh được coi như kỹ thuật canh tác mới có sử dụng các giải
pháp dinh dưỡng không dùng đất và được thay thế bằng các giá thể nhân tạo như:
xốp, sỏi, đá cuội, cát, mùn cưa, than bùn, xơ dừa, perlite, vỏ đậu phộng, thảm
polyester hoặc vermiculite nhưng phải cung cấp oxi, nước, chất dinh dưỡng và hỗ
trợ cho rễ cây phát triển như khi trồng trên đất (Resh, 2016) [125].
Giảm diện tích đất trồng trọt, dân số tăng lên cùng với việc tăng nhu cầu về
thực phẩm và những tiến bộ công nghệ, tăng đầu tư nghiên cứu, phát triển, nâng cao
29 việc áp dụng canh tác theo chiều dọc đang thúc đẩy tăng trưởng thị trường trồng cây
thủy canh. Theo dự báo, giá trị sản phẩm từ sản xuất thủy canh toàn cầu dự kiến sẽ
tăng từ 226,45 triệu đô la trong năm 2016 để đạt 724,87 triệu đô la vào năm 2023
("Hydroponics - Global Market Outlook (2017-2023)) [173].
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, kỹ thuật thủy canh hiện đã có rất
nhiều cải tiến, với nhiều hình thức khác nhau, trong đó có 2 kiểu hệ thống thuỷ canh
chính là hệ thống thủy canh tĩnh và hệ thống thủy canh động. Hệ thống thủy canh
động lại được chia làm 2 loại: Hệ thống thủy canh mở và hệ thống thủy canh kín.
Từ các đặc điểm của 2 hệ thống thủy canh trên hiện nay đã phát triển thành 7 loại
thủy canh khác nhau (El-Kazzaz & El-Kazzaz, 2017; Sambo et al., 2019) [50],
[130]. Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng, điều kiện địa hình kinh tế mà các hệ thống
được sử dụng thích hợp: Hệ thống dạng bấc (Wick system); Hệ thống thủy canh
tĩnh (water culture system); Hệ thống ngập và rút định kỳ (Ebb & Flow system); Hệ
thống nhỏ giọt (Drip systems); Hệ thống “màng dinh dưỡng” N.F.T (Nutrient Film
Technique); Aquaponics; Khí canh (Aeroponics).
Những năm gần đây, phương pháp này vẫn tiếp tục được nghiên cứu hoàn
thiện và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Đây là một phương pháp hiện đại trong
canh tác và hứa hẹn sẽ có nhiều đóng góp quý giá cho nền nông nghiệp Việt Nam.
1.3.1.1. Hệ thống thủy canh tĩnh
Đây là hệ thống thủy canh mà trong qua trình sử dụng để trồng cây, dung dịch
dinh dưỡng không chuyển động. Rễ cây được nhúng một phần hay hoàn toàn trong
dung dịch dinh dưỡng. Hệ thống này có ưu điểm là chi phí đầu tư thấp vì không cần
hệ thống làm chuyển động dung dịch nhưng nhược điểm là thường thiếu oxi trong
dung dịch và pH dung dịch dinh dưỡng dễ bị axit gây ngộ độc cho cây.
30
Hình 1.5. Hệ thống thủy canh tĩnh
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org)
1.3.1.2. Hệ thống thủy canh động
Là hệ thống thủy canh mà trong quá trình trồng cây, dung dịch dinh dưỡng có
thể chuyển động nên chi phí cao, nhưng dung dịch dinh dưỡng không thiếu oxi. Hệ
thống này được chia làm hai loại:
* Hệ thống thủy canh mở: là hệ thống thủy canh động mà trong đó dung
dịch dinh dưỡng không có sự tuần hoàn trở lại nên gây lãng phí dung dịch. Tuy
nhiên hệ thống này không phải đầu tư hệ thống để bơm dung dịch dinh dưỡng
tuần hoàn trở lại.
* Hệ thống thủy canh kín: là hệ thống thủy canh động mà trong đó dung dịch
dinh dưỡng có sự tuần hoàn trở lại nhờ một hệ thống bơm hút dung dịch dưỡng từ
bể chứa thấp đưa lên hệ thống máng trồng cây. Mặc dù chi phí cao hơn nhưng dung
dịch không bị thiếu O2 và tiết kiệm được dung dịch dinh dưỡng. Hơn nữa, có thể
chủ động điều chỉnh dinh dưỡng cho cây trồng thông qua việc cung cấp các chất cần
thiết cho từng giai đoạn trong quá trình sinh trưởng, phát triển theo yêu cầu của cây.
Bên cạnh đó, có thể loại bỏ các chất gây hại cho cây và không có các chất tồn dư từ
vụ trước. Hệ thống này cũng dễ thanh trùng và kiểm soát dịch bệnh. Điều quan
trọng hơn cả là hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và điều chỉnh được hàm
lượng dinh dưỡng nên sẽ tạo ra sản phẩm rất an toàn đối với người sử dụng. Nhờ
vậy đã nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng do kiểm soát được các chất dinh
31 dưỡng cây trồng hấp thụ. Năng suất cây trồng trong dung dịch có thể cao hơn so
với cây trồng ngoài đất từ 25-500% do có thể được trồng liên lục (Raviv et al.,
2019) [124].
Hệ thống thủy canh hồi lưu là một hệ thống trồng cây trong dung dịch có đặc
trưng chỉ dùng một dòng dung dịch rất nông, nhờ đó cây non ở trong chậu ươm có
thể đứng trong máng và rễ cây nhanh chóng mọc vào trong dung dịch, hơn nữa tỉ
lệ cao giữa diện tích bề mặt đối với khối lượng dung dịch nên cho phép thông
khí tốt. Do hệ thống này chỉ dùng một lớp dung dịch nông nên không cần đến
những luống trồng sâu và nặng; vì thế dễ thay đổi cách xếp đặt khi cần thiết và
giảm chi phí sản xuất.
Hiện nay, trồng rau thủy canh hồi lưu là một trong những phương thức thủy
canh phổ biến nhất. Phương pháp trồng rau này có thể áp dụng cho mọi mô hình
trồng rau khác nhau, từ mô hình nhỏ lẻ của các hộ gia đình đến mô hình trang trại
với quy mô rộng lớn. Theo nghiên cứu và thông qua quá trình thực nghiệm, phương
pháp trồng rau thủy canh hồi lưu cho năng suất cao hơn so với phương pháp thủy
Bể chứa môi trường dinh dưỡng
canh tĩnh.
Hình 1.6. Hệ thống thủy canh hồi lưu
(nguồn http://hydroponics.vn)
Một hệ thống thủy canh tuần hoàn cơ bản bao gồm: Một bể hứng chứa dung
dịch dinh dưỡng; một máy bơm tiếp dung dịch dinh dưỡng; những máng song song
32 trong đó có trồng cây; một ống hứng (hồi lưu) để các máng thải dung dịch vào đó và
dẫn dung dịch về bể hứng; bộ phận theo dõi và kiểm tra nồng độ chất dinh dưỡng;
pH và mức nước của dung dịch dinh dưỡng để kịp thời điều chỉnh chúng cho phù
hợp. Dung dịch dinh dưỡng thủy canh sẽ được bơm đều từ bể chứa dung dịch đi
khắp các ống thủy canh. Phần dư còn lại sẽ được luân chuyển về bể chứa ban đầu.
Quá trình này được diễn ra liên tục nên được gọi là thủy canh hồi lưu. Thêm vào đó,
-) trong rau
kỹ thuật trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng hồi lưu cho phép điều chỉnh lượng
nitơ phù hợp trong dung dịch dinh dưỡng để hàm lượng nitrat (NO3
không vượt quá mức cho phép (Resh, 2016) [125].
Ngày nay, các hệ thống trồng cây trong dung dịch tiến tiến đã được vi tính
hoá, tự động hoá hoàn toàn để điều chỉnh độ pH, độ dẫn điện (EC); đo và điều chỉnh
nồng độ dung dịch dinh dưỡng, độ thông khí cũng như cung cấp oxi cho rễ cây. Các
hệ thống trồng cây này phần lớn được áp dụng để sản xuất sản phẩm an toàn ở các
nước có nền kinh tế phát triển và công nghiệp hiện đại.
Bên cạnh đó, hệ thống này còn tồn tại một số những hạn chế như: phức tạp và
khó triển khai vào sản xuất đối với các nước kém phát triển cũng như các nước đang
phát triển do đầu từ cao cho hệ thống bơm tuần hoàn dung dịch để đảm bảo oxi cho
rễ cây, điều chỉnh pH, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong dung dịch và có khả
năng bệnh lây lan từ cây này sang cây khác nhanh khi trong hệ thống xuất hiện một
cây bị bệnh (Vũ Quang Sáng & cs., 2015; Resh, 2016) [11], [125].
Với những đặc tính ưu việt vượt trội, hệ thống thủy canh nói chung và thủy
canh hồi lưu nói riêng đang ngày càng phát triển phù hợp với nhu cầu thúc đẩy trình
độ sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao.
1.3.2. Ứng dụng kỹ thuật thủy canh trong trồng rau trên thế giới và Việt Nam
Trên thế giới, việc sử dụng dung dịch hữu cơ trong thủy canh là phương pháp
đã được áp dụng nhằm nâng cao chất lượng rau trồng thủy canh. Nghiên cứu tìm
hiểu tính khả thi của việc trồng rau cải bó xôi trong hệ thống thủy canh sử dụng
nước thải của lợn đã được xử lý trước (pretreated swine wastewater - PSW) làm
phân bón lỏng trong hệ thống thủy canh đã được tiến hành. Các giá trị dung sai của
33 Cu (II), Zn (II), phốt pho tổng số và ammonium-N trong dung dịch trồng ở hệ thống
thủy canh lần lượt là 0,5, 2.0, 150 và 300 mg/l. Khối lượng tươi của rau cải bó xôi
khi trồng ở điều kiện PSW không pha loãng tăng 38,9% so với nhóm đối chứng và
nồng độ các chất (diệp lục a, diệp lục b, β-carotene và đường) của cải bó xôi cũng
cao hơn nhóm đối chứng. Hàm lượng của Pb (II), Hg (II), As (V) và Cr (II) trong
cải bó xôi đều thấp hơn hàm lượng tiêu chuẩn rau an toàn (cho sản xuất nông
nghiệp ở Trung Quốc). Không những nâng cao năng suất rau trồng thủy canh mà
sau 20 ngày nồng độ ammonium-N, phốt pho tổng số, Cu (II) và Zn (II) trong PSW
giảm đáng kể và đáp ứng tiêu chuẩn xả thải quốc gia của nước thải chăn nuôi ở
Trung Quốc (Jin et al., 2020) [65].
Sản phẩm của quá trình chuyển hóa các chất hữu cơ dưới điều kiện kị khí là
khí sinh học (biogas) được sử dụng như một nguồn nhiên liệu và lượng bùn thải
(digestate) đã được ổn định sinh học, chứa nhiều đạm, sử dụng như một nguồn bổ
sung dinh dưỡng cho cây trồng. Digestate được đánh giá là một giải pháp dinh
dưỡng thân thiện với môi trường và thay thế trong canh tác thủy canh cây rau diếp
(Lactuca sativa L.). Chín tổ hợp thủy canh của giá thể và dinh dưỡng đã được thử
nghiệm và so sánh để trồng rau diếp. Sự kết hợp giữa agriperlite + digestate lỏng,
digestate rắn + dung dịch chuẩn và digestate dạng viên + dung dịch chuẩn làm tăng
sinh trưởng của cây, ảnh hưởng đến các chỉ tiêu rễ, chồi, tổng khối lượng khô và
SPAD ở tất cả các thí nghiệm được nghiên cứu (tương ứng tăng 32%, 40 %, 29%,
17%) (Ronga et al., 2019) [127].
Ở Việt Nam với ưu điểm cần ít nước và đất hơn so với phương pháp canh tác
truyền thống, sản xuất rau theo phương pháp thủy canh phù hợp với các vùng đô thị
có diện tích đất canh tác nông nghiệp nhỏ hẹp hoặc những nơi đất bị nhiễm các chất
độc nhằm phục vụ nhu cầu tại chỗ cũng như kinh doanh. Phương thức này sẽ hạn
chế được sâu bệnh hại, chủ động thời vụ, do đó năng suất và chất lượng cây trồng
cao hơn trồng ngoài đất. Trong đó, giá thể có ảnh hưởng đến năng suất rau trồng
thủy canh. Nghiên cứu của Trần Thị Ba & Võ Thị Bích Thủy (2016) [1] nhằm xác
định độ cao giá thể bông gòn lọc nước hồ cá thích hợp cho trồng thủy canh xà lách
34 nhằm hướng tới sản xuất qui mô lớn, khắc phục được trở ngại giá thể mụn xơ dừa là
vật liệu hữu cơ dễ làm bẩn dung dịch dinh dưỡng và làm nghẹt đường lưu thông của
dung dịch dinh dưỡng. Kết quả cho thấy, sản xuất xà lách bằng phương pháp thủy
canh, sử dụng giá thể bông gòn lọc nước hồ cá càng cao cho năng suất và các chỉ
tiêu sinh trưởng (chiều cao cây, số lá trên cây, chiều dài và đường kính lá, đường
kính gốc thân, chiều dài rễ) càng tốt. Năng suất thương phẩm cao nhất (169,69
g/m2) ở độ cao giá thể 4 cm, tương đương 77% cao hơn giá thể cao 1 cm; giá thể
cao 3 cm cho năng suất thương phẩm 62% cao hơn giá thể cao 1 cm và giá thể cao 2
cm cho năng suất thương phẩm 49% cao hơn giá thể cao 1 cm. Do đó, có thể sử
dụng bông gòn lọc nước hồ cá với độ cao 4 cm dùng làm giá thể sản xuất xà lách
thủy canh với qui mô trang trại thay thế giá thể truyền thống là xơ dừa (Trần Thị Ba
& Võ Thị Bích Thủy, 2016) [1].
Dung dịch dinh dưỡng là yếu tố quyết định đến năng suất và chất lượng cây
trồng bằng phương pháp thủy canh. Nghiên cứu ảnh hưởng của 3 dung dịch dinh
dưỡng (Hoagland, Knop và TC Mobi) đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng quả
của cây cà giống Chanoka F1 đã được đánh giá. Kết quả nghiên cứu cho thấy, dung
dịch Hoagland có tác động tích cực tới các chỉ tiêu sinh trưởng (chiều cao cây),
năng suất (số chùm hoa/cây, số hoa/cây, số quả/cây, tỉ lệ đậu quả, khối lượng quả)
và chất lượng quả (hàm lượng vitamin C, đường khử, Fe và Mg) của cây cà chua
Chanoka F1 hơn so với hai dung dịch còn lại. Ngược lại, cây cà chua trồng trong
dung dịch Knop có năng suất và chất lượng thấp nhất. Hàm lượng nitrat trong quả
thấp hơn giới hạn an toàn của WHO khi cây được trồng trong cả ba dung dịch
nghiên cứu (Trần Thị Thanh Huyền & cs., 2017) [5].
Tương tự, công thức dinh dưỡng thứ ba (dung dịch A: 30% organism made of
soy- dung dịch B: Ca(NO3)2, MnCl2, KH2PO4,KNO3, H3BO3, ZnSO4, CuSO4,
Fe(EDTA)) là công thức hiệu quả nhất trong tăng trưởng chiều cao, năng suất và số
lá của cây rau muống thủy canh trồng trong nhà kính thuộc Khu nông nghiệp công
nghệ cao của Đại học Nông lâm Thái Nguyên (Nguyễn Văn Quảng & cs., 2019) [9].
35
Gần đây, nghiên cứu một số yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng đến sự sinh trưởng,
phát triển và năng suất của giống xà lách cuộn VA80 (Đặng Trần Trung & cs.,
2017) [14], rau mùi tàu cao sản (Nguyễn Thị Quỳnh & cs., 2018) [10] cũng đã được
tiến hành. Xà lách cuộn được trồng thích hợp nhất trên hệ thống thủy canh hồi lưu
và dung dịch dinh dưỡng SH3, có độ EC từ 800 đến 1200 µS/cm và mật độ trồng 15
cm x 15 cm. Các loại giá thể nghiên cứu trong thí nghiệm không có ảnh hưởng rõ
rệt đến sinh trưởng và năng suất của cây xà lách cuộn VA80. Rau mùi tàu cao sản
trồng thích hợp nhất trong dung dịch dinh dưỡng SH5, mức EC của dung dịch là
1500 µS/cm và mật độ trồng 270 cây/m2. Rau xà lách thủy canh, rau mùi tàu sản
xuất không bị nhiễm các vi sinh vật gây hại cũng như có hàm lượng nitrate và các
kim loại nặng thấp hơn ngưỡng cho phép và đạt tiêu chuẩn an toàn theo qui định
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Đặng Trần Trung & cs., 2017,
Nguyễn Thị Quỳnh & cs., 2018) [10], [14].
1.4. Những nghiên cứu về cây cải bó xôi trồng thủy canh và ảnh hưởng của ánh
sáng đến cây cải bó xôi
Proietti et al. (2016) [120] đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng kết hợp của hai
cường độ ánh sáng (200 và 800 μmol/m2/s) và hai nồng độ CO2 (360 và 800 ppm)
đến năng suất và chất lượng dinh dưỡng của rau cải bó xôi (Spinacia oleracea L.)
trong điều kiện hoàn toàn kiểm soát các yếu tố môi trường. Sau 6 tuần, không có sự
tương tác có ý nghĩa thống kê giữa ảnh hưởng của ánh sáng và CO2 đối với tất cả
các chỉ tiêu được nghiên cứu, ngoại trừ hàm lượng nitrate và axit oxalic của lá. Ánh
sáng cao và CO2 cao độc lập với nhau thúc đẩy tăng năng suất rau cải bó xôi và sự
tích lũy axit ascorbic, trong khi tác động tương tác của chúng hạn chế sự tích lũy
nitratee và axit oxalic trong lá rau cải bó xôi. Điều này cũng có nghĩa tăng chất
lượng dinh dưỡng rau cải bó xôi. Trong kết quả của Proietti et al. (2016) [120],
năng suất và sinh khối của rau cải bó xôi tăng trong điều kiện CO2 cao, chứng tỏ rau
cải bó xôi có thể tận dụng tối đa sự tăng trưởng ở nồng độ CO2 cao, ít nhất là trong
giai đoạn sinh trưởng ở tuần thứ 6-7. Khi tăng cường độ chiếu sáng và nồng độ CO2,
sẽ thúc đẩy sự sinh trưởng của thực vật, làm tăng sinh khối cũng như các phần ăn
36 được (Proietti et al., 2016) [120]. Tuy nhiên, các nghiên cứu có sử dụng nồng độ
CO2 cao thường thấy rằng, sau khi tăng tốc độ tăng trưởng ban đầu thì có hiện tượng
giảm sinh trưởng, nhất là nếu các thí nghiệm được thực hiện trong thời gian dài do ức
chế phản ứng quang hợp, đặc biệt ở các thực vật C3 khi chúng sử dụng NO3 như
nguồn nitơ duy nhất (Bloom et al., 2010) [33]. Cây rau cải bó xôi thu hoạch trong
giai đoạn sinh dưỡng được đặc trưng bởi sự tăng trưởng nhanh chóng. Trong giai
đoạn này và trong điều kiện nhiệt độ thuận lợi, thực vật có thể sử dụng hiệu quả các
sản phẩm quang hợp. Dữ liệu cũng xác nhận rằng cường độ ánh sáng tăng làm giảm tỉ
lệ thân/rễ và tăng khối lượng khô của lá (Proietti et al. , 2016) [120].
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ thấp 10oC đến hàm lượng axit ascorbic và
axit oxalic của lá ở cây cải bó xôi cũng đã được tiến hành. Ở nhiệt độ 10oC, hàm
lượng axit ascorbic trong lá tăng lên và sau 7 ngày, nó cao hơn khoảng 41% so với
những cây trồng ở chế độ nhiệt độ 25oC/20oC ngày/đêm. Ngược lại, hàm lượng
oxalate vẫn không thay đổi. Hoạt tính oxalate oxyase (OXO EC 1.2.3.4) không
được phát hiện trong dịch chiết của phiến lá. Điều đó chứng tỏ, nhiệt độ thấp làm
tăng chất lượng dinh dưỡng của lá rau cải bó xôi thông qua việc tăng hàm lượng
axit ascobic mà không thay đổi hàm lượng axit oxalic (Proietti et al. , 2009) [118].
Mặt khác, cải bó xôi là cây ngày dài. Karege et al. (1979) [72] đã nghiên cứu
ảnh hưởng của ánh sáng đỏ và đỏ xa đến cây cải bó xôi. Peroxidase cơ bản có trong
lá rau cải bó xôi đã được chứng minh là biến động rất nhanh sau khi chiếu ánh sáng
màu đỏ (R-red) hoặc đỏ xa (FR-far red). Phản ứng này được đo ngay sau 2 phút tiếp
xúc với R hoặc FR. Đặc tính phản ứng hoa xuất hiện sau một quang chu kỳ cảm
ứng (khoảng 14 giờ chiếu sáng) và vẫn được quan sát thấy ở các cây cảm ứng trở lại
những ngày ngắn trong một tuần. Phản ứng peroxidase này có thể được sử dụng để
phát hiện các bước đầu tiên của cảm ứng quang chu kỳ xảy ra trong lá. Bởi trong lá
rau cải bó xôi, hoạt động của peroxidase cơ bản được điều chỉnh bằng ánh sáng có
thể là thông qua phytochrom - một yếu tố quan trọng để kiểm soát sự ra hoa của cây
ngày dài. Peroxidase cơ bản đáp ứng nhanh với quá trình quang hóa phytochrom và
37 hữu ích để có được thông tin về sắc tố trong quá trình cảm ứng ra hoa trên cây cải
bó xôi (Karege et al., 1979) [72].
Nghiên cứu khác về ảnh hưởng của việc chiếu sáng quá mức đến các sắc tố
quang hợp và hoạt động violaxanthin deepoxidase trong chu kỳ xanthophyll của lá
rau cải bó xôi hai tháng tuổi đã được thực hiện. Các lá cải bó xôi được tiếp xúc với
một dòng photon quá mức 1300 mmol/m2s trong 24 giờ. Kết quả cho thấy bức xạ
ánh sáng cao gây ra sự chuyển đổi hoạt động các sắc tố quang hợp và tỉ lệ
zeaxanthin/tổng hàm lượng diệp lục cao hơn đã được ghi nhận. Lutein đã được coi
là một tiêu chuẩn nội bộ trong số các xanthophyll vì sắc tố này không đổi trong các
điều kiện thí nghiệm trên (Pandey et al., 2005) [109].
Nghiên cứu của Öztekin et al. (2018) [108] đối với rau cải bó xôi trồng trên hệ
thống bè nổi trong nhà kính cũng đã được tiến hành. Than bùn được sử dụng làm
giá thể ở giai đoạn nảy mầm và ra rễ. Sau khi nảy mầm trong buồng nảy mầm, các
khay được chuyển đến nhà kính có kiểm soát các yếu tố môi trường. Dung dịch
dinh dưỡng được sử dụng ở dạng đầy đủ (mg/L: N 150, P 50, K 150, Ca 150, Mg
50, Fe 5.0, Mn 0,50, Zn 0,05, B 0,50, Cu 0,03, Mo 0,02) và giảm một nửa nồng độ
(với các yếu tố đa lượng giảm 50%) và công thức đối chứng là nước. Kết quả cho
thấy sự tăng trưởng, năng suất, chất lượng và tiêu thụ nước của cây cải bó xôi khác
nhau tùy thuộc vào nồng độ dung dịch dinh dưỡng cũng như nhiệt độ ở giai đoạn
sinh trưởng. Khi nồng độ của dung dịch dinh dưỡng giảm, vitamin C, hàm lượng Ca
trong lá và giá trị pH của dung dịch dinh dưỡng tăng lên, trong khi hàm lượng N, P,
K và Fe, hàm lượng nitrate trong lá giảm. Không có sự khác biệt thống kê giữa việc
sử dụng dung dịch dinh dưỡng đầy đủ và giảm hàm lượng đa lượng đi một nửa đối
với nhiều thông số khác. Vì thế giảm hàm lượng đa lượng đi một nửa để trồng rau
cải bó xôi thủy canh có thể được ưu tiên để cho năng suất cao, chất lượng tốt và
giảm lượng tiêu hao nguyên liệu (Öztekin et al., 2018) [108].
Maneejantra et al. (2016) [93] đã tiến hành nghiên cứu này xác định các yêu
cầu dinh dưỡng đa lượng tối thiểu cho rau cải bó xôi mà vẫn đạt kích thước cây
mong muốn với mục đích tối ưu hóa hiệu quả sử dụng phân bón. Cây cải bó xôi
38 được trồng trong các hệ thống trồng cây thương mại (nhiệt độ 20°C/17°C
ngày/đêm, cường độ 350 μmol/m2/s trong 12 giờ/ngày, 1000 µmol/mol CO2). Rau
cải bó xôi phát triển nhanh chóng và đạt đến kích thước mong muốn của thị trường
tiêu thụ chỉ trong 12-15 ngày sau khi được chuyển vào môi trường nghiên cứu. Vào
ngày thứ 15 của thí nghiệm hàm lượng dinh dưỡng cần thiết ở mỗi cây đã được xác
định trong 90 gram khối lượng tươi: 191 mg N, 31 mg P, 345 mg K, 34 mg Ca, 38
mg Mg, và 13 mg S (Maneejantra et al., 2016) [93].
Nồng độ nitrate, nitrite và axit ascorbic ở rau cải bó xôi đã được xác định
trong khoảng chu kỳ 24 giờ nhằm tìm hiểu xem cường độ ánh sáng tại thời điểm thu
hoạch có ảnh hưởng đến nồng độ các chất trong rau ăn sống hay không. Nhóm tác
giả Chang et al. đã trồng rau cải bó xôi trong các buồng tăng trưởng trong khoảng
thời gian ánh sáng tương đối ngắn (10 giờ sáng/14 giờ tối) và ở hai cường độ ánh
sáng (200 và 800 µmol/m2/s), sau đó thu hoạch rau cải bó xôi ở ba thời điểm sáng
khác nhau (vào cuối thời kỳ tối, sau 4 giờ và 8 giờ). Kết quả chỉ rằng rau cải bó xôi
được trồng ở cường độ ánh sáng thấp hơn có nồng độ nitrate cao hơn và nồng độ
axit ascorbic thấp hơn so với rau cải bó xôi được trồng ở cường độ ánh sáng cao
hơn. Nồng độ nitrate, nitrite và axit ascorbic thay đổi đáng kể trong khoảng thời
gian 24 giờ và dường như có liên quan đến sự thay đổi cường độ ánh sáng. Axit
ascoricic ở gần mức cao nhất trong khoảng chu kỳ 24 giờ khi cường độ ánh sáng
ban đầu tăng lên, sau đó giảm xuống mức thấp nhất vào khoảng 3 giờ 6 giờ sau đó
(Chang et al., 2013) [38].
Trước đó, nghiên cứu của Johnson et al. (1999) cũng đã từng khẳng định nồng
độ nitrate trong rau cải bó xôi chịu ảnh hưởng bởi phổ ánh sáng. Enzyme khử
nitrate được điều hòa bởi phytochrom ở một số loài khi có mặt ánh sáng cùng với
các electrons làm giảm nitrit thành amoni trong quá trình vận chuyển điện tử quang
hợp. Người ta đưa ra giả thuyết rằng chất lượng cũng như số lượng ánh sáng có thể
được sử dụng để điều chỉnh nồng độ nitrate trong rau cải bó xôi. Vì thế đèn LED
chiếu sáng với bước sóng dải hẹp (phát xạ cực đại 670nm và 735nm) đã được sử
dụng kết hợp với đèn huỳnh quang trắng lạnh (cool white fluorescent – CWF). Ba
39 chế độ phổ ánh sáng khác nhau là 1) LED CWF, 2) CWF + RED (670nm) và 3)
CWF + FR (LED 735nm). Kết quả cho thấy nồng độ nitrate tăng gấp 10 lần khi xử
lý CWF + FR (0,12 mmol/g khối lượng khô) so với công thức xử lý CWF (0,01
mmol/g khối lượng khô) và CWF + Red (0,01 mm/g khối lượng khô) (Johnson et
al. , 1999) [68].
Gần đây, Agarwal & Gupta (2018) đã trồng rau cải bó xôi dưới ánh sáng đèn
LED màu xanh lam (470nm) và đỏ (630nm) với các tổ hợp công thức (xanh/đỏ là:
1/3, 1/1, 3/1) và đèn huỳnh quang làm đối chứng. Cây con được trồng dưới đèn
LED xanh + đỏ sau 28-ngày cho thấy sự tăng trưởng tốt hơn và hàm lượng diệp lục
cao hơn so với các công thức đèn LED đơn sắc. Tuy nhiên, tổng hàm lượng
carotenoid nhiều hơn theo tỉ lệ cao của đèn LED màu đỏ. Tổng hàm lượng phenolic
đã tăng đáng kể dưới ánh sáng đèn LED so với đèn huỳnh quang. Hoạt động của
superoxide cũng gia tăng đáng kể trong cây giống được xử lý bằng đèn LED. Stress
oxi hóa thấp hơn ở những cây con được trồng dưới sự kết hợp của đèn LED màu
xanh và đỏ (Agarwal & Gupta, 2018) [26].
Tuy nhiên, những nghiên cứu về sử dụng ánh sáng đèn LED cho cây cải bó
xôi trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu còn khá hạn chế và chưa tìm thấy nghiên
cứu về lĩnh vực này ở Việt Nam. Vì thế nghiên cứu việc bổ sung nguồn ánh sáng
một cách hợp lý nhằm nâng cao năng suất cũng như chất lượng của cây cải bó xôi
không những sẽ làm phong phú thêm sự hiểu biết về loại cây trồng này, mà còn là
cơ sở để nâng cao giá trị dinh dưỡng của rau cải bó xôi.
1.5. Một số kết luận rút ra sau tổng quan
Đèn LED là nguồn ánh sáng đầu tiên có thể tạo ra ánh sáng đơn sắc có phổ
phù hợp với các chất nhận ánh sáng của cây, qua đó thúc đẩy các chức năng sinh lý
mong muốn, tạo ra năng suất tối đa, điều khiển được sự phát sinh hình thái (nảy
mầm, thúc đẩy hoặc kìm hãm ra hoa) cũng như nâng cao phẩm chất của cây. Sử
dụng ánh sáng đèn LED làm nguồn chiếu sáng kết hợp trồng cây trong dung dịch
dinh dưỡng giúp kiểm soát các yếu tố môi trường là rất khả thi trong việc nâng cao
năng suất cũng như chất lượng cây rau nói chung và cây cải bó xôi nói riêng. Với
40 tiềm năng năng suất và giá trị dinh dưỡng của cải bó xôi, cây cải bó xôi sẽ là đối
tượng cây trồng lý tưởng trong nghiên cứu và phát triển mở rộng sản xuất. Phương
pháp quản lý dinh dưỡng, định lượng với nồng độ chất dinh dưỡng thấp, tiết kiệm,
quản lý nhiệt độ… kết hợp chiếu sáng bổ sung với cường độ, phổ ánh sáng phù hợp
là rất khả thi để phục vụ sản xuất rau thủy canh trong các hệ thống trồng cây thương
phẩm. Đồng thời việc lựa chọn các nguồn sáng nhằm nâng cao năng suất cây trồng
và hiệu quả năng lượng cũng cần quan tâm đến ảnh hưởng ánh sáng đến an toàn
thực phẩm và dinh dưỡng cho con người.
41
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên ba giống cải bó xôi cho thí nghiệm đầu tiên là:
G1 - giống cải bó xôi F1 chịu nhiệt PD512 (Phú Điền), G2 - giống cải bó xôi chịu
nhiệt F1 (Lucky Seeds), G3 - giống cải bó xôi F1 (VA.DASH) (Việt Á) (Phụ lục 4,
Hình 3).
+ Giống cải bó xôi chịu nhiệt F1 của công ty TNHH giống cây trồng Lucky:
cây sinh trưởng khỏe, kháng bệnh tốt, độ đồng đều cao, lá tròn dài, màu xanh mướt.
Giống có khả năng chịu nhiệt tốt và trồng được quanh năm. Thời gian thu hoạch từ
39-40 ngày sau gieo.
+ Giống cải bó xôi F1 chịu nhiệt PD512- Phú Điền của công ty THHH TM và
SX Phú Điền: giống có khả năng kháng bệnh tốt, cây khỏe, độ đồng đều cao, lá tròn
dài màu xanh mướt, chịu nhiệt tốt. Trồng được quanh năm và cho thu hoạch từ 39-
40 ngày sau gieo.
+ Giống cải bó xôi F1 (VA.DASH) của công ty TNHH phát triển nông nghiệp
Việt Á: giống sinh trưởng mạnh, kháng bệnh tốt, độ đồng đều cao, lá tròn dài,
mép lá trơn không có khía, màu xanh trung bình, ăn ngon mềm. Thu hoạch từ
40-50 ngày sau gieo, trồng được quanh năm ở Đà Lạt và vụ Đông Xuân ở các
tỉnh phía Bắc.
2.1.2. Vật liệu
Dung dịch dinh dưỡng được kí hiệu: SH1- SH3- SH5 (có thành phần và hàm
lượng dinh dưỡng được mô tả trong Phụ lục 2), do Viện Sinh học Nông nghiệp –
Học viện Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu và cải biến trên cơ sở của dung dịch
dinh dưỡng Hoagland & Arnon (1950) [60].
Hệ thống đèn LED: Các đèn LED được sản xuất và cung cấp bởi công ty Cổ
phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông. Cường độ ánh sáng được đo bằng thiết bị
chuyên dụng (UPRtek PG100N Handheld Spectral PAR meter).
42
Một số vật liệu, thiết bị khác: Rọ nhựa, máy đo EC, máy đo pH, máy đo chỉ số
SPAD, máy đo diện tích lá, cân kỹ thuật, máy scan rễ, kính hiển vi điện tử, máy đo
quang phổ, hệ thống pipet, cốc đong, ....
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được tiến hành thực hiện trên hệ thống thủy canh hồi lưu trong nhà lưới
có mái che và hệ thống thủy canh hồi lưu trong nhà điều hòa kết với hệ thống đèn
LED, tại Viện Sinh học Nông nghiệp - Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 12/2017 đến tháng
9/2020.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Bố trí thí nghiệm
Các thí nghiệm xác định thông số kỹ thuật tối ưu trồng cải bó xôi trên hệ
thống thủy canh hồi lưu được bố trí trong nhà lưới chuẩn có mái che (với nhiệt độ
trung bình trong nhà lưới mùa hè 37± 2oC, mùa đông 23± 2oC, độ ẩm trung bình
45%-50%).
Các thí nghiệm xác định phổ ánh sáng tối ưu và cường độ ánh sáng tối ưu
chiếu bằng đèn LED cho trồng cải bó xôi trên hệ thống thủy canh hồi lưu được bố
trí trong nhà có điều hòa nhiệt độ duy trì ở mức 27oC ± 0,4oC và độ ẩm được duy trì
ổn định 65% ± 2%. Sử dụng dụng cụ đo nhiệt độ và độ ẩm Daekwang TH05, Korea.
Hạt giống được ngâm nước ấm pha với tỉ lệ 3 sôi: 2 lạnh (~ 50oC). Gieo hạt vào
giá thể Klasmann TS-2 (Đức) trong các khay nhựa (128 lỗ) với chiều dài x chiều rộng
x chiều cao tương ứng 60 cm x 30 cm x 5 cm và chọn các cây đồng đều về kích thước
đã ra lá thật, sau đó đưa cây vào hệ thống thủy canh tuần hoàn. Cây được cho vào rọ
nhựa chứa giá thể mút xốp, có chiều cao 10 cm và đường kính miệng rọ 7 cm.
Kiểm tra độ pH và EC định kì 3 ngày một lần, pH và EC với giá trị tối ưu theo
kết quả thí nghiệm. Bổ sung hoặc thay dung dịch dinh dưỡng khi hàm lượng pH và
EC vượt khỏi ngưỡng. Thời gian thu hoạch 40-50 ngày sau gieo.
43
2.3.1.1. Nội dung 1
Bố trí thí nghiệm để xác định các thông số kỹ thuật tối ưu trồng cải bó xôi
trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu
Các thí nghiệm được trồng trong hệ thống nhà lưới chuẩn, điều kiện ánh sáng
với tỉ lệ ánh sáng đỏ: xanh lam: xanh lá cây (R/B/G) là 2/1/2, cường độ bức xạ hoạt
động quang hợp là 420 µmol/m2/s.
Nghiên cứu gồm 6 thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm từ 1 đến 6 được bố trí theo kiểu
khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB) với 3 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại 15 cây trên hệ
thống giàn thủy canh hồi lưu.
- Thí nghiệm 1: Nghiên cứu xác định giống cải bó xôi thích hợp trồng trên hệ
thống thủy canh hồi lưu. Các công thức thí nghiệm: CT1: Giống cải bó xôi F1 chịu
nhiệt PD512 (Phú Điền); CT2: Giống cải bó xôi chịu nhiệt F1(Lucky Seeds); CT3:
Giống cải bó xôi F1(VA.DASH-Việt Á).
- Thí nghiệm 2: Nghiên cứu xác định dung dịch dinh dưỡng phù hợp cho cải
bó xôi trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (với giống tối ưu của thí nghiệm 1).
Các công thức thí nghiệm: CT1: SH1; CT2: SH3; CT3: SH5.
- Thí nghiệm 3: Nghiên cứu xác định mức EC phù hợp trồng cải bó xôi trên
hệ thống thủy canh hồi lưu (với giống và dung dịch dinh dưỡng tối ưu của thí
nghiệm 1, 2). Các công thức thí nghiệm: CT1: 800 µs/cm; CT2: 1.000 µs/cm;
CT3: 1.200 µs/cm.
- Thí nghiệm 4: Nghiên cứu xác định mức pH của dung dịch phù hợp để
trồng cải bó xôi trên hệ thống thủy canh hồi lưu (với giống, dung dịch dinh
dưỡng, EC đã chọn từ thí nghiệm 1, 2, 3). Các công thức thí nghiệm: CT1: pH = 5
- 5,5; CT2: 6 - 6,5; CT3: 7 - 7,5.
- Thí nghiệm 5: Nghiên cứu xác định khoảng cách phù hợp để trồng cải bó xôi
trên hệ thống nghệ thủy canh hồi lưu (với giống, dung dịch dinh dưỡng, EC, pH đã
chọn được từ thí nghiệm 1, 2, 3, 4). Các công thức thí nghiệm: CT1: 10 cm; CT2:
15 cm; CT3: 20 cm.
- Thí nghiệm 6: Nghiên cứu ảnh hưởng của việc ngừng cung cấp dinh dưỡng
44 cho cây cải bó xôi trước khi thu hoạch đến chất lượng cây cải bó xôi trồng thủy
-, As, Hg, Cd, Pb). Các công thức thí nghiệm CT1: Cung cấp
canh (sự tích lũy NO3
dinh dưỡng đến ngày thu hoạch; CT2: Thu hoạch sau khi ngừng cung cấp dinh
dưỡng 1 ngày; CT3: Thu hoạch sau khi ngừng cung cấp dinh dưỡng 2 ngày; CT4:
Thu hoạch sau khi ngừng cung cấp dinh dưỡng 4 ngày.
2.3.1.2. Nội dung 2
Bố trí thí nghiệm để xác định phổ ánh sáng và cường độ ánh sáng tối ưu
chiếu bằng đèn LED đến sinh trưởng, năng suất và phẩm chất của cây cải bó xôi
trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu
Thí nghiệm 7: Nghiên cứu ảnh hưởng của phổ ánh sáng đèn LED đến sinh trưởng,
năng suất và phẩm chất của cây cải bó xôi trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (ở
cùng cường độ PPFD = 190 µmol/m2/s)
CT1: R660:B450 = 4:1 (Đ/C) (Ánh sáng đỏ - xanh)
CT2: R660:B450:G550 = 5:2:3 (Ánh sáng có màu vàng)
CT3: R660:B450:G550 = 1:1:1 (Ánh sáng trắng)
(Với R:B:G tương ứng là tỉ lệ ánh sáng đỏ: xanh lam: xanh lá cây)
Thí nghiệm 8: Nghiên cứu ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đèn LED đến sinh
trưởng, năng suất và phẩm chất của cây cải bó xôi trồng trên hệ thống thủy canh
hồi lưu.
CT1: 90 µmol/m2/s
CT2: 140 µmol/m2/s
CT3: 190 µmol/m2/s
CT4: 240 µmol/m2/s
Phổ ánh sáng đèn LED được sử dụng cho thí nghiệm 8 là phổ ánh sáng tối ưu
được xác định từ thí nghiệm 7.
Thí nghiệm 7 và 8 được tiến hành trên hệ thống thủy canh có lắp đặt hệ thống
đèn LED và được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCB). Mỗi thí nghiệm gồm 3
giá đỡ hệ thống thủy canh với 4 giàn trên mỗi giá. Mỗi giàn với 5 ống dung dịch
thủy canh song song, 9 rọ trên một ống, tức 90 cây/giàn tương ứng với 1 công
45 thức và 1 ô thí nghiệm. Mỗi giá đỡ hệ thống thủy canh được trang bị một phổ
ánh sáng hoặc cường độ ánh sáng riêng, tương ứng với một công thức. Khoảng
cách giữa các cây là 15 cm, giữa các giàn là 25 cm. Cây được trồng dưới ánh
sáng 12 giờ/12 giờ tối.
2.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi
2.3.2.1. Chỉ tiêu sinh trưởng
- Chiều cao cây (cm) được đo từ gốc (sát mặt giá thể) đến vót lá cao nhất, đo
ngẫu nhiên 10 cây/công thức/lần nhắc lại, sau đó tính giá trị trung bình.
- Số lá/cây (lá) đếm số lá khi lá đã mở hoàn toàn, được tính từ lá thật đầu
tiên, lấy ngẫu nhiên 10 cây/công thức/lần nhắc lại, sau đó tính giá trị trung bình.
- Diện tích lá (cm2/cây) được tính bằng phương pháp chụp ảnh và sử dụng
phần mềm ImageJ (National Institutes of Health, USA). Xác định vào thời điểm thu
hoạch, lấy ngẫu nhiên 10 cây/công thức/lần nhắc lại, sau đó tính giá trị trung bình.
- Tốc độ sinh trưởng tương đối (Relative Growth Rate - RGR) (g/ngày) được
tính theo phương pháp của Hoffmann et al. (2002) [61].
RGR = (lnW2-lnW1) / (t2-t1) (g/ngày)
Trong đó:
ln= Logarit tự nhiên
W1, W2: là khối lượng tươi từ lần lấy mẫu lần 1 cho đến lấy mẫu lần 2.
T2, T1: số ngày từ lần lấy mẫu lần 1 cho đến lấy mẫu lần 2.
- Tốc độ đồng hóa chất khô (Net Assimilation Rate - NAR) (g/dm2/ngày)
được tính theo công thức của Radford (1976) [122]:
NAR = [(W2 - W1) / (t2-t1)]*[(lnA2 – lnA1)/(A2-A1)]
Trong đó:
ln = Logarit tự nhiên
t1= cây tại thời điểm T1 (ngày); W1= Khối lượng khô (g/cây, tại thời điểm T1)
t2= cây tại thời điểm T2 (ngày); W2= Khối lượng khô (g/cây, tại thời điểm T2)
A1 = Diện tích lá tại thời điểm T1 (dm2/cây)
A2 = Diện tích lá tại thời điểm T2 (dm2/cây)
46
- Khối lượng tươi (g/cây) được tính bằng cân khối lượng phần thân lá riêng,
phần rễ riêng (lấy ngẫu nhiên 10 cây/công thức/lần nhắc lại).
- Khối lượng chất khô (g/cây) được tính bằng cân khối lượng khô phần thân
lá riêng, phần rễ riêng (lấy ngẫu nhiên 10 cây/công thức/lần nhắc lại).
- Năng suất cá thể (g/cây) được xác định bằng cách cân khối lượng tươi của
toàn cây (lấy ngẫu nhiên 10 cây/công thức/lần nhắc lại), sau đó tính giá trị trung bình.
- Năng suất lý thuyết (NSLT) (kg/m2) = Khối lượng trung bình cây x số cây/m2
- Năng suất thực thu (NSTT) (kg/m2): Cân khối lượng thực tế thu được trên
một đơn vị diện tích.
2.3.2.2. Chỉ tiêu về khả năng quang hợp
- Chỉ số SPAD thu được bằng dùng máy đo chỉ số SPAD-502 Plus
(Chlorophyll meter, Konica Minolta Sensing, Inc., Japan).
- Hàm lượng sắc tố quang hợp được tính theo phương pháp của Arnon
(1949) [28] với một vài biến đổi: Mẫu lá (1,5 g) (m) được nghiền với 10 mL
80% acetone (V). Sau đó ly tâm ở tốc độ 6000 rpm trong 10 phút (sử dụng máy
ly tâm Hermle, Z300 K, Germany). Dịch sắc tố được đo độ hấp phụ ở các bước
sóng 470 nm, 663 nm và 645 nm (sử dụng máy đo quang phổ Specto 2000RSP,
Serial No 2000RSP 0848, Labomed, Inc. U.S.A). Nồng độ các sắc tố (C) trong
dịch chiết được tính theo công thức:
Chla (g/l) = 0,0127 A663 – 0,00269 A645
Chlb (g/l) = 0,02291 A645 – 0,00468 A663
Chla+b (g/l) = 0,0202 A645 + 0,00802 A663
Carotenoid (g/l) = (A470 – 0,00182 Chla – 0,08502 Chlb)/198
Trong đó:
A470, A663, và A645 là độ hấp phụ ở các bước sóng 470, 663 và 645nm.
Các hệ số: 0,0127; 0,00269; 0,02291; 0,00468; 0,0202; 0,00802; 0,00182;
0,08502 và 198.
Hàm lượng sắc tố (HLST) sau đó được quy đổi: HLST = C.V.1000/m (mg/g
khối lượng tươi). Với C, m, V được xác định như trên.
47
- Cường độ quang hợp (Pn) được xác định bằng máy TPS1 portable
photosynthesis System Ver.1.2.1 (USA). Mỗi ô đo 3 cây. Các lá được đo là lá thật
thứ 3 từ trên xuống (tính khi lá mở hoàn toàn) (Hniličková et al., 2017) [59]. Trong
tất cả các lần đo, dòng không khí đưa vào máy là không khí của môi trường và được
chuẩn nồng độ CO2 là 360 ppm (0,036%), độ ẩm và nhiệt độ của curvet không được
điều chỉnh và phụ thuộc vào không khí.
Trong đó: Pn là cường độ quang hợp (µmol CO2/m2 lá/s).
- Chỉ số huỳnh quang hữu hiệu của diệp lục (Fv/Fm) để xác định hiệu quả tối
đa của phản ứng quang hóa của hệ thống quang hóa II (Kitajima & Butler, 1975;
Pfündel, 2007) [74], [116], sử dụng Chlorophyll Fluorescence Meter, OS-30 (ADC,
UK). Lá được kẹp trong buồng tối 30 phút trước khi đo. Mỗi ô đo 3 cây. Các lá
được đo là lá thật thứ 3 từ trên xuống.
2.3.2.3. Chỉ tiêu về giải phẫu
- Kích thước khí khổng:
Kích thước tế bào biểu bì, khí khổng được quan sát theo phương pháp của
Tuan et al. (2013). Lá được ngâm trong cồn tuyệt đối 24 h, sau đó chuyển vào 80%
acetone trong 2-4h. Sau đó ngâm mẫu lá trong NaOH/ethanol (tỉ lệ 1:5 mM NaOH/
ethanol tuyệt đối). Tiếp theo, mẫu được gắn lên lam kính bằng axit lactic và giữ qua
đêm. Tiêu bản hiển vi được quan sát trên kính hiển vi quang học (Nikon Eclipse
80i, Japan) có gắn camera và trắc vi vật kính. Ảnh kỹ thuật số được sử dụng để
phân tích kích thước chiều dài, chiều rộng của khí khổng bằng cách sử dụng phần
mềm ImageJ (National Institutes of Health, USA) (Tuan et al., 2013) [150]. Phân
tích hình 15 ảnh cho 1 lá, mỗi lá của 1 cây và 3 cây trên 1 công thức tương ứng với
3 lần nhắc lại. Tương tự cho các chỉ tiêu giải phẫu còn lại.
- Mật độ tế bào khí khổng:
Mật độ tế bào khí khổng = s/(e+s) (Ceulemans et al., 1995) [37]
Trong đó: s, e lần lượt là tổng số tế bào khí khổng và biểu bì trên một đơn vị
diện tích lá.
48
- Độ dày lá, độ chặt lá, chiều dày mô giậu và mô khuyết: Lát cắt ngang của lá
được xử lý theo phương pháp của Clark’s (1981) [43] tính độ dày lá và kích thước
của lớp tế bào mô giậu và mô khuyết bằng sử dụng phần mềm ImageJ (National
Institutes of Health, USA). Độ chặt lá (độ chặt lá = chiều dày mô giậu/độ dày lá) và
tỉ lệ chiều dày mô giậu/mô khuyết được tính theo phương pháp của Yao et al.
(2017) [165].
2.3.2.4. Chỉ tiêu về cấu trúc bộ rễ
Cấu trúc bộ rễ được xác định qua các thông số như tổng chiều dài, tổng thể
tích, đường kính trung bình, tổng diện tích, diện tích bề mặt bằng sử dụng máy scan
Epson perfection V700 Photo và phần mềm WinRHIZO Pro.
2.3.2.5. Chỉ tiêu về chất lượng dinh dưỡng
- Hàm lượng các nguyên tố khoáng (Ca, K, Fe) được đo bằng phương pháp
quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS Enduro T2100) theo TCVN 10916:2015 [20],
tại Khoa Sinh học, Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Hàm lượng axit hữu cơ tổng số được xác định theo TCVN 4589:1988 [23],
tại phòng thí nghiệm trung tâm KH&CNTP, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
thí nghiệm trung tâm KH&CNTP, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
- Hàm lượng chất xơ được xác định theo TCVN 5714:2007 [24], tại phòng
- Hàm lượng axit oxalic được thực hiện bằng phương pháp H.HD.QT.103
(HPLC), tại Viện kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia (NIFC).
- Độ Brix: được xác định bằng cách sử dụng khúc xạ kế có tính năng bù nhiệt
độ tự động (ATC) (Atago, PR-201α, Japan, Serial NO A85301). Dịch ép từ lá (200
µl) được nhỏ lên khúc xạ kế bằng micropipet và ghi lại kết quả được hiện thị tự
động từ máy, tại Bộ môn Sinh lý thực vật, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2.3.2.6. Chỉ tiêu về các hợp chống oxi hóa
- Hàm lượng phenol tổng số được xác định theo TCVN 9745-1:2013 [22], tại
phòng thí nghiệm trung tâm KH&CNTP, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
- Hàm lượng Vitamin C được xác định theo TCVN 8977:2011 (HPLC) [21],
tại Viện kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia (NIFC).
49
- được xác định bằng phương pháp so màu theo TCVN
2.3.2.7. Các chỉ số vệ sinh an toàn thực phẩm
- Hàm lượng NO3
8742:2011 [19], tại Phòng thí nghiệm trọng điểm về an toàn thực phẩm và môi
trường (Vilas 809) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
- Hàm lượng một số kim loại nặng được xác định bằng phương pháp quang
phổ hấp thụ nguyên tử gồm: As: xác định theo TCVN 7770: 2007; Hg: xác định theo
TCVN 7604: 2007; Cd và Pb: xác định theo TCVN 7929: 2008 [16], [17], [18]. Các
chỉ tiêu kim loại nặng được phân tích tại Bộ môn KNCL Rau quả, Viện Nghiên cứu
Rau quả.
- Thông số an toàn dựa trên chỉ tiêu vi sinh vật, xác định thông qua sự hiện
diện của vi khuẩn E. coli và Salmonella, được phát hiện bằng phương pháp phân lập
vi khuẩn [25], tại Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ sinh học thú y (VILAS
618 và LAS-NN54), Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
2.3.3. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel và phần mềm R.
Sự sai khác giữa các giá trị trung bình của các thông số được đánh giá theo phân
tích ANOVA ở mức P < 5%.
50 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xác định các thông số kỹ thuật tối ưu trồng cải bó xôi bằng phương pháp
thủy canh hồi lưu
Trồng rau trong hệ thống thủy canh hồi lưu là một trong những công nghệ kỹ
thuật cao, giúp duy trì sản xuất rau trong vụ và trái vụ, có khả năng tạo ra những sản
phẩm đồng nhất, sạch, chất lượng, năng suất cao, thu hoạch dễ dàng, tối ưu hóa
phân bón, lượng nước sử dụng, ít bị sâu bệnh và góp phần giải quyết tốt nhu cầu
trồng rau sạch tại nhà ở thành thị (Tomasi et al., 2015) [149].
Mặc dù đa số dung dịch dinh dưỡng cho thủy canh hiện nay đều dựa trên công
thức dinh dưỡng Hoagland Arnon nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của một
số nhóm cây trồng trong đó có cải bó xôi nên cây sinh trưởng kém và chưa có giá trị
thương mại cao. Vì vậy, việc nghiên cứu và pha chế dung dịch dinh dưỡng chuẩn
hóa quốc tế, cân đối giữa các nguyên tố khoáng thiết yếu và tối ưu cho sinh trưởng
và phát triển của từng loại cây là rất cần thiết. Hơn nữa, việc duy trì pH, EC và lựa
chọn dạng chất của các nguyên tố khoáng thiết yếu để pha chế dung dịch dinh
dưỡng là đặc biệt quan trọng. Bởi pH, EC khác nhau thì khả năng hấp thụ của cây
trồng và phần trăm tính hữu hiệu của mỗi chất dinh dưỡng là khác nhau.
Bên cạnh đó, hàm lượng nitrate thấp là mong muốn cần đạt được đối với các
loại rau ăn lá ăn trực tiếp như cải bó xôi. Các nghiên cứu về trồng cây trong dung
dịch thủy canh cho thấy nồng độ vi lượng của dung dịch dinh dưỡng có thể giảm,
dung dịch dinh dưỡng có thể được pha loãng. Thực vật có thể sống được ở trong
+ nhằm giảm hàm lượng nitrate của các loại rau (Jakse et al., 2013;
nước vài ngày trước khi thu hoạch, NO3-N có thể được giảm bớt hoặc thay thế bằng
2- và NH4
Cl-, SO4
Duyar & Kılıç, 2016) [49], [63]. Điều đó một lần nữa khẳng định trồng rau trong
dung dịch thủy canh có thể được sử dụng như một kỹ thuật nuôi cây vừa mang lại
hiệu quả kinh tế vừa thân thiện với môi trường.
Chính vì vậy, việc tìm ra các thông số tối ưu cho sinh trưởng của rau cải bó
xôi trồng thủy canh như giống, dung dịch dinh dưỡng, pH, EC, mật độ trồng, cũng
51
- nhằm nâng cao chất lượng là mục tiêu chính của nội
như giảm hàm lượng NO3
dung nghiên cứu này.
3.1.1. Giống
Giống cây trồng có vai trò quan trọng quyết định năng suất và chất lượng nông
sản phẩm. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của giống đến sinh trưởng và năng
suất cây cải bó xôi trồng thủy canh được thể hiện ở Bảng 3.1, Bảng 3.2., Bảng 3.3
và Hình 3.1.
Bảng 3.1. Thời gian từng giai đoạn sinh trưởng của các giống cải bó xôi trên hệ
thống thủy canh hồi lưu
Thời gian từ gieo đến ….(ngày) Giống Nảy mầm Xuất hiện 2 lá thật Thu hoạch
Cải bó xôi F1 chịu nhiệt 4 10 42 PD512-Phú Điền
Cải bó xôi chịu nhiệt 4 10 42 F1- Lucky Seeds
Cải bó xôi F1 5 10 42 (VA.DASH)- Việt Á
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tất cả các cây đều xuất hiện 2 lá thật sau 10 ngày
và thu hoạch sau 42 ngày. Với mỗi giống khác nhau thì thời gian từ gieo đến nảy
mầm khác nhau. Kết quả nghiên cứu trong 3 giống thì giống cải bó xôi F1
(VA.DASH) (Việt Á) có thời gian nảy mầm là 5 ngày, chậm hơn 1 ngày so với 2
giống còn lại (4 ngày). Từ giai đoạn gieo hạt, ươm cây con đến khi cây xuất hiện 2
lá thật để đưa vào hệ thống cần khoảng 10 ngày (Bảng 3.1). Nhìn chung với thời
gian sinh trưởng khoảng 42 ngày là thời gian sinh trưởng cần thiết cho cây cải bó
xôi trồng thủy canh hồi lưu trong nhà lưới.
Tốc độ phát triển thân lá và chỉ số hàm lượng diệp lục (SPAD) cũng khác
nhau. Sự khác biệt ở đây có ý nghĩa về mặt thống kê. Giống cải bó xôi chịu nhiệt F1
PD512 có chiều cao cây, số lá, diện tích lá cũng như chỉ số SPAD là cao nhất, sau
đó đến giống cải bó xôi F1(VA.DASH) (Việt Á) và thấp nhất là giống cải bó xôi
52 chịu nhiệt F1(Lucky Seeds). Mức độ lớn hơn về các chỉ tiêu trên ở giống F1 PD512
lần lượt tương ứng gấp 1,17; 1,33; 1,82; 1,18 lần so với giống cải bó xôi
F1(VA.DASH) (Việt Á) và 1,36; 1,71; 2,31; 1,07 lần so với giống cải bó xôi chịu
nhiệt F1 (Lucky Seeds) (Bảng 3.2).
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của giống tới sự sinh trưởng của cải bó xôi trên hệ thống thủy
canh hồi lưu (42 NST)
SPAD Giống CCC (cm) SL (lá/cây) LA (cm2/cây)
36,33a 13,70a 528,43a 34,38a
26,62c 8,00c 229,20c 32,13b
31,12b 10,30b 290,51b 29,08c
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở
mức ý nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
G: Giống; NST: Ngày sau trồng; CCC: Chiều cao cây; SL: Số lá; LA: Diện tích lá.
1,92 3,89 2,35 1,51 2,21 5,62 4,09 0,05 Cải bó xôi F1 chịu nhiệt PD512-Phú Điền Cải bó xôi chịu nhiệt F1- Lucky Seeds Cải bó xôi F1 (VA.DASH)- Việt Á CV (%) LSD0,05
Tương quan với sự phát triển về thân lá sẽ cho khối lượng cây, khối lượng rễ
cũng như năng suất lý thuyết và năng suất thực thu cao hơn. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về năng suất thực thu giữa cả 3 giống thí nghiệm. Trong đó giống F1 Phú
Điền cho năng suất gấp 1,17 lần giống F1(VA.DASH) (Việt Á) và gấp 1,31 lần
giống cải bó xôi chịu nhiệt F1(Lucky Seeds) (Bảng 3.3).
Hơn nữa, đối với giống cải bó xôi F1 (VA.DASH) (Việt Á) số lá trung bình
khoảng 10 lá/cây nhưng sau 2 tuần trồng cây có biểu hiện ra hoa, lá có dạng hình
mũi mác và cây rau có dạng thân rõ rệt. Kết quả cũng cho thấy, giống cải bó xôi F1
Phú Điền có lá to, dày và đều hơn, còn cải bó xôi chịu nhiệt F1 (Lucky Seeds) phần
thịt lá hẹp và mỏng hơn. Điều đó hoàn toàn phù hợp với kết quả năng suất tương
ứng cho mỗi giống ở trên. Vì thế, giống cải bó xôi F1 chịu nhiệt Phú Điền đã được
lựa chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.
53 Bảng 3.3. Ảnh hưởng của giống tới yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của cải
bó xôi trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST)
KLC KLTL KLR NSLT NSTT Giống (g) (g/cây) (g/cây) (kg/m2) (kg/m2)
Cải bó xôi F1 chịu nhiệt 35,91a 31,62a 4,29 3,16 2,23a PD512-Phú Điền
Cải bó xôi chịu nhiệt F1- 28,01b 24,53b 3,48 2,45 1,70c Lucky Seeds
Cải bó xôi F1 (VA.DASH)- 31,22b 27,41b 3,81 2,74 1,90b Việt Á
CV (%) 2,17 2,72 - - 3,43
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở
mức ý nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
KLC: Khối lượng toàn cây; KLR: Khối lượng rễ; KLTL: Khối lượng thân lá; NSLT:
Năng suất lý thuyết; NSTT: Năng suất thực thu.
3,41 3,92 - - 0,21 LSD0,05
Hình 3.1. Các giống cải bó xôi trồng thủy canh trong thí nghiệm (42 NST)
54
3.1.2. Dung dịch dinh dưỡng
Dung dịch thủy canh là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến
chất lượng và năng suất rau trồng thủy canh. Số lá trên cây, diện tích lá là cơ sở của
năng suất nhưng chúng không chỉ phụ thuộc vào yếu tố di truyền mà còn phụ thuộc
rất nhiều vào yếu tố dinh dưỡng. Khi dinh dưỡng đầy đủ và phù hợp cây sinh trưởng
phát triển tốt, tốc độ ra lá nhanh và nhiều và kích thước lá cũng đạt tối đa mà di
truyền quy định, khi đó năng suất sẽ cao, phẩm chất rau tốt. Ngược lại, khi dinh
dưỡng không đầy đủ, phù hợp cây sinh trưởng chậm, số lá trên cây ít, kích thước
nhỏ, thời gian sinh trưởng kéo dài, rau già, xơ nhiều, vì vậy năng suất thấp, giá trị
thương phẩm giảm.
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của các loại dung dịch dinh dưỡng tới sự sinh trưởng của cây
cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST)
DD dinh dưỡng CCC (cm) SL (lá/cây) LA (cm2/cây) SPAD
33,60b 13,70a 428,25b 31,50b SH1
SH3 37,41a 12,31a 513,08a 34,70a
SH5 32,92b 10,00b 320,17c 29,13b
CV (%) 1,42 2,43 3,98 3,99
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý nghĩa P < 5% theo phần mềm R. NST: Ngày sau trồng; CCC: Chiều cao cây; SL: Số lá;
LA: Diện tích lá
1,62 2,17 22,37 3,16 LSD0,05
Dung dịch dinh dưỡng Hoagland Arnon thường được sử dụng cho các nghiên
cứu trồng rau ăn lá trong dung dịch thủy canh (Duyar & Kılıç, 2016) [49]. Dung
dịch dinh dưỡng Hoagland không những cung cấp dinh dưỡng khá chất lượng cho
rau ăn lá, vốn là đối tượng cây trồng được thu hoạch trong thời gian ngắn mà còn là
dung dịch đầu tiên được biết phù hợp cho sự phát triển của cây cà chua đạt năng
suất cao trong thời gian dài. Một số nghiên cứu cho rằng dung dịch này có trong
thành phần hàm lượng các nguyên tố cao hơn so với quy định thích hợp cho rau ăn
55 lá và có nhiều thành phần dinh dưỡng dư lượng sau thu hoạch với tiềm năng có thể
gây ô nhiễm môi trường (Alberici et al., 2008) [27]. Chính bởi lẽ đó, việc sử dụng
hiệu quả tiềm năng của dung dịch dinh dưỡng Hoagland trong rau ăn lá là những
vấn đề còn cần tiếp tục nghiên cứu và cũng là cơ sở để tiến hành thí nghiệm trồng
cây cải bó xôi trong 3 dung dịch dinh dưỡng SH1, SH3 và SH5.
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của các loại dung dịch dinh dưỡng tới yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi
lưu (42 NST)
DD dinh KLC KLTL KLR NSLT NSTT
dưỡng (g) (g) (g/cây) (kg/m2) (kg/m2)
SH1 32,56b 27,71b 4,85 2,77 2,30b
SH3 38,57a 34,32a 4,25 3,43 2,83a
SH5 28,16c 22,35c 5,81 2,23 1,90c
CV (%) 4,30 4,75 - - 3,87
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R; KLC: Khối lượng toàn cây; KLR: Khối lượng rễ; KLTL: Khối lượng thân lá; NSLT: Năng suất lý thuyết; NSTT: Năng suất thực thu.
1,74 1,52 - - 0,12 LSD0,05
Kết quả cho thấy, ở tất cả các chỉ tiêu theo dõi (trừ số lá/cây) đều đạt giá trị
cao nhất ở công thức sử dụng dung dịch SH3. Sự sai khác này có ý nghĩa thống kê
so với 2 công thức còn lại. Do có sự phát triển về chiều cao cây cũng như lá vượt
trội nên khối lượng cây, năng suất khi dùng dung dịch SH3 đều cao tương ứng 1,23
đến 1,5 lần so với dung dịch SH1 và SH5. Chiều cao cây và chỉ số SPAD không có
sự sai khác về mặt thống kê giữa dung dịch SH1 và SH5, nhưng giữa 2 công thức
dung dịch dinh dưỡng này khác biệt nhau về tất cả các chỉ tiêu còn lại (Bảng 3.4,
Bảng 3.5, Hình 3.2.). Kết quả nghiên cứu này có phần tương đồng với các nghiên
cứu trước đây về năng suất cây trồng trên hệ thống thủy canh thay đổi tùy từng loài
thực vật, giống, mùa vụ, mật độ trồng (cây/m2), thời gian sinh trưởng, thu hoạch và
nồng độ dung dịch dinh dưỡng (Alberici et al. , 2008; Jakse et al. , 2013) [27], [63].
56
Hình 3.2. Giống cải bó xôi PD512 trồng ở các dung dịch dinh dưỡng khác nhau
(42 NST)
3.1.3. EC dung dịch
Từ thí nghiệm 1 và 2 đã tìm ra được giống cải bó xôi F1 chịu nhiệt PD512-
Phú Điền và dung dịch dinh dưỡng SH3 là tốt nhất cho hệ thống thủy canh hồi
lưu, nên giống và dung dịch này được sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo.
EC (Electrical Conductivity) là độ dẫn điện của dung dịch diễn tả nồng độ ion
hòa tan trong dung dịch. Nồng độ ion trong dung dịch quyết định sự tăng trưởng và
năng suất của cây. Tổng lượng muối hòa tan trong dung dịch sẽ tạo ra một áp suất
thẩm thấu, một cách gián tiếp để xác định áp suất thẩm thấu của dung dịch dinh
dưỡng là độ dẫn điện EC. Việc cung cấp các chất dinh dưỡng, cụ thể là Fe, Cu, Zn,
Mn, B, Mo và Ni là rất nhỏ so với các nguyên tố khác và do đó ít ảnh hưởng đến EC;
giá trị EC cao làm giảm hấp thụ nước do tăng áp suất thẩm thấu, trong khi EC thấp có
thể ảnh hưởng đến cung cấp dinh dưỡng và năng suất cây trồng. Sự giảm hấp thụ
nước mạnh tương quan tuyến tính đến EC (Sonneveld & Voogt, 2009) [139].
Trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển, cây hấp thụ chất mà nó cần, do
vậy phải duy trì EC ở một mức ổn định là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên mức độ sử
dụng dinh dưỡng của các cây là khác nhau nên thí nghiệm được tiến hành để nghiên
cứu ảnh hưởng của EC đối với cải bó xôi chịu nhiệt trên hệ thống thủy canh hồi lưu
để tìm ra EC thích hợp với cải bó xôi đem lại năng suất cao.
57 Bảng 3.6. Ảnh hưởng của EC tới sự sinh trưởng của cây cải bó xôi giống PD512
trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST)
EC CCC SL LA SPAD (µS/cm) (cm) (lá/cây) (cm2/cây)
800 35,45b 8,63b 252,08c 31,51b
1.000 35,60b 10,53b 412,96b 34,48a
1.200 39,56a 14,46a 497,56a 34,53a
1.400 39,67a 14,63a 498,86a 34,53a
CV (%) 1,36 5,38 4,67 1,89
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R. NST: Ngày sau trồng; CCC: Chiều cao cây; SL: Số lá;
LA: Diện tích lá
0,96 1,22 2,43 1,2 LSD0,05
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của EC tới yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của cây
cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST)
KLTL (g) 21,93c KLR (g/cây) 5,02 NSLT (kg/m2) 2,23 NSTT (kg/m2) 1,83c EC (µS/cm) 800 KLC (g) 26,95c
30,19b 5,27 2,77 2,52b 1.000 35,46b
34,89a 4,44 3,43 2,90a 1.200 39,33a
35,18a 4,46 3,44 2,94a 1.400 39,51a
1,31 - - 2,68 CV (%) 1,78
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R. KLC: Khối lượng toàn cây; KLR: Khối lượng rễ; KLTL: Khối lượng thân lá; NSLT: Năng suất lý thuyết; NSTT: Năng suất thực thu.
0,76 - - 0,21 1,18 LSD0,05
Kết quả Bảng 3.6, Bảng 3.7, Hình 3.3 cho thấy, không có sự khác biệt về
chiều cao cây và số lá ở công thức EC = 800 µS/cm và EC = 1.000 µS/cm; EC =
1.200 µS/cm và EC = 1.400 µS/cm nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
hai nhóm công thức này. Tuy vậy, diện tích lá ở công thức EC = 1.000 µS/cm cao
58 hơn hẳn EC = 800 µS/cm, điều đó cho thấy kích thước lá khi EC lớn hơn là lớn hơn.
Trừ chỉ số SPAD không sai khác giữa 3 công thức EC = 1.000 µS/cm; EC = 1.200
µS/cm và EC = 1.400 µS/cm, tất cả các chỉ tiêu còn lại khác như diện tích lá trên
cây, khối lượng cây, khối lượng thân lá và năng suất lý thực thu ở cả 3 công thức
EC= 800 µS/cm; EC= 1.000 µS/cm; EC = 1.200 µS/cm có sự sai khác có ý nghĩa
thống kê ở mức độ tin cây 95%. Riêng công thức EC = 1400 µS/cm không có sự
sai khác so với công thức EC= 1.200 µS/cm ở các chỉ tiêu kể trên. Cụ thể với EC =
1.200 µS/cm và EC = 1.400 µS/cm thì có số lá, diện tích lá, khối lượng cây, khối
lượng thân lá và năng suất thực thu đều cao hơn 2 công thức mức EC = 800 µS/cm
và EC = 1.000 µS/cm lần lượt khoảng: 1,7; 2; 1,5; 1,6; 1,6 lần và 1,4; 1,2; 1,1; 1,2;
1,2 lần (Bảng 3.6, Bảng 3.7, Hình 3.3).
Hình 3.3. Giống cải bó xôi PD512 trồng ở các mức EC dung dịch khác nhau
(42NST)
Như vậy, thành phần các nguyên tố khoáng trong dung dịch dinh dưỡng có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự hấp thu dinh dưỡng của cây, do đó quyết định đến năng
suất cây cải bó xôi. Trong quá trình cây sinh trưởng sẽ hấp thụ các ion khoáng làm
thay đổi giá trị EC, đây cũng là cơ sở giúp điều chỉnh và bổ sung lượng dinh dưỡng
thích hợp cho cây trồng thủy canh. Kết quả nghiên cứu này cũng tương đồng với kết
quả nghiên cứu của tác giả Sakamoto & Suzuki trên cây khoai lang (2020)
(Sakamoto & Suzuki, 2020) [129]. Mặt khác, trong nghiên cứu này, khi tăng EC từ
1.200 µS/cm lên 1.400 µS/cm không làm thay đổi có ý nghĩa các giá trị sinh trưởng
cũng như năng suất cây cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh, vì thế ngưỡng giá
trị EC là 1.200 µS/cm đã được lựa chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.
59
3.1.4. pH dung dịch
Độ pH trong dung dịch thủy canh là một chỉ số xác định thuộc tính hoá học
của nước. Trong môi trường dinh dưỡng, pH có vai trò rất quan trọng cho sự sinh
trưởng và phát triển của cây trồng. Giá trị pH được tính trên mức độ hoạt động của
các nguyên tố khác nhau với cây trồng. pH có thể được cân bằng bởi hoạt động của
cây. Nếu pH tăng (môi trường bị kiềm hóa), khi đó cây sẽ thải ra các muối axit vào
môi trường nhưng điều này lại làm tăng lượng độc tố trong môi trường và làm hạn
chế sự dẫn nước. Nếu pH giảm (môi trường bị axit hóa) thì cây sẽ thải ra các ion
bazơ, quá trình này có thể làm hạn chế quá trình hấp thu các muối gốc axit. Sự thay
đổi pH trong dung dịch dinh dưỡng thường xảy ra khá nhanh, phụ thuộc vào kích
thước của hệ thống rễ và thể tích dinh dưỡng của một cây. Sự sinh trưởng của cây là
một trong những nhân tố làm cho môi trường trở nên có tính axit hơn, vì trong quá
trình sinh trưởng rễ giải phóng ra các axit hữu cơ và ion H+. Một tính năng quan
trọng của các dung dịch dinh dưỡng là chúng phải chứa các ion trong dung dịch và
ở các dạng hóa học có thể hấp thu được bởi thực vật. Do đó, trong hệ thống thủy
canh năng suất liên quan chặt chẽ với sự hấp thu dinh dưỡng và sự điều chỉnh pH
(Tyson et al., 2007) [151].
Do đó, thông thường người trồng sẽ cố gắng cân chỉnh pH của dung dịch cho
cây ở trong khoảng từ 5,8 đến 6,5 (De Rijck & Schrevens, 1999) [47]. Bởi vì khi pH
của dung dịch ở trong khoảng này thì cây sẽ có khả năng hấp thụ tốt nhất chất dinh
dưỡng có trong dung dịch. Tuy nhiên mức độ sử dụng dinh dưỡng của các cây là
khác nhau nên thí nghiệm được tiến hành để nghiên cứu ảnh hưởng của pH đối với
cải bó xôi chịu nhiệt trên hệ thống thủy canh hồi lưu để tìm ra mức pH thích hợp
với cải bó xôi đem lại năng suất cao.
Kết quả cho thấy, chiều cao cây không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê ở
công thức pH 6 - 6,5 và 7 - 7,5, nhưng một số chỉ tiêu khác như số lá, diện tích lá
trên cây, khối lượng cây có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở cả 3 công thức
nghiên cứu. Tuy nhiên, khối lượng thân lá là phần ăn được và năng suất lý thuyết
chỉ sai khác có ý nghĩa thống kê ở công thức pH 6 - 6,5 so với 2 công thức còn lại là
60 pH 5 - 5,5 và pH 7 - 7,5 (giữa chúng không có sự khác biệt). Như vậy có thể thấy
rằng, số lá, diện tích lá và khối lượng cây ở pH 7 - 7,5 cao hơn pH 5 - 5,5 nhưng
khối lượng phần rễ của công thức này cũng lớn hơn nên khối lượng phần ăn được là
thân lá và năng suất thực thu không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 3.8,
Bảng 3.9, Hình 3.4).
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của pH tới sinh trưởng của cây cải bó xôi giống PD512 trồng
trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST)
CCC SL LA pH SPAD (cm) (lá/cây) (cm2/cây)
5-5,5 26,78c 8,90c 297,88c 30,83b
6-6,5 36,38a 14,00a 503,73a 35,35a
7-7,5 34,76a 12,00b 421,84b 31,83b
CV (%) 2,41 3,24 4,78 3,35
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R. G: Giống; NST: Ngày sau trồng; CCC: Chiều cao cây;
SL: Số lá; LA: Diện tích lá.
1,71 0,88 9,17 3,31 LSD0,05
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của pH tới yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của cây
cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST)
KLC KLTL KLR NSLT NSTT pH (g) (g) (g/cây) (kg/m2) (kg/m2)
5-5,5 29,50c 25,08b 4,42 2,01 2,09b
6-6,5 39,27a 34,42a 4,85 2,75 2,87a
7-7,5 33,13b 27,22b 5,91 2,18 2,27b
CV (%) 2,17 2,93 - - 3,49
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R. KLC: Khối lượng toàn cây; KLR: Khối lượng rễ; KLTL: Khối lượng thân lá, NSLT: Năng suất lý thuyết; NSTT: Năng suất thực thu.
2,66 3,86 - - 0,32 LSD0,05
61
Cây cải bó xôi được trồng trong hệ thống thủy canh, việc điều chỉnh pH, EC
và oxi hòa tan của hệ thống là yếu tố vô cùng quan trọng. Bởi pH, EC khác nhau thì
khả năng hấp thụ của cây trồng và phần trăm tính hữu hiệu của mỗi chất dinh dưỡng
là khác nhau. Các vấn đề về EC và pH tiềm ẩn bất lợi cho sinh trưởng của cây có
thể được loại bỏ bằng dung dịch dinh dưỡng thích hợp (Lenzi et al., 2011) [83].
Trong kết quả nghiên cứu này, ngưỡng pH và EC phù hợp cho sinh trưởng của cây
cải bó xôi giống PD512 lần lượt là 6 - 6,5 và 1.200 µS/cm. Kết quả này có phần
tương đồng với nghiên cứu của Oztekin & cs. (2018) cũng trên cây cải bó xôi, với
việc sử dụng các dung dịch khác nhau, ngưỡng pH và EC cho hiệu quả trong nghiên
cứu của nhóm tác giả là 1,16 - 1,40 dS/m và pH 5,5 đến 6,5, đồng thời phụ thuộc
vào các giai đoạn khác nhau (Öztekin et al. , 2018) [108].
Hình 3.4. Giống cải bó xôi PD512 trồng ở các mức pH dung dịch khác nhau
(42 NST)
3.1.5. Khoảng cách trồng
Khoảng cách trồng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hấp thu năng
lượng ánh sáng, do đó ảnh hưởng đến quang hợp và năng suất cây trồng. Kết quả thí
nghiệm thể hiện ở Bảng 3.10, Bảng 3.11 và Hình 3.5 đã cho thấy, sự khác biệt về
chiều cao cây giữa các khoảng cách khác nhau là không có ý nghĩa thống kê ở mức
độ tin cậy 95%. Tuy nhiên với cả 3 khoảng cách được nghiên cứu đều cho sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê ở tất cả các thông số còn lại như: số lá, diện tích lá, chỉ số
SPAD, khối lượng cây, khối lượng thân lá và năng suất thực thu, trong đó khoảng
62 cách trồng 15cmx12cm cho các thông số trên cao nhất tương ứng lần lượt gấp 1,57;
1,14; 1,1; 1,34; 1,37; 1,38 so với cây trồng ở khoảng cách 10 cm x 12 cm và 1,17;
1,1; 1,22; 1,45; 1,16; 1,16 lần so với cây trồng ở khoảng cách 20 cm x 12 cm (Bảng
3.10, Bảng 3.11, Hình 3.5).
Trong nghiên cứu này, giống cải bó xôi PD512- Phú Điền với khoảng cách 15
cm x 12 cm (tương đương 190 cây/m2) cho năng suất cao nhất. Điều này là hợp lý
bởi giống chịu nhiệt tỏ ra phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới của Việt Nam
ngay cả các thời vụ khác nhau, còn mật độ trên là phù hợp cho khả năng hấp thu
năng lượng ánh sáng, bởi nếu khoảng cách thưa hơn có thế gây lãng phí năng lượng
ánh sáng và cao hơn sẽ có sự che lấp của các lớp lá dưới. Kết quả về năng suất cải
bó xôi trồng thủy canh về cơ bản là cao, thậm chí còn lớn hơn năng suất rau cải bó
xôi trồng trên đất và lớn hơn cải bó xôi trồng trên hệ thống thủy canh sử dụng giá
thể perlite (năng suất 1,1 - 1,5 kg/m2) của Cocetta et al. (2007) (Cocetta et al., 2007)
[44].
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của khoảng cách trồng tới sự sinh trưởng của cây cải bó xôi
giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu (42 NST)
Khoảng cách CCC SL LA SPAD (cm) (cm) (lá/cây) (cm2/cây)
10cmx12cm 35,07a 8,90c 426,95c 32,05b
15cmx12cm 35,91a 14,00a 485,16a 35,34a
20cmx12cm 35,86a 12,00b 447,42b 29,02c
CV (%) 2,47 3,42 4,27 3,24
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R. G: Giống; NST: Ngày sau trồng; CCC: Chiều cao cây; SL: Số lá; LA: Diện tích lá.
1,45 0,88 11,20 1,97 LSD0,05
63 Bảng 3.11. Ảnh hưởng của khoảng cách trồng tới yếu tố cấu thành năng suất và
năng suất của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu
(42 NST)
Khoảng cách KLC KLTL KLR NSLT NSTT
(cm) (gam) (g) (g/cây) (kg/m2) (kg/m2)
10cmx12cm 29,84c 24,92c 4,92 2,00 2,08c
15cmx12cm 39,95a 34,54a 5,41 1,67 2,88a
20cmx12cm 34,89b 29,74b 5,15 1,20 2,48b
CV (%) 3,27 4,25 - - 2,98
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R. KLC: Khối lượng toàn cây; KLR: Khối lượng rễ; KLTL:
Khối lượng thân lá; NSLT: Năng suất lý thuyết; NSTT: Năng suất thực thu.
2,05 1,34 - - 0,12 LSD0,05
Hình 3.5. Giống cải bó xôi PD512 trồng ở các khoảng trồng cách khác nhau
(42 NST)
3.1.6. Các chỉ số vệ sinh an toàn thực phẩm
-
3.1.6.1. Hàm lượng NO3
Sự hấp thu nitơ quá mức hoặc ức chế chuyển đổi nitơ thành protein bởi một số
yếu tố môi trường dẫn đến tích lũy nitơ trong suốt giai đoạn sinh trưởng của cây.
Một phần nhỏ của nitơ được hấp thu thông qua dinh dưỡng được giảm xuống thành
nitrit bởi vi khuẩn có trong miệng và dạ dày. Nitrit có nhiều tác động tiêu cực khác
64 đối với sức khỏe con người vì nó phản ứng với amin bậc hai và dẫn đến sự hình
thành các chất gây ung thư, mutagen và teratogen nitrosamine. Hàm lượng nitrate ở
lá giảm khi nồng độ dung dịch dinh dưỡng giảm là do nồng độ nitrate trong mô
giảm (Duyar & Kılıç, 2016) [49]. Điều này có thể được giải thích thông qua việc sử
dụng nitrate đã được lưu trữ trong không bào, khi nồng độ nitrate cung cấp từ môi
trường thấp hơn so với nhu cầu của cây (Alberici et al. , 2008) [27].
Với mục tiêu sản xuất sản phẩm an toàn phục vụ tiêu dùng và hướng mở rộng
mô hình sản xuất, nghiên cứu cũng đã tiến hành đánh giá độ an toàn của sản phẩm
- tích lũy trong cây cải bó xôi giống
cải bó xôi tạo ra.
Bảng 3.12. Kết quả phân tích hàm lượng NO3
PD512 trồng thủy canh hồi lưu thu hoạch sau thời gian ngừng cung cấp dinh dưỡng
khác nhau
-
Thời gian ngừng cung Quyết định số Mức giới hạn Hàm lượng NO3
cấp dinh dưỡng trước trong thân lá 99/2008/QĐ- tối đa cho phép
khi thu hoạch (ngày) BNN (mg/kg KLT) (mg/kg)
1.171a 0 ngày
TCVN 974a 1 ngày
8742:2011 1500 627b 2 ngày
226c 4 ngày
14,98 CV (%)
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
- tính theo khối lượng tươi của phần ăn
nghĩa P < 5% theo phần mềm R. Hàm lượng NO3
được.
221,39 LSD0,05
- trong rau
Kết quả bảng 3.12 cho thấy, rau cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh có
- đạt tiêu chuẩn an toàn. Có thể thấy rằng, hàm lượng NO3
hàm lượng NO3
cải bó xôi giống PD512 thu hoạch luôn mà không có thời gian ngừng cấp dinh
- có trong rau cải bó xôi tỉ lệ nghịch với thời gian ngừng cấp dinh
dưỡng vẫn ở mức giới hạn cho phép theo Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN [15].
- giảm (giảm
Hàm lượng NO3
dưỡng nên khi tăng thời gian ngừng cấp dinh dưỡng thì hàm lượng NO3
65 5,18 lần sau 4 ngày ngừng cung cấp dinh dưỡng so với thu hoạch luôn). Tuy nhiên,
nếu tăng thời gian ngừng cung cấp dinh dưỡng thêm nữa, cây có biểu hiện thay đổi
màu sắc lá. Vì thế, có khả năng thời gian thu hoạch sau khi ngừng cung cấp dinh
dưỡng 4 ngày là phù hợp.
3.1.6.2. Hàm lượng một số kim loại nặng (As, Hg, Cd, Pb)
Bảng 3.13. Kết quả phân tích hàm lượng một số kim loại nặng trong cây cải bó xôi
giống PD512 trồng thủy canh hồi lưu (42 NST)
Chỉ tiêu đánh Hàm lượng KLN Mức giới hạn Tiêu chuẩn giá trong thân lá tối đa cho phép
0,0181 TCVN 7770:2007 [18] 1,00 As (mg/kg)
TCVN 7929:2008 [16] 0,10 0,0092 Cd (mg/kg)
TCVN 7604:2007 [17] 0,05 0,0060 Hg (mg/kg)
Ghi chú: Hàm lượng các chất tính theo khối lượng tươi của phần ăn được, KLN: Kim
loại nặng
TCVN 7929:2008 [16] 0,30 0,1640 Pb (mg/kg)
Kết quả phân tích về hàm lượng kim loại nặng trong rau cải bó xôi trồng thủy
canh cho thấy đều dưới ngưỡng rất xa so với mức giới hạn tối đa cho phép theo
Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp [15] (Bảng 3.13).
Kết quả nghiên cứu về hàm lượng nitrate này cũng có những nét tương đồng
với nghiên cứu của Oztekin & cs. (2018) [98], khi cải bó xôi thủy canh trong các
dung dịch dinh dưỡng khác nhau (trong nước, trong dung dịch dinh dưỡng đầy đủ
và dung dịch dinh dưỡng giảm một nửa hàm lượng) (Öztekin et al. , 2018) [108].
Có thể cho rằng rau cải bó xôi trồng trong hệ thống thủy canh ngoài việc giảm hàm
lượng nitrate, ứng dụng giảm thành phần dinh dưỡng có thể cho năng suất và chất
lượng cao.
Trong nghiên cứu trên, hàm lượng nitrate trong lá (226 - 1.171 mg/kg) cũng
- này còn thấp hơn rất nhiều so với quy định của Ủy ban châu
thay đổi phụ thuộc thời gian ngừng cung cấp dinh dưỡng khác nhau. Thậm chí, kết
quả về hàm lượng NO3
Âu số: 1258/2001 (European Commission Regulation, No: 1258/2001, EUR-LEX,
66
- là 3.500 mg/kg cho
2017) [177], theo đó giá trị ngưỡng tối đa về hàm lượng NO3
rau cải bó xôi và xà lách, do đó không gây ra bất kỳ rủi ro nào đối với sức khỏe con
người. Như vậy, kết quả này cũng gần như đồng nhất với những nghiên cứu trước
-, tăng hàm
đó về phương pháp không bổ sung nguồn N (N-free media) cho dung dịch dinh
dưỡng trồng thủy canh trước khi thu hoạch nhằm giảm hàm lượng NO3
- sau 2 ngày chuyển sang dung dịch thiếu nguồn N) (Mozafar, 1996) [98].
lượng vitamin C có trong rau cải bó xôi của tác giả Mozafar (1996) (giảm 11 lần hàm
lượng NO3
Hơn nữa, hàm lượng các kim loại nặng của rau cải bó xôi trồng trên hệ thống
thủy canh hổi lưu này đều nằm ở thấp hơn ngưỡng giới hạn cho phép rất nhiều.
Điều này một lần nữa khẳng định rau cải bó xôi trồng trên hệ thống thủy canh hồi
lưu là hoàn toàn an toàn cho người sử dụng.
Tóm lại: Trong 3 giống cải bó xôi thí nghiệm, giống cải bó xôi chịu nhiệt F1
PD512 thích hợp nhất trồng bằng phương pháp thủy canh hồi lưu. Trồng giống cải
bó xôi trên với khoảng cách 15 cm x 12 cm (190 cây/m2) và sử dụng dung dịch dinh
dưỡng SH3 với mức EC = 1.200 µS/cm, pH từ 6 - 6,5 là phù hợp trong suốt thời
gian sinh trưởng của cây, đạt năng suất thực thu 2,4 kg/m2 đến 2,9 kg/m2. Thu
- và hàm lượng kim loại nặng.
hoạch rau cải bó xôi sau 4 ngày ngừng cung cấp dinh dưỡng sẽ đảm bảo rau an toàn
về hàm lượng NO3
3.2. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng khác nhau đến sinh trưởng, năng suất và
phẩm chất của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh hồi lưu
3.2.1. Sinh trưởng, sinh lý
3.2.1.1. Thông số tăng trưởng
Kết quả chỉ ra rằng rau cải bó xôi trồng thủy canh đạt chiều cao cây 31,53 cm
ở công thức ánh sáng vàng (ASV) và số lá cao nhất ở công thức xử lý ánh sáng đèn
LED đỏ-xanh (ASĐX) (30,55 lá/cây). Sự khác biệt giữa chiều cao cây ở công thức
ánh sáng đèn LED vàng và ánh sáng đỏ - xanh không có ý nghĩa thống kê, trong khi
đó sự sai khác về số lá giữa 2 công thức này là có ý nghĩa thống kê (ở mức ý nghĩa
P<0,05). Trong khoảng thời gian từ 7 ngày đến 14 ngày sau khi trồng (NST), chiều
cao cây thay đổi chậm, từ 14 ngày đến khi thu hoạch (30 NST), tốc độ tăng trưởng
67 của cây tăng nhanh, đặc biệt là ở công thức ánh sáng đỏ-xanh. Vào thời điểm đó,
chiều cao cây và số lá ở công thức ánh sáng trắng (AST) là thấp nhất 28,72cm. Do đó,
tốc độ tăng trưởng tương đối và hiệu suất quang hợp thuần giữa 3 phổ ánh sáng có sự
khác biệt có ý nghĩa, cụ thể: tốc độ tăng trưởng tương đối của công thức xử lý ánh sáng
đỏ xanh cao gấp 1,06 và 1,07 lần công thức ánh sáng vàng và trắng; hiệu suất quang
hợp thuần ở công thức đỏ xanh tương ứng cao gấp 1,04 và 1,07 lần 2 công thức còn lại.
Diện tích lá khác nhau đáng kể giữa ba phổ ánh sáng khác nhau. Diện tích lá cao nhất
là ở công thức xử lý ánh sáng đỏ-xanh, cao hơn 1,27 lần công thức ánh sáng vàng và
1,57 lần công thức xử lý ánh sáng trắng (Hình 3.6, Bảng 3.14).
B
A Hình 3.6. Động thái tăng trưởng chiều cao cây (A), số lá (B) của cải bó xôi giống
PD512 trồng thủy canh ở các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng PPFD =
Ghi chú: ASV: ánh sáng vàng, AST: ánh sáng trắng, ASĐX: ánh sáng đỏ xanh
190 µmol/m2/s)
68 Bảng 3.14 . Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng cường
độ PPFD = 190 µmol/m2/s) đến sinh trưởng của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy
canh trong nhà (30 NST)
Công thức CCC (cm) Số lá (lá/cây) LA (dm2/cây) RGR (g/ngày) NAR (g/m2/ngày)
28,72b 24,55c 6,82c 0,121c 5,22c
31,53a 29,27b 8,43b 0,132b 5,35b
31,04a 30,55a 10,69a 0,140a 5,56a
Ghi chú: AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh, Đ/C: Đối
chứng. Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
CCC: Chiều cao cây; LA: Diện tích lá. RGR: Tốc độ tăng trưởng tương đối, NAR: hiệu
suất quang hợp thuần, NST: ngày sau khi trồng.
1R:1B:1G (AST) 5R:2B:3G (ASV) 4R:1B (ASĐX-Đ/C) CV% LSD5% 1,5 1,0 1,1 0,73 1,1 0,37 2,71 0,007 1,14 0,122
Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Li et al. (2007) [86]. Kết
quả cho thấy, chiều cao và đường kính thân cây được thúc đẩy đáng kể bằng cách
kết hợp giữa đèn LED ánh sáng đỏ (R), xanh lam (B) và đèn LED ánh sáng R đơn
sắc hơn các loại đèn LED ánh sáng khác. Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng của rễ
thấp hơn dưới ánh sáng đỏ (R) và màu tím (P). Hiệu suất quang hợp thuầncủa cây
con cao nhất trong các cây được trồng dưới ánh sáng đỏ xanh với tỉ lệ 3:1. Sự kết
hợp giữa đèn LED ánh sáng R:B và ánh sáng B đơn sắc được tìm thấy tăng đáng kể
các thông số sinh trưởng so với đèn LED ánh sáng trắng (W).
3.2.1.2. Sắc tố quang hợp
Việc sử dụng đèn LED màu xanh và đỏ là lựa chọn chính cho các nhà sản xuất
vì các bước sóng này được hấp thụ hiệu quả bởi các sắc tố thực vật mà cụ thể là
diệp lục. Tỉ lệ hấp thụ ánh sáng xanh lam hoặc đỏ của lá cây là khoảng 90% và ánh
sáng xanh lá cây khoảng 70-80% (Terashima et al., 2009) [147]. Đèn màu xanh lam
(420-450nm) và đỏ (600- 700nm) được hấp thụ bởi diệp lục a (Chl a) có cực đại hấp
thụ ở 430 và 665nm và diệp lục b (Chl b) ở 453nm và 642nm. Do đó, sự phát triển
69 và sinh lý thực vật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ ánh sáng màu xanh hoặc đỏ. Ánh sáng
xanh lam ức chế sự kéo dài của hypocotyl và tạo sinh khối, còn ánh sáng đỏ gây ra
sự kéo dài hypocotyl và mở rộng phiến lá. Ánh sáng xanh lá cây cũng ảnh hưởng
đến hình thái và sinh lý thực vật, bao gồm sự phát triển của lá, độ dẫn của khí khổng
và sự kéo dài sớm của thân (Johkan et al. , 2012) [67]. Mặc dù diệp lục là các sắc tố
quang hợp chính, các sắc tố vệ tinh khác như carotenoids và anthocyanin cũng tham
gia vào quá trình quang hợp. Carotenoids là các sắc tố phụ màu cam và vàng được
tìm thấy trong lục lạp, đóng vai trò bảo vệ khi thực vật tiếp xúc với ánh sáng quá
mức thông qua việc tiêu tán năng lượng dư thừa, giải độc gốc tự do và do đó hạn
chế thiệt hại cho màng. Ngoài ra, chúng góp phần vào quá trình quang hợp bằng
cách hấp thu năng lượng và chuyển năng lượng ánh sáng sang diệp lục trong vùng
PAR của quang phổ. Trong trường hợp không có carotenoids, ánh sáng quá mức sẽ
có tác động bất lợi đến protein và màng. Vì thế, các sắc tố kèm này hoạt động kết
hợp với diệp lục, giúp chuyển ánh sáng đến các hệ thống quang điện, tiêu tán năng
lượng ánh sáng dư thừa hoặc có thể hoạt động như các chất chống oxi hóa
(Ouzounis et al., 2015) [107].
Các giá trị về hàm lượng sắc tố quang hợp cao nhất ở công thức ánh sáng đỏ
xanh, sau đó là công thức ánh sáng vàng và cuối cùng là ánh sáng trắng. Tuy nhiên,
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hàm lượng Chla giữa công thức xử lý
ánh sáng vàng và công thức xử lý ánh sáng trắng và cũng không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về hàm lượng Chlb giữa công thức xử lý vàng và ánh sáng đỏ
xanh. Nhưng có sự sai khác có ý nghĩa thống kê về tổng hàm lượng chla và chlb,
hàm lượng carotenoid ở công thức xử lý ánh sáng trắng so với 2 công thức còn lại.
Do đó, giá trị SPAD là cao nhất trong công thức xử lý ánh sáng đỏ - xanh và các giá
trị này cao hơn tương ứng 1,05 đến 1,06 lần so với ánh sáng vàng và trắng. Tuy
nhiên tỉ lệ chla/chlb chỉ có sự sai khác có ý nghĩa giữa công thức ánh sáng trắng với
công thức xử lý ánh sáng đỏ xanh, nhưng không khác biệt nhiều giữa công thức ánh
sáng vàng và ánh sáng đỏ-xanh (Bảng 3.15).
70 Bảng 3.15. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng cường độ
PPFD = 190 µmol/m2/s) đến hàm lượng sắc tố quang hợp của cải bó xôi giống
PD512 trồng thủy canh trong nhà (30 NST)
Chla Chlb Chl(a+b) Chla/ Carotenoids SPAD Công thức (mg/g) (mg/g) (mg/g) Chlb (mg/g)
1R:1B:1G 0,268b 0,498b 0,766b 0,538b 0,169b 36,34b (AST)
5R:2B:3G 0,274b 0,515a 0,789a 0,532ab 0,181a 36,71b (ASV)
4R:1B 0,290a 0,522a 0,812a 0,555a 0,183a 38,37a (ASĐX-Đ/C)
1,68 1,51 1,38 1,6 2,34 0,7 CV%
Công thức: AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh. Những trị số
trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý nghĩa P < 5% theo phần mềm
R, NST: ngày sau khi trồng.
LSD 0,009 0,015 0,022 0,017 0,008 0,77
3.2.1.3. Khả năng quang hợp
Khả năng quang hợp là chỉ tiêu quan trọng phản ánh mức độ sinh trưởng cũng
như hình thành năng suất, chất lượng cây trồng. Trong đó, chỉ số Fv/Fm là huỳnh
quang thông số cảm ứng đặc trưng cho hiệu suất lượng tử tối đa của hệ thống quang
hóa II (PS II). Với những cây diễn ra hoạt động quang hợp bình thường thông số
này luôn duy trì ở mức lớn hơn 0,8 và nhỏ hơn 1. Trong trường hợp thuận lợi số
lượng tử tối đa trong các phản ứng hóa sinh của hệ thống quang hóa II cũng như quá
trình vận chuyển điện tử của hệ thống này (photosystem II electron transport -
ΦPSII) có thể tiến gần đến tới 1 (Kramer et al., 2004; Maxwell & Johnson, 2000)
[79], [94]. Kết quả về thông số quang hợp được trình bày trong Bảng 3.16.
71 Bảng 3.16. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng cường độ
PPFD = 190 µmol/m2/s) đến khả năng quang hợp của cải bó xôi giống PD512 trồng
thủy canh trong nhà (30 NST)
Gs Pn Fv/Fm Công thức Fo Fm Fv/Fo (mmol/ (µmol CO2
m2/s) /m2lá/s)
1R:1B:1G 0,113 0,627 0,819b 4,525 0,210 39,60b (AST)
5R:2B:3G 0,122 0,631 0,806b 4,155 0,162 39,99b (ASV)
4R:1B 0,045 0,51 0,912a 10,364 0,112 44,26a (ASĐX-Đ/C)
CV% 2,3 3,7
Công thức: AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh, Đ/C: Đối chứng,
Pn: Cường độ quang hợp, Gs: Độ dẫn khí khổng. Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái
là không có sự sai khác ở mức ý nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
LSD5% 0,04 3,06
Các giá trị Pn và Fv/Fm là cao nhất trong công thức xử lý ánh sáng đỏ-xanh và
các giá trị này cao hơn tương ứng 1,11 đến 1,12 lần và 1,11 - 1,13 lần so với hai
cách xử lý ánh sáng còn lại. Tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa các công thức
xử lý ánh sáng trắng và ánh sáng vàng trong các thông số kể trên. Ngược lại độ dẫn
khí hổng Gs lại có giá trị thấp nhất ở công thức xử lý ánh sáng đỏ xanh (Bảng 3.16).
Phổ ánh sáng là một yếu tố quan trọng đối với các sắc tố quang hợp và ánh
sáng đỏ có ảnh hưởng lớn hơn so với các phổ ánh sáng khác (Wollaeger & Runkle,
2015) [160]. Chúng tôi nhận thấy kết quả một số điểm liên hệ với nghiên cứu của
Ma et al. (2018) [90]. Ở đó hàm lượng diệp lục của ba giống đậu tương là thấp nhất
trong công thức xử lý ánh sáng lam. Điều này chỉ ra rằng ánh sáng xanh lam có thể
ảnh hưởng đến cây giống đậu tương để tổng hợp diệp lục. Nhưng hàm lượng diệp
lục của cây giống đậu tương tương đối cao hơn khi xử lý bằng đèn LED trắng. Hơn
nữa, đèn LED trắng phát ra ánh sáng màu xanh lá cây trong khi ở tất cả các công
72 thức xử lý ánh sáng khác không bất kỳ công thức nào có ánh sáng xanh lá cây (Ma
et al., 2018) [90]. Các kết quả tương tự về hàm lượng diệp lục đã được báo cáo ở
các công thức xử lý ánh sáng đèn LED trong rau diếp, cà chua (Liu et al., 2009;
Wollaeger & Runkle, 2015) [88], [160].
Tuy nhiên, lá cây có màu xanh vì một phần ánh sáng màu xanh lá cây tự nhiên
không được hấp thụ mà bị phản xạ. Ánh sáng xanh lá cây trước đây được coi là
không được thực vật hấp thụ (Ohashi-Kaneko et al., 2007) [105]. Trong khi đó, một
số nghiên cứu cho thấy rằng ánh sáng xanh lá cây có thể đóng vai trò trong việc kéo
dài thân (Folta, 2004) [52]. Khả năng quang hợp đã tăng đáng kể dưới ánh sáng
xanh lá cây nếu cường độ ánh sáng cao hơn 300 µmol/m2/s (Johkan et al. , 2012)
[67]. Trong nghiên cứu này, các giá trị SPAD, Pn và Fv/Fm được quan sát tương
đối ổn định và tương tự nhau khi tỉ lệ khác nhau của ánh sáng xanh lá cây được bổ
sung cho ánh sáng đỏ-xanh. Ánh sáng xanh lá cây cũng được biết là tăng cường khả
năng quang hợp sâu hơn trong tán lá cây (Bantis et al. , 2018) [30], nhờ tăng khả
năng quang hợp mà cây sinh trưởng tốt hơn (Son & Oh, 2015; Bian et al. , 2018)
[31] , [138]. Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, ở cùng tần số ánh sáng (50 Hz và
25 Hz), hàm lượng diệp lục a, diệp lục b và carotenoid trong giống cây rau diếp đỏ
tiếp xúc với ánh sáng LED xanh lá cây trong điều kiện stress nhiệt độ có giá trị cao
hơn so với khi tiếp xúc với ánh sáng LED trắng. Cụ thể hàm lượng diệp lục b có giá
trị cao nhất khi xử lý ánh sáng xanh ở tần số 25 Hz (Pardo et al., 2016) [110]. Hơn
nữa, nghiên cứu Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đến cây giống cà chua (Solanum
lycopersicum L) đã chỉ ra rằng, so với ánh sáng vàng, các giá trị hiệu suất lượng tử
của quang hợp (quantum efficiency of photosystem II - ΦPSII), tốc độ vận chuyển
điện tử (electron transport rate - ETR) và dập tắt không quang hóa
(nonphotochemical quenching - NPQ) của cây tiếp xúc với ánh sáng xanh lá cây đã
tăng lên đáng kể. Điều này chứng tỏ ánh sáng xanh lá cây có lợi cho cả sự phát triển
của bộ máy quang hợp ở một mức độ nào đó (Wu et al., 2014) [161]. Có ý kiến cho
rằng ánh sáng xanh có thể có một vai trò nhất định trong việc điều chỉnh các đặc
tính quang hợp của thực vật. Tuy nhiên, các cơ chế cơ bản vẫn chưa rõ ràng.
73
Kết quả của chúng tôi cũng có sự tương đồng về hàm lượng diệp lục với
nghiên cứu của Mizuno et al. (2009) (Mizuno et al., 2009) [97] trên cây bắp cải
dưới ánh sáng đèn LED có bước sóng ánh sáng lần lượt là 470, 500, 525 và 660nm,
ở mức cường độ PPFD 50 μmol/m2/s, trong đó hàm lượng diệp lục cao hơn dưới
ánh sáng xanh lam và xanh lam –xanh lá cây so với ánh sáng đơn sắc chỉ có màu
xanh lá cây.
Sự thay đổi hàm lượng sắc tố quang hợp ảnh hưởng đến quá trình quang hợp ở
lá cây, gây ra sự thay đổi mức độ quang hợp thuần, độ dẫn của khí khổng, nồng độ
CO2 trong các khoảng gian bào và cường độ thoát hơi nước. Mối liên quan giữa
hàm lượng diệp lục và khả năng quang hợp cũng đã được báo cáo trong nghiên cứu
của Yong et al. (2014) [166] trên cây đậu tương. Trong đó, hàm lượng diệp lục ở
công thức xử lý ánh sáng trắng và đỏ tương đối cao hơn so với xử lý ánh sáng hỗn
hợp đỏ/xanh, nhưng giá trị Pn và Gs dưới ánh sáng hỗn hợp của đèn LED đỏ/xanh
lớn hơn đèn LED trắng (Yong et al., 2014) [166]. Đánh giá mức độ quang hợp ở
thực vật phát triển dưới ánh sáng đỏ đơn sắc cho thấy, độ dẫn của khí khổng không
phản ứng với ánh sáng và hiệu quả lượng tử photon thấp có thể do đã được sử dụng
để cố định CO2, dẫn đến giảm mức độ quang hợp thuần. So với công thức ánh sáng
trắng, xanh lam và đỏ, giá trị Pn cao hơn nhiều khi xử lý ánh sáng hỗn hợp R/B (trừ
R6: B1). Giá trị này tăng lên khi tăng tỉ lệ ánh sáng đèn đỏ. Trong xử lý ánh sáng
hỗn hợp R/B, ánh sáng đỏ có thể cải thiện quá trình quang hợp của cây giống đậu
tương, nhưng tỉ lệ ánh sáng đỏ cao hơn quá nhiều có thể ức chế quá trình quang
hợp. Hiệu suất quang hợp của cây được xử lý với tỉ lệ ánh sáng kết hợp màu đỏ-
xanh thích hợp tốt hơn đáng kể so với xử lý ánh sáng đơn sắc, điều này có liên quan
chặt chẽ đến việc tăng trọng lượng lá riêng phần, hàm lượng diệp lục, hàm lượng
nitơ của lá và độ dẫn khí khổng (Wang et al. , 2016; He et al., 2017) [52], [156].
Kết quả của chúng tôi về khả năng quang hợp và tăng trưởng của cây cải bó
xôi trồng thủy canh tương tự với báo cáo của nghiên cứu Johkan et al. (2012), của
Su et al. (2014), Wu et al. (2014) (Johkan et al. , 2012; Su et al., 2014a; Wu et al. ,
2014) [67], [142], [161]. Theo các nhà nghiên cứu này, mặc dù phổ ánh sáng khác
nhau cho tất cả các công thức với cùng một cường độ PPFD, nhưng thực vật (cụ thể
74 là diệp lục) có khả năng hấp thụ ánh sáng cao hơn ở phổ ánh sáng đỏ và xanh lam,
đặc biệt hiệu quả quang hợp được quan sát tối đa với công thức xử lý ánh sáng với
tỉ lệ 80% đỏ : 20% xanh lam (Johkan et al. , 2012) [67]. Do đó, bổ sung ánh sáng
xanh lá cây gây ra sự giảm đáng kể Pn, điều này có thể dẫn đến tăng mức độ già hóa
của lá và làm giảm mức độ quang hóa tối đa của hệ thống quang hóa II (Fv/Fm) (Su
et al., 2014a; Wu et al. , 2014) [142], [161].
3.2.2. Đặc điểm cấu trúc bộ rễ
Rễ cây là bộ phận quan trọng giúp cây có thể lấy nước và các chất khoáng hòa
tan để cây thực hiện các quá trình sinh lí, trao đổi chất. Đối với cây trồng thủy canh,
nguồn dinh dưỡng hấp thu hoàn toàn là qua hệ thống rễ trong dung dịch. Các thông
số về kích thước của bộ rễ như chiều dài rễ, diện tích rễ hay thể tích rễ… phản ánh
khả năng sinh trưởng của cây. Do đó, tương quan sinh trưởng rễ và thân lá là tương
quan thuận.
Kết quả về ảnh hưởng của các phổ ánh sáng khác nhau đến cấu trúc bộ rễ của
cây cải bó xôi trồng thủy canh được thể hiện trong Bảng 3.17. Ở tất cả các thông số
về đặc điểm rễ: chiều dài rễ, diện tích, tổng diện tích bề mặt, đường kính trung bình
và thể tích trung bình là cao nhất trong xử lý ánh sáng đỏ xanh. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê ở mức 5% giữa ba công thức xử lý về chiều dài rễ, tổng diện tích bề
mặt và đường kính trung bình. Trong đó, tương ứng chiều dài rễ cao hơn 1,5; 2,3
lần, tổng diện tích bề mặt cao hơn 1,9; 3,5 lần, đường kính trung bình cao hơn 1,5;
2,8 lần so với công thức xử lý ánh sáng vàng và ánh sáng trắng. Không có sự khác
biệt đáng kể về diện tích rễ và tổng thể tích rễ trong các công thức xử lý ánh sáng
vàng và ánh sáng trắng (Bảng 3.17, Hình 3.7).
Trong nghiên cứu này của chúng tôi, các đặc điểm cấu trúc rễ của rau cải bó
xôi bị ảnh hưởng đáng kể bởi phổ ánh sáng thông qua các chất dẫn quang nhận ánh
sáng dẫn đến thay đổi hình thái thực vật. Điều này phù hợp với các nghiên cứu
trước đây trên cây dưa chuột và cây cà chua (Su et al., 2014b; Wu et al., 2014)
[143], [161]. Diện tích rễ và chiều dài rễ trong nghiên cứu này của chúng tôi cũng
cho kết quả tương tự như nghiên cứu của Su et al. (2014b) [143].
75 Bảng 3.17. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng cường độ
PPFD = 190 µmol/m2/s) đến đặc điểm cấu trúc bộ rễ của cải bó xôi giống PD512
trồng thủy canh trong nhà (30 NST)
Tổng diện
Đường
Công thức
Tổng chiều
Diện tích
Thể tích
tích bề mặt
kính trung
dài rễ (cm)
(cm2)
(cm3)
bình (mm)
(cm2)
50,46c
1R:1B:1G (AST)
915,75c
16,00b
0,105c
0,466b
5R:2B:3G
1373,33b
29,20b
91,98b
0,191b
0,492b
(ASV)
4R:1B
2071,43a
52,51a
174,97a
0,289a
2,385a
(ASĐX-Đ/C)
13,47
13,97
9,65
9,00
13,04
CV%
391,22
15,6
41,54
0,035
0,29
LSD5%
Công thức: AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh. Những trị
số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý nghĩa P < 5% theo
phần mềm R.
AST
ASĐX
ASV
Hình 3.7. Đặc điểm cấu trúc bộ rễ của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh ở
Ghi chú: AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh.
các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (cùng PPFD = 190 µmol/m2/s) (30 NST).
76
Kết quả cũng phù hợp với nghiên cứu trước đây của Ma et al. (2018) [90] trên
cây đậu tương. Đối với cây đậu tương, chiều dài rễ, thể tích, diện tích bề mặt rễ và
trọng lượng khô rễ được tăng lên ở các công thức xử lý ánh sáng kết hợp màu đỏ và
màu xanh so với công thức chỉ có ánh sáng trắng hoặc xanh. Chiều dài rễ cao nhất
được quan sát thấy trong công thức R5: B1. Diện tích bề mặt rễ và thể tích rễ cao
nhất ở R1: B1: W1 (giống GXD2) và R5: B1 (giống HC6 và HX3). Đường kính
trung bình rễ cao nhất của ở công thức R1: B1: W1 (GXD2 và HC6) và ở công thức
R5: B1 (HX3). Tuy nhiên, đường kính trung bình rễ của giống HX3 đã tăng lên khi
tăng tỉ lệ ánh sáng đỏ. Khối lượng khô rễ cao nhất ở công thức xử lý R3: B1 (giống
GXD2). Ánh sáng kết hợp màu đỏ và màu xanh cần cho sự phát triển rễ của cây đậu
tương, nhưng tỉ lệ ánh sáng đỏ cao có thể ức chế sự phát triển của rễ (Ma et al. ,
2018) [90]. So với đèn LED màu xanh hoặc đỏ riêng lẻ, rễ phát triển mạnh hơn dưới
ánh sáng hỗn hợp LED (R + B, W + R + B). Chiều dài rễ, diện tích bề mặt rễ và
đường kính trung bình của rễ được tăng lên dưới ánh sáng hỗn hợp, điều này tương
tự với kết quả của Yong et al. (2014) (Yong et al., 2014) [166]. Ngược lại, ánh
sáng đỏ có hiệu quả hơn đối với sự kéo dài rễ của cây anh đào (Iacona & Muleo,
2010) [62]. Quan sát này không những chỉ ra rằng sự phát triển của rễ kém hơn dưới
ánh sáng đỏ đơn sắc, mà còn cho thấy phổ ánh sáng cũng có thể điều chỉnh cảm ứng
của rễ. Trong nghiên cứu này, ánh sáng hỗn hợp của màu đỏ và màu xanh đã có ưu
thế hơn giúp tăng cường sự phát triển rễ của cây cải bó xôi. Tỉ lệ ánh sáng hỗn hợp
R/B tốt nhất là khác nhau đối với các loại cây trồng khác nhau và với cải bó xôi có
khả năng là tỉ lệ 4/1.
3.2.3. Đặc điểm cấu trúc lá
3.2.3.1. Giải phẫu lát cắt ngang lá
Giải phẫu của lá rất đặc trưng để hấp thụ ánh sáng (Terashima & Hikosaka,
1995) [148]. Lớp tế bào ngoài cùng (có chứa tế bào khí khổng) - lớp biểu bì, thường
trong suốt nên có khả năng truyền ánh sáng. Các tế bào biểu bì riêng lẻ thường có
cấu trúc lồi và hoạt động như những thấu kính, do đó có thể tập trung ánh sáng để
lượng ánh sáng tới lục lạp lớn hơn nhiều lần so với lượng ánh sáng xung quanh
77 (Vogelmann et al., 1996) [155]. Dưới lớp biểu bì là một vài lớp tế bào mô giậu, có
hình dạng giống như những cây “cột đứng”. Bên dưới các lớp tế bào mô giậu là lớp
tế bào mô khuyết. Ở đó, các tế bào có hình dạng không bình thường và được bao
quanh bởi các khoảng không khí lớn – các khoảng gian bào, tạo ra nhiều giao diện
giữa không khí và nước. Sự phản xạ và khúc xạ ánh sáng xảy ra ở đó, vì thế ngẫu
nhiên hóa hướng di chuyển của ánh sáng. Sự tán xạ ánh sáng đặc biệt quan trọng ở
lá vì nhiều phản xạ giữa các khoảng gian bào của tế bào làm tăng đáng kể độ dài
đường đi của các foton, do đó làm tăng khả năng hấp thụ ánh sáng, cũng như sự hấp
thụ ánh sáng đồng đều hơn trong lá (Richter & Fukshansky, 1996) [126]. Mật độ
khí khổng và sự đóng mở của nó liên quan trực tiếp đến dòng khí CO2 đi vào cũng
như lượng hơi nước thoát ra, vì thế kết hợp cùng với cấu trúc giải phẫu đặc trưng
của lá sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình quang hợp, hô hấp, do đó góp phần quyết
định đến năng suất và phẩm chất cây trồng.
Kết quả về giải phẫu cắt ngang của lá được thể hiện qua Bảng 3.18, Hình 3.8.
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng cường độ
PPFD = 190 µmol/m2/s) đến cấu trúc giải phẫu của lá cải bó xôi giống PD512 trồng
thủy canh trong nhà (30 NST)
Chiều dày Chiều dày CD mô Công thức Độ dày Độ chặt mô giậu mô xốp giậu/CD lá (µm) lá
64,996b
218,589b
320,924b
0,297b
(µm) 46,906c (µm) 163,479c 251,884c mô xốp 0,287c 0,186b
78,307a
252,992a
382,425a
0,310a
0,203a 1R:1B:1G (AST) 5R:2B:3G (ASV)
4R:1B (ASĐX-Đ/C)
CV%
2,34
0,71
0,59
2,51
2,15
LSD5%
1,36
1,38
1,74
0,0068
0,0039
Công thức: AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh, Đ/C:
Đối chứng. Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức
ý nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
0,205a
78
AST
ASV
ASĐX
Hình 3.8. Cấu trúc giải phẫu lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh ở phổ ánh
Ghi chú: Độ phóng đại 400 lần, thước đo: 50 µm. AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng
vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh
sáng đèn LED khác nhau (ở cùng cường độ PPFD = 190 µmol/m2/s) (30NST).
Về cơ bản độ dày lá có sự khác biệt rõ rệt giữa 3 công thức thí nghiệm. Trong
đó công thức xử lý ánh sáng đỏ xanh cho độ dày lá lớn nhất, đồng thời chiều dài mô
giậu, mô xốp cũng như tỉ lệ độ dày lớp tế bào mô giậu/độ dày lớp tế bào mô xốp
cũng lớn nhất. Sự khác biệt ở đây là có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95%. Trong
đó, công thức xử lý ánh sáng đỏ xanh có mức độ lớn hơn ở các thông số chiều dày
mô giậu gấp1,2; 1,7 lần, chiều dày mô xốp gấp1,2;1,6, độ dày lá gấp 1,2; 1,5 và tỉ lệ
độ dày lớp tế bào mô giậu/ độ dày lớp tế bào mô xốp gấp 1,04;1,08 lần so với công
thức ánh sáng vàng và ánh sáng trắng. Công thức xử lý ánh sáng vàng và ánh sáng
đỏ xanh có độ chặt lá sai khác có ý nghĩa so với công thức ánh sáng trắng, nhưng
không có sự sai khác có ý nghĩa giữa chúng (Bảng 3.18, Hình 3.8).
Mặc dù không nhận thấy cấu trúc đặc trưng rõ ràng về số lượng lớp tế bào
giữa 3 chất lượng ánh sáng khác nhau, tuy nhiên sự sắp xếp của các tế bào mô giậu
là gọn và chặt ở công thức ánh sáng vàng so với các công thức còn lại.
Kết quả cũng đồng nhất với nghiên cứu của Stryjewski et al. (2001) về cấu tạo
giải phẫu lá cải bó xôi ở các phổ ánh sáng khác nhau. Trong đó đã chỉ ra rằng độ
dày lá, chiều dày mô giậu và mô xốp lớn nhất ở công thức ánh sáng đỏ 660nm bổ
79 sung ánh sáng xanh 470 nm so với các công thức đèn LED còn lại (690, 700 và 725
nm kết hợp với 470 nm) (Stryjewski et al., 2001) [140].
3.2.3.2. Đặc điểm của khí khổng
Kết quả về đặc điểm của tế bào khí khổng trong nghiên cứu được thể ở Hình
3.9, Hình 3.10, Hình 3.11, Hình 3.12 và Hình 3.13.
Biểu bì trên cải bó xôi Biểu bì dưới cải bó xôi
Hình 3.9. Hình ảnh lớp biểu bì trên và dưới của lá cải bó xôi giống PD512 trồng
Ghi chú: Độ phóng đại 100 lần, thước đo: 50 µm.
thủy canh (ánh sáng vàng, cường độ 190 µmol/m2/s) (30NST).
- Biểu bì trên của lá: ở các chất lượng ánh sáng khác nhau, chiều dài khí
khổng, chiều rộng khí khổng, tỉ lệ chiều dài/chiều rộng khí khổng, mật độ cũng thay
đổi khác nhau, sự khác biệt ở đây là có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy 95%.
Chiều rộng khí khổng và mật độ cao nhất ở công thức xử lý ánh sáng đỏ xanh và
thấp nhất ở công thức ánh sáng trắng. Trong khi đó, chiều dài khí khổng, tỉ lệ chiều
dài/chiều rộng khí khổng cao nhất cũng ở công thức xử lý ánh sáng đỏ xanh nhưng
thấp nhất lại ở công thức ánh sáng vàng. Ở đây, chỉ có chiều dài khí khổng ở ánh
sáng trắng và ánh sáng vàng không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê. Về cơ bản
chiều dài khí khổng, chiều rộng khí khổng ở công thức ánh sáng đỏ xanh cao hơn
khoảng 1,2-1,3 lần so với công thức ánh sáng trắng, còn mật độ khí khổng cao hơn
gấp 2 lần (Hình 3.10, Hình 3.11).
80
Tuy nhiên ở biểu bì dưới lá, chiều rộng khí khổng cao nhất ở công thức xử lý
ánh sáng vàng, còn lại chiều dài khí khổng, tỉ lệ chiều dài/chiều rộng và mật độ khí
khổng vẫn cao nhất ở công thức xử lý ánh sáng đỏ xanh. Công thức xử lý ánh sáng
trắng cho tất cả các thông số biểu bì ở trên là thấp nhất. Sự sai khác ở đây là có ý
nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 95%, trừ tỉ lệ chiều dài/chiều rộng không có sự khác
biệt giữa công thức xử lý ánh sáng trắng và ánh sáng vàng (Hình 3.12, Hình 3.13) .
(A)
(B)
(C) Hình 3.10. Biểu bì trên của lá cải bó xôi giống PD512 ở các phổ ánh sáng khác
Ghi chú: A, B, C lần lượt là biểu bì trên ở các công thức ánh sáng trắng, ánh sáng vàng và
ánh sáng đỏ xanh
nhau (ở cùng 190 µmol/m2/s) (30NST).
81
Hình 3.11. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của các phổ ánh sáng khác nhau (ở cùng
cường độ PPDF=190 µmol/m2/s) đến các thông số khí khổng ở lớp biểu bì trên của
lá cải bó xôi giống PD512 (30NST).
82
(A)
(B)
(C)
Hình 3.12. Biểu bì dưới của lá cải bó xôi giống PD512 ở các phổ ánh sáng khác
Ghi chú: A, B, C lần lượt là biểu bì dưới ở các công thức ánh sáng trắng, ánh sáng vàng
và ánh sáng đỏ xanh
nhau (ở cùng cường độ 190 µmol/m2/s) (30NST).
83
Hình 3.13. Biểu đồ so sánh ảnh hưởng của các phổ ánh sáng khác nhau (ở cùng
cường độ PPDF=190 µmol/m2/s) đến các thông số khí khổng ở lớp biểu bì dưới của
lá cải bó xôi giống PD512 (30NST).
3.2.4. Các yếu tố tạo nên năng suất và năng suất
Kết quả về các yếu tố tạo nên năng suất và năng suất được thể hiện ở Bảng
3.19 và Hình 3.14. Khối lượng tươi của thân lá, khối lượng tươi của rễ, khối lượng
khô của rễ ở 3 chất lượng ánh sáng khác nhau là khác nhau đáng kể và sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Trong công thức xử lý ánh sáng đỏ-xanh, năng suất
cá thể tươi là cao nhất (65,46 g/cây), cao hơn 2,05 lần so với ánh sáng trắng và 1,36
lần so với xử lý ánh sáng vàng. Khối lượng tươi của rễ cũng cao nhất công thức xử
lý ánh sáng đỏ-xanh, cao hơn khoảng 1,69 và 2,07 so với xử lý ánh sáng trắng và
84 ánh sáng vàng tương ứng. Do đó, năng suất thực thu trong ba công thức phổ ánh
sáng giảm theo thứ tự: Công thức ánh sáng đỏ-xanh > công thức ánh sáng vàng >
công thức ánh sáng trắng (Bảng 3.19, Hình 3.14).
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng (PPFD =
190 µmol/m2/s) đến các yếu tố tạo nên năng suất và năng suất cải bó xôi giống
PD512 trồng thủy canh trong nhà (30 NST)
Công thức KLT thân KLT rễ KLK thân KLK rễ NSLT NSTT
lá (g/cây) (g/cây) lá (g/cây) (g/cây) (kg/m2) (g/m2)
1R:1B:1G 31,85c 4,455c 1,91b 0,27c 2,31 2,27c (AST)
5R:2B:3G 48,11b 5,46b 2,065b 0,38b 3,49 3,40b (ASV)
4R:1B 65,46a 9,23a 3,58a 0,62a 4,75 4,69a (ASĐX-Đ/C)
1,8 3,25 8,26 8,29 - 1,8 CV%
Ghi chú:Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh, Đ/C: Đối chứng.
KLT: Khối lượng tươi; KLK: Khối lượng khô, NSLT: Năng suất lý thuyết, NSTT: Năng
suất thực thu
2,0 0,41 0,42 0,07 - 71,1 LSD5%
85
ASĐX ASV AST
Hình 3.14. Cây cải bó xôi giống PD512 ở các công thức xử lý ánh sáng khác nhau
(ở cùng PPFD =190 µmol/m2/s) (30NST)
Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi tương tự với nghiên cứu của Son &
Oh (2015) khi xác định ảnh hưởng của các đèn LED có tỉ lệ ánh sáng khác nhau
(đỏ, xanh lam và xanh lá cây) đối với rau diếp ở mức PPFD là 173 ± 3 μmol/m2/s
(Son & Oh, 2015) [138]. Nghiên cứu của họ chỉ ra rằng, đèn LED đỏ cải thiện một
số đặc tính sinh trưởng của rau diếp như khối lượng tươi và khô của chồi, rễ và diện
tích lá khi kết hợp với đèn LED màu xanh lam. Các thông số tăng trưởng này tăng
lên khi tỉ lệ đèn LED đỏ tăng ở cách xử lý kết hợp đèn LED màu đỏ và màu xanh
lam (trừ công thức xử lý kết hợp với đèn LED màu xanh lá cây). Việc thay thế đèn
LED màu xanh lá cây bằng đèn LED màu xanh lam với tỉ lệ cố định của đèn LED
màu đỏ đã thúc đẩy sự sinh trưởng của rau diếp. Đặc biệt, khối lượng tươi của rau
diếp đỏ dưới tỉ lệ ánh sáng kết hợp 80% đỏ: 10% xanh lá cây: 10% xanh lam cao
hơn khoảng 61% so với 80% đỏ: 20 % xanh lam. Hơn nữa, sự chiếu sáng bổ sung
của đèn LED màu xanh lá cây dựa trên sự kết hợp của đèn LED màu đỏ và màu
xanh lam có thể thúc đẩy sự phát triển của rau diếp. Ngược lại, việc tăng tỉ lệ đèn
LED màu xanh lam có tác động tiêu cực đến khối lượng tươi và khối lượng khô của
chồi, rễ và diện tích lá. Trong kết quả của chúng tôi, tỉ lệ tăng của ánh sáng xanh lá
cây không ảnh hưởng rõ ràng đến chiều cao cây nhưng số lượng lá giảm.
86
Kết quả là năng suất thực thu cao nhất với đèn LED ánh sáng đỏ xanh, bởi
đèn LED đỏ xanh hoàn toàn có thể tạo ra bước sóng tối ưu cho quá trình quang hợp
của cây, điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Shimokawa et al.
(2014) (Shimokawa et al., 2014) [134].
3.2.5. Chất lượng và hàm lượng dinh dưỡng
3.2.5.1. Hàm lượng các nguyên tố khoáng
Kết quả về hàm lượng các nguyên tố khoáng trong nghiên cứu được thể hiện ở
Bảng 3.20. Hàm lượng các yếu tố khoáng khác nhau giữa các cách xử lý khác nhau là
khác nhau và phụ thuộc vào các nguyên tố được đánh giá. Hàm lượng Ca2+ và Fe2+ là
cao nhất trong công thức ánh sáng đỏ-xanh, tiếp theo là xử lý ánh sáng vàng và ánh
sáng trắng (với mức cao hơn khoảng 1,64-10,74 và 1,38-2,58 lần, tương ứng). Sự khác
biệt giữa ba cách xử lý ánh sáng có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Ngược lại, hàm lượng
K+ cao nhất được quan sát thấy ở công thức xử lý ánh sáng trắng và có sự khác biệt so
với các công thức xử lý ánh sáng đỏ-xanh và ánh sáng vàng. Tuy nhiên không có sự
khác biệt giữa hai công thức này về hàm lượng K+ nói trên (Bảng 3.20).
Gerovac et al. (2016) cũng báo cáo kết quả gần với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi. Trong đó với tỉ lệ ánh sáng R74:G18:B8 cải mizuara đồng hóa được lớn
hơn 22%, 20%, và 14% tương ứng ở hàm lượng các nguyên tố N, K, Ca so với R84:
FR7: B9 (cùng cường độ ánh sáng là 315 µmol/m2/s µmol.m–2.s–1). Tương tự, mù
tạt tích lũy lần lượt 26%, 13% và 10% tương ứng cho các nguyên tố K, Ca, B, và su
hào tích lũy lần lượt lớn hơn 15% và 17% nguyên tố B và Fe khi được trồng theo tỉ
lệ ánh sáng R74: G18: B8 so với những cây được trồng dưới R84: FR7: B9. Điều
này cũng có nghĩa là việc bổ sung ánh sáng xanh lá cây vào tổ hợp ánh sáng đỏ
xanh sẽ cho kết quả hàm lượng 3 nguyên tố kể trên cao hơn so với bổ sung ánh sáng
khác là Fr (đỏ xa). Hơn nữa, các giống rau mầm được trồng theo tỉ lệ ánh sáng của
R74: G18: B8 luôn cho hàm lượng dinh dưỡng cao hơn so khi trồng dưới R87: B13
(Gerovac et al., 2016) [53].
87 Bảng 3.20. Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đèn LED khác nhau (ở cùng cường độ
PPFD = 190 µmol/m2/s) đến hàm lượng các nguyên tố khoáng có trong cải bó xôi
giống PD512 trồng canh trong nhà (30 NST)
Công thức Ca K Fe
(mg/100g KLT) (mg/100g KLT) (mg/100g KLT)
1R:1B:1G (AST) 10,26c 647,34a 2,86c
5R:2B:3G (ASV) 67,29b 608,14b 5,40b
4R:1B (ASĐX-Đ/C) 110,19a 604,93b 7,46a
CV% 4,77 1,51 4,89
Công thức: AST: Ánh sáng trắng, ASV: Ánh sáng vàng, ASĐX: Ánh sáng đỏ xanh,
Đ/C: Đối chứng,KLK: Khối lượng khô. Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là
không có sự sai khác ở mức ý nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
LSD5% 5,54 18,78 1,56
Tuy nhiên, kết quả có sự sai khác so với nghiên cứu của Kopsell et al.
(2014), khi nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng hàm lượng các chất dinh dưỡng
trong cây mầm cao hơn khi trồng dưới tỉ lệ cao của ánh sáng xanh. Đặc biệt, các
bước sóng ánh sáng màu xanh đã được chứng minh là có vai trò điều chỉnh các quá
trình liên quan đến hàm lượng chất dinh dưỡng, như bơm proton, hoạt động kênh
ion và tính thấm của màng tế bào (Kopsell et al., 2014) [77]. Ở đây tỉ lệ ánh sáng
xanh lam của chúng tôi lần lượt là 20%, 30% và khoảng 33%, tương ứng ở công
thức ánh sáng đỏ xanh, vàng và trắng. Có khả năng sai khác giữa tỉ lệ này chưa
nhiều để tạo nên sự khác biệt về hàm lượng các chất dinh dưỡng như công bố trước
đây của chính tác giả Kopsell & Sam (2013) với tỉ lệ B lên tới 100% và 88%
(Kopsell & Sams, 2013) [76]. Vì thế vẫn cần những nghiên cứu tiếp theo về vai trò
của việc tăng tỉ lệ ánh sáng xanh và tác động tiềm năng của chúng đối với hàm
lượng dinh dưỡng trong cây rau.
3.2.5.2. Hàm lượng các chất dinh dưỡng và các chất chống oxi hóa
Kết quả về hàm lượng các chất dinh dưỡng và các chất chống oxi hóa thể hiện
qua Hình 3.15 và Hình 3.16.
88
Hình 3.15. Hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong cải bó xôi giống PD512 trồng
thủy canh ở các phổ ánh sáng khác nhau (ở cùng PPFD = 190 µmol/m2/s) (30 NST).
89
Hình 3.16. Hàm lượng các chất chống oxi hóa có trong cải bó xôi giống PD512
trồng thủy canh ở các phổ ánh sáng khác nhau (ở cùng PPFD = 190 µmol/m2/s)
(30 NST).
Hàm lượng axit oxalic, nitrate được tìm thấy là cao nhất công thức xử lý ánh
sáng trắng, trong khi đó hàm lượng Brix và hàm lượng chất xơ lại cho kết quả cao
nhất trong công thức xử lý ánh sáng đỏ-xanh, còn hàm lượng axit hữu cơ cao nhất ở
công thức xử lý ánh sáng vàng (Hình 3.15).
Tuy nhiên ánh sáng đỏ xanh cho kết quả về hàm lượng axit oxalic là không
khác biệt với ánh sáng vàng và trắng, nhưng giữa 2 công thức này lại sai khác có ý
nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, axit hữu cơ không khác biệt giữa ánh sáng trắng với
ánh sáng đỏ xanh và vàng, nhưng lại sai khác có ý nghĩa thống kê giữa vàng và đỏ
xanh với nhau (Hình 3.15).
Sự khác biệt về hàm lượng NO3 ở công thức ánh sáng vàng và ánh sáng đỏ
xanh là không có ý nghĩa thống kê và đều thấp hơn công thức ánh sáng trắng.
Tương tự độ Brix, hàm lượng chất xơ lại sai khác không có ý nghĩa thống kê giữa
các công thức xử lý ánh sáng vàng và ánh sáng trắng (Hình 3.15).
Trong khi đó, hàm lượng vitamin C khác nhau có nghĩa thống kê giữa ba công
thức xử lý ánh sáng kể trên, lần lượt theo thứ tự: ánh sáng đỏ xanh > ánh sáng vàng
> ánh sáng trắng (Hình 3.16).
90
Kết quả phân tích cũng chỉ ra rằng, hàm lượng chất xơ và hàm lượng
polyphenol cao nhất ở công thức xử lý ánh sáng đỏ xanh và thấp nhất ở công thức
xử lý ánh sáng trắng. Mức cao hơn này ở hàm lượng chất xơ là khoảng 0,3g/100g
và ở làm lượng polyphenol là 0,15g/100g tương ứng cho công thức xử lý ánh sáng
đỏ xanh so với ánh sáng trắng. Tuy nhiên chỉ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa công thức xử lý ánh đỏ xanh so với ánh sáng trắng và ánh sáng vàng còn giữa
công thức sáng vàng và ánh sáng trắng không có sự khác biệt có ý nghĩa (Hình 3.15
và Hình 3.16).
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng khi tăng tỉ lệ bổ sung ánh sáng xanh
(550nm) có thể làm giảm hàm lượng NO3 và axit oxalic trong trường hợp tỉ lệ thích
hợp, ở đây khi tỉ lệ R:B:G là 5:2:1. Tuy nhiên, không có sự cải thiện đáng kể về
hàm lượng axit ascobic khi ánh sáng đèn LED sử dụng ở tỉ lệ này. Điều này cho
thấy, rõ ràng, công thức xử lý tỉ lệ ánh sáng đỏ cao hơn cho hàm lượng axit ascobic
cao hơn, NO3 thấp hơn và hàm lượng axit oxalic thấp hơn. Kết quả này tương tự với
kết quả nghiên cứu trước đây của Samuolienė et al. (2009) [132] trong rau lá. Trong
nghiên cứu đó, nồng độ nitrate giảm 44% đến 65% và hàm lượng vitamin C không
tương quan thuận với mức độ khử nitrate khi sử dụng đèn LED 638nm (500
µmol/m2/s) (Samuolienė et al., 2009) [132].
Ánh sáng đỏ có khả năng cao nhất để kích thích hoạt động của nitrate
reductase, điều đó có nghĩa là ánh sáng đỏ có khả năng làm giảm hiệu quả nồng độ
nitrate trong thực vật, trong khi ánh sáng xanh làm tăng nồng độ nitơ tổng số và
được chứng minh là hiệu quả kém hơn trong việc giảm nitrate ở cây cải củ (Ohashi-
Kaneko et al. , 2007) [105]. Ánh sáng xanh và đỏ đều hiệu quả hơn trong việc giảm
nồng độ nitrate của rau cải bó xôi so với ánh sáng trắng hoặc vàng (trích theo Bian
et al., 2015) [32]. Ohashi-Kaneko et al. (2007) đã báo cáo tương tự rằng nồng độ
nitrate đã giảm rõ rệt trong rau diếp thủy canh dưới ánh sáng xanh, đỏ hoặc hỗn hợp
ánh sáng xanh và đỏ so với dưới ánh sáng trắng (Ohashi-Kaneko et al. , 2007)
[105]. Hiện tượng này có thể được giải thích rằng phổ ánh sáng xanh và đỏ thuận
lợi cho sự phát triển của thực vật và tăng mức đồng hóa carbohydrate trong thực
91 vật. Carbonhydrate có thể cung cấp năng lượng và bộ xương carbon cho chuyển hóa
nitơ và kích thích chuyển hóa nitrate. Lin et al. (2013) [87] cũng nhận thấy rằng ở
cùng một cường độ ánh sáng (210 µmol/m2/s) và chu kỳ chiếu sáng (16 h), hỗn hợp
ánh sáng LED đỏ: xanh: trắng có hiệu quả hơn trong việc giảm nồng độ nitrate
trong rau xà lách thủy canh hơn một hỗn hợp ánh sáng LED đỏ: xanh (Lin et al.,
2013) [87]. Dựa trên các kết quả, người ta cho rằng năng lượng quang phổ của ánh
sáng đỏ và xanh lam trong ánh sáng đỏ: xanh lam: trắng có thể góp phần làm giảm
đáng kể nồng độ nitrate trong rau diếp. Ngoài ra, việc điều chỉnh tỉ lệ ánh sáng đỏ
và xanh (R/B) cũng làm giảm nồng độ nitrate trong thực vật. Urbonavičiūtė et al.
(2007) [152] cho rằng tỉ lệ R/B tốt nhất để giảm nồng độ nitrate trong rau diếp thủy
canh là 8:1 (Urbonavičiūtė et al., 2007) [152]. Wanlai et al. (2013) [157] đã phát
hiện ra rằng nồng độ nitrate rau diếp thủy canh giảm đáng kể từ 3125,7 mg/kg
xuống còn 1064,6 mg/kg khi tỉ lệ R/B là 4: 1. Sự khác biệt này có thể là do các
chiến lược điều chỉnh ánh sáng khác nhau hoặc sự khác biệt trong giống cây trồng.
Rõ ràng, Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đến quá trình chuyển hóa và tích lũy
nitrate ở thực vật rất phức tạp, nhưng so với ánh sáng vàng và trắng, ánh sáng đỏ và
xanh có hiệu quả hơn trong việc giảm nồng độ nitrate trong rau (Wanlai et al.,
- của rau cải bó xôi trồng thủy canh trong nghiên cứu
2013) [157].
Hơn nữa, hàm lượng NO3
này đạt tiêu chuẩn an toàn ở giới hạn cho phép của Bộ Nông nghiệp theo Quyết
định số 99/2008/QĐ-BNN [15]. Thậm chí, kết quả về hàm lượng NO3 này cũng
- là 3500mg/kg khối lượng
thấp hơn nhiều so với quy định của Ủy ban Châu Âu: 1258/2001. Theo như quy
định này, giới hạn tối đa cho phép với hàm lượng NO3
tươi (Quy định của Ủy ban Châu Âu, Số: 1258/2001, EUR-LEX, 2017) [1].
Axit oxalic là một axit dicarboxylic mà muối của nó được phân phối rộng rãi ở
thực vật bậc cao, đặc biệt là trong rau cải bó xôi. Ở thực vật oxalate tồn tại ở hai
dạng (hòa tan và không hòa tan). Dạng hòa tan dường như là mối quan tâm lớn nhất
đối với sức khỏe con người vì nó có thể dẫn đến sự hình thành sỏi tiết niệu canxi
oxalate và làm giảm sự hấp thu sắt và canxi từ thức ăn. Vì vậy những người có tiền
92 sử sỏi thận và mật nên hạn chế hấp thu axit oxalic (Proietti et al., 2013) [119]. Theo
hiểu biết của chúng tôi, không có nghiên cứu nào xác định mức axit oxalic được
chấp nhận trong các loại rau liên quan đến mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe của con
người. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng ascorbate là tiền chất chính của oxalate
trong thực vật. Trong điều kiện stress, tăng hàm lượng ascorbate sẽ có thể thúc đẩy
sự tích tụ oxalate trong thực vật (Guo et al., 2005) [57]. Các loại ánh sáng khác
nhau ảnh hưởng khác nhau đến sự tích tụ axit oxalate. Một số tác giả đã sử dụng
bốn đèn huỳnh quang có màu khác nhau (đỏ, xanh, vàng và trắng) để nghiên cứu
Ảnh hưởng của các phổ ánh sáng đến quá trình chuyển hóa oxalate trong rau diếp,
rau cải bó xôi (Bian et al., 2015) [32]. Nồng độ oxalate trong phiến lá cao hơn so
với cuống lá trong các công thức xử lý ánh sáng trắng và vàng, trong khi dưới ánh
sáng đỏ và xanh, nồng độ oxalate trong phiến lá thấp hơn cuống lá. Hơn nữa, tổng
nồng độ oxalate trong rau cải bó xôi thấp hơn dưới ánh sáng đỏ so với ở các ánh
sáng khác, có thể là do phiến lá là vị trí chính của sinh tổng hợp oxalate và sau đó
ánh sáng xanh hoặc đỏ thúc đẩy sự vận chuyển oxalate từ điểm tổng hợp đến các vị
trí khác. Như vậy, ánh sáng đỏ dường như hiệu quả hơn trong việc giảm tích lũy
oxalate trong rau được trồng trong môi trường có kiểm soát (Bian et al. , 2015) [32].
Đường hòa tan là chỉ số quan trọng của các đặc điểm sinh lý và sinh hóa.
Người ta nhận thấy rằng hàm lượng đường hòa tan của cây mầm Pea sprouts cao
nhất dưới ánh sáng đỏ (Zhang et al., 2010) [167]. Trong nghiên cứu Ma et al.
(2018), hàm lượng đường hòa tan trong cây đậu tương dưới ánh sáng hỗn hợp R / B
là tương đối cao, trong khi hàm lượng này tương đối thấp dưới ánh sáng đơn sắc và
ánh sáng trắng. Điều này có thể là tỉ lệ quang hợp dưới ánh sáng hỗn hợp R/B tương
đối cao và mức tiêu thụ sản phẩm quang hợp tăng (Ma et al. , 2018) [90].
Kết quả của chúng tôi về hàm lượng sucrose thông qua chỉ số Brix có nét tương
đồng với kết quả Li et al. (2017) [86] trên cây cà chua. Ánh sáng R tăng đáng kể hàm
lượng fructose, glucose và sự kết hợp của đèn R và B làm tăng đáng kể tổng lượng
carbohydrate, tinh bột và sucrose, đặc biệt là ở công thức xử lý với tỉ lệ ánh sáng 3 đỏ:
1 xanh lam. Điều đó cho thấy rằng, với tỉ lệ ánh sáng đỏ tăng thì hàm lượng một số hợp
93 chất đường có thể tăng theo (Li et al. , 2017) [86]. Trong kết quả của chúng tôi, sự phù
hợp thể hiện trong công thức ánh sáng đỏ xanh có tỉ lệ ánh sáng đỏ cao nhất (tỉ lệ đỏ
80%), tiếp đến là ánh sáng vàng (tỉ lệ đỏ 50%) và trắng (tỉ lệ đỏ 33%).
Kết quả của chúng tôi tương tự so với nghiên cứu của Chen et al. (2019) [41]
trên cây rau diếp. Ánh sáng đỏ và xanh xen kẽ trong khoảng thời gian 1 giờ đã tăng
cường khả năng tích lũy sinh khối, sucrose và tinh bột. Về năng suất, hương vị và
hiệu quả sử dụng năng lượng, thì công thức R660/B450 (1 h) (130 ± 3 μmol/m2/s) là
công thức cho hiệu quả chiếu sáng nhất. Tuy nhiên, so với thực vật được xử lý bằng
RB, khối lượng tươi và hàm lượng fructose, glucose, chất xơ và chỉ số độ ngọt trong
rau diếp được tăng đáng kể ở công thức xử lý R đơn sắc. Mặc dù không phải là
công thức chiếu sáng tối ưu, nhưng R đơn sắc về cơ bản có thể đáp ứng các yêu cầu
về tăng trưởng, năng suất và chất lượng của rau diếp. Các chế độ chiếu sáng khác
nhau có thể ảnh hưởng đến thành phần đường trong rau diếp thông qua việc điều
chỉnh hoạt động của các enzyme chuyển hóa sucrose như sucrose synthase (SS),
SPS (sucrose synthesizing enzymes), AI (acid invertase) và NI (neutral invertase)
(Chen et al., 2019) [41]. Trong nghiên cứu của Chen et al. (2019) xử lý ánh sáng R
đơn sắc làm tăng hàm lượng chất xơ lên 24%, trong khi B đơn sắc làm giảm đáng
kể hàm lượng đường hòa tan khoảng 14% so với đối chứng (R:B = 1:1). Nhìn
chung, R đơn sắc tăng tốc tích lũy carbohydrate trong rau diếp so với các chế độ
chiếu sáng khác trong nghiên cứu, trong khi B đơn sắc thì ngược lại. Hàm lượng
carbohydrate và tỉ lệ các thành phần của nó quyết định cả hương vị và chất lượng
của rau. Tỉ lệ đường hòa tan cao hơn và tỉ lệ chất xơ thấp hơn trong tổng số thành
phần carbohydrate dẫn đến hương vị tốt hơn của rau diếp (Lin et al., 2013) [87].
Như vậy trong nghiên cứu của chúng tôi, khi tỉ lệ ánh sáng đỏ lớn hơn (theo thứ tự
33%, 50% và 80%) thì lần lượt tỉ lệ chất xơ, hàm lượng Brix, sinh khối của cây cải
bó xôi tương ứng cũng tăng theo.
Sự thay đổi hàm lượng axit hữu cơ cũng có nét tương đồng với nghiên cứu của
Viršilė et al. (2019) [153]. Bổ sung ánh sáng (xanh lá cây 510nm, cam 595nm) vào
ánh sáng đèn LED (đèn LED xanh lam 435nm, đỏ 627 và 660nm và đỏ xa 735nm)
94 ở PPFD 300 µmol/m2/s, không ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của rau diếp; tuy
nhiên có tác động rõ rệt đến nitrite, axit amin, axit hữu cơ và hàm lượng đường hòa
tan. Ánh sáng màu cam, xanh lá cây có tác dụng khác biệt đối với quá trình chuyển
hóa rau diếp lá đỏ, xanh và tương tác với giá trị dinh dưỡng và an toàn trong sản
xuất rau diếp. Phản ứng trao đổi chất là đặc trưng của giống cây trồng; tuy nhiên
ánh sáng xanh lá cây có tác động hợp lý đến hàm lượng các chất chuyển hóa sơ cấp
trong rau diếp lá đỏ và xanh (Viršilė et al. , 2019) [153].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về hàm lượng vitamin C có sự sai khác so
với nghiên cứu trước đây của Chen et al. (2011) [39], Ohashi-Kaneko et al. (2007)
[105]. Nhóm tác giả đã quan sát thấy nồng độ vitamin C trong rau diếp cao hơn
dưới ánh sáng LED xanh lam và hỗn hợp ánh sáng LED đỏ và xanh lam so với dưới
ánh sáng LED đỏ (Ohashi-Kaneko et al., 2007; Chen et al., 2011) [39], [105].
Ohashi-Kaneko et al. (2007) [105] đã sử dụng các loại đèn có màu khác nhau để
trồng rau diếp, rau cải bó xôi và thấy rằng nồng độ vitamin C đã tăng đáng kể trong
khi chiếu sáng với tỉ lệ ánh sáng màu xanh cao hơn, một phần có thể là do quang
phổ chứa nhiều ánh sáng màu xanh hơn có thể làm tăng khả năng quang hợp và tăng
khả năng tổng hợp và tích lũy hexose và D-glucose. Hexose và D-glucose là tiền
chất của vitamin C và có thể kích thích tổng hợp vitamin C thông qua một số con
đường trao đổi chất ở thực vật bậc cao. Samuolienė et al. (2012) [131] cũng đã
nghiên cứu các tác động của màu xanh lá cây (550nm và 535nm) và màu xanh lam
(455nm và 470nm) bổ sung cho rau diếp và nhận thấy ánh sáng bổ sung ở 535nm
tạo điều kiện thuận lợi cho sự tích lũy vitamin C trong cả rau diếp lá xanh và đỏ
(Samuolienė et al., 2012) [131]. Tuy nhiên Li & Kubota (2009) [85] đã sử dụng các
loại đèn LED khác nhau để trồng rau diếp lá đỏ trong các buồng tăng trưởng và thấy
rằng phổ ánh sáng không tạo ra sự khác biệt đáng kể về nồng độ vitamin C trong
rau diếp lá đỏ (Li & Kubota, 2009) [85]. Những nghiên cứu này cho thấy phản ứng
sinh tổng hợp vitamin C đối với phổ ánh sáng ở thực vật phụ thuộc vào loài hoặc
điều kiện thí nghiệm. Tuy nhiên, đối với các loại rau được trồng trong môi trường
có kiểm soát, ánh sáng xanh hoặc hỗn hợp ánh sáng đỏ và xanh dường như có hiệu
quả hơn trong việc tạo điều kiện cho quá trình sinh tổng hợp và tích lũy vitamin C.
95
Những nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự với nghiên cứu của chúng
tôi. Bổ sung ánh sáng xanh lam (B) và xanh lá cây (G) dẫn đến làm giảm hàm lượng
nitrate. Bổ sung G thúc đẩy đáng kể sự tích lũy đường hòa tan. Hàm lượng nitratee
của cây xử lý bằng ánh sáng B tương tự như của cây được xử lý bằng G thấp hơn
đáng kể so với các công thức xử lý ánh sáng khác. Axit ascorbic cao nhất (80mg/kg
KLT) được quan sát thấy ở công thức xử lý khi bổ sung ánh sáng đỏ xa, tỉ lệ này
cao hơn 45% so với đối chứng và không có sự khác biệt đáng kể so với khi bổ sung
ánh sáng đỏ xa, đỏ và xanh lá cây. Ngoài ra, cây trồng bằng ánh sáng G bổ sung cho
thấy hàm lượng đường hòa tan cao nhất 9,69 mg/g và cao hơn 38% so với các công
thức xử lý ánh sáng khác (Chen et al., 2016) [42].
Kết quả về hàm lượng các hợp chất phenolic của chúng tôi cũng sai khác ít
nhiều với nghiên cứu của Samuoliene et al. (2012) [117]. Nhóm tác giả đã chứng
minh rằng nồng độ phenol tổng số trong rau diếp lá đỏ tăng 52,7 và 14,5%, tương
ứng, khi đèn LED đỏ và xanh được sử dụng trong 16 giờ trước khi thu hoạch, tuy
nhiên, đây không phải là trường hợp của rau diếp lá xanh. Đồng thời các công thức
có bổ sung tia UV có hiệu quả hơn trong việc tối ưu hóa nồng độ các hợp chất
phenolic so với các công thức chiếu sáng bổ sung khác, trong đó một phần là do các
hợp chất phenol có khả năng hấp thụ bức xạ UV mạnh mẽ và giúp tăng nồng độ của
chúng để bảo vệ thực vật khỏi những tổn thương đối với foton. Tỉ lệ LED màu xanh
và đỏ làm thay đổi đáng kể hàm lượng phenol tổng số trong cả hai giống rau diếp
nghiên cứu. Tỉ lệ LED màu xanh lam tăng lên đã kích thích sự tích lũy của
phenolics tổng số. Một giống rau diếp được trồng dưới 47% ánh sáng xanh lam có
phenolic tổng số cao hơn 1,4 và 2,4 lần so với cây đối chứng và 0% B ánh sáng
xanh lam, tương ứng vào tuần 4 sau khi bắt đầu xử lý bằng đèn LED. Giống còn lại
có phenolic tổng số dưới 26% B đến 59% B cao gấp 2,2 đến 2,7 lần so với đối
chứng. Các cây rau diếp được trồng dưới 0 %B và 13% B có tổng nồng độ phenolic
tương tự như đối chứng (Samuolienė et al., 2012) [131]. Ở đây, trong thí nghiệm
của chúng tôi, tỉ lệ ánh sáng xanh dao động trong khoảng từ 20-33% như vậy là hơn
kém nhau 13% nên có thể đã không tạo nên sự sai khác do tỉ lệ khác biệt về ánh
sáng xanh lam mà sự sai khác ở đây có thể là do một ở tỉ lệ phần trăm ánh sáng đỏ.
96
Hàm lượng diệp lục, tổng hàm lượng phenol, tổng hàm lượng flavonoid và
khả năng chống oxi hóa của rau diếp được trồng dưới tỉ lệ cao của đèn LED xanh
lam như 35:65 (35% B), 47:53 (47% B) hoặc 59:41 (59% B) ở cùng cường độ 171 ±
7 µmol/m2/s, 12h chiếu sáng cao hơn đáng kể so với 0% B hoặc đối chứng đèn
huỳnh quang. Do đó, nghiên cứu của Son & Oh (2013) [137] chỉ ra rằng tỉ lệ của
đèn LED xanh lam và đỏ rất quan trọng đối với hình thái, sự tăng trưởng và các hợp
chất phenolic có đặc tính chống oxi hóa trong hai giống rau diếp được nghiên cứu
(Son & Oh, 2013) [137].
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Agarwal & Gupta (2018) [26] trên cây cải bó xôi
được trồng dưới đèn LED màu xanh lam (470nm) và đỏ (630nm) với cách kết hợp
hợp khác nhau (xanh + đỏ: 1: 3, 1: 1, 3: 1) và đèn huỳnh quang (FL) làm đối chứng
cũng cho kết quả tương tự. Tổng hàm lượng phenolic đã tăng đáng kể dưới đèn
LED so với FL. Như vậy, việc điều khiển các điều kiện ánh sáng xung quanh bằng
đèn LED có thể được thực hiện để cải thiện năng suất chất lượng của rau lá khi
trồng dưới ánh sáng nhân tạo (Agarwal & Gupta, 2018) [26].
Người ta cho rằng ánh sáng xanh lá cây đóng góp đáng kể vào hiệu quả sử
dụng tài nguyên thực vật. Ánh sáng xanh lá cây bổ sung phổ ánh sáng đèn LED
xanh lam, đỏ dẫn đến những thay đổi giá trị về mặt dinh dưỡng và an toàn trên cây
rau. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của những tác động thu được vẫn còn chưa được
khẳng định, vì ánh sáng xanh lá cây có hiệu suất photon thấp và do đó làm tăng
đáng kể chi phí chiếu sáng trong các plant factory (Zhang et al. , 2018; Viršilė et al.
, 2019) [153], [169]. Vì thế vẫn cần những nghiên cứu sâu hơn nữa về vai trò của
phổ ánh sáng này.
3.2.6. Các thông số vệ sinh an toàn thực phẩm
Trong cả 3 công thức phổ ánh sáng khác nhau được nghiên cứu, kết quả kiểm
tra (sau 30 ngày trồng) theo phương pháp phân lập vi khuẩn cho thấy không được
phát hiện vi khuẩn Salmonella, E.coli.
Rau cải bó xôi có thể ăn sống, vì vậy vấn đề an toàn thực phẩm là rất quan
trọng. Nhóm vi khuẩn E. coli gây viêm đại tràng xuất huyết đường ruột (EHEC) và
97 hầu hết salmonella gây tiêu chảy kéo dài. Những vi khuẩn này gây bệnh đường tiêu
hóa: ăn thực phẩm bị ô nhiễm như bò, dê, cừu, sữa bò chưa tiệt trùng; rau, quả....
Những vi khuẩn này cũng lây trực tiếp từ người sang người khác qua tay hoặc vật
nhiễm phân. Kết quả của chúng tôi cho thấy rau cải bó xôi hoàn toàn không bị
nhiễm hai loại vi khuẩn gây bệnh này. Những kết quả này của chúng tôi cũng tương
đồng với những nghiên cứu trước đây của nhóm tác giả về tía tô xanh Hàn Quốc
trồng thủy canh dưới ánh sáng đèn LED. Trong đó, nhóm vi khuẩn E.coli,
Salmonella, trứng giun cũng không được tìm thấy trong các mẫu tía tô thủy canh,
chỉ phát hiện Coliforms (1,36 × 100 (CFU/g) nhưng hàm lượng này hoàn toàn nằm
trong giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam (2 × 102 (CFU / g)) (Nguyễn
Quang Thạch & cs., 2017) [12].
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ của đèn LED màu đỏ, xanh lá cây và
xanh lam là một yếu tố quan trọng cần thiết cho sự tăng trưởng, khả năng quang
hợp và sinh tổng hợp các chất chuyển hóa trong rau cải bó xôi trồng thủy canh. Đèn
LED ánh sáng đỏ-xanh có thể là ánh sáng thích hợp cho sự phát triển của rau cải bó
xôi, nhưng sự chiếu sáng bổ sung của đèn LED xanh lá cây dựa trên sự kết hợp giữa
đèn LED màu đỏ và màu xanh lam với tỉ lệ hợp lý có thể thay đổi chất lượng của
rau cải bó xôi theo hướng tích cực. Tuy nhiên, những thông tin về ảnh hưởng của
ánh sáng xanh lá cây bổ sung cho sự kết hợp giữa đèn LED màu đỏ và màu xanh
lam còn hạn chế và các cơ chế liên quan còn chưa rõ ràng, nhưng có một điều hoàn
toàn khẳng định chắc chắn là rau cải bó xôi trồng rau thủy canh trên hệ thống nói
trên là loại rau an toàn cho người tiêu dùng.
3.3. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến sinh trưởng, năng suất
và phẩm chất của cây cải bó xôi giống PD512 trồng trên hệ thống thủy canh
hồi lưu
3.3.1. Sinh trưởng
Tăng trưởng và phát triển của cây phụ thuộc mạnh mẽ vào các yếu tố môi
trường. Trong số các yếu tố này, cường độ sáng là rất quan trọng. Cường độ ánh
sáng khác nhau ảnh hưởng khác nhau rõ rệt đến sự sinh trưởg của rau cải bó xôi
98 trồng thủy canh. Trong nghiên cứu này, chiều cao của cây, số lá cũng như tốc độ
tăng trưởng của rau cải bó xôi trồng thủy canh tăng lên khi cường độ ánh sáng đèn
LED màu đỏ - xanh tăng dần từ 90 – 240 µmol/m2/s (Bảng 3.21).
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đèn LED khác nhau đến thông số
sinh trưởng của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của đèn
LED màu đỏ - xanh trong nhà (21 NST)
Cường độ ánh sáng CCC Số lá LA RGR NAR
(cm) (lá/cây) (dm2/cây) (g/ngày) (g/m2/ngày)
I1 5,249c 20,10c 11,22b 3,65d 0,121b (90 µmol/m2/s)
24,95b 12,44ab 4,09c 0,123b 5,304b
I2 (90 µmol/m2/s) (140 µmol/m2/s) ))µmol/m2/s) I3 29,60a 13,33a 5,85a 0,138a 5,465a (190 µmol/m2/s)
I4 30,40a 13,77a 4,89b 0,127b 5,331b (240 µmol/m2/s)
2,6 6,6 4,6 3,8 0,5 CV%
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
CCC: chiều cao cây, LA: Diện tích lá, RGR: Tốc độ tăng trưởng tương đối, NAR: hiệu suất
quang hợp thuần, NST: ngày sau khi trồng.
1,26 1,57 0,39 0,009 0,053 LSD5%
Trong số các khoảng cường độ này, cường độ ánh sáng 190 µmol/m2/s có hiệu
tốt nhất cho sự sinh trưởng của rau cải bó xôi trồng thủy canh. Đối với công thức xử
lý ánh sáng đèn LED màu đỏ - xanh, chiều cao và số lá của cây tăng theo cường độ
tăng dần. Bảng 3.21 cho thấy chiều cao cây và số lá của rau cải bó xôi cao hơn ở I3
(190 µmol/m2/s) và I4 (240 µmol/m2/s) so với I1 và I2. Sự khác biệt ở đây là có ý
nghĩa thống kê. Cụ thể, chiều cao cây ở công thức I3 cao hơn lần lượt là 1,47; 1,18
lần so với I1 và I2. Chiều cao cây trong I4 cao hơn tương ứng 1,51; 1,21 lần so với
99 I1 và I2. Tuy nhiên, sự khác biệt về chiều cao và số lá giữa I3 và I4 là không có ý
nghĩa thống kê (Bảng 3.21).
Trong khi đó, diện tích lá (LA) cao nhất ở I3 và giảm theo thứ tự I3> I4> I2>
I1. Có sự khác biệt đáng kể giữa 4 công thức xử lý ánh sáng khác nhau ở mức ý
nghĩa 5%. Ngoài ra, RGR và NGR cao nhất trong I3, nhưng chúng không có sự
khác biệt đáng kể công thức xử lý I2 và I4 (Bảng 3.21).
Kết quả về chiều cao cây, số lá và diện tích lá này cũng tương tự kết của Lee
et al. (2007) [82]. Trong nghiên cứu đã chỉ rằng số lá cao nhất ở cường độ 60
µmol/m2/s và 30 µmol/m2/s và thấp nhất ở 15 µmol/m2/s sau đó đến 90 µmol/m2/s.
Tương tự diện tích lá và chiều cao cây cũng cao nhất ở công thức cường độ 30
µmol/m2/s và giảm dần theo thứ tự 30 µmol/m2/s > 60 µmol/m2/s > 90 µmol/m2/s >
15 µmol/m2/s (Lee et al., 2007) [82].
3.3.2. Sắc tố quang hợp và thông số quang hợp
Sắc tố quang hợp được coi là đóng vai trò chính trong quang hợp. Các phân tử
diệp lục hấp thụ các photon ánh sáng và chuyển sang trạng thái kích thích sau đó
các phân tử diệp lục bị kích thích này có thể loại bỏ năng lượng ánh sáng dưới dạng
quang hóa. Trong khi đó, các phân tử carotenoid hoạt động như các tác nhân bảo vệ
quang hợp bằng cách nhanh chóng dập tắt trạng thái kích thích của diệp lục (Taiz
Lincoln & Eduardo, 2002) [144].
Kết quả về hàm lượng sắc tố quang hợp và các thông số quang hợp được trình
bày trong Bảng 3.22 và Bảng 3.23.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hàm lượng Chlb và Chla/Chlb
của rau cải bó xôi thủy canh trong các công thức xử lý với cường độ ánh sáng khác
nhau, nhưng hàm lượng Chla và Chl(a + b) cao hơn đáng kể ở công thức xử lý ánh
sáng với cường độ I3 so với I1 và I2. Hàm lượng Chla, Chl (a + b) và caroten không
khác biệt đáng kể ở 2 cường độ xử lý ánh sáng I1 và I2. Tuy nhiên, không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về hàm lượng Chl (a + b) và caroten giữa các công
thức xử lý ánh sáng I3 và I4, nhưng chúng khác nhau về hàm lượng Chla. Trong
100 đó, SPAD giữa các công thức xử lý cường độ ánh sáng khác nhau là khác nhau về
mặt thống kê (Bảng 3.22).
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến hàm lượng sắc tố
quang hợp của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh
sáng đèn LED màu đỏ-xanh (21 NST)
Cường độ ánh Chla Chlb Chl(a+b) Chla/ Carotenoids SPAD
sáng (mg/g) (mg/g) (mg/g) Chlb (mg/g)
I1 0,256c 0,481a 0,738b 0,532a 0,161b 32,31d (90 µmol/m2/s)
I2 0,262bc 0,495a 0,757b 0,528a 0,167b 34,98c (140 µmol/m2/s)
I3 0,291a 0,525a 0,817a 0,554a 0,185a 40,13a (190 µmol/m2/s)
I4 0,276b 0,507a 0,783ab 0,544a 0,177ab 37,22b (240 µmol/m2/s)
4,02 8,04 5,62 7,95 7,78 1,7 CV%
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
Chla: Chlorophyll a, Chlb: Chlorophyll b, Chl(a+b): Tổng Chlorophyll a và b.
0,015 0,054 0,058 0,058 0,018 1,15 LSD5%
Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả hàm lượng Chla và Chlb cũng như chỉ số
SPAD và carotenoid trong lá đều tăng trong điều kiện ánh sáng cao hơn và cao nhất
trong công thức xử lý I3 (Bảng 3.22). Không có sự khác biệt giữa tỉ lệ Chl a/b trong
4 công thức xử lý cường độ ánh sáng khác nhau. Kết quả này của chúng tôi không
hoàn toàn giống với kết quả được báo cáo trước đây của Yao et al. (2017) [165] ở
cây giống cây cải dầu. Trong điều kiện cường độ ánh sáng cao hơn, thực vật tích lũy
nhiều sắc tố quang hợp hơn để hấp thụ nhiều năng lượng ánh sáng hơn. Ngoài ra,
trong điều kiện nguồn cung cấp năng lượng ánh sáng hạn chế hơn (90 µmol/m2/s),
101 Pn và Fv/Fm của rau cải bó xôi thủy canh là thấp nhất và công thức xử lý này cũng
có hàm lượng chla nhỏ nhất (Bảng 3.23).
Tuy nhiên, nghiên cứu của Lee et al. (2007) [82] cũng hoàn toàn trùng khớp
với nghiên cứu của chúng tôi về hàm lượng Chl, carotenoid cũng như tỉ lệ
Chla/Chlb. Trong đó, đã chỉ ra rằng tổng Chl không sai khác giữa 3 công thức
cường độ 30, 60, 90 µmol/m2/s, nhưng cao hơn công thức 15 µmol/m2/s. Xét về mặt
tổng thể, công thức 60 µmol/m2/s có xu hướng cao hơn về các chỉ tiêu kể trên so với
các công thức còn lại (Lee et al. , 2007) [82].
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi (Bảng 3.23), Gs là nhỏ nhất và Pn cao
nhất trong công thức xử lý ánh sáng ở cường độ I3, nhưng cường độ ánh sáng cao
hơn trong công thức xử lý ánh sáng ở cường độ I4 có Gs cao hơn và giá trị Pn thấp
hơn so với trong công thức xử lý ánh sáng ở cường độ I3, có khả năng do cường độ
ánh sáng bão hòa trong công thức xử lý ánh sáng ở cường độ I4 (240 µmol/m2/s)
đối với cây cải bó xôi trong điều kiện thí nghiệm của chúng tôi. Giá trị Fv/Fm và
cường độ quang hợp Pn cao nhất ở công thức cường độ ánh sáng I3, khác biệt đáng
kể so với các công thức xử lý ánh sáng khác. Cụ thể, giá trị Fv/Fm ở công thức
cường độ ánh sáng I3 cao hơn công thức xử lý ánh sáng I1, I2 và I4 lần lượt là 1,14;
1,13 và 1,11 lần. Nhưng giá trị Fv/Fm không khác biệt đáng kể giữa các công thức
xử lý ánh sáng ở cường độ I1, I2 và I3. Cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về giá trị cường độ quang hợp ở 2 mức cường độ I2 và I4 (Bảng 3.23). Kết
quả này của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu của Fan et al. (2013) [51]
trên cây con cà chua. Pn của lá cao nhất dưới 300 µmol/m2/s và thấp nhất dưới 50
µmol/m2/s. Khi PPFD tăng từ 50 đến 300 µmol/m2/s, sự gia tăng của Pn đã được
quan sát. Tuy nhiên, PPFD vượt quá 300 µmol/m2/s, ở mức 450 và 500 µmol/m2/s,
Pn giảm đáng kể. Mức sai khác ở đây được ghi nhận có giá trị không sai khác so với
ở mức PPFD 200 µmol/m2/s (Fan et al. , 2013) [51]. Điều này cũng đã từng được
khẳng định trước đó trong nghiên cứu của Lee et al. (2007) (Lee et al. , 2007) [82].
Kết quả của các tác giả đó đã chỉ ra rằng giá trị Pn cao hơn có ý nghĩa thống kê ở
công thức 60 µmol/m2/s so với các công thức còn lại 15, 30 và 90 µmol/m2/s trên
102 cây nhân sâm Ấn Độ. Ở đây có mối liên quan giữa độ dẫn khí khổng-tốc độ truyền
CO2 đi vào hoặc lượng hơi nước thoát ra và quang hợp (Lee et al. , 2007) [82]. Các
khí khổng là các kênh quan trọng để trao đổi nước và không khí với môi trường bên
ngoài, cường độ ánh sáng ảnh hưởng đến độ dẫn của khí khổng bằng cách tăng
cường lực chuyển động của các proton (Hattori et al., 2007) [58]. Ở đây độ dẫn khí
khổng thấp hơn ở công thức I3, cho thấy cơ chế nồng độ CO2 trong lá cho phép duy
trì khả năng quang hợp cao ở mức nồng độ CO2 trong các khoảng gian bào thấp và
độ dẫn khí khổng thấp (Taiz Lincoln & Eduardo, 2002) [144]. Kết quả này cũng
tương đồng với nghiên cứu của Lee et al. (2007) [82] khi cho rằng Gs có sai khác
không có ý nghĩa thống kê về giá trị Gs ở cây nhân sâm Ấn Độ (Withania
somnifera) với mức cường độ 30, 60 và 90 µmol/m2/s (Lee et al., 2007) [82].
Bảng 3.23. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến khả năng quang hợp
của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của đèn LED màu đỏ -
xanh trong nhà (21 NST)
Gs Pn Cường độ ánh Fo Fm Fv/Fm Fv/Fo sáng (mmol/ m2/s) (µmol CO2 /m2leaf/s)
0,120 0,606 0,802b 4,05 0,24 32,48c I1 (90 µmol/m2/s)
0,123 0,632 0,806b 4,14 0,17 35,77b I2 (140 µmol/m2/s)
0,044 0,504 0,912a 10,45 0,10 44,26a I3 (190 µmol/m2/s)
0,095 0,539 0,823b 4,67 0,19 36,16b I4 (240 µmol/m2/s)
2,2 2,4 CV%
Ghi chú: Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý
nghĩa P < 5% theo phần mềm R.
Gs: Độ dẫn khí khổng, Pn: Cường độ quang hợp
0,03 1,69 LSD5%
103
3.3.3. Đặc điểm giải phẫu lá
Cải bó xôi sinh trưởng mạnh ở cường độ cao hơn dẫn đến độ dày của lá tăng
gấp 1,4 lần; độ dày lá từ 259,10 µm ở công thức xử lý cường độ I1 đến 356,60 µm ở
công thức xử lý I3 (Hình 3.17, Bảng 3.24).
A
B
C
D
Hình 3.17. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến cấu trúc giải phẫu lá
cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của đèn LED màu đỏ -
Ghi chú: A-D: cấu tạo giải phẫu của lá ở cường độ A: 90 µmol/m2/s, B: 140 µmol/m2/s, C:
190 µmol/m2/s, D: 240 µmol/m2/s. Độ phóng đại 400 lần. Thước đo: 50 µm.
xanh lam (21 NST).
Độ dày lá tăng cao hơn ở công thức I3, điều này là do sự gia tăng gấp 1,3 - 1,4
lần về độ dài trung bình của cả lớp tế bào mô xốp và lớp tế bào mô giậu. Hơn nữa,
sự khác biệt về độ dày, chiều dày mô giậu và chiều dày mô xốp ở lát cắt ngang của
lá cây cải bó xôi có ý nghĩa thống kê giữa 4 cách xử lý cường độ ánh sáng khác
nhau. Trong khi đó, tỉ lệ độ dày lớp tế bào mô giậu/ độ dày lớp tế bào mô xốp chỉ
khác nhau ở I3 so với I2, I4 và I1, nhưng không có sự khác biệt đáng kể có ý nghĩa
104 thống kê giữa các công thức xử lý ánh sáng ở cường độ I2 và I4. Theo đó, độ chặt
của lá không khác biệt giữa 4 công thức xử lý cường độ ánh sáng khác nhau (Bảng
3.24, Hình 3.17).
Bảng 3.24. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến cấu trúc giải phẫu của
lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của đèn LED màu đỏ -
xanh lam (21 NST)
Độ dày lá (µm) Độ chặt lá Cường độ ánh sáng Chiều dày mô giậu (µm) Chiều dày mô xốp (µm) CD mô giậu/CD mô xốp
51,68d 175,71d 259,10d 0,294c 0,199a
60,02c 196,85c 298,45c 0,305b 0,201a
72,25a 220,79a 356,60a 0,327a 0,203a
65,23b 210,04b 324,33b 0,311b 0,201a
3,36 0.009 3,04 0.005 1,59 4.57 2,55 1.44 I1 (90 µmol/m2/s) I2 (140 µmol/m2/s) I3 (190 µmol/m2/s) I4 (240 µmol/m2/s) CV% LSD5%
nhau có ý nghĩa thống kê (ở mức P ≤ 0,05; n = 3).
1,84 3.35 Ghi chú: CD: chiều dày. Các chữ cái viết thường khác nhau trong cùng một cột biểu thị sự
Cấu trúc lá cây chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố môi trường. Nhiều nghiên
cứu cho thấy có một sự thay đổi linh hoạt trước sự thay đổi của các điều kiện bên
ngoài, đặc biệt là dưới tác động của ánh sáng. Hầu hết các thông số như: độ dày của
lá, chiều dày mô giậu, mô xốp và tỉ lệ PT/ ST ở Radix bupleuri đều giảm dưới điều
kiện bóng râm. Những đặc điểm thích nghi này cũng cũng tương tự như kết quả
nghiên cứu trước đây ở cây Datura stramonium (Qin et al., 2014) [121] và Brassica
napus L. (Yao et al., 2017) [165].
Các tế bào mô giậu tập trung nhiều lục lạp hơn các tế bào xốp; ngay cả hàm
lượng diệp lục cao cũng xuất hiện ngay lớp đầu tiên của lớp tế bào này cho phép
truyền ít ánh sáng tới bên trong lá. Do đó, nhiều ánh sáng hơn luôn xuyên qua trong
lớp tế bào đầu tiên. Tuy nhiên, giữa các tế bào xốp có khoảng gian bào tạo ra nhiều
105 giao diện giữa không khí và nước phản xạ và khúc xạ ánh sáng, vì thế ngẫu nhiên
hóa hướng di chuyển của ánh sáng (tán xạ ánh sáng). Sự tán xạ ánh sáng đặc biệt
quan trọng ở các lá vì nhiều phản xạ giữa các khoảng gian bào của tế bào làm tăng
đáng kể độ dài đường đi của các foton, do đó làm tăng khả năng hấp thụ ánh sáng
trong lá. Trong thực tế, độ dài đường dẫn foton trong lá thường gấp bốn hoặc nhiều
hơn so với độ dày của lá. Như vậy, các đặc tính của tế bào mô giậu cho phép ánh
sáng đi qua và các đặc tính tế bào mô xốp có lợi cho sự tán xạ ánh sáng, dẫn đến sự
hấp thụ ánh sáng đồng đều hơn trong lá (Taiz Lincoln & Eduardo, 2002) [144]. Do
đó, các tế bào mô xốp lớn hơn có thể làm tăng diện tích bề mặt bên trong của lá và
có thể cải thiện hiệu quả quang hợp. Có thể cho rằng, đóng vai trò cơ bản của quang
hợp là mô giậu. Một số báo cáo chỉ ra rằng ánh sáng xanh và đỏ cung cấp năng
lượng cho quá trình quang hợp ở các lớp tế bào gần bề mặt lá phía trên, trong khi ở
các lớp tế bào bên dưới, năng lượng cho quang hợp được cung cấp bởi ánh sáng
xanh lá cây. Trong một nghiên cứu khác, cây cải dầu có mô giậu dày hơn cho thấy
mức độ quang hợp thuần cao hơn (Yao et al., 2017) [165].
Chúng tôi không nhận thấy cấu trúc đặc trưng rõ ràng về số lượng lớp tế bào
giữa 4 cách xử lý cường độ khác nhau, tuy nhiên sự sắp xếp của các tế bào mô giậu
là gọn và chặt với cường độ cao hơn. Các tế bào mô xốp cũng được phân phối một
cách có trật tự và gọn hơn khi cường độ tăng. Rõ hơn có thể thấy khoảng 2-3 lớp tế
bào mô giậu ở công thức xử lý cường độ ánh sáng I3. Vì thế, rau cải bó xôi ở công
thức xử lý cường độ ánh sáng I3 có độ dày lá và chiều dày mô giậu, độ chặt lá cao
nhất (Hình 3.17).
3.3.4. Đặc điểm của khí khổng
Khí khổng được coi là một cổng cho CO2 khuếch tán từ khí quyển vào lá. Lỗ
khí là điểm mấu chốt của sự khuếch tán CO2 này. Do đó, sự đóng mở của khí khổng
cho phép kiểm soát quá trình thoát hơi nước và hấp thụ CO2 ở cây trồng. Ngoài ra,
cơ chế tập trung CO2 cho phép lá duy trì tốc độ quang hợp cao ở các giá trị Ci thấp
hơn, do đó đòi hỏi mức độ thấp hơn của độ dẫn khí khổng cho một tỉ lệ quang hợp
nhất định. Khí khổng trên lá và hấp thụ CO2 có mối tương quan thuận, nhưng Pn và
106 Gs có mối tương quan nghịch khi bức xạ ánh sáng chiếu xuống nhỏ hơn cường độ
ánh sáng bão hòa của quá trình quang hợp (Yao et al., 2017) [165].
Khi cường độ ánh sáng tăng, diện tích tế bào biểu bì, chiều dài khí khổng,
chiều rộng khí khổng tăng. Trong bề mặt trên và bề mặt dưới lá, diện tích tế bào
biểu bì cao nhất ở công thức xử lý ánh sáng với cường độ I3. Nhưng ở cả hai bề mặt lá,
chiều rộng khí khổng đều cao nhất ở công thức xử lý ánh sáng với cường độ I4. Sự
khác biệt ở đây là có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ: diện tích tế bào biểu bì và chiều rộng
khí khổng ở bề mặt dưới của lá ở công thức xử lý ánh sáng ở cường độ I1 và I2; chiều
rộng khí khổng ở bề mặt trên lá trong công thức xử lý ánh sáng cường độ I2 và I3
không có sự khác biệt đáng kể (Bảng 3.25, Hình 3.18 và Hình 3.19).
Có thể thấy rằng cường độ ánh sáng càng cao, tế bào bảo vệ khổng có diện
tích càng rộng. Tuy nhiên, tỉ lệ chiều dài/chiều rộng khí khổng của khí khổng là cao
nhất ở công thức I3. Mật độ khí khổng khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa 4 công
thức xử lý ánh sáng khác nhau tuy nhiên, mật độ tăng khi cường độ tăng, điều này
là không bình thường.
Ở đây cần lưu ý rằng mật độ khí khổng cao nhất ở mặt trên của lá với công
thức xử lý I3 nhưng mặt dưới của lá mật độ cao nhất ở công thức xử lý I4. Nhưng
nếu tính tổng số khí khổng ở cả hai mặt lá, sẽ thu được kết quả hoàn toàn theo thứ
tự tăng dần khi cường độ ánh sáng tăng (theo thứ tự 218,84 µm; 243,52 µm; 328,97
µm; 358,95 µm tương ứng với cường độ I1, I2, I3, I4 ) (Bảng 3.25, Hình 3.18 và
Hình 3.19).
Những kết quả này cũng đồng nhất và phù hợp với kết quả trong nghiên cứu
của Yao et al. (2017) [165] về các đặc điểm của khí khổng, chẳng hạn như: mật độ
khí khổng, chiều dài khí khổng và tỉ lệ chiều dài/chiều rộng của khí khổng (Yao et
al. , 2017) [165]. Nhưng chỉ có một sự khác biệt nhỏ trong nghiên cứu này về
cường độ xử lý ánh sáng I3 cho thấy hiệu quả tối ưu hơn cường độ ánh sáng cao
hơn ở công thức xử lý ánh sáng I4.
107 Bảng 3.25. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến các tế bào biểu bì lá
của cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn LED
đỏ - xanh (21 NST)
Vị trí
Cường độ ánh sáng Diện tích TB biểu bì (µm2) CD khí khổng (µm) CR khí khổng (µm) Tỉ lệ CD/CR khí khổng Mật độ khí khổng (TB/mm2)
I1 18,26d 19,44d 15,76c 1,23c 140.30c
I2 26,55c 26,14c 20,51b 1,21c 153.90b
I3 46,64a 37,59a 21,61b 1,74a 207.17a Biểu bì trên của lá
I4 34,55b 35,24b 25,72a 1,37b 155.80b
12,29 6,35 6,70 8,43 3,32 CV%
3,51 1,70 1,27 0,106 5,7 LSD5%
I1 18,29c 21,73d 17,54c 1,240c 78,54d
I2 19,84c 24,78c 18,18c 1,365b 89,62c
I3 31,74a 36,61a 19,91b 1,838a 121,80b
Biểu bì dưới của lá
I4 24,47b 27,66b 25,34a 1,095d 203,15a
12,13 5,56 6,28 7,95 4,47 CV%
0,101 1,41 2,36 1,22 5,0
nghĩa thống kê (ở mức P≤0,05; n = 3).
CD: Chiều dài, CR: chiều rồng, TB: Tế bào. I1: 90 µmol/m2/s, I2: 140 µmol/m2/s, I3: 190
µmol/m2/s, I4: 240 µmol/m2/s.
LSD5% Ghi chú: Các chữ cái viết thường khác nhau trong cùng một cột biểu thị sự nhau có ý
108
A B
D C
Hình 3.18. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến đặc điểm lớp tế bào
biểu bì trên ở lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh
Ghi chú: A-D tương ứng A: 90 µmol/m2/s, B: 140 µmol/m2/s, C: 190 µmol/m2/s, D: 240
µmol/m2/s. Thước đo: 50 µm. Độ phóng đại 400 lần.
sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST).
109
A
B
D
C
Hình 3.19. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến đặc điểm lớp tế bào
biểu bì dưới ở lá cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh
Ghi chú: A-D tương ứng A: 90 µmol/m2/s, B: 140 µmol/m2/s, C: 190 µmol/m2/s, D: 240
µmol/m2/s. Thước đo: 50 µm. Độ phóng đại 400 lần.
sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST).
110
3.3.5. Đặc điểm cấu trúc bộ rễ
Bảng 3.26. Ảnh hưởng của các cường độ ánh sáng khác nhau đến cấu trúc bộ rễ của
cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ -
xanh (21 NST).
Diện tích theo Tổng diện tích Đường Công Tổng chiều Thể tích mặt phẳng bề mặt kính trung thức dài rễ (cm) (cm3) (cm2) (cm2) bình (mm)
I1 1514,5b 30,4b 95,6b 0,201c 0,971c
I2 2029,2ab 50,2a 132,2ab 0,248ab 1,849b
I3 2071,4ab 52,5a 175,0a 0,289a 2,385a
I4 2202,9a 52,0a 166,7a 0,235bc 1,970ab
CV% 13,9 13,8 11,6 9,4 12,87
Công thức: I1: 90 µmol/m2/s, I2: 140 µmol/m2/s ,I3: 190 µmol/m2/s, I4: 240 µmol/m2/s.
Những trị số trong cùng 1 cột có cùng 1 chữ cái là không có sự sai khác ở mức ý nghĩa P
< 5% theo phần mềm R.
LSD5% 586,4 17,2 44,4 0,043 0,434
Ở tất cả các thông số về đặc điểm rễ: diện tích, tổng diện tích bề mặt, đường
kính trung bình và thể tích trung bình là cao nhất ở cường độ ánh sáng I3, thấp nhất
là công thức cường độ I1, chỉ trừ chiều dài rễ cao nhất ở công thức với cường độ I4.
Xét tổng thể giữa 3 công thức cường độ I2, I3, I4 sự khác nhau về các thông số
chiều dài rễ, diện tích theo mặt phẳng, tổng diện tích bề mặt là không có ý nghĩa về
mặt thống kê. Thể tích rễ giữa 3 công thức I1, I2, I3 khác nhau có ý nghĩa thống kê
ở mức độ tin cậy 95%, nhưng không có sự sai khác giữa I3 và I4. Bên cạnh đó,
công thức xử lý cường độ I3 và I4 sai khác nhau về đường kính trung bình. Như vậy
có thể thấy rằng kích thước rễ tăng khi cường độ ánh sáng tăng và thể hiện rõ nhất ở
thể tích rễ. Mặc dù vậy, khi tăng đến cường độ I4 thì các kích thước của rễ hầu như
không tăng và không tìm thấy sự khác biệt giữa I3 và I4, trừ đường kính trung bình
như đã nói ở trên (Bảng 3.26, Hình 3.20). Kết quả nghiên cứu về cấu trúc bộ rễ
cũng phù hợp với những nghiên cứu trước đây của Lee et al. (2007) (Lee et al.,
111 2007) [82] trên cây Withania somnifera (L.). Trong đó, số lượng rễ nhiều nhất ở
cường độ 30 µmol/m2/s giảm dần theo thứ tự 30 µmol/m2/s > 60 µmol/m2/s > 15
µmol/m2/s > 90 µmol/m2/s. Cường độ ánh sáng cao hơn trong một phạm vi nhất
định đã thúc đẩy sự phát triển của chồi, lá và rễ cây. Đây cũng là một mối tương
quan tích cực trong quá trình tăng trưởng và phát triển của cây. Kết quả của chúng
tôi về các thông số tăng trưởng tương tự như nghiên cứu của Proietti et al. (2004)
[117] cũng trên rau cải bó xôi trồng trong buồng tăng trưởng với phổ ánh sáng 400-
700 µmol/m2/s ở hai cường độ khác nhau (200 và 800 µmol/m2/s) (Proietti et al.,
2004) [117]. Kết quả về chiều dài rễ phù hợp với kết quả của Kang et al. (2013)
(Kang et al., 2013) [71] trên rau diếp, trong đó rễ dài nhất ở công thức xử lý 290
µmol/m2/s, chiều dài rễ thấp nhất ở công thức xử lý 200 µmol/m2/s. Tuy nhiên, trong
công thức xử lý 290 µmol/m2/s không khác biệt đáng kể so với các công thức xử lý
230 và 260 µmol/m2/s. Đồng thời, kết quả nghiên cứu tương tự như của Ma et al.
D
B
C
A
(2018) trên cây đậu tương [90].
Hình 3.20. Cấu trúc bộ rễ ở các cường độ ánh sáng khác nhau của cải bó xôi giống
Ghi chú: A-D tương ứng A: 90 µmol/m2/s, B: 140 µmol/m2/s, C: 190 µmol/m2/s, D: 240
µmol/m2/s.
PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST).
3.3.6. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
Mặc dù cường độ ánh sáng tăng nhưng khối lượng tươi và khối lượng khô của
thân lá, năng suất lý thuyết, năng suất thực thu hoạch cuối cùng không cao nhất ở
công thức xử lý ánh sáng với cường độ I4, mà cao nhất lại ở công thức I3. Sự khác
112 biệt là ý nghĩa thống kê giữa các cách xử lý ánh sáng khác nhau. Trong công thức
xử lý cường độ ánh sáng I3 khối lượng tươi của thân lá, năng suất thực thu cuối
cùng cao gấp 2,7, nhưng khối lượng khô của thân lá chỉ cao hơn 1,8 lần so với công
thức I. Tương tự đối với khối lượng tươi của thân lá, năng suất thực thu cuối cùng
trong công thức xử lý I4 cao hơn 2,1 lần so với I1, nhưng khối lượng khô của thân
lá chỉ cao hơn 1,5 lần (Bảng 3.27, Hình 3.21).
Bảng 3.27. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng khác nhau đến năng suất của cải bó
xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh
(21 NST).
Khối lượng Khối lượng Năng suất lý Năng suất Cường độ ánh tươi thân lá khô thân lá thuyết thực thu sáng (kg/m2) (kg/m2) (g/cây) (g/cây)
16,35d 0,92d 1,37 1,28d
I1 (90 µmol/m2/s)
21,19c 1,20c 1,78 1,62c
I2 (140µmol/m2/s)
43,74a 1,64a 3,67 3,46a
I3 (190 µmol/m2/s)
34,79b 1,36b 2,92 2,73b
I4 (240 µmol/m2/s)
2,70 5,85 - 3,10 CV%
1,49 0,14 - 0,13 LSD5%
Sự phát triển của các yếu tố liên quan đến quang hợp trong đó có sự phát triển
của lá là cơ sở để tăng cường sự đồng hóa và tích lũy các sản phẩm đồng hóa ở thực
vật. Do đó, năng suất cá thể cũng như năng suất thực thu được tăng lên. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây có sử dụng
các tổ hợp ánh sáng đỏ: ánh sáng xanh cũng đã làm tăng năng suất cây trồng như
nghiên cứu của Dong et al. (2014) ở cây lúa mì (Triticum aestivum L.) (Dong et al.,
2014) [48], của Li et al. (2016) ở đậu bắp (Abelmoschus esculentus) (Li et al., 2016)
113 [84] và của Sabzalian et al. (2014) ở cây rau, cây hoa và cây thuốc (Sabzalian et al.,
2014) [128]. Trong mọi trường hợp, khi các yếu tố môi trường được kiểm soát, ánh
sáng đỏ có thể đóng vai trò là nguồn ánh sáng chính để thúc đẩy việc tăng sinh khối
và năng suất của rau. Như đã lưu ý ở trên, ánh sáng xanh, đỏ và các cường độ khác
nhau của chúng kiểm soát tốc độ quang hợp thông qua việc mở và/hoặc đóng khí
khổng và ảnh hưởng của chúng đến sinh khối hoặc năng suất của thực vật không có
gì đáng ngạc nhiên. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có thể rau cải bó xôi phù hợp
với cường độ ánh sáng nhỏ hơn 240 µmol/m2/s, do đó công thức thí nghiệm với
cường độ I3 cho năng suất cao nhất trong các cường độ ánh sáng được nghiên cứu.
Điều này có thể cho rằng cây cải bó xôi trồng cho năng suất cao hơn ngoài sự tích
lũy chất khô lớn hơn có thể là do lượng nước dự trữ lớn hơn trong tán lá. Hơn nữa,
các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng nếu lá có cùng độ dày thì những lá lớn hơn có
thể thu được nhiều năng lượng ánh sáng hơn để thay đổi quang hóa, do đó dẫn đến
tăng sinh khối (Li & Kubota, 2009) [85]. Lá và độ dày lớn nhất của rau cải bó xôi ở
công thức xử lý cường độ ánh sáng I3 đã lý giải vì sao khối lượng khô của chúng
lớn hơn các công thức xử lý cường độ ánh sáng khác.
Như vậy, rõ ràng trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, chiều cao cây, số lá,
diện tích lá, NGR, NAR, khả năng quang hợp và năng suất của rau cải bó xôi trồng
thủy canh thay đổi để thích nghi với cường độ ánh sáng khác nhau. Mô giậu và mô
khuyết trong lá dày hơn, diện tích tế bào biểu bì, chiều dài và chiều rộng khí khổng
tăng khi cường độ ánh sáng tăng. Quan trọng hơn, diện tích lá, NGR, NAR, hàm
lượng Chla và Chl(a + b), thậm chí độ dày của lá cao hơn đáng kể trong công thức
xử lý ánh sáng với cường độ 190 µmol/m2/s so với công thức 240 µmol/m2/s. Mặc
dù, cường độ ánh sáng đã tăng nhưng khối lượng tươi và khối lượng khô của thân
và lá, năng suất lý thuyết, năng suất thực thu không cao nhất ở công thức 240
µmol/m2/s mà cao nhất ở công thức 190 µmol/m2/s. Điều đó cho thấy rằng, cường
độ ánh sáng 190 µmol/m2/s có thể là cường độ phù hợp cho sự phát triển của rau cải
bó xôi trồng thủy canh.
114
Hình 3.21. Hình ảnh cây cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh ở các cường độ
Ghi chú: I1-I4 tương ứng 90 µmol/m2/s, 140 µmol/m2/s, 190 µmol/m2/s, 240 µmol/m2/s.
ánh sáng khác nhau dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST).
3.3.7. Chất lượng dinh dưỡng
3.3.7.1. Hàm lượng nguyên tố khoáng
Hàm lượng các yếu tố khoáng khác nhau giữa các cường độ ánh sáng khác
nhau là khác nhau và phụ thuộc vào các nguyên tố được đánh giá. Hàm lượng Ca2+
115 có xu hướng tăng khi cường độ ánh sáng tăng, cao nhất công thức có cường độ I4
và thấp nhất ở công thức có cường độ I1. Sự khác biệt giữa cả 4 công thức là có ý
nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy 95%. Sự biến đổi này là rất lớn, cụ thể: ở cường độ
I4 hàm lượng Ca2+ gấp đến 50 lần ở cường độ I1, gấp 7 lần I2 và 1,6 lần I3. Trái
ngược với hàm lượng Ca2+, hàm lượng K+ cao nhất ở I2 nhưng sự sai khác không có
ý nghĩa thống kê giữa I1 và I2. Khi cường độ ánh sáng tăng thì hàm lượng K+ lại có
xu hướng giảm, thấp nhất ở công thức I4. Trong khi đó, hàm lượng nguyên tố Fe2+
lại cao nhất ở công thức I3 và khác biệt có nghĩa thống kê so với các công thức còn
lại. Nhưng giữa các công thức còn lại đó lại không có sự sai khác có ý nghĩa. Hơn
nữa, kết quả cho thấy I3 có sự thay đổi hàm lượng Fe2+ cao hơn hẳn các công thức
còn lại, gấp từ 3,3 đến 3,9 lần (Bảng 3.28).
Bảng 3.28. Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đèn LED khác đến hàm lượng các
nguyên tố khoáng có trong cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh dưới sự kết hợp
của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST).
Cường độ Ca K Fe
ánh sáng (mg/100g KLT) (mg/100g KLT) (mg/100g KLT)
I1 (90 µmol/m2/s) 3,16d 683,83a 1,47b
I2 (140 µmol/m2/s) 42,37c 773,49a 1,38b
I3 (190 µmol/m2/s) 109,87b 605,32b 5,39a
I4 (240 µmol/m2/s) 171,15a 520,42c 1,60b
CV% 8,95 5,45 13,10
LSD5% 13,8 64,68 0,60
Kết quả có nét tương đồng với nghiên cứu trên cây mầm bông cải xanh của
Kopsell & Sam (2013) [76] với các mức cường độ từ 41 đến 350 µmol/m2/s. Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu này của chúng tôi có sai khác so với những công bố trước
đây của Gerovac et al. (2016) [53] khi nghiên cứu trên ba đối tượng rau mầm của họ
Brassica, Chi Brassica về hàm lượng chất dinh dưỡng (N, P, K, Ca, Mg, B, Cu, Fe,
Mn, Zn ở 3 ngưỡng cường độ: 105, 210 và 315 µmol/m2/s). Nhóm tác giả đã báo
116 cáo rằng, hàm lượng các chất dinh dưỡng cả nguyên tố đa lượng và vi lượng kể trên
đều giảm khi tăng cường độ. Xu hướng này có thể là kết quả của sự pha loãng các
chất dinh dưỡng do phần trăm khối lượng khô tăng lên và được quan sát thấy ở
cường độ cao hơn. Họ đã đề xuất rằng CO2 tăng và cường độ ánh sáng tăng dẫn đến
pha loãng hàm lượng dinh dưỡng do liên quan đến tăng trưởng. Phát hiện này có thể
giúp giải thích mức độ dinh dưỡng cao hơn ở ba giống cải trong nghiên cứu của
Gerovac et al. (2016) [53] dưới cường độ ánh sáng thấp hơn. Trong đó, ở cường độ
ánh sáng 315 µmol/m2/s với tỉ lệ ánh sáng R74:G18:B8 cải mizuara đồng hóa được
lớn hơn 22%, 20%, và 14% tương ứng ở hàm lượng các nguyên tố N, K, Ca so với
R84: FR7: B9. Tương tự, mù tạt tích lũy lần lượt 26%, 13% và 10% tương ứng cho
các nguyên tố K, Ca, B, và su hào tích lũy lần lượt lớn hơn 15% và 17% nguyên tố
B và Fe khi được trồng theo tỉ lệ ánh sáng R74: G18: B8 so với những cây được
trồng dưới R84: FR7: B9. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu đó, dưới cường độ
ánh sáng cao hơn, hàm lượng các nguyên tố đa lượng và vi lượng cũng tăng hơn khi
tỉ lệ bước sóng ánh sáng xanh lớn hơn. Do đó, vẫn cần những nghiên cứu sâu
hơn về vai trò của cường độ ánh sáng cũng như tăng tỉ lệ ánh sáng xanh và tác
động tiềm năng của chúng đối với hàm lượng dinh dưỡng trong cây rau (Gerovac et
al. , 2016) [53].
3.3.7.2. Hàm lượng chất dinh dưỡng
Hàm lượng chất xơ và độ Brix: Hàm lượng carbohydrate và tỉ lệ các thành
phần của nó quyết định cả hương vị và chất lượng của rau. Tỉ lệ đường hòa tan cao
hơn và tỉ lệ chất xơ thấp hơn trong tổng số thành phần carbohydrate dẫn đến hương
vị rau sẽ tốt hơn . Hàm lượng chất xơ và độ Brix cao nhất ở cường độ I3 và thấp
nhất ở công thức với cường I1. Hàm lượng chất xơ không sai khác có ý nghĩa ở
công thức I2 và I4, nhưng chúng có sự sai khác có ý thống kê với 2 công thức còn
lại là I1 và I3. Độ Brix cũng không có sự sai khác có nghĩa giữa I2 và I3, giữa I1 và
I4, nhưng sai khác có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy 95% giữa 2 nhóm cường
độ này (Hình 3.22).
117
Ghi chú: I1-I4 tương ứng 90 µmol/m2/s, 140 µmol/m2/s, 190 µmol/m2/s, 240 µmol/m2/s.
Hình 3.22. Biểu đồ hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong cải bó xôi giống PD512 trồng thủy canh ở các cường độ ánh sáng khác nhau dưới sự kết hợp của ánh sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST).
118
Kết quả này có nét tương tự nghiên cứu của Phan Ngọc Nhí & cs. (2016),
trong đó độ Brix của xà lách cao nhất dưới ánh sáng đèn LED đỏ xanh (lần lượt là
3,25 và 3,20% tương ứng khi tăng cường mức chiếu sáng 24/0 và 20/4 so với các
công thức còn lại) (Phan Ngọc Nhí & cs, 2016) [7]. Đồng thời đã có những công bố
tương tự trên cây cà chua với hàm lượng cacbonhydrate và đường sucrose tăng ở
công thức phối hợp đèn LED ánh sáng đỏ và xanh với tỉ lệ 3R:1B (Urbonavičiūtė et
al., 2007) [152].
Hàm lượng axit hữu cơ: Mặc dù, ở công thức xử lý cường độ I3 cao nhất về
hai chỉ tiêu kể trên nhưng lại có hàm lượng axit hữu cơ thấp nhất. Mức độ thấp hơn
này có ý nghĩa thông kê so với 3 công thức cường độ còn lại, nhưng giữa 3 công
thức còn lại này lại sai khác không có ý nghĩa thống kê (Hình 3.23).
Đã có những nghiên cứu về ảnh hưởng của phổ ánh sáng khác nhau đến hàm
lượng axit hữu cơ như nghiên cứu của Viršilė et al. (2019) (Viršilė et al., 2019)
[153]. Trong đó các tác giả đã chỉ ra rằng, đa số các công thức chiếu sáng bổ sung
làm giảm hàm lượng axit malic trong lá từ 4,25 trong rau diếp lá xanh xuống
2,48 - 3,07 mg/g. Ánh sáng bổ sung cũng có tác dụng giảm đáng kể đối với hàm
lượng axit succinic. Trong rau diếp lá đỏ, ánh sáng màu cam bổ sung dẫn đến
hàm lượng axit malic giảm 1,35 và 1,05 lần. Như vậy, có khả năng tăng hàm
lượng ánh sáng không có tác dụng làm tăng hàm lượng axit hữu cơ ở đối tượng
cây trồng của chúng tôi.
Hàm lượng axit oxalic và nitrate: Trái ngược với hàm lượng chất xơ và độ
Brix, hàm lượng axit oxalic và nitrate được tìm thấy là cao nhất công thức ở công
thức cường độ I1 và thấp nhất ở công thức I4. Sự khác biệt giữa 2 công thức này là
có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy 95%. Tuy nhiên hàm lượng axit oxalic lại sai
khác không có ý nghĩa ở các công thức có cường độ lần lượt là I1 và I2; I3 và I4.
Công thức với cường độ I3 và I4 đồng thời cũng cho kết quả không sai khác về hàm
lượng nitrate, mà sai khác có ý nghĩa thông kê so với I1 và I2 (Hình 3.22).
Nitrate và axit oxalic là chất có hại trong rau xanh. Chúng đồng hóa nhiều hơn
trong 1 số loại cây trồng như xà lách và cải bó xôi, đặc biệt là khi trồng trái vụ. Tuy
119 nhiên, yếu tố môi trường là cường độ và chất lượng ánh sáng có tác động mạnh mẽ
đến sự đồng hóa này. Nitrate có trong tất cả các mô của thực vật, bởi nó cần thiết
cho sự sinh trưởng và phát triển bình thường ở thực vật. Nitrate vốn không độc hại,
nhưng trong cơ thể con người, nó có thể được chuyển đổi thành nitrit, gây ra bệnh
methaemoglobin, sản phẩm của carcinogenic nitrosamines là chất gây ung thư.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng ánh sáng và phân bón chứa nitrơ là hai yếu tố chính
ảnh hưởng đến mức nitrate ở thực vật, trong đó phải kể đến cường độ và chất lượng
ánh sáng (Bian et al. , 2015) [32]. Trong khi đó, axit oxalic là một axit dicarboxylic
mà muối của nó được phân phối rộng rãi ở thực vật bậc cao, đặc biệt là trong rau cải
bó xôi. Ở thực vật, các hợp chất oxalate tồn tại ở hai dạng (hòa tan và không hòa
tan). Dạng hòa tan dường như là mối quan tâm lớn nhất đối với sức khỏe con người
vì nó có thể dẫn đến sự hình thành sỏi tiết niệu oxalate canxi và làm giảm sự hấp
thu sắt và canxi từ thức ăn. Theo hiểu biết của chúng tôi, không có nghiên cứu nào
xác định mức axit oxalic được chấp nhận trong các loại rau liên quan đến mức độ
ảnh hưởng tới sức khỏe của con người. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng
ascorbate là tiền chất chính của oxalate trong thực vật (Nakata, 2003) [99]. Trong
điều kiện stress, tăng hàm lượng axit ascorbic sẽ có thể thúc đẩy sự tích tụ oxalate
trong thực vật. Các loại ánh sáng với cường độ khác nhau ảnh hưởng khác nhau đến
sự tích tụ axit oxalic, quá trình chuyển hóa oxalate trong rau diếp, cây cải bó xôi
trích theo Brian et al. (2015) [25]. Kết quả của chúng tôi trùng khớp với nghiên cứu
của Proietti et al. (2004) [117], cũng được thực hiện trên rau cải bó xôi về hàm
lượng nitrate, axit oxalic ở 2 mức cường độ 200 và 800 µmol/m2/s (Proietti et al.,
2004) [117]. Trong thí nghiệm này của chúng tôi, khi đảm bảo đủ cường độ ánh
sáng, tạo điều kiện thuận lợi cho cây sinh trưởng, không chịu tác động của yếu tố
stress ánh sáng, đồng nghĩa với việc tăng cường độ ánh sáng, có thể đã giúp giảm
hàm lượng axit oxalic, nitrate trong cây cải bó xôi.
3.3.7.3. Hàm lượng chất chống oxi hóa
Axit ascorbic (vitamin C): là một chất chống oxi hóa quan trọng trong thực vật
và đóng vai trò chính trong stress sinh lý của cây trồng. Ở thực vật, axit ascorbic có
120 chức năng chủ yếu là thu dọn các dạng loại oxi hoạt hóa, thúc đẩy sự phát triển,
phân chia tế bào và cung cấp tiền chất cho các hợp chất oxalate. Axit ascorbic được
biết đến là có tầm quan trọng sống còn trong phòng ngừa triệu chứng các bệnh xơ
cứng trong cơ thể người trích theo Brian et al. (2015) [25]. Axit ascorbic không thể
được tổng hợp và tích lũy trong cơ thể người và phải được bổ sung qua thực phẩm,
đặc biệt là thông qua thực phẩm rau xanh mỗi ngày. Do đó, nồng độ axit ascorbic
rất quan trọng khi đánh giá chất lượng dinh dưỡng thực vật. Chất lượng và cường
độ ánh sáng là yếu tố chính trong việc điều hòa sinh tổng hợp và tích lũy axit
ascorbic ở thực vật.
Hình 3.23. Biểu đồ hàm lượng các chất chống oxi hóa có trong cải bó xôi giống
PD512 trồng thủy canh ở các cường độ ánh sáng khác nhau dưới sự kết hợp của ánh
Ghi chú: I1-I4 tương ứng 90 µmol/m2/s, 140 µmol/m2/s, 190 µmol/m2/s, 240 µmol/m2/s.
sáng đèn LED đỏ - xanh (21 NST).
Hàm lượng polyphenol tổng số: Các hợp chất phenolic là chất chuyển hóa thứ
cấp khác trong thực vật và đã được phát hiện trong nhiều loại thực phẩm, chẳng hạn
như trà ô long nho đỏ, nho khô và ớt bột tươi và nước ép trái cây và rau quả. Đã có
giả thuyết cho rằng, trong cơ thể con người, các hợp chất phenolic hoạt động như
chất chống oxi hóa trực tiếp hoặc gián tiếp bằng cách tăng cường hiệu quả và sản
xuất các hợp chất chống oxi hóa khác. Cho đến nay, nhiều nghiên cứu đã tập trung
vào việc đánh giá tác động của phổ ánh sáng đến nồng độ các hợp chất phenolic
trong thực vật, đặc biệt là axit phenolic và flavonoid như nghiên cứu của Son & Oh
121 (2013) và Rajashekar et al. (2009) trên cây cà chua và cây rau diếp (Rajashekar et
al., 2009; Son & Oh, 2013) [123], [137]. Tuy nhiên, những nghiên cứu về ảnh
hưởng của cường độ ánh sáng đến các hợp chất kể trên còn khá hạn chế.
Trong kết quả của chúng tôi, hàm lượng polyphenol và vitamin C là cao nhất ở
công thức xử lý I3, tiếp theo là công thức I4, I2 và I1. Tuy nhiên, hàm lượng
polyphenol ở công thức cường độ I2 và I4, hàm lượng vitamin C ở I1 và I2 là sai
khác không có ý nghĩa thống kê (Hình 3.23). Kết quả này tương tự với kết quả
nghiên cứu của Proietti et al. (2004) trên rau cải bó xôi ở cường độ ánh sáng khác
nhau (Proietti et al., 2004) [117]. Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng, mặc dù việc
tăng cường độ ánh sáng không làm tăng nồng độ chất chống oxi hóa khi cường độ
cao hơn 190 µmol/m2/s. Tuy nhiên, bổ sung đèn LED hợp lý có thể cải thiện năng
suất và chất lượng dinh dưỡng của các loại rau ăn lá trồng dưới ánh sáng nhân tạo.
Mỗi loại cây trồng khác nhau có ngưỡng cường độ ánh sáng tối ưu khác nhau, tại đó
cây phát triển và tích lũy các chất dinh dưỡng tốt nhất. Trong số các cường độ
nghiên cứu trên đây, cường độ ánh sáng 190 µmol/m2/s tỏ ra là có hiệu quả tốt nhất
cho việc hình thành năng suất của rau cải bó xôi thủy canh.
122 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
A. KẾT LUẬN
1. Trong 3 giống cải bó xôi thí nghiệm, giống cải bó xôi PD512 thích hợp nhất
khi trồng bằng phương pháp thủy canh hồi lưu. Trồng giống cải bó xôi trên với
khoảng cách 15 cm x 12 cm (190 cây/m2) và sử dụng dung dịch dinh dưỡng SH3
với mức EC = 1.200 µS/cm, pH từ 6 - 6,5 là phù hợp trong suốt thời gian sinh
- và hàm lượng kim loại nặng.
trưởng của cây. Thu hoạch rau cải bó xôi sau 4 ngày ngừng cung cấp dinh dưỡng sẽ
đảm bảo rau an toàn về hàm lượng NO3
2. Chất lượng và cường độ ánh sáng có ảnh hưởng lên các chỉ tiêu sinh trưởng
(chiều cao cây, số lá, diện tích lá, khả năng tích lũy chất khô, năng suất), quang hợp
(hàm lượng các sắc tố quang hợp, chỉ số huỳnh quang hữu hiệu của diệp lục), cấu
tạo giải phẫu (độ dày lá, chiều dày mô giậu, mô khuyết, mật độ, kích thước khí
khổng) và các chỉ tiêu chất lượng (hàm lượng các chất chống oxi hóa như vitamin
C, polyphenol; hàm lượng dinh dưỡng: chất xơ, đường, axit hữu cơ...) của cây cải
bó xôi PD512. Trong đó, các chỉ tiêu nêu trên với cây cải bó xôi đạt giá trị cao nhất
ở phổ ánh sáng đèn LED đỏ-xanh (4R:1B) và cường độ 190 µmol/m2/s so với 2 ánh
sáng trắng (1R:1B:1G) và vàng (5R:2B:3G) và các cường độ ánh sáng khác (90,
140, 240 µmol/m2/s) tương ứng.
B. ĐỀ NGHỊ
1. Khuyến cáo nên ứng dụng quy trình kỹ thuật tối ưu trồng cây cải bó xôi trên
hệ thống thủy canh hổi lưu như sau: giống cải bó xôi PD512, trồng với khoảng cách
15 cm x 12 cm (190 cây/m2) trong dung dịch dinh dưỡng SH3 với mức EC = 1.200
µS/cm, pH từ 6 - 6,5 và thu hoạch sau 4 ngày ngừng cung cấp dinh dưỡng.
2. Nên sử dụng đèn LED ánh sáng đỏ xanh (R660:B450 = 4:1), cường độ chiếu
sáng 190 µmol/m2/s cho việc sản xuất cải bó xôi trồng trên hệ thống thủy canh hồi
lưu có chiếu sáng bằng ánh sáng đèn LED.
123 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Phương Dung, Trần Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Thủy, Lê Thị
Thủy, Nguyễn Quang Thạch (2019). Xác định các thông số kỹ thuật tối ưu trồng cải
bó xôi (Spinacia oleracea L.) bằng phương pháp thủy canh hồi lưu. Tạp chí Khoa
học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, Số 1 (98): 69-78.
2. Nguyen, T. P. D., Tran, T. T. H., & Nguyen, Q. T. (2019). Effects of light
intensity on the growth, photosynthesis and leaf microstructure of hydroponic
cultivated spinach (Spinacia oleracea L.) under a combination of red and blue
LEDs in house. International Journal of Agricultural Technology, 15(1): 75-90.
3. Dung, N. T. P., Huyen, T. T. T., Jang, D. C., Kim, I. S., & Thach, N. Q. (2020).
Effects of supplemental green LEDs to red and blue light on the growth, yield and
quality of hydroponic cultivated spinach (Spinacia oleracea L.) in plant
factory. Proctected Horticulture and Plant Factory (시설원예· 식물공장), 29(2):
171-180.
4. Nguyễn Thị Phương Dung, Trần Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị Thủy, Nguyễn
Quang Thạch (2020). Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng chiếu bằng đèn LED đến
sinh trưởng của cây cải bó xôi (Spinacia oleracea L.) trồng thủy canh. Báo cáo
khoa học về Nghiên cứu và giảng dạy sinh học ở Việt nam - Hội nghị khoa học
Quốc gia lần thứ 4, 4/7/2020, DOI: 10.15625/vap.2020.00068, tr. 554-563.
124 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
1. Trần Thị Ba & Võ Thị Bích Thủy (2016), Khảo sát sự sinh trưởng và năng suất của rau xà lách thủy canh trên giá thể bông gòn lọc nước hồ cá, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề: Nông nghiệp (Tập 3): 258-265. 2. Vũ Thị Hằng, Nguyễn Thị Thủy, Đoàn Thị Cẩm Vân, Phạm Anh Trà & Nguyễn Quang Thạch (2019), Nghiên cứu ức chế ra hoa cỏ ngọt (stevia rebaudiana bertoni) trong điều kiện ngày ngắn bằng biện pháp ngắt đêm phục vụ nhân giống, Tạp chí Nông nghiệp & PTNT, Chuyên đề Sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tr. 7-13.
3. Nguyễn Đức Minh Hùng, Đỗ Thị Tuyến &Trần Văn Minh (2016), Nghiên cứu ảnh hưởng của đèn led và bioreactor chìm ngập cách quãng đến sinh trưởng quang tự dưỡng cây trồng (Paulownia fortune) in vitro, Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, số 18/2015, tr.57-62.
4. Nguyễn Khắc Hưng, Phạm Bích Ngọc, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thúy Hường, Đỗ Thị Gấm, Lê Duy Hùng & Chu Hoàng Hà (2016), Nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng đơn sắc (LED) đến một số đặc điểm sinh lý và hình thái của cây sâm dây (Codonopsis sp.) nuôi cấy in vitro, Tạp chí Sinh học, 38(2): tr. 220-227.
5. Trần Thị Thanh Huyền, Đặng Thị Tuyến, Lê Thị Thủy & Cao Phi Bằng (2017), Ảnh hưởng của ba dung dịch dinh dưỡng Hoagland, TC mobi, Knop đến năng suất và chất lượng quả của cây cà chua Chanoka F1 thủy canh, Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên 126(1A): tr. 165-174.
6. Nguyễn Thị Mai, Phan Thanh Bình, Phan Hồng Khôi, Đỗ Thị Gấm, Nguyễn Khắc Hưng, Phạm Bích Ngọc, Chu Hoàng Hà & Hà Thị Thanh Bình (2016), Bước đầu khảo sát ảnh hưởng của ánh sáng LED (light emiting diode) đến khả năng tái sinh cây cà phê vối (Coffea canephora) qua phôi soma, Tạp chí sinh học, 38(2): tr. 228-235.
7. Phan Ngọc Nhí, Ngô Thị Mỹ Hà, Nguyễn Thị Kiều Khuyên & Tống Thị Sa Non (2016), Ảnh hưởng của loại đèn LED và thời gian chiếu sáng đến sự sinh trưởng và năng suất xà lách thủy canh, Tạp chí Khoa học trường Đại Học Cần Thơ, Số chuyên đề: Nông nghiệp (3): tr. 170-178.
8. Nguyễn Thị Thanh Phương, Nguyễn Thị Lý Anh, Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Văn Trinh (2019), Ảnh hưởng của phổ chiếu sáng đến sinh trưởng, phát triển và điều khiển ra hoa giống cúc vàng đông, Tạp chí Nông nghiệp & PTNT, Chuyên đề Sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tr. 14-21.
125 9. Nguyễn Văn Quảng, Nguyễn Thế Hùng & Bùi Thu Uyên (2019), Loại dinh dưỡng khác nhau và những ảnh hưởng tới năng suất của cây rau muống trái vụ (Ipomoean aquatica) bằng phương pháp thủy canh, Tạp chí Khoa học và Công nghệ-Đại học Thái Nguyên, 202(09): tr. 247-253.
10. Nguyễn Thị Quỳnh, Hồ Thị Thu Thanh & Nguyễn Quang Thạch (2018), Nghiên cứu kỹ thuật trồng rau mùi Tàu (Eryngium foetidum L.) an toàn bằng phương pháp thủy canh, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số11: tr. 36- 40.
11. Vũ Quang Sáng, Nguyễn Thị Nhẫn, Phạm Văn Cường, Nguyễn Văn Phú, Mai Thị Tân & Nguyễn Thị Kim Thanh (2015), Sinh lý thực vật ứng dụng, Nhà xuất bản Đại học Nông nghiệp.
12. Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Thị Quỳnh, Nguyễn Thị Phương Dung & Nguyễn Thị Thanh Hương (2017), Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng bằng đèn LED đến sinh trưởng phát triển, năng suất và ra hoa của cây tía tô xanh Hàn Quốc (Perilla frutescens (L.) Britton) trồng thủy canh trong nhà, Tạp chí Nông nghiệp & PTNT, (24): tr. 38 – 46.
13. Nguyễn Thị Thủy, Vũ Thị Hằng, Doãn Văn Huy, Bùi Mạnh Thường & Nguyễn Quang Thạch (2019), Ảnh hưởng của ánh sáng đèn LED đến sinh trưởng, năng suất của rau xà lách (Lactuca sativa) và rau cải bẹ (Brassica juncea) trồng thủy canh, Tạp chí Nông nghiệp & PTNT, Chuyên đề Sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tr. 22-29.
14. Đặng Trần Trung, Nguyễn Thị Thủy, Hồ Thị Thanh & Nguyễn Quang Thạch (2019), Nghiên cứu kỹ thuật trồng rau xà lách bằng phương pháp thủy canh, Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, 13: tr. 45-49.
15. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008. Quyết định số 99/2008/QĐ- BNN, ngày 15/10/2008. Quyết định ban hành quản lý sản xuất, kinh doanh rau quả và chè an toàn.
16. TCVN 7929:2008 (EN 14083:2003), Tiêu chuẩn quốc gia về Thực phẩm - Xác định các nguyên tố vết - Xác định chì, cadimi, crom, molypden bằng đo phổ hấp thụ nguyên tử dùng lò graphit (GFAAS) sau khi phân huỷ bằng áp lực.
17. TCVN 7604:2007, Tiêu chuẩn quốc gia về thực phẩm - Xác định hàm lượng thủy ngân bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử không ngọn lửa. 18. TCVN 7770:2007, Tiêu chuẩn quốc gia về rau, quả và sản phẩm rau, quả - Xác định hàm lượng asen - Phương pháp đo phổ hấp thụ nguyên tử giải phóng hydrua.
19. TCVN 8742:2011, Tiêu chuẩn quốc gia, Cây trồng - Xác định nitrat và nitrit
bằng phương pháp so màu.
126 20. TCVN 10916:2015, Tiêu chuẩn quốc gia về thực phẩm - Xác định các chất khoáng trong thức ăn và thực phẩm dinh dưỡng đặc biệt - Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử.
21. TCVN 8977:2011 (EN 14130 : 2003), Tiêu chuẩn quốc gia về thực phẩm - Xác
định vitamin C bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC)
22. TCVN 9745-1:2013, Tiêu chuẩn quốc gia về chè - Xác định các chất đặc trưng của chè xanh và chè đen - Hàm lượng polyphenol tổng số trong chè - Phương pháp đo màu dùng thuốc thử Folin-Ciocalteu.
23. TCVN 4589:1988, Phương pháp xác định hàm lượng axit tổng số và axit bay hơi. 24. TCVN 5714:2007 (lSO 15598:1999), Tiêu chuẩn quốc gia về chè - Xác định hàm
lượng xơ thô.
25. TCVN 10780-1:2017 (ISO 6579-1:2017), Vi sinh vật trong chuỗi thực phẩm - Phương pháp phát hiện, định lượng và xác định typ huyết thanh của Salmonella.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
26. Agarwal A. & Gupta S. D. (2018), Impact of light-emitting diodes (LEDs) on the growth and physiological status of spinach (Spinacia oleracea L.) seedlings, New Biotechnology, 44: S104.
27. Alberici A., Quattrini E., Penati M., Martinetti L., Marino Gallina P., Ferrante A. & Schiavi M. (2008), Effect of the reduction of nutrient solution concentration on leafy vegetables quality grown in floating system, Acta Horticulturae, 801: 1167-1176. 28. Arnon D. I. (1949), "Copper enzymes in isolated chloroplasts, polyphenoloxidase in Beta vulgaris", Plant Physiology, 24(1): 1-15.
29. Bantis F., Ouzounis T. & Radoglou K. (2016), Artificial LED lighting enhances growth characteristics and total phenolic content of Ocimum basilicum, but variably affects transplant success, Scientia Horticulturae, 198: 277-283.
30. Bantis F., Smirnakou S., Ouzounis T., Koukounaras A., Ntagkas N. & Radoglou K. (2018), Current status and recent achievements in the field of horticulture with the use of light-emitting diodes (LEDs), Scientia Horticulturae, 235: 437-451.
31. Bian Z., Yang Q., Li T., Cheng R., Barnett Y. & Lu C. (2018), Study of the beneficial effects of green light on lettuce grown under short-term continuous red and blue light-emitting diodes, Physiologia plantarum, 164(2): 226-240.
32. Bian Z. H., Yang Q. C. & Liu W. K. (2015), Effects of light quality on the accumulation of phytochemicals in vegetables produced in controlled environments: a review, Journal of the Science of Food and Agriculture, 95(5): 869-877.
127 33. Bloom A. J., Burger M., Asensio J. S. R. & Cousins A. B. (2010), Carbon dioxide enrichment inhibits nitrate assimilation in wheat and Arabidopsis, Science, 328(5980): 899-903.
34. Brazaitytė A., Sakalauskienė S., Samuolienė G., Jankauskienė J., Viršilė A., Novičkovas A., Sirtautas R., Miliauskienė J., Vaštakaitė V. & Dabašinskas L. (2015), The effects of LED illumination spectra and intensity on carotenoid content in Brassicaceae microgreens, Food chemistry, 173: 600- 606.
35. Brumfield R. (2007), Dealing with rising energy costs, Natural Gas, 33(2): 44.1. 36. Carvalho S. D., Schwieterman M. L., Abrahan C. E., Colquhoun T. A. & Folta K. M. (2016), Light quality dependent changes in morphology, antioxidant capacity, and volatile production in sweet basil (Ocimum basilicum), Frontiers in Plant Science, 7: 1328.
37. Ceulemans R., Van Praet L. & Jiang X. N. (1995), Effects of CO2 enrichment, leaf position and clone on stomatal index and epidermal cell density in poplar (Populus), New Phytologist, 131(1): 99-107.
38. Chang A. C., Yang T. Y. & Riskowski G. L. (2013), Ascorbic acid, nitrate, and nitrite concentration relationship to the 24 hour light/dark cycle for spinach grown in different conditions, Food Chemistry, 138(1): 382-388.
39. Chen W., Xu Z., Liu X., Yang Y., Wang Z. & Song F. (2011), Effect of LED light source on the growth and quality of different lettuce varieties, Acta Botanica Boreali-Occidentalia Sinica, 31(7): 1434-1440.
40. Chen X.-l., Guo W.-z., Xue X.-z., Wang L.-c. & Qiao X.-j. (2014), Growth and quality responses of ‘Green Oak Leaf’lettuce as affected by monochromic or mixed radiation provided by fluorescent lamp (FL) and light-emitting diode (LED), Scientia Horticulturae, 172: 168-175.
41. Chen X.-l., Wang L.-c., Li T., Yang Q.-c. & Guo W.-z. (2019), Sugar accumulation and growth of lettuce exposed to different lighting modes of red and blue LED light, Scientific Reports, 9(1): 1-10.
42. Chen X.-l., Xue X.-z., Guo W.-z., Wang L.-c. & Qiao X.-j. (2016), Growth and nutritional properties of lettuce affected by mixed irradiation of white and supplemental light provided by light-emitting diode, Scientia Horticulturae, 200: 111-118. 43. Clark G. (1981), Staining Procedures, 4th edn, London: Williams and Wilkins, 325–326.
44. Cocetta G., Quattrini E., Schiavi M., Martinetti L., Spinardi A. & Ferrante A. (2007), Nitrate and sucrose content in fresh-cut leaves of spinach plants grown in floating system, Agricoltura Mediterranea, 137(1-2): 79-85. 45. Currey C. & Erwin J. (2010), Variation among Kalanchoe species in their flowering responses to photoperiod and short-day cycle number, The Journal of Horticultural Science and Biotechnology, 85(4): 350-354.
128 46. De Keyser E., Dhooghe E., Christiaens A., Van Labeke M.-C. & Van Huylenbroeck J. (2019), LED light quality intensifies leaf pigmentation in ornamental pot plants, Scientia Horticulturae, 253: 270-275.
47. De Rijck G. & Schrevens E. (1999), Anionic speciation in nutrient solutions as a function of pH, Journal of Plant Nutrition, 22(2): 269-279.
to LED 48. Dong C., Fu Y., Liu G. & Liu H. (2014), Growth, photosynthetic characteristics, antioxidant capacity and biomass yield and quality of wheat (Triticum aestivum L,) exposed light sources with different spectra combinations, Journal of Agronomy and Crop Science, 200(3): 219-230. 49. Duyar H. & Kılıç C. C. (2016), A research on production of rocket and parsley in floating system, Journal Agricultural Science, 8(7): 54-60.
50. El-Kazzaz K. & El-Kazzaz A. (2017), Soilless agriculture a new and advanced method for agriculture development: an introduction, Agricultural Research & Technology, 3(2): 001-010.
51. Fan X.-X., Xu Z.-G., Liu X.-Y., Tang C.-M., Wang L.-W. & Han X.-l. (2013), Effects of light intensity on the growth and leaf development of young tomato plants grown under a combination of red and blue light, Scientia Horticulturae, 153: 50-55.
light-emitting diodes from sole-source
52. Folta K. M. (2004), Green light stimulates early stem elongation, antagonizing light-mediated growth inhibition, Plant Physiology, 135(3): 1407-1416. 53. Gerovac J. R., Craver J. K., Boldt J. K. & Lopez R. G. (2016), Light intensity impact growth, and quality morphology, and nutrient content of Brassica microgreens, Horticultural Science. 51(5): 497-503.
54. Gómez C., Morrow R. C., Bourget C. M., Massa G. D. & Mitchell C. A. (2013), Comparison of intracanopy light-emitting diode towers and overhead high- pressure sodium lamps for supplemental lighting of greenhouse-grown tomatoes, Horticultural Technology, 23(1): 93-98.
55. Graamans L., Baeza E., Van Den Dobbelsteen A., Tsafaras I. & Stanghellini C. (2018), Plant factories versus greenhouses: Comparison of resource use efficiency, Agricultural Systems, 160: 31-43.
lycopersicum L,) (Solanum tomato 56. Groher T., Röhlen-Schmittgen S., Fiebig A., Noga G. & Hunsche M. (2019). Influence of supplementary LED lighting on physiological and biochemical parameters of leaves, Scientia Horticulturae, 250: 154-158.
57. Guo Z., Tan H., Zhu Z., Lu S. & Zhou B. (2005), Effect of intermediates on ascorbic acid and oxalate biosynthesis of rice and in relation to its stress resistance, Plant Physiology and Biochemistry, 43(10-11): 955-962. 58. Hattori T., Sonobe K., Inanaga S., An P., Tsuji W., Araki H., Eneji A. E. & Morita S. (2007), Short term stomatal responses to light intensity changes and osmotic stress in sorghum seedlings raised with and without silicon, Environmental and Experimental Botany, 60(2): 177-182.
129 59. Hniličková H., Hnilička F., Martinkova J. & Kraus, K. (2017), Effects of salt stress on water status, photosynthesis and chlorophyll fluorescence of rocket. Plant, Soil and Environment, 63(8): 362-367.
60. Hoagland D. R. & Arnon D. I. (1950), The water-culture method for growing plants without soil, Circular, California agricultural experiment station: 347 (2nd edit). 61. Hoffmann W. A., Poorter, H. (2002), Avoiding Bias in Calculations of Relative Growth Rate, Annals of Botany, 90 (1): 37–42.
62. Iacona C. & Muleo R. (2010), Light quality affects in vitro adventitious rooting and ex vitro performance of cherry rootstock Colt, Scientia Horticulturae, 125(4): 630-636.
63. Jakse M., Hacin J. & Kacjan N. M. (2013), Production of rocket (Eruca sativa Mill.) on plug trays and on a floating system in relation to reduced nitrate content, Acta Agriculturae Slovenica, 101(1): 59.
64. Jiang C., Johkan M., Hohjo M., Tsukagoshi S., Ebihara M., Nakaminami A. & Maruo T. (2017), Photosynthesis, plant growth, and fruit production of single-truss tomato improves with supplemental lighting provided from underneath or within the inner canopy, Scientia Horticulturae, 222: 221-229. 65. Jin E., Cao L., Xiang S., Zhou W., Ruan R. & Liu Y. (2020), Feasibility of using pretreated swine wastewater for production of water spinach (Ipomoea aquatic Forsk,) in a hydroponic system, Agricultural Water Management. 228: 105856.
66. Jishi T., Kimura K., Matsuda R. & Fujiwara K. (2016), Effects of temporally shifted irradiation of blue and red LED light on cos lettuce growth and morphology, Scientia Horticulturae, 198: 227-232.
light wavelength and
67. Johkan M., Shoji K., Goto F., Hahida S.-n. & Yoshihara T. (2012), Effect of green intensity on photomorphogenesis and photosynthesis in Lactuca sativa, Environmental and Experimental Botany, 75: 128-133.
68. Johnson C. F., Langhans R. W., Albright L. D., Combs G. F., Welch R. M., Heller L., Glahn R. P., Wheeler R. M. & Goins G. D. (1999), Spinach: Nitrate analysis of an advanced life support (ALS) crop cultured under ALS candidate artificial light sources, SAE Technical Paper 1999-01-2107. 69. Kacira M. (2011), Greenhouse production in US: status, challenges, and opportunities, Proceeding of CIGR International Symposium 2011 Sustainable Bioproduction - Water Energy and Food, Tokyo, 19-23 September 2011.
70. Kang C. H., Yoon E. K., Muthusamy M., Kim J. A., Jeong M.-J. & Lee S. I. (2019), Blue LED light irradiation enhances L-ascorbic acid content while reducing reactive oxygen species accumulation in Chinese cabbage seedlings, Scientia Horticulturae, 108924.
71. Kang J. H., KrishnaKumar S., Atulba S. L. S., Jeong B. R. & Hwang S. J. (2013), Light intensity and photoperiod influence the growth and development of
130
hydroponically grown leaf lettuce in a closed-type plant factory system, Horticulture, Environment, and Biotechnology, 54(6): 501-509.
72. Karege F., Penel C. & Greppin H. (1979), Reaction of a peroxidase activity to red and far red light in relation to the floral induction of spinach, Plant Science Letters. 17(1): 37-42.
73. Kim Y. J., Kim Y. B., Li X., Choi S. R., Park S., Park J. S., Lim Y. P. & Park S. U. (2015), Accumulation of phenylpropanoids by white, blue, and red light irradiation and their organ-specific distribution in Chinese cabbage (Brassica rapa ssp, pekinensis), Journal of Agricultural and Food Chemistry, 63(30): 6772-6778.
photochemistry chloroplasts primary and in
74. Kitajima M. B. W. L. & Butler W. L. (1975), Quenching of chlorophyll by fluorescence dibromothymoquinone, Biochimica et Biophysica Acta (BBA)-Bioenergetics, 376(1): 105-115.
75. Ko S.-H., Park J.-H., Kim S.-Y., Lee S. W., Chun S.-S. & Park E. (2014), Antioxidant effects of spinach (Spinacia oleracea L,) supplementation in hyperlipidemic rats, Preventive Nutrition and Food Science, 19(1): 19. 76. Kopsell D. A. & Sams C. E. (2013). Increases in shoot tissue pigments, glucosinolates, and mineral elements in sprouting broccoli after exposure to short-duration blue light from light emitting diodes. Journal of the American Society for Horticultural Science, 138(1): 31-37.
77. Kopsell D. A., Sams C. E., Barickman T. C. & Morrow R. C. (2014), Sprouting broccoli accumulate higher concentrations of nutritionally important metabolites under narrow-band light-emitting diode lighting, Journal of the American Society for Horticultural Science, 139(4): 469-477.
78. Kozai T. (2018), Current status of plant factories with artificial lighting (PFALs) and Smart PFALs, In: Smart Plant Factory. Springer: 3-13 pages.
79. Kramer D. M., Johnson G., Kiirats O., & Edwards G. E. (2004). New fluorescence parameters for the determination of QA redox state and excitation energy fluxes, Photosynthesis Research, 79(2): 209-218. 80. Krause G. H., & Weis E. (1991), Chlorophyll fluorescence and photosynthesis: the basics, Annual Review of Plant Biology and Plant Molecular Biology, 42(1): 313-349.
81. Lee M. K., Arasu M. V., Park S., Byeon D. H., Chung S.-O. & Park S. U. (2016), LED lights enhance metabolites and antioxidants in chinese cabbage and kale, Brazilian Archives of Biology and Technology, 59.
induce changes light quality
82. Lee S.-H., Tewari R. K., Hahn E.-J. & Paek K.-Y. (2007), Photon flux density and in growth, stomatal development, photosynthesis and transpiration of Withania Somnifera (L.) Dunal, plantlets, Plant Cell, Tissue and Organ Culture, 90(2): 141-151.
83. Lenzi A., Baldi A. & Tesi R. (2011), Growing spinach in a floating system with different volumes of aerated or non aerated nutrient solution, Advances in Horticultural Science, 21-25.
131 84. Li H., Lu X. & Gao Q. (2016), Effects of different light qualities on the growth, photosynthetic pigments and stomatal characteristics of okra (Abelmoschus esculentus) seedlings, Acta Prataculturae Sinica, 25: 26-70.
85. Li Q. & Kubota C. (2009), Effects of supplemental light quality on growth and phytochemicals of baby leaf lettuce, Environmental and Experimental Botany, 67(1): 59-64.
86. Li Y., Xin G., Wei M., Shi Q., Yang F. & Wang X. (2017), Carbohydrate accumulation and sucrose metabolism responses in tomato seedling leaves when subjected to different light qualities, Scientia Horticulturae, 225: 490- 497.
87. Lin K.-H., Huang M.-Y., Huang W.-D., Hsu M.-H., Yang Z.-W. & Yang C.-M. (2013), The effects of red, blue, and white light-emitting diodes on the growth, development, and edible quality of hydroponically grown lettuce (Lactuca sativa L. var. capitata), Scientia Horticulturae, 150: 86-91. 88. Liu X., Chang T., Guo S., Xu Z. & Li J. (2009), Effect of different light quality of LED on growth and photosynthetic character in cherry tomato seedling, Acta Horticulture, 907: 325-330.
89. Lu N. & Shimamura S. (2018), Protocols, issues and potential improvements of current cultivation systems. In: Smart Plant Factory, Springer: 31-49. 90. Ma Z., Nian H., Luo S., Ma Q., Cheng Y. & Mu Y. (2018), Growth responses of soybean (Glycine max L,) seedlings as affected by monochromic or mixture radiation provided by light-emitting diode, IFAC-PapersOnLine, 51(17): 770-777.
91. Macedo A. F., Leal-Costa M. V., Tavares E. S., Lage C. L. S. & Esquibel M. A. (2011), The effect of light quality on leaf production and development of in vitro-cultured plants of Alternanthera brasiliana Kuntze, Environmental and Experimental Botany, 70(1): 43-50. 92. Maeda N., Yoshida H. & Mizushina Y. (2010), Spinach and health: anticancer effect, In: Bioactive foods in promoting health, Elsevier: 393-405 pages.
93. Maneejantra N., Tsukagoshi S., Lu N., Supaibulwatana K. & Takagaki M. (2016), A Quantitative Analysis of Nutrient Requirements for Hydroponic Spinach (Spinacia oleracea L.) Production Under Artificial Light in a Plant Factory. Journal Fertilizer Pesticide, 7(170): 2. 94. Maxwell K., & Johnson G. N. (2000), Chlorophyll fluorescence-a practical guide, Journal of Experimental Botany, 51(345): 659-668.
95. Mitchell C. A., Dzakovich M. P., Gomez C., Lopez R., Burr J. F., Hernández R., Kubota C., Currey C. J., Meng Q. & Runkle E. S. (2015). Light-emitting diodes in horticulture. Horticultual Reviews, 43: 1-87.
96. Miyagi A., Uchimiya H. & Kawai-Yamada M. (2017), Synergistic effects of light quality, carbon dioxide and nutrients on metabolite compositions of head lettuce under artificial growth conditions mimicking a plant factory, Food Chemistry, 218: 561-568.
132 97. Mizuno T., Amaki W. & Watanabe H. (2009), Effects of monochromatic light irradiation by LED on the growth and anthocyanin contents in leaves of cabbage seedlings, VI International Symposium on Light in Horticulture 907. 179-184.
98. Mozafar A. (1996), Decreasing the NO3 and increasing the vitamin C contents in spinach by a nitrogen deprivation method, Plant Foods for Human Nutrition, 49(2): 155-162. 99. Nakata P. A. (2003), Advances in our understanding of calcium oxalate crystal formation and function in plants, Plant Science, 164(6): 901-909.
100. Nanya K., Ishigami Y., Hikosaka S. & Goto E. (2012), Effects of blue and red light on stem elongation and flowering of tomato seedlings, VII International Symposium on Light in Horticultural Systems 956. 261-266.
101. Neugart S. & Schreiner M. (2018), UVB and UVA as eustressors in horticultural and agricultural crops, Scientia Horticulturae, 234: 370-381.
102. Ngilah E., Tsan F. & Yap B. K. (2018), Photoperiod and light spectrum effects on growth, pigment and ascorbic acid content of Lactuca sativa cv. Fire Red under controlled growth environment, International Food Research Journal, 25(3).
103. Nicole C. C., Krijn M. & van Slooten U. (2019), Nitrate content control in green vegetables grown under led lighting, In: Plant Factory Using Artificial Light, Elsevier: 99-110 pages.
the short-wavelength supplementary lighting (LEDs) for
104. Novičkovas A., Brazaitytė A., Duchovskis P., Jankauskienė J., Samuolienė G., Virsilė A., Sirtautas R., Bliznikas Z. & Zukauskas A. (2010), Solid-state lamps in greenhouses: experimental results with cucumber, XXVIII International Horticultural Congress on Science and Horticulture for People (IHC2010): International Symposium on 927. 723-730.
105. Ohashi-Kaneko K., Takase M., Kon N., Fujiwara K. & Kurata K. (2007), Effect of light quality on growth and vegetable quality in leaf lettuce, spinach and komatsuna, Environmental Control in Biology, 45(3): 189-198.
106. Opdam J., Schoonderbeek G., Heller E. & De Gelder A. (2004), Closed greenhouse: a starting point for sustainable entrepreneurship in horticulture, International Conference on Sustainable Greenhouse Systems-Greensys, 691: 517-524.
107. Ouzounis T., Rosenqvist E. & Ottosen C.-O. (2015), Spectral effects of artificial light on plant physiology and secondary metabolism: a review, HortScience, 50(8): 1128-1135.
108. Öztekin G., Uludağ T. & Tüzel Y. (2018), Growing spinach (Spinacia oleracea L,) in a floating system with different concentrations of nutrient solution, Applied Ecology and Environmental Research Journal, 16(3): 3333-3350.
109. Pandey D. M., Kang K. H. & Yeo U. D. (2005), Effects of excessive photon on the photosynthetic pigments and violaxanthin de-epoxidase activity in the xanthophyll cycle of spinach leaf, Plant Science, 168(1): 161-166.
133 110. Pardo G. P., Velázquez S. T., Cruz A. & Martínez F. R. (2016), Pulsed led light
in germination and growth of lettuce seeds, Bothalia Journal, 46(4):13-26.
111. Park I. S., Cho K. J., Kim J., Cho J. Y., Lim T. J. & Oh W. (2016), Growth and flowering responses of petunia to various artificial light sources with light qualities, 원예과학기술지 (Horticultural Science and different Technology Journal), 34(1): 55-66.
112. Park Y. & Runkle E. S. (2017), Far-red radiation promotes growth of seedlings leaf expansion and whole-plant net assimilation, increasing by Environmental and Experimental Botany, 136: 41-49.
113. Park Y. & Runkle E. S. (2018), Spectral effects of light-emitting diodes on plant growth, visual color quality, and photosynthetic photon efficacy: White versus blue plus red radiation, PloS One, 13(8): e0202386.
114. Park Y. G., Muneer S., Soundararajan P., Manivnnan A. & Jeong B. R. (2017), Light quality during night interruption affects morphogenesis and flowering in geranium, Horticulture Environment and Biotechnology, 58(3): 212-217. 115. Pattison P. M., Hansen M. & Tsao J. Y. (2018), LED lighting efficacy: status and directions, Comptes Rendus Physique, 19(3): 134-145. 116. Pfündel E. (2007), JUNIOR-PAM chlorophyll fluorometer operators guide, H Walz GmbH: Effeltrich, Germany.
117. Proietti S., Moscatello S., Colla G. & Battistelli Y. (2004), The effect of growing spinach (Spinacia oleracea L.) at two light intensities on the amounts of oxalate, ascorbate and nitrate in their leaves, The Journal of Horticultural Science and Biotechnology, 79(4): 606-609.
118. Proietti S., Moscatello S., Famiani F. & Battistelli A. (2009), Increase of ascorbic acid content and nutritional quality in spinach leaves during physiological acclimation to low temperature, Plant Physiology and Biochemistry, 47(8): 717-723.
119. Proietti S., Moscatello S., Giacomelli G. A. & Battistelli A. (2013), Influence of the interaction between light intensity and CO2 concentration on productivity and quality of spinach (Spinacia oleracea L.) grown in fully controlled environment, Advances in Space Research, 52(6): 1193-1200.
120. Proietti S., Moscatello S., Giacomelli G. A. & Battistelli A. (2016), Influence of the interaction between light intensity and CO2 concentration on productivity and quality of spinach (Spinacia oleracea L.) grown in fully controlled environment, Advances in Space Research, 52(6): 1193-1200.
121. Qin Y., Xing Z., Zou J., He C., Li Y. & Xiong X. (2014), Effects of sustained weak light on seedling growth and photosynthetic characteristics of potato seedlings, Scientia Agricultura Sinica, 47(3): 537-545. 122. Radford P. J. (1967), Growth Analysis Formulae - Their Use and Abuse1, Crop Sci., 7:171-175.
123. Rajashekar C., Carey E. E., Zhao X. & Oh M.-M. (2009), Health-promoting phytochemicals in fruits and vegetables: Impact of abiotic stresses and crop
134
production practices, Functional Plant Science and Biotechnology, 3(1): 30- 38. 124. Raviv M., Lieth J. H. & Bar-Tal A. (2019), Soilless culture: Theory and practice, Academic Press, 2nd edition (March 30, 2019).
125. Resh H. M. (2016). Hydroponic food production: a definitive guidebook for the advanced home gardener and the commercial hydroponic grower. CRC Press, Taylor & Francis Group.
126. Richter T. & Fukshansky L. (1996), Optics of a bifacial leaf: 2. Light regime as affected by the leaf structure and the light source, Photochemistry and photobiology, 63: 517-527.
127. Ronga D., Setti L., Salvarani C., De Leo R., Bedin E., Pulvirenti A., Milc J., Pecchioni N. & Francia E. (2019), Effects of solid and liquid digestate for hydroponic baby leaf lettuce (Lactuca sativa L.) cultivation, Scientia Horticulturae, 244: 172-181.
128. Sabzalian M. R., Heydarizadeh P., Zahedi M., Boroomand A., Agharokh M., Sahba M. R. & Schoefs B. (2014), High performance of vegetables, flowers, and medicinal plants in a red-blue LED incubator for indoor plant production, Agronomy for Sustainable Development, 34(4): 879-886. 129. Sakamoto M., & Suzuki T. (2020), Effect of nutrient solution concentration on the growth of hydroponic sweetpotato, Agronomy, 10(11), 1708-1722. 130. Sambo P., Nicoletto C., Giro A., Pii Y., Valentinuzzi F., Mimmo T., Lugli P., Orzes G., Mazzetto F. & Astolfi S. (2019), Hydroponic solutions for soilless production systems: Issues and opportunities in a smart agriculture perspective, Frontiers in Plant Science, 10.
131. Samuolienė G., Sirtautas R., Brazaitytė A. & Duchovskis P. (2012), LED lighting and seasonality effects antioxidant properties of baby leaf lettuce, Food Chemistry, 134(3): 1494-1499.
132. Samuolienė G., Urbonavičiūtė A., Duchovskis P., Bliznikas Z., Vitta P. & Žukauskas A. (2009), Decrease in nitrate concentration in leafy vegetables under a solid-state illuminator, Horticultural Science, 44(7): 1857-1860.
133. Schöner S. & Krause G. H. (1990), Protective systems against active oxygen species in spinach: response to cold acclimation in excess light, Planta, 180(3): 383-389.
134. Shimokawa A., Tonooka Y., Matsumoto M., Ara H., Suzuki H., Yamauchi N. & Shigyo M. (2014), Effect of alternating red and blue light irradiation generated by light emitting diodes on the growth of leaf lettuce, bioRxiv, 003103.
135. Shin J. H., Jung H. H. & Kim K. S. (2010), Night interruption using light emitting diodes (LEDs) promotes flowering of Cyclamen persicum in winter cultivation, Horticulture Environment and Biotechnology, 51(5): 391-395.
136. Singh D., Basu C., Meinhardt-Wollweber M. & Roth B. (2015), LEDs for energy efficient greenhouse lighting, Renewable and Sustainable Energy Reviews, 49: 139-147.
135 137. Son K. H. & Oh M. M. (2013), Leaf shape, growth, and antioxidant phenolic compounds of two lettuce cultivars grown under various combinations of blue and red light-emitting diodes, HortScience, 48(8): 988-995.
138. Son K. H. & Oh M. M. (2015), Growth, photosynthetic and antioxidant parameters of two lettuce cultivars as affected by red, green, and blue light- emitting diodes, Horticulture, Environment, and Biotechnology. 56(5): 639- 653.
139. Sonneveld C. & Voogt W. (2009), Plant nutrition in future greenhouse production. In: Plant nutrition of greenhouse crops. Springer: 393-403 pages. 140. Stryjewski E., Goins G. & Kelly C. (2001), Quantitative morphological analysis of spinach leaves grown under light-emitting diodes or sulfur-microwave lamps, SAE Technical Paper, No 2001-01-2272.
141. Stutte G. W., Edney S. & Skerritt T. (2009), Photoregulation of bioprotectant content of red leaf lettuce with light-emitting diodes, HortScience, 44(1): 79- 82.
142. Su J., Liu Y., Yang F., Kong C., Yang J. & Meng Q. (2014a), Effect of different light qualities on physiological characteristics and growth of tobacco in vitro under light emitting diodes (LEDs), Acta Botanica Boreali-Occidentalia Sinica, 34(6): 1206-1212.
143. Su N., Wu Q., Shen Z., Xia K. & Cui J. (2014b), Effects of light quality on the chloroplastic ultrastructure and photosynthetic characteristics of cucumber seedlings, Plant Growth Regulation, 73(3): 227-235.
144. Taiz Lincoln & Eduardo Z. (2002), Plant physiology, University of Califorlia. 145. Tehrani P. F., Majd A., Mahmoodzadeh H. & Satari T. N. (2016), Effect of red and blue light-emitting diodes on germination, morphological and anatomical features of Brassica napus, Advanced Studies in Biology, 8(4): 173-180.
146. Tennessen D. J., Singsaas E. L. & Sharkey T. D. (1994), Light-emitting diodes as a light source for photosynthesis research, Photosynthesis Research, 39(1): 85-92.
147. Terashima I., Fujita T., Inoue T., Chow W. S. & Oguchi R. (2009), Green light drives leaf photosynthesis more efficiently than red light in strong white light: revisiting the enigmatic question of why leaves are green, Plant and Cell Physiology, 50(4): 684-697.
148. Terashima I. & Hikosaka K. (1995), Comparative ecophysiology of leaf and canopy photosynthesis, Plant, Cell & Environment, 18: 1111-1128. 149. Tomasi N., Pinton R., Dalla Costa L., Cortella G., Terzano R., Mimmo T., Scampicchio M. & Cesco S. (2015), New ‘solutions’ for floating cultivation system of ready-to-eat salad: A review, Trends in Food Science & Technology, 46(2): 267-276.
150. Tuan T. A., Valya V., Petar P. & Petrova P. L. (2013), Cadmium-induced structural disturbances in Pisum sativum leaves are alleviated by nitric oxide, Turkish Journal of Botany, 37(4): 698-707.
136 151. Tyson R., Simonne E., Davis M., Lamb E., White J. & Treadwell D. (2007). Effect of nutrient solution, nitrate-nitrogen concentration, and pH on nitrification rate in perlite medium, Journal of Plant Nutrition, 30(6): 901- 913.
152. Urbonavičiūtė A., Pinho P., Samuolienė G., Duchovskis P., Vitta P., Stonkus A., Tamulaitis G., Žukauskas A. & Halonen L. (2007), Effect of short- wavelength light on lettuce growth and nutritional quality, Sodininkystė ir daržininkystė (Gardening and Horticulrure), 26: 157-165.
153. Viršilė A., Brazaitytė A., Vaštakaitė-Kairienė V., Miliauskienė J., Jankauskienė J., Novičkovas A., Laužikė K. & Samuolienė G. (2019), The distinct impact of multi-color LED light on nitrate, amino acid, soluble sugar and organic acid contents in red and green leaf lettuce cultivated in controlled environment, Food Chemistry, 125799. 154. Viršilė A., Olle M. & Duchovskis P. (2017), LED lighting in horticulture, In: Light Emitting Diodes for Agriculture, Springer: 113-147. 155. Vogelmann T. C., Bornman J. F. & Yates D. J. (1996). Focusing of light by leaf epidermal cells, Physiologia Plantarum, 98: 43-56.
156. Wang J., Lu W., Tong Y. & Yang Q. (2016), Leaf morphology, photosynthetic performance, chlorophyll fluorescence, stomatal development of lettuce (Lactuca sativa L.) exposed to different ratios of red light to blue light, Frontiers in plant science, 7: 250.
157. Wanlai Z., Wenke L. & Qichang Y. (2013), Reducing nitrate content in lettuce by pre-harvest continuous light delivered by red and blue light-emitting diodes, Journal of Plant Nutrition, 36(3): 481-490. 158. Wargent J. (2016), UV LEDs in horticulture: From biology to application, VIII
International Symposium on Light in Horticulture, 1134: 25-32.
159. Wojciechowska R., Kołton A., Długosz-Grochowska O. & Knop E. (2016), Nitrate content in Valerianella locusta L. plants is affected by supplemental LED lighting, Scientia Horticulturae, 211: 179-186.
160. Wollaeger H. M. & Runkle E. S. (2015), Growth and acclimation of impatiens, salvia, petunia, and tomato seedlings to blue and red light. HortScience, 50(4): 522-529.
161. Wu Q., Su N., Shen W. & Cui J. (2014), Analyzing photosynthetic activity and growth of Solanum lycopersicum seedlings exposed to different light qualities. Acta Physiologiae Plantarum, 36(6): 1411-1420. 162. Xu Y. (2019), Nature and source of light for plant factory, In: Plant Factory Using Artificial Light. Elsevier: 47-69 pages.
163. Xu Y., Chang Y., Chen G. & Lin H. (2016), The research on LED supplementary lighting system for plants, Optik, 127(18): 7193-7201.
164. Yan Z., He D., Niu G. & Zhai H. (2019), Evaluation of growth and quality of hydroponic lettuce at harvest as affected by the light intensity, photoperiod and light quality at seedling stage, Scientia Horticulturae, 248: 138-144.
137 165. Yao X.-y, Liu X.-y., Xu Z.-g. & Jiao X.-l. (2017), Effects of light intensity on leaf microstructure and growth of rape seedlings cultivated under a combination of red and blue LEDs, Journal of Integrative Agriculture, 16(1): 97-105.
166. Yong Z., Zhi-lan Y., Feng Y., Li-jun Z., Shao-xian N. & Wen-yu Y. (2014), Effects of different light qualities on morphological and photosynthetic physiological parameters of soybean seedlings, Chinese Journal of Oil Crop Sciences, 36(3).
167. Zhang L.-w., Liu S.-q., Zhang Z.-k., Yang R. & Yang X.-j. (2010), Dynamic effects of different light qualities on pea sprouts quality, Northern Horticulture, 8: 4-7.
168. Zhang L., Ma G., Yamawaki K., Ikoma Y., Matsumoto H., Yoshioka T., Ohta S. & Kato M. (2015), Regulation of ascorbic acid metabolism by blue LED light irradiation in citrus juice sacs, Plant Science, 233: 134-142.
169. Zhang T., Shi Y., Piao F. & Sun Z. (2018), Effects of different LED sources on the growth and nitrogen metabolism of lettuce, Plant Cell, Tissue and Organ Culture (PCTOC), 134(2): 231-240.
WEBSITES:
170. http://ydvn.net/contents/view/20838.cay-cai-bo-xoi-spinacia-oleracea.html (Báo
y dược Việt nam 15/5/2017)
171. http://ndb.nal.usda.gov/ndb/foods (U.S. Department Of Agriculture, 25/5/2020) 172. https://giaoduc.net.vn/suc-khoe-hoc-duong/tac-dung-cua-cay-cai-bo-xoi-
post130883.gd (tạp chí điện tử giáo dục Việt Nam, 25/5/2020)
173. https://www.researchandmarkets.com/reports/4426155/hydroponics-global-
market-outlook-2017-2023 ("Hydroponics - Global Market Outlook (2017- 2023).
174. http://www.botany.hawaii.edu/faculty/carr/chenopodi.htm. 175. http://dennangluongmattroigivasolar.blogspot.com/2019/01/nhung-phep-do-can-
biet-khi-su-dung-den-led-nong-nghiep.htm
176. http://www.biologie.ens.fr/smdgs/spip.php?article57 177. https://eurlex.europa.eu/LexUriServ/LexUriServ.do?uri=OJ:L:2011:320:0015:00
17:EN:PDF
1
PHỤ LỤC
2 PHỤ LỤC 1: CẤU TRÚC CƠ BẢN CỦA ĐÈN LED
Cấu trúc chính của LED bao gồm chip (vật liệu bán dẫn phát sáng), khung
chì nơi đặt khuôn và lớp vỏ để bảo vệ khuôn. Đèn LED có các kích cỡ và kiểu
dáng khác nhau. Một ví dụ về thiết kế chip trên bo mạch được thể hiện bên dưới.
Trong đèn LED, nhiệt thải được truyền lên riêng biệt cùng với các bề mặt phát
sáng qua bộ tản nhiệt liên tục hoạt động. Điều này đặc biệt quan trọng đối với đèn
LED cường độ cao, vì nguồn ánh sáng có thể được đặt gần sát cây mà không có
nguy cơ bị quá nhiệt và stress cho cây trồng (Nanya et al., 2012) [100].
Chip LED về cơ bản là một diode (p-n-chuyển tiếp), được thiết kế nhằm
cho phép điện tử và các lỗ trống kết hợp với nhau để tạo ra photon. Các mức
năng lượng, tiếp sau đó là các bước sóng của photon phát ra phụ thuộc vào cấu
trúc khoảng cách dải bán dẫn của các chip liên quan.
Cấu trúc cơ bản của một đèn LED
Cải thiện tính dẫn nhiệt với chip trên bo mạch trong thiết kế đèn LED
(A)
(B)
Sơ đồ cơ chế phát sáng bên trong một chip LED (A, B)
(Nanya et al. , 2012) [100]
3
PHỤ LỤC 2: THÀNH PHẦN DUNG DỊCH DINNH DƯỠNG THỦY CANH
Hàm lượng (ppm) Thành phần
-)
nguyên tố SH5 SH1 SH3
+)
N (NO3 165 148,992 140
15 0 0 N (NH4
P 50 56,107 50
K 210 402,936 350
Mg 45 51,28 50
Ca 190 151,501 200
S 74,364 68,323 183,86
Fe 4 1,999 3
Zn 0,1 0,052 0,1
B 0,5 1 0,3
Mn 0,5 1 0,8
Cu 0,1 0,102 0,07
Mo 0,05 0,01 0,03
Na 0,024 0,005 0,014
Si 0,049 0 0,049
Cl 0 192,016 0
4
PHỤ LỤC 3: PHƯƠNG PHÁP ĐO HUỲNH QUANG DIỆP LỤC
Phương pháp đo huỳnh quang diệp lục là một kỹ thuật phổ biến trong sinh lý
thực vật và trong sinh thái học thực vật, dùng để đánh giá hoạt động quang hợp, trạng
thái cấu trúc và chức năng của hệ thống quang hóa II (PSII). Có thể thấy rằng, những
nghiên cứu về hiệu suất quang hợp của thực vật trong điều kiện khác nhau (điều kiện
sinh lý tối ưu, điều kiện môi trường bất thuận) sẽ là chưa hoàn chỉnh nếu không có một
số dữ liệu về huỳnh quang hữu hiệu của diệp lục (Maxwell & Johnson, 2000) [94].
Mặc dù phép đo khá đơn giản, tuy nhiên lý thuyết cơ bản và cách giải thích dữ liệu vẫn
còn phức tạp và đôi khi còn gây tranh cãi. Đã có những bài viết thảo luận khá sâu sắc
về nền tảng lý thuyết của cả phép đo cũng như phân tích theo quan điểm của các nhà
sinh lý học thực vật và sinh học phân tử (Krause & Weis, 1991) [80].
Nguyên tắc cơ bản của phân tích huỳnh quang diệp lục không quá phức tạp.
Năng lượng ánh sáng được hấp thụ bởi các phân tử diệp lục trong lá có thể trải qua
một trong ba số phận: nó có thể được sử dụng để thúc đẩy quá trình quang hợp (quang
hóa), năng lượng dư thừa có thể bị tiêu tán dưới dạng nhiệt hoặc có thể được tái phát
ra dưới dạng ánh sáng - huỳnh quang diệp lục. Ba quá trình này xảy ra cạnh tranh,
sao cho bất kỳ sự gia tăng nào về hiệu quả của một quá trình sẽ dẫn đến giảm hiệu
quả của hai quá trình còn lại. Do đó, bằng cách đo hiệu suất huỳnh quang của chất
diệp lục, có thể thu được thông tin về những thay đổi trong hiệu quả của quá trình
quang hóa và tản nhiệt.
Bởi vì tổng lượng huỳnh quang của diệp lục là rất nhỏ (chỉ 1 hoặc 2% tổng lượng
ánh sáng được hấp thụ) nên việc đo lường không quá phức tạp. Quang phổ của huỳnh
quang khác với quang phổ hấp thụ ánh sáng của diệp lục, với đỉnh phát xạ huỳnh
quang có bước sóng dài hơn. Do đó, hiệu suất huỳnh quang có thể được định lượng
bằng cách cho lá tiếp xúc với ánh sáng có độ dài sóng xác định và đo lượng ánh sáng
phát ra lại ở bước sóng dài hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là phép đo này
chỉ có thể là tương đối, vì ánh sáng chắc chắn bị mất. Do đó, các phân tích thông
thường bao gồm một số dạng chuẩn hóa, với nhiều thông số huỳnh quang khác nhau
được tính toán. Thông thường, năm loại huỳnh quang khác nhau thu được bằng cách
phân tích xung điện bão hòa. Hai trong số các giá trị này cần được thực hiện với mẫu
5 đã thích nghi với bóng tối. Ba giá trị còn lại được đo lặp lại trong các lần xử lý mẫu
tiếp theo khi tiếp xúc với ánh sáng kích thích (Pfündel, 2007) [116].
Chú thích: AL (actinic light): Ánh sáng kích thích; D (dark): Tối; SP (saturating
pulse): Xung bão hòa; FR (far-red): ánh sáng đỏ xa.
Các phép đo để phân tích xung bão hòa (Pfündel, 2007) [116]
Phương pháp đo hiệu suất huỳnh quang thông thường được thực hiện là phép đo
với các mẫu thích nghi tối khi ánh sáng cho quang hợp đã tắt, với các thông số sau:
Fo: Hiệu suất huỳnh quang tối thiểu được kích thích bởi cường độ ánh sáng rất
thấp để giữ cho các trung tâm phản ứng của hệ thống quang hóa II (PS II) mở.
Fm: Hiệu suất huỳnh quang cực đại của diệp lục được tạo ra khi các trung tâm
phản ứng của hệ thống PS II bị đóng lại bởi một xung ánh sáng mạnh.
Fv/Fm = (Fm-Fo)/Fm: Hiệu suất lượng tử quang hóa cực đại (hệ số huỳnh quang
hữu hiệu) của hệ thống PS II (Kitajima and Butler, 1975) [74].
Để định lượng việc sử dụng quang hóa và tổn thất không quang hóa khi năng
lượng ánh sáng được hấp thụ, các thương số huỳnh quang đã được suy ra để sử dụng
làm dữ liệu đầu vào cho các phép đo hiệu suất huỳnh quang hữu hiệu. Một trong số đó
chính là Fv/Fm (Hiệu suất lượng tử quang hóa tối đa). Thương số huỳnh quang này
ước tính phần lượng tử hấp thụ được sử dụng cho PS II, cũng có nghĩa là để phân tách
điện tích ổn định trong trung tâm phản ứng của hệ thống PSII. Đối với các phép đo
Fv/Fm, điều quan trọng là các mẫu phải được thích nghi tốt ở điều kiện tối để tất cả
các phản ứng trung tâm ở trạng thái mở và sự tiêu tán năng lượng kích thích không
quang hóa là tối thiểu. Các yêu cầu đối với sự thích nghi tối có thể khác nhau giữa các
6 loại cây: trong các lá cây ưa bóng, phản ứng trung tâm của PSII đóng chặt đáng kể có
thể xảy ra ở các giá trị PAR là 0,1 μmol/m2/s nhưng với cây ưa sáng hầu hết các
trung tâm phản ứng của PSII mở ngay cả khi giá trị PAR là 10-40 μmol/m2/s
(Pfündel, 2007) [116].
Ngoài ra, Fv/Fm cũng được tính toán theo công thức:
Fv/Fm = (Fm-Fo)/Fm = ϕPSII/qP (Maxwell & Johnson, 2000) [94].
Trong đó:
ϕPSII (Quantum efficiency of PSII): Hiệu suất lượng tử của quang hợp
qP (Proportion of open PSII): Tỉ lệ mở của PSII
7 PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
Hình 1. Các giống cải bó xôi được sử dụng trong thí nghiệm
Hình 2. Cải bó xối lúc gieo được 7 ngày Hình 3. Cải bó xôi khi vừa mới được ra
(giá thể gieo hạt Klasmann TS2 –Đức) cây, ra rọ
Hình 4. Cải bó xôi trên hệ thống thủy canh hồi lưu sau 1 tuần lên giàn Hình 5. Cải bó xôi trên hệ thống thủy canh hồi lưu sau 2 tuần lên giàn
8
Hình 6. Cải bó xôi 30 NST ở các dung dịch dinh dưỡng khác nhau
Hình 7. Khối lượng toàn cây cải bó xôi ở các dung dịch dinh dưỡng khác nhau
(42NST)
Hình 8. Máy scan rễ (Epson Perfection V700 Photo Scanner sử dụng kết hợp với phần WinRHIZO Pro)
9
Hình 9. Thiết bị đo quang phổ ánh sáng
Hình 10. Thiết bị điều chỉnh cường độ
A
B
Hình 11. Mô hình cải bó xôi trồng ngoài nhà lưới trên hệ thống thủy canh hồi lưu ứng dụng các thông số kỹ thuật nghiên cứu (A, B: Tại Viện sinh học Nông nghiệp Việt Nam)
C
10
B1
A2 2
(A)
(B)
(C)
Hình 12. Mô hình cải bó xôi trồng trong nhà trên hệ thống thủy canh hồi lưu ở ánh sáng
trắng, ánh sáng vàng và ánh sáng đỏ-xanh (A, B: 14 NST) và (C: 21 NST)
C2
11
Hình 13. Kính hiển vi soi mẫu Hình 14. Máy đo độ Brix
Hình 15. Sử dụng phần mềm ImageJ để tính diện tích lá từ hình ảnh chụp
12
Trắng Vàng Đỏ Xanh
Hình 16. Sử dụng phần mềm ImageJ để tính kích thước tế bào biểu bì, khí khổng
Hình 17. Cải bó xôi ở các phổ ánh sáng khác nhau sau 14 và 30 ngày trồng
Hình 18. Cải bó xôi ở cường độ ánh sáng đèn LED đỏ xanh sau 14 và 21 ngày trồng