intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Bệnh melioidosis và bệnh glanders

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:42

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Bệnh melioidosis và bệnh glanders trình bày các nội dung chính sau: Thông tin cơ bản về bệnh melioidosis và bệnh glanders; Phòng ngừa bệnh melioidosis và bệnh glanders; Chẩn đoán bệnh melioidosis và bệnh glanders; Điều trị bệnh melioidosis và bệnh glanders.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Bệnh melioidosis và bệnh glanders

  1. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Thông tin lâm sàng chính xác ngay tại nơi cần thiết Cập nhật lần cuối: May 29, 2018
  2. Mục Lục Tóm tắt 3 Thông tin cơ bản 4 Định nghĩa 4 Dịch tễ học 4 Bệnh căn học 5 Sinh lý bệnh học 6 Phân loại 6 Phòng ngừa 8 Ngăn ngừa sơ cấp 8 Ngăn ngừa thứ cấp 8 Chẩn đoán 10 Tiền sử ca bệnh 10 Cách tiếp cận chẩn đoán từng bước 11 Các yếu tố nguy cơ 13 Các yếu tố về tiền sử và thăm khám 14 Xét nghiệm chẩn đoán 15 Chẩn đoán khác biệt 17 Các tiêu chí chẩn đoán 18 Điều trị 20 Cách tiếp cận điều trị từng bước 20 Tổng quan về các chi tiết điều trị 21 Các lựa chọn điều trị 23 Liên lạc theo dõi 28 Khuyến nghị 28 Các biến chứng 28 Tiên lượng 29 Hướng dẫn 31 Hướng dẫn chẩn đoán 31 Hướng dẫn điều trị 31 Nguồn trợ giúp trực tuyến 32 Tài liệu tham khảo 33 Hình ảnh 38 Tuyên bố miễn trách nhiệm 41
  3. Tóm tắt ◊ Bệnh melioidosis có đặc trưng là sốt, viêm phổi và các áp-xe, mức độ bệnh trải rộng từ các nhiễm trùng nhẹ, khu trú cho đến nhiễm bệnh lan tỏa gây nhiễm trùng huyết nguy hiểm nhanh chóng. Bệnh glanders hiếm khi xảy ra ở người. ◊ Việc chẩn đoán melioidosis là một thách thức vì nó giống với nhiều bệnh lý khác, nhất là bệnh lao. Việc chẩn đoán cả hai bệnh cần phải có dấu hiệu nghi ngờ cao từ biểu hiện lâm sàng, và phải được xác định bằng nuôi cấy B pseudomallei hoặc B mallei. ◊ Điều trị kháng sinh tiêm tĩnh mạch tích cực là liệu pháp chính ở hầu hết các bệnh nhân và có thể bắt buộc thực hiện trong nhiều tuần, tùy theo bệnh cảnh lâm sàng. Sau đó là liệu pháp tiệt căn bằng đường uống tối thiểu 3 tháng để giảm nguy cơ tái phát. ◊ Tỷ lệ tử vong liên quan đến melioidosis vẫn lên đến 50% tại nhiều khu vực lưu hành dịch, nhưng thấp bằng 10% nếu được chẩn đoán kịp thời, sử dụng thuốc kháng sinh thích hợp, và chăm sóc hỗ trợ tích cực hiện đại.
  4. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Thông tin cơ bản Định nghĩa Cả hai bệnh lý đều do vi khuẩn thuộc chi Burkholderia gây ra và biểu hiện với nhiều triệu chứng tương tự, có đặc trưng là sốt, viêm phổi và các áp-xe, mặc dù mức độ nặng trải rộng từ nhiễm trùng nhẹ, khu trú cho đến lây nhiễm lan tỏa gây THÔNG TIN CƠ BẢN nhiễm trùng huyết nguy hiểm nhanh chóng. Bệnh melioidosis, hay còn gọi là bệnh Whitmore, bệnh của người làm vườn ở Nightcliff, bệnh glanders giả, hoặc 'Bom hẹn giờ ở Việt Nam', do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây ra. Vi khuẩn này là thực vật hoại sinh có trong đất và nước trong các vùng nhiệt đới, nhất là đông nam Á và bắc Úc. Con người và loài vật khác bị nhiễm bệnh do phơi nhiễm với vi khuẩn này trong môi trường.[1] Bệnh glanders do vi khuẩn Burkholderia mallei gây ra. Đây là họ hàng gần gũi của B pseudomallei đã thích nghi với cuộc sống như là mầm bệnh chuyên biệt của giống ngựa (ví dụ như ngựa, lừa, và la).[2] Đôi khi bệnh lý này lây truyền sang người qua đường tiếp xúc với mô hoặc dịch cơ thể của động vật nhiễm bệnh. Trước đây bệnh glanders ở người xảy ra rải rác ở những người làm việc với ngựa (như người chải lông ngựa và bác sĩ thú y), nhưng kể từ khi bệnh glanders ở ngựa được kiểm soát và xã hội ít phụ thuộc vào ngựa hơn, thì bệnh glanders ở người đã gần như biến mất hoàn toàn. Trong tài liệu nghiên cứu suốt 60 năm qua, chỉ có một ca bệnh được ghi nhận mắc phải ở phòng thí nghiệm.[3] Cả hai loại vi khuẩn đều được xem là vũ khí sinh học tiềm năng, và glanders được các đặc vụ Đức chủ ý sử dụng trong Thế Chiến I.[4] Chúng được phân loại là tác nhân chọn lọc Cấp 1 ở Mỹ.[5] Dịch tễ học Từ trước đến nay, người ta thường cho rằng bệnh melioidosis là một bệnh của vùng Đông Nam Á và bắc Úc, nhưng trong hơn 20 năm qua, bệnh ngày càng xuất hiện nhiều ở các vùng nhiệt đới, bao gồm tiểu lục địa Ấn Độ, khu vực Châu Phi vùng cận Sahara, Trung và Nam Phi và Caribê.[19] Số lượng ca bệnh lớn nhất được ghi nhận từ Thái Lan (đặc biệt là ở vùng đông bắc), Malaysia, Singapore và bắc Úc. Tuy nhiên, kết quả mô hình hóa gợi ý rằng tình trạng bệnh không được chẩn đoán đầy đủ ở hầu hết trong số 45 quốc gia được xác định là có lưu hành dịch, và thậm chí bệnh còn xuất hiện ở 34 quốc gia khác nơi chưa từng có ghi nhận ca bệnh, gây ra 165.000 ca nhiễm bệnh và 89.000 ca tử vong mỗi năm trên khắp toàn cầu.[20] Ở các vùng không lưu hành dịch vẫn thường có một số ít ca bệnh du nhập từ nước ngoài vào.[21] Trong vùng lưu hành dịch, bệnh chủ yếu ảnh hưởng tới những người thường xuyên tiếp xúc với đất và nước (ví dụ như nông dân làm ruộng ở Đông Nam Á và thổ dân ở Úc), mặc dù kể cả những người không tiếp xúc trực tiếp rõ ràng với môi trường cũng có thể bị nhiễm. Một trong những lý do chính mà số lượng ca bệnh không được chẩn đoán đầy đủ là vì người dân nông thôn nghèo ở vùng nhiệt đời thường hiếm có điều kiện tiếp cận các phòng thí nghiệm vi sinh học để xác định chẩn đoán. Ở hầu hết mọi nơi, bệnh có tính mùa vụ cao, đạt đỉnh vào mùa mưa tương ứng với thời gian có nhiều khả năng phơi nhiễm nhất. Bệnh xảy ra trong mọi nhóm tuổi, tương đối hay gặp ở nhóm trẻ nhỏ, nhiều trẻ có biểu hiện nhiễm trùng khu trú, tương đối nhẹ,[10] và phổ biến hơn ở nhóm người trưởng thành từ 40 đến 70 tuổi.[7] [22] Ở nhóm người trưởng thành, có khoảng 55 đến 80% bệnh nhân có bệnh nền khiến họ dễ bị bệnh melioidosis, đặc biệt là tiểu đường; bệnh thận, gan hoặc phổi mạn tính; uống quá nhiều rượu hoặc ăn uống vô độ; sử dụng corticosteroid; hoặc bệnh thiếu máu huyết tán. Nhiễm HIV không có vẻ như làm tăng nguy cơ mắc bệnh melioidosis, mặc dù đôi khi cũng có trường hợp ghi nhận đồng nhiễm. Tiểu đường dường như có liên quan đặc biệt chặt chẽ với nguy cơ nhiễm bệnh này, vì lý do mà chưa được hiểu rõ ràng, nhưng bệnh melioidosis có thể thường gặp hơn do tỷ lệ lưu hành bệnh tiểu đường đang tăng cao ở vùng nhiệt đới. Nam giới thường hay bị ảnh hưởng hơn nữ giới, mặc dù tỷ lệ khác nhau tùy từng nơi, phản ánh sự khác biệt về văn hóa làm ảnh hưởng tới khả năng phơi nhiễm với đất và nước. Bệnh glanders là một loại bệnh chỉ thực sự trở thành vấn đề nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng trong hơn 100 năm, kể từ thời điểm bệnh lần đầu được mô tả vào năm 1812 cho tới khi những ca bệnh mắc tự nhiên cuối cùng được ghi nhận vào những năm 1940 và 1950 ở Mỹ và Châu Âu. Tuy nhiên, bệnh glanders ở ngựa vẫn xảy ra ở nhiều nơi tại Châu 4 Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  5. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Thông tin cơ bản Phi, Châu Á, Trung Đông và Trung và Nam Mỹ. Tình trạng nhiễm bệnh mắc phải ở phòng thí nghiệm cũng có thể xảy ra, vậy nên vẫn có khả năng bị mắc bệnh glanders ở người.[23] THÔNG TIN CƠ BẢN Tính đặc hữu của tình trạng nhiễm bệnh melioidosis CDC Bệnh căn học Burkholderia mallei (glanders) và Burkholderia pseudomallei (melioidosis) là trực khuẩn gram âm, oxidase dương tính, thuộc chi Burkholderia. Chúng phát triển khá dễ dàng trong môi trường nuôi cấy thường qui, mặc dù B mallei không mạnh bằng B pseudomallei. Có thể cần một môi trường chọn lọc để phân lập các vi khuẩn từ các vùng có hệ khuẩn bình thường. Thỉnh thoảng những người bất cẩn vứt bỏ chúng như là chất nhiễm bẩn, mặc dù quy luật nhạy đặc trưng (đề kháng với aminoglycosides và polymyxins nhưng nhạy với amoxicillin/clavulanic acid) có trong hầu hết B pseudomallei. B mallei thường nhạy với gentamicin. Đã có báo cáo về B pseudomallei cho thấy nhạy với gentamicin ở một vùng địa lý đặc hiệu, nhưng không thường xảy ra ở nơi khác.[24] Có ý kiến cho rằng thường mắc phải bệnh melioidosis do chích phải các vi khuẩn trong môi trường (ví dụ như qua vết thương ở da bị mắc phải trong khi làm việc trên cánh đồng lúa), nhưng có bằng chứng dịch tễ cho thấy rằng cũng có thể mắc phải bệnh lý này qua đường hô hấp trong trường hợp mưa lớn và thời tiết khắc nghiệt.[25] [26] Uống nước nhiễm bẩn cũng có thể là nguồn nhiễm bệnh mà trước đây chưa được ghi nhận đầy đủ, nhất là ở Đông Nam Á.[27] Trên thực tế, thường rất khó xác định chính xác thời gian, địa điểm và cách thức nhiễm bệnh, nhất là khi con người thường xuyên phơi nhiễm với vi khuẩn trong môi trường, và vì thời gian ủ bệnh có thể biến thiên, một điểm đặc trưng mà dựa vào đó có tên 'bom hẹn giờ ở Việt Nam'.[28] Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. 5 Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền. hinhanhykhoa.com
  6. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Thông tin cơ bản Bệnh glanders lây truyền sang người qua tiếp xúc với các mô hoặc dịch tiết của động vật nhiễm bệnh, hoặc với mẫu cấy B mallei trong phòng thí nghiệm. Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua vết cắt hoặc vết xước trên da, và thông qua bề mặt niêm mạc như mắt và mũi. Cũng có thể hít phải vi khuẩn trong không khí hoặc bụi bị nhiễm bẩn bởi động vật nhiễm bệnh.[23] Rất hiếm gặp ca bệnh truyền nhiễm từ người sang người.[29] THÔNG TIN CƠ BẢN [Fig-2] [Fig-3] Sinh lý bệnh học Các biểu hiện lâm sàng phản ánh nhiều diễn biến lâm sàng mà tình trạng nhiễm trùng có thể gây ra, phụ thuộc vào sự cân bằng giữa kích thước và đường nhiễm ban đầu cũng như tính hiệu quả đáp ứng ở vật chủ. Ban đầu, vi khuẩn nhân lên tại vị trí đường vào, điều này có thể dẫn đến tổn thương cục bộ như đau da kèm viêm mô liên kết, hình thành áp-xe hoặc viêm phổi. Tình trạng này có thể khỏi ở một số bệnh nhân, nhưng ở nhiều người khác, vi khuẩn có thể lây lan qua dòng máu hoặc hệ bạch huyết, dẫn đến tổn thương thứ phát gần như trên khắp cơ thể, nhưng đặc biệt là ở các hạch bạch huyết, gan, lách, phổi và tuyến tiền liệt (ở nam giới) Quá trình tiến triển bệnh có thể rất khác nhau, một số bệnh nhân bị nhiễm bệnh cấp tính, tối cấp và những bệnh nhân khác phát triểnxuất hiện những tổn thương mạn tính, không đau, dạng hạt, đôi khi có thể không có triệu chứng.[30] Nhiều yếu tố quyết định độc lực được mô tả ở vi khuẩn Burkholderia mallei và Burkholderia pseudomallei, bao gồm nang kháng thực bào, nhiều ngoại độc tố và nội độc tố, và nhiều yếu tố cho phép vi khuẩn tồn tại nội bào.[31] Phân loại Phân loại lâm sàng đối với bệnh melioidosis[6] 1. Melioidosis vãng khuẩn huyết lan tỏa 2. Melioidosis vãng khuẩn huyết không lan tỏa 3. Melioidosis khu trú 4. Melioidosis vãng khuẩn huyết thoáng qua 5. Melioidosis nghi ngờ cao 6. Melioidosis cận lâm sàng Phân loại bệnh melioidosis dựa vào việc có/không có sốc nhiễm khuẩn và ổ bệnh lâm sàng nổi bật nhất[7] Sốc nhiễm khuẩn: • Viêm phổi • Không có ổ nhiễm bệnh rõ ràng (nhưng có thể có các áp xe nội tạng trên phim chụp) • Sinh dục niệu • Viêm tủy xương/viêm khớp nhiễm khuẩn • Áp-xe mô mềm. 6 Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  7. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Thông tin cơ bản Sốc không nhiễm khuẩn: • Viêm phổi • Nhiễm trùng da THÔNG TIN CƠ BẢN • Sinh dục niệu • Không có ổ nhiễm bệnh rõ ràng • (Các) Áp-xe mô mềm • Viêm tủy xương/viêm khớp nhiễm khuẩn • Thần kinh. Bệnh melioidosis cấp tính và mạn tính[8] Bệnh melioidosis cấp tính (85%): thời gian ủ bệnh từ 1 đến 21 ngày (trung bình 9 ngày) Bệnh melioidosis mạn tính (11%): được định nghĩa là bệnh có triệu chứng với thời gian biểu hiện lâu hơn 2 tháng Bệnh kích hoạt từ một nhiễm trùng tiềm tàng không triệu chứng trước đó (4%). Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. 7 Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  8. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Phòng ngừa Ngăn ngừa sơ cấp Hiện tại không có vắc-xin cho bệnh melioidosis hay bệnh glanders, mặc dù có một vài nhóm hiện đang nỗ lực phát triển vắc-xin cho các bệnh này.[42]Do đó, các chiến lược phòng ngừa dựa vào việc giảm thiểu phơi nhiễm với vi khuẩn gây bệnh, mặc dù còn thiếu bằng chứng cho thấy đây là phương thức hiệu quả trong việc phòng ngừa nhiễm khuẩn. Do bệnh glanders ở người luôn xảy ra sau khi tiếp xúc gần với động vật bị nhiễm hoặc làm việc với Burkholderia mallei trong phòng thí nghiệm, vậy nên việc phòng ngừa ở người đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa tiếp xúc tiêu chuẩn (mặt nạ, găng tay và áo choàng) khi xử lý động vật bị nhiễm. Về lâu dài, bệnh glanders ở người được kiểm soát thông qua loại bỏ lây truyền bệnh trên quần thể động vật. Căn cứ vào các hoạt động liên quan đến việc gia tăng nguy cơ mắc phải bệnh melioidosis, người ta đã đưa ra những khuyến cáo phòng ngừa sau đây:[33] • Tránh tiếp xúc trực tiếp với đất hoặc nước ngoài môi trường • Nếu cần phải tiếp xúc với đất hoặc nước ngoài môi trường, hãy mang thiết bị bảo hộ bao gồm găng tay, ủng hoặc ủng lội nước bằng cao su, rửa bằng xà phòng và nước sạch ngay sau khi phơi nhiễm • Trong trường hợp bị thương có nhiễm đất hoặc nước ngoài môi trường, hãy ngay lập tức rửa vết thương bằng xà PHÒNG NGỪA phòng và nước sạch • Che vết thương hở và tránh tiếp xúc với đất hoặc nước cho tới khi lành hẳn. Không được thoa thảo mộc hay các chất khác lên vết thương. Trong trường hợp vết thương tiếp xúc với đất hoặc nước ngoài môi trường, hãy rửa kỹ vết thương bằng xà phòng và nước sạch • Luôn luôn đi giày. Không được đi chân trần • Chỉ uống nước đóng chai hoặc đã đun sôi. Không được uống nước chưa xử lý • Không được ăn thức ăn bị nhiễm đất hoặc bụi. Nếu ăn thức ăn chưa nấu chín, phải rửa kỹ bằng cách sử dụng nước sạch. Dùng các dụng cụ ăn uống sạch và rửa chúng bằng nước sạch • Khi ở ngoài trời, tránh mưa to hoặc đám mây bụi. Nếu bị kẹt trong đám mây bụi, hay che miệng và mũi. Sử dụng ô để bảo vệ bản thân khỏi cơn mưa • Không được hút thuốc và tránh ăn uống chè chén và uống quá nhiều rượu • Lưu ý rằng bạn có nguy cơ bị bệnh melioidosis cao hơn nếu mắc một số tình trạng, bao gồm tiểu đường, bệnh thận mạn tính và các bệnh cần điều trị bằng corticosteroid hoặc dùng thuốc ức chế hệ miễn dịch. Những biện pháp này có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người có nguy cơ mắc bệnh cao hơn do các bệnh nền dẫn đến bệnh melioidosis, chẳng hạn như tiểu đường, bệnh thận hoặc gan mạn tính, bệnh thiếu máu huyết tán, hoặc sử dụng corticosteroid.[1] Bệnh nhân ung thư đang được hóa trị liệu và bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch liều cao (đặc biệt là corticosteroid) được khuyên nên tránh ở ngoài trời vào những lúc mưa to có gió mạnh. Cần xử lý cả B mallei và Burkholderia pseudomallei theo các biện pháp phòng ngừa mức độ an toàn sinh học cấp 3, mặc dù hiếm có trường hợp mắc bệnh melioidosis ở phòng thí nghiệm (bệnh glanders mắc phải ở phòng thí nghiệm được ghi nhận thường xuyên hơn). Người ta đã phát hành hướng dẫn toàn diện về cách quản lý phơi nhiễm tình cờ trong phòng thí nghiệm với cả B mallei và B pseudomallei, bao gồm việc có nên bắt đầu biện pháp dự phòng sau phơi nhiễm hay không.[43] Ngăn ngừa thứ cấp Chỉ có một số ít báo cáo về việc lây bệnh melioidosis (hoặc bệnh glanders) từ người sang người, và nguy cơ đối với những người tiếp xúc với người bệnh ngẫu nhiên hoặc trong gia đình là rất thấp nên không có khuyến cáo về biện pháp phòng ngừa cụ thể. Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nhiễm bệnh nên sử dụng biện pháp phòng ngừa tiếp xúc tiêu chuẩn. Ở một số vùng lưu hành dịch, bệnh melioidosis và bệnh glanders được pháp luật quy định là bệnh cần khai báo nên phải được báo cáo với cơ quan y tế có thẩm quyền ở địa phương. Hiện nay, ở các vùng không lưu hành dịch, quy định này cũng trở thành một yêu cầu chung sau khi cân nhắc khả năng những vi khuẩn này được sử dụng làm tác nhân 8 Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  9. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Phòng ngừa sinh học nguy hiểm; ở Mỹ, cả Burkholderia mallei và Burkholderia pseudomallei đều được phân loại là tác nhân chọn lọc Cấp 1.[5] Tuy nhiên, đây nên được coi là nguy cơ tiềm tàng. Trong hầu hết trường hợp mắc bệnh melioidosis, ta sẽ phát hiện được yếu tố nguy cơ phơi nhiễm rõ ràng (du lịch, làm việc trong phòng thí nghiệm) sau khi xem xét kỹ tiền sử. PHÒNG NGỪA Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. 9 Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  10. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán Tiền sử ca bệnh Tiền sử ca bệnh #1 Một nông dân 30 tuổi bị tiểu đường từ vùng nông thôn Campuchia đến khám tại một bệnh viện khu vực nhỏ với tiền sử sốt, đổ mồ hôi đêm, khó thở ngày càng tăng, và ho có đờm hơi mủ kéo dài 2 tuần. Khi thăm khám, anh ấy có nhiệt độ là 39,3℃, nhịp tim 104 lần/phút, nhịp thở 28 lần một phút, và độ bão hoà oxy trong không khí xung quanh là 92%. Huyết áp là 90/60 mmHg, chỉ tăng lên 95/60 mmHg sau khi tiêm truyền tĩnh mạch 2 lít nước muối thông thường. Kết quả khám hô hấp cho thấy gõ ngực bình thường nhưng có tiếng ran và khò khè toàn thân khi hít vào. Chụp X-quang ngực cho thấy có vùng đông đặc ở thùy trên bên phải, trong khi siêu âm bụng cho thấy các đặc điểm gợi ý có áp-xe gan. Anh ấy được bắt đầu sử dụng ceftriaxone tiêm tĩnh mạch nhưng bệnh tệ dần đi trong 12 giờ. Thay đổi điều trị kháng sinh sang ceftazidime tiêm tĩnh mạch (mà hiện được sử dụng ở bệnh viện khu vực vì melioidosis được ghi nhận là nguyên nhân quan trọng gây nhiễm trùng máu trong khu vực). Mặc dù vậy, bệnh của anh ấy tệ dần. Ở 24 giờ, ảnh chụp x-quang ngực lặp lại cho thấy chứng viêm phổi tiến triển làm ảnh hưởng đến toàn bộ phổi phải, và hiện cũng quan sát thấy thâm nhiễm trong phổi trái. Nhịp tim tăng lên 120 lần một phút, huyết áp giảm xuống 80/50 mmHg, và nhịp thở là 32 lần một phút với độ bão hòa oxy là 88% mặc dù đã sử dụng liệu pháp oxy. Bệnh nhân xuất hiện viêm phổi tiến triển và sốc nhiễm khuẩn 36 giờ sau khi nhập viện, được đặt nội khí quản và được chuyển sang chăm sóc tích cực. Kết quả cấy máu từ bệnh nhân khi nhập viện dương tính với Burkholderia pseudomallei. Tiền sử ca bệnh #2 Một bệnh nhân nam 24 tuổi trở về Anh Quốc sau chuyến du lịch ba lô đến Úc, gồm có các hoạt động cắm trại ở Vườn quốc gia Kakadu ở Vùng phía Bắc. Trên chuyến bay trở về, anh ấy bị sốt và đau bụng. Anh ấy cũng để ý thấy khó tiểu và tiêu chảy nhẹ. Ngày hôm sau, anh ấy đến phòng cấp cứu với các triệu chứng đã tiến triển, nhiệt độ của anh ấy là 39,2°C, và thăm khám thấy anh ấy bị đau khi chạm vào vùng bụng dưới cùng với gõ đục gợi ý về chứng bí tiểu. Anh ấy được đặt ống thông đường tiểu, dẫn lưu 800 mL nước tiểu sẫm màu. Anh ấy được bắt đầu được dùng ampicillin, gentamicin, và metronidazole tiêm tĩnh mạch. Ngày hôm sau, anh ấy vẫn còn sốt và không khỏe, kết quả phòng thí nghiệm vi sinh học cho biết có trực khuẩn gram âm từ cả kết quả cấy máu và nước tiểu. Kết quả xét nghiệm tự động ban đầu không xác định loài vi khuẩn, nhưng nhà vi trùng học lâm sàng trước đây làm việc tại Thái Lan và CHẨN ĐOÁN Lào ghi nhận sự có mặt của vi khuẩn B pseudomallei. Điều này được xác định nhanh chóng bằng xét nghiệm hóa sinh tiêu chuẩn. Điều trị thuốc kháng sinh chuyển sang ceftazidime tiêm tĩnh mạch và trimethoprim/sulfamethoxazole đường uống. Chụp CT bụng và khung chậu cho thấy áp-xe tuyến tiền liệt, được dẫn lưu trong cùng ngày theo trực tràng. Bệnh nhân tiếp tục liệu pháp tiêu chuẩn điều trị bệnh melioidosis và hồi phục hoàn toàn. Các bài trình bày khác Bệnh nhân có thể có biểu hiện loét/áp-xe da không hồi phục, không có nhiễm trùng huyết toàn thân.[9] Tình trạng này thường gặp hơn ở trẻ em và những người không có yếu tố nguy cơ bị bệnh melioidosis.[10] Viêm tuyến mang tai, thường một bên, là một trong những biểu hiện thường gặp nhất ở trẻ em tại Đông nam Á,[11] [12] nhưng lại rất hiếm gặp ở Úc.[7] Viêm khớp nhiễm khuẩn và/hoặc viêm tủy xương hiếm khi có thể là biểu hiện nguyên phát của bệnh melioidosis, nhưng thường là biểu hiện thứ phát xuất hiện một tuần hoặc hơn sau khi điều trị bệnh melioidosis, biểu hiện ở hình thức viêm phổi hoặc nhiễm trùng máu khác.[13]Đã có báo cáo về một ca bệnh nhân biểu hiện viêm đốt sống.[14] Viêm não tủy do melioidosis hiếm khi xảy ra và gần như giới hạn ở nhiễm trùng tại bắc Úc và tương đối hay gặp hơn ở trẻ nhỏ.[10] [15] [16] Biểu hiện kèm theo sốt, thường xuyên đau đầu có/không có thay đổi tình trạng tỉnh táo, và liệt 10 Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền. hinhanhykhoa.com
  11. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán dây thần kinh sọ não (như dây thần kinh nơ-ron vận động dưới số VII và VIII), thường kèm theo yếu vận động ngoại vi. Thỉnh thoảng liệt mềm có/không có bí tiểu xảy ra do viêm cột sống nhưng không có các điểm đặc trưng của viêm thân não.[10] Việc lây lan nhiễm trùng huyết có thể gây áp xe não và điều này không giới hạn ở Úc.[17] Bệnh giả phình mạch dạng nấm thường gặp ở những động mạch lớn bị xơ vữa (thường gặp nhất ở vùng động mạch bụng) là một biểu hiện lâm sàng nguyên phát hoặc thứ phát hiếm khi xảy ra nhưng đe dọa đến tính mạng của bệnh melioidosis, mà bệnh nhân mắc bệnh này cần được chuyển gấp sang bác sĩ phẫu thuật mạch.[18] Cách tiếp cận chẩn đoán từng bước Nguyên nhân gây ra bệnh melioidosis là do phơi nhiễm và nhiễm loại vi khuẩn Burkholderia pseudomallei trong đất và nước.[31] [44] Các điểm nóng nhiễm bệnh nằm ở đông bắc Thái Lan và miền bắc Úc, nhưng bệnh melioidosis cũng lưu hành dịch ở hầu hết các nước vùng Đông Nam Á và Nam Á và ngày càng có nhiều ca bệnh được ghi nhận ở các quốc gia thuộc Châu Phi, Trung và Nam Mỹ.[19] [20] [45] [46] [47] Các nguồn thông tin địa phương có ở nhiều vùng lưu hành dịch như: • [Mahidol Oxford Tropical Medicine Research Unit (Thailand): melioidosis] • [Indian Melioidosis Research Forum: melioidosis in India] • [Melioidose uma doença emergente: melioidosis in Brazil] Nhiễm trùng có thể xảy ra ở du khách trở về từ những địa điểm này.[21] Đại đa số các ca mắc bệnh melioidosis là do mới nhiễm khuẩn, nhưng cũng có những ca ghi nhận bệnh hoạt động sau nhiều năm kể từ khi bị nhiễm, mặc dù hiếm gặp.[7] [28] [30] Bệnh glanders là một bệnh ở ngựa và các chủng loại ngựa khác do một loại vi khuẩn có liên quan mật thiết tên gọi Burkholderia mallei gây ra. Đôi khi, loại vi khuẩn này có thể truyền sang người, mặc dù hiện nay rất hiếm gặp bệnh glanders ở người.[3] [4] [29] Cả hai bệnh lý này đều có biểu hiện lâm sàng tương tự và cùng được xem xét trong suốt chủ đề này. CHẨN ĐOÁN Tiền sử Bệnh melioidosis • Bệnh nhân có thể bị phơi nhiễm với B. pseudomallei trong công việc, giải trí hoặc sau những thời tiết khắc nghiệt khi mà vi khuẩn có thể bị khí hóa, vì vậy người bệnh thường có tiền sử tiếp xúc với đất hoặc nước hoặc các hoạt động ngoài trời.[8] [21] [31] [33] [48] • Có một tỷ lệ cao bệnh nhân mắc bệnh được xác định bị tiểu đường. Cả tiểu đường týp 1 và týp 2 và kiểm soát tiểu đường kém đều làm tăng nguy cơ.[7] [8] [37] [38] Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm sử dụng rượu quá mức, bệnh thận mạn tính, bệnh ác tính và liệu pháp ức chế miễn dịch, bệnh thiếu máu huyết tán, xơ nang và bệnh phổi mạn tính khác.[7] [37] [38] [39] [40] [41] • Có 20% đến 40% người mắc bệnh melioidosis ở vùng lưu hành dịch không có yếu tố nguy cơ xác định, nhưng điều này không phải lúc nào cũng liên quan đến tình trạng bệnh nặng.[7] [38] Bệnh glanders • Bệnh nhân mắc bệnh glanders thường có tiền sử tiếp xúc với ngựa hoặc làm việc với B. mallei trong phòng thí nghiệm.[3] [4] [29] Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. 11 Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  12. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán Khám lâm sàng Bệnh khởi phát sau 1 ngày đến 3 tuần kể từ khi nhiễm bệnh và biểu hiện cấp tính, nhưng 10% ca bệnh có biểu hiện bệnh melioidosis mạn tính (trong đó bệnh nhân bị ốm suốt >2 tháng). Có
  13. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán Các xét nghiệm gần đây Hiện người ta đang đánh giá biện pháp xét nghiệm phát hiện kháng nguyên nhanh.[62] [63] Như với PCR, tính đặc hiệu và giá trị dự đoán dương tính đều cao, nhưng các xét nghiệm âm tính cũng không thể loại trừ khả năng lây nhiễm. Các yếu tố nguy cơ Mạnh phơi nhiễm môi trường nghề nghiệp/giải trí • Nhiễm trùng xảy ra do phơi nhiễm với vi khuẩn có trong đất, nước hoặc không khí ở vùng lưu hành dịch bệnh melioidosis (ví dụ như nông dân trồng lúa, người làm việc ngoài trời tiếp xúc với đất và nước, người uống nước chưa được khử clo, làm vườn, các hoạt động du lịch có tiếp xúc với nước bùn và đất, các trường hợp thời tiết khắc nghiệm như lốc và mưa bão mà người bệnh hít phải).[22] [25] [26] [27] [32] [33] [34] [35] [36] Tiểu đường • Khoảng 40 đến 60% bệnh nhân mắc bệnh melioidosis được khẳng định mắc tiểu đường týp 1 hoặc týp 2.[7] [8] [37] [38] Kiểm soát bệnh tiểu đường kém làm tăng nguy cơ. sử dụng rượu độc hại • Có tới 40% ca bệnh melioidosis uống rượu nhiều hơn mức trung bình hàng ngày.[7] Điều này có thể liên quan tới tác động của nồng độ cồn trong máu cao lên khả năng bảo vệ của hệ miễn dịch bẩm sinh chống lại tình trạng nhiễm khuẩn Burkholderia pseudomallei. Bệnh thận mạn tính • Suy thận mạn tính hoặc sỏi thận biểu hiện ở 27% ca bệnh.[7] [37] [38] bệnh ác tính và liệu pháp ức chế miễn dịch CHẨN ĐOÁN • Liệu pháp corticosteroid liều cao là một ví dụ.[7] Mối liên hệ với các thuốc sinh học không chắc chắn, nhưng 2 ca bệnh được ghi nhận sau khi áp dụng liệu pháp điều trị bằng adalimumab.[39] Thiếu máu huyết tán • Có khả năng liên quan tới tình trạng quá tải sắt.[40] xơ nang và bệnh phổi mạn tính khác • Một số cơ quan chức trách khuyến cáo người bị xơ nang nên tránh đi tới các vùng lưu hành dịch bệnh melioidosis.[41] Yếu khủng bố sinh học • Cả hai loại vi khuẩn đều được xem là vũ khí sinh học tiềm năng, và glanders được các đặc vụ Đức chủ ý sử dụng trong Thế Chiến I.[4] Chúng được phân loại là tác nhân chọn lọc Cấp 1 ở Hoa Kỳ do chúng có nguy cơ lạm dụng sai mục đích ở mức cao nhất với khả năng gây thương vong hàng loạt hoặc tác động tàn phá nền kinh tế, cơ sở hạ tầng trọng yếu hoặc lòng tin của công chúng, đồng thời đe dọa nghiêm trọng tới sức khỏe và an toàn của cộng đồng.[5] Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. 13 Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  14. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán Các yếu tố về tiền sử và thăm khám Các yếu tố chẩn đoán chủ yếu có các yếu tố nguy cơ (thường gặp) • Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm: phơi nhiễm môi trường nghề nghiệp/giải trí, tiểu đường, sử dụng rượu quá mức, bệnh thận mạn tính, bệnh ác tính và liệu pháp ức chế miễn dịch, bệnh thiếu máu huyết tán, xơ nang và bệnh phổi mạn tính khác. sốt/ra mồ hôi (thường gặp) • Xảy ra trong hầu hết nhưng không phải tất cả các ca bệnh. Có thể kéo dài vài ngày hoặc vài tuần, tùy vào mức độ nghiêm trọng. • Khoảng 10% ca mắc bệnh mạn tính (được xác định là ốm trong >2 tháng), thường giống và hay bị chẩn đoán sai là bệnh lao phổi.[7] [50] ho (thường gặp) • Có thể có hoặc không có đờm. • Trên 50% ca bệnh có biểu hiện viêm phổi mắc phải từ cộng đồng.[25] [50] • Khoảng 10% ca mắc bệnh mạn tính (được xác định là ốm trong >2 tháng), thường giống và hay bị chẩn đoán sai là bệnh lao phổi.[7] [50] Sốc nhiễm khuẩn (thường gặp) • Có tới 25% ca bệnh bị nhiễm trùng máu nguy .[51] [65] viêm hạch bạch huyết vùng/viêm tuyến mang tai (thường gặp) • Có tới 15% ca chỉ mắc bệnh khu trú (đặc biệt là trẻ em).[9] đau/loét hoặc áp-xe da không lành (không thường gặp) • Có tới 15% ca chỉ mắc bệnh khu trú (đặc biệt là trẻ em).[9] CHẨN ĐOÁN vãng khuẩn huyết không có ổ nhiễm bệnh lâm sàng rõ ràng (không thường gặp) • Biểu hiện ở 15% ca bệnh.[7] Liệt dây thần kinh sọ não nơ-ron vận động dưới (nhất là dây thần kinh sọ não VII và VIII) (không thường gặp) • Hiếm khi xảy ra nhưng quan trọng trong viêm thân não do melioidosis.[10] [15] [16] [66] liệt mềm (không thường gặp) • Hiếm khi xảy ra nhưng quan trọng trong viêm tuỷ sống do bệnh melioidosis.[10] [15] [16] [66] Các yếu tố chẩn đoán khác Khó thở (thường gặp) • Trên 50% ca bệnh có biểu hiện viêm phổi mắc phải từ cộng đồng.[25] [50] đau bụng/tiêu chảy (không thường gặp) • Áp-xe tuyến tiền liệt xảy ra ở 20% bệnh nhân nam mắc bệnh melioidosis.[64] 14 Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  15. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán chứng khó tiểu (không thường gặp) • Áp-xe tuyến tiền liệt xảy ra ở 20% bệnh nhân nam mắc bệnh melioidosis.[64] bí tiểu (không thường gặp) • Áp-xe tuyến tiền liệt xảy ra ở 20% bệnh nhân nam mắc bệnh melioidosis.[64] thay đổi tình trạng tỉnh táo (không thường gặp) • Hiếm khi xảy ra nhưng quan trọng trong viêm thân não do melioidosis.[10] [15] [16] [66] bệnh giả phình mạch dạng nấm (không thường gặp) • Bệnh giả phình mạch dạng nấm thường gặp ở những động mạch lớn bị xơ vữa (thường gặp nhất ở vùng động mạch bụng) là một biểu hiện lâm sàng nguyên phát hoặc thứ phát hiếm khi xảy ra nhưng đe dọa đến tính mạng của bệnh melioidosis, mà bệnh nhân mắc bệnh này cần được chuyển gấp sang bác sĩ phẫu thuật mạch.[18] Xét nghiệm chẩn đoán Xét nghiệm thứ nhất cần yêu cầu Xét nghiệm Kết quả Cấy máu dương tính đối với Burkholderia pseudomallei • Bệnh melioidosis chỉ được xác nhân khi cấy B pseudomallei từ một bệnh ̣ (hoặc Burkholderia mallei) phẩm lâm sàng. • Tất cả trường hợp nghi nhiễm đều cần cấy máu. • Trên 50% ca bệnh melioidosis có kết quả cấy máu dương tính.[8] [56] Cấy đờm dương tính đối với B • Dương tính trong hầu hết trường hợp bị viêm phổi mắc phải từ cộng đồng do pseudomallei (hoặc B mallei). bệnh melioidosis. Tỷ lệ nuôi cấy được cải thiện với bổ sung đờm trong môi trường chọn lọc: Môi trường thạch Ashdown hoặc, nếu không có, thạch chọn CHẨN ĐOÁN lọc Burkholderia cepacia (ở phòng khám xơ nang).[53] [54] [56] Nuôi cấy nước tiểu dương tính đối với B pseudomallei (hoặc B mallei). • Dương tính ở bệnh melioidosis sinh dục niệu, nhưng cũng có thể dương tính ở bệnh melioidosis với nhiễm khuẩn huyết toàn thân và/hoặc viêm phổi mắc phải từ cộng đồng. Nuôi cấy cặn lắng ly tâm làm tăng độ nhạy.[55] Cấy mủ/dịch từ tổn thương da, áp-xe, viêm hạch bạch huyết, dẫn lưu áp xe dương tính đối với B nội tạng (ví dụ: áp-xe gan) pseudomallei • Đối với dịch lấy từ tổn thương hở, tỷ lệ phân lập được cải thiện khi cấy dịch/ mủ trong môi trường thạch Ashdown chọn lọc. Nếu không có môi trường này thì hãy sử dụng môi trường thạch chọn lọc Burkholderia cepacia (ở phòng khám xơ nang).[56] CXR các điểm đặc trưng của viêm phổi; áp-xe phổi • Có thể là viêm phổi khu trúc hoặc viêm phổi đa thùy trong bệnh nặng, hoặc đa áp-xe phổi trong sốc nhiễm khuẩn. Tổn thương phổi ở bệnh melioidosis có xu hướng bỏ qua các đỉnh.[7] [58] [59] Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. 15 Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  16. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán Xét nghiệm Kết quả CT bụng và khung chậu ± CT ngực áp-xe nội tạng thường gặp ở lách, gan, tuyến tiền liệt • Thận, tuyến thượng thận và ngoại tâm mạc đôi khi cũng bị ảnh hưởng. • Thỉnh thoảng cũng xảy ra phình mạch ở động mạch chủ bụng dạng nấm và động mạch khác.[57] [58] Nổi hạch bạch huyết trung thất gợi ý phơi nhiễm với không khí do hít phải.[8] Siêu âm bụng/ chậu hình dạng 'tổ ong' (áp-xe nội ) ở lách và gan • Nếu không thể thực hiện CT và để tránh chiếu xạ CT ở trẻ em và phụ nữ trẻ tuổi, bạn có thể áp dụng phương pháp thay thế là siêu âm bụng và khung chậu. • Gan có hình dạng như ‘tổ ong’ và có nhiều áp-xe nhỏ, rời rạc ở các nội tạng (cả gan và lách) chứng tỏ bệnh nhân bị bệnh melioidosis.[57] [58] Các xét nghiệm khác cần cân nhắc Xét nghiệm Kết quả Lấy dịch họng trong/trên môi trường canh/ Ashdown chọn lọc dương tính đối với B pseudomallei • Đôi khi có thể là mẫu dương tính duy nhất. Độ nhạy xấp xỉ 80% so với đờm.[52]B pseudomallei không phải là một vi khuẩn hội sinh. Phân lập từ mọi bệnh phẩm lâm sàng đều mang tính chẩn đoán. Lấy dịch trực tràng trong/trên môi trường canh/ Ashdown chọn lọc dương tính đối với B pseudomallei • Hiếm khi là mẫu duy nhất cho kết quả dương tính. Nuôi cấy CSF thường âm tính (số lượng vi khuẩn thấp) • Trong các ca bệnh viêm não tủy.[16] Soi hiển vi CSF, protein và glucose protein và bạch cầu tăng (chủ yếu là tế bào lympho) • Trong các ca bệnh viêm não tủy.[16] Các xét nghiệm giai đoạn đầu CHẨN ĐOÁN Xét nghiệm Kết quả Xét nghiệm phát hiện kháng nguyên nhanh có thể dương tính • Hiện đang được đánh giá.[62] [63] • Như với PCR, tính đặc hiệu và giá trị dự đoán dương tính đều cao, nhưng các xét nghiệm âm tính cũng không thể loại trừ khả năng lây nhiễm. 16 Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  17. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán Chẩn đoán khác biệt Tình trạng Các dấu hiệu/triệu chứng Các xét nghiệm khác biệt khác biệt Lao phổi • Bệnh nhân mắc bệnh • Nuôi cấy đờm bằng nhuộm trực melioidosis phổi mạn tính khuẩn kháng axít: dương tính. thường bị chẩn đoán sai là bệnh • Có thể quan sát thấy khoang lao 'soi đờm âm tính'.[50] trên phim X-quang ngực, nhưng • Cả hai trường hợp nhiễm trùng khó phân biệt được bệnh qua X- đều phổ biến hơn khi mắc tiểu quang; các đỉnh thường bị ảnh đường. hưởng hơn. • Bệnh nhân thường không khỏe, nhưng ít mang tính toàn thân hơn những người bị bệnh melioidosis phổi mạn tính. Viêm phổi • Không có dấu hiệu hoặc triệu • Nuôi cấy máu, đờm, nước tiểu chứng phân biệt đặc hiệu. và mủ: dương tính với các loại • Không đáp ứng với các phác đồ vi khuẩn thường gặp khác như điều trị dùng kháng sinh theo Streptococcus pneumoniae, kinh nghiệm có thể là dấu hiệu Staphylococcus aureus, chứng tỏ mắc bệnh melioidosis. Escherichia coli,Pseudomonas aeruginosa và Salmonella typhi. Nhiễm khuẩn huyết • Không có dấu hiệu hoặc triệu • Nuôi cấy máu, đờm, nước tiểu chứng phân biệt đặc hiệu. và mủ: dương tính với các loại • Không đáp ứng với các phác đồ vi khuẩn thường gặp khác như điều trị dùng kháng sinh theo Streptococcus pneumoniae, kinh nghiệm có thể là dấu hiệu Staphylococcus aureus, chứng tỏ mắc bệnh melioidosis. Escherichia coli,Pseudomonas aeruginosa và Salmonella typhi. Bệnh leptospira • Không có dấu hiệu hoặc triệu • Huyết thanh học (xét nghiệm chứng phân biệt đặc hiệu. đông kết vi mô): dương tính CHẨN ĐOÁN • Hiểu biết vùng miền ở các vùng đối với bệnh nhiễm trùng xoắn lưu hành dịch bệnh melioidosis leptospira. có thể giúp ích cho du khách sau • Xét nghiệm phản ứng chuỗi khi trở về. polymerase: dương tính đối • Một bệnh nhân đôi khi có thể với bệnh nhiễm trùng xoắn đồng mắc hai 'bệnh nhiễm trùng leptospira. nhiệt đới'.[48] Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. 17 Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  18. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán Tình trạng Các dấu hiệu/triệu chứng Các xét nghiệm khác biệt khác biệt Sốt Dengue • Không có dấu hiệu hoặc triệu • Giảm bạch cầu và giảm tiểu chứng phân biệt đặc hiệu. cầu là các tình trạng thường • Hiểu biết vùng miền ở các vùng gặp, nhưng cũng có thể xảy ra lưu hành dịch bệnh melioidosis ở trường hợp bị nhiễm khuẩn có thể giúp ích cho du khách sau huyết meliodosis quá . khi trở về. • PCR huyết thanh: dương tính • Một bệnh nhân đôi khi có thể đối với vi-rút dengue ở giai đồng mắc hai 'bệnh nhiễm trùng đoạn đầu khi bị bệnh. nhiệt đới'.[48] • Xét nghiệm chẩn đoán nhanh kháng nguyên NS-1 có độ nhạy tốt. IgM có độ nhạy tốt, nhưng một số đánh giá chỉ ra độ đặc hiệu kém. • Phân lập vi-rút bằng nuôi cấy mô là phương pháp ít gặp hơn. Bệnh sốt rét • Không có dấu hiệu hoặc triệu • Tiêu bản máu đặc và máu đàn chứng phân biệt đặc hiệu. nhuộm Giemsa: dương tính đối • Hiểu biết vùng miền ở các vùng với các chủng Plasmodium. lưu hành dịch bệnh melioidosis • Xét nghiệm chẩn đoán nhanh: có thể giúp ích cho du khách sau dương tính đối với các chủng khi trở về. Plasmodium. • Một bệnh nhân đôi khi có thể đồng mắc hai 'bệnh nhiễm trùng nhiệt đới'.[48] Nhiễm rickettsia (bao gồm • Không có dấu hiệu hoặc triệu • Có khả năng bị giảm bạch cầu bệnh sốt mò) chứng phân biệt đặc hiệu. và/hoặc LFT bất thường. • Hiểu biết vùng miền ở các vùng • Xét nghiệm huyết thanh dương lưu hành dịch bệnh melioidosis tính, nhưng kết quả sẽ không có thể giúp ích cho du khách sau sẵn có ở thời gian thực. khi trở về. • Một bệnh nhân đôi khi có thể CHẨN ĐOÁN đồng mắc hai 'bệnh nhiễm trùng nhiệt đới'.[48] Nhiễm amip • Các dấu hiệu nhiễm khuẩn • Siêu âm: tổn thương hình tròn huyết ít nổi bật hơn. hoặc hình trái xoan giảm âm đồng nhất. • CT: tổn thương hình tròn, rõ ràng, tỉ trọng thấp; thành mạch thường tăng sáng khi có chất cản quang. Các tiêu chí chẩn đoán Nuôi cấy Burkholderia pseudomallei Bắt buộc để xác định bệnh melioidosis.[8] [56] Bệnh melioidosis dạng hít phải Tiêu chuẩn của bệnh melioidosis do hít phải[67] 18 Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  19. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Chẩn đoán Nhóm chẩn đoán này cung cấp thông tin xác định tập trung hơn cho nghiên cứu liên quan đến mối đe dọa sinh học và để phát triển hướng dẫn về cách phản ứng khẩn cấp sau khi cố ý phóng thích. Phải đáp ứng tất cả 5 tiêu chí để thực hiện chẩn đoán. 1. Xuất hiện các triệu chứng hô hấp (như ho, khó thở, đau ngực do viêm màng phổi) trong 4 tuần trước. 2. Bị nhiễm trùng máu, được xác định bởi 2 hay nhiều dấu hiệu: thân nhiệt 38°C, nhịp tim >90 lần một phút, nhịp thở >20 lần một phút, và số lượng bạch cầu 12 × 10^9 tế bào/L hoặc >10% hình thái dải băng (tế bào bạch cầu chưa trưởng thành). 3. Bằng chứng thâm nhiễm phế nang trên ảnh chụp x-quang ngực trong vòng 48 giờ kể từ khi nhập viện. Trong trường hợp có dữ liệu chụp x-quang trước đây của bệnh nhân, thâm nhiễm cần phải mới (không xuất hiện trên ảnh chụp x-quang trước đây). 4. Không có bằng chứng thương tổn qua vết thương da trong hoàn cảnh thích hợp (đất bị nhiễm bẩn, bùn, nước bề mặt đọng vũng ở vùng lưu hành dịch, hoặc thương tổn chỗ kim chích với nuôi cấy đơn thuần) và bằng chứng về điều kiện phơi nhiễm qua đường hô hấp (như thời tiết gần đây khắc nghiệt, hít phải nước bề mặt, hoặc phơi nhiễm B pseudomallei trong không khí). 5. Phân lập B pseudomallei từ bất kỳ phần cơ thể nào được vô trùng hoặc không vô trùng. CHẨN ĐOÁN Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. 19 Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
  20. Bệnh melioidosis và bệnh glanders Điều trị Cách tiếp cận điều trị từng bước Tỷ lệ tử vong ở melioidosis không được điều trị kháng sinh đặc hiệu có thể >50% và >90% nếu bệnh nhân bị sốc nhiễm khuẩn. Ngay cả khi được dùng kháng sinh thích hợp, sự chậm trễ trong chẩn đoán và thiếu can thiệp điều trị chăm sóc tích cực hiện đại cũng gắn với tỷ lệ tử vong vào khoảng 40% ở nhiều vùng lưu hành dịch. Ưu tiên ở các vùng lưu hành dịch bệnh melioidosis đó là có phòng thí nghiệm vi sinh học thích hợp (quan trọng nhất là khả năng cấy máu) để cho phép chẩn đoán kịp thời bằng nuôi cấy và nhận biết Burkholderia pseudomallei. Sau khi chẩn đoán, chia liệu pháp điều trị kháng sinh thành giai đoạn tiêm tĩnh mạch tích cực, sau đó là giai đoạn tiệt căn bằng đường uống. Liệu pháp điều trị bệnh glanders ở người thực hiện tương tự như đối với bệnh melioidosis. Ở một số vùng lưu hành dịch, bệnh melioidosis và bệnh glanders được pháp luật quy định là bệnh cần khai báo nên phải được báo cáo với cơ quan y tế có thẩm quyền ở địa phương. Hiện nay, ở các vùng không lưu hành dịch, quy định này cũng trở thành một yêu cầu chung sau khi cân nhắc khả năng những vi khuẩn này được sử dụng làm tác nhân đe dọa sinh học; ở Mỹ, cả Burkholderia mallei và B pseudomallei đều được phân loại là tác nhân chọn lọc Cấp 1.[5] Điều trị kháng sinh tích cực Nên tiến hành điều trị kháng sinh qua tĩnh mạch bằng ceftazidime, meropenem hoặc imipenem/cilastatin.[8] [31] [68] [69] [70] Ở những bệnh nhân có tụ mủ (bao gồm áp-xe/loét da và áp-xe ở nội tạng), và ở nhiễm trùng xương/khớp, niệu sinh dục và nhiễm trùng CNS (nhưng không phải do viêm phổi), có thể bổ sung trimethoprim/sulfamethoxazole đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch (nếu có).[8] [71] Nên cân nhắc kết hợp sử dụng folic acid khi cho dùng trimethoprim/ sulfamethoxazole liều cao trong một thời gian dài để giảm khả năng tác dụng phụ liên quan đến tác động kháng folate của thuốc (ví dụ: độc đối với tủy xương).[8] Thời gian điều trị được xác định qua mức độ nặng và các đặc điểm lâm sàng.[8] [68] Thời gian tối thiểu là 10 đến 14 ngày và nên kéo dài đến 4 tuần nếu: • Viêm phổi cần phải vào đơn vị chăm sóc tích cực, hoặc viêm phổi đi kèm với nổi hạch bạch huyết trung thất hoặc tn thương X-quang ngực lan toả 2 bên. • Có áp-xe nội tạng, viêm khớp nhiễm khuẩn hay các tình trạng tụ mủ nằm sâu trong nội tạng khác, với thời gian 4 tuần được tính từ lần hút dịch cuối cùng (ví dụ như với áp-xe tuyến tiền liệt hoặc viêm khớp nhiễm khuẩn). Nên kéo dài khoảng thời gian này đến 6 tuần (tối thiểu) nếu có viêm tủy xương. Nên kéo dài khoảng thời gian này đến 8 tuần nếu bệnh nhân mắc bệnh melioidosis thần kinh hoặc phình mạch dạng nấm. Trong môi trường thiếu nguồn lực, bạn có thể không kéo dài được việc điều trị, nhưng vẫn khuyến cáo nên tiến hành điều trị tích cực trong tối thiểu 10-14 ngày.[69] [72] Trong trường hợp này, điều quan trọng là phải hoàn thành đầy đủ phác đồ liệu pháp điều trị iệt căn hoàn toàn qua đường uống. Liệu pháp tiệt căn ĐIỀU TRỊ Trimethoprim/sulfamethoxazole dạng uống là lựa chọn điều trị.[8] [31] [68] [69] [70] [73] [74] Nên cân nhắc kết hợp sử dụng folic acid khi cho dùng trimethoprim/sulfamethoxazole liều cao trong một thời gian dài để giảm khả năng tác dụng phụ liên quan đến tác động kháng folate của thuốc (ví dụ: độc đối với tủy xương).[8] Tuy nhiên, ức chế tủy xương, phát ban và tăng kali máu và creatinine tăng thường gặp ở bệnh nhân mắc bệnh melioidosis được điều trị 20 Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018. Các chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải tuân thủ tuyên bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
23=>2