Bệnh melioidosis
và bệnh glanders
Thông tin lâm sàng chính xác ngay ti nơi cn thiết
Cập nhật lần cuối: May 29, 2018
Mục Lục
Tóm tắt 3
Thông tin bản 4
Định nghĩa 4
Dịch tễ học 4
Bệnh căn học 5
Sinh lý bệnh học 6
Phân loại 6
Phòng ngừa 8
Nn ngừa cấp 8
Nn ngừa thứ cấp 8
Chẩn đoán 10
Tiền sử ca bệnh 10
Cách tiếp cận chẩn đoán từng bước 11
Các yếu tố nguy 13
Các yếu tố về tiền sử và thăm khám 14
Xét nghiệm chẩn đoán 15
Chẩn đoán khác biệt 17
Các tiêu chí chẩn đoán 18
Điều trị 20
Cách tiếp cận điều trị từng bước 20
Tổng quan về c chi tiết điều trị 21
Các lựa chọn điều trị 23
Liên lạc theo i 28
Khuyến nghị 28
Các biến chứng 28
Tiên lượng 29
Hướng dẫn 31
Hướng dẫn chẩn đoán 31
Hướng dẫn điều trị 31
Nguồn trợ giúp trực tuyến 32
Tài liệu tham khảo 33
Hình ảnh 38
Tuyên bố miễn trách nhiệm 41
Tóm tắt
Bệnh melioidosis có đặc trưng là sốt, viêm phổi và các áp-xe, mức độ bệnh trải rộng từ các nhiễm trùng nhẹ, khu
trú cho đến nhiễm bệnh lan tỏa gây nhiễm trùng huyết nguy hiểm nhanh chóng. Bệnh glanders hiếm khi xảy ra ở
người.
Việc chẩn đoán melioidosis là một thách thức vì nó giống với nhiều bệnh lý khác, nhất là bệnh lao. Việc chẩn
đoán cả hai bệnh cần phải có dấu hiệu nghi ngờ cao từ biểu hiện lâm sàng, và phải được xác định bằng ni cấy
B pseudomallei hoặc B mallei.
Điều trị kháng sinh tiêm tĩnh mạch tích cực là liệu pháp chính ở hầu hết các bệnh nhân và có thể bắt buộc thực
hiện trong nhiều tuần, tùy theo bệnh cảnh lâm sàng. Sau đó là liệu pháp tiệt căn bằng đường uống tối thiểu 3
tháng để giảm nguy cơ tái phát.
Tỷ lệ tử vong liên quan đến melioidosis vẫn lên đến 50% tại nhiều khu vực lưu hành dịch, nhưng thấp bằng 10%
nếu được chẩn đoán kịp thời, sử dụng thuốc kháng sinh thích hợp, và cm sóc hỗ trợ tích cực hiện đại.
Bệnh melioidosis và bệnh glanders Thông tin cơ bản
THÔNG TIN CƠ BẢN
Định nghĩa
Cả hai bệnh lý đều do vi khuẩn thuộc chi Burkholderia gây ra và biểu hiện với nhiều triệu chứng tương tự, có đặc trưng
là sốt, viêm phổi và các áp-xe, mặc dù mức độ nặng trải rộng từ nhiễm trùng nhẹ, khu trú cho đến lây nhiễm lan tỏa gây
nhiễm trùng huyết nguy hiểm nhanh chóng.
Bệnh melioidosis, hay còn gọi là bệnh Whitmore, bệnh của người làm vườn ở Nightcliff, bệnh glanders giả, hoặc 'Bom
hẹn giờ ở Việt Nam', do vi khuẩn Burkholderia pseudomallei gây ra. Vi khuẩn này là thực vật hoại sinh có trong đất và
nước trong các vùng nhiệt đới, nhất là đông nam Á và bắc Úc. Con người và loài vật khác bị nhiễm bệnh do phơi nhiễm
với vi khuẩn này trong môi trường.[1]
Bệnh glanders do vi khuẩn Burkholderia mallei gây ra. Đây là họ hàng gần gũi của B pseudomallei đã thích nghi với cuộc
sống như là mầm bệnh chuyên biệt của giống ngựa (ví dụ như ngựa, lừa, và la).[2] Đôi khi bệnh lý này lây truyền sang
người qua đường tiếp xúc với mô hoặc dịch cơ thể của động vật nhiễm bệnh. Trước đây bệnh glanders ở người xảy ra rải
rác ở những người làm việc với ngựa (như người chải lông ngựa và bác sĩ thú y), nhưng kể từ khi bệnh glanders ở ngựa
được kiểm soát và xã hội ít phụ thuộc vào ngựa hơn, thì bệnh glanders ở người đã gần như biến mất hoàn toàn. Trong tài
liệu nghiên cứu suốt 60 năm qua, chỉ có một ca bệnh được ghi nhận mắc phải ở phòng thí nghiệm.[3]
Cả hai loại vi khuẩn đều được xem là vũ khí sinh học tiềm năng, và glanders được các đặc vụ Đức chủ ý sử dụng trong
Thế Chiến I.[4] Chúng được phân loại là tác nhân chọn lọc Cấp 1 ở Mỹ.[5]
Dịch tễ học
Từ trước đến nay, người ta thường cho rằng bệnh melioidosis là một bệnh của vùng Đông Nam Á và bắc Úc, nhưng trong
hơn 20 năm qua, bệnh ngày càng xuất hiện nhiều ở các vùng nhiệt đới, bao gồm tiểu lục địa Ấn Độ, khu vực Châu Phi
ng cận Sahara, Trung và Nam Phi và Caribê.[19] Số lượng ca bệnh lớn nhất được ghi nhận từ Thái Lan (đặc biệt là ở
ng đông bắc), Malaysia, Singapore và bắc Úc. Tuy nhiên, kết quả mô hình hóa gợi ý rằng tình trạng bệnh không được
chẩn đoán đầy đủ ở hầu hết trong số 45 quốc gia được xác định là có lưu hành dịch, và thậm chí bệnh còn xuất hiện ở 34
quốc gia khác nơi chưa từng có ghi nhận ca bệnh, gây ra 165.000 ca nhiễm bệnh và 89.000 ca tử vong mỗi năm trên khắp
toàn cầu.[20] Ở các vùng không lưu hành dịch vẫn thường có một số ít ca bệnh du nhập từ nước ngoài vào.[21]
Trong vùng lưu hành dịch, bệnh chủ yếu ảnh hưởng tới những người thường xun tiếp xúc với đất và nước (ví dụ như
nông dân làm ruộng ở Đông Nam Á và thổ dân ở Úc), mặc dù kể cả những người không tiếp xúc trực tiếp rõ ràng với
i trường cũng có thể bị nhiễm. Một trong những lý do chính mà số lượng ca bệnh không được chẩn đoán đầy đủ là
vì người dân nông thôn nghèo ở vùng nhiệt đời thường hiếm có điều kiện tiếp cận các phòng thí nghiệm vi sinh học
để xác định chẩn đoán. Ở hầu hết mọi nơi, bệnh có tính mùa vụ cao, đạt đỉnh vào mùa mưa tương ứng với thời gian có
nhiều khả năng phơi nhiễm nhất. Bệnh xảy ra trong mọi nhóm tuổi, tương đối hay gặp ở nhóm trẻ nhỏ, nhiều trẻ có biểu
hiện nhiễm trùng khu trú, tương đối nhẹ,[10] và phổ biến hơn ở nhóm người trưởng thành từ 40 đến 70 tuổi.[7] [22]
nhóm người trưởng thành, có khoảng 55 đến 80% bệnh nhân có bệnh nền khiến họ dễ bị bệnh melioidosis, đặc biệt là
tiểu đường; bệnh thận, gan hoặc phổi mạn tính; uống quá nhiều rượu hoặc ăn uống vô độ; sử dụng corticosteroid; hoặc
bệnh thiếu máu huyết tán. Nhiễm HIV không có vẻ như làm tăng nguy cơ mắc bệnh melioidosis, mặc dù đôi khi cũng có
trường hợp ghi nhận đồng nhiễm. Tiểu đường dường như có ln quan đặc biệt chặt chẽ với nguy cơ nhiễm bệnh này, vì
lý do mà chưa được hiểu rõ ràng, nhưng bệnh melioidosis có thể thường gặp hơn do tỷ lệ lưu hành bệnh tiểu đường đang
tăng cao ở vùng nhiệt đới. Nam giới thường hay bị ảnh hưởng hơn nữ giới, mặc dù tỷ lệ khác nhau tùy từng nơi, phản
ánh sự khác biệt về văn hóa làm ảnh hưởng tới khả năng phơi nhiễm với đất và nước.
Bệnh glanders là một loại bệnh chỉ thực sự trở thành vấn đề nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng trong hơn 100
m, kể từ thời điểm bệnh lần đầu được mô tả vào năm 1812 cho tới khi những ca bệnh mắc tự nhiên cuối cùng được ghi
nhận vào những năm 1940 và 1950 ở Mỹ và Châu Âu. Tuy nhn, bệnh glanders ở ngựa vẫn xảy ra ở nhiều nơi tại Châu
4Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này
dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018.
c chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và
bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải
tuân thủ tun bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
Bệnh melioidosis và bệnh glanders Thông tin cơ bản
Phi, Châu Á, Trung Đông và Trung và Nam Mỹ. Tình trạng nhiễm bệnh mắc phải ở phòng thí nghiệm cũng có thể xảy ra,
vậy nên vẫn có khả năng bị mắc bệnh glanders ở người.[23]
Tính đặc hữu của tình trạng nhiễm bệnh melioidosis
CDC
Bệnh căn học
Burkholderia mallei (glanders) và Burkholderia pseudomallei (melioidosis) là trực khuẩn gram âm, oxidase dương tính,
thuộc chi Burkholderia. Cng phát triển khá dễ dàng trong môi trường nuôi cấy thường qui, mặc dù B mallei không
mạnh bằng B pseudomallei. Có thể cần một môi trường chọn lọc để phân lập các vi khuẩn từ các vùng có hệ khuẩn bình
thường. Thỉnh thoảng những người bất cẩn vứt bỏ chúng như là chất nhiễm bẩn, mặc dù quy luật nhạy đặc trưng (đề
kháng với aminoglycosides và polymyxins nhưng nhạy với amoxicillin/clavulanic acid) có trong hầu hết B pseudomallei. B
mallei thường nhạy với gentamicin. Đã có báo cáo về B pseudomallei cho thấy nhạy với gentamicin ở một vùng địa lý đặc
hiệu, nhưng không thường xảy ra ở nơi khác.[24]
Có ý kiến cho rằng thường mắc phải bệnh melioidosis do chích phải các vi khuẩn trong môi trường (ví dụ như qua vết
thương ở da bị mắc phải trong khi làm việc trên cánh đồng lúa), nhưng có bằng chứng dịch tễ cho thấy rằng cũng có thể
mắc phải bệnh lý này qua đường hô hấp trong trường hợp mưa lớn và thời tiết khắc nghiệt.[25] [26] Uống nước nhiễm
bẩn cũng có thể là nguồn nhiễm bệnh mà trước đây chưa được ghi nhận đầy đủ, nhất là ở Đông Nam Á.[27] Trên thực tế,
thường rất khó xác định chính xác thời gian, địa điểm và cách thức nhiễm bệnh, nhất là khi con người thường xuyên phơi
nhiễm với vi khuẩn trong môi trường, và vì thời gian ủ bệnh có thể biến thiên, một điểm đặc trưng mà dựa vào đó có tên
'bom hẹn giờ ở Việt Nam'.[28]
THÔNG TIN CƠ BẢN
Bản PDF chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) này
dựa trên phiên bản trang mạng được cập nhật lần cuối vào: May 29, 2018.
c chủ đề BMJ Best Practice (Thực tiễn Tốt nhất của BMJ) được cập nhật thường xuyên và
bản mới nhất của các chủ đề này có trên bestpractice.bmj.com . Việc sử dụng nội dung này phải
tuân thủ tun bố miễn trách nhiệm. © BMJ Publishing Group Ltd 2019. Giữ mọi bản quyền.
5
hinhanhykhoa.com