
http://www.ebook.edu.vn 37
CHƯƠNG II
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ HỘ KINH DOANH
Th.s Trần Hòang Nga
1 Doanh nghiệp tư nhân
1.1 Khái niệm và đặc điểm:
1.1.1 Khái niệm:
Ở Việt Nam, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
mới được pháp luật chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi Luật
Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty được thông qua. Cũng từ
đó, thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” được sử dụng và biết đến
ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, trong thực tế vẫn
có những trường hợp hiểu nhầm về nội hàm của khái niệm này.
Phổ biến nhất là tình trạng sử dụng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư
nhân” để chỉ một (hoặc các) doanh nghiệp “thuộc thành phần kinh
tế tư nhân”. Và như vậy, những người nhầm lẫn đã dùng thuật ngữ
“Doanh nghiệp tư nhân” như là một đối trọng để phân biệt với
“Doanh nghiệp Nhà nước” – doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế nhà nước. Dùng thuật ngữ “Doanh nghiệp tư nhân” như là cách
gọi vắn tắt của “Doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân”
là không chính xác. Chúng ta nên sử dụng một thuật ngữ khác phù
hợp hơn để chỉ những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
nhân, đó là “Doanh nghiệp dân doanh”, vì thực ra, từ buổi đầu
được qui định ở Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, cho đến Luật
Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 hiện hành, Doanh
nghiệp tư nhân luôn là một trong những hình thức đặc trưng về tổ
chức kinh doanh mà cá nhân muốn đầu tư có thể lựa chọn. Về bản
chất, Doanh nghiệp tư nhân được pháp luật về doanh nghiệp ở Việt

http://www.ebook.edu.vn 38
Nam qui định tương tự như Doanh nghiệp cá nhân (Sole
Proprietorship) ở các nước khác.1 Và như vậy, Doanh nghiệp tư
nhân chỉ là một loại hình doanh nghiệp đặc thù thuộc thành phần
kinh tế tư nhân mà thôi.
Theo Khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005, “Doanh nghiệp
tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp”. Đây là một khái niệm ngắn gọn giúp chúng ta phân biệt
Doanh nghiệp tư nhân với các hình thức tổ chức kinh doanh khác.
Các yếu tố cơ bản tạo nên khái niệm này và cũng là những đặc
điểm quan trọng nhất, đó là “loại hình”, “chủ sở hữu” và “chế độ
trách nhiệm”
2. Đặc điểm:
Trên cơ sở khái niệm Doanh nghiệp tư nhân và các qui định khác
của Luật Doanh nghiệp 2005, chúng ta có thể rút ra những đặc
điểm pháp lý cơ bản của hình thức tổ chức kinh doanh này, bao
gồm:
i. Loại hình: Đây là một doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân có đầy đủ các dấu hiệu của một doanh
nghiệp như nêu tại Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 và
tham gia kinh doanh bình đẳng như mọi doanh nghiệp khác trong
nền kinh tế thị trường. Với tư cách là một doanh nghiệp, Doanh
nghiệp tư nhân được thừa nhận là một đơn vị kinh doanh độc lập ,
có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh
doanh trong khuôn khổ pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân được
hưởng những qui chế pháp lý chung cho các doanh nghiệp tại Việt
Nam, mà trong nhiều trường hợp là khác biệt so với các chủ thể
kinh doanh không phải doanh nghiệp.

http://www.ebook.edu.vn 39
i. Chủ sở hữu: Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân bỏ vốn
ra thành lập và làm chủ
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp một chủ. Giống
như Công ty nhà nước và Công ty TNHH một thành viên, Doanh
nghiệp tư nhân do một chủ thể đứng ra thành lập. Chủ thể này
dùng tài sản của mình đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, không có sự liên kết và chia sẻ với bất cứ ai khác. Trong
Doanh nghiệp tư nhân không có sự hùn vốn, không có sự liên kết
của nhiều thành viên. Là người duy nhất đầu tư vốn thành lập nên
chủ Doanh nghiệp tư nhân cũng là người duy nhất có quyền định
đoạt các vấn đề tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Cần phân biệt tính tổ chức liên kết hợp tác dưới giác độ
chủ sở hữu với tính tổ chức trong nội bộ doanh nghiệp. Dù một
chủ, Doanh nghiệp tư nhân vẫn là đơn vị kinh doanh mang tính
chất một tổ chức, trong đó có người quản lý điều hành, có người
lao động làm công, v.v.. Chính vì vậy Doanh nghiệp tư nhân vẫn
thỏa mãn dấu hiệu cơ bản đầu tiên của một doanh nghiệp nói
chung: bản thân Doanh nghiệp tư nhân là “một tổ chức kinh tế”.
Tuy nhiên, khác với Công ty nhà nước do cơ quan nhà nước thành
lập, Công ty TNHH một thành viên do một tổ chức hoặc một cá
nhân thành lập làm chủ, trong Doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu
chỉ có thể là một cá nhân. Cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là
người sử dụng tài sản đồng thời cũng là người quản lý hoạt động
của doanh nghiệp. Đối tượng có quyền thành lập Doanh nghiệp tư
nhân là mọi cá nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài trừ những
trường hợp qui định tại tiết b, c, d, đ, e và g, khoản 2 điều 13 Luật
Doanh nghiệp 2005.
Giữa Doanh nghiệp tư nhân và cá nhân người chủ sở hữu có mối
quan hệ lệ thuộc và gắn bó rất chặt chẽ. Doanh nghiệp tư nhân chỉ
có duy nhất một cá nhân cụ thể là chủ sở hữu, nếu có sự thay đổi
từ cá nhân này sang cá nhân khác thì Doanh nghiệp tư nhân đó về

http://www.ebook.edu.vn 40
bản chất phải chấm dứt sự tồn tại, như trong trường hợp bán
Doanh nghiệp tư nhân, người mua doanh nghiệp phải đăng ký kinh
doanh lại. Nếu có sự thay đổi về số lượng chủ sở hữu thì Doanh
nghiệp tư nhân đó cũng phải chấm dứt sự tồn tại. Cá nhân chủ
Doanh nghiệp tư nhân mà chết, mất tích hoặc rơi vào các trường
hợp bị cấm thành lập quản lý doanh nghiệp (không còn chủ sở hữu
đủ điều kiện) thì Doanh nghiệp tư nhân phải giải thể. Trường hợp
chủ Doanh nghiệp tư nhân chết, người thừa kế (nếu có) chỉ được
hưởng thừa kế về tài sản chứ không được thừa kế tư cách chủ sở
hữu Doanh nghiệp tư nhân. Nếu chỉ có một người thừa kế và người
này muốn tiếp tục duy trì khai thác khối tài sản trong doanh nghiệp
bằng hoạt động kinh doanh dưới hình thức Doanh nghiệp tư nhân
thì phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại. Nếu số lượng chủ sở
hữu tăng lên hơn một, thì phải làm thủ tục chuyển đổi Doanh
nghiệp tư nhân sang hình thức Công ty TNHH 2 thành viên trở
lên.2 Ngược lại, một cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp
tư nhân.3 Theo quan điểm truyền thống về loại hình Doanh nghiệp
tư nhân thì không có sự phân biệt về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ
giữa cá nhân người chủ và doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân là
đại diện trực tiếp không thể tách rời cho cá nhân chủ sở hữu với tư
cách một chủ thể kinh doanh. Do đó, ở bất cứ thời điểm nào, mỗi
cá nhân chỉ có thể làm chủ một Doanh nghiệp tư nhân. Khi nào
Doanh nghiệp tư nhân đó chưa chấm dứt sự tồn tại về mặt pháp lý
thì cá nhân không thể đăng ký làm chủ một Doanh nghiệp tư nhân
khác.
i. Chế độ trách nhiệm: Doanh nghiệp tư nhân có chế độ trách
nhiệm vô hạn
Hay nói theo cách của Khoản 1 Điều 141 là “cá nhân (chủ Doanh
nghiệp tư nhân) tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về mọi hoạt động của doanh nghiệp”, trong đó có cả những tài sản
mà người này đầu tư và kinh doanh trong doanh nghiệp và những
tài sản không đưa vào kinh doanh. Khi hoạt động của doanh

http://www.ebook.edu.vn 41
nghiệp làm phát sinh các khoản nợ thì chủ doanh nghiệp có trách
nhiệm lấy tài sản của mình, không phân biệt là tài sản doanh
nghiệp hay tái sản khác trong khối tài sản riêng của mình , để trả
cho các chủ nợ. Truyền thống pháp lý về Doanh nghiệp tư nhân
luôn qui định cho doanh nghiệp này chế độ trách nhiệm vô hạn, do
trong doanh nghiệp không có sự tách bạch giữa tài sản đầu tư kinh
doanh và tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Tùy thuộc vào nhu
cầu hoặc ý chí của cá nhân chủ doanh nghiệp, người này có thể lấy
tài sản của mình đầu tư thêm phục vụ hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp hoặc ngược lại rút tài sản trong doanh nghiệp để tiêu
dùng, sinh hoạt hay đầu tư vào nơi khác. Khi lựa chọn kinh doanh
dưới hình thức Doanh nghiệp tư nhân có nghĩa là nhà đầu tư chọn
mô hình mà quyền tự quyết của chủ sở hữu được thừa nhận tối đa.
Pháp luật không yêu cầu chủ Doanh nghiệp tư nhân phải chuyển
quyền sở hữu đối với tài sản đầu tư vào kinh doanh cho doanh
nghiệp mà chỉ cần đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về số vốn mình đầu tư. Bất cứ lúc nào trong quá trình doanh
nghiệp tồn tại, chủ Doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm
vốn đầu tư, chỉ phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh trong
trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng ký.4 Chủ doanh
nghiệp cũng có toàn quyền quyết định về việc sử dụng lợi nhuận
sau thuế của doanh nghiệp.5 Do đó không ai khác ngoài chủ Doanh
nghiệp tư nhân có thể kiểm soát việc dịch chuyển qua lại giữa hai
bộ phận trong khối tài sản của mình. Điều này tiềm ẩn một nguy
cơ đe dọa lợi ích xã hội và các đối tác của doanh nghiệp nếu không
có cơ chế thích hợp về vấn đề chịu rủi ro. Do đó, pháp luật đã xác
lập chế độ trách nhiệm vô hạn như là một bảo đảm cơ bản cho xã
hội. Cá nhân lựa chọn hình thức Doanh nghiệp tư nhân cũng đồng
thời phải chấp nhận gánh chịu toàn bộ các rủi ro xảy đến cho
doanh nghiệp, theo đó nếu như tài sản mà người đó đầu tư vào
doanh nghiệp không đủ trả nợ thì người đó phải dùng tài sản khác
còn lại của mình để trả nợ. Mô hình Doanh nghiệp tư nhân trao
quyền rộng rãi cho cá nhân chủ doanh nghiệp, đồng thời thiết lập
cơ chế ràng buộc trách nhiệm tài sản ở mức tối đa. Qui định như

