BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ:

THẦN KINH HỌC:

XƠ CỘT BÊN TEO CƠ

1

MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ:

Sau khi học xong chuyên đề “Thần kinh học: Xơ cột bên teo cơ”,

người học nắm được những kiến thức có liên quan đến bệnh này như:

Bệnh căn, bệnh sinh và tổn thương bệnh lý; Triệu chứng lâm sàng của

bệnh; Khám xét cận lâm sàng: xét nghiệm dịch não tủy, điện cơ, xét

nghiệm máu và nước tiểu, sinh tiết cơ; Chẩn đoán xác định và chẩn đoán

phân biệt bệnh; Điều trị bệnh Xơ cột bên teo cơ.

2

NỘI DUNG

I. ĐẠI CƢƠNG

Bệnh xơ cột bên teo cơ - bệnh Charcot (amyotrophic lateral sclerosis)

được Charcot mô tả lần đầu tiên vào năm 1869. Đây là một bệnh thoái hoá

thần kinh, tiến triển mạn tính với đặc điểm lâm sàng chủ yếu là: teo cơ, rung

giật các sợi cơ và kèm theo hội chứng bệnh lý bó tháp, do tổn thương các

nơron vận động ngoại vi kết hợp với tổn thương hệ tháp, không giảm hoặc

mất cảm giác.

Tỷ lệ người mắc bệnh xơ cột bên teo cơ trên thế giới khoảng 1,4 người

trên 100.000 dân số. Bệnh gặp ở nam giới nhiều gấp 2 lần nữ giới, tuổi xuất

hiện nhiều nhất ở khoảng từ 40 - 59, tuy nhiên bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa

tuổi.

II. BỆNH CĂN, BỆNH SINH VÀ TỔN THƢƠNG BỆNH LÝ

1. Bệnh căn

Nguyên nhân gây bệnh hiện nay vẫn chưa được xác định rõ. Ở nhiều

bệnh nhân vẫn không tìm ra được một căn nguyên ngoại sinh nào. Có một số

trường hợp có xuất hiện bệnh ở nhiều người trong gia đình ở một hay nhiều

thế hệ. Ở một số bệnh nhân, xuất hiện sau những yếu tố ngoại sinh như:

nhiễm khuẩn, chấn thương, rối loạn chuyển hoá, nhiễm độc kim loại nặng…

trong các yếu tố trên, người ta lưu ý nhiều đến viêm não tủy do virut, có

trường hợp xơ cột bên teo cơ xuất hiện kèm theo hội chứng Parkinson sau

viêm não. Nhiều trường hợp bệnh xuất hiện và tiến triển nặng dần sau chấn

thương cột sống, tủy sống, có thể gặp xơ cột bên teo cơ ở bệnh nhân bị mắc

kết hợp các bệnh khác của não tủy như: giang mai tủy sống, xơ não tuỷ rải

3

rác, u tuỷ, rỗng tủy…

Ngày nay người ta thấy có sự biến đổi gen dẫn đến các rối loạn về men

chuyển hoá, gây ứ đọng các gốc tự do như đồng, kẽm, superoxit, glutamat…

Còn có giả thuyết cho rằng đây là bệnh tự miễn dịch.

2. Tổn thƣơng bệnh lý

Khu trú của tổn thương ở bệnh xơ cột bên teo cơ là: thoái hoá các tế bào

thần kinh vận động nằm ở sừng trước tủy sống, đặc biệt là ở phình tủy cổ và

thắt lưng, các nhân dây thần kinh sọ não ở thân não: nhân dây XII, IX, X và

nhân vận động của dây V, tổn thương các đường dẫn truyền ở cột bên của tuỷ

sống, đặc biệt là bó tháp, có thể tổn thương ở các tế bào Betz nằm ở lớp thứ V

và lớp thứ III của vỏ não. Đặc điểm của tổn thương là: phản ứng viêm và

thoái hoá, các tế bào thần kinh bị thoái hoá hoặc huỷ hoại được thay bằng tổ

chức xơ, các sợi thần kinh bị thoái hoá huỷ hoại bao myelin, các đường dẫn

truyền thần kinh bị đứt đọan. Quanh các mạch máu có thâm nhiễm nhẹ các tế

bào viêm. Tiến triển của tổn thương có xu hướng lan dần lên cao, bắt đầu

thường từ phình tuỷ cổ lan dần lên hành não, cầu não và vỏ não.

III. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

1. Đặc điểm khởi phát của bệnh

Bệnh khởi phát từ từ, bắt đầu bằng triệu chứng nhẹ, chưa đầy dủ, sau đó

xuất hiện dần các triệu chứng khác với mức độ ngày càng nặng.

Khởi phát bằng yếu và teo cơ ở bàn tay và cẳng tay là thể hay gặp nhất,

chiếm khoảng 50% tổng số bệnh nhân xơ cột bên teo cơ. Lúc đầu biểu hiện

yếu sức cơ và teo cơ ở một tay, sau đó một vài tuần hoặc có thể một vài tháng

chuyển sang tay bên kia, đôi khi bệnh khởi phát cùng một lúc ở cả hai tay

nhưng mức độ không đều nhau.

4

Khởi phát bằng yếu và teo cơ ở vai và thân ít gặp.

Khởi phát bằng bại và teo cơ ở bàn chân và cẳng chân đứng sau khởi

phát ở chi trên, có thể thấy biểu hiện giống như tổn thương dây thần kinh

hông to hoặc dây thần kinh hông khoeo ngoài, nhưng đã kèm theo tăng phản

xạ gân xương và có thể thấy phản xạ bệnh lý bó tháp.

Hiếm gặp khởi phát bằng teo và bại các cơ đùi, nó chỉ thể hiện sau khi

bệnh đã tiến triển nặng.

Khởi phát bằng triệu chứng tổn thương nhân dây thần kinh XII, IX và X

biểu hiện bằng lời nói ngọng, nuốt khó, teo cơ lưỡi, gặp khoảng 1/5 số bệnh

nhân xơ cột bên teo cơ.

Khởi phát bằng rung giật các sợi cơ, các bó cơ ít gặp.

Hiếm có trường hợp khởi phát bằng co cứng tăng trương lực cơ và bằng

tăng phản xạ gân xương trước khi có giảm sức cơ và teo cơ.

2. Bảng lâm sàng đầy đủ

Khi bệnh tiến triển nặng, xuất hiện đầy đủ các triệu chứng bệnh lý như

sau:

Bại, teo cơ nhất là ở ngọn chỉ, tăng phản xạ gân xương, có phản xạ bệnh

lý bó tháp, rung giật các bó sợi cơ, sau đó có triệu chứng tổn thương nhân dây

thần kinh XII, IX và X hoặc hội chứng liệt giả hành não. Không giảm và mất

cảm giác.

+ Bại và teo cơ: thể hiện bại và teo cơ rõ nhất ở hai bàn tay, teo cơ đi

đôi với giảm sức cơ, teo cơ kiểu hội chứng Aranduchenne, bàn tay lõm, đốt I

các ngón tay thường ở tư thế duỗi. Teo cơ ở cẳng tay, cánh tay rõ. Ở chi dưới

teo rõ các cơ ở trước cẳng chân, teo các cơ ở sau cẳng chân và các cơ đùi

muộn hơn. Ở giai đoạn nặng mới thấy teo cơ ở các cơ cổ và ở mặt, các cơ hô

hấp ít ảnh hưởng, những trường hợp nặng, giai đoạn cuối mới có khó thở.

5

+ Rung giật bó sợi cơ (Fibrillations and fasciculation).

Rung các sợi cơ và bó sợi cơ là triệu chứng thường xuyên có trong bệnh

xơ cột bên teo cơ. Bệnh nhân tự cảm thấy rung giật tự phát các sợi cơ hoặc

rung giật cả những bó cơ rất khó chịu, không thể tự kìm chế được. Khám

bệnh nhân ta cũng nhìn thấy được các bó sợi cơ rung giật. Khu vực xuất hiện

nhiều nhất là các cơ ở cánh tay, ở bả vai, ở đùi và đặc biệt thấy ở lưỡi, các sợi

cơ rung giật như những con giun nhỏ luôn cựa quậy trong lưỡi.

Rung giật cơ xuất hiện rõ hơn khi có các kích thích vào cơ như khi gõ

nhẹ vào cơ, khi duỗi cơ, khi kích thích lạnh…

Cơ chế xuất hiện các rung giật bó sợi cơ còn chưa được xác định rõ; có

giả thuyết cho rằng do tăng tính nhạy cảm với acetylcholin của các đơn vị vận

động của cơ chứ không phải do các noron vận động ở tuỷ sống bị kích thích,

khi người ta phong bế dẫn truyền của các dây thần kinh vận động vẫn không

mất rung giật cơ.

+ Hội chứng tháp: do tổn thương hệ tháp nên biểu hiện tăng phản xạ

gân xương rõ và có phản xạ bệnh lý bó tháp rõ rệt. Đây là đặc điểm đặc trưng

của bệnh xơ cột bên teo cơ, phản xạ gân xương tăng và có phản xạ bệnh lý bó

tháp rõ ngay ở khu vực teo cơ, tưởng chừng như là một bệnh thần kinh ngoại

vi đơn thuần, chỉ đến khi liệt nặng và teo cơ quá nặng thì mới giảm dần và

mất phản xạ gân xương.

Có thể giải thích biểu hiện tăng phản xạ gân xương bằng sự mất ức chế

cung phản xạ do tổn thương hệ tháp trong khi cung phản xạ gân xương chưa

bị tổn thương nặng nề, khi đến cung phản xạ này cũng bị tổn thương nặng

mới có biểu hiện giảm và mất phản xạ gân xương.

Phản xạ bệnh lý bó tháp biểu hiện rõ các phản xạ như: Babinski ở chi

6

dưới, Hoffmann và Rossolimo ở chi trên. Có thể thấy các phản xạ tự động ở

miệng như phản xạ gan tay - cằm, phản xạ nút, phản xạ vòi, hoặc biểu hiện co

thắt cơ vòng miệng khi cười, khi khóc như trong hội chứng liệt giả hành não.

Có thể thấy tăng trương lực cơ hoặc co cứng ở hai chi dưới trong giai

đoạn đầu của bệnh đôi khi có biểu hiện rung giật xương bánh chè, rung giật

bàn chân.

+ Hội chứng hành não hoặc hội chứng liệt giả hành não.

Có thể bệnh khởi phát bằng hội chứng hành não, nhưng đa số trường

hợp hội chứng hành não xuất hiện ở giai đoạn muộn của bệnh. Biểu hiện bằng

tổn thương dây IX, X, bệnh nhân nói ngọng, nuốt nghẹn, sặc, màn hầu sa

thấp, lưỡi teo nhăn nhúm như chiếc lá héo, vận động lưỡi rất hạn chế không

thè dài lưỡi ra ngoài được, vì vậy nhai và nuốt vô cùng khó khăn, những âm

cần vận động lưỡi bệnh nhân nói rất khó khăn, giọng nói đơn điệu và ở mức

độ nặng bệnh nhân không phát âm được. hàm dưới trễ xuống, miệng không

ngậm kín được, nước dãi luôn chảy ra và khi nhai rơi cả cơm ra ngoài. Khi

tổn thương lên nhân dây vận động dây V ở cầu não thì xuất hiện teo các cơ

nhai và giảm sức nhai.

Ở giai đoạn cuối của bệnh có biểu hiện khó thở do yếu các cơ hô hấp

(cơ ngực, cơ liên sườn và cơ hoành), nhịp tim chậm, có thể ngất và ngừng

thở, ngừng tim do tổn thương nhân dây thực vật của dây X.

Nếu tổn thương ở đường dẫn truyền trên nhân cả hai bên (bó gối) xuất

hiện hội chứng liệt giả hành não, biểu hiện bệnh lý tương tự hội chứng hành

não nhưng nếu chưa tổn thương các nhân dây thần kinh sọ não nặng thì chưa

có biểu hiện teo cơ lưỡi và chưa mất phản xạ vén màn hầu.

+ Những triệu chứng bệnh lý khác:

- Có thể thấy biểu hiện rối loạn tâm thần như thay đổi cảm xúc, dễ

7

khóc, cười vô cớ, giảm sút trí nặng.

- Bệnh không bao giờ có cảm giác và mất cảm giác, nhưng có thể có dị

cảm như nóng rát, kiến bò, có thể có đau cơ, chuột rút, căng tức ở các cơ có

biểu hiện bệnh lý.

IV. KHÁM XÉT CẬN LÂM SÀNG

1. Dịch não tuỷ

Trong hầu hết trường hợp xét nghiệm dịch não thấy bình thường, số ít

trường hợp có biểu hiện tăng nhẹ protein.

2. Điện cơ

Điện cơ có biểu hiện điển hình của rối loạn dẫn truyền thần kinh cơ, tuy

nhiên cũng không phải là đặc hiệu của bệnh xơ cột bên teo cơ mà nó cũng

tương tự biểu hiện cơ của các bệnh lý tổn thương tuỷ sống khác.

Điện cơ khi không co cơ xuất hiện điện thế rung sợi cơ, khi co cơ tối đa

điện cơ có biểu hiện giảm số lượng đơn vị vận động, tăng biên độ và kéo dài

bước sóng điện thế đơn vị vận động.

3. Xét nghiệm máu và nƣớc tiểu

Các xét nghiệm máu không thấy thay đổi gì rõ, có tác giả nêu có biểu

hiện rối loạn chuyển hoá pyruvat. Có thể thấy tăng bài tiết creatinin và giảm

creatinin trong nước tiểu.

Chụp MRI có thể thấy tăng tín hiệu ở tuỷ sống và thân não (hình ảnh

T2), teo thùy trán não.

4. Sinh thiết cơ

Sinh thiết cơ có hình ảnh teo các sợi cơ giống như teo cơ do các bệnh

thần kinh ngoại vi khác, với biểu hiện: teo, thoái hoá các sợi cơ trong một bó

cơ các sợi cơ đều bị thoái hoá, không xen kẽ sợi cơ bình thường, nhưng có bó

cơ không bị thoái hoá xen kẽ lẫn bó cơ bị thoái hoá. Không có rối loạn đáng

8

kể cấu trúc của sợi cơ, không xen lẫn các tổ chức xơ và mỡ vào các cơ.

V. CHẨN ĐOÁN

1. Chẩn đoán xác định

Chẩn đoán xác định bệnh xơ cột bên teo cơ chủ yếu dựa vào bảng lâm

sàng: yếu và teo cơ, rung giật các bó sợi, có hội chứng bó tháp, quá trình tiến

triển đến có hội chứng hành não, không giảm hoặc mất cảm giác. Kết hợp với

điện cơ và nếu cần thì sinh thiết cơ để chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý

khác có teo cơ.

Ở giai đoạn đầu của bệnh, nếu bệnh nhân có yếu và teo cơ mà lại tăng

phản xạ gân xương, không thấy giảm cảm giác thì phải nghĩ đến xơ cột bên

teo cơ.

Các thể lâm sàng: Có thể chia các thể lâm sàng dựa vào cách khởi phát

bệnh như: thể khởi phát teo cơ kiểu Aran - Duchenne, thể bại nửa người, thể

bại hai chi dưới, thể hành não, thể di truyền gia đình

2. Chẩn đoán phân biệt

- Trước hết cần phân biệt với teo cơ tiên phát như: loạn dưỡng cơ tiến

triển, ở bệnh cơ tiên phát không có hội chứng hành não hoặc liệt giả hành

não. Nếu có nghi ngờ thì điện cơ và sinh thiết cơ giúp ta loại trừ hoàn toàn

bệnh lý của cơ.

- Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý khác của tuỷ sống và não

như: xơ não tuỷ rải rác, hạ liệt cứng gia đình, viêm sừng trước tuỷ sống mạn

tính tiến triển, thoái hoá cột sống có chèn ép các rễ thần kinh cổ, hốc tuỷ,

thiểu năng tuần hoàn não hệ động mạch sống nền, u tuỷ cổ và giang mai thần

kinh.

Các bệnh nhân trên đều có bảng lâm sàng riêng, có thể nêu những đặc

9

điểm chính của bệnh khác với xơ cột bên teo cơ như sau:

+ Xơ não tủy rải rác, do tổn thương nhiều ổ, rải rác ở não và tuỷ nên

lâm sàng đa dạng, thường thấy ở các triệu chứng như: giảm thị lực, liệt hai chi

dưới, hội chứng tiểu não, hội chứng tiền đình, ít có biểu hiện teo cơ và rung

giật bó sợi cơ.

+ Hạ liệt cứng gia đình: biểu hiện bằng liệt trung ương chi dưới tiến

triển nặng dần, có rối loạn cơ vòng, không tiến triển lên chi trên và hành não.

+ Viêm sừng trước tuỷ sống mạn tính tiến triển: biểu hiện bằng liệt

ngoại vi ở hai chi trên hoặc tứ chi kèm theo teo cơ, không có rối loạn cảm

giác nhưng không có hội chứng tháp.

+ Tổn thương các rễ thần kinh cổ do thoái hoá cột sống cổ: hội chứng

Aran - Duchenne thực sự kèm theo rối loạn cảm giác, không bao giờ tăng

phản xạ gân xương và có phản xạ bệnh lý bó tháp.

+ Hốc tuỷ: có rối loạn cảm giác điển hình là phân ly cảm giác: mất cảm

giác đau, nóng, lạnh, còn xúc giác và cảm giác sâu.

+ U tuỷ cổ: có biểu hiện chèn ép tủy nên bao giờ cũng có rối loạn cảm

giác như: đau rễ, giảm cảm giác theo kiểu khoanh đoạn và theo đường dẫn

truyền thần kinh.

+ Thiểu năng tuần hoàn hệ động mạch sống – nền: ở mức độ nặng.

VI. ĐIỀU TRỊ

Việc điều trị còn khó khăn, có thể dùng corticoid từng đợt, điều trị triệu

chứng là chính. Có thể dùng Imuno - globulin.

Bệnh tiến triển nặng dần, khoảng 50% tử vong sau 3 năm, sau 6 năm tử

10

vong khoảng 90%.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Decarvalcho M, Cavaleiro Miranda P, Loudes Sales M. Neuro 2000,

247/3, 189 – 94.

Neurophysiological features of fasciculation Potentials Evoked by

Trancrannical magnetic stimulation in ALS.

2. Houston Merritt H. Neurology 1959, 481 – 488.

3. Martin Samuels. Neurologic therapeutics 1991, 384.

4. Raymond Adams. Principles of Neurology 1997, 1090.

5. Fratantoni S.A/Weisz. G/Pardal A.M.et al. Amyotrophic lateral

selerosis IgG – Treated neuromuscular Junctions ensitivity to L – Type

calcium channel bloker. Muscle nerve 2000, 23/4, 543 – 550.

=====HẾT=====

11