ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(87).2015 5
BÀN VỀ Ý NGHĨA ĐỊA DANH: TRƯỜNG HỢP THỊ XÃ QUẢNG YÊN
SOME ISSUES OF THE MEANING OF TOPONYM (PLACE NAMES):
THE CASE OF QUANGYEN TOWN
Trịnh Tam Anh, Nguyễn Ngọc Chinh
Đại học Đà Nẵng; nnchinh@ac.udn.vn; trinhtamanh5@gmail.com
Tóm tắt - Địa danh họcmôn học rất thú vị, giúp mọi ngư
ời trả lời
những câu hỏi về nguồn gốc, do của những tên làng xóm, c
ầu
cống, chợa, tỉnh thành... Địa danh m
ột bộ phận của ngôn ng
địa danh cũng là t
m bia khắc ghi lại những nét văn hóa, lịch sử
con người đã đi qua. Địa danh thường được nghn cứu
ới
hai góc độ: cấu tạo và ý nga địa danh. Ý nghĩa địa danh là v
ấn đề
những n nghiên cứu luôn quan m sâu sắc, nội dung vô c
ùng
quan trọng của việc nghiên cứu địa danh học. Đồng thời nghiên c
ứu
địa danh luôn vấn đề đa dạng, phức tạp ý kiến của các nh
à
khoa học chưa thống nhất. Vì vậy, khi nghiên c
ứu ý nghĩa địa danh
thị Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, tác giả phân chia thành t
ừng
nhóm nhỏ nhằm ch
ứng minh một cách cụ thể những giá trị mặt ý
nghĩa của địa danh thị xã Quảng Yên.
Abstract - Toponymy is a very interesting subject which
helps
people answer questions about the origin of the name of
villages,
bridges, markets, cities... Toponymy is part of th
e language and the
inscription of the culture,the history people have gone thro
ugh.
Place names
are often studied under two perspectives: structure
and meaning. Meaning is the issue that the
researchers are deeply
interested in; it is an extremely important content of the research
of
place names. Furthermore, the study of sites is a diverse and
complex issue on which scientists have not totally agreed
. So,
while
doing research on meaning of place names in Quangyen
,
Quangninh, the authors divided them into small groups to
demonstrate a specific value of the surface meaning of places in
Quangyen.
Từ khóa - địa danh; ý nghĩa địa danh; thị xã Quảng Yên; kh
ắc ghi;
tỉnh Quảng Ninh
Key words - toponymy;
meaning of place names; Quangyen town;
inscription; Quangninh province
1. Mở đầu
Địa danh một bộ phận của từ vựng, mang đặc tính
của ngôn ngữ. Về mặt cấu tạo từ, địa danh được coi là một
từ hoặc cụm từ. Địa danh xuất phát từ vốn từ chung và có
chức năng định danh, thế nên chức ng biểu vật
(chức năng biểu hiện ý nghĩa của tên gọi sự vật). Tuy nhiên,
bản chất của ngôn ngữ mang tính võ đoán. Và địa danh
bộ phận của ngôn ngữ, do vậy địa danh cũng mang trong
mình tính võ đoán. Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Biểu
vật theo lối miêu tả luôn biểu thị bản chất của sự vật hiện
tượng, nó chỉ bị chi phối bởi nguyên tắc cónh lý do” [2,
tr.31]. Như vậy, mi địa danh ra đời đều có mt do riêng
biệt. do đó thể phản ánh tâm tình cảm của con
người với đối tượng đó. Hoặc phản ánh bản chất, đặc điểm
của đối tượng liên quan đến địa danh. Tất cả mi yếu tố đó
đều góp phần tạo nên ý nghĩa địa danh.
Tuy nhiên, vấn đề ý nghĩa của địa danh cũng chỉ mang
nh tương đối. Không nên tuyệt đối hóa vì: Thứ nhất, địa
danh ra đời gắn với sắc thái biểu cảm, tâm nguyện vọng
của con người qua cách nhìn nhận của chủ thể địa danh chứ
không phải sự phản ánh đặc điểm hiện thực của đối tượng;
Thứ hai, địa danh sản phẩm của ngôn ngữ của một cộng
đồng người nhất định, cùng một địa danh nhưng mỗi cộng
đồng người ch nhìn nhận khác nhau, cách định danh
khác nhau. Địa danh không tự hình thành bất biến mà luôn
phát triển trong không gian và theo thời gian. Địa danh luôn
gắn với quá trình pt triển của văn hóa. Mà văn hóa có sự
đan xen nhiều đặc trưng của nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau điều đó được thể hiện một phần thông qua địa danh.
vậy, ý nghĩa của địa danh không giá trị tuyệt đối,
đúng cho tất cả mọi thứ: đối tượng, khu vực, thời klịch sử,
chúng chỉ mang tính tương đối. Bài báo này tìm hiểu ý
nghĩa địa danh của thị Quảng Yên, Quảng Ninh một
vùng đất địa đầu Tổ quốc Việt Nam, mang nhiều dấu ấn văn
hóa, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, … của người dân Bắc Bộ.
2. Phương pháp xác định ý nghĩa địa danh
Theo chúng tôi thống kê, cho đến nay ít công trình
nghiên cứu nào đưa ra được một phương pháp cụ thể mang
tính toàn diện về ý nghĩa địa danh.
Để xác định ý nghĩa địa danh, người nghiên cứu cần
nắm chắc địa bàn, đối tượng, có kiến thức sâu rộng vngôn
ngữ của địa n, sử dụng thao c của phương pháp so sánh
lịch sử để m hiểu về sự biến đổi ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp của địa danh. Ngoài ra, khi xác định ý nghĩa phải vận
dụng linh hoạt hợp lý các phương pháp, thận trọng khi đưa
ra kết luận.
Điều này đã được Nguyễn Kiên Tờng đề cập khi
nghiên cứu về đặc điểm địa danh Hải Phòng: - Căn cứ vào
ngữ nghĩa của từ nhưng có chú ý đến sự biến đổi của chúng
theo thời gian; - Dùng phương pháp so sánh lịch sử để c
lập mối quan hệ ngữ âm của các đơn vị liên quan (giữa
địa danh từ chung), từ đó phục nguyên lại dạng cổ của tên
gọi trong những trường hợp có thể và cần thiết; - Bám chắc
o địa bàn khảo sát, vận dụng các tri thức có trong các bộ
môn khác (địa lý, lịch sử, dân tộc, khảo cổ, văn hóa dân
gian…) [3, tr. 33]. Ngoài ra, chúng i còn tham khảo những
nghiên cứu địa danh đã sử dụng hiệu quả phương pháp này
như: “Nghiên cứu địa danh Quảng Trịcủa Từ Thu Mai,
“Địa danh Nam Định” của Phan Thị Huyền Trang. Chúng
tôi đã vận dụng phương pháp này và sự điều chỉnh để phù
hợp với địa bàn nghiên cứu hướng đi của chúng i khi tìm
hiểu ý nghĩa địa danh thị Quảng Yên.
3. Phân loại ý nghĩa địa danh
Khi tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa của địa danh trên địa
bàn thị Quảng Yên, chúng tôi dựa trên những quan điểm,
ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, như: A. V. Superanskaja,
Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường...
Tuy nhiên, để tìm hiểu hệ thống ý nghĩa địa danh một
6 Trịnh Tam Anh, Nguyễn Ngọc Chinh
cách có hệ thống, toàn diện và phù hợp với địa bàn nghiên
cứu thì cần có sự phân chia hợp lý các nhóm và tiểu nhóm.
Chúng tôi phân chia ý nghĩa địa danh thị Quảng Yên
thành 3 nhóm lớn, cụ thể như sau:
Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan;
Nhóm ý nghĩa phản ánh tư tưởng nguyện vọng của con
người;
Nhóm địa danh chưa xác định được ý nghĩa;
Từ những nhóm lớn chúng i tiếp tục chia thành các
nhóm nhỏ về trường nghĩa. điều đó được chứng minh
cụ thể ở phần sau.
3.1. Nhóm địa danh phản ánh hiện thực khách quan
Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan là nhóm địa
danh theo phương thức ttạo. Đặc tính chung của phương
thức này quan sát trực tiếp đối ợng để tìm ra những đặc
điểm, tính chất của đốiợng và từ đóm ra nhữngt riêng
nhất, tính nổi cộm nhất để đặt tên cho đối tượng. Tuy nhiên,
nhóm địa danh phản ánh hiện thực khách quan khác với nhóm
địa danh ý nga phản ánh tâm nguyện vọng của con
người. Đó là sự quy chiếu của đối tượng đưc định danh với
đối tượng khác có mối quan hệ gần gũi với đối ợng để đặt
n. Và tờng hợp này là người đặt tên đã dựa vào sự tồn tại
khách quan để đặt tên cho đối ợng.
dụ: núi Đá Xanh, đượng Sim... “đượng Sim”: thực
vật sống trên đượng tất cả cây sim. Khi đó, người định
danh phải n trọng hiện thực khách quan, dựa vào thảm
thực vật đặt tên. Người đặt tên không thể gọi là đượng Dừa
hay đượng Khoai vì như vậy là không phản ánh đúng hiện
thực khách quan.
Để phân chia một cách cụ thể hơn về nhóm ý nghĩa
phản ánh hiện thực khách quan, chúng tôi đã chia nhóm
này thành hai tiểu nhóm và các trường nghĩa.
3.1.1. Nhóm địa danh ý nghĩa phản ánh đặc điểm, tính
chất của bản thân đối tượng được định danh
Đây nhóm địa danh số lượng lớn, gồm 56 địa
danh, với sáu trường nghĩa, phản ánh đối tượng với các đặc
điểm khác nhau.
A1. Trường nghĩa chỉ tính chất, đặc điểm của đối tượng
Trường nghĩa này 11 địa danh, thuộc các loại hình
đối tượng khác nhau. Trường nghĩa này có cách định danh
dựa vào bản chất bên trong đối tượng của đối tượng được
định danh. ch định danh y cũng tương đối phổ biến,
nhất là các đối tượng địa lý tự nhiên. Vì đối tượng địa lý tự
nhiên đều mang trong mình một tính chất, một đặc tính
riêng biệt so với các đối tượng khác.
dụ: Làng La Khê theo các văn bản chữ Hán thì chữ
“la” có nghĩa là lụa, là một loại vải mềm mỏng, khê tức
khe. Cách định danh như vậy dựa vào tính chất ng
chảy của khe nước.
Lựng Thuồng Luồngkhu vực nước sâu và nguy hiểm.
Như vậy, qua một số ví dụ trong trường nghĩa vừa nêu
cho thấy, cách định danh dựa vào tính chất đặc điểm của
đối tượng là cách định danh hoàn toàn có do chính đáng.
Từ tên gọi những địa danh theo trường nghĩa trên cho ta
thấy nh chất đa dạng phong phú của con người và thiên
nhiên nơi đây.
A2. Trường nghĩa phản ánh hình dáng của đối tượng
Trường nghĩa này số lượng địa danh lớn, với 21 địa
danh. Những địa danh này chủ yếu thuộc các đối tượng địa
tự nhiên. đây ch thức định danh phổ biến rộng rãi
khắp mọi nơi. Cách thức định danh này do chủ thể định
danh quan t trực tiếp đối tượng để đặt tên cho đối ợng.
Và tên gọi trường nghĩa này là dùng sự vật này gọi tên cho
sự vật kia dựa vào sự tương đồng nào đó giữa các sự vật.
Ví dụ: núi Con Lợn, núi Nấm Chiêng, núi Tiên Sơn...
A3. Trường nghĩa phản ánh vật liệu làm nên đối tượng
Trường nghĩa y ng chính chất liệu m nên đối
tượng để định danh cho đối tượng. Nếu cây cầu được m
bằng sắt thì cầu đó sẽ được gọi cầu Sắt. Hay cầu làm
bằng gỗ hoặc đá sẽ được định danh là cầu Gỗ, cầu Đá.
Trường nghĩa này có số lượng là 6 địa danh.
Ví dụ: cầu Đá, cống Bia Đá, quán Đá...
A4. Trường nghĩa phản ánh đối tượng của địa danh
Trường nghĩa này 13 địa danh, phản ánh sphức
hợp nhiều yếu tố trong một đối tượng.
Ví dụ: Hà An 1, Hà An 2, Hà An 3..... Tiền An 1, Tiền
An 2...
Những địa danh này chỉ xuất hiện địa danh hành chính.
A5. Trường nghĩa phản ánh màu sắc của đối tượng
Trường nghĩa phản ánh màu sắc là căn cứ vào màu sắc
bên ngoài của đối tượng để gọi tên. Tuy nhiên trường nghĩa
này có số lượng không nhiều, có 1 địa danh.
dụ: tại sao lại có tên Núi Đá Xanh, định danh như
vậy bởi núi đá vôi do màu xanh nên căn cứ vào màu
sắc bên ngoài của núi đá. Nên gọi núi Đá Xanh. Cách
định danh dựa vào đặc điểm bên trong bản thân đối tượng
để định danh.
A6. Trường nghĩa phản ánh thi gian tồn tại của đối ợng
Không chỉ có không gian ảnh hưởng đến địa danh, thời
gian cũng yếu tố vô cùng quan trọng trong quá trình tạo
hóa địa danh. c đối ợng địa lý, đơn vị dân không phải
tạo ra và bất biến theo thời gian, mà một số địa danh có thể
mất đi hoặc thay đổi, tđó tên gọi cũng thay đổi theo.
Trường nghĩa này số lượng khá ít với 4 địa danh. Địa
danh trong trường nghĩa này xuất hiện khi cái mất đi
hoặc cái mới ra đời.
dụ: Tiền An khu dân đầu tiên thành lập tại
khu đất của làng La Khê khu bãi cát vàng của làng Bùi
Xá. Hoàng Tân, Tân An thành lập sau xã Tiền An nên
mang yếu tố Tân (mới). Hay các công trình xây dựng như
cống Mới, cầu Mới, chợ Mới.
Như vậy địa danh xét theo đặc điểm, tính chất của bản
thân đối tượng được định danh 6 loại được phân bổ
không đồng đều nhau về số lượng tại huyện Quảng Yên,
tỉnh Quảng Ninh được biểu thị trong bảng sau:
Bảng 1. Địa danh phản ánh đặc điểm, tính chất của bản thân
đối tượng được định danh tại Quảng Yên
Tt Trường nghĩa chỉ Số lượng
1 Tính chất, đặc điểm của đối tượng 11
2 Hình dáng của đối tượng 21
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(87).2015 7
3 Vật liệu làm nên đối tượng 6
4 Đối tượng của địa danh 13
5 Màu sắc của đối tượng 1
6 Thời gian tồn tại của đối tượng 4
Cộng 56
3.1.2. Nhóm địa danh ý nghĩa phản ánh mối liên hệ giữa
đối tượng được định danh và các đối tượng liên quan
Như chúng ta đã biết, tất cả sự vật hiện tượng trong
hội không tồn tại riêng lẻ mà chúng có mối quan hệ với nhất
định và tác động qua lại lẫn nhau. Địa danh một phần của
hệ thống địa lý, hệ thống địa lý cũng không ngoài quy luật
này. vậy, khi nghiên cứu ý nghĩa địa danh ta thể nghiên
cứu mối liên hệ giữa địa danh và các đốiợng địa.
B1. Trường nghĩa phản ánh tên người
thể nói đây là trường nghĩa số lượng rất lớn trong
các trường nghĩa thuộc nhóm này, với 35 trường hợp.
Những địa danh mang tên người rất đa dạng, chúng cả
địa danh chỉ địa hình tự nhiên, đơn vị dân cư, các công trình
xây dựng và địa danh nhân văn.
Những tên người được dùng làm địa danh trú, địa
danh hành chính hay địa danh nhân văn là những nhân vật
lịch sử, những người công to lớn với người dân, làng
xóm. Trong những nhân vật được đặt tên như: Ngô Quyền,
Trần Hưng Đạo có công lớn trong chiến thắng Bạch Đằng
đẩy lùi quân xâm lược phương bắc. Địa danh “đầm Nhà
Mạc” là nơi mà nhà Mạc có công khai hoang vùng đất này
nên người dân tưởng nhớ công lao gọi tên là đầm Nhà
Mạc. Hay sông đào Hồ Chí Minh con ng do Bác u
gọi người n đào sông phục vụ cho nông nghiêp n đặt
tên là sông đào Hồ Chí Minh.
B2. Trường nghĩa thực vật liên quan đến đối tượng
Trường nghĩa này 51 địa danh, chủ yếu các địa danh
liên quan đến đối ợng địa tnhiên. cách định danh
theo tên gọi thực vật Quảng Yên góp phần làm hơn
những thông tin về thực vật ở vùng đất nơi đây. Một số địa
danh được gọi tên theo cỏ cây hoa như: đượng Sim thảm
thực vật mọc trên đượng chủ yếu là cây Sim nên được gọi là
đượng Cây Sim. Đượng Cây Lim là trên đượng có một cây
Lim rất to, các loại cây khác hầu như không có, chỉ cây
Lim điển hình nhất. Nên được gọi đượng Cây Lim.
Cũng dựa o các đặc điểm như vậy rất nhiều địa danh
được đặt tên theo thực vật mọc trên vùng đất đó hoặc liên
quan tới vùng đất như: bãi Cây Thị, khe Gía, khe Dứa...
B3. Trường nghĩa phản ánh sự bao hàm hoặc có sự gần
gũi nào đó về vị trí địa lý giữa các đối tượng
Trường nghĩa này nhiều loại hình đối tượng địa lý
khác nhau, có số lượng là 104 địa danh.
Những địa danh trong trường nghĩa y phản ánh sự
gần gũi về vị trí địa lý giữa các đối tượng như: khe Gía- hồ
Khe Gía, đồi Cây Rộc- chợ Rộc, đồi Cửa Tràng- xóm Cửa
Tràng, đượng Bỏ Bụt- sông Bỏ Bụt- xứ đồng Bỏ Bụt.
Do sự gần gũi về địa lý, một số địa danh có sự bao hàm
lẫn nhau như: đồi Rộc-xóm Chợ Rộc - rốc Chợ Rộc. Những
địa danh trong trường nghĩa này dùng phương thức định
danh vay mượn. Tuy nhiên, một địa danh vai trò
nghĩa gốc, sau đó nghĩa gốc này được vay mượn gọi cho
nhiều đối tượng khác.
B4. Trường nghĩa phản ánh phương hướng vị trí của đối
tượng
Trường nghĩa này phản ánh vị trí của đối tượng trong
không gian có 39 địa danh. Và mỗi đối tượng tồn tại trong
một không gian nhất định. Khi định danh sự vật người ta
lấy một vật nào đó m trung tâm, tviệc xác lập định danh
cũng chỉ mang tính tương đối, chỉ đúng trong hệ
thống của nó. Khi ra khỏi hệ thống thì phương hướng của
đối tượng không còn giá trị.
dụ: bến Quán Thượng, bếnới, bến Đông, bến Nam.
đây Thượng (trên), Dưới, Đông, Nam, tất cả lấy tổng Hà
Nam chuẩn để quy chiếu ra ớng cho từng đối ợng.
Nhưng chúng chđúng với vtrí trong tổng Hà Nam. Nếu
không lấy tổng Hà Nam làm chuẩn nữa, mà lấy một số vị trí
khác như Hải Phòng thì vtrí không còn chính xác nữa.
Những địa danh gọi theo trường nghĩa thường là chỉ địa
danh khu dân cư và đi ng c từ như: đông, y, nam bắc,
tả, hữu và trên, dưới, trong, ngoài, trái, phải.
Như vậy, cách định danh dựa vào vị tđịa của đối tượng
rất phổ biến, không chỉ Quảng Yên, nhiều địa danh
những địa phương khác ng dùng cách định danh này để định
danh svà hiện ợng và cho nhiều đối ợng địa khác
nhau. i quan trọng nhất muốn đặt tên địa danh theo
phươngớng thì cần phải xác định vị trí lấy một vật làm
trung m để xác định vị tri choc vật khác.
B5. Trường nghĩa phản ánh những sự kiện lịch sử
Muốn nghiên cứu địa danh tkhông thể tách rời lịch
sử. lịch sử một phần bằng chứng để nghiên cứu địa
danh. Mỗi thời lịch sử, sự kiện lịch sử đã tạo ra những
đối tượng địa lý, những địa danh mới. khi đó địa danh
là tấm bia ghi lại những sự kiện lịch sử.
Trường nghĩa phản ánh các sự kiện, biến cố lịch sử
Quảng Yên không nhiều, chỉ một số địa danh như: núi
Thành, xóm Thành Dền, chợ Đồn, sông Bạch Đằng... 10
địa danh. Núi Thành, Thành Dền là ghi lại những trận đánh
ác liệt giữa quan thứ Hải Yến và quân lính tuần phủ Quảng
Yên với bọn giặc biển TKim Phụng. nơi đây được xây
thành để bảo vệ dân cũng là trận địa nên sau này được
đặt tên là núi Thành.
Hình 1. Bãi Cọc Bạch Đằng đang được khai quật
(Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh)
8 Trịnh Tam Anh, Nguyễn Ngọc Chinh
Theo trình bày trên, địa danh phản ánh mối liên hệ giữa
đối tượng được định danh các đối tượng liên quan bao
gồm 5 loại, được biểu thị bằng Bảng 2 dưới đây:
Bảng 2. Địa danh dựa trên liên hệ giữa đối tượng được
định danh và các đối tượng liên quan
Tt Trường nghĩa chỉ Số lượng
1 Tên người 35
2 Thực vật liên quan đến đối tượng 51
3 Bao hàm hoặc sự gần gũi nào đó v
vị trí địa lý giữa các đối tượng
104
4 Phương hướng vị trí của đối tượng 39
5 Sự kiện lịch sử 10
3.2. Nhóm địa danh có ý nghĩa phản ánh tâm lý, nguyện
vọng của chủ thể định danh
Nhóm ý nghĩa này hai tiểu nhóm chính là: nhóm
phản ánh tâm lý, tình cảm, nguyện vọng của chủ thể địa
danh nhóm phản ánh đời sống tín ngưỡng tôn giáo.
Nhóm nghĩa đầu tiên chủ yếu thuộc địa danh trú nh
chính yếu tố cấu tạo chủ yếu Hán - Việt. Các nhóm
về n ngưỡng tôn giáo thuộc địa danh nhân văn liên
quan đến đời sống tâm linh. Ngoài ra các loại hình địa danh
khác cũng có, nhưng với số lượng rất ít.
3.2.1. Nhóm địa danh ý nghĩa phản ánh tâm lý, tình cảm,
nguyện vọng của chủ thể địa danh
Nhóm này gồm 2 trường nghĩa với 43 địa danh.
C1. Trường nghĩa thể hiện niềm mong ước về sự đổi
mới
Các địa danh thuộc nhóm này có 15 trường hợp và chủ
yếu được thể hiện qua yếu tố “tân”.
Ví dụ: Tân An, Tiền An, Hoàng Tân... ngoài ý nghĩa là
niềm mong ước đổi mới thì còn có ý nghĩa là đơn vị dân
mới được thành lập.
C2. Trường nghĩa thể hiện niềm mong ước về cuộc
sống bình yên
Những địa danh này luôn mang theo mình yếu tố yên,
bình, an, lành, hòa hợp...
Ví dụ: thị xã Quảng Yên là hiện thực khách quan, vùng
đất nơi đây rất nhiều chiến tranh, cuộc sống người dân vất
vả, cực khổ. Cho nên mới định danh Quảng Yên: mong
ước vùng đất rộng lớn có cuộc sống yên bình.
Ngoài ra, còn một số địa danh mang tính ước vọng cuộc
sống bình yên như: Hiệp Hòa, Liên Hòa, Yên Giang...
3.2.2. Nhóm địa danh ý nghĩa phản ánh đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo
Thị xã Quảng Yên là nơi lịch sử hình thành và phát
triển rất lâu đời. Tthời Lê, c làng cổ đã lập Văn Từ,
Văn Miếu thờ cúng, tế lễ Khổng Tử và các tiên hiền, phát
triển các Hội văn chăm lo việc học nh, chăm lo đời
sống n ngưỡng, n giáo phong phú đa dạng. Nhóm địa
danh này gồm 32 địa danh với các trường nghĩa như:
trường nghĩa về tín ngưỡng nhân Thần (những người
công trạng với quê hương đất nước khi chết được tôn thờ).
Các trường nghĩa về đời sống tôn giáo (Phật giáo, Thiên
Chúa giáo...). Tđó, thông qua địa danh chúng ta thể
thấy được một phần nào đó về đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo của người dân thị xã Quảng Yên.
D1. Trường nghĩa phản ánh tín ngưỡng về nhân thần
Trường nghĩa này 8 địa danh. Khi trình độ con người
phát triển đến một mức độ kcao thì khi đó tín ngưỡng về
nhân thần xuất hiện. việc hình thành tín ngưỡng nhân
thần xuất phát từ quan điểm: “Người ta chỉ chết thể xác,
còn lại tinh anh, tinh thần. Nếu người bình thường thì
tinh thần tan biến vào khoảng không, nếu là người khi sống
nhiều tài năng, công đức thì tinh thần y thần, mãi
mãi tác động cho người sống nên người sống thờ thần,
tế thần” [4,tr. 441].
Thị Quảng n cũng như tất cả các vùng khác
trong cả nước, các nhân thần ở Quảng Yên có nhiều nguồn
gốc khác nhau gồm:
Những người khi n sống ng lao, tài đức, địa vị
cao, quyền lực lớn, và những người có ít nhưng làm người
khác phải khiếp sợ.
Những người có địa vị thấp nhưng có cống hiến với dân
làng, có lòng giúp việc chung như khai hoang, chữa bệnh,
dạy học, bắc cầu dựng quán...
dụ: Miếu Vua Bà, đền Trần Hưng Đạo, đền Quan
Đại, đền Thánh Mẫu, đền Ngọc Quang...
Hình 2. Miếu Vua Bà (Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh)
D2. Trường nghĩa liên quan đến đời sống phật giáo
Phật giáo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới,
phạm vi ảnh hưởng rất lớn đên đời sống m linh của người
n, không chỉ Quảngn n nhiều nơi khác. Phật giáo
Quảng n chyếu theo trường phái Thiền tông chịu ảnh
ởng của Tịnh độ tông Mật tông. vậy, rất nhiều địa
danh liên quan đến đời sống Phật giáo ra đời. Trường nghĩa
này 21 địa danh. Vàc địa danh này chủ yếu là các chùa
chiền như: Bằng, Cốc, Gia Đồng, La Khê, Vạn Triều...
D3. Trường nghĩa phản ánh về đời sống Thiên Chúa Giáo
Thiên Chúa giáo Quảng n sự khác biệt lớn so
với cácng miền khác trong cả nước. Thời gian du nhập
thì không khác, nhưng sự khác biệt người dân theo đạo
chỉ một ng duy nhất đó làng Yên T(xứ đạo Yên
Trì). Người dân theo đạo, nhưng vẫn duy trì phong tục tập
quán thờ cúng Ttiên và Tiên công. Tình trạng con chiên
sùng đạo cũng sự khác biệt rất lớn. Họ không niềm
tin vào Chúa như những con chiên vùng miền khác.
từ đó địa danh về thiên chúa giáo chiếm số lượng rất nhỏ
phạm vi ng hạn chế. Địa danh thuộc trường nghĩa
phản ánh đời sống Thiên Chúa giáo số lượng rất nhỏ
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(87).2015 9
như: nhà thờ Yên Trì, xứ đạo Yên Trì, đượng Thánh.
3.3. Nhóm chưa xác định được ý nghĩa
Như chúng ta đã biết, nghiên cứu ý nghĩa địa danh
một vấn đề rất khó. Chúng ta không thể xác định chính xác
hoàn toàn nghĩa của tất cả địa danh. vậy, khi nghiên cứu
những địa danh nhiều cách giải thích khác nhau
chưa đi đến kết quả chính xác. Khi đó, những địa danh này
chúng tôi đưa vào nhóm chưa xác định được nghĩa hay còn
gọi là hồ nghi về nghĩa.
Như địa danh “núi Ịch, Quêu Quao” thì rất nhiều giải
thích khác nhau, tuy nhiên chưa cách nào đi đến kết luận
thỏa mãn. Những địa danh chưa nghĩa chủ yếu địa
danh chỉ địa hình tự nhiên và số lượng rất ít.
4. Kết luận
Từ những trình bày trên, chúng tôi cho rằng, ý nghĩa địa
danh chỉ mang nh ơng đối nhưng những đặc điểm chúng
khắc họa nên có giá tri rất lớn không chỉ với những người
nghiên cứu địa danh mà còn ý nghĩa với các ngành khoa
học khác như văn hóa, lịch sử, khảo cổ học... Thông qua
cách phân chia hệ thống địa danh đã được khảo sát trên địa
bàn thị Quảng n, các trường nghĩa ý nghĩa địa danh
thị Quảng Yên đã được chúng tôi giới thiệu một cách
khái quát nhất. Từ đó, phần nào cho thấy những đặc điểm
về đời sống, văn hóa, duy đặc điểm tự nhiên của
người dân nơi đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn học, 2006.
[2] Đỗ Hữu Châu, sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
[3] Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
[4] Nguyễn Kiên Trường, Những đặc điểm chính của địa danh Hải
Phòng (trong vài nét đối sánh với địa danh Việt Nam), Luận án P
tiến sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996.
[5] Nguyễn Kiên Trường, “Mô hình kẻ... trong tên làng xã cổ truyền”,
Tạp chí Văn hóa Dân gian, 1996.
[6] Trung Hoa, Nguyên tắc phương pháp nghiên cứu địa danh
(địa danh thành phố Hồ Chí Minh), Nxb Khoa học hội, chi nhánh
tại thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
(BBT nhận bài: 08/12/2014, phản biện xong: 13/01/2015)