TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA SƯ PHẠM

ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA ĐỌC ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀNH NGỮ VĂN, KHOA SƯ PHẠM – TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG M S : 14.05.SP Chủ nhiệm đề tài: LÂM TRẦN SƠN NGỌC THIÊN CHƯƠNG

AN GIANG, 04-2016

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA SƯ PHẠM

ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA ĐỌC ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀNH NGỮ VĂN, KHOA SƯ PHẠM – TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG M S : 14.05.SP Chủ nhiệm đề tài: LÂM TRẦN SƠN NGỌC THIÊN CHƯƠNG

Cán bộ phối hợp: TS. Lê Thị Linh Giang

CV. La Thị Kim Bách

KTV. Hà Lan Vi

AN GIANG, 04-2016

CHẤP NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG

Đề tài nghiên cứu khoa học “Ảnh hưởng của Văn hóa đọc đến kết quả học tập

của sinh viên ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường Đại học An Giang”, do tác

giả Lâm Trần Sơn Ngọc Thiên Chương, giảng dạy tại Bộ môn Ngữ văn - Khoa Sư

phạm thực hiện. Tác giả đã báo cáo kết quả nghiên cứu và được Hội đồng Khoa học

và Đào tạo Trường Đại học An Giang thông qua ngày 23 tháng 03 năm 2016

Thư ký

Th.S Nguyễn Thị Lan Phương

Phản biện 1 Phản biện 2

TS. Nguyễn Đức Thăng Th.S Nguyễn Nguyệt Nga

Chủ tịch Hội đồng

i

PGS. TS. Võ Văn Thắng

LỜI CẢM TẠ

Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học An Giang, của Trường, Phòng Quản lý Khoa học và Hợp tác Hội đồng Khoa học Quốc tế, Phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng, Phòng Kế hoạch Tài vụ, Phòng Hành chính tổng hợp, Thư viện Trường Đại học An Giang và các phòng ban khác đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.

Tác giả cũng chân thành cảm ơn Lãnh đạo Khoa Sư phạm, các đồng nghiệp trong Bộ môn Ngữ văn, các giảng viên tham gia phản biện và góp ý cho đề tài. Nhờ đó mà tác giả có điều kiện sửa chữa và trau chuốt cho đề tài hoàn thiện hơn.

Tác giả

ời cảm ơn sâu sắc, đến các bạn sinh viên ngành Ngữ văn và sinh viên khối ngành Tự nhiên của Khoa Sư phạm đã nhiệt tình tham gia thực hiện điều tra khảo sát để hoàn thành trong thời gian sớm và đạt kết quả tốt nhất.

An Giang, ngày 23 tháng 03 năm 2016 Người thực hiện

ii

Lâm Trần Sơn Ngọc Thiên Chương

TÓM TẮT

Mục đích nghiên cứu này là tìm ra các yếu tố của văn hóa đọc ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên Khoa Sư phạm nhằm hướng đến nâng cao kết quả học tập của người học và nâng cao chất lượng đào tạo. Mẫu nghiên cứu bao gồm 363 sinh viên Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang. Người tham gia hoàn thành bảng hỏi gồm 2 phần: thông tin cá nhân của sinh viên và sự đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa đọc (thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc) đối với kết quả học tập của sinh viên. Kết quả thu được từ phân tích thống kê cho thấy sinh viên đều khẳng định thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc là những yếu tố hình thành văn hóa đọc. Kết quả thống kê từ các phân tích tương quan cho thấy rằng 3 yếu tố của văn hóa đọc có ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên. Những khuyến nghị và giải pháp, dựa trên kết quả nghiên cứu, được đề xuất.

Từ khóa: Văn hóa đọc, thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc, kết quả học

iii

tập của sinh viên

ABSTRACT

The purpose of this study is to find out the elements of reading cultures affecting academic performance of students to improve the learning outcomes and the quality of education. The research sample includes 363 students from the Faculty of Education, An Giang University. The participants completed a questionnaire consisting of two parts: students’ personal information and the level assessment of impact of reading culture factors (reading habit, reading hobby and reading skills) on students’ learning outcomes. The results obtained from the statistical analyses showed that the reading habit, reading hobby and reading skills are three elements that construct the reading cultures. The results from the correlation analyses determined that the factors of reading cultures have positive influences on the learning outcomes of students. Based on the research results, recommendations and solutions are proposed.

Keywords: Reading cultures, reading habit, reading hobby, reading skills,

iv

learning outcomes of students

CAM KẾT KẾT QUẢ

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng nhóm nghiên cứu. Các số liệu trong công trình nghiên cứu này có xuất xứ rõ ràng. Những kết luận về khoa học của công trình này chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

An Giang, ngày 23 tháng 03 năm 2016 Người thực hiện

v

Lâm Trần Sơn Ngọc Thiên Chương

MỤC LỤC

Trang

CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU ........................................................................................ 1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................. 2

1.3 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 2

1.4 Nội dung nghiên cứu ............................................................................................ 3

1.5 Những đóng góp của đề tài ................................................................................... 3

1.5.1 Đóng góp về mặt khoa học............................................................................ 3

1.5.2 Đóng góp về công tác đào tạo ....................................................................... 3

CHƢƠNG 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................ 4

2.1 Giới thiệu vấn đề nghiên cứu ............................................................................... 4

2.2 Lược khảo vấn đề nghiên cứu .............................................................................. 6

2.2.1 Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 6

2.2.2 Khái niệm và cơ sở lý thuyết của đề tài ........................................................ 7

2.2.2.1 Khái niệm Văn hóa đọc ........................................................................ 7

2.2.2.2 Nội dung của Văn hóa đọc ................................................................... 9

2.2.2.3 Vị trí, vai trò của Văn hoá đọc ........................................................... 13

2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến Văn hóa đọc. ..................................................... 14

2.2.3.1 Môi trường xã hội ................................................................................ 14

2.2.3.2 Lứa tuổi ............................................................................................... 15

2.2.3.3 Trình độ văn hóa .................................................................................. 15

2.2.3.4 Sự phát triển của khoa học công nghệ ................................................. 15

2.2.3.5 Hoạt động của thư viện ........................................................................ 15

2.2.3.6 Phương pháp đào tạo đại học hiện nay ................................................ 16

2.2.4 Văn hóa đọc ảnh hưởng đến kết quả học tập ............................................. 17

2.2.4.1 Thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc ảnh hưởng đến KQHT ...... 17

2.2.4.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của thư viện đến kết quả học tập ................... 19

2.2.4.3 Những tác động qua lại giữa thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc ảnh hưởng đến kết quả học tập ........................................................................ 22

CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................... 26

3.1 Mẫu nghiên cứu .................................................................................................. 26

3.2 Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................ 27

3.2.1 Nghiên cứu định tính ................................................................................... 27

3.2.2 Nghiên cứu định lượng................................................................................ 30

vi

3.2.3 Phương pháp nghiên cứu tư liệu ................................................................. 31

3.2.4 Phương pháp khảo sát ................................................................................. 31

3.2.5 Phương pháp thống kê và xử lý số liệu ...................................................... 31

3.3 Mô hình nghiên cứu ........................................................................................... 31

CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................... 32

4.1 Thực trạng về Văn hóa đọc của SV Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang32

4.1.1 Thói quen đọc ............................................................................................. 32

4.1.2 Sở thích đọc ................................................................................................ 37

4.1.3 Kỹ năng đọc ................................................................................................ 38

4.2 Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố Văn hóa đọc đến kết quả học tập của sinh viên ngành Ngữ văn ................................................................................................. 40

4.2.1 Yếu tố thói quen đọc ................................................................................... 40

4.2.2 Yếu tố sở thích đọc ..................................................................................... 43

4.2.3 Yếu tố kỹ năng đọc ..................................................................................... 46

4.3 So sánh VHĐ của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên của Khoa Sư phạm ............................................................................................................................ 51

4.3.1 Về thói quen đọc ......................................................................................... 51

4.3.2 Về sở thích đọc ........................................................................................... 54

4.3.3 Về kỹ năng đọc .......................................................................................... 55

CHƢƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP ............................................................ 58

5.1 Kết luận .......................................................................................................... 58

5.2 Giải pháp ........................................................................................................ 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 64

vii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Đặc điểm mẫu trong nghiên cứu chính thức ................................... 26

Bảng 3.2. Thống kê số lượng SV được ph ng vấn .......................................... 28

Bảng 4.1. Thống kê lý do thích/không thích đọc sách ..................................... 38

Bảng 4.2. Thống kê điểm trung bình về năng lực tạo lập văn bản của SV Khoa Sư phạm trước và sau khi được giảng viên hướng dẫn ................................... 38

Bảng 4.3. Thống kê thời gian đọc trung bình mỗi ngày của SV ngành Ngữ văn .......................................................................................................................... 40

Bảng 4.4. Thống kê tần suất đến Thư viện mỗi tuần của SV ngành Ngữ văn . 40

Bảng 4.5. Thống kê mục đích đến Thư viện .................................................... 41

Bảng 4.6. Tương quan về năng lực tạo lập văn bản của SV ............................ 48

Bảng 4.7. Thống kê mô tả về năng lực tạo lập văn bản của SV ...................... 50

Bảng 4.8. Thống kê về lí do mà SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên ................................................................................................................. 54

Bảng 4.9. So sánh ĐTB tự đánh giá của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên về phương pháp đọc tài liệu. ............................................................ 55

Bảng 4.10. So sánh ĐTB tự đánh giá của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên về kỹ năng đọc ....................................................................... 56

viii

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Hình tháp về mức độ tiếp thu nhớ và hiểu ............................................... 2

Hình 3.2. Mô hình nghiên cứu của đề tài ............................................................. 31

Hình 4.1. Biểu đồ tần suất đọc tài liệu của SV Khoa Sư phạm ............................... 32

Hình 4.2. Biểu đồ thời gian đọc sách của SV Khoa Sư phạm ................................ 33

Hình 4.3. Biểu đồ quá trình hình thành thói quen đọc của SV Khoa Sư phạm ........ 34

Hình 4.4. Thống kê các nguồn tài liệu mà SV có để đọc ....................................... 35

Hình 4.5. Biểu đồ tần suất đến Thư viện của SV Khoa Sư phạm .............................. 39

Hình 4.6. Biểu đồ thể hiện loại tài liệu SV Khoa Sư phạm lựa chọn ...................... 37

Hình 4.7. Thống kê đối tượng hướng dẫn SV Khoa Sư phạm kỹ năng đọc tài liệu .. 38

Hình 4.8. Tỉ lệ SV ngành Ngữ văn có góc học tập khi xét đến yếu tố về kết quả học tập ..................................................................................................................... 41

Hình 4.9. Biểu đồ thể hiện nguồn tài liệu mà SV ngành Ngữ văn tìm đọc .............. 42

Hình 4.10. Thống kê các đối tượng ảnh hưởng đến thói quen đọc của SV ngành Ngữ văn .................................................................................................................... 42

Hình 4.11. Biểu đồ các loại tài liệu mà SV ngành Ngữ văn thường tìm đọc ........... 43

Hình 4.12. Nhu cầu đọc sách của SV ngành Ngữ văn .......................................... 45

Hình 4.13. ĐTB tự đánh giá của SV ngành Ngữ văn về các tiêu chí ..................... 46

Hình 4.14. Thống kê đối tượng hướng dẫn SV ngành Ngữ văn kỹ năng đọc tài liệu 47

Hình 4.15. Thống kê tần suất SV ngành Ngữ văn và ............................................. 51

Hình 4.16. Thống kê số lượng tài liệu mà SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên đã đọc ....................................................................................................... 52

Hình 4.17. Thống kê thời gian đọc tài liệu trung bình hàng ngày của ..................... 53

Hình 4.18. Thống kê tần suất đến Thư viện hàng tuần của SV ngành Ngữ văn ....... 53

Hình 4.19. Thống kê về việc lựa chọn tài liệu đọc của SV ngành Ngữ văn và ........ 55

ix

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ĐHAG Đại học An Giang

ĐTB Điểm trung bình

GV Giảng viên

HS Học sinh

KTĐG Kiểm tra đánh giá

KQHT Kết quả học tập

SP Sư phạm

SV Sinh viên

THCS Trung học cơ sở

THPT Trung học phổ thông

TN Tự nhiên

VHĐ Văn hóa đọc

x

CHƢƠNG 1

GIỚI THIỆU

1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Văn hóa đọc (VHĐ) là một khái niệm chưa hoàn thiện. Mỗi người có một cách nghĩ và quan niệm khác nhau về VHĐ. VHĐ đã được nhiều người đề cập với ý nghĩa là một hoạt động văn hoá của con người thông qua việc đọc sách báo, tài liệu để tiếp nhận và xử lý thông tin, tri thức một cách khoa học và bổ ích. VHĐ góp phần to lớn vào việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, hình thành và phát triển nhân cách con người. Vậy tại sao VHĐ hiện nay đang được đặc biệt quan tâm? Thực tế của xã hội hiện nay cho thấy, việc đọc sách online, sách điện tử (e-book), báo điện tử, học trực tuyến (e-learning)…, đang trở nên phổ biến hơn. Mua sách báo giấy lậu giá rẻ, nhanh chóng, dễ dàng hơn so với việc đến thư viện và tìm kiếm mất thời gian và công sức nhưng nhiều lúc không th a mãn yêu cầu của mình. Do vậy, người ta lo ngại VHĐ bị “xuống cấp”, bị “lấn át” và đang bị mai một dần hay “đọc” sẽ vẫn thắng “xem”, VHĐ không bao giờ triệt tiêu? Phát triển VHĐ hiện nay không phải là làm tăng số lượng sách, báo trong xã hội mà làm tăng hiệu quả chất lượng sử dụng chúng. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã xây dựng dự thảo đề án “Phát triển VHĐ trong cộng đồng giai đoạn 2011-2020”. Để phát triển VHĐ cho cộng đồng UNESCO cũng sáng lập ngày Sách Quốc tế là ngày 23 tháng 4 hàng năm để cổ vũ phong trào đọc sách và xây dựng thói quen đọc sách trên toàn Thế giới. Quyết định và lời kêu gọi này của UNESCO được nhiều quốc gia hưởng ứng trong đó có Việt Nam. Ngày 23 tháng 4 cũng là “Ngày Đọc sách Việt Nam” nhằm khơi dậy phong trào đọc sách và VHĐ ở Việt Nam. Như vậy, phát triển VHĐ luôn là vấn đề có tính chiến lược của mọi quốc gia trong việc nâng cao dân trí, phát triển bền vững nguồn nhân lực. Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã xác định rất rõ cùng với Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, Giáo dục và đào tạo đã và đang được đổi mới toàn diện, đặc biệt là giáo dục đại học. Đổi mới giáo dục đại học là nhiệm vụ cấp bách được xác định trong nhiều chủ trương của Đảng và Nhà nước (Nghị quyết số: 14/2005/NQ-CP Về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020; Nghị quyết số: 29-NQ/TW (khóa XI) ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo). Phương thức đào tạo theo niên chế đang được chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, lấy người học làm trung tâm đòi h i người học phải tự học tập, tự nghiên cứu là chính. Người thầy chỉ là người hướng dẫn, định hướng, dạy cho phương pháp học, phương pháp nghiên cứu.

Để minh chứng cho việc tự học, đọc và nghiên cứu trong trường học là cực kì quan trọng, nhà khoa học Dalle đã đưa ra hình tháp về mức độ tiếp thu, nhớ và hiểu như sau:

1

Hình 1.1. Hình tháp về mức độ tiếp thu nhớ và hiểu

Từ mô hình này, chúng ta nhận thấy để tiếp thu bài hiệu quả đòi h i người học phải chủ động đọc, bởi đọc chiếm đến 10% về mức độ tiếp thu bài giảng, nghe giảng chỉ chiếm (5%). Chính vì vậy, VHĐ cần phải được chú trọng phát triển cho SV ở các trường đại học. Nằm trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, Trường Đại học An Giang (ĐHAG) khẳng định tầm nhìn “phát triển Trường ĐHAG thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ có uy tín trong cả nước và ngang tầm với các trường đại học trong khu vực Đông Nam Á, nơi hội tụ của khoa học, công nghệ, văn hóa và tri thức Việt Nam”. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng cần phải chú trọng đến người học là phát triển VHĐ cho họ. Hay nói cách khác là cần phát triển việc tự học, tự nghiên cứu tài liệu một cách tự giác, mang lại đam mê, thích thú đọc tài liệu cho họ, đồng thời giúp họ nhanh chóng tiếp cận đến nội dung cũng như các loại hình tài liệu khác nhau. Có nhiều cách khác nhau để tiếp nhận thông tin từ sách, báo, tài liệu nhưng trong đó đọc là một hoạt động tích cực nhất cho SV - những người bắt đầu làm quen với NCKH. Để có cơ sở khoa học đề xuất các giải pháp khả thi, nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn đề tài “Ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn- Khoa Sư phạm - Trường ĐHAG” với mong muốn qua quá trình khảo sát tìm hiểu về thực trạng VHĐ của SV Sư phạm, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố VHĐ đến KQHT của SV và đề xuất được một số giải pháp nhằm phát triển thói quen, rèn kỹ năng đọc sách cho SV giúp họ nhận ra sở thích đọc của mình. Đồng thời, giúp họ vận dụng những điều đã đọc vào việc học để có KQHT tốt hơn.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường ĐHAG và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao VHĐ cho SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm, góp phần cải thiện KQHT của họ.

1.3 ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

Yếu tố VHĐ ảnh hưởng đến KQHT của SV ngành Ngữ văn- Khoa Sư phạm -

Trường ĐHAG.

2

1.4 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Đề tài tập trung vào 03 nội dung chính:

Một là, tìm hiểu các yếu tố của VHĐ có ảnh hưởng đến KQHT của SV ngành

Ngữ văn;

Hai là,so sánh mức độ ảnh hưởng của VHĐ của SV ngành Ngữ văn và SV khối

ngành Tự nhiên Khoa Sư phạm;

Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao VHĐ cho SV ngành Ngữ văn-Khoa Sư

phạm, góp phần cải thiện KQHT của họ.

1.5 NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

1.5.1 Đóng góp về mặt khoa học

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp bức tranh tổng thể về VHĐ của SV

Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường Đại học An Giang.

Xác định được những yếu tố nào của VHĐ có ảnh hưởng đến KQHT của SV, nghiên cứu đã đánh giá mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường Đại học An Giang. Qua đó, góp thêm cơ sở khoa học cho việc đổi mới phương pháp dạy học đại học.

1.5.2 Đóng góp về công tác đào tạo

Cơ sở lý thuyết cũng như kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho GV, SV trong quá trình giảng dạy và học tập.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp Ban Giám hiệu,Thư viện, Khoa, Bộ môn vận dụng vào quá trình quản lí, đào tạo giúp nâng cao VHĐ cho SV, từ đó cải thiện KQHT của họ. Trên cơ sở đó, Trường sẽ có những giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

3

CHƢƠNG 2

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1 GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở tổng quan các vấn đề nghiên cứu, đề tài tìm hiểu, xác định các yếu tố nào của VHĐ có ảnh hưởng đến KQHT của SV. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến KQHT của SV. Kết quả nghiên cứu làm cơ sở xây dựng các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học.

Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm nghiên cứu nhận thấy việc xây

dựng và phát triển VHĐ ở Việt Nam có những thành tựu và hạn chế sau:

Thành tựu

Đã hình thành một mạng lưới thư viện rộng khắp trong cả nước, từ Trung ương tới cơ sở, với hai loại hình thư viện cơ bản: thư viện công cộng (bao gồm Thư viện Quốc gia Việt Nam, 63 thư viện cấp tỉnh, 626 thư viện cấp huyện, gần 10.000 thư viện/phòng đọc sách xã và hàng nghìn tủ sách thôn, làng, bản, ấp) và thư viện đa ngành, chuyên ngành (bao gồm trên 300 thư viện các trường đại học, cao đẳng, gần 25.000 thư viện trường phổ thông các cấp và gần 80 thư viện bộ ngành, các viện nghiên cứu,…). Bên cạnh mạng lưới thư viện Nhà nước, với chủ trương xã hội hóa của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, đã bắt đầu hình thành và phát triển mô hình thư viện tư nhân (trên 40 thư viện trong cả nước), tủ sách dòng họ,…có phục vụ cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đọc của người dân ở cơ sở. Công tác luân chuyển sách báo trong các thư viện công cộng được chú trọng, trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các thư viện. Đầu tư phát triển thư viện ngày càng được các cấp, các ngành quan tâm.

Xã hội đã quan tâm về vấn đề đọc sách và phát triển VHĐ nên đã có sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền, khích lệ, quảng bá cho VHĐ trong đời sống xã hội, góp phần tạo ra thói quen đọc, từng bước hình thành VHĐ trong cộng đồng. Trên một số diễn đàn, VHĐ đã được đưa ra và được nhiều trí thức, các nhà quản lý, doanh nhân bàn thảo và đề xuất nhiều các giải pháp, khuyến nghị để duy trì và phát triển VHĐ. Một số trang thông tin điện tử về VHĐ đã được thiết lập và trở thành diễn đàn để những người yêu sách, quan tâm tới VHĐ trao đổi chia sẻ những cuốn sách hay, phương pháp, kỹ năng đọc, hoặc là cầu nối giữa tác giả, tác phẩm với người đọc. Cụ thể, chúng ta đã xây dựng được nhiều mô hình VHĐ:

Tủ sách dòng họ, Nguyễn Quang Thạch, 14 năm miệt mài theo đuổi “sự nghiệp” đưa sách về nông thôn với mong muốn cung cấp cho người dân sống ở nông thôn cả nước được tiếp cận với tri thức rộng lớn của nhân loại góp phần nâng cao VHĐ cũng như đời sống tinh thần cho người dân. Từ năm 1997, Nguyễn Quang Thạch đã thiết kế rất nhiều mô hình thư viện khác nhau nhưng mô hình đạt yếu tố tự nhân rộng và được cho là hợp lí nhất là mô hình Tủ sách dòng họ. Cho đến nay, anh đã xây dựng được gần 100 tủ sách với gần 10.000 đầu sách ở hơn 20 tỉnh, phục vụ hàng ngàn độc giả ở nông thôn Việt Nam.

4

Câu lạc bộ sách, ở nước ta đã hình thành rất nhiều câu lạc bộ sách, trong đó tiêu biểu là câu lạc bộ Người yêu sách Nguyễn Huy Tưởng (TP. HCM), câu lạc bộ yêu sách Thái Hà (Hà Nội). Cho đến nay, câu lạc bộ này đã thu hút được hàng trăm bạn đọc khắp mọi miền đất nước làm cộng tác viên thân thiết và hàng ngàn bạn đọc đã tìm đến đọc sách tại câu lạc bộ. Theo Phạm Thế Cường - chủ nhiệm câu lạc bộ một trong những điểm yếu của VHĐ là thiếu sự gắn kết giữa những người đọc sách để cùng nhau chia sẻ và bình phẩm về những sách hay có giá trị. Vì vậy, câu lạc bộ sách này đã tổ chức gặp gỡ, giao lưu với các tác giả, tác phẩm được yêu thích; các nhà phê bình nhằm tôn vinh, thúc đẩy thói quen đọc sách trong cộng đồng.

Thƣ viện lƣu động – Bánh xe tri thức, đây là kết quả hợp tác giữa Thư viện Hà Nội và Quỹ Quốc tế Singapore với sự hỗ trợ của tập đoàn Keppel Land tại Việt Nam. Dự án được triển khai thực hiện tại các địa phương ngoại thành Hà Nội, khoảng 4000 trẻ em được hưởng lợi từ dự án này.

Xe sách lƣu động Fahasa, thành lập từ năm 1995 đến nay sau hơn 20 năm hoạt động liên tục, xe sách đã trở thành bạn thân thiết của người dân ngoại thành TPHCM, bạn đọc vùng sâu, vùng xa của nhiều tỉnh thành đã giúp rút ngắn khoảng cách VHĐ giữa bạn đọc ở đô thị và nông thôn.

Hạn chế

Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, mỗi năm, mỗi người Việt Nam chỉ đọc 0,8 cuốn sách. Số sách phân bổ tại các thư viện bình quân là 0,35 bản/người. Theo khảo sát của Thư viện Quốc gia Việt Nam, bạn đọc của thư viện chỉ chiếm khoảng 8 - 10 % dân số. Thư viện Quốc gia Việt Nam chỉ có khoảng 30.000 bạn đọc thường xuyên; thư viện cấp tỉnh chỉ có khoảng 1.000 - 2.000 bạn đọc, cấp huyện 500 - 600 bạn đọc; thư viện/phòng đọc cấp xã khoảng 100 - 200 bạn đọc. Theo số liệu thống kê của Cục Xuất bản - Bộ Thông tin và Truyền thông, tính theo số lượng bản sách nộp lưu chiểu, mức hưởng thụ bình quân của người dân nước ta là 3,4 bản sách/người. Năm 2010 theo Chỉ thị 42-CT/TW là 6 bản/người/năm.

Đối tượng đọc: Đọc là một hình thức tự học, đọc để tiếp nhận thông tin, để tiếp thu tri thức, nâng cao chất lượng công việc, chất lượng cuộc sống, song chưa thật sự phổ cập trong xã hội mà mới tập trung ở một số đối tượng, chủ yếu là các nhà nghiên cứu, các cán bộ nghỉ hưu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hướng lớn tới chất lượng giáo dục - đào tạo cũng như chất lượng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.

Thói quen đọc: Hiện nay, số người đọc nhiều, đọc thường xuyên chiếm tỷ lệ 30%, số người thỉnh thoảng đọc là 44%, trong khi đó số lượng người hoàn toàn không đọc là 26 %, một tỷ lệ khá cao so với thế giới. Bạn đọc của thư viện chỉ chiếm khoảng 8 – 10 % dân số. Có thể nói, thói quen đọc của người Việt Nam chưa được hình thành một cách vững chắc.

Xu hướng đọc: Xu hướng đọc hiện nay ít nhiều có biểu hiện lệch lạc. Giới trẻ (thanh, thiếu niên) - đối tượng chúng ta đang hướng tới xây dựng thế hệ đọc tương lai có xu hướng đọc những truyện tranh với những nội dung đơn giản, vô bổ, thậm chí thiếu lành mạnh, ngại đọc các loại sách kinh điển, lý luận, đặc biệt các sách dày, nhiều

5

tập, sách chữ,...xu hướng văn hóa nghe - nhìn đang có phần lấn lướt VHĐ. Thời gian dành cho lướt web, chơi game, xem truyền hình của HS, SV tương đối cao tới 55%.

Môi trường đọc: Môi trường đọc chưa thật sự đáp ứng nhu cầu đọc đa dạng, luôn thay đổi của cộng đồng, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo - nơi mà trình độ dân trí còn thấp, đời sống vật chất, văn hóa nghèo nàn rất cần đến ánh sáng tri thức, thông tin để nâng cao dân trí, để cải thiện cuộc sống của mình. Mạng lưới thư viện, tủ sách công cộng đã phát triển nhưng chất lượng tổ chức và hoạt động chưa đáp ứng được các nhu cầu đọc của người dân, đặc biệt mạng lưới thư viện cơ sở. Vốn sách báo ít, không được bổ sung thường xuyên, cơ sở vật chất nghèo nàn, cán bộ thiếu, kinh phí hoạt động thấp, thậm chí không được cấp v.v…Thư viện lưu động - một mô hình phục vụ VHĐ cho người dân ở cơ sở hết sức có hiệu quả về mặt xã hội cũng như hiệu quả kinh tế nhưng chưa được quan tâm đầu tư. Thư viện - một công cụ phục vụ đắc lực cho công tác giảng dạy, học tập trong nhà trường chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt mạng lưới thư viện các trường phổ thông hết sức nghèo nàn, yếu kém.

Việc giáo dục thói quen đọc, kỹ năng đọc: Giáo dục thói quen đọc, kỹ năng đọc – một vấn đề có tính chất quyết định tới việc hình thành VHĐ vẫn chưa được quan tâm. Gia đình, nhà trường, thư viện chưa phát huy được vai trò quan trọng trong việc hình thành thói quen đọc, hướng dẫn kỹ năng cũng như định hướng đọc cho trẻ em.

(Trích đề án: Phát triển VHĐ trong cộng đồng giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn

2030, trang 13, 14 .2010.)

Từ thực trạng nêu trên, nhóm nghiên cứu mong muốn có một công trình nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp giúp nâng cao hơn nữa VHĐ cũng như KQHT cho SV. Để có căn cứ thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát tìm hiểu các nghiên cứu có liên quan đến VHĐ.

2.2 LƢỢC KHẢO VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.2.1 Tình hình nghiên cứu

VHĐ gần đây đã được nhiều người đề cập với ý nghĩa là một hoạt động văn hoá của con người thông qua việc đọc sách báo, tài liệu để tiếp nhận và xử lý thông tin, tri thức một cách khoa học và bổ ích. VHĐ góp phần to lớn vào việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, hình thành và phát triển nhân cách con người. Để tôn vinh những giá trị mà VHĐ mang lại, đã có bài báo khẳng định “Đọc sách là hành trình của trí tuệ và tâm hồn”, “Đọc sách là biểu tượng của văn hóa và văn minh” hay một trang web quen thuộc với bạn đọc đăng tải những thông tin về vấn đề đọc sách và văn hóa đọc “sachhay.com”. Từ nhiều năm nay, tại các quốc gia ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Phi các hoạt động quảng bá cho ngày đọc sách được trình diễn khắp nơi trên đường phố, trên các phương tiện giao thông cộng cộng, trong giảng đường, thư viện,…Tiêu biểu nghiên cứu VHĐ ở Đức cho thấy VHĐ Ðức đã có một sự phát triển liên tục, bén rễ sâu xa trong đời sống xã hội và đời sống tinh thần người Ðức. Hội chợ sách Leipzip, một truyền thống giao lưu VHĐ từ thế kỷ 17, được tổ chức vào tháng 3 mỗi năm cũng đang thu hút một số lượng lớn người tham gia. Trên thế giới đã thiết lập “một ngày tôn vinh để giữ gìn và phát triển VHĐ” vào 23/04 hàng năm và người Việt Nam cũng thực sự chờ mong một ngày Tết

6

đọc sách đến cho người Việt. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã tổ chức cuộc hội thảo với chủ đề “Định hướng và giải pháp phát triển VHĐ ở Việt Nam”. Ngoài ra, Bộ còn xây dựng dự thảo Đề án “Phát triển VHĐ trong cộng đồng giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030”. Đề án là bước cụ thể hóa thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 với mục tiêu “Xây dựng phong trào đọc sách trong xã hội, góp phần xây dựng có hiệu quả thế hệ đọc tương lai”. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thấy được tầm quan trọng của VHĐ trong đời sống xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu tự đặt ra những câu h i “Thế kỷ XXI, liệu VHĐ có còn nữa không?”, “Người Việt có VHĐ?”, “VHĐ có cần báo động?”. Để trả lời được câu h i đặt ra, đã có không ít bài viết tìm hiểu về VHĐ thời đại hiện nay: “VHĐ và phát triển VHĐ ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hữu Viêm – Thư viện Quốc Gia Việt Nam; “Đọc và VHĐ trước ngưỡng cửa thông tin” của Phạm Văn Tình đăng trên Tạp chí Thư viện số 3/2006; bài viết “VHĐ: Cơ hội và thách thức” của Phạm Đức - SV Trường Đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh, “Cảm nhận về VHĐ” của tác giả Nguyễn Quang A – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS hay bài báo cáo “VHĐ của SV trường Đại học Lao động – Xã hội trước ngưỡng cửa công nghệ thông tin” của Nhóm SV khoa Công tác xã hội, trường Đại học Lao động – Xã hội năm 2011.

Về vấn đề phát triển VHĐ, nhiều tác giả đã nghiên cứu như: “VHĐ trong thanh niên hiện nay” của học viên Nguyễn Thị Khánh Hòa, Luận văn thạc sỹ Khoa Văn hóa học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009; “Nghiên cứu đánh giá nhu cầu đọc sách để định hướng xuất bản sách phục vụ bạn đọc, góp phần phát triển VHĐ tại các vùng miền” của tác giả Đỗ Kim Thịnh, Cục Xuất bản - Bộ Thông tin và Truyền thông, đề tài khoa học năm 2009; “Tăng cường và mở rộng phong trào đọc sách báo ở nông thôn tỉnh Hậu Giang” của tác giả Võ Thị Thu Hương, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Thư viện, Trường Đại học Văn hoá, năm 2006; “Thực trạng VHĐ của thanh thiếu niên tại Bình Dương hiện nay” của học viên Nguyễn Văn Thục, đề tài nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn cấp tỉnh, năm 2011; “Phát triển VHĐ cho SV Học viện Cảnh sát nhân dân” của học viên Đỗ Thu Thơm, chuyên ngành Khoa học Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011. Các công trình nghiên cứu trên đều đi từ thực trạng VHĐ và mục đích cuối cùng là đưa ra những giải pháp, chiến lược nhằm phát triển VHĐ, khẳng định vai trò VHĐ trong đời sống xã hội. Như vậy, đề tài “Ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn- Khoa Sư phạm - Trường Đại học An Giang” đi sâu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến VHĐ và các yếu tố của VHĐ ảnh hưởng đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường Đại học An Giang để từ đó đưa ra định hướng, giải pháp phát triển VHĐ cho SV là một hướng nghiên cứu mới.

2.2.2 Khái niệm và cơ sở lý thuyết của đề tài

2.2.2.1 Khái niệm Văn hóa đọc

VHĐ - một bộ phận của văn hóa - là một trong những động lực thúc đẩy sự hình thành nên con người mới, những công dân có hiểu biết, có trí tuệ để có thể thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại – xã hội dựa trên nền tảng của nền kinh tế tri thức. Như vậy, để hiểu về VHĐ trước hết cần làm rõ khái niệm về văn hóa. Đây là khái niệm rộng

7

với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trần Ngọc Thêm (2012) định nghĩa: “Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, vv... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa”.

Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004: “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử - văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.” Hay nói tổng quát: Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm th a mãn nhu cầu đời sống tinh thần. Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học. Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn.

Như vậy, có thể định nghĩa văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội để duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.

Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, con người được tiếp thu mọi lĩnh vực tri thức thông tin qua truyền thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác nhưng sách vẫn giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống. Đọc sách là một hoạt động có tính chất văn hóa của người đọc. Tuy nhiên, đọc sách gì và đọc như thế nào cũng là một phương diện của văn hóa mà chúng ta vẫn gọi là VHĐ.

Có nhiều quan niệm khác nhau về VHĐ:

Trần Dương (2013) trong bài viết “Những yếu tố ảnh hưởng đến VHĐ của sinh viên hiện nay”, quan niệm đọc đến một mức độ, trình độ nhất định nào đó thì mới được coi là VHĐ.

Trần Thị Thanh Vân (2013) cho rằng VHĐ là sự tổng hợp của mọi phương thức, hình thức ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân, mỗi nhà quản lý và của cộng đồng xã hội nhằm hoàn thiện nhân cách, hoàn thiện xã hội. Ứng xử đọc, giá trị đọc, chuẩn mực đọc được tạo nên bởi ba yếu tố quan trọng đó là thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Tham gia vào hoạt động VHĐ không chỉ có cá nhân là những người sáng tạo, bảo quản, phổ biến giá trị văn hóa mà còn có nhiều thiết chế như thư viện, viện nghiên cứu, hội nghề nghiệp, bảo tàng, nhà trường, xuất bản, phát thanh truyền hình và những người làm công tác xã hội,...tạo nên một hạ tầng cơ sở vật chất –

8

công nghệ cho các hoạt động VHĐ. Như vậy, phát triển VHĐ là những hoạt động của con người để biến đổi việc tiếp nhận thông tin (ứng xử, giá trị và chuẩn mực tiếp nhận thông tin) của con người nhằm giúp họ nâng cao khả năng tiếp nhận và tiếp tục tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần (văn hóa) cao hơn hướng tới chân, thiện, mỹ với mục đích hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống con người.

Nguyễn Hữu Viêm (2013) cho rằng: VHĐ là một khái niệm có hai nghĩa, một

nghĩa rộng và một nghĩa hẹp:

+ Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân,

của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý và cơ quan quản lý Nhà nước.

Như vậy, VHĐ ở nghĩa rộng là sự hợp thành của ba yếu tố, hay chính xác hơn là

ba lớp như ba vòng tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau.

+ Ở nghĩa hẹp, đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng xử, giá trị và chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc.

Ngày nay, với sự bùng nổ công nghệ thông tin, con người ngày càng tiếp xúc với các phương tiện truyền thông hiện đại, nhiều ý kiến lo ngại rằng văn hoá nghe -nhìn sẽ ngày càng lấn lướt VHĐ. Thậm chí, nhiều người đổ lỗi cho sự phát triển của công nghệ đã khiến cho VHĐ ngày càng bị lãng quên. Tuy nhiên, xu hướng thế giới cho thấy, việc ra đời sách điện tử không hề làm mất đi VHĐ mà thậm chí bởi sự tiện dụng, sách điện tử còn làm cho số người đọc sách tăng lên. Chúng ta không nên gạt b một công nghệ hiện đại khi mà nó hoàn toàn có khả năng thúc đẩy sự phát triển VHĐ. Bởi lẽ, các loại hình văn hóa khác như văn hóa nghe - nhìn, không thể lấn át VHĐ mà chúng chỉ bổ sung cho nhau, mỗi loại hình có một thế mạnh riêng. VHĐ bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá và tiếp thu kiến thức một cách hệ thống và sâu sắc mà văn hóa nghe nhìn không thể làm được như vậy. Trong khi văn hóa nghe nhìn lấy đi sự sáng tạo, trí tưởng tượng thì VHĐ lại làm giàu thêm những thứ đó. Đọc sách vẫn luôn được coi là một cách thưởng thức văn hóa sang trọng và có chiều sâu. Vì thế, chúng ta không cần quá lo lắng việc trong xã hội phát triển VHĐ sẽ mất đi, cái cần làm là chúng ta hãy mở rộng hơn những cách tiếp cận việc đọc.

Căn cứ trên các quan niệm về văn hóa cũng như VHĐ và tổng quan nghiên cứu liên quan, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu Văn hóa đọc theo nghĩa hẹp, VHĐ: là cách thức ứng xử và đánh giá đọc của mỗi cá nhân thông qua thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc của bản thân. Phát triển VHĐ cho SV là phát triển thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc cho họ nhằm giúp họ vận dụng VHĐ vào việc học để nâng cao KQHT.

2.2.2.2 Nội dung của Văn hóa đọc

Từ các khái niệm đã nêu trên, theo nhóm nghiên cứu, VHĐ được biểu hiện qua các đặc điểm của người đọc đó là nhu cầu đọc, thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc và văn hóa ứng xử với tài liệu:

9

Nhu cầu đọc

Trần Văn Hà trong bài viết “Đẩy mạnh VHĐ trong thời đại công nghệ thông tin” (Trần Văn Hà, 2007, tr.69) đã nêu rõ nhu cầu là một hiện tượng tâm lý trong cấu trúc tâm lý chung của con người. Nhu cầu đọc là đòi h i khách quan của chủ thể (cá nhân, nhóm, xã hội) đối với việc tiếp nhận và sử dụng tài liệu nhằm duy trì và phát triển các hoạt động sống của con người. Nói cách khác, nhu cầu đọc là thái độ của chủ thể với việc đọc như một hoạt động sống không thể thiếu được. Yêu cầu đọc là biểu hiện cụ thể của nhu cầu đọc. Khi người đọc đã xác định được đối tượng tài liệu cụ thể th a mãn được nhu cầu của mình thì họ đưa ra yêu cầu tương ứng. Yêu cầu tương tự sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần ở những đối tượng cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc biệt, yêu cầu đọc không phản ánh nhu cầu mà xuất phát từ những yêu cầu công việc đột xuất. Ví dụ để thực hiện bài tập của một môn học ở một thời điểm cụ thể nào đó.

Nhu cầu đọc bắt nguồn từ yêu cầu tiếp nhận thông tin khi con người tham gia các hoạt động sống khác nhau, nhưng nó chỉ thực sự hình thành với điều kiện chủ thể có khả năng giải mã thông tin được mã hóa trong tài liệu. Khi đòi h i đối với việc đọc trở nên cấp bách, thường xuyên, nhu cầu đọc xuất hiện. Nhu cầu đọc bao giờ cũng gắn liền với số lượng và chất lượng tài liệu được lưu hành trong một xã hội cụ thể. Thư viện là nơi lưu trữ và truyền tải tri thức thông qua vốn tài liệu và công tác phục vụ bạn đọc. Vì vậy, nhu cầu đọc là nguồn gốc của hoạt động thư viện. Hoạt động thư viện không thể tồn tại và phát triển ở những nơi không có nhu cầu đọc, thói quen đọc và sở thích đọc.

Thói quen đọc

Thói quen là một chuỗi phản xạ có điều kiện do rèn luyện mà có. Phản xạ có điều kiện là những hành vi (nếp sống, phương pháp làm việc) được lặp đi lại nhiều lần trong cuộc sống và rèn luyện (học tập, làm việc), đó là những hành vi định hình trong cuộc sống và được coi là bản chất thứ hai của con người nhưng nó không sẵn có mà là kết quả của việc sinh hoạt, học tập, rèn luyện, tu dưỡng của mỗi cá nhân trong cuộc sống hằng ngày, tuy vậy thói quen cũng có thể bắt nguồn từ một nguyên nhân đôi khi rất tình cờ hay do bị lôi kéo từ một cá thể khác. (Wikipedia, 2013. Khái niệm thói quen).

Sở thích đọc

Sở thích hay còn gọi là thú vui, thú tiêu khiển là những hoạt động thường xuyên hoặc theo thói quen để đem lại cho con người niềm vui, sự phấn khởi trong khoảng thời gian thư giãn, sở thích cũng chỉ về sự hứng thú, thái độ ham thích đối với một đối tượng nhất định. (Wikipedia, Khái niệm sở thích, 2013).

Mỗi người đều có lối sống, thói quen và sở thích riêng rất khác nhau và việc thay đổi những thói quen của một con người rất khó khăn. Có những thói quen được hình thành từ hứng thú về một hoạt động nào đó hay từ những sở thích của bản thân. Vì vậy, trên khía cạnh lợi ích và tác hại của hành động mang lại mà có thể chia thói quen thành hai loại là thói quen tốt và thói quen xấu. Thói quen đọc hay sở thích đọc là một hoạt động hay mối quan tâm của con người liên quan đến việc đọc sách, báo, tài liệu có tính chất lặp lại nhiều lần trong thời gian rảnh rỗi nhằm th a mãn nhu cầu tinh thần của bản thân. Có những thói quen đọc sách bắt nguồn từ việc đọc sách thường xuyên trong thời

10

gian dài ví dụ như một ngày luôn dành từ 2 đến 3 giờ để đọc sách hay từ hứng thú đọc một loại sách nhất định như truyện tranh, tiểu thuyết, sách văn học, sách về khoa học viễn tưởng,…Vì vậy, nhu cầu đọc và hứng thú đọc là nhân tố kích thích hoạt động đọc làm cho hoạt động đọc đạt hiệu quả cao (tăng cường sức chú ý, cường độ đọc cao, có sự tham gia đến mức tối ưu của các quá trình tư duy, tưởng tượng, trí nhớ) dẫn tới việc thụ cảm tài liệu ở mức độ cao.

Ngày nay, giới trẻ nói chung, SV nói riêng được tiếp cận nhiều hơn với các loại hình truyền thông đa phương tiện, xu hướng tìm kiếm một cách nhanh chóng, ngắn gọn, dễ hiểu thay vì ngồi đọc, nghiền ngẫm suy nghĩ, ghi chép thông tin. Như vậy, việc hình thành thói quen đọc sách và tạo hứng thú đọc cần được rèn luyện không chỉ trong môi trường giáo dục gia đình, nhà trường mà cả sự quan tâm của Thư viện.

Kỹ năng đọc

Việc đọc được miêu tả như một phương tiện giao tiếp và mục tiêu chính của đọc là hiểu được ý nghĩa của các tài liệu in ấn hoặc các tài liệu viết. Đọc có nghĩa là đọc và hiểu, nhưng để hiểu được các vấn đề đã đọc thì bản thân mỗi người đọc cần có kỹ năng.

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng và thường được nhắc đến trong đời sống hàng ngày như kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng mềm,...Tuy nhiên, hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó một cách có ý thức. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng. (Bùi Trọng Giao, 2013).

Vậy, kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi. Kỹ năng đọc là một loại kỹ năng mềm, phương thức giúp người đọc có thể tiếp nhận thông tin một cách nhanh nhất. Cùng với nhu cầu đọc, hứng thú đọc thì kỹ năng đọc là yếu tố quan trọng cấu thành VHĐ.

Nếu xét theo tổng quan thì kỹ năng phân ra làm 3 loại: Kỹ năng chuyên môn, kỹ năng sống và kỹ năng làm việc. Nếu xét theo liên đới chuyên môn kỹ năng bao gồm: kỹ năng cứng, kỹ năng mềm và kỹ năng hỗn hợp.

Ninh Thị Kim Thoa (2006) trong bài viết: “Giáo dục người sử dụng trong thư viện đại học” cho rằng: kỹ năng đọc là thành tố quan trọng nhất trong cấu trúc VHĐ, là khả năng hiểu, lĩnh hội và cảm thụ tác phẩm, biến tri thức, kinh nghiệm trong sách thành tri thức, kinh nghiệm của bản thân để có thể vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo trong khi tiến hành các hoạt động sống khác nhau. (Ninh Thị Kim Thoa, 2006, tr.112).

Kỹ năng đọc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tri thức, kinh nghiệm, năng lực và mục đích đọc của mỗi cá nhân. Trong đó, mục đích đọc là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp đọc phù hợp với yêu cầu đọc. Từ đó, sẽ giúp các bạn tránh được đọc tràn lan, tốn công sức và quản lý thời gian đọc sách hợp lý.

11

Để VHĐ trở thành trở thành một chuẩn mực phải có kỹ năng đọc. Kỹ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen ứng xử đọc. Các thao tác tư duy đó là:

- Lựa chọn có ý thức đề tài hoặc những vấn đề cần đọc cho bản thân, biết vận dụng thành thạo các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu đọc (tài liệu nghiên cứu, tài liệu phổ thông, tài liệu giải trí,...).

- Biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân, trước hết trong các thư mục và mục lục thư viện, các nguồn tra cứu như: bách khoa thư, từ điển giải nghĩa, các loại sổ tay,... và biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân trong môi trường số (trong các cơ sở dữ liệu, trên Internet).

- Thể hiện được tính hệ thống, tính liên tục trong quá trình lựa chọn tài liệu đọc

(đọc từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ các vấn đề đơn giản tới phức tạp).

- Biết cách tiếp nhận tối đa và sâu sắc nội dung tài liệu đọc, kể cả cách ngồi,

khoảng cách giữa mắt và tài liệu đọc, vv...

- Biết vận dụng các biện pháp kỹ thuật để củng cố và đào sâu những nội dung đã đọc như ghi chép, hộp phiếu thư mục, soạn tóm tắt, viết chú giải, trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp,... Biết vận dụng vào thực tiễn những nội dung đã đọc.

Nguyễn Hữu Viêm cho rằng: “Trong kỹ năng đọc yếu tố nào cũng quan trọng, không được coi nhẹ một yếu tố nào. Nếu không biết vận dụng các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu đọc, đọc tài liệu nghiên cứu cũng như đọc tài liệu giải trí, không thể tiếp nhận được nội dung sâu sắc của tài liệu nghiên cứu. Vì mục đích cuối cùng của kỹ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc”. (Nguyễn Hữu Viêm, 2013).

Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục đại học đã bắt đầu chuyển qua đào tạo theo học chế tín chỉ đòi h i SV hình thành thói quen tích cực tự học. Bản thân SV cần tự rèn luyện cho mình kỹ năng đọc để có thể đáp ứng được các yêu cầu trong học tập.

Văn hóa ứng xử với tài liệu

Ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác trong những tình huống xác định. Ứng xử không thể hiện sự chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng - tuỳ thuộc vào tri thức, nhân cách nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất.

Vậy, kết hợp với định nghĩa văn hóa ở trên, văn hóa ứng xử là cách mà con người thể hiện thái độ của mình đối với người khác và với môi trường xung quanh, được biểu hiện qua hình thái của văn hóa nói và văn hóa hành động.

Khi nói đến văn hóa ứng xử với tài liệu tức là nói tới việc bạn thu nhận các thông tin trong tài liệu bằng cách nào? Bạn đối xử với tài liệu đó ra sao? Hay nói một cách khác là bạn thể hiện sự tôn trọng đối với cuốn sách bạn đang sử dụng như thế nào ?

12

Văn hóa ứng xử với tài liệu chính là thái độ và hành động của người đọc đối với tài liệu trong quá trình đọc. Những biểu hiện này phụ thuộc vào tính cách và nhận thức của mỗi cá nhân bao gồm các thái độ: giữ gìn, khai thác/sử dụng đúng mục đích, không có hành vi làm hư tổn tài liệu. Ngoài ra, văn hóa ứng xử với tài liệu còn thể hiện qua tư thế đọc, nơi lưu giữ tài liệu.

Sinh viên tiếp xúc với tài liệu thường xuyên trong quá trình học tập, nghiên cứu, thói quen đọc ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa ứng xử với tài liệu của mỗi người. Vì vậy, ngoài việc hình thành thói quen đọc sách hàng ngày, bản thân mỗi người cần tạo cho mình một thái độ trân trọng tài liệu - sản phẩm trí tuệ của nhân loại.

2.2.2.3 Vị trí, vai trò của Văn hoá đọc

Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của VHĐ đối với sự phát triển của đất nước trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đánh giá cao tầm quan trọng của VHĐ, trong kỳ họp lần thứ 28 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc tại Paris (ngày 25/10 – 16/11/1995), UNESCO (Tổ chức Văn hoá, Giáo dục, Khoa học Liên hợp quốc) đã quyết định chọn ngày 23/4 hàng năm làm “Ngày Sách và Bản quyền Thế giới” (World Book and Copyright Day), trong đó nêu rõ mục tiêu và các thành phần tham gia ngày tôn vinh những giá trị của sách và sự đóng góp của các tác giả cho sự ra đời của các tác phẩm bất hủ. Ngày này được tổ chức hàng năm tại mỗi quốc gia nhằm bảo đảm cho mọi người khám phá và th a mãn sở thích đọc của mình, đồng thời là dịp để tôn vinh những tác giả đã có nhiều đóng góp cho sự tiến bộ văn hóa, văn minh xã hội của nhân loại. Tại Việt Nam, Ngày Đọc sách thế giới được tổ chức hằng năm do Hội đồng Anh (British Council) khởi xướng từ năm 1996, Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội – Lespace cũng có nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực để tuyên truyền cho VHĐ nhằm khuyến khích, đưa phong trào đọc sách báo trở thành nét đẹp văn hóa của người Việt trong thời kỳ giao lưu và hội nhập. Đề cao tầm quan trọng của sách báo và tri thức trong đời sống, sự kiện ngày đọc sách thế giới ở Việt Nam đang trở thành nét văn hóa, văn minh và cần được duy trì để VHĐ luôn là nhu cầu không thể thiếu của công dân trong thời đại mới.

Theo Tổ chức Giáo dục quốc tế: “Phát triển một nền VHĐ sẽ mất nhiều thời gian hơn so với thời gian cần thiết để tìm một căn phòng và lấp đầy nó đầy sách. VHĐ là gì và làm thế nào để phát triển nó? Thứ nhất, người ta phải nhìn thấy giá trị trong việc đọc. Họ cần phải nhìn thấy lợi ích thiết thực trong cuộc sống của mình, từ những niềm vui của đọc một câu chuyện hay, sự tò mò của thế giới xung quanh, để có được các kỹ năng cho sự nghiệp của họ. Thứ hai, họ cần phải học cách để giải mã các thông tin quan trọng. Thứ ba, họ cần phải biết làm thế nào để sử dụng các nguồn lực, làm thế nào để tìm thấy những cuốn sách, làm thế nào để nghiên cứu, làm thế nào để tìm kiếm trên Internet. Họ cần phải có quyền truy cập thường xuyên khi đến thư viện, tìm kiếm các cuốn sách có liên quan, cuốn sách bằng tiếng địa phương, cuốn sách cho mọi lứa tuổi, và hy vọng máy tính có thể truy cập Internet. Và cuối cùng họ cần những người trong cuộc sống của họ, những người sẽ khuyến khích tình yêu đọc bao gồm cha mẹ, giáo viên và cán bộ thư viện, những người có ảnh hưởng tới họ từ khi còn rất nh ”. (Sách và văn hóa đọc sách, 2013).

13

Trao đổi với Học viện cảnh sát nhân dân ngày đọc sách thế giới, Đoàn Hương (2014) cho rằng VHĐ có ý nghĩa và tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với mọi tầng lớp trong xã hội. Đối với cán bộ, GV và SV thì VHĐ càng có ý nghĩa quan trọng. VHĐ trở thành công cụ hữu ích đảm bảo cho người học khả năng tiếp cận, lĩnh hội thông tin và tri thức mới, những thành tựu mới của khoa học. VHĐ cũng đồng thời là phương tiện và công cụ đảm bảo cho SV có thể thực hiện ý tưởng học suốt đời trong bối cảnh phát triển của xã hội học tập hiện nay. (Đoàn Hương.2014)

Trong “Đề án phát triển VHĐ trong cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030” Chính phủ khẳng định: “VHĐ là một hoạt động văn hóa ở tầm cao của một dân tộc. Thông qua VHĐ định hướng đọc cho mọi người dân, tuỳ thuộc vào trình độ dân trí, nghề nghiệp và điều kiện sống, có thể tiếp cận được với thông tin, tri thức phù hợp, hữu ích nhất cho cuộc sống của mình. VHĐ có thể giúp cho mỗi cá nhân có một cuộc sống trí tuệ hơn, đẹp đẽ, ý nghĩa, hạnh phúc và hài hòa hơn. Chính vì vậy, phát triển VHĐ luôn là một vấn đề mang ý nghĩa chiến lược của mọi quốc gia trong việc nâng cao dân trí, góp phần phát triển bền vững nguồn nhân lực - nhân tố quyết định mọi thành công. Phát triển VHĐ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước góp phần đem lại cho dân tộc Việt Nam sức mạnh của trí tuệ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”.

Từ các quan niệm và nhận định trên đã góp phần làm rõ thêm vị trí, vai trò của VHĐ đối với mọi tầng lớp trong xã hội nói chung. Đặc biệt, đối với HS, SV VHĐ trang bị cho họ công cụ chiếm lĩnh tri thức th a mãn nhu cầu, khát vọng tìm hiểu chinh phục thế giới xung quanh và phục vụ thiết thực cho công việc học tập trước mắt của họ, từ đó góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

2.2.3 Các yếu tố ảnh hƣởng đến Văn hóa đọc

VHĐ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: Môi trường xã hội; Lứa tuổi; Trình độ văn hóa; Sự phát triển của khoa học công nghệ; Hoạt động của Thư viện; Phương pháp đào tạo đại học hiện nay.

2.2.3.1 Môi trường xã hội

VHĐ với ý nghĩa là một bộ phận của văn hóa chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của điều kiện môi trường xã hội. Khi nền văn hóa phát triển sẽ sản sinh ra thông tin đa dạng, sẽ được lưu giữ và chuyển tải bằng nhiều phương tiện khác nhau để có thể bảo quản và lưu truyền cho các thế hệ sau. Nếu như trước kia sách là con đường lớn nhất để con người tiếp cận thông tin và tiếp cận văn hóa, tri thức thì nay với sự phát triển của cuộc sống hiện đại, ngoài sách, con người còn tiếp nhận thông tin của các phương tiện đại chúng như: Truyền hình, phim ảnh, internet,…đặc biệt kể từ khi xuất hiện Internet, chỉ với một chiếc máy tính, con người ta có thể ngồi một chỗ và tìm hiểu văn hóa, lịch sử, thông tin của cả thế giới. VHĐ vì thế thay đổi để bắt kịp cuộc sống hiện đại.

Nhiều ý kiến cho rằng sự phát triển này sẽ khiến cho VHĐ ngày càng bị lãng quên, con người sẽ “chạy” theo các thiết bị hiện đại làm cho con người nhàn hơn, ít phải suy nghĩ hơn. Tuy nhiên, nếu nhìn lại sự thay đổi với sự phát triển nhanh của xã hội, để bắt nhịp với cuộc sống hiện đại chúng ta cũng nên có một cái nhìn khách quan hơn với

14

các phương tiện điện tử nói riêng và VHĐ nói chung. Chúng ta không nên gạt b một công nghệ hiện đại khi mà nó hoàn toàn có khả năng thúc đẩy sự phát triển VHĐ.

2.2.3.2 Lứa tuổi

Mỗi giai đoạn lứa tuổi của con người có những đặc điểm tâm lý riêng do hoạt động chủ đạo chi phối. Tâm lý học phân chia 4 giai đoạn lứa tuổi tương ứng với những hoạt động chủ đạo có tính chất khác nhau: trước tuổi học; học tập; tham gia lao động sản xuất; nghỉ lao động. Các đặc điểm tâm lý lứa tuổi ảnh hưởng khá rõ rệt tới nội dung và phương thức th a mãn nhu cầu đọc.

2.2.3.3 Trình độ văn hóa

Trình độ văn hóa có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần của con người (nhu cầu hiểu biết và nhu cầu thẩm mỹ phát triển). Là một nhu cầu tinh thần, nhu cầu tin và nhu cầu đọc cũng bị chi phối bởi trình độ văn hóa của con người (nội dung và phương thức th a mãn).

2.2.3.4 Sự phát triển của khoa học công nghệ

Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các phương tiện truyền thông điện tử, tin học đã đem đến rất nhiều tiện ích cho con người. Sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông, các hoạt động sản xuất kinh doanh, giao lưu, trao đổi văn hóa,…đã có sự thay đổi mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực. Bên cạnh đó, nó cũng mang tới một số ảnh hưởng tiêu cực đặc biệt là giới trẻ mà đối tượng chính là HS, SV. Nhiều SV thường chỉ có thói quen tìm kiếm những thông tin giải trí, mà không tận dụng được hết những tiện ích, những mặt tích cực của Internet đem lại để phục phụ học tập, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Ví như sự ra đời của sách điện tử (e-book) đã thu hút số lượng lớn bạn đọc. Một cuộc cách mạng về cách thức đọc được mở ra khi mà các thiết bị đọc sách với kiểu dáng gọn nhẹ, chỉ tương đương thậm chí bé và nhẹ hơn một cuốn sách thông thường nhưng lại có thế chứa hàng nghìn quyển sách. Song thời gian đã chứng minh điều ngược lại, báo in vẫn sống kh e bên cạnh báo điện tử và dù muốn hay không muốn thì sách điện tử cũng đã có mặt và đang góp phần thay đổi VHĐ. Như vậy, dù xã hội có phát triển hay cuộc sống có thay đổi thì VHĐ vẫn là yếu tố không thể thiếu, không thể thay thế. Bởi lẽ các loại hình văn hóa khác như văn hóa nghe nhìn, không thể lấn át VHĐ mà chúng chỉ bổ sung cho nhau, mỗi loại hình có một thế mạnh riêng. VHĐ bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá và tiếp thu kiến thức một cách hệ thống và sâu sắc mà văn hóa nghe nhìn không thể làm được như vậy. Trong khi văn hóa nghe nhìn lấy đi sự sáng tạo, trí tưởng tượng thì VHĐ lại làm giàu thêm những thứ đó. Đọc sách vẫn luôn được coi là một cách thưởng thức văn hóa sang trọng và có chiều sâu. Vì thế, chúng ta không cần quá lo lắng việc trong xã hội phát triển VHĐ sẽ mất đi, cái cần làm là chúng ta hãy mở rộng hơn những cách tiếp cận việc đọc, công nghệ hiện đại có cơ hội bổ trợ cho cách thức đọc truyền thống, để VHĐ nói chung có thêm cơ hội phát triển.

2.2.3.5 Hoạt động của thư viện

Thư viện là kho tàng chứa tất cả của cải tinh thần của loài người (G.V.Leibniz), là nơi thông tin được tổ chức, nơi dễ dàng tìm thấy thông tin mà tất cả mọi người cần hoặc

15

muốn. Thư viện bổ sung và cập nhật những kiến thức mới, những phương pháp giảng dạy tiên tiến làm cho việc học tập và giảng dạy thêm sinh động và hấp dẫn. Thư viện chỉ có giá trị khi nó có thông tin và có người biến thông tin trở nên hữu ích hay nói cách khác thư viện là cầu nối giữa thông tin và người sử dụng. Hoạt động của thư viện bao gồm việc tổ chức, quản lý và phát triển tất cả các sản phẩm và dịch vụ của thư viện như: bổ sung tài liệu, cung cấp tài liệu, khai thác thông tin, hoạt động tuyên truyền, giới thiệu tài liệu, hội nghị, hội thảo bạn đọc, …

Mỗi loại hình thư viện phục vụ cho bạn đọc xác định trong xã hội và có mục đích, yêu cầu, nội dung hoạt động không giống nhau. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của hoạt động thư viện là nhằm thu hút số lượng lớn bạn đọc thuộc mọi trình độ khác nhau, mọi thành phần xã hội, mọi lứa tuổi và giúp họ th a mãn nhu cầu tin của bản thân. Như vậy, để đáp ứng mục tiêu đó, trước hết thư viện cần nghiên cứu nhu cầu đọc và đặc điểm của các nhóm người đọc khác nhau của một thư viện cụ thể. Từ đó, thư viện cần đa dạng hóa, hiện đại hóa các loại hình sản phẩm và dịch vụ thông tin – thư viện, tăng cường hướng dẫn sử dụng thư viện, quảng bá nguồn lực thông tin, vốn tài liệu và dịch vụ thư viện. Việc phát triển dịch vụ thư viện phải được xem là một trong những giải pháp mang ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng và phát triển VHĐ trong cộng đồng trong bối cảnh của nước ta hiện nay. Ví dụ như hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn việc đọc sách, hướng dẫn sử dụng thư viện trong học tập đã gây dựng, nuôi dưỡng và định hình thói quen đọc, giúp hình thành sở thích đọc tích cực, lành mạnh, uốn nắn những sở thích đọc lệch lạc và góp phần từng bước giáo dục kỹ năng đọc cho người đọc. Quan trọng hơn là tạo ra thói quen sử dụng thư viện trong học tập. Hiện nay, thời đại bùng nổ thông tin, việc đánh giá VHĐ trong cộng đồng còn có những ý kiến khác nhau về vai trò của thư viện và tài liệu truyền thống. Một vấn đề mới được đặt ra là: Thư viện cần làm gì để phát triển VHĐ trong cộng đồng trong khi công nghệ thông tin đang phát triển mạnh. Vì vậy, thư viện đang có xu hướng hiện đại hóa hoạt động thư viện bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin vào các khâu công tác nghiệp vụ như: tra cứu, khai thác vốn tài liệu trên thiết bị điện tử, số hóa tài liệu, mượn liên thư viện trong nước và ngoài nước, mượn trả tài liệu tự động,…xuất hiện thuật ngữ Thư viện số, Thư viện điện tử. Vì vậy, nhiều ý kiến lo ngại rằng tài liệu in sẽ bị lãng quên. Tuy nhiên, chúng ta không nên gạt b công nghệ hiện đại khi mà nó hoàn toàn có khả năng thúc đẩy sự phát triển VHĐ bởi vì vấn đề cốt lõi là cá nhân người đọc cần phải biết đọc gì và biết khai thác ở đâu. Ngoài ra, không thể quên một yếu tố quyết định trong việc đảm bảo hiệu quả hoạt động của thư viện, cầu nối giữa nguồn tài nguyên thông tin và bạn đọc, đó là cán bộ thư viện. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, người cán bộ thư viện hôm nay không chỉ là người hỗ trợ người đọc mà còn là người đào tạo người đọc, người nghiên cứu, người quản lý tri thức. Đặc biệt những kỹ năng thiết yếu cần có của một cán bộ thư viện là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống, trình độ ngoại ngữ và tin học. Chính vì vậy, cán bộ thư viện cần được đào tạo và tự đào tạo thường xuyên để nâng cao trình độ và năng lực nghiệp vụ của mình.

2.2.3.6 Phương pháp đào tạo đại học hiện nay

Chất lượng giảng dạy đại học ở nước ta trước đây đang trong tình trạng báo động cao. Việc giảng dạy và học tập vẫn diễn ra một cách thụ động. Phương thức dạy và học

16

như thế đang làm mất đi khả năng sáng tạo, năng lực tư duy độc lập, sự sinh động và hấp dẫn của các buổi học. Từ năm học 2009 - 2010, phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ đã được áp dụng cho hầu hết các trường Đại học và Cao đẳng trong cả nước. Phương pháp dạy và học mới đòi h i một số điều kiện tiên quyết cho phép người học “phát huy nội lực” và người dạy “dạy cách phát huy nội lực”. Phương pháp này sẽ rút ngắn thời gian giảng dạy lý thuyết trên cơ sở SV được cung cấp nguồn thông tin dồi dào trước khi lên lớp, tăng thời gian tự học của SV. Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học tập theo hệ thống tín chỉ của SV ở các trường đại học hiện nay. Tự học nhằm phát huy tính tự giác học và nghiên cứu. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ xác định rõ trọng tâm của người học là bắt buộc nhận thức việc tự học của mình là chính. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi h i SV phải hình thành kỹ năng tự học và tự nghiên cứu. Muốn thực hiện tốt vấn đề liên quan đến học tập, SV phải tự đến thư viện tìm tài liệu liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu, thảo luận.

Thư viện có đầy đủ sách báo, tài liệu điện tử, vv...về mọi lĩnh vực tri thức trong chương trình đào tạo của nhà trường. Những điều SV phát hiện, tìm tòi được sẽ khắc sâu vào tâm trí của SV, vì đó là những điều họ tự tìm ra chứ không phải là những điều mà họ phải cố nhớ. Từ đó, SV sẽ tự hình thành cho mình thói quen đọc sách và VHĐ tốt đẹp. Vì vậy, để phát huy hiệu quả của mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ, ngoài nỗ lực từ phía nhà trường trong việc xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cấp cơ sở vật chất, sắp xếp lại hệ thống và quy trình quản lý thì bản thân SV phải chủ động trong học tập, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập riêng, xây dựng kỹ năng đọc phù hợp với năng lực học tập, hoàn cảnh gia đình và sở thích cá nhân.

2.2.4 Văn hóa đọc ảnh hƣởng đến kết quả học tập

2.2.4.1 Thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc ảnh hưởng đến KQHT

Trong “Dự án đọc tại lều đọc của trẻ em” Anna Jonsson và Josefin Olsson .(2008). đã tiến hành nghiên cứu về VHĐ và việc đọc thông viết thạo ở Uganda. Nghiên cứu đưa ra kết luận rằng trẻ em tham gia tiếp xúc với một nền VHĐ trong trường học và văn hóa truyền miệng ở gia đình, địa phương. Hoạt động đọc và viết được thực hành ở trường, còn các hoạt động văn hóa khác như kể chuyện và tiếp nhận thông tin qua hình thức truyền miệng (hình thức văn hóa phổ biến lưu hành của người bản địa). Để hình thành VHĐ của trẻ em khi chúng đã quen tiếp nhận tri thức qua hình thức học truyền miệng, cần đặt các em vào môi trường VHĐ, cung cấp thật nhiều sách và chỉ ra cho các em thấy kiến thức từ sách vở mang lại thú vị và giàu có hơn rất nhiều, từ đó hình thành sở thích đọc, thói quen đọc trong cộng đồng. Hay Erika Daniels, San Marcos và Michael đã tiến hành nghiên cứu kiểm tra ảnh hưởng của VHĐ tại trường THCS Parkdale khi bộ máy quản lý mới triển khai đồng bộ các biện pháp nghiên cứu, xây dựng và bao phủ một nền VHĐ trong toàn trường. Các báo cáo từ GV cho rằng sự tham gia của HS đã tăng khi tập trung toàn trường vào việc đọc sách. Ph ng vấn sâu và thảo luận đã được tiến hành với một mẫu ngẫu nhiên 108 HS các khối lớp 6, 7, 8 và GV của họ tại trường THCS Parkdale. 85 nhân viên làm việc trong khuôn viên trường, 17 GV và các quản trị viên cũng tham gia vào nghiên cứu này thông qua một loạt các cuộc thảo

17

luận nhóm tập trung. 18 HS được lựa chọn để ph ng vấn cá nhân với các nhà nghiên cứu. Thêm 90 HS tham gia thảo luận trong các lớp không có mặt GV. Việc đọc được phân loại theo ba chủ đề: đọc là một hoạt động được ưu tiên hàng đầu được nhà trường ưu tiên tối đa thời gian cho phép, mô hình hóa việc đọc (chú trọng đọc im lặng (silent reading) và đọc có hệ thống) bằng sự hỗ trợ của cán bộ, GV trong trường, và tạo ra động cơ thúc đẩy môi trường học tập. Mỗi ngày, GV yêu cầu HS đọc thầm tập trung 15 phút, có thể đọc nhiều hơn nếu có nhu cầu. Mỗi lớp học được xem là một thư viện thu nh . GV được hỗ trợ tiền mua sách và được giao quản lý hoạt động đọc của HS. Hiệu trưởng thường xuyên kiểm tra hoạt động thảo luận sách của cán bộ, GV và HS. Ông cũng sẽ h i HS của mình về việc họ đã đọc sách như thế nào khi bắt gặp HS trong khuôn viên của trường. GV và HS cho rằng thời gian dành cho việc đọc sách, cách tiếp cận và việc phổ cập hoạt động đọc sách toàn trường đóng góp đáng kể trong việc tạo ra một môi trường đọc tích cực trong nhà trường. Kết quả đạt được của nghiên cứu: Phần lớn GV và HS đã chủ động phân bổ thêm thời gian cho việc đọc thực sự. GV đã có ý thức tự thành lập các câu lạc bộ sách thông qua số sách được nhà trường đầu tư, số sách các đồng nghiệp, GV và HS trao đổi với nhau. Các GV đã trở thành “chuyên gia” trong việc tổ chức hoạt động đọc cho đồng nghiệp và HS. HS tham gia tương tác với sách và hình thành sở thích, thói quen và kỹ năng đọc sách do ảnh hưởng GV. HS cho rằng việc đọc sách là quan trọng khi họ trực tiếp tận mắt nhìn thấy GV đọc sách, tham gia thảo luận sách với nhau và với HS. GV t ra quan tâm đến những gì HS đã được đọc. Nghiên cứu trường hợp này cho thấy rằng sự tham gia của HS có thể được tăng lên nếu người quản lý chủ động tạo ra và nuôi dưỡng một nền VHĐ cho toàn trường. Hạn chế của nghiên cứu là chỉ khảo sát một trường trung học, kết quả chưa mang tính tổng quát cho tất cả các trường phổ thông. Tuy nhiên, nghiên cứu trường hợp này được thực hiện một cách nghiêm túc với phương tiện chính xác để khám phá câu h i định tính. Cuộc ph ng vấn được tiến hành ba năm vào nhiệm kỳ hiệu trưởng mới, vì vậy có một số câu h i về việc liệu các thành tựu đạt được sẽ bền vững và lâu dài. Nếu xây dựng một nền VHĐ toàn trường tích cực có thể thu hút nhiều HS tham gia, GV cũng sẽ có thêm một phương tiện tiếp cận HS của họ. Do đó, KQHT của HS cũng được cải thiện tiến bộ hơn.

Ifedili, Chika Josephine A. (2009). khi nghiên cứu đánh giá VHĐ của SV đại học tại Nigeria, đã chọn mẫu nghiên cứu là tất cả các SV năm thứ hai của 10 trường đại học ở Nigeria (trong đó 4 trường đại học trực thuộc Chính phủ, 3 trường đại học của chính quyền tiểu bang và 3 trường đại học tư nhân). Các mẫu được tạo thành từ 8.500 SV (4.800 nam và 3.700 nữ), 850 GV cũng đã được lựa chọn ngẫu nhiên để tham gia vào nghiên cứu. Nghiên cứu chỉ ra rằng VHĐ của các SV là dưới mức trung bình. Trung bình một nữ sinh dành nhiều thời gian vào việc đọc sách giải trí hơn là một nam SV. Các nam SV dành nhiều thời gian đọc sách giáo khoa hơn nữ sinh. Đây là một thách thức đối với quản lý giáo dục và các nhà hoạch định. Không có cách nào một SV có thể làm tốt nếu anh ta không thể tự đặt mình vào các thói quen đọc sách liên tục. Nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị để cải thiện về VHĐ của SV trong các trường đại học: Cần giảng dạy một khóa học đọc cho tất cả SV trong các trường đại học. GV nên cố gắng tăng cường việc đọc và rèn cho SV thói quen đọc, kỹ năng đọc. Chính phủ nên quan tâm nhiều hơn trong giáo dục bằng cách bao cấp một lượng sách cần

18

thiết. Hiệu trưởng các trường đại học cần huy động nguồn tài trợ từ các cơ quan phi chính phủ, khu vực tư nhân và các nhà hảo tâm để cung cấp chỗ ở và điều kiện sống tốt hơn cho SV. Các khóa học định hướng, hội nghị và hội thảo sẽ được tổ chức cho SV để tạo ra một nhận thức rất cần thiết về tầm quan trọng của thói quen đọc sách tốt. Các phương tiện truyền thông đại chúng cần tạo ra một nhận thức rộng lớn hơn của thói quen đọc sách tốt, bắt đầu từ các gia đình. Cần nghiên cứu đánh giá VHĐ của chính GV các trường đại học.

Từ kết quả của các nghiên cứu trên, ta thấy được để hình thành thói quen đọc, sở thích đọc của HS, SV cần cho các bạn tiếp xúc với nền VHĐ, đặt các bạn trong môi trường VHĐ, cung cấp thật nhiều sách và chỉ ra cho các bạn thấy kiến thức từ sách vở mang lại thú vị và giàu có. Nhà trường và giáo viên chủ động nuôi dưỡng nền VHĐ sẽ giúp các em hình thành thói quen và sở thích đọc và kỹ năng đọc. Khi các bạn có thói quen và sở thích đọc thì KQHT của các bạn sẽ được cải thiện một cách rõ rệt.

2.2.4.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của thư viện đến kết quả học tập

D.Williams và C.Wavell & L.Coles (2001) đã nghiên cứu một nhóm mẫu nh lấy ngẫu nhiên trong các trường THCS ở Scotland để làm rõ những tác động của thư viện trường đến KQHT của HS. Nghiên cứu tập trung vào thảo luận nhóm với các GV, HS và ph ng vấn các cán bộ thư viện để thấy được những tác động của thư viện trường đến việc học. Mục đích chính của nghiên cứu này là đưa ra một tài liệu có phê phán để nhằm thấy được những tác động của thư viện đến việc học của HS và những kiến thức đạt được; phân tích khả năng ứng dụng của nghiên cứu đối với các thư viện trường học và những hoạt động của thư viện trường học ở Anh; phát hiện những thiếu sót trong nghiên cứu và xác định những nội dung để nghiên cứu sâu hơn; xác định những phương cách mà các thư viện trường học và những phục vụ của thư viện trường học ở Anh có thể sử dụng để có thể tác động tới việc học của HS và những kiến thức đạt được.

Nghiên cứu này tập trung vào mối liên kết giữa mục tiêu giáo dục và thư viện

trường ở cấp trung học. Những câu h i được đưa ra thảo luận theo những chủ đề sau:

- Tác động tới KQHT, ví dụ như điểm số của các bài kiểm tra

- Tác động tới các khía cạnh học tập rộng hơn, ví dụ như kết quả mỗi cá nhân đạt

được trong mỗi môn học

- Các hoạt động của thư viện

- Khả năng của mỗi cá nhân, ví dụ như năng lực, đào tạo, kinh nghiệm và quan

điểm của riêng từng người đối với các hoạt động của thư viện

Nghiên cứu này cho thấy các thư viện trường học có thể có những tác động tích

cực tới KQHT ở trường mà cụ thể là ở cấp tiểu học và THCS.

Tác giả E. G. Smith (2006) tiến hành nghiên cứu việc học tập của HS thông qua các Trung tâm Thông tin thư viện của các trường học ở Wisconsin. Nghiên cứu này được thực hiện để nhằm thấy được cách thức và mức độ ích lợi mà các thư viện trường học mang lại cho HS. Công trình này chọn mẫu ngẫu nhiên 25 trường tiểu học, 25 trường THCS và 25 trường trung học ở bang Wisconsin, Hoa Kỳ. 51 trường đã tham gia

19

vào nghiên cứu với 107 GV và 3.957 HS thực hiện cuộc điều tra trực tuyến vào tháng 5 năm 2005. Phần điều tra GV và HS bao gồm 50 câu h i mô tả các khía cạnh khác nhau mà các hoạt động của thư viện trường có thể giúp được HS. Các câu h i tập trung vào bảy nội dung:

- Tìm được những thông tin mà HS cần (Tìm được thông tin)

- Sử dụng các thông tin để hoàn thành bài tập ở trường (Sử dụng thông tin)

- Làm bài tập nói chung (Kiến thức)

- Sử dụng máy tính ở thư viện, ở trường và ở nhà (Công nghệ)

- HS thích đọc thông thường (Đọc)

- Ý thích và các hoạt động của HS ở ngoài trường (Tính độc lập)

- KQHT của HS

Nghiên cứu này khảo sát về mức độ ích lợi mà các thư viện trường học mang lại cho HS, trong đó thư viện với vai trò là nhân tố trung tâm và quan trọng của chương trình giảng dạy của trường. Họ điều tra riêng HS và GV, sau đó kết quả đánh giá của HS và GV được so sánh với nhau. Trên thực tế, nghiên cứu cho thấy các thư viện trường học và các thiết bị chuyên dùng của thư viện chỉ giúp cho HS có được những kỹ năng mà họ không thể học được ở trên lớp như: tìm kiếm thông tin, phân tích và tổng hợp thông tin.

Các tác giả C. Lance, M. J. Rodney & C. H. Pennell (2000) nghiên cứu tác động của Thư viện và các Trung tâm thông tin trong trường học ở Pennsylvania với mục đích chỉ ra được mối liên hệ giữa KQHT của HS và hoạt động của thư viện trường. Hướng tới nền giáo dục chuẩn, tập trung vào những gì HS học (năng lực) hơn là những gì GV giảng dạy (lượng kiến thức), các cán bộ thư viện trường chỉ có một vai trò duy nhất là giúp HS phát triển kỹ năng tìm kiếm thông tin để phục vụ cho môn học.

Công trình nghiên cứu trên tìm kiếm 500 thư viện trường học tại bang Pennsylvania, Hoa Kỳ, và đã có 435 thư viện (87%) tham gia. Kết quả quan trọng đầu tiên mà nghiên cứu này đưa ra là có một mối liên kết giữa hoạt động của thư viện và KQHT của HS. Hoạt động của thư viện có mối tương quan với các KQHT như điểm đọc, hoạt động của thư viện tốt hơn thì điểm đọc của HS cũng tăng lên. Có một số điểm đặc trưng của thư viện giúp giải thích được mối liên kết giữa hoạt động của thư viện và KQHT của HS, đó là kinh phí hoạt động của thư viện, các nguồn thông tin, công nghệ thông tin và các hoạt động của nhân viên giúp cho HS mở rộng lượng thông tin liên quan đến bài học và hoàn thành mục tiêu giáo dục.

Tác giả M. Lonsdale (2003) trong nghiên cứu: tác động của thư viện trường học tới KQHT của HS, đã cho thấy có mối liên kết giữa các thư viện trường với KQHT của HS. Nghiên cứu chỉ ra rằng các thư viện trường học có thể có những tác động tích cực đến KQHT của HS theo các hướng sau:

20

- Một thư viện hoạt động tốt với đầy đủ nhân viên, các nguồn lực và kinh phí có thể làm cho KQHT của HS tốt lên bất kể tình hình kinh tế xã hội hay các cấp học trong cộng đồng.

- Một hệ thống máy tính mạnh mẽ được nối mạng giữa thư viện, lớp học và

phòng thí nghiệm có thể có tác động đến KQHT của HS.

- Chất lượng tài liệu có tác động đến việc học của HS.

- Kết quả bài kiểm tra tăng lên khi việc sử dụng thư viện tăng lên.

- Mối quan hệ tương hỗ giữa GV và các bộ thư viện có tác động cụ thể việc học, cụ thể là mối quan hệ giữa các học phần dự kiến, phát triển nguồn tài liệu và sự phát triển cá nhân.

- Trong môi trường có nhiều sách vở sẽ khiến cho HS đọc nhiều hơn và với việc

đọc chủ động như vậy sẽ làm tăng vốn từ, khả năng đọc, viết và ngữ pháp.

- Làm tăng khả năng tự tìm kiếm thông tin phục vụ cho môn học. Và như vậy, thư viện có thể tạo ra sự khác biệt tích cực đối với lòng tự trọng, sự quyết đoán, tính độc lập của HS và khiến cho họ quan tâm đến việc học nhiều hơn.

Với mục đích đánh giá tác động của thư viện tới nhiều khía cạnh của việc học, công trình nghiên cứu này tập trung nghiên cứu trong phạm vi nh , nghiên cứu định tính. Các phương pháp nghiên cứu như nghiên cứu hành động, bảng điều tra, nghiên cứu trường hợp và ph ng vấn sâu là rất phù hợp đối với các nghiên cứu nhằm đo lường sự khác biệt mà các thư viện và cán bộ thư viện có thể tạo ra ở nước Úc.

Các tác giả R. Burgin, P. B. Bracy & K. Brown (2003) đã chỉ ra tác động tích cực của hệ thống thư viện trường và trung tâm thông tin trong việc làm tăng KQHT của HS ở Bắc Carolina. Công trình nghiên cứu này sử dụng dữ liệu của 2.138 thư viện trường học và 2.529 cán bộ thư viện ở Bắc Carolina, Hoa Kỳ, do Sở Giáo dục Liên bang cung cấp. Họ thực hiện hai cuộc điều tra trên mẫu này. Cuộc điều tra đầu tiên, kết thúc vào tháng 11/2002, dựa trên 494 bảng h i được gửi tới các trường chọn ngẫu nhiên trong cơ sở dữ liệu. Cuộc điều tra thứ hai, kết thúc vào tháng 1/2003, với 500 bảng h i được gửi tới các trường, chọn ngẫu nhiên trong những trường chưa nhận được phiếu lần 1. Bảng h i được thiết kế để nhằm thu thập dữ liệu về các chương trình hoạt động của thư viện trường học ở Bắc Carolina.

Nghiên cứu chỉ ra rằng các hệ thống thư viện trong các trường trung học ở Bắc Carolina có những tác động cụ thể lên KQHT của HS, được đo bằng điểm đọc chuẩn và các bài thi trắc nghiệm tiếng Anh.

Khi nói tới VHĐ và việc phát huy vai trò của VHĐ trong cộng đồng, không thể không kể đến vai trò của thư viện. Song chưa có công trình nào nghiên cứu về hoạt động khai thác và sử dụng thư viện với tư cách là một tác nhân tích cực góp phần phát triển VHĐ trong cộng đồng, phục vụ cho việc học, nâng cao KQHT cho SV. Qua các công trình nghiên cứu kể trên, cho thấy thư viện trường có mối liên hệ chặt chẽ với KQHT và những kỹ năng cá nhân của người học. Các công trình nghiên cứu đã tập trung giải quyết vấn đề vai trò và những tác động của thư viện đến KQHT của HS trên

21

nhiều khía cạnh khác nhau. Kết quả của những công trình nghiên cứu này đã góp phần định hướng và cung cấp những thông tin hữu ích cho đề tài khi nghiên cứu về vấn đề khai thác, sử dụng thư viện, yếu tố ảnh hưởng đến thói quen đọc và kỹ năng đọc, thành tố cơ bản của VHĐ trong nhà trường, góp phần cải thiện KQHT cho người học nói chung, cho việc học tập môn Ngữ văn của SV nói riêng tại Khoa Sư phạm - Trường Đại học An Giang.

2.2.4.3 Những tác động qua lại giữa thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc

ảnh hưởng đến kết quả học tập

Trong nghiên cứu Phương pháp đọc sách có hiệu quả, Trần Đức Ngôn cho rằng: “Quá trình học tập bao gồm 2 khâu: nghe giảng và tự học. Tự học bao gồm 2 phương diện: tự nghiên cứu lí thuyết và tự thực hành. Đọc sách thuộc phương diện tự nghiên cứu lí thuyết. Đọc sách báo là cần thiết, để đọc sách có hiệu quả cần phải có phương pháp và kỹ năng đọc. Tổng hợp kết quả nghiên cứu khoa học của các nhà sư phạm và kinh nghiệm thực tế tác giả đưa ra một số ý kiến để việc đọc có hiệu quả cần xác định: (1) Nguyên tắc đọc: đọc kỹ, hiểu sâu, nhớ lâu; (2) Chọn sách để đọc; (3) Phương pháp đọc: đọc đi đôi với ghi chép. Đọc sách phải hiểu sách, hiểu vẫn chưa đủ, cần nhớ sách. Việc ghi chép giúp chúng ta nhớ sách lâu dài, giúp chúng ta nhớ lại nhanh khi quên sách. Tài liệu ghi chép là những viên gạch xây nên tầm cao trí tuệ của chúng ta. (Trần Đức Ngôn, 2008).

Bùi Văn Sơn Nam. (2011). Khẳng định VHĐ thể hiện chủ yếu ở năng lực đọc văn bản, vì thế cần phải rèn luyện từ nh , mà rèn luyện từ nh chủ yếu dựa trên hai nền tảng: nhà trường và gia đình. Thế nhưng hai nền tảng này hiện đang bị xem là rất mong manh trong việc chống đỡ hay xây dựng một nền VHĐ tiên tiến. Ở góc độ gia đình, việc đọc cũng chưa được xây dựng thành thói quen. Nền móng không vững vàng gây ra những hậu quả nặng nề đối với nhu cầu đọc của người đọc hiện nay. Do yếu kém về VHĐ, bạn đọc rất khó phân biệt đâu là tác phẩm có giá trị đâu là sản phẩm độc hại. Tác giả cho rằng cần thay đổi cách dạy văn trong nhà trường và xây dựng thói quen đọc cho HS, phụ huynh quan tâm hơn nhu cầu đọc của con em.

Khi thống kê số lượng sách xuất bản và số lượng sách bán ra nhà văn Nguyên Ngọc (2011) kết luận rằng người Việt, đang không thích đọc. Nếu không thích đọc thì rất khó để đọc nhiều. Không đọc nhiều thì khó mà hình thành nên thói quen đọc, không có thói quen đọc thì không thể phát hiện ra được sở thích đọc, mà không thích thì lại càng không đọc mà không đọc thì không thể dần rèn được kỹ năng. Mà không có kỹ năng đọc thì khó có thể đạt được mục đích khi đọc.

Khi nghiên cứu về, kỹ năng đọc sách siêu tốc, Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng: ai cũng có khả năng đọc sách nhưng làm thế nào để chúng ta có thể đọc sách nhanh, thu thập thông tin nhiều nhất trong thời gian ngắn nhất. Đọc nhanh nhưng vẫn có thể nhớ trên 80% nội dung của sách. Để đọc sách siêu tốc trở thành một kỹ năng điều nhất thiết phải có ở người đọc sách là chính là sự đam mê, yêu thích, đồng thời phải rèn luyện tính kiên nhẫn, sẵn sàng b công sức và thời gian để đọc và tìm hiểu. Người đọc sách phải luôn tự giác, chủ động tạo tâm thế thoải mái cho mình trước khi tiếp nhận kiến thức. Theo ông, muốn đọc sách siêu tốc cần thực hiện một số nguyên tắc quan trọng: (1) tập

22

trung cao độ khi đọc; (2) “chọn từ khóa” cho mỗi câu, mỗi dòng, mỗi đoạn. Mỗi câu, mỗi đoạn đều có một hoặc nhiều từ khóa quan trọng quyết định đến nội dung, nếu tinh ý phát hiện ra những từ khóa đó bạn không cần đọc hết đoạn mà vẫn nắm được ý chính. Dĩ nhiên, để có khả năng ấy bạn cần luyện đọc và tạo cho mình thói quen, lúc đầu sẽ mất rất nhiều thời gian nhưng dần dần khả năng chọn từ sẽ nhạy bén hơn và nâng khả năng đọc vài trang sách trong vòng vài giây; (3) đưa mắt nhanh để đọc ngang rồi tăng tốc theo chiều dọc; (4) đọc và tóm ý sau mỗi đoạn, mỗi chương; (5) sử dụng dụng cụ hỗ trợ khi đọc sách. Và cũng theo ông, SV luôn cố gắng đọc, lắng nghe, tiếp thu kiến thức mà sách vở, thầy cô truyền lại nhưng thực tế người học chưa biết cách tiếp nhận, ghi nhớ thông tin, tập trung, chúng ta học tập vì bị bắt buộc do biết là cần thiết chứ không phải là niềm đam mê. Vì vậy, trong học tập, SV luôn bị chán nản, căng thẳng, mệt m i cả về đầu óc, tinh thần và cơ thể. Xao lãng trong học tập, thậm chí còn tìm cách trốn tránh. Tất cả là do chúng ta chưa biết cách tạo dựng mục đích và gây dựng niềm đam mê, chúng ta chưa có phương pháp và kỹ năng để đọc. Chúng ta cũng chưa có phương pháp hữu hiệu để giúp người học học tập tốt, hiệu quả cao nhưng cơ thể và trí tuệ vẫn luôn kh e mạnh và phát triển. Khi làm chủ được phương pháp đọc, hay nói một cách khác là khi có kỹ năng đọc chúng ta sẽ thấy thích thú say mê trong tất cả các môn học, bài học mà mình muốn học và cần học và chắc chắn rằng chúng ta sẽ có kết quả cao trong học tập. (Nguyễn Mạnh Hùng. 2012).

Trong bài viết Đọc sách hiệu quả - một kỹ năng quan trọng để tự học thành công, Lê Hải Yến (2007) cho rằng: tự học cũng là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập, để việc đọc sách có hiệu quả cần đọc theo quy trình và thực hiện nghiêm túc các yêu cầu sau: (1) đọc có suy nghĩ; (2) đọc có hệ thống; (3) đọc có chọn lọc; (4) đọc có ghi nhớ; (5) rèn luyện thói quen viết nhật ký khi đọc. Để VHĐ trở thành một chuẩn mực phải có kỹ năng đọc.

Mục đích cuối cùng của kỹ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc. Ngày nay, người ta đặc biệt lưu tâm tới yếu tố thứ 6: biết vận dụng những nội dung đã đọc vào cuộc sống của mỗi người đọc để có thể cải thiện được chính cuộc sống của họ. Không phải vô cớ mà hàng năm UNESCO trao giải thưởng xoá mù chữ cho những cá nhân, tập thể không chỉ biết đọc biết viết đơn thuần, mà phải biết vận dụng những điều đọc được vào cuộc sống của chính họ, cải thiện được cuộc sống nghèo khổ của người mù chữ.

Trong bài viết: Một số giải pháp phát triển VHĐ SV Huế, tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc cho rằng kỹ năng đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen ứng xử đọc. Các thao tác tư duy đó là:

(1) Lựa chọn vấn đề cần đọc;

(2) Biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân;

(3) Thể hiện tính hệ thống, liên tục trong quá trình lựa chọn tài liệu từ đơn giản

đến phức tạp;

(4) Biết cách tiếp cận tối đa nội dung tài liệu đọc;

23

(5) Biết vận dụng các biện pháp kỹ thuật để củng cố và đào sâu những nội dung

đã đọc như ghi chép, soạn tóm tắt, viết chú giải, trao đổi với người khác;

(6) Biết vận dụng vào thực tiễn những nội dung đọc để cải thiện cuộc sống của họ: Hiểu nội dung và hiểu các khái niệm; biết cách đi đến các nội dung, đi đến các khái niệm.

Mục đích cuối cùng của kỹ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung, cốt lõi và biết vận dụng những điều đã học được vào cuộc sống của chính người đọc. (Nguyễn Thị Bích Ngọc, 2014)

Trong nghiên cứu, Tìm hiểu kỹ năng đọc sách của SV chuyên ngành tâm lý học, tác giả Cao Xuân Liều đã nêu lên thực trạng chung về tình hình đọc sách chuyên ngành tâm lý học của SV. Về thời điểm đọc: Có 50% SV thường đọc sách chuyên ngành sau khi giáo viên giảng bài ở lớp, chỉ có 22,5% SV đọc trước nội dung bài giảng của GV, 13,3% SV đọc trước và đọc lại sách chuyên ngành sau khi kết thúc bài học ở lớp. Một số SV cho rằng: Sau khi nghe giảng bài ở trên lớp thì học có kiến thức nền tảng và căn bản về môn học nên dễ dàng tiếp thu hơn khi tự đọc sách chuyên ngành; cũng như có kiến thức để so sánh giữa bài học ở lớp và tài liệu trong giáo trình. Số SV đọc sách chuyên ngành tùy theo hứng thú không nhiều (10,8%). Điều này cho thấy, phần lớn SV đều có đọc sách chuyên ngành tuy thời điểm đọc khác nhau. Từ đó cho thấy, thời điểm SV đọc sách có ảnh hưởng tới KQHT của SV cũng như ảnh hưởng đến hứng thú và kỹ năng đọc sách của chính họ. Về các hành động khi đọc: 54,1% thường đọc mục lục, sau đó tìm ngay nội dung chính trong tài liệu để đọc, 7,5% đọc lời giới thiệu, hoặc lời nói đầu, 9,1% đọc lời giới thiệu và mục lục sau đó mới đọc nội dung chính của tài liệu, 29,1% SV tìm ngay nội dung chính để đọc. Từ đó cho thấy, nếu SV chưa biết hành động để chiếm lĩnh tri thức điều này ảnh hưởng đến kết quả đọc sách chuyên ngành.

Về thao tác thực hiện khi đọc sách: 3,3% SV biết “lập đề cương sau khi đọc”, 4,1% SV “biết ghi chép đầy đủ tài liệu”, 6,6% SV “ghi lại ý chính”, 18,3% “không ghi lại mà chỉ đánh dấu vào tài liệu”, 41,6% SV “chỉ ghi nhớ trong đầu”, 2,5% “ghi lại và có đưa ra ý kiến so sánh đối chiếu với bài giảng của giáo viên”, 12,5% “trả lời các câu h i cuối mỗi chương, 10,8% “đọc nhanh, đọc lướt không ghi chép”. Như vậy, trong quá trình làm việc với tài liệu, SV chủ yếu ghi nhớ trong đầu. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đọc sách. Bởi không biết áp dụng các thủ thuật, các thao tác phù hợp khác để kết nối các tri thức thành hệ thống và khi cần tái hiện hay vận dụng sẽ gặp nhiều khó khăn. Điều này một phần xuất phát từ thói quen học tập ở phổ thông, các em chưa có thói quen ghi chép lại kiến thức trọng tâm, đưa ra ý kiến so sánh, đối chiếu hay phản biện. (Tìm hiểu kỹ năng đọc sách của SV chuyên ngành tâm lý học, Cao Xuân Liều - Tạp chí Giáo dục số 293 (kỳ 1 - 9/2012).

Như vậy, nghiên cứu đã được tiến hành trên đối tượng SV để tìm hiểu về thói quen đọc và phương pháp đọc. Kết quả các nghiên cứu trước đây cho thấy chính điều này phần nào ảnh hưởng đến KQHT của SV trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.

24

Các nghiên cứu trên đã cho chúng ta thấy rằng VHĐ là sự hợp thành của ba yếu tố “thói quen đọc”, “sở thích đọc” và “kỹ năng đọc” ba yếu tố này như ba vòng tròn không đồng tâm, giao nhau có sự tác động và ảnh hưởng không nh đến KQHT của người học. Đọc sách nhiều sẽ tạo cho người ta một thói quen. Khi có thói quen người đọc sẽ ham đọc, thích đọc và phát hiện ra sở thích của mình và cũng từ đó rút ra được phương pháp đọc, kỹ năng đọc. Kỹ năng đọc là đọc có hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều đã đọc được vào cuộc sống của chính người đọc. Khi làm chủ được phương pháp đọc, hay nói một cách khác là khi có kỹ năng đọc chúng ta sẽ thấy thích thú say mê trong tất cả các môn học, bài học mà mình muốn học, cần học và chắc chắn rằng chúng ta sẽ có kết quả cao trong học tập. Như vậy, có mối liên hệ giữa thói quen đọc sách ở SV đến việc hình thành VHĐ cũng như nâng cao KQHT cho SV. Khi kỹ năng ở mức độ thấp được củng cố và phát huy sẽ tạo điều kiện cho kỹ năng ở mức độ cao hình thành, bởi học là quá trình và việc học là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục để từng bước hoàn thiện kiến thức, kỹ năng và thái độ cho chính người học.

Như vậy, việc xác định được các yếu tố của VHĐ có ảnh hưởng đến KQHT của SV là cơ sở giúp cho các nhà quản lí giáo dục, GV có giải pháp rèn luyện nâng cao VHĐ cho SV, giúp họ cải thiện hiệu quả việc đọc sách nhằm nâng cao KQHT để trở thành người có trình độ, năng lực cao đáp ứng được những yêu cầu của xã hội.

25

CHƢƠNG 3

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 MẪU NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này được tiến hành trên 363 SV Khoa Sư phạm. Cụ thể, có 171 SV ngành Ngữ văn và 192 SV khối ngành Tự nhiên (Toán, Lý, Hóa, Sinh) của Khoa Sư phạm. Kết quả phân tích đặc điểm mẫu trong nghiên cứu chính thức như sau:

Bảng 3.1. Đặc điểm mẫu trong nghiên cứu chính thức

Đặc điểm mẫu Tần suất (%)

1. Khối ngành

2. Năm học SV

3. Kết quả học tập

4. Giới tính

5. Tần suất tham gia lớp học SV Sư phạm ngành Ngữ văn SV Sư phạm khối ngành Tự nhiên SV năm thứ I SV năm thứ II SV năm thứ III SV năm thứ IV Kém F (dưới 4,0) Yếu D (4,0 - 5.4) TB C (5.5- 6.9) Khá B (7,0- 8,4) Gi i A (8,5- 10,0) Nam Nữ Không học buổi nào/học phần Vắng từ 1 đến 3 buổi/ học phần Vắng trên 3 buổi/ học phần Không vắng buổi nào/ học phần Số lƣợng 171 192 83 88 95 97 2 43 191 118 9 112 251 9 203 16 135 47,1 52,9 22,9 24,2 26,2 26,7 0,6 11,8 52,6 32,5 2,5 30,9 69,1 2,5 55,9 4,4 37,2

Mẫu nghiên cứu khi xét đến các đặc điểm cá nhân của SV như: khối ngành, năm học của SV/sự trải nghiệm của SV tại trường, KQHT, giới tính, tần suất tham gia lớp học như sau:

- Yếu tố về khối ngành: kết quả khảo sát cho thấy không có sự chênh lệch giữa SV ngành Ngữ văn(47,1%) và Khối ngành Tự nhiên (52,9%). Đây chính là cơ sở để nhóm nghiên cứu tiến hành đánh giá so sánh giữa 2 nhóm SV này có độ tin cậy cao.

- Yếu tố về năm học SV/sự trải nghiệm của SV tại Trường: có sự phân bố đồng đều giữa SV các khóa. (Tỉ lệ SV năm thứ I đến năm thứ IV dao động trong khoảng từ 22,9% đến 26,7%). Vì thế, việc khảo sát thực trạng về VHĐ của SV Khoa Sư phạm sẽ đưa ra bức tranh tổng thể về các yếu tố hình thành VHĐ ở từng giai đoạn khác nhau.

- Yếu tố về KQHT: tỉ lệ giữa SV có học lực khá gi i và SV có học lực trung bình trở xuống phân bố không đều nhau, đa số SV được h i đều có KQHT trung bình, khá, gi i. Cụ thể: 2,5% SV đạt loại gi i: 32,5% SV đạt loại khá; 52,6% SV đạt loại trung bình và 12,4 % SV đạt loại yếu kém.

26

- Yếu tố về giới tính: gần 70% SV được h i là SV nữ. Nếu xét đến yếu tố tâm lý, SV nữ thường cẩn thận hơn nên cho kết quả chính xác hơn. Ngoài ra, có thể do đặc thù về ngành nghề mà tỉ lệ SV nữ chiếm ưu thế hơn.

- Yếu tố về tần suất tham gia lớp học: tỉ lệ SV nữ không tham gia buổi học nào và vắng 3 buổi chiếm tỉ lệ rất thấp khoảng 6,9% (2,5% SV đi học buổi nào và 4,4% SV vắng trên 3 buổi). SV được h i đi học vắng từ 01 đến 03 buổi trên học phần chiếm tỉ lệ khá cao (55,9%).

Nhìn chung, SV đi học khá đầy đủ, tỉ lệ SV vắng dưới 3 buổi chiếm tỉ lệ cao (trên 90%). Như vậy, có khả năng với đa số SV đi học thường xuyên trên lớp sẽ đưa ra đánh giá về ảnh hưởng của các yếu tố VHĐ đến KQHT sẽ tốt hơn và có giá trị hơn.

3.2 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được thực hiện qua 2 bước:

Bước 1: Nghiên cứu sơ bộ: sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính. Nghiên cứu định tính được sử dụng thông qua ph ng vấn và thảo luận với 2 nhóm SV (Nhóm SV ngành Ngữ văn và nhóm SV ngành Sư phạm Toán) các khóa của Khoa Sư phạm. Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu các yếu tố của VHĐ ảnh hưởng đến KQHT của SV và phát hiện những yếu tố mới, những nội dung còn thiếu sót trong thang đo dự thảo.

Bước 2: Nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng phương pháp định lượng thông qua kỹ thuật điều tra bằng bảng h i. Kích thước mẫu của nghiên cứu này là 363 phiếu dành cho SV Khoa Sư phạm.

3.2.1 Nghiên cứu định tính

Căn cứ vào kết quả ph ng vấn, chúng tôi tiến hành một số bước như sau:

- Bước 1: Căn cứ vào nghiên cứu lý luận, nhóm nghiên cứu cụ thể hóa các nội

dung thành các tiêu chí cần h i, hoàn chỉnh mẫu phiếu dự thảo;

- Bước 2: Tham khảo ý kiến của GV giảng dạy ở Bộ môn Ngữ văn và một số SV

về mẫu phiếu dự thảo;

- Bước 3: Bổ sung, điều chỉnh mẫu phiếu dự thảo;

- Bước 4: Tiến hành ph ng vấn;

- Bước 5: Hoàn thiện mẫu phiếu dự thảo.

Xác định mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn ít được đề cập ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu đi trước có đề cập đến các yếu tố tác động đến VHĐ và xác định các yếu tố hình thành VHĐ, chủ yếu xoay quanh các vấn đề về: (1) thói quen đọc, (2) sở thích đọc, (3) kỹ năng đọc. Vì vậy, nghiên cứu định tính là bước cần thiết để tiếp tục khám phá các thuộc tính của VHĐ có thể ảnh hưởng đến KQHT của SV.

Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua ph ng vấn các SV về chủ đề VHĐ ảnh hưởng đến KQHT. Cuộc ph ng vấn được thực hiện trực tiếp, có ghi chép và ghi âm

27

cụ thể. Trong đó tính bảo mật là mối quan tâm chân thành đối với người tham gia ph ng vấn. Các thông tin liên quan đến vấn đề ph ng vấn chỉ sử dụng cho việc nghiên cứu.

Bảng 3.2. Thống kê số lƣợng SV đƣợc ph ng vấn Số lƣợng SV đƣợc ph ng vấn Năm học/SV

Năm thứ I Năm thứ II Năm thứ III Năm thứ IV Tổng SV ngành Ngữ văn 1 1 1 2 5 SV khối ngành Tự nhiên 1 1 1 2 5

Kết quả ph ng vấn tập trung chủ yếu vào các nội dung sau:

Nhóm các ếu tố h nh thành VHĐ cho SV:

Đa số các bạn SV đều cho rằng yếu tố đam mê đọc sách và sự tò mò, thích khám phá, muốn tìm hiểu cuộc sống của thế giới xung quanh mình là yếu tố quyết định đến việc hình thành VHĐ. Tuy nhiên, có một số SV cho rằng môi trường học tập, thầy cô và bạn bè cùng với gia đình là những yếu tố tạo nên động lực học tập, từ đó tạo điều kiện để họ đọc nhiều.

Kết quả ph ng vấn cho thấy SV rất khó hình dung khi nhóm nghiên cứu đề cập đến khái niệm “VHĐ”. Vì thế, chúng tôi chuyển sang sử dụng ngôn từ gần gũi với SV hơn như thói quen đọc sách, sở thích đọc sách và kỹ năng đọc sách thì các bạn t ra hào hứng hơn.

Tất cả SV được ph ng vấn đều nhất trí cho rằng KQHT có tác dụng kích thích các bạn đọc sách nhiều hơn, nhất là khi các bạn làm các bài tập tiểu luận, thảo luận nhóm, báo cáo chuyên đề hay thuyết trình. Để đạt được điểm 8, 9 hoặc 10 đòi h i SV phải đầu tư nhiều thời gian trong tìm hiểu thông tin liên quan trên Internet hoặc các sách tham khảo về các vấn đề mà GV gợi ý.

Theo ý kiến các bạn, chỉ khi nào GV yêu cầu SV phải hoàn thiện bài báo cáo, hoặc thực hành tập giảng thì các bạn mới dành nhiều thời gian đọc giáo trình, tài liệu tham khảo, sách chuyên khảo phục vụ cho môn học. Ngoài ra, SV cho rằng các bạn rất thích đọc các loại sách báo giải trí như: tuổi trẻ cười, thanh niên, phụ nữ, các trang báo điện tử vnexpress, truyện tranh, các thông tin liên quan đến thần tượng ở tuổi SV (nhóm nhạc nổi tiếng, ngôi sao điện ảnh, cầu thủ bóng đá,…) mà các bạn yêu thích. Chủ yếu phần lớn các bạn dành thời gian tìm hiểu thông tin trên Internet, báo, tạp chí, tranh ảnh, nhạc, phim ảnh,…Tuy nhiên, cũng có không ít SV say mê, hứng thú trong việc đọc các sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành (tạp chí ngôn ngữ và tạp chí văn học, tạp chí giáo dục,…) và nhất là các tập truyện ngắn, tiểu thuyết đương đại.

Khi trao đổi về kỹ năng đọc sách, đa số các bạn SV còn khá lúng túng trong vấn đề này. Các bạn cho rằng cứ đọc hết số trang trong quyển sách, báo hay tài liệu nào đó và tìm được các thông tin mà các bạn quan tâm. Hầu như các bạn không chú ý nhiều đến việc tóm tắt hay ghi chú lại những thông tin cần thiết hoặc chủ đề của quyển sách, câu chuyện, nội dung tài liệu nào đó mà các bạn đang đọc.

28

Nhóm được ph ng vấn cho rằng VHĐ = sở thích + thói quen + kỹ năng đọc.

2 Các ếu tố của thói quen đọc: Các ti u ch thuộc ti u chu n thói quen đọc

Khi được h i về thói quen đọc sách thì SV năm III, IV đều cho rằng mình đã có thói quen này. Tuy nhiên, đối với SV năm nhất thì cho rằng việc đọc sách chỉ được thực hiện thường xuyên khi SV thấy cần thiết. Tuy nhiên, tất cả SV đều cho rằng việc đọc sách theo sở thích hơn là thói quen. Ngoài ra, khi được h i về các loại sách mà SV thích đọc, số lần đọc sách, nơi đọc sách, số lượng sách đã đọc, thời gian mà các bạn dành cho việc đọc sách như thế nào thì đa phần SV đều có thể trả lời được.

Như vậy, chúng ta có thể xác định được thói quen đọc thông qua các yếu tố như: (1) Tần suất đọc; (2) Địa điểm thường đọc; (3) Số lượng sách đã đọc; (4) Tổng thời gian đọc trong 1 ngày/tuần/tháng.

3 Các ếu tố của sở th ch đọc: Các ti u ch thuộc ti u chu n về sở th ch đọc

Qua trao đổi chúng tôi nhận thấy, SV có dành nhiều thời gian cho việc đọc sách hay không phụ thuộc rất lớn vào loại sách mà các bạn yêu thích. Nhiều bạn cho rằng nếu quyển sách nào mà các bạn thích đọc thì có thể đọc cả đêm ở nhà, đọc ngay tại hiệu sách, đọc ở thư viện, đọc mọi lúc, mọi nơi nếu có thể,…Khi được h i các bạn có thường xuyên đi thư viện không? 100% (10/10) SV được h i, đều trả lời: “có”. Tuy nhiên, lí do và mục đích đến thư viện là không giống nhau. 8/10 SV cho rằng đến thư viện là để đọc sách, 2/10 SV cho rằng đến thư viện là để học nhóm, giải trí,…Và kể cả mục đích đọc sách của SV cũng không giống nhau. Chỉ có 04/10 ý kiến cho rằng đọc sách giúp tăng sự hiểu biết và là cách tốt nhất tăng vốn từ cho bản thân. 06/10 SV cho rằng đọc sách để phục vụ cho bài tập và mong đạt kết quả cao trong kỳ thi.

Như vậy, để tìm hiểu các thuộc tính về sở thích đọc của SV ta có thể căn cứ vào: (1). Loại sách; (2). Lí do đọc. (3). Các yếu tố ảnh hưởng đến sở thích đọc sách (chủ quan, khách quan). (4). Mục đích đọc.

4 Các ếu tố của kỹ năng đọc: Các ti u ch thuộc ti u chu n về kỹ năng đọc

Kết quả ph ng vấn SV cho thấy, đa số SV có xác định được mục đích đọc nhưng chưa chú trọng nhiều đến việc chọn lọc thông tin, tóm tắt nội dung, phân tích tài liệu, tổng hợp, đánh giá tài liệu, tìm hiểu và so sánh chủ đề mà tác giả sách đề cập với các chủ đề và nội dung tài liệu khác. Việc đọc của SV chủ yếu là để th a mãn sự tò mò và qua lời bạn bè giới thiệu mà ít có sự định hướng từ gia đình/thầy cô.

Về phương pháp đọc, có 06/10 SV cho rằng các em chưa xác định mục đích đọc, lập kế hoạch khi đọc sách, ghi chú các thông tin quan trọng trong quá trình đọc, tóm tắt nội dung đọc. Có 04/10 SV cho rằng các em không chú ý đến việc so sánh được những gì đọc được từ sách với kiến thức đã học cũng như việc bình luận, đánh giá về nội dung của sách.

Khi được h i về mối quan hệ giữa việc học tập trên lớp và VHĐ thì 100% SV cho rằng các GV dạy có tập trung vào nội dung bài dạy trên lớp, có yêu cầu đọc tài liệu tham khảo, có những định hướng cho SV trong việc lựa chọn loại sách cũng như hướng dẫn phương pháp đọc sách nhưng mức độ chưa nhiều. GV chỉ yêu cầu SV đọc các

29

thông tin từ giáo trình và một số sách tham khảo phục vụ cho môn học. Ngoài ra, khi SV được h i về tần suất tham gia học trên lớp có ảnh hưởng đến kết quả học tập, trao đổi, chia sẻ quan điểm cá nhân của mình. Có 10/10 SV được h i có những cách nghĩ và trình bày khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau: Tần suất tham gia học trên lớp có ảnh hưởng đến KQHT của SV, vì theo họ lượng thông tin và kiến thức của GV truyền đạt rất nhiều, nếu tham gia học tập đầy đủ, được GV hướng dẫn tài liệu tham khảo, hỗ trợ cho nội dung từng học phần, định hướng cho SV cách đọc, kỹ năng đọc, tìm kiếm thông tin cần thiết phục vụ cho nội dung bài học. Khi có kỹ năng đọc lấy thông tin, nắm kiến thức trọng tâm vững thì KQHT của học phần sẽ tốt hơn.

Như vậy, qua kết quả ph ng vấn nhóm SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên - Khoa Sư phạm - Trường ĐHAG, nhóm nghiên cứu thấy có các điểm chung sau:

(1) Các yếu tố có ảnh hưởng đến việc hình thành VHĐ cho SV: thói quen đọc

sách, sở thích đọc sách, kỹ năng đọc sách.

(2) Nội dung của từng yếu tố trong việc hình thành VHĐ:

- Thói quen đọc sách có thể được xác định thông qua: 1. Tần suất đọc; 2. Địa điểm các SV thường đọc sách; 3. Số lượng sách đã đọc; 4. Thời gian đọc trung bình hàng ngày/tuần/tháng; 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đọc sách.

- Sở thích đọc sách có thể được xác định thông qua: (1). Loại sách thường đọc;

(2). Lí do đọc; (3). Các yếu tố ảnh hưởng đến sở thích đọc (chủ quan, khách quan).

- Kỹ năng đọc sách có thể được xác định thông qua: (1) Phương pháp đọc sách; (2) Năng lực đọc sách; (3) Các yếu tố hình thành kỹ năng đọc sách; (4) Năng lực tạo lập văn bản.

Sau khi tiến hành ph ng vấn, thu thập thông tin chúng tôi gửi mẫu phiếu dự thảo để lấy ý kiến của của một số SV và một số đồng nghiệp ở Bộ môn Ngữ văn đang giảng dạy và học tập tại Trường.

Mục đích của nghiên cứu này cũng làm căn cứ để nhóm nghiên cứu điều chỉnh và

hoàn thiện bộ công cụ trước lúc thực hiện khảo sát chính thức. Cụ thể:

Câu h i 6: Tần suất tham gia học trên lớp bổ sung (tần suất/học phần)

Câu h i 8: Kết quả điểm rèn luyện học kỳ vừa qua của bạn?

Câu h i 12: Bổ sung ý 4 Đọc khi có thời gian

Câu h i 14: Thói quen đọc của bạn được hình thành từ khi nào?

3.2.2 Nghiên cứu định lƣợng

Nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp điều tra thông qua bảng câu h i được thiết kế dựa trên kết quả của các nghiên cứu trước. Nghiên cứu nhằm đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố VHĐ đến KQHT của SV. Nghiên cứu được tiến hành trên mẫu 363 SV Khoa Sư phạm. Kết quả chi tiết được trình bày ở chương 4.

30

3.2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu tƣ liệu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tư liệu trong việc tham khảo các công trình nghiên cứu trước đó. Các báo cáo, các nghiên cứu có liên quan cũng được nghiên cứu để khái quát bức tranh tổng thể về VHĐ. Đồng thời, phương pháp này còn được sử dụng để hình thành các lý thuyết, các khái niệm và các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.

3.2.4 Phƣơng pháp khảo sát

Thông qua phiếu điều tra, lấy ý kiến, mục đích nhằm tìm hiểu mức độ ảnh hưởng

của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm.

3.2.5 Phƣơng pháp thống kê và xử lý số liệu

Sau khi thu thập đủ phiếu điều tra, tiến hành thống kê thành các biểu bảng, ứng

dụng phần mềm Excel và SPSS v.18 trong xử lý số liệu.

Kết quả phân tích để tiến hành so sánh, đối chiếu thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ năng đọc của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên của Khoa Sư phạm. Đồng thời, kết quả phân tích đã đánh giá được mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm.

3.3 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Qua tổng quan các vấn đề nghiên cứu liên quan đến (1) các quan niệm về VHĐ, (2) các yếu tố hình thành VHĐ (3) các yếu tố của VHĐ ảnh hưởng đến KQHT của SV, tác giả nhận thấy các nghiên cứu đều cho rằng VHĐ bao gồm 3 yếu tố “thói quen đọc”, “sở thích đọc” và “kỹ năng đọc”, 3 yếu tố này như ba vòng tròn không đồng tâm và có ảnh hưởng đến KQHT của SV.

Từ nhận định trên, tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu của đề tài như sau:

Thói quen đọc

Sở thích đọc VĂN HÓA ĐỌC KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

Kỹ năng đọc

Hình 3.2. Mô hình nghiên cứu của đề tài

Từ mô hình trên, nhóm nghiên cứu đưa ra câu h i nghiên cứu của đề tài: Câu h i 1:Yếu tố nào của VHĐ ảnh hưởng đến KQHT của SV ngành Ngữ văn -

Khoa Sư phạm ?

Câu h i 2: Mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn -

Khoa Sư phạm?

Câu h i 3: Có sự khác biệt về VHĐ của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự

nhiên của Khoa Sư phạm?

31

CHƢƠNG 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1 THỰC TRẠNG VỀ VĂN HÓA ĐỌC CỦA SV KHOA SƢ PHẠM, TRƢỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

4.1.1 Thói quen đọc

Kết quả khảo sát trên 363 SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên Khoa Sư

phạm về tần suất đọc tài liệu:

Hình 4.1. Biểu đồ tần suất đọc tài liệu của SV Khoa Sƣ phạm

Hình 4.1 cho thấy chỉ có khoảng 40% SV được h i trả lời: họ thường xuyên đọc sách, báo, tạp chí, ấn phẩm thông tin (6,9% cho rằng rất thường xuyên và 33,6% đánh giá thường xuyên đọc). Tuy nhiên, có khoảng 60% SV cho rằng họ rất ít đọc và không đọc tài liệu tham khảo, việc SV ít đọc tài liệu nguyên nhân có thể do: (1) Đội ngũ GV của Khoa có sự nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học nhưng việc thực hiện chưa đem lại hiệu quả như mong muốn; (2) SV còn thụ động trong quá trình đọc, học, chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nên họ chưa dành nhiều thời gian đọc sách. Điều này đã không phát huy óc sáng tạo mà sẽ biến SV thành những người thường xuyên diễn đạt suy nghĩ của mình bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn của thầy cô. Vì thế, GV cần thay đổi phương pháp dạy học, hướng đến tìm hiểu, khai thác nhu cầu đọc sách của SV, định hướng, hướng dẫn cho SV phương pháp đọc sách, tìm cái hay, cái đẹp trong sách. Để thực hiện được điều đó, GV giới thiệu đầu sách phục vụ cho việc học tốt học phần của mình và gợi ý cho SV cách tìm nhiều nguồn và nhiều loại tài liệu để đọc. GV cũng cần lưu ý với SV mỗi học phần, mỗi chương, mỗi đơn vị bài học có một loại sách riêng. Ngoài ra, GV cần lựa chọn, sử dụng hình thức kiểm tra, đánh giá phù hợp và tạo được sự công bằng trong đánh giá năng lực của SV. Có như vậy, GV mới kích thích, khuyến khích SV đọc sách. Kết quả nghiên cứu một lần nữa khẳng định, thói quen đọc sách giúp hình thành VHĐ ở SV .

32

Kết quả khảo sát thời gian đọc sách của SV Khoa Sư phạm:

Hình 4.2. Biểu đồ thời gian đọc sách của SV Khoa Sƣ phạm

Qua biểu đồ hình 4.2, ta thấy có 27,5% người học được h i họ cho rằng: họ chỉ đọc sách khi cần thiết, đọc trong tư thế bị bắt buộc phải đọc là để làm bài và hoàn thành nhiệm vụ GV giao cho. Đồng thời, có đến 46% người được h i cho rằng họ chỉ đọc khi có thời gian và 15,7% đọc một cách ngẫu hứng. Như vậy, có đến 89,2% SV đọc sách trong tâm thế bắt buộc mà chưa hình thành được thói quen đọc sách. Chỉ có một nhóm rất ít SV (10,5% tương đương với 38/363 SV Khoa Sư phạm) cho rằng họ đọc vào thời gian cố định trong ngày. Kết quả này phần nào phản ánh thực trạng đọc sách hiện nay của SV. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phong phú đa dạng của vô số kênh thông tin trên mạng Internet, trên truyền hình,…người học có nhiều cơ hội tham gia vào các trò giải trí hấp dẫn như: chơi game, xem tivi, internet, phim ảnh,…đã ít nhiều ảnh hưởng rất lớn đến thói quen đọc sách của họ. Điều đó cho thấy, VHĐ đang đứng trước cơ hội và thách thức. Cơ hội tiếp cận với một khối lượng tri thức khổng lồ nhưng tiềm ẩn nguy cơ làm mai một thói quen đọc sách. Điều đó, đòi h i GV phải tổ chức được các hoạt động đọc sách cho SV, tạo cho họ không gian đọc cũng như hình thành thói quen đọc sách với động cơ học tập đúng đắn.

Kết quả khảo sát thời gian hình thành thói quen đọc cho SV:

33

Hình 4.3. Biểu đồ quá trình hình thành thói quen đọc của SV Khoa Sƣ phạm

Từ hình 4.3 cho thấy, có 65,8% SV cho rằng thói quen của họ được hình thành từ lúc học mầm non đến Trung học cơ sở (21,2% SV có thói quen đọc được hình thành từ thiếu nhi và 44,6% SV có thói quen đọc được hình thành từ thiếu niên). Như vậy, việc xây dựng thói quen đọc, phong trào đọc sách cho SV cần phải bắt đầu từ rất sớm, từ những ngày tháng đầu đời của trẻ. Kết quả thống kê cho thấy thói quen đọc được hình thành ở mỗi con người vào giai đoạn thiếu thời là rất lớn. Trong đó, hai đối tượng có ảnh hưởng nhất định tới VHĐ của thiếu nhi là GV và phụ huynh. Mặc dù vậy, cả hai đối tượng này đều không có sự quan tâm đúng mức tới việc đọc sách của trẻ. Vì thế, để hình thành thói quen đọc cho người học cần phải huấn luyện, rèn luyện ngay từ nh . Ở góc độ gia đình, cha mẹ cần giáo dục con em mình, trong việc tạo thói quen đọc sách. Nhà trường cần thay đổi cách dạy văn cho trẻ em hiện nay. Thầy cô giáo cần khơi nguồn, hướng dẫn và định hướng cho các em làm cho các học trò của mình yêu sách, thích đọc sách. Song hành với việc truyền thụ kiến thức giáo khoa là việc khuyến khích mở rộng kiến thức, các quản thủ thư viện cần dễ gần, dễ mến. Cha mẹ trước hết phải là những tấm gương cho con. Mỗi tối trước khi đi ngủ cần kể cho trẻ nghe một câu chuyện. Việc làm này thực hiện liên tục đến khi trẻ biết đọc trẻ có nhu cầu muốn thưởng thức một câu chuyện trẻ tự mình tập đọc,… Những việc làm tưởng chừng như rất nh nhưng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc dần hình thành thói quen đọc của trẻ. Ngoài ra, chúng ta nên hạn chế cho trẻ xem phim, chơi game,...Cần xây dựng một nề nếp đẹp, tính nhân văn qua việc đọc sách hàng đêm theo một giờ nhất định. Chúng ta phải dày công mới có một thói quen tốt. Vì vậy, nhóm nghiên cứu đề tài nhận thấy ở cấp tiểu học và THCS chúng ta cần: (1)Tổ chức môi trường sách văn học cho thiếu nhi theo hướng tiếp cận trẻ; (2) Tổ chức đọc sách (tạo không gian đọc và thói quen đọc); (3) Giúp trẻ hình thành các diễn đàn như Blog, báo tường, câu lạc bộ trao đổi về các tác phẩm văn học thiếu nhi; (5) Tập huấn giáo viên khai thác các yếu tố của văn học vào giáo dục trẻ em trong các giờ dạy học Ngữ văn.

Kết quả khảo sát về nguồn tài liệu mà SV Khoa Sư phạm đọc:

34

Hình 4.4. Thống kê các nguồn tài liệu mà SV có để đọc

Hình 4.4 cho thấy, SV Khoa Sư phạm thường đọc tài liệu từ Thư viện của Trường (204/363 SV được h i lựa chọn) và internet (có đến 318/363 SV được h i cho rằng học/đọc tài liệu từ internet), 145/363 SV được h i cho rằng đọc tài liệu qua trao đổi với bạn bè. Như vậy, có thể thấy đây là 3 nguồn tài liệu cơ bản mà SV sử dụng để đọc tài liệu khi cần. Kết quả này cũng khá phù hợp với thực tế diễn ra hiện nay.

Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các phương tiện truyền thông, đặc biệt là sự bùng nổ thông tin đã đem đến cho người học nhiều nguồn tư liệu mở. Đây chính là kho tư liệu khổng lồ mà người học có thể lựa chọn trong quá trình học tập tại trường. Chính nguồn tài liệu khổng lồ này tạo cho người học cơ hội tiếp cận với một khối lượng tri thức của nhân loại. Nhờ tính ưu việt của internet như: cập nhật nhanh, giao diện bắt mắt kèm theo những hình ảnh minh họa độc đáo mà giới trẻ rất ưa chuộng. Với những mặt tích cực của internet đem lại để phục vụ học tập, nghiên cứu cho SV đòi h i GV cần lựa chọn phương pháp phù hợp để hướng dẫn người học tiếp cận được với tri thức một cách chính thống. Ngoài ra, người dạy cần tổ chức các hoạt động để tạo điều kiện hình thành thói quen đọc sách cho người học.

Song song đó, Thư viện của Trường ĐHAG được SV Khoa Sư phạm đánh giá là kênh thông tin thứ 2 để họ tìm nguồn tài liệu để đọc. Thư viện của Trường được xây dựng khá khang trang và hiện đại, nằm liền với Khu Hiệu bộ của Trường và được đặt tại tầng 3, 4, 5 của tòa nhà. Tầng 3 gồm: quầy lưu thông, phòng học nhóm, kho sách mượn đọc, phòng lưu thông, phòng bổ sung biên mục. Tầng 4 gồm: quầy thông tin, phòng ban giám đốc, phòng thông tin – enews, phòng máy SV, phòng máy giáo viên, kho báo tạp chí, kho tài liệu tham khảo, kho sách Quỹ Châu Á. Tầng 5 gồm: quầy hỗ trợ kỹ thuật, phòng máy SV, phòng máy giáo viên, kho sách giáo trình, phòng chuyên đề. Thư viện có các khu vực đọc thoáng mát và được trang bị khoảng 360 máy tính gồm: 02 Phòng máy SV với khoảng 268 máy có kết nối Internet được sử dụng miễn phí. 02 Phòng máy giáo viên: được trang bị 14 máy tính, 01 máy in, 01 máy scan để phục vụ cho GV và CBVC của trường. Phòng đọc: có khoảng 1000 chỗ ngồi học cho cá nhân (tầng 3: 230 chỗ, tầng 4: 330 chỗ, tầng 5: 440 chỗ). 16 máy tính tra cứu opac nhằm phục vụ cho SV tra cứu tài liệu trong thư viện, 37 máy tính phục vụ cho công tác nghiệp vụ tại Thư viện.

35

Phòng Chuyên đề được Trường lắp 25 máy tính, 01 máy chiếu và hệ thống âm thanh, phục vụ cho việc báo cáo chuyên đề hoặc giảng dạy với sức chứa 50 người. Phòng hội thảo phục vụ cho việc tổ chức hội nghị, hội thảo với sức chứa 50 người. Về vốn tài liệu: trên 104.000 quyển sách với khoảng 25.000 nhan đề; trên 200 loại báo, tạp chí; 1.400 bản in tài nguyên nội sinh như luận văn, luận án, nghiên cứu khoa học, khoảng 1.300 băng đĩa cho tài liệu nghe nhìn. Ngoài ra, tài nguyên điện tử gồm: bộ sưu tập nguồn tài liệu nội sinh Dspace; các CSDL tiếng Anh như Proquest, Springerlink, AGORA, OARE, ARDI, HINARI. Việc sử dụng thư viện khá thuận lợi vì có quy định giờ mượn sách, giờ sử dụng phòng và đội ngũ cán bộ quản lý và hướng dẫn thư viện nhiệt tình và có trách nhiệm. Thư viện có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học. (Nguồn: Báo cáo Tự đánh giá Trường, 2015).

Kết quả khảo sát về tần suất đến Thư viện của SV Khoa Sư phạm:

Hình 4.5. Biểu đồ tần suất đến Thƣ viện của SV Khoa Sƣ phạm

Từ biểu đồ hình 4.5 cho thấy, có 25,1% SV Khoa Sư phạm đến Thư viện trên 3 lần/1 tuần và 69,4% SV của Khoa đến Thư viện Trường dưới 3 lần/1 tuần. Trên 5 lần/1 tuần chỉ chiếm 4,7%. Kết quả trên cho thấy, SV Khoa Sư phạm đến Thư viện dưới 3lần/tuần để đọc sách, đây cũng là một con số đáng kể so với việc không đọc sách báo. Đặc biệt với phương pháp học tập mới, nếu SV không đọc sách thì không đảm bảo được yêu cầu của môn học, ảnh hưởng đến KQHT.

Kết quả khảo sát loại tài liệu SV Khoa Sư phạm lựa chọn để đọc khi đến Thư

viện:

36

Hình 4.6. Biểu đồ thể hiện loại tài liệu SV Khoa Sƣ phạm lựa chọn khi đến Thƣ viện

Học tập là hoạt động chủ yếu của SV, học tập trong môi trường đại học khác với các cấp bậc khác. Đối với các cấp học như tiểu học, THCS, THPT, HS tiếp xúc phần lớn với tài liệu, mọi kiến thức liên quan đến môn học đều được trình bày đầy đủ trong sách giáo khoa của môn học, HS chỉ tiếp thu kiến thức trong sách vở mà giáo viên hướng dẫn. Ngược lại, môi trường học tập đại học đòi h i SV mở rộng vốn tri thức, tích cực tìm kiếm các thông tin không chỉ về vấn đề đang học tập, nghiên cứu mà còn là các nguồn tin khác liên quan. Tuy nhiên, qua biểu đồ hình 4.6 cho thấy SV Khoa Sư phạm đến thư viện phần lớn lựa chọn sách tham khảo để đọc (chiếm tỷ lệ 270/363 SV). Điều này cho thấy, SV đọc sách là khi họ cần để giải quyết yêu cầu thực tế của giảng viên (đọc để làm bài tập, báo cáo, tiểu luận,...). Tác phẩm văn học cũng được 153/363 SV lựa chọn, tạp chí chuyên ngành là 119/363. Các tài liệu khác về tin tức thời sự, chính trị, an ninh, giáo dục, thể thao, kinh tế, tác phẩm văn học, tạp chí chuyên ngành,… cũng được SV quan tâm nhưng ở phần lớn ở mức độ thỉnh thoảng đọc, cụ thể có 72/363 SV chọn báo giải trí. Các tài liệu mà SV thường lựa chọn liên quan đến môn học và liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học của SV nhằm mục đích phục vụ học tập. Đặc biệt với phương pháp đào tạo mới, SV phải dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự đọc tài liệu. Nhiều môn học yêu cầu SV phải đọc tài liệu trước khi đến lớp, nếu không đọc thì sẽ không nắm được các nội dung của bài học. Từ đó, KQHT của SV cũng bị ảnh hưởng. Để th a mãn nhu cầu đọc của bản thân, thư viện chính là nơi quen thuộc và đảm bảo đáp ứng những nhu cầu mà SV quan tâm.

4.1.2 Sở thích đọc

VHĐ là một hoạt động văn hóa ở tầm cao cho người học. Thông qua VHĐ định hướng cho người học, tùy thuộc vào năng lực của mỗi người, mỗi SV khác nhau có thể tiếp cận được với thông tin, tri thức phù hợp, hữu ích nhất cho cuộc sống của mình. VHĐ có thể giúp cho mỗi cá nhân người học có nhận thức trí tuệ hơn, ý nghĩa và hài hòa hơn. Sở thích đọc được xem là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để hình thành VHĐ. Kết quả khảo sát về sở thích đọc của SV Khoa Sư phạm cho thấy:

37

Bảng 4.1. Thống kê lý do thích/không thích đọc sách Lí do KHÔNG thích đọc sách Lí do thích đọc sách Lí do Lí do

1. Mất thời gian 2. Nhàm chán 3. Không nhu cầu 4. Không có sở thích Lƣợt ý kiến 10 0 0 0 Lƣợt ý kiến 240 306 211 212 178 5. Chất lượng tài liệu 0 62 1. Giúp học tập tốt 2. Làm tăng sự hiểu biết 3. Giúp phát triển ngôn ngữ 4. Thư giãn, giải trí 5. Nuôi dưỡng tâm hồn 6. Giết thời gian (không có mục đích rõ ràng)

Nhìn vào bảng 4.1 ta thấy, SV Khoa Sư phạm vẫn rất thích đọc sách, có rất nhiều lí do khiến SV thích đọc, có đến 240/363 SV được h i trả lời thích đọc sách vì đọc sách giúp học tập tốt, 306/363 làm tăng sự hiểu biết, 211/363 vì đọc sách giúp phát triển ngôn ngữ, 212/363 để thư giản giải trí, 178/363 lượt ý kiến thích đọc sách để nuôi dưỡng tâm hồn. Chỉ có rất ít 62/363 SV thích đọc vì để giết thời gian. Như vậy, tỷ lệ này cho thấy, SV Khoa Sư phạm thích đọc sách vì những lí do chính đáng, bổ ích, phục vụ tốt cho việc học tập cũng như để thư giản, giải trí và nuôi dưỡng tâm hồn. chưa ổn định nên sở thích của bản thân dễ bị thay đổi theo những tác động tiêu cực của xã hội. Chỉ có 10/363 SV cho rằng đọc sách mất thời gian. Có thể do nhận thức của những SV này

4.1.3 Kỹ năng đọc

Nếu xét VHĐ của từng cá nhân phải đảm bảo có đủ cả ba yếu tố thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Nếu một người có thói quen đọc, nhưng thiếu kỹ năng đọc, hiệu quả đọc không cao, thậm chí không có hiệu quả, chỉ mất thời gian vô ích. Nếu nắm vững kỹ năng đọc, nhưng không tạo được thói quen đọc, cũng chẳng thu lượm được kiến thức là bao, thiếu những kiến thức cần thiết cho cuộc sống của chính họ. Nhưng đôi khi người ta nói VHĐ của mỗi cá nhân đồng nghĩa là kỹ năng đọc của họ. Điều đó nói lên tầm quan trọng của kỹ năng đọc của mỗi cá nhân.

Hình 4.7. Thống kê đối tƣợng hƣớng dẫn SV Khoa Sƣ phạm kỹ năng đọc tài liệu

Nhìn vào kết quả thống kê ở hình 4.7 cho thấy GV Khoa Sư phạm có hướng dẫn kỹ năng đọc sách cho SV, có 201/363 SV cho rằng họ được hướng dẫn kỹ năng đọc

38

sách từ thầy cô và 209/363 SV cho rằng kỹ năng đọc có được là bản thân tự rút kinh nghiệm trong quá trình đọc sách, ngoài ra, bạn bè cũng là một trong những đối tượng giúp SV hình thành kỹ năng đọc sách, có 120/363 SV cho rằng, bạn bè giúp SV có thêm kỹ năng đọc sách. Đối với SV, thầy cô và bạn bè chính là những đối tượng mà SV tiếp xúc hàng ngày trong học tập cũng như đời sống sinh hoạt. Thầy cô không chỉ là người truyền thụ kiến thức từ sách vở cho SV mà quan trọng hơn, là người giáo dục nhân cách sống, hướng dẫn kỹ năng đọc sách. Thực tế môi trường giáo dục đại học hiện nay, phương pháp học theo tín chỉ đòi h i SV phải đọc, tự học, tự đọc sách nhiều. Vì vậy, SV cần phải có kỹ làm việc đọc lập và tương tác với bạn bè. Bản thân thầy không phải là “cẩm nang” nhưng qua người thầy, SV có thể tiếp cận những kho tàng chuyên môn, kho tàng tư liệu, giáo trình và điều đặc biệt, người thầy sẽ giúp SV có được phương pháp học hiệu quả. Như vậy, giờ học thầy là người nêu ra vấn đề, chỉ ra cách tiếp cận vấn đề. SV cần mạnh dạn, trao đổi thoải mái thể hiện mình. Với bạn bè đồng trang lứa, dễ chia sẻ, dễ học h i kinh nghiệm về phương pháp học tập của nhau. Phát triển trong một môi trường tốt, bao quanh bởi những người bạn tốt là cách dễ nhất để thay đổi cuộc sống. Những người bạn giúp SV có thêm những kỹ năng đọc. Như vậy, SV cần học h i, rèn luyện phương pháp đọc sách từ sự hướng dẫn của thầy cô, tự đọc thật nhiều sách để rút kinh nghiệm, hình thành kỹ năng và chia sẻ kỹ năng đọc hiệu quả từ bạn bè. Ngoài ra, cán bộ thư viện và gia đình cũng có hướng dẫn SV kỹ năng đọc nhưng không nhiều. Qua kết quả khảo sát, nghiên cứu cho thấy cán bộ Thư viện cũng cần tăng cường nâng cao nghiệp vụ và trách nhiệm hơn trong việc giúp SV hình thành kỹ năng đọc.

Bảng 4.2. Thống kê điểm trung bình về năng lực tạo lập văn bản của SV Khoa Sƣ phạm trƣớc và sau khi đƣợc GV hƣớng dẫn.

TT Năng lực

1 Nêu được một số thông tin ban đầu về đối tượng

Trƣớc khi đƣợc GV hƣớng dẫn

2

2,25 Sau khi đƣợc GV hƣớng dẫn 3,33

3

2,28 3,32 Nêu được một số nội dung cơ bản về đối tượng, hình thành cấu trúc văn bản

4

2,61 3,64 Trình bày được một số nội dung cơ bản về một vấn đề với phương thức biểu đạt phù hợp

5

2,23 3,36

2,42 3,44 Vận dụng được các thao tác và phương thức biểu đạt phù hợp để giải quyết vấn đề có hiệu quả Thể hiện được bản sắc và chính kiến cá nhân, có những sáng tạo độc đáo về tư duy, cảm xúc và ngôn ngữ biểu đạt

Kết quả bảng 4.2 cho thấy, điểm trung bình về năng lực tạo lập văn bản của SV

Khoa Sư phạm trước và sau khi được GV hướng dẫn có sự khác biệt, cụ thể như sau:

- ĐTB các tiêu chí đánh giá năng lực tạo lập văn bản của SV trước khi được GV hướng dẫn dao động trong khoảng từ 2,23 đến 2,61 trên thang điểm 5. Điều này có nghĩa là khi SV chưa được GV hướng dẫn kỹ năng đọc thì họ tiến hành các thao tác này chỉ ở mức khá thành thạo hoặc chưa thành thạo. Các tiêu chí có ĐTB thấp nhất là về: (1)

39

vận dụng được các thao tác và phương thức biểu đạt phù hợp để giải quyết vấn đề có hiệu quả; (2) Nêu được một số thông tin ban đầu về đối tượng; (3) Nêu được một số nội dung cơ bản về đối tượng, hình thành cấu trúc văn bản; (4) Thể hiện được bản sắc và chính kiến cá nhân, có những sáng tạo độc đáo về tư duy, cảm xúc và ngôn ngữ biểu đạt. Riêng tiêu chí đánh giá về Trình bày được một số nội dung cơ bản về một vấn đề với phương thức biểu đạt phù hợp có ĐTB cao nhất so với 4 tiêu chí còn lại.

- ĐTB các tiêu chí đánh giá năng lực tạo lập văn bản của SV sau khi được GV hướng dẫn dao động trong khoảng từ 3,32 đến 3,64 trên thang điểm 5. Kết quả cho thấy, sau khi được hướng dẫn của GV thì SV có những cải tiện đáng kể về mặt kỹ năng.

4.2 ĐÁNH GIÁ ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ VĂN HÓA ĐỌC ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SV NGÀNH NGỮ VĂN

4.2.1 Yếu tố thói quen đọc

Kết quả đánh giá thói quen đọc ảnh hưởng đến KQHT của SV ngành Ngữ văn:

- Một là, về thời gian đọc trung bình hàng ngày của SV ngành Ngữ văn có ảnh hưởng đến kết quả học tập của họ với hệ số gamma bằng 0,304 (mức ý nghĩa p = 0,006 < 0,01). Hệ số tương quan dương điều đó có nghĩa là SV có học lực Khá - Gi i có thói quen đọc sách hàng ngày nhiều hơn SV có học lực Trung bình và Trung bình Yếu với mức ý nghĩa thống kê 99%.

Bảng 4.3. Thống kê thời gian đọc trung bình mỗi ngày của SV Ngữ văn khi xét đến yếu tố về KQHT của họ Thời gian đọc trung bình mỗi ngày Kết quả học tập

Trung bình yếu D (4,0 - 5,4) Trung bình C (5,5 - 6,9) Khá B (7,0 - 8,4) Gi i A (8,5 - 10) Dƣới 1 giờ 2 20 7 0 Từ 1- 3 giờ 7 51 36 3 Từ 3- 5 giờ 1 15 15 1 Từ 5- 10 giờ 0 4 5 0 Trên 10 giờ 0 0 2 1 B sót 0 0 1 0

- Hai là, về tần suất đến thư viện mỗi tuần của SV ngành Ngữ văn có ảnh hưởng đến KQHT của họ với hệ số gamma bằng 0,301 (mức ý nghĩa p = 0,028 < 0,05). Hệ số tương quan dương điều đó có nghĩa là SV có học lực Khá - Gi i có đến thư viện nhiều hơn SV có học lực Trung bình và Trung bình Yếu với mức ý nghĩa thống kê 95%. Kết quả cụ thể như sau:

Bảng 4.4. Thống kê tần suất đến Thƣ viện mỗi tuần của SV Ngữ văn khi xét đến yếu tố về kết quả học tập của họ

Bạn đến Thƣ viện bao nhiêu lần/tuần Kết quả học tập Tổng B sót

Trung bình yếu D (4,0 - 5,4) Trung bình C (5,5 - 6,9) Khá B (7,0 - 8,4) Gi i A (8,5 - 10)

Dƣới 3 lần 7 69 40 3 119 Từ 3-5 lần 3 17 16 1 37 Trên 5 lần 0 3 10 0 13 0 1 0 1 2 10 90 66 5 171 Tổng

40

Trong trường đại học, Thư viện là nơi lưu trữ vốn tài liệu và đáp ứng mọi nhu cầu đọc của SV. Học tập là hoạt động chủ yếu của SV trong môi trường đại học khác với các cấp bậc khác. Môi trường học tập đại học đòi h i SV mở rộng vốn tri thức, tích cực tìm kiếm các thông tin không chỉ về vấn đề đang học tập, nghiên cứu mà còn là các nguồn tin khác liên quan. Với lý do đọc tài liệu được thống kê tại bảng 4.4 về mục đích đến Thư viện của SV ngành Ngữ văn cho thấy có trên 70% lượt ý kiến của SV Sư phạm ngành Ngữ văn cho rằng họ đến Thư viện để đọc tài liệu, để học bài và để học nhóm. Còn lại một số ít cho rằng họ đến thư viện để truy cập Internet và tham quan giải trí. Tỷ lệ này cho thấy, việc phục vụ học tập vẫn được SV đặt lên trước hết, đọc để thu nhận những kiến thức bổ ích, mang lại kết quả cao trong học tập. SV Ngữ văn chưa dành nhiều thời gian và tâm trí để đọc các loại sách giúp mở rộng kiến thức cũng như định hướng nhân cách. Cuộc sống tinh thần chưa được quan tâm đúng mức. Đối tượng đọc sách chính ở thư viện hướng vào việc đọc sách liên quan đến học tập để nâng cao kết quả thi hơn là mở rộng kiến thức. Ngoài ra, số còn lại họ đến thư viện chỉ để truy cập internet, tham quan, giải trí. Như vậy, ngoài việc tổ chức hội nghị bạn đọc hằng năm Thư viện cũng cần có thêm nhiều hoạt động bổ trợ khác như: tổ chức liên tục các cuộc thi đọc sách, vận động đọc với đa dạng các loại chủ đề, nhiều tác phẩm, nhiều hình thức. Theo nghiên cứu, nhu cầu đọc và nhóm sách ưa thích đọc là hai tiêu chí quan trọng hàng đầu cho việc tìm đến thư viện để đọc sách của SV. Vì vậy, để bạn đọc đến Thư viện đọc sách nhiều hơn, Thư viện cũng cần lập kế hoạch phục vụ bạn đọc tốt, Thư viện nên có các cuộc khảo sát về các loại tài liệu mà SV thích đọc. Bảng 4.5. Thống kê mục đích đến Thƣ viện

Mục đích đến Thƣ viện Số lƣợng %

Đọc tài liệu 132 77,2

Truy cập Internet 70 40,9

Học bài 51 29,8

Học nhóm 122 71,3

Tham quan giải trí 6 3,5

B sót 3 1,8

- Ba là, kết quả khảo sát về việc góc học tập hoặc tủ sách cá nhân có ảnh hưởng KQHT của người học, số liệu thống kê như sau:

Hình 4.8. Tỉ lệ SV Ngữ văn có góc học tập khi xét đến yếu tố về kết quả học tập

41

Từ đồ thị hình 4.8 cho thấy không có mối tương quan giữa năng lực của SV với việc trang bị góc học tập. Điều đó có thể do điều kiện SV (SV nội trú, SV ở trọ điều kiện sinh hoạt còn nhiều khó khăn,…).

Hình 4.9. Biểu đồ thể hiện nguồn tài liệu mà SV Ngữ văn tìm đọc

Từ hình 4.9 ta thấy nguồn tài liệu mà SV Sư phạm ngành Ngữ văn tìm đọc chủ yếu từ Internet và Thư viện Trường. Đây được xem là hai nguồn quan trọng để SV tìm kiếm tài liệu. Trên biểu đồ thống kê SV tìm kiếm thông tin trên mạng Internet chiếm số lượng nhiều nhất (146/171 SV lựa chọn). Thực tế hiện nay cho thấy, sự bùng nổ mạng Internet toàn cầu giúp con người có nhiều lựa chọn hơn trong việc th a mãn nhu cầu tin tức. Các bộ máy tìm kiếm có khả năng cung cấp một lượng thông tin rất khổng lồ, trong đó tìm kiếm bằng Google được sử dụng nhiều nhất hiện nay, sưu tập được một lượng thông tin vô cùng lớn trên mạng, hầu như tất cả các thứ ngôn ngữ tồn tại trên Internet. Ngoài ra, công cụ này có nhiều tính năng tìm kiếm nâng cao khác nhau, giúp dễ dàng giới hạn phạm vi tìm kiếm. Vì vậy, việc SV Ngữ văn, tìm kiếm tư liệu tử internet chiếm tỉ lệ cao là hoàn toàn hợp lí

Kết quả khảo sát đối tượng ảnh hưởng đến thói quen đọc của SV:

Hình 4.10. Thống kê các đối tƣợng ảnh hƣởng đến thói quen đọc của SV ngành Ngữ văn

Kết quả ở hình 4.10 cho thấy, SV tự đánh giá thói quen đọc của họ có được trước hết là từ yếu tố bản thân (thói quen đọc chịu ảnh hưởng từ bản thân chiếm 82/171 trên tổng số SV được h i). Ngoài ra, thầy cô cũng là đối tượng có tác động, hình thành thói

42

quen đọc sách cho SV. Các yếu tố khách quan khác như: truyền thống gia đình 24/171, bạn bè 22/171 SV được h i. Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy thói quen đọc của SV phụ thuộc chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: ý thức của mỗi cá nhân người đọc, thầy cô, gia đình, bạn bè,...Vai trò của thầy cô là định hướng cho SV trong quá trình tiếp xúc và hình thành kỹ năng đọc sách. Bạn bè cũng là một nguồn hỗ trợ tích cực cho việc hình thành thói quen này, học nhóm và chia sẻ kinh nghiệm đọc sách cũng là một cách để nâng cao cách đọc, kỹ năng đọc, từ đó hình thành thói quen. Hoàn cảnh (gia cảnh, điều kiện kinh tế) là một yếu tố khách quan góp một phần không nh vào việc hình thành thói quen đọc. Tuy nhiên, yếu tố chủ yếu cho việc hình thành thói quen đọc sách của SV là do ý thức của mỗi cá nhân, SV tự ý thức được những vấn đề mà mình quan tâm, bổ sung tri thức sẽ thấy đọc sách là một việc vô cùng có ích trong quá trình này. Từ đó, đã dần hình thành thói quen đọc sách thông qua việc tự lên kế hoạch cho bản thân một cách hợp lý nhất. Ý thức cá nhân có vai trò quyết định đến việc hình thành thói quen đọc vì: Dù đọc bất cứ tài liệu hay loại sách nào thì mục tiêu cuối cùng phải chiếm lĩnh tri thức, sau khi gấp lại trang sách ít nhất SV phải nắm được một phần dung lượng nội dung được trình bày và phải bổ sung cho mình được một lượng kiến thức nhất định như mong muốn. Tuy nhiên, nếu đó là áp lực từ phía thầy cô hoặc bạn bè thì điều này sẽ khó thực hiện được. Việc đọc phải được tiến hành một cách tự do và thoải mái thì mới tạo nên được sự duy trì lâu dài và bền bỉ. Việc đọc phải do chính bản thân vận động để đạt được một mục đích mà SV đã đặt ra. Điều này khẳng định vai trò của việc xác định mục đích đọc và sở thích đọc. Tóm lại, chỉ có thích thì SV mới gắn bó được lâu dài và có mục tiêu thì SV mới có động cơ để chiếm lĩnh. Không những vậy đây còn là nhân tố bên trong của ý thức cá nhân hình thành mà không ai có thể tác động được. Nên việc hình thành được thói quen đọc lâu dài cho SV là sự quyết định trực tiếp bởi ý thức cá nhân mà có từ kết quả khảo sát là phù hợp.

4.2.2 Yếu tố sở thích đọc

Hình 4.11. Biểu đồ các loại tài liệu mà SV ngành Ngữ văn thƣờng tìm đọc

Kết quả khảo sát cho thấy 66,7% SV ngành Ngữ văn lựa chọn là tài liệu nghiên cứu khi đến thư viện. Riêng tài liệu phổ thông, tài liệu giải trí SV ít lựa chọn khi đến thư viện (chỉ có 35,1% SV lựa chọn tài liệu này). Việc thường xuyên và có phương pháp đọc tài liệu nghiên cứu sẽ giúp SV mở rộng và đào sâu những tri thức đã lĩnh hội được, tiếp cận được với sự phát triển của khoa học và nghề nghiệp tương lai; bồi dưỡng tư duy

43

lôgic, phương pháp học tập, làm việc khoa học và nhất là tư duy sáng tạo trong hoạt động chuyên môn của mình; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, hứng thú học tập, nghiên cứu, lòng yêu nghề nghiệp và thái độ đúng đắn với thế giới xung quanh cũng như với bản thân. Như vậy, SV ngành Ngữ văn đã ý thức được vai trò quan trọng của việc nghiên cứu trong quá trình học tập. Một trong những điều kích thích cho SV đọc tài liệu nghiên cứu nhiều từ thư viện là vì Thư viện cập nhật nhanh và đa dạng các nguồn tài liệu mới mang giá trị tham khảo rất cao. Ví dụ: Thư viện Trường Đại học An Giang, tầng 5 lưu trữ các tài liệu phổ thông là sách giáo khoa, giáo trình mà GV sử dụng làm tài liệu chính để giảng dạy. Ở tầng 3 là sách nghiên cứu của các công trình khoa học đã được xuất bản và ở tầng 4 là quầy tạp chí khoa học cả trong lẫn ngoài nước. SV đến Thư viện thường quan tâm tài liệu tầng 3 với tầng 4 vì nơi đây trang bị rất nhiều sách nghiên cứu sâu có liên quan những vấn đề được đưa ra thảo luận trên lớp. Và nhiều tạp chí nghiên cứu khoa học nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau góp phần tạo thêm cái nhìn đa chiều cho SV. Thư viện là nơi yên tĩnh và thoải mái để người đọc có không gian nghiên cứu tài liệu hiệu quả. Đến Thư viện, SV còn có cảm giác hòa vào môi trường học thuật cao, không khí học tập tốt. Chính vì vậy, Thư viện góp phần hình thành sở thích đọc cho SV. Theo quy định của học chế tín chỉ thì 1 tiết học trên lớp tương ứng với 3 tiết SV phải tự học, tự tìm hiểu và bổ sung bằng những tài liệu GV đã cung cấp và giới thiệu ở đầu học phần được lưu trữ ở thư viện. Vì vậy, việc SV ngành Ngữ văn đến Thư viện đọc tài liệu nghiên cứu là hợp lý. Ngoài ra, sự quan tâm của cán bộ thư viện hướng đến người đọc cũng giúp SV thích đến Thư viện hơn. Với việc đa dạng hóa và hiện đại hóa dịch vụ thông tin thư viện, khả năng khai thác thông tin tại thư viện của SV hiệu quả hơn, SV có cơ hội tham gia các diễn đàn trao đổi, hội nghị, hội thảo bạn đọc, tọa đàm về sách, triển lãm sách,… SV được học tập kỹ năng đọc sách, trao đổi phương pháp tìm thông tin, tiếp xúc với nguồn tài liệu bổ ích phục vụ học tập, nghiên cứu và giao tiếp. Tích cực tham gia các hoạt động này sẽ làm tăng hứng thú đọc sách, phát triển VHĐ cho SV. Hằng năm, Thư viện luôn tổ chức Hội nghị bạn đọc để lắng nghe và chia sẻ với bạn đọc của thư viện, khuyến khích và đổi mới nhiều hoạt động nhằm lôi kéo bạn đọc đến với thư viện,…Tất cả các hoạt động trên đã góp phần hình thành nên sở thích đọc cho SV. Cũng nhờ vào công nghệ thông tin mà các hoạt động phục vụ bạn đọc của thư viện như bộ máy tra cứu tài liệu, dịch vụ mượn trả tài liệu, khai thác nguồn tài liệu số,… mang lại hiệu quả hơn, SV dễ dàng khai thác được tài liệu tại thư viện thông qua hệ thống máy tính điện tử có kết nối mạng. Đối với SV, VHĐ là một vấn đề không mới, phần lớn SV đều hiểu rằng VHĐ chính là thói quen đọc sách mỗi ngày, kỹ năng lựa chọn và khai thác nội dung của cuốn sách và vận dụng những tri thức đó vào thực tế cuộc sống.

Thư viện cũng chính là môi trường hình thành nhân cách cho SV bởi tiếp xúc với thư viện là gần với tri thức của nhân loại, tiếp thu những kiến thức khoa học, được đào tạo, hướng dẫn kỹ năng đọc sách cho bạn đọc. Vì vậy, việc sử dụng thư viện là hoạt động diễn ra thường xuyên đối với mỗi SV nhằm khai thác nguồn tài liệu tại Trung tâm thư viện phục vụ học tập, đặc biệt vào mùa thi số lượng SV sử dụng thư viện là nơi để ôn bài tăng cao. Nhằm đáp ứng nhu cầu tìm kiếm thông tin của SV, các phòng Internet, phòng đa phương tiện của Thư viện cũng là địa điểm mà SV thường xuyên đến. Như

44

vậy, việc nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện, đảm bảo hỗ trợ hiệu quả quá trình sử dụng của SV sẽ tạo hứng thú cho SV đến đọc, từ đó hình thành thói quen đọc sách cho SV. Thư viện là nơi gắn bó thân thiết với SV trong môi trường giáo dục đại học, là nơi cung cấp nguồn học liệu hỗ trợ học tập và nghiên cứu của SV. Sở dĩ, tài liệu phổ thông và tài liệu giải trí SV ít chọn khi đến thư viện vì nguồn tài liệu này dễ dàng câp nhật được từ Internet, nhà sách,…

Ngoài ra, kết quả khảo sát cũng cho thấy vai trò của sở thích đọc ảnh hưởng đến

người học nhằm giúp họ hình thành VHĐ như sau:

Hình 4.12. Nhu cầu đọc sách của SV ngành Ngữ văn – Khoa Sƣ phạm

Nhìn vào biểu đồ hình 4.12 ta thấy, SV ngành Ngữ văn đọc sách với nhiều nhu cầu khác nhau, có đến 147/171 trong số SV được h i trả lời đọc sách làm tăng sự hiểu biết, 120/171 SV đọc sách để giúp học tốt. Như vậy, tỷ lệ này cho thấy, đọc sách phục vụ học tập vẫn được SV đặt lên trước hết, đọc để thu nhận những kiến thức bổ ích, mang lại kết quả cao trong học tập vì đặc biệt với phương pháp học tập mới, nếu SV không đọc sách thì không đảm bảo được yêu cầu của môn học, ảnh hưởng đến KQHT. Ngoài ra, có đến 116/171 SV đọc sách giúp phát triển ngôn ngữ vì SV ngành Ngữ văn sau khi tốt nghiệp chủ yếu là đi dạy và làm việc ở những cơ quan đòi h i khả năng giao tiếp rất lớn như Đài Phát thanh truyền hình, báo chí,… mục tiêu của công việc đòi h i SV xác định mục tiêu đọc để phát triển ngôn ngữ rất lớn là hợp lí, có khoảng hơn 94/171 SV cho rằng đọc sách nuôi dưỡng tâm hồn và thư giãn giải trí. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, ngoài yêu cầu về môn học, mối quan hệ xã hội của SV được dần mở rộng và họ chịu tác động của nhiều hoàn cảnh thay đổi xung quanh. Việc đọc sách vì thế cũng thay đổi, đọc có thể để thư giản và nuôi dưỡng tâm hồn. Đây cũng là nguyên nhân khá bình thường với tính cách của lứa tuổi SV, họ cũng có nhu cầu được giải trí sau những tiết học trên lớp. Như vậy, SV đọc sách không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu học tập mà còn để th a mãn sở thích cá nhân, khi được th a mãn thì sẽ làm tăng hứng thú đọc.

45

4.2.3 Yếu tố kỹ năng đọc

Kết quả đánh giá về kỹ năng đọc của SV Sư phạm ngành Ngữ văn đạt ở mức khá thành thạo (điểm trung bình bằng 3,43/5,00 và giá trị độ lệch chuẩn là 0,599), cụ thể như sau:

Hình 4.13. ĐTB tự đánh giá của SV Sƣ phạm ngành Ngữ văn về các tiêu chí phƣơng pháp đọc tài liệu

C32 Phân tích tài liệu đọc C33 Tổng hợp tài liệu đọc C34 Đánh giá tài liệu đọc C35 So sánh với các tài liệu đã đọc C36 Trao đổi nội dung tài liệu

C26 Xác định mục đích đọc C27 Lập kế hoạch đọc C28 Lựa chọn cách đọc C29 Ghi chép nội dung đọc C30 Hiểu rõ nội dung tài liệu C31 Tóm tắt nội dung đọc

T

ừ đồ thị hìn h 4.13 ta thấy điểm trung bình của 11 tiêu chí đánh giá về phương pháp đọc tài liệu của SV dao động trong khoảng từ 3,02 đến 3,70 trên thang điểm 5, đồng thời giá trị độ lệch chuẩn bằng 0,599 nằm trong khoảng đồng bộ cho phép. Trong 11 tiêu chí liên quan đến phương pháp đọc tài liệu của SV ngành Ngữ văn, có 8/11 tiêu chí có điểm trung bình lớn hơn 3,40 nghĩa là ở tám tiêu chí này SV tiến hành khá thường xuyên như tiêu chí về: xác định mục đích đọc, lựa chọn cách đọc, ghi chép nội dung đọc, hiểu rõ nội dung tài liệu, tóm tắt nội dung đọc, phân tích tài liệu đọc, so sánh với các tài liệu đã đọc, trao đổi nội dung tài liệu. Riêng ba tiêu chí về lập kế hoạch đọc, tổng hợp tài liệu đọc và đánh giá tài liệu đọc có điểm trung bình thấp nhất trong 11 tiêu chí này. Kết quả khảo sát về phương pháp đọc sách cho thấy, SV ngành Ngữ văn trong quá trình đọc sách đã biết: lựa chọn vấn đề cần đọc, định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân, biết cách tiếp cận tối đa nội dung tài liệu đọc, biết cách phân tích, so sánh, trao đổi nội dung sách với những người có hiểu biết để vận dụng các nội dung đọc được vào thực tiễn. SV cũng đã ý thức được phương pháp đọc có vai trò quan trọng trong việc hình thành VHĐ cho bản thân. Tuy nhiên, họ chưa nhận thức được lập kế hoạch khi đọc sách là việc làm cần thiết để việc đọc có hiệu quả. Tổng hợp và đánh giá tài liệu trong quá trình giúp họ nâng cao hiệu quả của hoạt động. Như vậy, có khả năng việc SV duy trì thói quen đọc sách tốt sẽ là tiền đề để SV rèn luyện kỹ năng đọc. Khi SV thường xuyên đọc sách thì kỹ năng đọc sẽ được phát huy rất nhanh, từ đó năng lực học tập của SV sẽ được củng cố và phát triển

46

lên mức cao hơn, đó là khả năng tổng hợp, phân tích, đánh giá khi nhìn nhận vấn đề. Điều này rất quan trọng khi SV học ở bậc cao hơn vì phương pháp đọc sách có thể được xem là kỹ năng cần thiết cho việc học tập, nghiên cứu sau này. Để SV có được phương pháp đọc sách có hiệu quả, GV cần: (1) hướng dẫn SV phương pháp đọc văn bản và các tài liệu tham khảo; (2) yêu cầu SV tìm đọc các tài liệu liên quan sau khi dạy xong bài học; (3) yêu cầu SV đọc trước văn bản trong sách, giáo trình, tìm đọc sách tham khảo về tác giả, tác phẩm, chuẩn bị bài trước lúc lên lớp. Ngoài việc, đọc tài liệu theo hướng dẫn của GV, SV cần chủ động học h i, lựa chọn tài liệu tham khảo, lựa chọn cách đọc phù hợp đối với từng loại tài liệu, trao đổi nội dung sách với những người có hiểu biết tốt hơn (thầy cô, cha mẹ, bạn bè…), hiểu và nắm vững nội dung cuốn sách, có thể tóm tắt lại. Phân tích được nội dung của tài liệu đọc Ngoài ra, GV cần hướng dẫn SV lập kế hoạch đọc, tổng hợp tài liệu đọc và đánh giá tài liệu đọc.

Kết quả khảo sát đối tượng hướng dẫn SV ngành Ngữ văn kỹ năng đọc tài liệu:

Hình 4.14. Thống kê đối tƣợng hƣớng dẫn SV ngành Ngữ văn kỹ năng đọc tài liệu

Nếu xét VHĐ của từng cá nhân phải đảm bảo có đủ cả ba yếu tố thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Nếu một người có thói quen đọc nhưng thiếu kỹ năng đọc hiệu quả đọc không cao. Nếu nắm vững kỹ năng đọc nhưng không tạo được thói quen đọc, cũng không thu lượm được nhiều kiến thức, thiếu những kiến thức cần thiết cho cuộc sống của chính họ. Nhưng đôi khi người ta nói VHĐ của mỗi cá nhân đồng nghĩa là kỹ năng đọc của họ. Điều đó nói lên tầm quan trọng của kỹ năng đọc của mỗi cá nhân.

Thống kê hình 4.14 cho thấy, có 111/171 SV được h i họ được hướng dẫn kỹ năng đọc từ thầy cô, 85/171 SV có được kỹ năng đọc là do bản thân SV đọc, suy nghĩ và tự hình thành nên kỹ năng trong quá trình đọc, 57/171 SV là do bạn bè. Như vậy, đối với SV, thầy cô và bạn bè chính là những đối tượng mà SV tiếp xúc hàng ngày trong học tập cũng như đời sống sinh hoạt, họ có ảnh hưởng đến thói quen và kỹ năng đọc sách của SV. Thầy cô không chỉ là người truyền thụ kiến thức từ sách vở cho SV mà quan trọng hơn, là người giáo dục nhân cách sống, hướng dẫn kỹ năng đọc sách. Thực tế môi trường giáo dục đại học hiện nay, phương pháp học theo tín chỉ đòi h i SV phải

47

thảo luận nhiều. Vậy SV cần phải chuẩn bị những gì cho giờ thảo luận? Bản thân thầy không phải là “cẩm nang” nhưng qua người thầy, SV có thể tiếp cận những kho tàng chuyên môn, kho tàng tư liệu, giáo trình. Đặc biệt, người thầy sẽ giúp SV có được phương pháp học hiệu quả. Như vậy, giờ thảo luận thầy là người nêu ra vấn đề, chỉ ra cách tiếp cận vấn đề. SV cần mạnh dạn, trao đổi thoải mái thể hiện mình. Với bạn bè, là những người đồng trang lứa, dễ chia sẻ, dễ bị ảnh hưởng bởi những thói quen, cách thức học của họ. Phát triển trong một môi trường tốt, bao quanh bởi những người bạn tốt là cách dễ nhất để thay đổi cuộc sống. Những người bạn giúp SV thay đổi, hình thành những thói quen có ích cho SV. Còn đối với những người bạn không tốt thì hậu quả ngược lại. Như vậy, SV cần học h i, rèn luyện việc đọc sách từ sự hướng dẫn của thầy cô, hình thành thói quen và chia sẻ kỹ năng đọc hiệu quả từ bạn bè. Để có được thói quen đọc sách báo, người đọc cũng phải được đào tạo từ nh . Các bậc cha mẹ, ông bà đọc cho con, cháu nghe trước tuổi đến trường, tạo cho các em biết quý trọng và yêu sách (biết quý trọng và yêu quý thông tin, tri thức). Tuy nhiên, với nhịp sống hiện đại ngày nay, những người làm cha mẹ không còn thời gian cho việc đọc sách cùng con cái, một số gia đình cũng không quan tâm đến sở thích của con mình. Thực tế này ảnh hưởng đến lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách của người đọc. Vì vậy, gia đình cần trở thành tấm gương tốt hình thành thói quen và kỹ năng đọc sách hiệu quả là hành trang giúp SV học tập và chuẩn bị bước vào cuộc sống xã hội. Nguyên nhân chính và quan trọng ảnh hưởng đến VHĐ của SV hiện nay là nhận thức của bản thân mỗi người. SV là lứa tuổi đang phát triển về mặt nhân cách và tâm lý, bắt đầu hình thành những kỹ năng sống để chuẩn bị bước vào cuộc sống. Thầy cô và bạn bè là những tác động trực tiếp và thường xuyên đối với SV trong quá trình học tập. Bản thân SV cần thường xuyên đọc sách để hình thành thói quen và kỹ năng đọc sách .

Kết quả khảo sát về năng lực tạo lập văn bản của SV Ngữ văn trước và sau khi dành thời gian đọc dưới sự hướng dẫn của GV cho thấy: Bảng 4.6. Tƣơng quan về năng lực tạo lập văn bản của SV ngành Ngữ văn trƣớc và sau khi đƣợc GV hƣớng dẫn đọc sách Điểm trung bình

TT Năng lực Mức ý nghĩa Hệ số tƣơng quan Trƣớc khi đƣợc GV hƣớng dẫn Sau khi đƣợc GV hƣớng dẫn

3,50 0,587 0,000 2,39

1

3,54 0,544 0,000 2,44

2

3,09 4,18 0,993 0,000

3

2,44 3,62 0,609 0,000

4

2,59 3,66 0,594 0,000

5

Nêu được một số thông tin ban đầu về đối tượng Nêu được một số nội dung cơ bản về đối tượng, hình thành cấu trúc văn bản Trình bày được một số nội dung cơ bản về một vấn đề với phương thức biểu đạt phù hợp Vận dụng được các thao tác và phương thức biểu đạt phù hợp để giải quyết vấn đề có hiệu quả Thể hiện được bản sắc và chính kiến cá nhân, có những sáng tạo độc đáo về tư duy, cảm xúc và ngôn ngữ biểu đạt

48

Kết quả phân tích ở bảng 4.6 cho thấy ĐTB của các mức độ về năng lực tạo lập văn bản cho SV trước và sau khi dành thời gian đọc dưới sự hướng dẫn của GV có tương quan với nhau với mức ý nghĩa 99% (p < 0,001). Cụ thể: ĐTB của 5 mức độ về năng lực tạo lập văn bản của SV trước khi được GV hướng dẫn đọc sách thấp hơn rất nhiều so với sau khi được GV hướng dẫn. Đồng thời, hệ số tương quan ở cả 5 mức độ về năng lực tạo lập văn bản dương và có giá trị khá cao (dao động từ 0,544 đến 0,993). Điều đó chứng t vai trò quan trọng của GV trong việc hình thành cho người học năng lực tạo lập văn bản. Đây được xem là một trong các tiêu chí giúp SV Ngữ văn rèn luyện kỹ năng đọc. Kết quả nghiên cứu cho thấy để hình thành VHĐ cho SV thì vai trò của GV là rất quan trọng. Mục tiêu lớn của việc dạy và học Ngữ văn là hình thành cho người học 2 năng lực cơ bản là tiếp nhận văn bản và tạo lập văn bản. Vì vậy, phương pháp giảng dạy hướng đến tìm hiểu, khai thác nhu cầu đọc sách của SV, hướng SV tìm cái hay, cái đẹp trong văn học, biết cách đọc hiểu, diễn cảm được nội dung và ý nghĩa của văn bản, cảm nhận được đầy đủ các giá trị nội dung và hình thức của văn bản để rồi các em có thể hiểu và tạo lập sáng tạo một văn bản khác. Để thực hiện được điều đó, GV cần gợi ý cho SV tìm tài liệu đọc, giới thiệu đầu sách phục vụ cho việc học tốt môn Ngữ văn. GV cũng cần lưu ý với SV mỗi học phần có một loại sách riêng. Điều trước tiên chính là tạo cho SV sự yêu thích ngành học mà mình đã theo đuổi. Các thầy cô cũng cần linh hoạt trong phương pháp giảng dạy, dạy học theo hướng tích cực, dạy mở để SV yêu thích khám phá và tìm hiểu. Quan trọng hơn cả là việc GV lựa chọn, sử dụng hình thức KTĐG phù hợp để kích thích, khuyến khích các em học tốt, tạo được sự công bằng trong đánh giá năng lực của SV. Kết quả nghiên cứu một lần nữa khẳng định có mối liên hệ giữa thói quen đọc sách ở SV với phương pháp dạy học đến việc hình thành VHĐ cho SV và việc dạy học ở ngành Ngữ văn.

Kết quả kiểm định tương quan giữa các nhóm kỹ năng cho thấy có mối liên hệ giữa các nhóm kỹ năng với nhau. Điều này có nghĩa là khi kỹ năng ở mức độ thấp được củng cố và phát huy sẽ tạo điều kiện cho kỹ năng ở mức độ cao hình thành, bởi học là quá trình và việc học là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục để từng bước hoàn thiện kiến thức, kỹ năng và thái độ cho chính người học. Kết quả kiểm định tương quan giữa nhóm các kỹ năng về năng lực đọc hiểu, tiếp nhận văn bản và năng lực tạo lập văn bản của SV trước và sau khi dành thời gian đọc sách dưới sự hướng dẫn của thầy cô cho thấy có mối liên hệ giữa các nhóm kỹ năng với nhau.

Như vậy, qua khảo sát thực tế ở ngành Ngữ văn, Khoa Sư phạm - Trường ĐHAG đa phần SV đều nhận thấy được tác động tích cực của đọc sách với việc dạy và học môn Ngữ văn. Vì vậy, cần hình thành thói quen cũng như kỹ năng đọc sách cho SV nhiều hơn nữa nhằm đáp ứng được nhu cầu học tập chính điều này sẽ góp phần nâng cao KQHT cho SV. Từ những nghiên cứu trên, có thể rút ra kết luận muốn tăng cường hiệu quả phải phát huy VHĐ trong dạy học Ngữ văn cần tìm được quy trình và biện pháp nhằm SV sử dụng sách một cách khoa học, hiệu quả.

Kết quả phân tích cụ thể về 5 mức độ hình thành năng lực tạo lập văn bản cho SV

ngành Ngữ văn như sau:

49

Năng lực

TT

Thành thạo

Thành thạo

Bảng 4.7. Thống kê mô tả về năng lực tạo lập văn bản của SV ngành Ngữ văn trƣớc và sau khi đƣợc GV hƣớng dẫn đọc sách Trƣớc khi đƣợc GV hƣớng dẫn Khá thành thạo

Sau khi đƣợc GV hƣớng dẫn Khá thành thạo

Chƣa thành thạo

Chƣa thành thạo

1 62,0% 28,1% 9,9% 4,1% 47,4% 48,5%

2 59,1% 30,4% 10,5% 4,1% 47,4% 48,5%

3 50,3% 38,0% 11,7% 5,9% 38,6% 55,6%

4 57,3% 31,0% 11,7% 46,8% 39,8% 13,5%

5 50,9% 32,7% 16,4% 43,2% 40,9% 15,8%

Nêu được một số thông tin ban đầu về đối tượng Nêu được một số nội dung cơ bản về đối tượng, hình thành cấu trúc văn bản Trình bày được một số nội dung cơ bản về một vấn đề với phương thức biểu đạt phù hợp Vận dụng được các tác và phương thao thức biểu đạt phù hợp để giải quyết vấn đề có hiệu quả Thể hiện được bản sắc và chính kiến cá nhân, có những sáng tạo độc đáo về tư duy, cảm xúc và ngôn ngữ biểu đạt

Từ bảng 4.7 mô tả chi tiết các mức độ/năng lực mà SV có trước khi được GV

hướng dẫn đọc sách là:

Một là, nêu được một số thông tin ban đầu về đối tượng, trước khi được GV hướng dẫn thì năng lực tạo lập văn bản của SV ở mức độ thành thạo rất thấp 9,9%, nhưng sau khi được GV hướng dẫn thì năng lực tạo lập văn bản lại được nâng lên mức độ thành thạo chiếm đến 48,5%;

Hai là, năng lực nêu được một số nội dung cơ bản về đối tượng, hình thành cấu trúc văn bản, trước khi được GV hướng dẫn mức độ thành thạo chiếm tỷ lệ rất thấp 10,5%, nhưng sau khi được GV hướng dẫn mức độ thành thạo của SV tăng lên đáng kể đến 48,5%;

Ba là, năng lực trình bày được một số nội dung cơ bản về một vấn đề với phương thức biểu đạt phù hợp trước khi được GV hướng dẫn năng lực này của SV ở mức thành thạo chiếm 11,7%, nhưng sau khi được GV hướng dẫn thì năng lực này tăng lên đáng kể đến 55,6% ;

Bốn là, năng lực vận dụng được các thao tác và phương thức biểu đạt phù hợp để giải quyết vấn đề có hiệu quả trước khi được GV hướng dẫn năng lực này của SV ở mức độ thành thạo là 11,7%, sau khi được GV hướng dẫn, thì năng lực này tăng lên 13,5% tuy không đáng kể nhưng cũng đã thể hiện được hiệu quả của việc hướng dẫn đọc của GV;

50

Năm là, thể hiện được bản sắc và chính kiến cá nhân, có những sáng tạo độc đáo về tư duy, cảm xúc và ngôn ngữ biểu đạt trước khi được GV hướng dẫn mức độ chưa thành thạo của năng lực này đến 50,9%, sau khi được GV hướng dẫn thì năng lực này được SV đánh giá là khá thành thạo ở mức 40,9%.

Kết quả này khẳng định vai trò quan trọng của GV trong việc hình thành cho SV Ngữ văn các năng lực tạo lập văn bản. Qua kết quả nghiên cứu hoạt động dạy và học môn Ngữ văn chúng tôi nhận thấy: SV chưa có được kỹ năng đọc sách mà mới chỉ dừng lại ở mức đọc theo sở thích và cũng chưa hình thành được thói quen đọc sách. Tuy nhiên, có một điều rất đáng mừng là phần đông SV được khảo sát đều cho rằng sau khi được thầy cô hướng dẫn thì kỹ năng đọc sách của SV được nâng lên đáng kể. Các em có để dễ dàng đọc tiếp nhận văn bản để trên cơ sở đó tự mình hình thành năng lực tạo lập được văn bản, công việc nếu thiếu sự định hướng, hướng dẫn của GV thì SV khó mà đạt được. Chính nhờ lí do này mà KQHT của SV có tiến bộ hơn. Vì vậy, điều mà nhà trường và các GV cần quan tâm là hướng dẫn SV phương pháp đọc sách khoa học và từng bước hình thành kỹ năng đọc.

4.3 So sánh VHĐ của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên của

Kết quả đánh giá về VHĐ giữa 171 SV ngành Ngữ văn và 192 SV khối ngành

Khoa Sƣ phạm Tự nhiên Khoa Sư phạm như sau: 4.3.1 Về thói quen đọc

Hình 4.15. Thống kê tần suất SV ngành Ngữ vănvà SV khối ngành Tự nhiên Khoa Sƣ phạm tham gia đọc tài liệu

Từ hình 4.15 ta thấy tần suất mà SV tham gia đọc tài liệu khá khác nhau, cụ thể: 31,3% SV khối ngành Tự nhiên tự đánh giá họ rất thường xuyên đọc tài liệu trong quá trình học nhưng đối với SV ngành Ngữ văn tỉ lệ này khá thấp (chỉ có 13,2%). Kết quả sẽ phần nào giúp GV lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp để kích thích người học đọc sách nhiều hơn. Nguyên nhân có thể là do đặc thù của từng ngành học. Đối với khối ngành Tự nhiên, học tập là một quá trình được biểu hiện rất cụ thể và rõ ràng, kết thúc mỗi đơn vị bài học, chương, SV phải đọc hiểu tài liệu và vận dụng kiến thức để giải

51

quyết bài tập cụ thể và khi hiểu và vận dụng được kiến thức của của bài học trước mới có thể học và giải quyết đối với đơn vị bài học tiếp theo. Tuy nhiên, đối với ngành Ngữ văn điều này có vẻ mờ nhạt hơn và việc SV không thường xuyên đọc tài liệu vẫn có thể học tiếp mặc dù KQHT và việc thu nhận kiến thức không cao. Sách là nguồn kiến thức vô tận bởi sách đúc kết những kinh nghiệm của thế hệ đi trước, là kho tàng tri thức của nhân loại chứa đựng nhiều vấn đề cần thiết, mọi thông tin trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thể thao,… đều có thể tìm thấy trong sách. Đọc sách sẽ giúp tích lũy nhiều kinh nghiệm, mở mang kiến thức trong mọi lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, tăng cường khả năng tư duy. Vì vậy, nhận thức được tầm quan trọng của việc đọc sách, SV cần rèn luyện thói quen đọc sách hàng ngày và nâng cao kỹ năng đọc sách để đạt được kết quả cao trong học tập, nghiên cứu cũng như vận dụng hiệu quả vào thực tế đời sống. GV cần đổi mới phương pháp dạy và đặt ra yêu cầu đọc sách nhiều hơn đối với SV.

Hình 4.16. Thống kê số lƣợng tài liệu mà SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên đã đọc

Kết quả thống kê về số lượng đọc tài liệu của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên Khoa Sư phạm gần tương đương nhau. Qua việc so sánh về số lượng tài liệu mà SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên đã đọc nhận thấy có 45,2% SV ngành Ngữ văn đọc ít hơn 5 tài liệu mỗi tuần, còn SV khối ngành tự nhiên là 50,5%. 46,3% SV Ngữ văn và 45,8 % đọc từ 5-10 tài liệu. Ở các số lượng 11-15 tài liệu hay trên 15 tài liệu thì SV của hai ngành này mức độ đọc cũng chênh lệch nhau không đáng kể.

Kết quả khảo sát về thời gian đọc tài liệu trung bình hằng ngày của SV:

52

Hình 4.17. Thống kê thời gian đọc tài liệu trung bình hàng ngày của SV Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên

Qua số liệu thống kê ở hình 4.17 ta thấy cho thấy 19,0 % SV ngành Ngữ văn và 20,3 % SV khối ngành Tự nhiên dành thời gian dưới 1 giờ để đọc sách hàng ngày. 63,4% SV ngành Ngữ vănvà 69,3% SV khối ngành Tự nhiên dành từ 1 đến 3 giờ cho việc đọc sách, từ 3 đến 5 giờ là 13,8% SV ngành Ngữ văn, 9,4 % SV khối ngành Tự nhiên dành thời gian đọc sách. Ngoài ra, còn một số SV Khoa Sư phạm đọc sách từ 5 đến 10 giờ và một số SV dành nhiều thời gian hơn. Như vậy, phần lớn SV dành 1 đến 3 giờ cho việc đọc sách hàng ngày, đây cũng là một con số đáng kể so với việc không đọc sách báo hàng ngày. Đặc biệt, với phương pháp học tập mới, nếu SV không đọc sách thì không đảm bảo được yêu cầu của môn học, ảnh hưởng đến KQHT. Ở Hàn Quốc, để vận động người dân đọc sách hàng ngày, Bộ Văn hóa Thể thao du lịch Hàn Quốc đã phát động phong trào “Mỗi ngày dành 20 phút, đọc 12 cuốn sách trong 1 năm”. Thực tế, nước ta chưa có cuộc phát động dành thời gian cho việc đọc sách tuy nhiên thời lượng dành cho việc đọc sách đối với mỗi cá nhân là không giới hạn. Điều quan trọng là dù thời gian đọc ít hay nhiều mỗi cá nhân cần có thói quen đọc sách hàng ngày. Như vậy, xét về yếu tố thời gian dành cho việc đọc sách hằng ngày của SV Ngữ văn và SV Khối ngành Tự nhiên là tương đương nhau.

Hình 4.18. Thống kê tần suất đến Thƣ viện hàng tuần của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên

53

Kết quả thống kê hình 4.18 cho thấy, tần suất đến Thư viện hàng tuần của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên Khoa Sư phạm gần như tương đương nhau. Cụ thể: tần suất đến Thư viện dưới 3 lần/tuần của SV Ngữ văn là 69,4%, SV khối ngành Tự nhiên là 69,3%. SV ngànhNgữ văn đến Thư viện 3-5 lần/tuần là 25,5% , SV Khối ngành Tự nhiên ở tần suất này chiếm 28,1%. Lần lượt ở các tần suất cao hơn cũng không chênh lệch nhau đáng kể. Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát và thống kê ở trên nghiên cứu cho thấy tần suất đến Thư viện của SV Khoa Sư phạm là chưa cao.

4.3.2 Về sở thích đọc

Bảng 4.8. Thống kê về lí do mà SV ngành Ngữ vănvà SV khối ngành Tự nhiên có nhu

Sở thích đọc

Giúp học tốt Làm tăng sự hiểu biết Giúp phát triển ngôn ngữ Thư giãn, giải trí Nuôi dưỡng tâm hồn Giết thời gian

SV Ngữ Văn SV ngành TN 62,5% 82,8% 49,5% 64,1% 43,8% 19,3%

70,2% 86,0% 67,8% 52,0% 55,0% 23,5%

Kết quả bảng 4.8 cho thấy khoảng 70% SV ngành Ngữ văn và khối ngành Tự nhiên cho rằng họ dành thời gian là để đọc sách là vì muốn học tốt và làm tăng hiểu biết. Đây chính là động cơ tích cực mà GV cần phát huy cho SV để họ tích cực hơn trong việc đọc sách nhằm phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu. Ở 2 nhu cầu này thì mức chênh lệch giữa hai đối tượng SV là không nhiều. Riêng nhu cầu đọc sách nhằm phát triển ngôn ngữ thì SV ngành Ngữ văn chiếm 67,8% còn SV khối ngành Tự nhiên chỉ chiếm 49,5%. Sở dĩ, SV ngành Ngữ văn thích đọc sách nhằm phát triển ngôn ngữ cao hơn SV khối ngành Tự nhiên theo nghiên cứu có thể do đặc thù của ngành học trong quá trình học tập, làm bài cũng như sau khi tốt nghiệp chủ yếu là đi dạy và làm việc ở những cơ quan đòi h i khả năng giao tiếp rất lớn như Đài Phát thanh truyền hình, báo chí,…mục tiêu của công việc đòi h i SV xác định mục tiêu đọc để phát triển ngôn ngữ rất lớn là hợp lí và ở lí do này SV lựa chọn nhiều hơn. Có rất ít SV trả lời đọc sách để giết thời gian 23,5% SV Ngữ văn và 19,3 % SV Khối ngành Tự nhiên đều đó là tín hiệu đáng mừng SV cũng đã ý thức được giá trị của việc đọc sách. SV đọc sách không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu học tập mà còn để th a mãn sở thích cá nhân, đọc có thể để thư giãn, giải trí, ở nhu cầu này thì SV khối ngành Tự nhiên chiếm 64,1% cao hơn so với SV ngành Ngữ văn là 52%. Ngoài ra, đối với SV đọc sách còn để nuôi dưỡng tâm hồn. Ở nhu cầu này thì SV ngành Ngữ văn chiếm (55,0%) tỉ lệ này cao hơn so với SV khối ngành Tự nhiên (43,8%).

54

Hình 4.19. Thống kê về việc lựa chọn tài liệu đọc của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên

Từ đồ thị hình 20 cho thấy, về việc lựa chọn tài liệu đọc của SV khối ngành Tự nhiên ở tài liệu phổ thông, tài liệu giải trí, tài liệu từ internet, các kênh thông tin khác chiếm tỷ lệ cao hơn SV ngành Ngữ văn. Tuy nhiên, việc lựa chọn tài liệu nghiên cứu để đọc thì SV ngành Ngữ văn chiếm tỷ lệ cao hơn.

Qua kết quả điều tra ta thấy, thời gian đọc, sở thích đọc và lựa chọn tài liệu đọc của 2 nhóm được khảo sát (SV ngành SP Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên) là tương đương nhau.

4.3.3 Về kỹ năng đọc Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục đại học đã bắt đầu chuyển qua đào tạo theo học chế tín chỉ, Vì vậy, SV cần phải “Tự nghiên cứu, tìm tòi - Tự thể hiện - Tự kiểm tra và điều chỉnh” nhằm hình thành phẩm chất cần cù, nghiêm túc, không ỷ lại, trông chờ, chủ động, tích cực và sáng tạo. Như vậy, bản thân SV cần tự rèn luyện cho mình kỹ năng đọc để có thể đáp ứng

Bảng 4.9. So sánh ĐTB tự đánh giá của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành

Tự nhiên Khoa Sƣ phạm về phƣơng pháp đọc tài liệu. Điểm trung bình TT Phƣơng pháp đọc tài liệu SV SP Ngữ văn SV khối ngành Tự nhiên

1 Xác định mục đích đọc 2 Lập kế hoạch đọc 3 Lựa chọn cách đọc 4 Ghi chép nội dung đọc 5 Hiểu rõ nội dung tài liệu 6 Tóm tắt nội dung đọc 7 Phân tích tài liệu đọc 8 Tổng hợp tài liệu đọc 9 Đánh giá tài liệu đọc

3,70 3,02 3,43 3,60 3,58 3,50 3,40 3,33 3,32 3,42 3,53 2,71 3,10 3,21 3,32 3,12 3,07 3,21 2,95 3,19 10 So sánh với các tài liệu đã đọc

11 Trao đổi nội dung tài liệu 3,42 3,21

55

Kết quả bảng 4.9 cho thấy, SV Khoa Sư phạm có phương pháp đọc tài liệu khá

tốt, cụ thể:

- Đối với SV Sư phạm Ngữ văn nằm trong khoảng từ 3,02 đến 3,70. Tiêu chí có ĐTB cao nhất là về xác định mục đích đọc và thấp nhất là lập kế hoạch đọc. Ngoài ra, 9/11 tiêu chí còn lại có ĐTB ở mức khá tốt. Điều đó có nghĩa là SV Ngữ văn có phương pháp đọc tài liệu khá tốt. SV Ngữ văn biết cách đọc tài liệu để thu thập thông tin một cách tốt nhất từ việc chọn cách đọc, ghi chép nội dung đọc, hiểu rõ nội dung, tóm tắt nội dung, phân tích tài liệu đọc, tổng hợp tài liệu, đánh giá, so sánh với các tài liệu đã đọc và cuối cùng là trao đổi nội dung tài liệu đọc.

- Đối với SV Khối ngành Tự nhiên: Kết quả thu thập được cho thấy khá tương đồng với SV ngành Ngữ vănvề phương pháp đọc tài liệu. Kết quả SV Khối ngành Tự nhiên tự đánh giá về mức độ thường xuyên triển khai các tiêu chí này dao động từ 2,71 đến 3,51.

Như vậy, qua kết quả khảo sát thực trạng về kỹ năng đọc của SV Ngữ văn và SV Khối ngành Tự nhiên là khá tốt. SV có thường xuyên thực hiện các thao tác của việc đọc tài liêu. Điều đó, cho thấy trong quá trình giảng dạy GV đã có hướng dẫn cho SV cách đọc tài liệu. Kết quả này phần nào đã phản ánh chất lượng thực tế của Khoa Sư phạm về thực trạng VHĐ.

Bảng 4.10. So sánh ĐTB tự đánh giá của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên về kỹ năng đọc dƣới sự hƣớng dẫn của giảng viên

Điểm trung bình

TT Nội dung đánh giá SV SP Ngữ văn SV khối ngành Tự nhiên

1 3,63 3,33 Bạn đọc tài liệu, giáo trình…..theo hướng dẫn của GV

2 3,97 3,73 GV có yêu cầu bạn tìm đọc các tài liệu liên quan sau khi dạy xong bài

3 4,16 3,88 GVcó yêu cầu bạn đọc trước văn bản trong giáo trình, tìm đọc sách tham khảo liên quan đến ngành học, môn học trước

4 4,20 3,90 GV giao nhiệm vụ đọc theo nhóm để chuẩn bị cho buổi báo cáo,seminar….

5 3,26 2,83 GV có kiểm tra nội dung bất kỳ trong tài liệu đọc của bạn

6 2,30 2,02 GV có kiểm tra Sổ ghi chép việc đọc sách của bạn

7 3,48 3,16 Ngoài việc đọc theo hướng dẫn của GV, bạn có chủ động tìm đọc thêm tài liệu tham khảo khác

8 Bạn đọc và soạn bài theo giáo trình 3,51 3,19

9 3,20 3,28 Bạn chỉ đọc tài liệu tham khảo khi có bài kiểm tra hoặc thi kết thúc học phần

56

Qua kết quả tự đánh giá về kỹ năng đọc của SV Ngữ văn và SV Khối ngành Tự

nhiên cho thấy:

- Đối với SV ngành Ngữ văn: ĐTB dao động trong khoảng từ 2,30 đến 4,20. Tiêu chí mà SV Ngữ văn có ĐTB thấp nhất là việc “GV có kiểm tra Sổ ghi chép việc đọc sách của SV”. Kết quả này phản ánh thực tế, GV chưa triển khai hoạt động này khi triển khai và kiểm tra hoạt động tự học của SV. Có 2 tiêu chí mà GV thỉnh thoảng có thực hiện là: (1) GV có kiểm tra nội dung bất kỳ trong tài liệu đọc của SV; (2) SV chỉ đọc tài liệu tham khảo khi có bài kiểm tra. Ngoài ra, có 5/9 tiêu chí đánh giá của SV ngành Ngữ văn họ thực hiên thường xuyên, cụ thể là các tiêu chí về: (1) Ngoài việc đọc theo hướng dẫn của GV, SV có chủ động đọc thêm tài liệu tham khảo khác; (2) SV đọc và soạn bài theo giáo trình; (3) SV đọc tài liệu, giáo trình,…theo sự hướng dẫn của GV; (4) GV có yêu cầu SV tìm đọc tài liệu liên quan sau khi dạy xong bài; (5) GV có yêu cầu SV đọc trước văn bản trong giáo trình, tìm đọc sách tham khảo liên quan đến ngành học, môn học trước. Điều đó chứng t trong quá trình triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ GV đã hướng dẫn SV cách đọc và cách đọc tài liệu rất tốt, đã giúp SV hình thành được kỹ năng đọc.

- Đối với SV khối ngành Tự nhiên: Kết quả tự đánh giá dao động trong khoảng từ 2,02 đến 3,90. 3/9 tiêu chí mà SV khối ngành Tự nhiên đánh giá tốt nhất là về: (1) GV giao nhiệm vụ đọc theo nhóm để chuẩn bị cho buổi báo cáo, seminar; (2) GV có yêu cầu SV đọc trước VB trong giáo trình, tìm đọc tài liệu, sách tham khảo liên quan đến môn học trước; (3) GV có yêu cầu bạn tìm đọc các tài liệu liên quan sau khi dạy xong bài. Kết quả này khá tương đồng với kết quả tự đánh giá của SV ngành Ngữ văn.

Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy để hình thành VHĐ cho SV thì vai trò của GV là rất quan trọng. Phương pháp giảng dạy hướng đến tìm hiểu, khai thác nhu cầu đọc sách của SV, hướng HS tìm cái hay, cái mới khoa học tài liệu đọc. Để thực hiện được điều đó thì GV cần gợi ý cho HS tìm tài liệu đọc, giới thiệu đầu sách phục vụ cho việc học tốt từng học phần mà GV phụ trách. GV cũng cần lưu ý với SV mỗi phân môn có một loại sách riêng. Điều trước tiên chính là tạo cho SV sự yêu thích học phần của mình. Các GV cũng cần linh hoạt trong phương pháp dạy học theo hướng tích cực, dạy mở để SV yêu thích khám phá và tìm hiểu. Quan trọng hơn cả là việc GV lựa chọn, sử dụng hình thức kiểm tra đánh giá phù hợp để kích thích, khuyến khích SV học tốt, tạo được sự công bằng trong đánh giá năng lực của SV. Kết quả nghiên cứu một lần nữa khẳng định có mối liên hệ giữa thói quen đọc sách và kỹ năng đọc ở SV đến việc hình thành VHĐ ở SV.

Kết quả kiểm định tương quan giữa các nhóm kỹ năng cho thấy có mối liên hệ giữa các nhóm kỹ năng với nhau. Điều này có nghĩa là khi kỹ năng ở mức độ thấp được củng cố và phát huy sẽ tạo điều kiện cho kỹ năng ở mức độ cao hình thành, bởi học là quá trình và việc học là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục để từng bước hoàn thiện kiến thức, kỹ năng và thái độ cho chính người học.

57

CHƢƠNG 5

KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP

5.1 KẾT LUẬN

Đề tài đã đánh giá được mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường ĐHAG. Dựa trên kết quả nghiên cứu, đề tài đưa ra kết luận như sau:

- Về kết quả nghiên cứu lý luận: đề tài đã khái quát được các yếu tố ảnh hưởng đến VHĐ và các yếu tố của VHĐ ảnh hưởng đến KQHT của SV ngành Ngữ văn -Khoa Sư phạm.

- Về phương pháp nghiên cứu: đề tài đã đạt được một số kết quả nhất định, đánh giá các mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường Đại học An Giang.

- Đề tài nghiên cứu đã trả lời được các câu h i nghiên cứu đặt ra: Yếu tố nào hình thành VHĐ cho SV? Mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm? Có sự khác biệt như thế nào về VHĐ của SV ngành Ngữ văn và SV khối ngành Tự nhiên của Khoa Sư phạm? Việc đánh giá được mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV đã mang lại những thay đổi tích cực như:

Một là, qua kết quả đánh giá của SV thì sau khi được GV hướng dẫn phương pháp đọc, SV đã có sự tiến bộ đáng kể về thói quen, kỹ năng đọc, đồng thời KQHT của SV được cải thiện hơn trước.

Hai là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhân viên thư viện và GV đều nhận thức được

tầm quan trọng của việc hình thành VHĐ cho SV.

Bên cạnh đó, đề tài đã tổng hợp được một số vấn đề lý luận liên quan đến VHĐ. Đồng thời, đề tài đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao VHĐ cho SV góp phần cải tiến KQHT cho SV ngành Ngữ văn. Do đó, chúng tôi cũng đã hoàn thành mục đích nghiên cứu của mình.

Hạn chế

- Mẫu nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tại Khoa Sư phạm - Trường

ĐHAG chưa mở rộng nghiên cứu tại các Khoa khác trong Trường và các Trường khác.

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ mới dừng lại ở ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường ĐHAG mà chưa nghiên cứu ảnh hưởng của các lĩnh vực khác như: văn hóa học đường, văn hóa nghe nhìn,...

- Nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm thông qua 02 kênh đánh giá là GV và SV, chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác. Đây cũng là điểm hạn chế, giới hạn của nghiên cứu, đồng thời cũng là hướng mở cho các nghiên cứu tiếp theo, cơ hội phát triển rộng hơn cho đề tài nếu có điều kiện tìm hiểu trong thời gian tới.

58

5.2 GIẢI PHÁP

VHĐ có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống; góp phần bồi dưỡng, phát triển trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn kỹ năng sống của cộng đồng. Đề cập đến vấn đề VHĐ và việc phát triển VHĐ trong cộng đồng, Đảng, Chính phủ, Nhà nước, các nhà khoa học,… cũng đã đưa ra nhiều giải pháp mang tính chiến lược và tầm vĩ mô nhằm mục đích phát triển và nâng cao VHĐ trong cộng đồng. Để phát triển VHĐ trong cộng đồng của một quốc gia, đòi h i sự chung tay góp sức của toàn xã hội, trách nhiệm không của riêng một tổ chức, cá nhân nào. Phát triển VHĐ cho SV là một giải pháp quan trọng không thể thiếu để xây dựng thành công một xã hội học tập hướng tới mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực của đất nước, góp phần vào sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghiên cứu ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV cho thấy cần có những giải pháp cụ thể để phát triển và nâng cao hơn nữa VHĐ cho SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm - Trường ĐHAG. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhóm nghiên cứu xin đưa ra 3 nhóm giải pháp như sau:

5.2.1 Nhóm giải pháp đối với Trƣờng ĐHAG

- Xây dựng và phát triển VHĐ trong toàn Trường

+ Mục tiêu giải pháp

Thông qua giải pháp này sẽ giúp phát triển và nâng cao VHĐ trong toàn thể SV. Qua khảo sát SV để lấy ý kiến thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của VHĐ đến KQHT của SV ngành Ngữ văn - Khoa Sư phạm”. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng tạo thói quen, hình thành sở thích và rèn luyện kỹ năng đọc sách cho SV đồng nghĩa với việc từng bước nâng cao KQHT của SV và nâng cao chất lượng đào tạo của Trường.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện:

Thành lập nhóm cán bộ chuyên trách;

Thiết kế bảng h i;

Tiến hành khảo sát lấy ý kiến;

Xử lý phân tích số liệu đã thu thập;

Định kỳ kiểm tra giám sát hoạt động thực hiện;

Điều chỉnh hoạt động dạy và học.

- Thư viện và Phòng Công tác SV liên kết tổ chức các hoạt động tìm hiểu và

nâng cao VHĐ trong SV

+ Mục tiêu giải pháp

Tổ chức, triển khai những hoạt động hỗ trợ và giúp SV phát huy khả năng đọc cũng như là tạo ra môi trường học tập giữa các khoa, ngành trong toàn thể nhà trường nhằm duy trì và phát triển VHĐ một cách rộng rãi trong SV.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện:

59

Thư viện phối hợp với Phòng Công tác SV thường xuyên tổ chức các buổi báo cáo chuyên đề, hội nghị chia sẻ kinh nghiệm về việc đọc sách hiệu quả với nhiều nguồn và phong phú về loại hình: Internet, Ngoại ngữ, đọc sách online bằng ebook, đọc và học thông qua lớp học ảo,…Nhà trường sẽ tiến hành tổ chức giám sát hiệu quả của các hoạt động trên.

Phòng Công tác SV (Đoàn Thanh niên và Hội SV) phối hợp với thư viện thường xuyên tổ chức các hội thi đưa các chủ đề liên quan về nội dung VHĐ vào hoạt động sinh hoạt cộng đồng của từng Đoàn viên, Hội viên trong nhà trường.

- Bổ sung một số nội dung của VHĐ vào học phần Giới thiệu ngành (của

CDIO) ở tất cả các CTĐT

+ Mục tiêu giải pháp

Qua trao đổi với SV, SV cho rằng nguyên nhân ảnh hưởng đến tâm lí và thái độ học tập của SV một mặt là do chỉ tiêu tuyển dụng của các trường Phổ thông dành cho ngành quá ít. Vì vậy, việc SV học chay, học lướt học để thi là yếu tố khách quan. Nguyên nhân thứ hai là do SV chưa có ý thức học tập nên chưa có những định hướng tốt trong việc tự học. Trên cơ sở đã được nhìn nhận chúng tôi đề xuất giải pháp này để giúp SV hình thành và định hướng ngay tính chất tự học của SV trên giảng đường đại học. Điều này rất quan trọng vì nó quyết định trực tiếp đến KQHT của SV và khả năng tích lũy tri thức của mỗi con người.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện:

Với giải pháp này chúng tôi kiến nghị nhà trường bổ sung một số nội dung của

VHĐ vào học phần Giới thiệu ngành (của CDIO) ở tất cả các CTĐT.

Tùy thuộc vào ngành học mà có thiết kế và nội dung yêu cầu cho học phần linh hoạt như là kỹ năng mềm giúp SV khám phá và lĩnh hội tri thức chuyên ngành. GV giảng dạy phải được đào tạo và tập huấn đảm bảo có đủ kiến thức để phụ trách học phần.

- Hiện đại hóa nguồn tài liệu theo hướng phát triển công nghệ thông tin

+ Mục tiêu giải pháp

Khuyến khích và tận dụng được sự phát triển của công nghệ thông tin để phục vụ nhu cầu đọc thông minh và tiết kiệm của SV từ các thiết bị điện tử: máy tính, smartphone, notebook, ipad, máy tính bảng,…sẽ giúp SV tiện lợi trong quá trình cập nhật và tra cứu tài liệu kịp thời.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện:

Để có được nguồn tài liệu hiện đại, Trung tâm Tin học và Thư viện sẽ từng bước số hóa nguồn tài liệu, chia sẻ và mở cổng thông tin điện tử quy định sử dụng nguồn tài liệu nội sinh của Thư viện.

60

- Nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý Thư viện

+ Mục tiêu giải pháp

Một trong những yếu tố quan trọng giúp phát triển thói quen, sở thích, kỹ năng đọc của SV đó chính là vai trò của Thư viện. Muốn phát huy tốt vai trò của yếu tố này cần chú ý đến đội ngũ cán bộ quản lí, cán bộ phục vụ của Thư viện. Vì vậy, cán bộ quản lý và phục vụ của Thư viện phải không ngừng học tập nâng cao trình độ quản lí chuyên môn để hỗ trợ cho SV trong quá trình đọc, học tập và nghiên cứu. Cán bộ Thư viện là người giúp SV hình thành kỹ năng đọc tốt. Để làm được điều này đòi h i người cán bộ quản lý và phục vụ phải thật sự hiểu rõ đặc thù về ngành thư viện về tâm lý, sở thích của bạn đọc.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện

Nhà trường cần quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ cho cán bộ quản lý Thư viện tham dự những hội thảo, tập huấn của các khóa đào tạo. Thường xuyên tổ chức các hội nghị nhằm nâng cao, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý Thư viện.

5.2.2 Nhóm giải pháp đối với Khoa Sƣ phạm

- Thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo và những buổi sinh hoạt chuyên

đề tuyên truyền, phát triển VH, tổ chức ngày hội sách

+ Mục tiêu giải pháp

Thông qua giải pháp này nhóm nghiên cứu muốn sự vào cuộc chung tay của cả Khoa Sư phạm và các ngành đào tạo, tạo mọi điều kiện để SV có thể chiếm lĩnh được tri thức từ việc hình thành truyền thống VHĐ trong Khoa, Ngành. Mở rộng VHĐ vào nhiều đối tượng SV, không chỉ SV học tốt mới hình thành được VHĐ mà ở mỗi SV đều có thể hình thành nên ý thức tốt này. Từ việc làm thiết thực trên, góp phần mang lại hiệu quả tích cực cho cả thầy lẫn trò trong công tác giảng dạy vì góp phần nâng cao KQHT của SV.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện

Mỗi ngành sẽ xây dựng những sáng kiến gửi về Khoa tổ chức những hội thảo và sinh hoạt định kỳ về VHĐ, về ngày hội sách, giới thiệu sách hay trong GV cho SV của Khoa. Tổ chức lấy ý kiến phản hồi trực tiếp để nắm bắt tình hình của SV và kịp thời điều chỉnh.

- Xây dựng các phòng chức năng, bổ sung tài liệu, thiết bị hỗ trợ nhu cầu đọc

của SV

+ Mục tiêu giải pháp

Nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho SV trong quá trình đọc, Khoa, Bộ môn xây dựng được góc đọc truyền thống ở Khoa và Bộ môn, trong ngành và tạo nên môi trường học tập, nghiên cứu.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện

61

Khoa tiến hành xây dựng các phòng đọc tại Khoa, Bộ môn để GV và SV có thể đọc sách trao đổi, chia sẻ với nhau những vấn đề chuyên sâu của lĩnh vực chuyên ngành cũng như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… bổ sung vào những nguồn tài liệu chuyên ngành để SV có thể tra cứu, tham khảo.

5.2.3 Nhóm giải pháp đối với ngành Ngữ văn

5.2.3.1 Đối với giảng viên

- Thiết kế hình thức đánh giá KQHT của SV có vai trò của VHĐ

+ Mục tiêu giải pháp

Giải pháp này nhằm đề ra mục tiêu quan trọng đối với việc lựa chọn hình thức kiểm tra đánh giá của GV trong quá trình đứng lớp. GV thực hiện những yêu cầu cụ thể đối với người học. Đặc thù đối với SV ngành Ngữ văn là cần được tiếp xúc nhiều với những tác phẩm văn học kinh điển cả trong lẫn ngoài nước, cho nên SV cần đọc nhiều để nâng cao trình độ hiểu biết và kỹ năng lĩnh hội tài liệu của SV. Như vậy, khi thiết kế, bổ sung đề cương chi tiết cho mỗi học phần, nhóm nghiên cứu mong muốn cán bộ GV đang giảng dạy đẩy mạnh yêu cầu bắt buộc SV phải đọc hiểu tác phẩm ở nhiều bậc nhận thức khác nhau. Và việc kết thúc kiểm tra đánh giá cũng phải thể hiện được vai trò VHĐ đối với kết quả mà SV đạt được.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện

GV sẽ xây dựng cụ thể đề cương chi tiết cho những học phần giảng dạy. Trong đó, GV thể hiện yêu cầu mức độ đọc hiểu của SV qua nhiều bậc nhận thức khác nhau. GV hướng đến cách kiểm tra, đánh giá mức độ hiểu biết và khả năng liên kết tài liệu đọc của SV bằng cách ra đề thi, đề kiểm tra kết thúc học phần hướng đến kết cấu mở để SV vận dụng nhiều nguồn kiến thức trong quá trình đọc và tra cứu.

- Tạo điều kiện cho SV tiếp cận phong phú nguồn tài liệu đọc

+ Mục tiêu giải pháp

Với giải pháp này nhóm nghiên cứu mong muốn SV được giới thiệu nhiều nguồn tài liệu khác nhau cùng bổ trợ cho một học phần. Bên cạnh đó còn là khả năng vận dụng và tích hợp liên môn, liên ngành các nguồn tài liệu cho SV.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện

Ngoài giáo trình chính cho SV trong việc giảng dạy học phần, GV phải cung cấp những giáo trình do những tác giả khác biên soạn và tư liệu tham khảo cho từng chương, từng bài để SV bổ trợ kịp thời kiến thức và nâng cao khả năng đọc.

5.2.3.2 Đối với sinh viên

- Xây dựng kế hoạch rèn luyện đọc

+ Mục tiêu giải pháp

Thông qua giải pháp này, nhóm nghiên cứu muốn giúp SV hình thành được ý thức tự học và tự nghiên cứu. Mỗi ngày SV sẽ đặt ra tiêu chí đọc cho mình và sẽ lên kế hoạch nâng dần khả năng đọc để chiếm lĩnh tri thức một cách trọn vẹn.

62

+ Nội dung và biện pháp thực hiện

Bước đầu, GV sẽ hỗ trợ SV trong việc xây dựng kế hoạch rèn luyện đọc và trao đổi những khó khăn cũng như là khuyến khích SV trong việc đọc. Tiếp đến, SV tự đánh giá năng lực đọc của mình. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cũng như là ưu thế trong việc đọc đã điều chỉnh và duy trì việc đọc.

- Chủ động tăng cường đến thư viện tra cứu và tham khảo tư liệu

+ Mục tiêu giải pháp

Giải pháp này giúp SV có thể nâng cao khả năng tìm kiếm tư liệu đọc để vừa bổ

sung cho kiến thức văn hóa vừa nâng cao khả năng đọc và kỹ năng lựa chọn tài liệu.

+ Nội dung và biện pháp thực hiện

Để góp phần hoàn thiện giải pháp này thì SV phải hiểu rằng đó là yếu tố tự thân của SV. Việc tự ý thức sẽ giúp SV nhận ra lợi ích của việc đọc sách, SV sẽ tăng cường đến Thư viện nhiều hơn trong quá trình học tập. Qua đó, mỗi SV cần phải tự thân vận động thật nhiều trong quá trình lĩnh hội tri thức. Mỗi SV cần cố gắng phấn đấu học tập với một thái độ tự giác, không ngừng trau dồi và phát triển tri thức bằng cách sử dụng triệt để nguồn tài liệu để tra cứu và tham khảo mà không đâu khác hơn đó chính là thư viện.

Trên đây là những giải pháp mang tính chủ quan mà nhóm nghiên cứu đề xuất. Tuy nhiên, thiết nghĩ những mục tiêu và nội dung biện pháp thực hiện của những giải pháp trên là vô cùng thiết thực đối với SV Ngành Ngữ văn nói riêng và SV của Khoa Sư phạm - Trường Đại học An Giang nói chung. Thông qua những đề xuất giải pháp trên, điều mà đề tài đóng góp được là chỉ ra được tình hình thực tế về VHĐ trong Trường mà cụ thể là Khoa Sư phạm. Từ đó, góp phần nâng cao hơn VHĐ trong Trường và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, cải thiện KQHT của SV.

63

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Văn hóa, Du lịch và Thể thao. (2005). Đề án phát triển Văn hóa đọc trong cộng đồng giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030.

Bùi Văn Sơn Nam. (2011). Văn hóa đọc sách - phải nên bắt đầu từ gốc. Truy cập từ http://lib.haui.edu.vn/Home/GetArticleByID/10453.

Bùi Trọng Giao. Trò chuyện với bạn trẻ về Kỹ năng.

http://www.changemylife.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=238 &catid=45, truy cập ngày 15/12/2013.

Burgin, R., Bracy, P.B., & Brown, K. (2003), How Quality School Library Media Programs Improve Student Achievement in North Carolina, RB software & Consulting.

Cao Xuân Ích. (1996). Chuẩn bị cho sinh viên CĐSP đáp ứng yêu cầu đổi mới việc dạy học ở THCS. Tạp chí nghiên cứu giáo dục 7.

Cao Xuân Liều. (2012). Tìm hiểu kỹ năng đọc sách của sinh viên chuyên ngành tâm lý học. Tạp chí giáo dục, 293, tr.16.

Carl Rogess. (2001). Phương pháp dạy và học hiệu quả. Cao Đình Quát dịch và giới thiệu”. NXB Trẻ.

Chu Quang Tiềm. 2002. Trần Đình Sử dịch. Bàn về đọc sách. Văn học và tuổi trẻ.

Colin Rose & Malc, J. Nicholl. (2007). Kỹ năng học tập siêu tốc thế kỷ XXI. Dịch giả: Nguyễn Thu Trang. NXB Tri Thức.

Daniels, E., Marcos, S., & Michael. (2011). Examining the Effects of a School-wide Students. theEngagement of Middle School on Reading Culture http://www.academia.edu/2398977/Understanding_a_school-ide_reading_culture.

Đỗ Thị Châu. (2004). Về khái niệm đọc - hiểu ngôn ngữ. Tạp chí giáo dục số 3.

Đỗ Thu Thơm. (2011). Phát triển văn hoá đọc cho sinh viên Học viện Cảnh sát nhân dân. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Đoàn Hương. (2014). Học viện CSND hưởng ứng ngày Thế giới đọc sách 23/4. http://ppa.edu.vn/vn/Acedemy/Hoat-dong-cua-Hoc-vien/70/3307/Hoc- Truycậptừ vien-CSND-huong-ung-ngay-The-gioi-doc-sach-234.aspx.

Đoàn Hương. (2010). Muốn có văn hóa đọc phải có tình yêu với sách thứ bảy ngày

11/9/2010. http://giaoducthoidai.vn/doc-nghe-xem/muon-co-van-hoa-doc-phai-co-tinh-yeu- voi-sach-39204.html.

Dương Quỳnh Tương. (2012). Sách và việc đọc Xưa của người dân Việt – Tạp chí thư viện Việt Nam, số 3.

Ester, G., & Smith, Ph.D. (2006). Student Learning through Wisconsin School Library Media Centers.

Frimaxcopxky. (1976). Phan Tất Đắc dịch. Phương pháp đọc sách. NXB Giáo dục.

Hoàng Hoà Bình. (1996). Học sinh lớp 4, 5 đọc sách văn học như thế nào? Nghiên cứu giáo dục số 6.

Hoàng Ngọc Hiến. (1990). Văn học và học văn. Trường viết văn Nguyễn Du.

64

Hoàng Văn Hân. (2004). Cần tạo câu hỏi hợp lý trong giở dạy văn ở bậc PTTH. Dạy và học ngày nay.

Huỳnh Đình Chiến, Huỳnh Thị Xuân Phương, Hoàng Thị Trung Thu. (2012). Vai trò của thư viện trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học. Bản tin trung tâm học liệu.

Ifedili & Chika Josephine, C.A. (2009). An assessment of reading culture among students in Nigerian tertiary institution--a challenge to educational managers http://www.freepatentsonline.com/article/Reading-Improvement/218120730.html.

Jönsson, A., & Olsson, J. (2008). Ading culture and literacy in Uganda The case of the “Children’s Reading Tent”. http://bada.hb.se/bitstream/2320/3405/1/08-7.pdf.

Lại Nguyên Ân. (1999). 150 thuật ngữ văn học. Hà Nội. NXB Đại học Quốc gia.

Lance, K.C, Rodney, M.J., & Pennell, C.H. (2000). The Impact of School Library in Pennsylvania School, Pennsylvania Programs and Information Literacy Department of Education.

Langan, John.- Ten steps to building college reading skills: Form A: Course.-2nd. ed. .- Martol: Townsend press, 1994.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. (1997). Từ điển thuật ngữ văn học. NXB Giáo dục.

Lê Hải Yến. (2007). Đọc sách hiệu quả: Một kỹ năng quan trọng để tự học thành công. Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 12, tr.44-47.

Lê Khanh Bằng. (2003). Phát huy nội lực của người học một phương hướng cơ bản đổi mới phương pháp dạy học đại học. Dạy và học ngày nay số 4.

Lê Mộng Đài Trang. (2007). Nghiên cứu phát triển văn hóa đọc cho học sinh phổ thông bậc trung học cơ sở tỉnh Cà Mau. Hà Nội. Luận văn thạc sỹ khoa học thư viện, Trường Đại học Văn hóa.

Lê Phương Nga. (1994). Rèn luyện kỹ năng đọc - hiểu cho học sinh tiểu học. Nghiên cứu giáo dục tr.20 – 21.

Lê Thị Thúy Hiền. (2011). Thực trạng văn hóa đọc của sinh viên chuyên ngành Thư viện. Thông tin trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Tạp chí Thư viện, số 5.

Lê Văn Bài. (2004). Bàn thêm về văn hóa đọc. Toàn cảnh sự kiện và dư luận, số 168, tr.50-51.

Lưu Xuân Mới. (2002). Lý luận dạy học đại học. Hà Nội. NXB Giáo dục.

Lonsdale,M. (2003). Impact of School Libraries on Student Achievement, Australian Council for Educational Research (ACER).

Mortimer J.Adler - Charles Van Doren, Dịch giả Hải Nhi - Phương Pháp Đọc sách hiệu quả - NXB Lao động - Xã hội.

Ngô Thị Kim Nguyệt. (2007). Văn hóa đọc trong thư viện. Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 4, tr.104.

Nguyễn Gia Cầu. (1996). Những khuynh hướng và thành tựu đổi mới của khoa học về phương pháp dạy học văn trong hai thập kỷ 70 và 80. Luận án PTS KHSP.

Nguyễn Hiếu Hảo. (2004). Làm thế nào để đổi mới phương pháp giảng dạy ở đại học. Dạy và học ngày nay số 5.

Nguyễn Hữu Lương. (2002). Dạy và học hợp quy luật hoạt động trí óc. Hà Nội NXB Văn hóa thông tin.

65

Nguyễn Hữu Viêm. (2009). Văn hóa đọc và phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam. Truy cập từ http://nlv.gov.vn/van-hoa-doc/van-hoa-doc-va-phat-trien-van-hoa-doc-o-viet- nam.html, truy cập ngày 10/12/2013.

Nguyễn Mạnh Hùng. (2012). Từ Thành phố văn hóa đến Thành phố đọc sách. Truy cập từ: http://www.nguyenmanhhung.com/Van-Hoa-Doc/Hoi-An-Tu-Thanh-Pho-Van- Hoa-Den-Thanh-Pho-Doc-Sach/35-6580/cbo.vn.

Nguyên Ngọc. (2011). Hiến tặng sách - Khởi đầu xây dựng văn hóa đọc. Truy cập từ http://cadn.com.vn/news/71_130739_hien-tang-sach-khoi-dau-xay-dung-van-hoa- doc.aspx.

Nguyễn Quang Cương. (2004). Đọc văn trong dạy học văn. Văn học và tuổi trẻ số 4, tr.31 – 34).

Nguyễn Quý Thanh. (2009). Phương pháp nghiên cứu khoa học. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.172-173.

Nguyễn Thái Hoà. (2004). Vấn đề đọc - hiểu và dạy đọc hiểu. Thông tin khoa học sư phạm số 5.

Nguyễn Thanh Hùng. (1994). Văn học và nhân cách. Hà Nội. NXB Văn hóa.

Nguyễn Thanh Hùng. (1996). Văn học tầm nhìn biến đổi. Hà Nội. NXB Văn hóa.

Nguyễn Thanh Hùng. (2000). Hiểu văn dạy văn. Hà Nội. NXB Giáo dục.

Nguyễn Thanh Hùng. (2001). Dạy đọc - hiểu là tạo nền tảng văn hoá cho người học. (Hội thảo khoa học – chương trình và SGK thí điểm THCS – Hà Nội 26/9/2000). Hợp tuyển công trình nghiên cứu khoa ngữ văn NXB Giáo dục.

Nguyễn Thanh Hùng. (2002). Đọc và tiếp nhận văn chương. NXB Giáo dục.

Nguyễn Thanh Hùng. (2004). Nghĩ về bước chuyển và hướng chuyển của phương pháp giảng dạy văn. Nghiên cứu giáo dục.

Nguyễn Thị Khánh Hòa. (2007). Văn hóa đọc trong thanh niên hiện nay. Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, TP. Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị Hồng Nam. (2001). Một số biện pháp đổi mới cách thức dạy văn ở nhà trường phổ thông. Nghiên cứu giáo dục.

Nguyễn Thị Ngân. (1999). Con đường phát huy năng lực sáng tạo. Tạp chí nghiên cứu giáo dục.

Nguyễn Thị Thanh Hương. (1998). Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn chương ở trường PTTH. Hà Nội. NXB Giáo dục.

Nguyễn Thị Thanh Hương. (1999). Tìm hiểu sự hoà đồng thẩm mĩ giữa sáng tạo và tiếp nhận văn chương. Tạp chí văn học.

Nguyễn Thị Xuân Thủy. (2012). Rèn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. Tạp chí giáo dục Số đặc biệt.

Nguyễn Trọng Hoàn. (2003). Phát triển năng lực đọc trong dạy học ngữ văn. Văn học và tuổi trẻ số 7.

Nguyễn Trọng Hoàn. (2004). Đọc - hiểu tác phẩm truyện hiện đại trong SGK Ngữ văn 7. Văn học và tuổi trẻ số 3.

Nguyễn Trọng Hoàn. (2004). Hình thành năng lực đọc cho học sinh trong dạy học Ngữ văn. Tạp chí giáo dục số 2.

66

Nguyễn Trọng Hoàn. (2003). Một số vấn đề đọc - hiểu văn bản Ngữ văn. Tạp chí giáo dục số 4.

Nguyễn Tuyến. (k.n). Văn hóa đọc của giới trẻ hiện nay. Truy cập từ

http://baoninhthuan.com.vn/diendan/57994p1c29/van-hoa-doc-cua-gioi-tre-hien- nay.html.

Nguyễn Văn Bính. (2002). Học sinh đọc tác phẩm văn học như thế nào? Văn học và tuổi trẻ, số 9.

Nguyễn Viết Chữ. (2001). Phương pháp dạy học tác phẩm theo loại thể. Hà Nội. NXB Đại học Quốc gia.

Ninh Thị Kim Thoa. (2006). Giáo dục người sử dụng trong thư viện đại học, Kỷ yếu hội nghị: Thư viện Việt Nam hội nhập và phát triển, tr112 – 117.

Phạm Hồng Toàn. (2012). Sách và đọc sách ở nước ta hiện nay - Văn hoá nghệ thuật.

Phạm Quang Huân. (2004). Đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông và những yêu cầu đổi mới SGK. Thông tin khoa học sư phạm số 5.

Phạm Thế Khang. (2010). Củng cố vững mạnh mạng lưới thư viện huyện, thị làm cơ sở triển khai chiến lược phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng - Thư viện Việt Nam.

Phạm Toàn, Nguyễn Trường. (1982). Dạy học và học đọc. Hà Nội. NXB Giáo dục.

Phạm Toàn. (2004). Vấn đề phương pháp nhà trường. Dạy và học ngày nay số 2.

Phạm Văn Đồng. (1973). Dạy học văn là quá trình rèn luyện toàn diện - Hà Nội NXB Giáo dục.

Phạm Văn Tâm. (2007). Văn hóa đọc và vấn đề đặt ra hiện nay. Tạp chí người đọc sách, số 2,tr 23 – 25.

Phạm Văn Tình. (2006). Đọc và văn hóa đọc trước ngưỡng cửa thông tin. Tạp chí thư viện số 3.

Phan Bích Ngọc. (2010). Đọc sách và ghi chép - một phương pháp quan trọng trong quá trình nhận thực của sinh viên đại học. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, số 26, tr47 – 50.

Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng & Trần Thế Phiệt. (2001). Phương pháp dạy học văn. Hà Nội. NXB Đại học Quốc gia.

Phan Trọng Luận. (2002). Xã hội văn học nhà trường. Hà Nội. NXB Đại học Quốc gia.

Phan Trọng Luận. (2003). Văn chương bạn đọc sáng tạo. Hà Nội. NXB Đại học Quốc gia.

Phan Trọng Luận. (2003). Văn học giáo dục thế kỷ XXI. Hà Nội. NXB Đại học Quốc gia.

Steven Stahl & Jeanne S.Chall, (Lê Nguyên Phương dịch). (2003). Hoạt động học. Văn học và tuổi trẻ số 5, tr.83.

Tiên Đàm. (1944). Đọc sách. Tạp chí Tri Tân - Hà Nội. Số 171.

Trần Dương, Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa đọc của sinh viên hiện nay, http://www.htu.edu.vn/trung-tam-thu-vien/603-những-yếu-tố-ảnh-hưởng-đến-văn- hóa-đọc-của-sinh-viên-hiện-nay, truy cập ngày 10/12/2013.

Trần Đình Sử. (2001). Đọc văn - học văn. Hà Nội. NXB Giáo dục.

Trần Mạnh Tuấn. (2005). Marketing trong hoạt động thông tin thư viện. Tập bài giảng dành cho sinh viên chuyên ngành Thông tin Thư viện.

67

Trần Mạnh Tuấn. (1998). Sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện. Trung tâm Thông tin và Công nghệ Quốc gia.

Trần Thị Minh Nguyệt. (2006). Giáo dục văn hóa đọc cho lứa tuổi thiếu nhi. Văn hóa nghệ thuật, (số 5), tr.116 – 120.

Trần Thị Minh Nguyệt. (2007). Đổi mới hoạt động thông tin thư viện tại các trường đại học phục vụ đào tạo theo học chế tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 166, tr16.

Trần Thị Minh Nguyệt. (2009). Văn hóa đọc trong xã hội thông tin. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 297, tr29 - 31.

Trần Thị Minh Nguyệt. (2010). Người dùng tin và nhu cầu tin, Hà Nội. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

Trần Văn Hà. (2007). Đẩy mạnh văn hóa đọc trong thời đại công nghệ thông tin, Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 1, tr.69 - 71.

Trần Ngọc Thêm. (2012). Những vấn đề văn hóa học lí luận và ứng dụng. NXB Văn hóa văn nghệ.

Trịnh Văn Biều. (2003). Dạy học bằng sự đa dạng các phương pháp. Dạy và học ngày nay, số 8.

Võ Thị Thu Hương. (2006). Tăng cường và mở rộng phong trào đọc sách báo ở nông thôn tỉnh Hậu Giang. Luận văn thạc sỹ Đại học Văn hóa Hà Nội.

Vũ Dương Thúy Ngà. (2012). Đọc và chấn hưng văn hóa đọc ở Việt Nam. Truy cập từ http://www.vjol.info/index.php/VJIAD/article/viewArticle/9398.

Vũ Thị Thu Hà. (2008). Văn hóa đọc nhìn từ góc độ xã hội học văn học. Tạp chí Sách và đời sống.

Williams, D., Wavell, C., & Coles, L. (2001). Impact of School Library Services on Achievement and Learning, The Robert Gordon University.

68