TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----(cid:91)(cid:92)(cid:9)(cid:91)(cid:92)-----

Báo cáo tốt nghiệp

Đề tài:

Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam

theo quan điểm Marketing-mix

4

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................6 1. Tính cấp thiết của đề tài ..............................................................6 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ GẠO XUẤT KHẨU TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM..............................................................8 Tổng quan về thị trường gạo thế giới ..............................................8 Nhập khẩu ................................................................................15 Nam Á.........................................................................................15 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại............................25

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM MARKETING-MIX ........................28 2.1. Các khái niệm cơ bản về Marketing.......................................28 2.1.1. Khái niệm chung về Marketing ........................................28 Bảng 2.1. Các thành phần của Marketing-mix ..............................28 MM .............................................................................30 2.2.1.1. Sản xuất lúa gạo - bước khởi đầu cho xuất khẩu ........31 2.2.1.2. Chất lượng gạo xuất khẩu ...........................................33 2.2.3.4. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam .....................54

CHƯƠNG 3. CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO. .......................................................................................................76 3.1. Định hướng và mục tiêu của sản xuất và xuất khẩu gạo. .......76 3.1.1. Mục tiêu và định hướng sản xuất lúa gạo. ........................76 3.1.1.1. Mục tiêu ...........................................................................76 KẾT LUẬN.................................................................................108 TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................110

5

U

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi tích cực, làm thay đổi đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong Ngoại thương, đặc biệt trong xuất khẩu gạo. Những con số báo cáo hàng năm là kết quả thật đáng tự hào của ngành nông nghiệp nước ta, thể hiện quyết tâm của nhân dân và đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Vị thế của Việt Nam đã được nâng lên, sánh vai cùng các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.

Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan và khách quan, thực tiễn tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại nhiều vấn đề bức xúc trước những biến động thất thường của tình hình chính trị và thị trường thế giới như định hướng, tổ chức quản lý, tìm đầu ra cho sản phẩm, nâng cao giá và khả năng cạnh tranh... Kết quả là, tuy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu có tăng nhưng nhìn chung tiềm năng vẫn chưa được khai thác một cách tối ưu, mang lại hiệu quả cao nhất.

Trong tình hình đó, nghiên cứu Marketing để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động xuất khẩu gạo là một đòi hỏi cấp thiết và đáng quan tâm nhằm đẩy mạnh hơn nữa sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài đi sâu vào phân tích đặc điểm, tình hình xuất khẩu gạo củaViệt Nam hiện nay theo quan điểm Marketing-mix đồng thời nêu lên các điểm mạnh, điểm yếu theo mô hình SWOT. Qua thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam, đề tài đưa ra giải pháp dưới góc độ vĩ mô và theo quan điểm Marketing-mix nhằm thúc đẩy việc xuất khẩu gạo, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế của nước ta.

3. Phương pháp nghiên cứu

6

Đề tài sử dụng những kiến thức đã tích luỹ trong suốt quá trình học tập với những quan sát, thu thập trong thực tế, kết hợp giữa việc tổng hợp sách

báo, tài liệu với việc đi sâu vào phân tích thực tiễn, tham khảo ý kiến nhằm tìm ra hướng đi hợp lý nhất.

4. Mục đích, nội dung nghiên cứu

Trên cơ sở tập trung phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu của mặt hàng gạo, khoá luận đưa ra một số định huớng phát triển cho giai đoạn tiếp theo, đồng thời tìm một số giải pháp về Marketing nhằm củng cố, đẩy mạnh và phát triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực này. Để đạt được mục đích trên, về mặt lý luận, khoá luận đã tổng hợp, thống nhất, đúc kết và phát triển những vấn đề đã và đang được nghiên cứu, đồng thời xem xét trên cơ sở thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm của Marketing để tìm ra hướng đi đúng đắn trong thời gian tới. Đề tài: Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix

• Chương 1: Tổng quan về gạo xuất khẩu trên thế giới và tại Việt

Nam.

• Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam theo quan điểm

Marketing-mix.

• Chương 3: Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo.

Trong khuôn khổ của khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, đề tài nhằm:

• Khẳng định lại vai trò của xuất khẩu gạo đối với sự phát triển của

nền kinh tế Việt Nam

• Phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam • Nêu ra một số định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động

xuất khẩu gạo của Việt Nam.

7

Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Văn Thoan, các cô chú cán bộ của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại cùng các thầy cô và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ GẠO XUẤT KHẨU TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM

Tổng quan về thị trường gạo thế giới

Vấn đề tập trung của đề tài này là hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thị trường thế giới. Xét theo quan điểm Marketing là có tính hướng ngoại. Để đẩy mạnh xuất khẩu, Việt Nam phải luôn hướng ra môi trường kinh doanh và lấy thị trường làm cơ sở định hướng. Thị trường ở đây được hiểu là tập hợp những nhà nhập khẩu gạo hiện tại và tiềm năng. Mặt khác, nhu cầu của thị trường gạo lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài. Chính vì vậy, các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam không chỉ tập trung vào các nhà nhập khẩu gạo mà còn phải hướng vào các đối thủ khác để đánh giá kịp thời khả năng cạnh tranh của họ. Nghiên cứu thị trường gạo quốc tế, nghiên cứu các nước xuất, nhập khẩu gạo chủ yếu trên thị trường là một đòi hỏi cấp thiết để ứng dụng vào tình hình cụ thể của Việt Nam, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo xuất khẩu nước ta trên thị trường thế giới.

1.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu gạo thế giới

Trong số các loại lương thực bao gồm gạo, lúa mì, ngô, kê, lúa mạch... thì gạo và lúa mì là hai loại thực phẩm chiếm vị trí quan trọng trong khẩu phần ăn hàng ngày của con người. Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), sản xuất lúa gạo và lúa mì đạt mức tương đương nhau. Nhìn chung, sản lượng lúa gạo có thể duy trì sự sống cho hơn 53% tổng số dân trên thế giới. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của gạo đối với vấn đề an ninh lương thực của loài người, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh biến động của yếu tố nhân khẩu học.

1.1.1.1. Vấn đề sản xuất gạo trên thế giới

8

Ngành sản xuất lúa gạo bị phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên như đất, nước, khí hậu... Sau nhiều năm liên tục tăng trưởng, vào năm 1995, sản xuất gạo trên thế giới giảm nhẹ với diện tích sản xuất khoảng 146 nghìn ha, sản lượng thóc toàn thế giới đạt 553 triệu tấn, tương đương khoảng 360 triệu tấn gạo. Những thành công trong sản xuất gạo là kết quả đạt được do cuộc Cách mạng xanh đem lại cùng với việc áp dụng các tiến bộ khoa học và đổi mới chiến lược kinh tế xã hội của Chính phủ các nước sản xuất gạo chủ yếu. Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, dự đoán diện tích sản xuất lúa toàn thế giới năm 2001 là 151,9 nghìn ha. Năng suất lúa năm 2000 đạt 3,92 tấn/ ha, gấp 1,6 lần so với năng suất lúa năm 1974 là 2,45

tấn/ha. Đây là một tiến bộ vượt bậc, nhờ sử dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào sản xuất, đồng thời áp dụng những loại giống lúa mới cho năng suất cao. Năm 2000 cũng là năm kỉ lục về năng suất và sản lượng lúa toàn cầu là 607,4 triệu tấn so với 333,8 triệu tấn năm 1974, tăng 1,8 lần. Qua đó cho ta thấy sản lượng lúa tăng chủ yếu do năng suất tăng, là kết quả đáng khích lệ cho sản xuất lúa toàn thế giới, đảm bảo tốt nhu cầu về lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng của loài người.

Bảng 1.1. Tình hình sản xuất gạo của thế giới (1998-2001)

Đơn vị tính: 1000 tấn

Sản xuất

Bắc Mỹ Mỹ Latinh EU Liên Xô cũ Đông Âu Trung Đông Bắc Phi Châu Phi còn lại Nam Á Châu Á còn lại Châu Đại Dương

1998 8.747 17.225 2.701 1.108 56.000 3.048 5.463 10.540 165.170 358.864 1.324 1999 8.836 22.165 2.694 1.124 52.000 3.370 4.261 10.845 172.526 358.485 1.362 2000 9.795 21.229 2.637 1.189 56.000 2.905 5.889 10.950 183.311 36.281 1.101 2001(ước) 9.062 20.204 2.462 1.026 56.000 2.279 6.063 11.481 179.426 354.965 1.761

Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại

1.1.1.2. Vấn đề tiêu dùng gạo trên thế giới

Trên thế giới, phần lớn gạo được sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước, chỉ 4% sản lượng toàn cầu được đem ra buôn bán, trao đổi giữa các nước với nhau. Lúa gạo được sản xuất tập trung hoá cao độ, trong đó châu Á chiếm tới 90% tổng lượng sản xuất, 50% lượng nhập khẩu và 72% lượng xuất khẩu.

9

Mức tiêu thụ gạo toàn cầu hiện nay luôn phụ thuộc vào tình hình canh tác và khả năng cung cấp của các nước sản xuất lúa gạo. Trên quy mô toàn thế giới, lượng gạo tiêu dùng tăng đáng kể từ 222,4 triệu tấn năm 1974 lên 398,6 triệu tấn năm 2000, tăng 180% và dự đoán năm 2001 là 400,8 triệu tấn. Để đảm bảo tiêu thụ ổn định cần đạt mức sản xuất hàng năm gấp 1,5 đến 2 lần mức tăng dân số. Như vậy, mức tiêu thụ gạo luôn bị khống chế bởi khả

năng sản xuất và phụ thuộc vào số dân toàn cầu nên nhìn chung nếu tính theo đầu người thì không tăng.

Trên thế giới, châu Á là khu vực tiêu thụ gạo nhiều nhất với 362,1 triệu tấn, tức 90% so với lượng tiêu dùng toàn cầu vào năm 2001 (403 triệu tấn). Điều này được giải thích bằng tập quán coi gạo là lương thực chính yếu ở châu Á, nơi tập trung trên 60% dân số toàn thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần, dân số các nước này tăng mạnh trong khi diện tích trồng lúa giảm đáng kể do quá trình đô thị và công nghiệp hoá. Thêm vào nữa, các thiên tai như lụt, bão, hạn hán... thường hay xảy ra nên các nước này cũng phải nhập khẩu gạo phục vụ cho nhu cầu trong nước. Các châu lục khác tiêu thụ 10% số lượng gạo còn lại. Tại châu Mỹ, châu Âu và khu vực Trung Đông, tiêu thụ gạo đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Cụ thể năm 2000, Bắc Mỹ tiêu thụ 4,1 triệu tấn, Mỹ Latinh 14,3 triệu tấn, EU 2 triệu tấn. Dự đoán năm 2001, các khu vực này lần lượt tiêu thụ 4,7 triệu tấn, 14,7 triệu tấn và 2,1 triệu tấn. Qua đó, có thể thấy rằng lượng gạo tiêu thụ phân bố không đồng đều và phụ thuộc nhiều vào các nước châu Á.

Bảng 1.2. Tình hình tiêu thụ gạo của thế giới (1998-2001)

Đơn vị tính: 1000 tấn

Nhập khẩu 1998

Bắc Mỹ Mỹ Latinh EU Tây Âu còn lại Liên Xô cũ Đông Âu Trung Đông Bắc Phi Châu Phi còn lại Nam Á Châu Á còn lại Châu Đại Dương 4,108 13,778 2,012 48,000 1,130 344,000 5,779 2,982 10,412 104,835 234,508 563,000 1999 4,439 14,085 2,066 50,000 1,119 382,000 6,159 2,984 10,973 110,412 236,025 608,000 2000 4,718 14,272 2,131 53,000 1,136 360,000 6,499 3,097 11,563 113,711 241,852 670,000 2001(ước) 4,747 14,661 2,079 55,000 1,311 386,000 6,435 3,177 12,155 114,989 238,692 706,000

10

Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại

1.1.1.3. Những nước sản xuất và tiêu thụ gạo chính trên thế giới

* Trung Quốc

Với số dân đông nhất thế giới (1,26 tỷ người và dự kiến lên tới 1,6 tỷ năm 2030) và diện tích lúa trên 30 triệu ha, Trung Quốc là quốc gia có chủ trương đẩy mạnh sản xuất lúa gạo nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực trong nước của mình. Đảm bảo an toàn lương thực quốc gia là chiến lược hàng đầu của chính phủ nước này. Trái với một số nước khác chú trọng tới các dự án phát triển cây trồng bằng cách tăng cường sử dụng có hiệu quả hơn đất trồng và các nguồn tài nguyên khác như nguồn nước, khí hậu… Trung Quốc tập trung chủ yếu vào công nghệ và khoa học. Trung Quốc đã và đang đi tiên phong trong các giống lúa lai mới và đang dẫn đầu về thử nghiệm lúa biến đổi gien. Tuy diện tích trồng lúa của Trung Quốc mấy năm gần đây liên tiếp giảm do nhu cầu gạo chất lượng thấp giảm và lợi nhuận từ những loại cây khác tăng lên, sản lượng gạo Trung Quốc năm 2001 dự kiến đạt 136,40 triệu tấn, tăng so với 130,9 triệu tấn năm 2000 nhờ năng suất tăng.

Từ năm 1992-1993, cùng với công cuộc đổi mới, hiện đại hoá đất nước, Trung Quốc đã có nhiều cố gắng đẩy mạnh sản xuất lúa. Đến năm 2000, tiêu thụ gạo trung bình tính theo đầu người vẫn bình ổn (96 kg/người/năm) mặc dù tổng tiêu thụ tăng do dân số tăng. Nhu cầu về chất lượng cũng ngày càng tăng. Gạo chất lượng cao như Japonica được trồng chủ yếu ở miền Bắc đã ngày càng trở nên phổ biến hơn. Tiêu thụ gạo nói riêng và lương thực nói chung sẽ tăng theo xu hướng của nền kinh tế. Gạo chất lượng kém ngày càng được chuyển sang dùng trong công nghiệp hoặc cho những người có thu nhập thấp. Một trong những chiến lược của Trung Quốc là phát triển ngành chăn nuôi và gạo vụ sớm sẽ là thức ăn tốt cho gia cầm vì chất lượng phù hợp và giá thành rẻ.

Theo số liệu của Bộ Thương mại, năm 2000 Trung Quốc tiêu thụ 137,3 triệu tấn gạo chiếm 34% tổng lượng gạo tiêu thụ toàn cầu. Ước tính năm 2001 lượng tiêu thụ là 134,3 triệu tấn. Con số này nói chung không thay đổi nhiều so với các năm trước. Với dự kiến nhu cầu tiêu thụ sẽ đạt được 220 triệu tấn gạo vào năm 2010 và 260 triệu tấn vào năm 2030, Trung Quốc đặt mục tiêu phát triển các giống lúa mới, năng suất cao để đạt trung bình 8 tấn/ha so với 6,5 tấn/ha hiện nay.

11

* Ấn Độ

Là nước đông dân thứ hai trên thế giới, Ấn Độ cũng là nước sản xuất gạo lớn thứ hai trên thế giới. Năm 1994, sản lượng lúa của Ấn Độ đạt mức tăng kỷ lục (2,8%) so với các nước khác. Ấn Độ là nước đứng đầu trên thế giới về diện tích trồng lúa và đang chiếm hơn 22% tổng sản lượng lúa gạo toàn cầu. Sản lượng gạo của Ấn Độ niên vụ 1999/2000 đạt 88,55 triệu tấn so với 406,57 triệu tấn của thế giới và dự đoán niên vụ 2000/2001 đạt 87,30 triệu tấn so với 396 triệu tấn của thế giới. Cuối năm 2000, Chính phủ Ấn Độ có kế hoạch giải toả 3 triệu tấn gạo dự trữ để lấy chỗ chứa gạo mới, gây sức ép tới thị trường gạo thế giới. Bên cạnh đó, Ấn Độ là một trong những nước đi đầu trong cuộc Cách mạng xanh, chủ yếu về giống lúa. Hiện nay, Bộ Thương mại Ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm ADN để bảo đảm sự thuần chủng cho giống gạo mới, khuyến khích sản xuất và xuất khẩu các loại gạo cao cấp.

Về tiêu thụ, Ấn Độ cũng là quốc gia tiêu thụ gạo lớn thứ hai trên thế giới với lượng tiêu thụ là 78,2 triệu tấn (năm 1998), 81,2 triệu tấn (năm 1999), 82,5 triệu tấn (năm 2000) và ước tính năm 2001 là 83,5 triệu tấn, chiếm 20,8% so với tổng lượng tiêu thụ toàn thế giới .

* Inđônêxia

Với sản lượng gạo năm 1999/2000 là 34,08 triệu tấn, dự đoán năm 2000/2001 là 34,80 triệu tấn, Inđônêxia hiện đang xếp thứ ba trên toàn thế giới về nước có sản lượng gạo cao nhất. Năm 2001, nhờ triển vọng đạt sản lượng cao nên nhu cầu về nhập khẩu của nước này có thể giảm 40% so với năm trước. Điều đó chứng tỏ Inđônêxia đã tích cực hơn trong việc sản xuất lúa gạo nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước, tránh bị phụ thuộc vào số lượng gạo nhập khẩu từ các nước bên ngoài.

12

Inđônêxia cũng là nước tiêu thụ gạo lớn thứ ba trên thế giới. Năm 2000, quốc gia này sử dụng hết 35,9 triệu tấn gạo, chiếm 9% lượng tiêu thụ toàn cầu. Dự tính tiêu thụ năm 2001 có giảm nhưng không đáng kể là 35,8 triệu tấn. Năm 2002, Inđônêxia có kế hoạch nhập khẩu 700 ngàn tấn, trong đó sẽ nhập khẩu khoảng 500 ngàn tấn từ Việt Nam để có nguồn gạo đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Chính phủ Inđônêxia đang dự kiến vay Ngân hàng phát triển Hồi giáo 102,5 triệu USD để nhập khẩu số gạo trên.

4%

9%

16%

36%

Indonªxia

22%

Ên §é

Trung Quèc

58%

22%

Kh¸c

33%

Biểu đồ 1.1. Dân số và tiêu thụ gạo của 3 nước tiêu thụ lớn nhất

Dân số

Tiêu thụ gạo

1.1.2. Cơ cấu của thị trường gạo thế giới

1.1.2.1. Đặc điểm và triển vọng của thị trường gạo thế giới

* Đặc điểm của thị trường gạo thế giới

- Gạo là loại lương thực chủ yếu để nuôi sống hơn 50% dân số toàn cầu, tập trung nhiều nhất ở châu Á. Chính vì vậy, thị trường gạo thế giới mang đặc tính nhạy bén vì mỗi khi có sự biến động về nhu cầu ở những nước tiêu thụ gạo chính như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Bănglađét, Pakistan... thì cung cầu và giá gạo trên thị trường thế giới lại thay đổi. Việc Chính phủ Ấn Độ có kế hoạch giải toả 3 triệu tấn gạo vào cuối năm 2001 là một ví dụ để gây sức ép với thị trường gạo thế giới. Cuối tháng 3/2000, Inđônêxia đã quyết định ngừng nhập khẩu gạo chính ngạch cũng tạo những biến động không nhỏ tới giá gạo nói chung. Tuy nhiên, độ nhạy cảm của thị trường gạo còn phải phụ thuộc vào lượng dự trữ toàn cầu và của từng nước cũng như tỷ giá giữa gạo và loại lương thực thay thế gạo như lúa mỳ, ngô...

13

- Gạo không những được buôn bán đơn thuần như một hàng hoá giữa các nước khác nhau mà còn là một trong những mặt hàng chiến lược thực hiện chính sách đối ngoại của các Chính phủ thông qua hình thức viện trợ. Mỹ là nước đã sử dụng hình thức này như một chiến lược ngoại giao nhằm tăng cường sự phụ thuộc của các nước khác vào nước mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Tương tự như vậy, EU thường nhập khẩu gạo để cung cấp miễn phí cho các nước châu Phi để đổi lại các điều kiện khác về kinh tế.

- Trên thế giới có rất nhiều loại gạo mậu dịch phân loại theo các cách khác nhau. Sự phong phú về chủng loại tạo nên sự đa dạng cho thị trường gạo thế giới. Tương ứng với mỗi loại gạo khác nhau, tuỳ thuộc chất lượng phẩm cấp khác nhau lại hình thành một mức giá cụ thể. Tính đa dạng và phức tạp của giá cả gạo là biểu hiện sinh động trong buôn bán quốc tế trong suốt nhiều năm qua.

* Triển vọng của thị trường gạo thế giới

Trong những năm gần đây, thị trường gạo thế giới có nhiều biến động phức tạp, cụ thể là nhu cầu của các nước về gạo đặc biệt thấp. Mặc dù các nước xuất khẩu không ngừng nỗ lực tìm kiếm thị trường nhưng giá gạo của tất cả các xuất xứ đều giảm. Nhu cầu gạo của các nước nhập khẩu lớn như Bănglađét, Inđônêxia, Braxin... hạn chế do sự phục hồi sản lượng sau 12 năm mất mùa. Theo dự báo của FAO và Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng gạo thế giới đến năm 2005 sẽ có chiều hướng tăng chậm hơn so với những năm trước, mức tiêu thụ tăng chậm. Do đó, tốc độ tăng của lượng gạo giao dịch toàn thế giới cũng sẽ giảm. Dự đoán trong tương lai, châu Phi sẽ tham gia tích cực hơn vào thị trường gạo, đặc biệt là nhập khẩu. Châu Á vẫn sẽ luôn là khu vực đứng đầu về sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu với nhiều thay đổi về cơ chế chính sách. Xuất khẩu gạo từ châu Âu và châu Mỹ có xu hướng giảm do việc thắt chặt các quy định của thương mại thế giới làm hạn chế chính sách trợ giá xuất khẩu.

Xu hướng trong những năm tới sẽ có nhiều nước tham gia vào xuất khẩu lúa gạo, tạo sự sôi động và cạnh tranh gay gắt trên thị trường lúa gạo thế giới, đặc biệt ở châu Á, do chính sách của nhiều nước cho phép khu vực tư nhân tham gia vào xuất nhập khẩu gạo. Ngoài ra, trong những năm tới, giao dịch các loại gạo có chất lượng cao có xu hướng tăng mạnh trong khi giao dịch gạo phẩm cấp thấp sẽ giảm dần.

14

Gạo một mặt là hàng hoá thiết yếu đối với đời sống và sản xuất, mặt khác là hàng hoá nhạy cảm và xuất khẩu có tính chiến lược ở một số nước, có xu hướng cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt giữa các nước tham gia xuất khẩu. Các nước xuất khẩu luôn luôn tăng sản lượng lúa gạo không chỉ để thoả mãn cho nhu cầu tăng dân số mà còn nhằm mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể. Vì vậy, trong tình hình hiện nay, các nước đều đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu để giảm hao phí và hư hao, đầu tư chiều sâu để tăng nhanh năng suất và sản lượng. Để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, các nước trang bị ngày càng tốt hơn từ việc chọn giống, thu hoạch, bảo quản,

chế biến, vận tải, bao gói và điều kiện giao hàng thích hợp với đòi hỏi của thị trường thế giới.

1.1.2.2. Tình hình nhập khẩu gạo

* Tình hình chung

Nhập khẩu gạo của thế giới nhìn chung có xu hướng tăng lên nhưng không ổn định trong những năm gần đây, tuỳ thuộc vào sản lượng lương thực trong năm và khả năng thanh toán của những nước nhập khẩu. Đa số các nước xuất khẩu gạo đạt sản lượng cao kỷ lục đã làm giảm mạnh giá gạo trên thị trường thế giới.

Lượng nhập khẩu gạo của toàn thế giới cũng như từng nước thường xuyên biến động và mang tính thời vụ rõ rệt. Vì sản xuất gạo phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên, tỷ lệ dự trữ, tồn kho lương thực nên thường bất ổn. Năm mất mùa, các nước thường cần gấp, nên nhập khẩu nhiều nhưng năm khác lại giảm sản lượng nhập đáng kể. Khi giá gạo tăng cao, các nước có thể chuyển sang nhập khẩu hàng thay thế cho gạo như lúa mì hoặc các ngũ cốc khác, gây biến động không nhỏ cho sản lượng nhập khẩu gạo của toàn thế giới.

Trong hơn 10 năm qua, sản lượng nhập khẩu tăng do nhu cầu tăng, đặc biệt là năm 1998 lên tới 27,67 triệu tấn. Những năm sau đó có giảm nhẹ vì được mùa ở các nước nhập khẩu. Ước tính toàn năm 2001, thế giới nhập khẩu 22,30 triệu tấn gạo.

Bảng 1.3. Tình hình nhập khẩu gạo của thế giới (1998-2001)

Nhập khẩu 1999 2000

1998 840 3.357 787 60 321 313 3.224 188 4.188 2.765 10.370 4.439 14.085 2.066 50 1.191 382 6.159 2.984 10.973 110.412 236.025 Đơn vị: 1000 tấn 2001(ước) 4.744 14.661 2.079 55 1.311 386 6.435 3.177 12.155 114.989 238.692 4.718 14.272 2.131 53 1.346 360 6.499 3.097 11.563 113.711 241.852

15

Bắc Mỹ Mỹ Latinh EU Tây Âu còn lại Liên Xô cũ Đông Âu Trung Đông Bắc Phi Châu Phi còn lại Nam Á Châu Á còn lại

Đại 288 608 670 706

Châu Dương

Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu–Bộ Thương mại Châu Á luôn là khu vực nhập khẩu gạo nhiều nhất với khoảng hơn 55% lượng gạo nhập khẩu toàn thế giới nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ tại các nước này. Châu Phi chiếm tỷ trọng hơn 20% lượng gạo nhập khẩu và có chiều hướng tăng lên trong thời gian qua tuy mức tăng không lớn. Trên thực tế các nước nghèo ở châu lục này tiêu dùng gạo khá nhiều nhưng khả năng tài chính lại bị hạn chế rất đáng kể. Do vậy, ở các nước này tuy thiếu gạo nhưng khả năng nhập khẩu có hạn. Châu Mỹ cũng có khối lượng nhập khẩu chiếm khoảng 20% với nhu cầu ổn định và có xu hướng tăng lên.

Nhập khẩu gạo trên thế giới cũng biến động theo nhóm nước. Tuỳ theo mức độ thường xuyên, các nước chia theo hai nhóm: nhóm nước nhập khẩu gạo thường xuyên và không thường xuyên. Nhóm thứ nhất bao gồm các nước luôn có nhu cầu nhập khẩu gạo do mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu về gạo. Nhóm nước này bao gồm Malaixia (hàng năm cần nhập khoảng 400 ngàn tấn), Canađa (180 ngàn tấn), Angiêri (250 ngàn tấn)... Nhóm thứ hai bao gồm những nước sản xuất gạo nhưng không thường xuyên cung cấp đủ cho tập quán tiêu dùng trong nước. Lượng gạo nhập khẩu ở các nước này không đều qua các năm. Tiêu biểu cho nhóm này là Inđônêxia, Trung Quốc, Nhật Bản... * Một số nước nhập gạo chủ yếu trên thế giới 1) Inđônêxia

Hiện nay, nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới là Inđônêxia. Dù đã sản xuất một lượng gạo không nhỏ cho tiêu dùng nhưng Inđônêxia vẫn phải nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đảm bảo an ninh lương thực. Đặc biệt vào năm 1995, nhập khẩu gạo của nước này tăng vọt lên tới 3,2 triệu tấn do chính sách dự trữ gạo của Nhà nước và tốc độ tăng nhanh của dân số. Đến năm 1998, Inđônêxia tiếp tục nhập gạo với sản lượng 6,1 triệu tấn cho tiêu dùng sau mất mùa. Năm 2000, Chính phủ Inđônêxia tăng thuế nhập khẩu từ 0% lên 35% và cho phép tư nhân tự do nhập khẩu gạo nhưng cấm các loại gạo chất lượng thấp. Tổng số lượng nhập khẩu năm 2000 giảm xuống là 1,3 triệu tấn, bằng 1/3 so với năm 1999 (3,9 triệu tấn). Năm 2001, dự đoán nước này cũng chỉ nhập khẩu khoảng hơn một triệu tấn gạo.

16

2) Iran

Trong nhiều năm qua, Iran thường xuyên nhập khẩu gạo với số lượng

khá ổn định, đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Inđônêxia. Năm 1999, Iran

nhập 1,0 triệu tấn, năm 2000 tăng lên 1,1 triệu tấn và ước tính năm 2001 sẽ lại giảm xuống mức 1,0 triệu tấn. Các số liệu trên đã cho thấy mức nhập khẩu tương đối cố định của đất nước này. Với số dân 70 triệu, dự đoán trong tương lai, Iran vẫn là nước nhập khẩu gạo lớn và có khả năng thanh toán cao. Nhà cung cấp gạo chủ yếu của Iran là Thái Lan, Việt Nam, Pakistan.

3) Trung Quốc

Là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới nhưng Trung Quốc vẫn phải nhập khẩu nhằm đảm bảo nhu cầu trong nước. Năm 2000, Trung Quốc nhập khẩu 238.598 tấn gạo, tăng 42% so với năm 1999, trong đó hầu hết là gạo có chất lượng cao của Thái Lan. Nhập khẩu tăng do sản lượng gạo Trung Quốc giảm và tiêu dùng của người dân đối với gạo thơm tăng lên. Khi tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhập khẩu gạo sẽ tăng nhẹ do Trung Quốc ban đầu phải nhập khẩu gần 3 triệu tấn mỗi năm nếu giá trị thị trường phù hợp với họ. Đến năm 2004, hạn ngạch nhập khẩu dự kiến sẽ tăng tới 5,38 triệu tấn. 4) Braxin

Đây là nước duy nhất ở khu vực Nam Mỹ có mức nhập khẩu gạo khá lớn. Tình hình nhập khẩu mặt hàng này ở Braxin trong đối ổn định và có xu hướng tăng trong thời gian qua. Cụ thể năm 1989, lượng nhập khẩu của Braxin là 0,5 triệu tấn, năm 1998 tăng lên 1,2 triệu tấn. Năm 1999, nước này tiếp tục là nước nhập khẩu gạo lớn trên thế giới với mức nhập khoảng 1 triệu tấn. Năm 2000, sản lượng nhập khẩu giảm xuống còn 0,7 triệu tấn và sẽ tiếp tục giảm trong năm 2001.

1.1.2.3. Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới những năm qua

* Tình hình chung

17

Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới trong những năm gần đây tăng và tăng khá. Nếu như năm 1975, thế giới xuất khẩu chỉ có 7,7 triệu tấn gạo thì năm 1989 số lượng gạo xuất khẩu đạt 13,9 triệu tấn, mức cao nhất so với các năm trước đó. Tuy nhiên, trong hai năm tiếp theo, số lượng gạo xuất khẩu giảm xuống còn 11,6 triệu tấn và 12,1 triệu tấn. Đến năm 1998, số lượng gạo xuất khẩu tăng cao nhất là 27,7 triệu tấn. Trong 3 năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu có xu

hướng giảm xuống: năm 1999 là 24,9 triệu tấn, năm 2000 là 22,9 triệu tấn và dự báo năm 2001 là 22,2 triệu tấn. Nhìn chung, mức tăng trưởng chưa thật ổn định, có năm giảm so với năm trước và chưa thực sự phản ánh khả năng dư thừa của những nước xuất khẩu và sự biến động không ngừng tình hình cung cầu của thị trường gạo trên thế giới. Số lượng xuất khẩu gạo của thế giới tăng lên nhờ những cải biến về mặt kỹ thuật, giống lúa và các chính sách mới của các nước xuất khẩu gạo làm cho lượng gạo có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.

Xuất khẩu gạo thế giới tập trung ở một số nước đang phát triển, chiếm 75% đến 80% tổng số lượng xuất khẩu. Là châu lục sản xuất và tiêu thụ gạo nhiều nhất, với tiềm năng, điều kiện thời tiết thuận lợi cho việc trồng lúa, châu Á vẫn luôn là khu vực xuất khẩu nhiều nhất. Bình quân hàng năm, châu Á cung cấp khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu cho thị trường thế giới, đồng thời còn là nơi tập trung hầu hết các nước có thế mạnh về gạo như Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc....

* Các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới 1) Thái Lan

Tuy Thái Lan không phải là nước sản xuất gạo lớn trên thế giới nhưng lại là nước có số lượng gạo xuất khẩu nhiều và ổn định nhất, đồng thời có tốc độ tăng trưởng cao, gần 10%/năm. Từ năm 1977 đến nay, cụ thể vào năm 1998 Thái Lan xuất khẩu 6,4 triệu tấn, năm 1999 đạt con số kỉ lục là 6,7 triệu tấn (25% lượng xuất khẩu toàn thế giới), năm 2000 số lượng xuất khẩu đạt hơn 6,5 triệu tấn, giảm nhẹ so với năm trước do ảnh hưởng của lũ lụt và bão nhiệt đới tại miền Đông Bắc. Trong tình hình giá cả quốc tế biến động mà trong nước lại bội thu, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chương trình can thiệp để ổn định giá gạo trong nước, giúp nông dân duy trì phát triển trồng lúa. Các tổ chức quốc doanh Thái Lan đã mua gạo lưu kho và thực hiện chính sách cho nông dân vay tín dụng dài hạn với lãi suất thấp. Chính phủ Thái Lan đã thực hiện kế hoạch để phát triển ngành gạo, đặc biệt tập trung vào thị trường gạo Jasmine, loại gạo đặc sản và là thế mạnh của Thái Lan.

18

Năm 2001, dự kiến tổng xuất khẩu của Thái Lan đạt 6,7 triệu tấn. Chiến lược xuất khẩu gạo Thái Lan gồm 3 điểm chính. Đối với sản xuất, Thái Lan tiến hành nghiên cứu để giảm thất thoát trong quá trình thu hoạch. Đối với thương mại và thị trường, Thái Lan áp dụng triệt để Marketing-mix, tập trung tuyên truyền dùng gạo Hương nhài, xúc tiến bảo vệ và tăng chất

lượng gạo. Đối với chính sách gạo, Nhà nước phối hợp với tư nhân soạn thảo chính sách khép kín từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị cho tới chế biến.

Với vị trí đứng đầu xuất khẩu gạo, Thái Lan luôn chi phối sâu sắc tình hình biến động cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới. Về chất lượng, gạo Thái Lan có nhiều loại, đặc biệt là các loại gạo đặc sản được ưa chuộng ở khắp nơi và được xuất đi nhiều nước. Thái Lan cũng là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của Mỹ trên thị trường loại gạo hạt dài và chất lượng cao, đồng thời cũng cung cấp cho cung gạo của thế giới gần 1/3 tổng lượng gạo chất lượng thấp. Thị phần của Thái Lan nhìn chung tương đối ổn định. Giá bán thường cao hơn so với các nước xuất khẩu gạo khác như Việt Nam hay Pakistan. Giá chuẩn quốc tế cũng thường căn cứ vào giá gạo của Thái Lan (FOB Băngcốc).

2) Trung Quốc

Không chỉ là một nước sản xuất, tiêu dùng, nhập khẩu gạo lớn trên thế giới, Trung Quốc cũng là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Trung Quốc nhập khẩu gạo chất lượng cao song xuất khẩu gạo có chất lượng bình thường hoặc thấp. Năm 2000, mặc dù có hạn hán, quốc gia này đã vươn lên thứ ba trong số các nước xuất khẩu gạo với số lượng là 2,95 triệu tấn, chỉ sau Thái Lan và Việt Nam, tăng 9% so với năm 1999 (2,7 triệu tấn) nhưng giảm so với mức 3,7 triệu tấn năm 1998. Vị trí này không ổn định trong các năm do sự biến động thất thường giữa cung cầu gạo của nước này. Dự kiến năm 2001, Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm số lượng xuất khẩu xuống còn 1,8 triệu tấn. Tuy nhiên, với ưu thế giá gạo rẻ và chất lượng ngày một được cải thiện, gạo Trung Quốc đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, đặc biệt là tại châu Phi và Nhật Bản.

3) Mỹ

Năm 2000, số lượng xuất khẩu gạo của Mỹ đạt 2,76 triệu tấn, đứng thứ tư trong số các nước xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, những năm trước đây, Mỹ vẫn đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan mặc dù chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng số lượng lúa toàn cầu và xếp thứ 11 về sản xuất gạo.

19

Là nước xuất khẩu gạo truyền thống với thị trường rộng lớn trên khắp các châu lục, chất lượng gạo của Mỹ nổi tiếng là cao (loại A), đứng đầu thế giới và có sức cạnh tranh ưu việt hơn hẳn các loại gạo khác, kể cả của Thái Lan. Trong những năm đầu thập niên 90, Mỹ cung cấp khoảng 20% thị phần gạo thế giới mà chủ yếu là các nước Mỹ Latinh (Mêhicô và Braxin). Xuất khẩu gạo của Mỹ có được thành công nhờ vào hai lợi thế:

+ Thứ nhất, sự phát triển vượt bậc về công nghệ sản xuất, chế biến đến bảo quản. Mỹ có hệ thống lưu kho dự trữ lớn nên gạo xuất khẩu luôn được đảm bảo về mặt chất lượng, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe nhất của các nước nhập khẩu. Mỹ có thể xuất khẩu gạo ở các giai đoạn khác nhau của quá trình chế biến, ở mọi chất lượng khác nhau cũng như đáp ứng mọi hình thức bao gói hay chuyên chở.

+ Thứ hai, sức mạnh kinh tế, chính trị và các mối quan hệ với bạn hàng. Gạo xuất khẩu của Mỹ được coi là “nông phẩm chính trị” và nằm trong cơ chế bảo hộ của Nhà Trắng với nhiều chính sách như chính sách trợ cấp thu nhập, chính sách trợ giá xuất khẩu hay cấp tín dụng xuất khẩu... Chính phủ Mỹ thực hiện chính sách can thiệp mạnh vào giá gạo, cả trong nước và xuất khẩu. Mỹ đã sử dụng gạo như một vũ khí để thực hiện mục tiêu đối ngoại của mình trong các quan hệ kinh tế như việc gây áp lực đối với mở cửa thị trường gạo của Nhật Bản và liên minh châu Âu.

Năm 2001, do những biến cố suy thoái kinh tế, đặc biệt vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới, dự đoán số lượng xuất khẩu của Mỹ sẽ giảm xuống còn 2,6 triệu tấn và sẽ gặp khá nhiều khó khăn trong xuất khẩu mặt hàng này.

4) Pakistan

Là quốc gia nằm trong khu vực Nam Á, với số dân gần 150 triệu người, Pakistan có truyền thống xuất khẩu gạo từ nhiều thập kỷ nay, với lượng gạo trung bình trong thời gian gần đây là 2 triệu tấn. Xuất khẩu gạo của nước này tương đối ổn định với các loại gạo chất lượng trung bình và khá. Những năm gần đây, xuất khẩu của Pakistan tăng nhẹ. Cụ thể là năm 1998 số lượng gạo xuất khẩu là 1,8 triệu tấn, 1999 là 1,85 triệu tấn, 2000 là 2 triệu tấn và dự đoán trong năm 2001 sẽ là 2,25 tấn, chiếm hơn 10% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới.

5) Ấn Độ

20

Ấn Độ là một quốc gia luôn ở trong tình trạng thiếu lương thực. Từ trước đến nay, Ấn Độ phải nhập khẩu một lượng gạo lớn chất lượng thấp nhưng đồng thời cũng xuất khẩu gạo Basmati, một loại gạo đặc sản, sang các thị trường châu Á và châu Phi, đặc biệt là thị trường Trung Đông. Những năm gần đây, số lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ không ổn định do gặp nhiều thiên tai. Hoạt động xuất khẩu gạo của Ấn Độ đang có khó khăn vì Bănglađét, thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp thấp chủ yếu của Ấn Độ, bắt đầu thực hiện thả nổi việc đấu thầu mua gạo từ tháng 1/2000 với điều kiện

thanh toán nghiêm ngặt. Cụ thể là số lượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ từ 4,5 triệu tấn năm 1998, chiếm 16,2% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới, năm 1999 còn 2,4 triệu tấn, năm 2000 chỉ còn 1,3 triệu tấn.

Hiện nay, Bộ Thương mại Ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm AND để đảm bảo sự thuần chủng cho giống gạo Basmati Ấn Độ và sẽ khuyến khích xuất khẩu gạo cao cấp này. Bên cạnh đó, Ấn Độ cho phép Tổng công ty lương thực quyết định giá xuất khẩu song không được thấp hơn giá bán cho người dân Ấn Độ sống dưới mức nghèo khổ. Các nhà xuất khẩu Ấn Độ cho rằng gạo Ấn Độ có cơ hội thâm nhập vào các thị trường nước ngoài nếu như giá thấp như giá các xuất xứ khác. Bộ Thương mại Ấn Độ cũng đã xem xét kế hoạch xoá bỏ hạn chế xuất khẩu đối với các sản phẩm như gạo, lúa mì, đường và hành. Gạo xay xát hiện đang được tự do xuất khẩu, mặc dù các tư nhân muốn xuất khẩu vẫn buộc phải đăng ký hợp đồng với Cơ quan phát triển nông nghiệp và xuất khẩu thực phẩm chế biến. Hiện tại, Ấn Độ đang thu hút các nhà nhập khẩu gạo như Nam Phi, Nigiêria, Arập-Xêút. Mục tiêu của Ấn Độ trong những năm tới là giảm bớt chi phí của Chính phủ, khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm an toàn lương thực, đặc biệt là cố gắng xuất khẩu 3 triệu tấn gạo vào niên vụ 2000/2001.

1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam 1.2.1. Vị trí chiến lược của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế quốc dân

Việt Nam là một nước đông dân, trong đó gạo là lương thực chính và khó có thể thay thế. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của sản xuất gạo đối với nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, khi đất nước đã có thể đảm bảo an ninh lương thực, xuất khẩu gạo trong điều kiện kinh tế hiện nay có ý nghĩa quyết định đối với quá trình hội nhập của nước ta và được thể hiện trên nhiều khía cạnh, mà chủ yếu là:

1.2.1.1. Xuất khẩu gạo tăng thu ngoại tệ, tích luỹ vốn cho quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước

21

Quá trình CNH-HĐH đất nước được xác định tiến hành lâu dài và theo những bước đi thích hợp. Để tiến hành thành công quá trình này, cần huy động tối đa mọi nguồn lực của quốc gia, trong đó vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng. Có vốn mới có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại, đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực... Vốn thường được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: đầu tư nước ngoài, du lịch, vay vốn trong dân, xuất khẩu... trong đó vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu có

tác động lớn đến hoạt động nhập khẩu, qua đó đẩy mạnh tiến trình CNH- HĐH đất nước.

Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta những năm gần đây, kim ngạch từ xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng khá lớn. Gạo đã trở thành một mặt hàng chủ lực của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho thấy xuất khẩu gạo từ lâu đã mang lại một nguồn vốn không nhỏ cho nước ta. Theo số liệu mới nhất của Bộ Thương mại, trong suốt 11 năm từ 1989 đến 2000, tổng kim ngạch mà xuất khẩu gạo mang lại đạt gần 7 tỷ USD, chưa kể đến xuất khẩu tiểu ngạch sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Như vậy, gạo đã chiếm tới khoảng 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một tỷ lệ không nhỏ đối với riêng một mặt hàng trong rất nhiều mặt hàng xuất khẩu khác.

Xuất phát từ vai trò quan trọng của gạo đối với quá trình CNH-HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng hơn tới tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, đặc biệt chú ý tới những giống lúa có chất lượng và cho năng suất cao, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu gạo nhằm đem lại nguồn vốn lớn phục vụ công cuộc đổi mới đất nước.

1.2.1.2. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển

Khi Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo đồng nghĩa với việc tăng cường sản xuất theo quy mô vùng. Hiện nay, ở nước ta đã và đang hình thành những vùng lúa tập trung chuyên sản xuất gạo xuất khẩu bao gồm cả hai khu vực chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Mỗi vùng phù hợp với những loại giống lúa khác nhau. Như vậy, cơ cấu nông nghiệp sẽ thay đổi phát huy theo lợi thế của từng vùng.

Khi đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cơ cấu ngành nghề cũng sẽ thay đổi. Hàng loạt các nghề phụ liên quan đến sản xuất và chế biến gạo như xay sát, bảo quản, đánh bóng... cũng phát triển theo. Đây là điều kiện thuận lợi đối với nền kinh tế dư thừa lao động như nước ta, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn và góp phần cải thiện đời sống nhân dân.

22

Trong những năm gần đây, sản lượng lúa thu hoạch tăng cao. Xuất khẩu gạo tạo điều kiện mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tránh ứ đọng, tồn kho. Khi khâu tiêu thụ được giải quyết sẽ tạo tâm lý an tâm, khuyến khích nông dân tăng cường, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Như vậy, xuất khẩu đã tác động ngược trở lại đối với sản xuất, là một tiền đề cho sản

xuất phát triển, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp và khả năng tiêu dùng của một quốc gia như Việt Nam.

Khi tham gia xuất khẩu gạo, Việt Nam có điều kiện cạnh tranh, cọ xát với các sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế. Đây vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn đối với mặt hàng gạo của Việt Nam vì chất lượng của ta còn kém hơn so với các nước xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan. Tuy nhiên, để đảm bảo sự tồn tại của gạo Việt Nam trên thị trường, các doanh nghiệp buộc phải tổ chức, xem xét lại khâu sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, hạ giá thành sản phẩm đồng thời nâng cao chất lượng. Các kênh phân phối cũng phải tổ chức lại một cách hợp lý, giảm thiểu chi phí nhằm mang lại lợi nhuận tối đa. 1.2.1.3. Xuất khẩu gạo tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân

Như trên đã phân tích, khi xuất khẩu gạo được đẩy mạnh sẽ kéo theo những ngành nghề khác hỗ trợ cho sản xuất như các hoạt động thương mại, dịch vụ bao gồm các công đoạn tổ chức thu mua thóc từ nông dân, tạo đầu vào cho xuất khẩu. Các hoạt động này nếu được được tiến hành tốt, có sự chỉ đạo đúng đắn sẽ tạo ra sự khai thông đầu ra cho sản phẩm thóc của nhân dân ở thời vụ thu hoạch, kích thích nông dân canh tác, nâng cao năng suất. Từ đó tác động trở lại đối với sản xuất và xuất khẩu. Như vậy, không chỉ sản xuất gạo xuất khẩu có thể giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định cho nhiều lao động mà những ngành nghề khác có liên quan cũng góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp của nước ta.

Xuất khẩu gạo tạo một thị trường trong nước ít biến động, cân bằng được cung cầu, không còn lượng hàng dư thừa và tồn kho trong nước, giá gạo nội địa sẽ ổn định và cao hơn tạo thêm thu nhập cho người nông dân. Khi xuất khẩu gạo thu được thêm ngoại tệ một phần để nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được. Điều đó góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, khuyến khích họ tăng cường sản xuất gạo xuất khẩu nhiều hơn nữa.

23

Xuất khẩu gạo tạo sự phân công lao động hợp lý trên phạm vi toàn thế giới. Dựa vào lợi thế so sánh tương đối đối với các loại gạo Việt Nam, chúng ta cần biết sản xuất loại gạo nào đạt hiệu quả cao nhất và có khả năng bán với số lượng lớn, giá cao. Tham gia vào thị trường bên ngoài rộng lớn, chúng ta hiểu rõ hơn về nhu cầu người tiêu dùng và khả năng cung cấp của

các nước xuất khẩu khác để điều chỉnh định hướng xuất khẩu cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta.

1.2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm qua 1.2.2.1. Tình hình chung

Nếu nhìn lại giai đoạn trước đổi mới, khi cả nước ta lâm vào cảnh thiếu đói triền miên, các gia đình luôn phải tích trữ lương thực, trộn lẫn các loại gạo, sắn, khoai... trong mỗi bữa ăn thì mới thấy được thành công to lớn của ngành lương thực nước ta trong suốt thời gian qua. Dưới cơ chế tập trung bao cấp, sản xuất nông nghiệp nước ta mang nặng tính tự cấp tự túc, sản xuất không đủ tiêu dùng, thiếu lương thực trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Từ khi thực hiện đổi mới sau nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới kinh tế nông nghiệp đến nghị quyết 6 của Ban chấp hành Trung ương khoá VI, cùng với việc ban hành một loạt các chính sách kinh tế mới, nông nghiệp nước ta đã có nhiều khởi sắc. Cơ chế của nền nông nghiệp từ tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng CNH- HĐH đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là trong xuất khẩu gạo.

24

Năm 1989 là năm đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử xuất khẩu gạo của nước ta, khi Việt Nam đứng ở vị trí thứ 3, sau Thái Lan và Mỹ, trong số những nước xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Số lượng gạo xuất khẩu tăng dần từ 1,327 triệu tấn vào năm 1989 lên tới 1,478 triệu tấn năm 1990, giảm nhẹ vào năm 1991 với 1 triệu tấn do những biến động từ thị trường Nga và Đông Âu sau khi CNXH Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Sau năm này, số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng. Năm 1995, Việt Nam xuất khẩu 2,025 triệu tấn và xếp vào vị trí thứ 4 trong các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Sau quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, khối lượng gạo xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh. Việt Nam tiếp tục vươn lên hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo vào năm 1996 với số lượng hơn 3 triệu tấn, vượt qua Mỹ và chỉ xếp sau Thái Lan, Ấn Độ. Kết quả này thực đáng ghi nhận vì vào năm này, Việt Nam phải đối đầu với một loạt các thiên tai như bão nhiệt đới, lũ lụt... Các năm tiếp theo, lượng gạo xuất khẩu vẫn tăng đều mà đỉnh cao là năm 1999 với 4,559 triệu tấn, thu về kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Đến năm 2000, do những biến động trên thị trường thế giới, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm xuống, chỉ còn 3,47 triệu tấn, kim ngạch thu về đạt 667 triệu USD. Năm 2001, kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều khó khăn nên dự đoán Việt Nam chỉ

xuất khẩu 3,470 triệu tấn. Số liệu về xuất khẩu gạo giai đoạn 1989-2001 được thể hiện cụ thể trong bảng sau:

Bảng 1.4. Kết quả xuất khẩu (1989-2001)

Năm Số lượng % thay đổi so với năm trước

Trị giá (USD/ MT) 310.249 275.390 229.857 405.132 335.651 420.861 538.838 868.417 891.342 1.005.484 1.007.847 667.000

6.990.345(**) Giá bình quân (USD/MT) 226,1 186,3 226,2 207,3 203,5 214,5 266,1 285,0 242,1 265,1 221,0 192,2 100 106 -462 938 -305 313 63 1022 635 111 766 -1089 226 1.372 1.478 1.016 1.954 1.649 1.962 2.025 3.047 3.682 3.793 4.559 3.470 3.700(*) 30.227

1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng

(*): Dự kiến; (**): Chưa kể số dự kiến xuất khẩu năm 2001 Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại Kim ngạch xuất khẩu gạo biến động theo các năm, phụ thuộc vào hai yếu tố giá cả và số lượng xuất khẩu. Năm 1999 là năm Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất cũng là năm số lượng gạo xuất lớn nhất, tuy giá gạo Việt Nam trên thị trường thế giới không cao (221 USD/MT).

25

Về thị trường, khách hàng thường xuyên của gạo Việt Nam phần lớn là các nước đang phát triển. Một số nước châu Âu mua gạo Việt Nam để chuyển sang các nước châu Phi dưới hình thức viện trợ nhân đạo. Các nước

còn lại nhập khẩu gạo Việt Nam với mục đích tiêu dùng trong nước. Qua nhiều năm, thị phần gạo Việt Nam đã tăng và có những cải thiện đáng kể.

Kể từ năm 1989, Việt Nam đã chuyển từ nước nhập khẩu sang xuất khẩu gạo, cải thiện đời sống của một bộ phận lớn dân cư, gia tăng sức mua xã hội, giảm bớt thâm hụt thương mại, là tiền đề chống lạm phát có kết quả, từ đó tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm sau này. Kết quả trong xuất khẩu gạo là một trong những thành quả nổi bật nhất về mặt kinh tế trong những năm cuối thế kỷ 20, là bước khởi đầu cho quá trình chuyển đổi, vững bước tiến lên CNH-HĐH, vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của nước ta. Thành tựu này đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lương thực, tạo cho nhân dân niềm tin vào sự lãnh đạo và đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, góp phần ổn định tình hình phức tạp và nhiều biến động trong nước.

Có được những thành quả nói trên là nhờ vào sự điều chỉnh và đề ra chính sách mới đúng đắn, sự năng động của nông dân cùng với những nỗ lực của các nhà xuất khẩu, các nhà xay xát, chế biến và cả những thuận lợi, may mắn do hoàn cảnh khách quan. Nhưng yếu tố chủ yếu nhất vẫn là cơ chế, chính sách đã được hoàn thiện trong nhiều năm và sẽ liên tục được phát huy trong những năm tới.

Nhìn chung trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu gạo đã có những đóng góp rất quan trọng vào công cuộc phát triển chung của nền kinh tế. Xuất khẩu gạo bước đầu có những thành công nhất định, chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng ta khi thực hiện chính sách mở cửa, đẩy mạnh tiến trình hoà nhập của Việt Nam trên thị trường thế giới. Xuất khẩu gạo đã mang lại hiệu quả kinh tế xã hội to lớn như đã phân tích là tạo nguồn thu ngoại tệ, kích thích sản xuất lúa phát triển, góp phần đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, tạo việc làm ổn định cho lao động trong khu vực nông nghiệp và mạng lưới lưu thông phân phối gạo rộng khắp cả nước, cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào cho các ngành lương thực, thực phẩm.

1.2.2.2. Những tồn tại trong xuất khẩu gạo của nước ta

Ngoài những thành công đáng khích lệ, xuất khẩu gạo Việt Nam còn tồn tại những yếu kém mà chúng ta cần xem xét, qua đó đề ra các biện pháp cần khắc phục. Cụ thể là:

26

- Sức cạnh tranh trên thị trường thế giới của gạo Việt Nam vẫn còn kém. Có nhiều nguyên nhân để giải thích song cần nhấn mạnh đến chất lượng gạo thấp (qua khâu sản xuất và chế biến), cơ sở hạ tầng giao thông

cần thiết theo yêu cầu đã cũ kỹ, lạc hậu. Đây là điểm yếu cần khắc phục ngay của gạo Việt Nam.

- Xuất khẩu gạo của Viêt Nam nhìn chung chưa ổn định. Vì thời gian Việt Nam tham gia xuất khẩu còn chưa lâu so với các nước khác nên không có được những bạn hàng truyền thống. Hơn nữa, chính sách bạn hàng của ta còn nhiều bất cập, khó giữ được lòng tin ở khách hàng. Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam có chất lượng gạo tốt hơn song về giá cả, gạo Việt Nam thường rẻ hơn dù trong thời gian gần đây đã có những dấu hiệu đáng mừng trong giá gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Chính vì thế, chúng ta nên tập trung chủ yếu vào một số thị trường nhất định như thị trường các nước đang phát triển để tìm kiếm nhanh chóng hợp đồng.

- Xuất khẩu gạo Việt Nam phần lớn phải tiến hành qua khâu trung gian, rất ít khi nhà xuất khẩu trực tiếp tham gia đấu thầu giành hợp đồng ở các nước nhập khẩu lớn nên chưa có được những hợp đồng quy mô lớn, giao hàng với giá cả ổn định, dài hạn mà chủ yếu là hợp đồng ngắn hạn, từng chuyến, theo mùa, giá cả bấp bênh và xác suất rủi ro khá cao.

- Hiện tượng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước do tranh mua, tranh bán dẫn đến đội giá mua lên cao, trình độ nắm bắt và xử lý thông tin của doanh nghiệp vẫn còn yếu nên dễ dẫn đến bị thương nhân nước ngoài ép giá.

27

Nói tóm lại, đi đôi với những thành tựu đạt được về xuất khẩu gạo chúng ta còn rất nhiều khó khăn và thách thức phải vượt qua. Điều đó đòi hỏi tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình này phải nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp khắc phục, đồng thời có những đổi mới thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM MARKETING-MIX

2.1. Các khái niệm cơ bản về Marketing

2.1.1.

Khái niệm chung về Marketing

Hiện nay trong các tác phẩm về Marketing trên thế giới, có đến trên 2.000 định nghĩa về Marketing. Các định nghĩa đó về thực chất không khác nhau và mỗi tác giả của các định nghĩa đều có quan điểm riêng của mình. Tuy nhiên, khi nghiên cứu vấn đề xuất khẩu gạo ở tầm vĩ mô, xin nêu ra một định nghĩa khá phù hợp với khái niệm và thuật ngữ của Marketing: “Marketing là tập hợp các phương thức (nghiên cứu thị trường, các chiến lược...) mà một cơ quan, tổ chức sử dụng để gây ảnh hưởng lên thái độ, hành vi của tập hợp người tiêu dùng đáng quan tâm theo chiều hướng thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu của cơ quan, tổ chức đó”.

Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, ngoài việc cân bằng cán cân thương mại,

những mục tiêu này bao gồm:

- Thứ nhất, sự ổn định vững chắc của kinh tế đất nước. - Thứ hai, sự phân bố thu nhập đồng đều giữa người sản xuất, nhà xuất

khẩu.

2.1.2. Khái niệm về Marketing-mix và các thành phần cơ bản của Marketing-mix

Theo Kotler, Marketing-mix là tập hợp những công cụ Marketing được sử dụng để theo đuổi những mục tiêu Marketing của mình trên thị trường mục tiêu. Marketing-mix bao gồm bốn yếu tố chính: chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Meredith G.G (1991), trang 9 có nói rõ về 4 yếu tố này như sau:

Bảng 2.1. Các thành phần của Marketing-mix

Sản phẩm

Phân phối

Xúc tiến

Giá cả

Chủng loại Vị trí các đại lý

Quảng cáo

Giá cơ sở

Chất lượng

Loại đại lý

Tiêu thụ cá nhân

Điều kiện tín dụng

Nhãn hiệu

Kho chứa hàng

Bán trực tiếp

Điều kiện chuyển giao

Xúc tiến bán hàng

Bảo hành

Bao bì

Sử dụng bởi nhà bán buôn

Sử dụng bởi nhà

Công cộng

Chiết giá và bớt giá

Dịch vụ

bán lẻ

28

Giao hàng

Đại lý độc quyền Quan hệ với công chúng Chiết khấu

* Chiến lược sản phẩm

Chiến lược sản phẩm luôn được coi là quan trọng nhất trong chiến lược Marketing. Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, chiến lược này bao gồm các nhiệm vụ như phát triển sản xuất, kiểm tra chất lượng, định vị sản phẩm nhằm đáp ứng hai mục tiêu chính: thứ nhất, mục tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng số lượng sản phẩm bán ra; thứ hai, mục tiêu cân bằng hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài và sự ổn định của thị trường trong nước nhằm đảm bảo an ninh lương thực.

* Chiến lược giá cả

Giá là một yếu tố rất quan trọng trong Marketing-mix. Chính sách giá phải đảm bảo thu hút các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào thương mại hoá sản phẩm nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu.

* Chiến lược phân phối

Là chiến lược bao gồm các vấn đề như thiết lập các kiểu kênh phân phối, lựa chọn trung gian, thiết lập mối liên hệ trong kênh và toàn bộ mạng lưới phân phối, các vấn đề dự trữ, kho bãi, phương thức vận chuyển... Hiểu theo nghĩa rộng, phân phối có nghĩa là tập hợp tất cả các phương thức và hoạt động chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán đến người mua. Chiến lược này chú trọng đến các mục tiêu: + Mở rộng thị trường tiềm năng. + Tăng cường chất lượng các kênh thương mại. + Giảm thiểu chi phí trong phân phối. * Chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh

Là chiến lược bao gồm mọi hoạt động nhằm truyền bá những thông tin về sản phẩm như quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt động khuyến mại khác... tới người tiêu dùng. Chiến lược này nhằm đẩy mạnh các luồng thông tin hai chiều giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.

Như vậy, Marketing-mix là loại Marketing phối hợp hài hoà các yếu tố cơ bản của nó sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của môi trường kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận tối ưu.

29

Về nội dung có thể đưa ra mô hình sau:

MM

P2

P4 P3

P1

Đỉnh chóp của Marketing-mix toả ra 4 trục chính xuống các điểm của 4P là MM-P1, MM-P2, MM-P3, MM-P4. Như vậy, đỉnh chóp MM đã hình thành sự phối hợp giữa các P. Do đó, tại bất kỳ điểm P nào cũng luôn luôn có sự liên kết với các P khác. Mối liên kết giữa các P là mối liên hệ qua lại hai chiều.

Nội dung phối hợp hài hoà 4P cần phải thực hiện đồng bộ theo một kế hoạch thống nhất trong một thời gian nhất định nhằm đạt được hiệu quả tối ưu. Muốn có được sự phối hợp thành công phải hiểu rõ vai trò của từng yếu tố P, vừa phát hiện kịp thời mối liên hệ, tương tác giữa chúng.

2.1.3. Vai trò của Marketing-mix trong kinh doanh

Theo định nghĩa về Marketing-mix thì đó là tập hợp những công cụ được sử dụng để tạo sự thích ứng giữa sản phẩm và thị trường mục tiêu. Như vậy, mục đích của Marketing-mix là đảm bảo rằng sản phẩm có thể đáp ứng được thị trường mục tiêu. Theo Kotler, 4P nằm dưới sự kiểm soát của người bán (nhà xuất khẩu) và được sử dụng để tác động đến người mua. Theo quan điểm của người mua (nhà nhập khẩu) thì mỗi công cụ của Marketing đều có chức năng cung ứng một ích lợi cho khách hàng. Trong xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng, nếu đáp ứng được nhu cầu của khách hàng một cách tinh tế, thuận tiện và thông tin hữu hiệu thì sẽ giành được thắng lợi. Nói một cách khác, để tác động trực tiếp và có hiệu quả tới khách hàng thì các thành phần của Marketing-mix phải được sử dụng một cách tổng hợp.

30

Marketing-mix được thiết kế theo những thủ tục sau: sản phẩm được thu mua để đáp ứng nhu cầu của khách hàng (sản phẩm); địa điểm mà khách hàng sẽ tìm chúng (địa điểm) và khách hàng sẽ biết nó là loại sản phẩm gì, nó hoạt động như thế nào (xúc tiến bán). Sau đó mức giá sẽ được ước lượng với sự cân nhắc đến tổng lượng cung cấp cho khách hàng. Quyết định được đưa ra liên quan đến cả 4 yếu tố trong Marketing-mix, bởi vì các yếu tố này

đều có ảnh hưởng đến quá trình Marketing và đều có những đóng góp cho việc bán hàng.

2.2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix

2.2.1. Sản phẩm

Trong 4 yếu tố của Marketing-mix, sản phẩm đóng vai trò quan trọng nhất. Theo đề tài, sản phẩm được hiểu là các loại gạo xuất khẩu, phân tích theo các bước cơ bản: quá trình sản xuất, chất lượng và chủng loại...

2.2.1.1. Sản xuất lúa gạo - bước khởi đầu cho xuất khẩu

Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp lương thực trong nước và tạo ra lượng gạo dư thừa dành cho xuất khẩu. Sản xuất lúa gạo phụ thuộc vào các yếu tố chính như diện tích đất trồng, khí hậu, nhân công, phân bón...

Là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống và làm việc bằng nghề nông, Việt Nam coi sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất chính. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, với những thay đổi trong đường lối chính sách, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng. Từ chỗ thiếu lương thực phải nhập khẩu thường xuyên, sau năm 1989, Việt Nam đã tự túc được lương thực và có khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng, đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới. Sản lượng lúa gạo tăng khá ổn định trên cả 3 mặt: diện tích, năng suất, chất lượng và hiệu quả.

- Thứ nhất, về diện tích đất trồng, Việt Nam có gần 7 triệu ha đất dành cho trồng trọt, chiếm 21% tổng diện tích của cả nước. Hai vựa lúa chính là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã chiếm tới 5,6 triệu ha, trong đó đất trồng trọt chiếm diện tích lớn. Cụ thể đồng bằng sông Hồng năm 1990 chiếm 17,5%, đến năm 1998 có giảm nhưng đồng bằng sông Cửu Long tăng từ 42% lên 51,8%. Nhìn chung diện tích đất trồng lúa cả nước tăng từ 5,89 triệu ha năm 1989 lên 7,33 triệu ha năm 1998, trung bình tăng 2,33%/năm.

31

- Thứ hai, về năng suất lúa cũng có những thay đổi đáng kể. Từ mức 26,6 tạ/ha năm 1976-1980, năng suất lúa bình quân trên cả nước đã lên tới 32,5 tạ/ha năm 1981-1988; 34,8 tạ/ha năm 1989-1993; 38 tạ/ha năm 1994-1997 và 40 tạ/ha năm 2000, đạt nhịp độ tăng bình quân 4-5%/năm. Như vậy, khoảng 42-44% sản lượng thóc tăng do tăng diện tích, còn lại do tăng năng suất. Điều đó có được nhờ ứng dụng nhiều tiến bộ KHKT, nhất là những tiến bộ về giống lúa có năng suất và chất lượng cao như CR 203, OM 80-81, IR

58, IR 64 và các giống lúa lai Trung Quốc. Từ đó đã có những thay đổi trong cơ cấu mùa vụ, tránh né được nhiều thiệt hại do thời tiết gây ra.

BiÓu ®å 2.1: S¶n l−îng lóa qua tõng n¨m

S¶n l−îng

) n Ê t ( g n î − l n ¶ S

35000000 30000000 25000000 20000000 15000000 10000000 5000000 0

1995

1996

1997

1999

2000

2001

1998 N¨m

- Thứ ba, về sản lượng lúa. Do năng suất và diện tích sản xuất tăng và tăng với tốc độ khá cao nên sản lượng lúa của cả nước cũng tăng. Giai đoạn 1995-2000 sản lượng lương thực hàng năm của nước ta đạt trung bình 28,7 triệu tấn, cao nhất so với những năm trước. Cụ thể năm 1995 đạt 24,9 triệu tấn, năm 1996 đạt 26,4 triệu tấn, năm 1997 đạt 27,6 triệu tấn, năm 1998 đạt 29,1 triệu tấn, năm 1999 đạt 31,4 triệu tấn, đặc biệt năm 2000 sản lượng lúa lên tới 32,5 triệu tấn. Dự kiến năm 2001 con số này sẽ giảm nhẹ xuống 31,4 triệu tấn. Mặc dù tốc độ tăng dân số ở nước ta còn cao nhưng tốc độ tăng trưởng của sản lượng lúa tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số nên lương thực bình quân đầu người cũng tăng qua các năm.

Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ thương mại Nhìn chung, tình hình phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam trong những năm qua có những dấu hiệu tích cực với những thành tích đáng kể. Có được thành công đó là do thay đổi kịp thời và đúng đắn trong cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế “khoán 10” năm 1988. Bên cạnh đó, những tiến bộ trong các khâu cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và nghiên cứu sinh học cải tạo giống lúa đã góp phần không nhỏ vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, tăng diện tích đất gieo trồng, thâm canh tăng năng suất lúa...

32

Tuy nhiên, dù đã có sự tiến bộ vượt bậc so với thời kỳ trước, sản xuất lúa gạo ở nước ta vẫn còn biểu hiện những hạn chế khó tránh khỏi. Về mặt kỹ thuật, dù đã áp dụng công nghệ mới nhưng nhìn chung vẫn còn lạc hậu, phải sử dụng lao động thủ công trên đồng ruộng. Năng suất lao động, chất lượng sản phẩm tuy có sự cải thiện rõ nét nhưng vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta thường chú trọng đến việc tạo ra số lượng gạo lớn nhằm đảm bảo an ninh lương thực trong nước và xuất khẩu song lại không quan tâm nhiều đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm

để tạo sức cạnh tranh, nâng cao giá của mặt hàng gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế.

Trong thời gian tới, sản xuất lúa gạo sẽ tập trung thực hiện ba mục tiêu: đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, thoả mãn nhu cầu lương thực cho tiêu dùng trong bất cứ tình huống nào; đảm bảo đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng khối lượng xuất khẩu với hiệu quả cao.

2.2.1.2. Chất lượng gạo xuất khẩu

* Chất lượng

Tuy trong những năm gần đây Việt Nam đạt vị trí cao về số lượng gạo xuất khẩu nhưng về chất lượng thì có nhiều yếu kém. Chất lượng của gạo nói chung phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên và tác động của con người như đất đai, khí hậu, nước tưới, phân bón, giống lúa, chế biến, vận chuyển, bảo quản... mà quan trọng nhất là giống lúa, các phương pháp sản xuất và các khâu sau thu hoạch.

- Về giống lúa: từ nhiều năm qua, Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo và áp dụng nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng tốt và có khả năng chống chịu giỏi với tình hình thời tiết, thiên tai, sâu bệnh. Tuy nhiên, các giống lúa làm hàng xuất khẩu đòi hỏi những yêu cầu cao hơn các loại khác. Ví dụ như đồng bằng sông Cửu Long - chiếc nôi sản xuất gạo của nước ta - có tới 70 giống lúa khác nhau thì chỉ có 5 giống lúa có thể làm hàng xuất khẩu được là IR 9729, IR 64, IR 59606, OM 132, và OM 997-6. Tương tự như vậy, ở miền Bắc, lượng giống lúa cũng dừng lại ở con số 5 gồm C70, C71, CR 203, Q5, IR 1832 là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, trên tổng số lượng giống lúa gieo trồng khá phong phú. Qua đó cho thấy, giống lúa kém chất lượng là một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của gạo xuất khẩu Việt Nam. So sánh với các quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới như Thái Lan, Ấn Độ thì thấy được rằng họ có những giống lúa có thể cho gạo có chất lượng cao hơn nhiều. Điển hình là Thái Lan, cường quốc hàng đầu về xuất khẩu gạo, với giống lúa Khaodaumali chất lượng cao, với sản lượng xuất một năm là 1,2 triệu tấn. Ấn Độ cũng rất tự hào với gạo Basmati, một loại gạo thơm đặc sản, đang cạnh tranh gay gắt với hàng của Thái Lan và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của nước này.

33

- Về phương pháp sản xuất và các khâu sau thu hoạch, khâu đóng vai trò khá quan trọng, quyết định tới chất lượng gạo xuất khẩu cũng còn nhiều bất cập. Dù đã áp dụng các phương pháp mới vào trong sản xuất nhưng không toàn bộ nên rất dễ ảnh hưởng đến chất lượng khi thu hoạch. Sau khi gặt hái, hạt thóc phải được xay xát, chế biến, bảo quản tốt nhằm làm tăng giá trị. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngành công nghiệp xay xát chế biến lúa gạo ở nước

ta còn nhỏ bé và thường áp dụng những công nghệ lạc hậu. Cụ thể, công việc ở một số khâu được tiến hành như sau:

Phơi sấy: giai đoạn này phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống kho chứa và cách thức bảo quản, nhất là đối với một nước có khí hậu nhiệt đới như ở Việt Nam. Kỹ thuật phơi nói chung thường rất lạc hậu, nông dân thường làm theo cách thủ công. ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi cung cấp tới 90% lượng gạo xuất khẩu thì cũng phải trên 90% phơi thóc trên đường giao thông, bờ kênh rạch, ngay trên ruộng và phơi qua đêm. Cách phơi này rất bị động, lại gây tình trạng lẫn lộn, lẫn tạp và nhất là hạt thóc không khô đều từ ngoài vào trong nên khi xay xát tỷ lệ gạo gãy, gạo tấm cao làm giảm giá trị hạt gạo. Hiện nay trong nước đã có nhiều loại máy sấy có chất lượng tốt, song vì chi phí cao (cả đầu tư ban đầu cũng như năng lượng cho quá trình sấy), thời gian sử dụng lại ngắn, chỉ phù hợp với điều kiện sản xuất hàng hoá lớn nên chưa phát triển.

Bảo quản: thóc sau khi phơi khô phải được bảo quản nơi thoáng mát, trong những bao bì sạch, có khả năng hạn chế ẩm, mốc, sâu mọt. Nông dân thường bảo quản tại nhà. Ở đồng bằng sông Hồng, nông dân thường sử dụng các kho không có hệ thống thông hơi và các thiết bị bảo vệ chống côn trùng và chuột. Hơn nữa, khí hậu ở khu vực này rất khắc nghiệt với nhiệt độ trung bình là 26-280C và lên tới 36-370C vào mùa hè; độ ẩm là 80%, có lúc tới 100% nên khó có thể bảo quản tốt lúa gạo xuất khẩu.

Các doanh nghiệp thường có kho lớn hơn. Tuy nhiên, mạng lưới kho từ lâu năm, một số không phù hợp, chất lượng kho kém, thiếu phương tiện bốc dỡ và hầu hết vẫn dùng lao động thủ công.

Xay xát, tái chế: công nghiệp xay xát đóng vai trò rất quan trọng đối với chất lượng gạo xuất khẩu. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay có hơn 300 cơ sở xay xát quy mô vừa và 6.000 cơ sở quy mô nhỏ có thể xử lý 15 triệu tấn gạo mỗi năm. Phần lớn các cơ sở này sử dụng máy xát do các doanh nghiệp nhà nước cung cấp, một số khác thì nhập khẩu từ nước ngoài. Tỷ lệ thu hồi gạo ở các cơ sở xay xát tư nhân chỉ đạt 60-62% trong đó gạo nguyên 42-45%, tấm 18-20%. Như vậy, khâu xay xát ở khu vực này nghiễm nhiên làm mất đi trên dưới 10% giá trị do chất lượng gạo giảm. Chỉ các nhà máy thuộc Tổng công ty lương thực và công ty lương thực ở các tỉnh được trang bị máy tốt, các công đoạn được thực hiện hoàn chỉnh từ đầu đến cuối (loại bỏ tạp trước khi xay, bóc vỏ trấu, xát trắng, đánh bóng gạo, phân loại gạo, tách màu và đóng bao) nên đạt tỷ lệ thu hồi gạo tới 75-76% (gạo nguyên 52-55%).

34

Nhìn chung, công đoạn sau thu hoạch ở Việt Nam vẫn còn những yếu kém. Theo những ghi nhận từ cuộc điều tra của Viện nghiên cứu sau thu hoạch, những khu vực mục tiêu của đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng

sông Hồng và miền Trung thì tỷ lệ thất thoát của gạo là từ 13% đến 16%. Đây là một tỷ lệ cao so với trung bình của thế giới (10%). Do đó thực tiễn đòi hỏi chúng ta cần nâng cao hơn nữa các phương pháp xử lý gạo sau khi thu hoạch qua tất cả các công đoạn như trang bị, làm mới công nghệ, cung cấp các thiết bị hiện đại... Như vậy mới có thể giảm tỷ lệ thất thoát, tăng chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.

* Tỷ lệ tấm và các chỉ tiêu khác

Chất lượng gạo xuất khẩu phụ thuộc vào các tiêu thức khác nhau để đánh giá. Trên thương trường gạo quốc tế, gạo được phân ra 5 loại thị hiếu, mỗi loại có chất lượng khác nhau dựa trên các chỉ tiêu: tỷ lệ tấm, kích thước hạt, độ ẩm, mức độ đánh bóng, tỷ lệ amylaza, tỷ lệ protein, nhiệt hồ hoá, mùi thơm... và ứng với mỗi loại chất lượng sẽ có giá mua khác nhau. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là nước mới xuất khẩu gạo từ 1989 thì bước đầu các doanh nghiệp chỉ quan tâm tới tỷ lệ tấm, kích thước hạt và màu gạo. Đối với chỉ tiêu tỷ lệ tấm, nếu gạo đạt tỷ lệ dưới 10% được coi là chất lượng cao, 10-15% là chất lượng trung bình và trên 15% là chất lượng thấp.

Bảng 2.2. Chất lượng gạo xuất khẩu (1989-2001) (% so với tổng số lượng xuất khẩu năm đó)

Cấp trung bình

Cấp thấp (25-30%)

Năm/Tỷ lệ % tấm

Cấp cao (5-10%)

và loại khác

(15%)

1989-1995 (*)

41,20

14,15

44,65

1996

45,50

11,00

43,50

1997

41,00

9,00

50,00

1998

53,00

11,00

36,00

1999

34,78

23,34

41,88

2000

42,68

26,24

31,08

2001 (đến 31/8)

39,00

13,20

47,80

Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu-Bộ Thương mại

35

Năm 1989 là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo, chủ yếu là gạo cấp thấp (97,42%) còn gạo cấp trung bình và gạo cấp cao chiếm tỷ lệ ít. Đó là do những đầu tư về mặt kỹ thuật và chế biến của chúng ta có nhiều hạn chế dẫn đến tỷ lệ tấm là 35% trong gạo, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khối lượng

xuất khẩu, gây ra những thiệt thòi lớn. Xuất khẩu ở thời kỳ này do kém về chất lượng nên sức cạnh tranh kém dẫn đến việc chúng ta phải bán cho các nước có truyền thống xuất khẩu gạo để chế biến lại và tái xuất, chịu chi phí trung gian cao. Qua nhiều năm, khi sản xuất được cải thiện, chất lượng gạo đã tiến bộ do có nhiều giống mới và công tác chế biến, bảo quản tốt, Việt Nam đã có nhiều loại gạo tốt đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường thế giới.

36

Xét về tỷ lệ tấm, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng tỷ lệ gạo cấp cao và trung bình, đồng thời giảm tỷ lệ gạo cấp thấp. Tuy nhiên mức tăng không ổn định. Năm 1998, tỷ lệ gạo cấp cao là 53% tăng so với 41,2% trung bình 7 năm (1989-1995). Trong năm 1999, gạo 5-10% tấm lại giảm xuống còn 34,78%, thấp nhất so với các năm trước. Dự báo năm 2001 tỷ lệ gạo theo thứ tự cấp cao, trung bình, thấp lần lượt là 39%, 13,2%, và 47,8% - một kết quả không mấy khả quan cho việc đánh giá chất lượng gạo xuất khẩu dựa theo tỷ lệ tấm. Tình hình này cũng không có nghĩa chất lượng gạo Việt Nam nói chung bị tụt lùi mà có thể là sự ứng xử hợp lý trong chiến thuật kinh doanh xuất khẩu của ta căn cứ vào nhu cầu giá cả và diễn biến thực tế của thị trường gạo thế giới. Năm 2001 là năm kinh tế toàn cầu có nhiều khó khăn, đặc biệt cả lượng gạo xuất-nhập đều có nguy cơ giảm so với năm 2000. Trong điều kiện giá gạo tăng, nhiều nước nghèo chỉ có thể tiêu dùng những loại gạo có chất lượng thấp do sức mua hạn chế, đẩy giá gạo loại này tăng nhiều so với giá gạo chất lượng cao. Giảm tỷ lệ gạo tấm 5- 10% có thể là một ứng xử linh hoạt trong việc hoạch định chính sách xuất khẩu của Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đặc biệt khi chúng ta mở rộng thị trường sang các nước châu Phi và châu Á - những nước có nhiều nhu cầu về gạo phẩm cấp thấp và trung bình. Bên cạnh đó, để phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường thế giới, Việt Nam vẫn chủ trương tăng tỷ trọng gạo chất lượng cao nhằm hướng ra thị trường châu Âu, Nhật và Bắc Mỹ. Mặc dù những năm gần đây gạo có chất lượng cao ngày càng chiếm tỷ trọng lớn - một tiến bộ nói chung của ngành sản xuất và xuất khẩu gạo - nhưng vẫn còn những nhược điểm khác như độ trắng không đồng đều, lẫn thóc và tạp chất, gạo vụ hè thu thường có độ ẩm cao, bạc bụng, vàng hạt, tỷ lệ gãy cao... Khi đánh giá chất lượng gạo xuất khẩu của nước ta, ngoài tỷ lệ tấm cũng cần chú trọng đến các tiêu thức khác thì mới có thể có những kết quả phân tích chính xác về gạo xuất khẩu được.

* Kiểm tra

Một vấn đề nữa cần quan tâm là việc kiểm tra chất lượng gạo Việt Nam trước khi xuất khẩu. Cơ quan quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực kiểm tra chất lượng là Vinacontrol, cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra tới 95% lượng gạo xuất khẩu.

Tiến trình kiểm tra chất lượng bao gồm các bước sau:

- Kiểm tra chất lượng kho chứa gạo - Kiểm tra chất lượng đóng bao - Kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu

Theo kết quả nhận định của Vinacontrol, trong xuất khẩu gạo tồn tại hai vấn đề chính: do chất lượng yếu kém của các kho gạo dẫn đến tăng tỷ lệ gạo ẩm mốc trong mùa mưa, các kho chứa phải di chuyển đến nơi khác gây khó khăn cho việc vận chuyển gạo xuất khẩu.Việc khắc phục những nhược điểm về chất lượng gạo là một vấn đề không đơn giản. Tuy nhiên, chúng ta phải cố gắng nỗ lực tìm ra mấu chốt và giải quyết hợp lý, nâng cao chất lượng gạo, từ đó tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.

2.2.1.3. Chủng loại gạo xuất khẩu

Trên thị trường thế giới, gạo thường được chia làm 6 nhóm như sau: • Nhóm gạo hạt dài chất lượng cao chủ yếu xuất khẩu từ Mỹ. Loại gạo này được ưa chuộng ở thị trường châu Âu, Trung Đông, Hồng Kông, Singapo và chiếm 25% thị phần thế giới.

• Nhóm gạo hạt dài chất lượng trung bình. Loại gạo này được dùng chủ yếu trong thương mại quốc tế mà khách hàng chính là các nước châu Á và châu Phi, những nước cần nhập khẩu gạo để giải quyết vấn đề thiếu hụt về gạo.

• Nhóm gạo hạt ngắn và trung bình. Loại gạo này được xuất khẩu chủ yếu sang các nước nghèo như Băng-la-đét, Sri-lan-ca, Tây Phi, Ấn Độ…

• Nhóm gạo sấy chia làm hai loại: - Gạo sấy có màu, chất lượng kém được tiêu dùng chủ yếu trong các nước

có tổng thu nhập quốc dân thấp.

- Gạo sấy trắng, chất lượng tốt. Được tiêu dùng ở thị trường các nước phát

triển như Mỹ, châu Âu và Trung Đông.

37

• Nhóm gạo đặc sản xuất khẩu của các nước châu Á như Thái Lan với gạo Jasmin; Việt Nam với gạo Nàng Hương, Chợ Đào; Ấn Độ với gạo Basmati. Gạo đặc sản rất được ưa chuộng trên thế giới, nhất là các nước

châu Âu, đồng thời cũng được tiêu thụ nhiều tại các thành phố giàu có ở châu Á như Băng-cốc, Hồng-kông, Ma-ni-la...

• Nhóm gạo nếp. Loại gạo này là gạo tiêu thụ hàng ngày trong khu vực

Đông Bắc Thái Lan và một vài vùng ở Lào, Cam-pu-chia.

Ở Việt Nam hiện nay, gạo xuất khẩu chủ yếu là gạo tẻ hạt dài, chất lượng trung bình được sản xuất hầu hết từ đồng bằng sông Cửu Long, gạo hạt ngắn và trung bình và gạo đặc sản. Trong cơ cấu xuất khẩu đó, chúng ta vẫn chưa chú trọng tới gạo đặc sản truyền thống. Hiện nay trên thế giới, ở những nước phát triển, loại gạo này rất được ưa chuộng và trong tương lai, nhu cầu về loại gạo này sẽ ngày càng tăng, đem lại nguồn thu lớn cho các nước xuất khẩu.

Việt Nam xuất khẩu gạo đặc sản từ lâu nhưng không thường xuyên và với số lượng nhỏ nên không đem lại hiệu quả lớn, không đủ sức cạnh tranh với các nước khác, mặc dù chất lượng tương đương. Chúng ta mới chỉ bước đầu xuất khẩu gạo Tám Thơm ở miền Bắc, gạo Nàng Hương và Chợ Đào ở miền Nam. Từ năm 1992, Việt Nam đã trồng gạo “Japonica” của Nhật Bản và xuất khẩu sang nước này. Đó cũng là thành công của Việt Nam khi đã xâm nhập được vào thị trường Nhật Bản, một thị trường vốn nổi tiếng với những người tiêu dùng khó tính.

2.2.2. Giá cả

Trong Marketing-mix, giá cả là yếu tố duy nhất liên quan trực tiếp đến doanh số và lợi nhuận. Giá được biểu thị bằng một lượng tiền nhất định và là nội dung phức tạp đồng thời quan trọng nhất của hoạt động kinh doanh.

Đối với xuất khẩu gạo, chính sách giá cả phải hợp lý để có thể thu hút các thành phần kinh tế khác nhau cùng tham gia vào kinh doanh, làm tăng kim ngạch, đem lại nguồn thu lớn cho đất nước.

38

Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Nhà nước Việt Nam can thiệp nhiều vào giá gạo trên thị trường nội địa. Tuy nhiên giá xuất khẩu lại được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường thế giới. Nhìn chung giá xuất khẩu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng cũng có tác động ngược lại thị trường thể hiện trên 3 khía cạnh: ảnh hưởng của giá tới số lượng bán, tới lợi nhuận của các nhà xuất khẩu và thu nhập của người nông dân và ảnh hưởng tới nền kinh tế nói chung. Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết giá cả trên cơ sở xem xét các yếu tố thanh toán, cạnh tranh và sự phù hợp với các chiến lược khác trong Marketing-mix.

Để phân tích giá xuất khẩu gạo theo quan điểm của Marketing-mix, chúng ta cần xem xét giá gạo trên thị trường thế giới và giá bán trên thị trường trong nước, các nhân tố ảnh hưởng đến giá gạo xuất khẩu… để từ đó có những nhận định về giá xuất khẩu của gạo Việt Nam.

2.2.2.1. Giá gạo trên thị trường thế giới • Giá gạo quốc tế

Trên thế giới, tuỳ từng điều kiện cụ thể của mỗi nước như điều kiện tự nhiên, cách thức sản xuất, kỹ thuật ứng dụng… của mỗi nước khác nhau mà có những chủng loại gạo khác nhau. Mỗi loại gạo như vậy sẽ tương ứng với một loại giá, tạo nên thị trường thế giới đa dạng, phong phú về giá cả và chất lượng. Cũng giống như các hàng hoá khác khi tung ra thị trường quốc tế, giá gạo phải thoả mãn ba điều kiện căn bản: thứ nhất, phải là giá của những hợp đồng thương mại lớn thông thường, trong đó các bên mua bán phải được tự do ký kết hợp đồng, không bị ràng buộc bởi những điều kiện khác; thứ hai, phải là giá thanh toán bằng đồng tiền tự do chuyển đổi mà chủ yếu vẫn là đô-la Mỹ (giá gạo quốc tế thường tính bằng đồng tiền này); thứ ba, phải là giá ở trung tâm giao dịch quốc tế quan trọng nhất. Như đã đề cập ở chương I, từ trước đến nay, Thái Lan vẫn là nước dẫn đầu về xuất khẩu gạo. Chính vì vậy, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan (FOB Băng-cốc) được coi như giá chuẩn mực của giá quốc tế, đáp ứng được ba điều kiện trên và phản ánh thực chất quan hệ cung cầu và quy luật vận động của giá cả trên thị trường gạo thế giới. • Đặc điểm của giá gạo quốc tế trong những năm gần đây - Giá tăng nhưng không ổn định

39

Trong thời gian qua, nhìn chung giá gạo quốc tế tăng nhưng không ổn định. Tuy nhiên những năm gần đây nhất lại có xu hướng giảm xuống. Cụ thể là:

BiÓu ®å 2.2: Gi¸ g¹o b×nh qu©n trªn thÕ giíi trong nh÷ng n¨m qua

400

345

340

329

321

350

289

300

268

) n Ê t /

235

230

225

250

213

D S U

Gi¸ g¹o

200

150

100

( o ¹ g a Ý G

50

0

1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 N¨m

Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại

Qua biểu đồ trên cho thấy giá gạo xuất khẩu bình quân của thế giới cao nhất vào năm 1996 (345 USD/tấn) và bắt đầu giảm từ năm 1997. Nguyên nhân chủ yếu là mùa hè năm này, Thái Lan phá giá nội tệ và đã làm giá gạo thế giới giảm mạnh. Châu Á là khu vực sản xuất, tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới nên khi cuộc khủng hoảng tiền tệ bao trùm các nước này làm tăng áp lực đối với giá cả và làm gía gạo tiếp tục giảm trong suốt hai năm tiếp theo 1998, 1999.

40

Năm 2000 là một năm sóng gió trên thị trường gạo thế giới, với nhu cầu đặc biệt thấp. Giá gạo ở tất cả các nước xuất khẩu đều giảm do nhu cầu gạo của các nước nhập khẩu lớn như In-đô-nê-xi-a, Băng-la-đét, Bra-xin… giảm. Sản lượng gạo của các nước này đã đạt mức cao sau hai năm mất mùa vì biến động thời tiết và do những cố gắng hỗ trợ phát triển ngành gạo của chính phủ các nước đó. Năm 2000 được đánh dấu bởi thiên tai (lũ lụt, bão nhiệt đới…) diễn ra liên tiếp ở các nước sản xuất gạo lớn như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ và Thái Lan. Mặc dù thiên tai gây ảnh hưởng tới sản lượng và việc vận tải gạo, song chỉ ảnh hưởng cục bộ và ngắn hạn tới giá gạo. Sản lượng vẫn bội thu song giá gạo nhìn chung giảm, tới mức thấp kỷ lục kể từ 7 năm nay.

9 tháng đầu năm 2001, thị trường thế giới tiến triển khá phức tạp. Giá gạo tăng, giảm không ổn định, phụ thuộc nhiều vào cầu của các nước nhập khẩu với mức giá trung bình dự tính cả năm 2001 là 223 USD/tấn. Những tháng đầu năm, giá gạo ở các nước xuất khẩu chính như Việt Nam, Thái Lan đều tăng. Tuy nhiên những tháng sau giá gạo giảm dần xuống do lượng cầu của khách hàng thấp.

Theo dự báo của Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), giá gạo trong những năm tới sẽ tăng. Cụ thể là giá gạo dựa trên cơ sở gạo trắng của Thái Lan tăng đều trong hai năm 2001-2002 ở mức 240 USD/tấn vào cuối năm 2001, tăng lên 280 USD/tấn vào năm 2002 và 290 USD/tấn vào quý I / 2003. - Sự thay đổi về chỉ số giá gạo chất lượng cao và thấp

Thông thường, các loại gạo trên thế giới thường được chia làm hai nhóm: nhóm chất lượng cao và nhóm chất lượng thấp, căn cứ vào các chỉ tiêu về tỷ lệ tấm, kích thước hạt, độ ẩm, mức độ đánh bóng, tỷ lệ protein… Theo tổng hợp của FAO, chỉ số giá chất lượng cao và thấp thay đổi khác nhau. Trước năm 1995, giá cả nhóm chất lượng cao thường ổn định và ít biến động hơn so với nhóm chất lượng thấp. Khi giá có xu hướng giảm, sự biến động thường tập trung vào nhóm chất lượng thấp trong khi nhóm chất lượng cao sẽ tăng giá nhanh hơn trong trường hợp giá có xu hướng tăng. Điển hình năm 1993, khi giá không tăng (chỉ số giá chung các nhóm gạo Ip = 1) thì chỉ số giá gạo chất lượng cao IpCLC=1,02 và chỉ số giá gạo chất lượng thấp IpCLT=0,92. Năm 1994, Ip=1,14 thì IpCLC=1,18 và IpCLT=1,04. Sau năm 1995, giá cả của cả hai nhóm gạo có sự thay đổi một cách tương đồng, có nghĩa là giá nhóm gạo chất lượng cao biến động không còn ở mức cao hơn nhóm gạo chất lượng thấp mà thậm chí còn ngược lại. Ví dụ năm 1995, Ip=1,29 thì IpCLC=1,24 và IpCLT=1,46.

Nhìn chung, qua phân tích chỉ số của FAO, có thể thấy rằng giá xuất khẩu của nhóm gạo chất lượng cao vẫn thường xuyên biến động sát với chỉ số giá chung trên thị trường thế giới, là căn cứ phản ánh tình hình biến động giá cả. Các nhà xuất khẩu thường phản ứng với việc giá gạo trên thị trường tăng mạnh bằng cách tăng tỷ trọng nhóm gạo chất lượng thấp và giảm tỷ trọng nhóm gạo chất lượng cao nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Sự chênh lệch giá giữa các loại gạo

41

Sự đa dạng phong phú về chủng loại gạo thường dẫn đến những mức giá khác nhau. Tuy nhiên, đôi khi có những mức chênh lệch rõ rệt giữa các

loại gạo có cùng thời gian, cùng điều kiện giao hàng ở cùng trung tâm giao dịch dù mức chênh lệch này không hoàn toàn giống nhau ở những thời điểm khác nhau. Ví dụ như mức giá chênh lệch giữa các khách hàng khác nhau. Khách hàng lớn, làm ăn lâu dài thường được hưởng mức giá ưu đãi, thấp hơn so với khách hàng nhỏ, giao dịch lần đầu. Nhà xuất khẩu cũng có thể ưu tiên về giá và các điều kiện khác như cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu với khối lượng lớn, theo hợp đồng dài hạn.

Bên cạnh đó, gạo cùng chủng loại cũng có thể có giá khác nhau vì được xuất khẩu từ các nước khác nhau. Nhìn chung, do phụ thuộc vào chất lượng và những yếu tố khác chi phối, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan thấp hơn của Mỹ nhưng lại thường cao hơn các nước khác như Việt Nam, Ấn Độ…

Giá gạo thơm đặc sản thường cao hơn nhiều so với giá gạo đại trà. So với giá gạo đại trà có phẩm cấp trung bình (20% tấm) thì giá gạo thơm đặc sản xuất khẩu thường gấp tới gần 3 lần do chất lượng hơn hẳn. Hơn nữa, giá gạo thơm đặc sản của các nước cũng khác nhau. Ví dụ như gạo thơm đặc sản của Thái Lan thường được khách hàng mến mộ hơn so với gạo cùng loại của Ấn Độ, Pakistan

2.2.2.2. Chi phí sản xuất và giá lúa trong nước • Chi phí sản xuất

Nhìn chung, chi phí sản xuất gạo ở Việt Nam không cao, đặc biệt khi so sánh với giá thành của Thái Lan, khi phân tích điều kiện sản xuất, đất đai, tỷ lệ diện tích được tưới tiêu, năng suất và giá các yếu tố đầu vào, cho thấy ở Việt Nam rẻ hơn so với Thái Lan

Bảng 2.3. So sánh chi phí sản xuất gạo ở Việt Nam và Thái Lan

STT Chỉ tiêu Việt Nam Thái Lan

1 Xăng (lít) 2 Dầu D.O (lít) 3 Điện (kW/h) 0,35 USD 0,26 USD 0,064 USD 0,40 USD 0,30 USD 0,82 USD

Nguồn: Nguyễn Đình Long. Tạp chí thương mại số 6/2000

42

Theo tính toán của tiến sĩ Nguyễn Đình Long, viện phó Viện Kinh tế nông nghiệp, ước tính chi phí sản xuất 1 kg lúa của Việt Nam là 1250-1600 VNĐ, tương đương 0,83-107 USD/tấn, thấp hơn so với giá thành của Thái Lan là 105-110 USD/tấn. Xét trên góc độ chi phí: chi phí cho yếu tố đầu vào

của ta thấp hơn song ta lại đạt được năng suất lúa cao hơn. Đây là lợi thế cạnh tranh lớn trên thị trường gạo quốc tế.

Ở trong nước, chi phí sản xuất lúa của đồng bằng sông Hồng cao hơn nhiều so với sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, tạo ra rự chênh lệch đáng kể và khó khăn trong việc cân đối giá gạo giữa hai vùng. Ví dụ như năm 1997, chi phí sản xuất lúa ở đồng bằng sông Hồng là 1500 đ/kg trong khi ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 1100 đ/kg – một khoảng cách không nhỏ trong giá thành sản xuất. • Giá lúa trong nước

Giá lúa trong nước tăng đều từ năm 1989 và đạt mức cao nhất vào năm 1998. Theo số liệu của hiệp hội XNK lương thực Việt Nam, giá lúa của các năm từ 1989 đến 2000 lần lượt như sau (tính bằng đồng Việt Nam):

Bảng 2.4. Giá lúa Việt Nam qua các năm

Năm

1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000

Giá

916

967

1193 975

1097 1111

1693 1578

1447 1650 1380 1144

Chênh

0

51

226

-281

122

4

572

-115

-131

203

-270

-236

lệch

Nguồn: Hiệp hội XNK Việt Nam

43

Do tỷ giá hối đoái VNĐ/USD cũng tăng nên tính lại theo diễn biến của tỷ giá này thì giá lúa trong nước của Việt Nam lại gần như ổn định. Giá lúa đạt cao nhất vào năm 1995, xấp xỉ 1700 đ/kg, sau đó là năm 1998. Giá lúa bình quân năm 2000 cũng chỉ bằng 1140, khoảng 70% so với năm 1998. Năm 2001, giá lúa trong nước không ổn định và ở nhiều mức khác nhau. Giá bình quân mua của người cung cấp từ 1250-1300 đ/kg, giá mua thấp nhất ở tỉnh An Giang từ 1102-1200 đồng, cao nhất là tỉnh Long An với 1388 đồng. Phân tích mối quan hệ giữa giá gạo trong nước và giá gạo trên thị trường quốc tế nhằm mục đích để hiểu đưọc hệ thống Marketing đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở nước ta. Năm 1989, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo với chất lượng gạo kém phẩm chất. Là một nước bước đầu hoạt động trên thị trường gạo thế giới, Việt Nam vẫn còn khá xa lạ với những quy luật của thị trường này. Hơn chục năm qua, với những kinh nghiệm tích tụ được, với việc cải tiến chất lượng gạo và thiết lập các mối quan hệ bạn hàng quốc tế đã đưa Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn. Mối quan hệ giữa giá

gạo trong nước và giá gạo trên thị trường quốc tế cũng phản ánh rõ nét những thay đổi trong thời kỳ này.

2.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam

Khi Việt Nam xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới, có rất nhiều nhân tố tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới giá cả mặt hàng này trong đó có những nhân tố lâu dài, tạm thời, có nhân tố tự nhiên, xã hội, nhân tố kinh tế, chính trị... • Quan hệ cung cầu

Cũng như tất cả các hàng hoá khác, quan hệ cung-cầu ảnh hưởng trực tiếp đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam. Gạo là nguồn lương thực thiết yếu, chi phối đời sống của rất đông dân số trên toàn cầu, đặc biệt ở châu Á. Khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo từ những năm đầu thập kỷ 90, số lượng gạo xuất khẩu liên tục tăng. Tuy nhiên giá cả gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới không phụ thuộc vào lượng gạo xuất ra mà bị ảnh hưởng bởi số lượng nhập khẩu của các nước tiêu thụ lớn của gạo Việt Nam. Mô hình sau thể hiện rõ mối quan hệ giữa thu nhập, sản lượng của gạo

LAS

P P1 P2

AD1 AD2

Sơ đồ 2.1. Mối quan hệ giữa thu nhập và sản lượng của gạo

Nguồn: Tạp chí "Nghiên cứu kinh tế", tháng 8/2001

44

Thực tế cho thấy, sản lượng gạo liên tục gia tăng từ năm 1990 đến nay bất chấp có sự thay đổi về giá gạo. Qua mô hình trên, quy ước tổng cung gạo trong dài hạn là một đường thẳng đứng đi gần với sản lượng tiềm năng và không phụ thuộc vào giá cả (LAS). Khi tổng cầu (AD) thay đổi thì giá cả thay đổi, có nghĩa là khi các nước nhập khẩu gạo giảm số lượng nhập khẩu thì giá gạo thế giới cũng biến động và giảm xuống từ P1 xuống P2. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam do ảnh hưởng của giá gạo thế giới cũnh giảm xuống theo.

• Nhân tố thời vụ

Thời vụ sản xuất và thu hoạch lúa gạo gắn liền với những biến động của cung-cầu và giá gạo qua các tháng của năm. Ở Việt Nam, thời điểm giá gạo ở vào đỉnh cao trong năm không phải thời điểm xuất khẩu nhiều, nhưng lúc xuất khẩu nhiều lại thường là lúc giá cả gạo xuống thấp.

Nhìn chung, số lượng xuất khẩu gạo thường mang tính chu kỳ, thể hiện ở mức tăng giảm: cứ mỗi giai đoạn 2 đến 3 tháng khi lượng xuất khẩu tăng mạnh thì đến giai đoạn lượng xuất khẩu giảm. Thời điểm xuất khẩu mạnh lại tập trung vào các thành mùa khô, nhất là trong thời vụ đông xuân, lúc giá lúa, gạo tương đối thấp. Chu kỳ sản lượng gạo tăng giảm này phụ thuộc chủ yếu vào thời tiết, khí hậu của Việt Nam. Mỗi khi thiên tai, mất mùa nghiêm trọng thường làm thay đổi giá. Những thay đổi đó chi phối quy luật sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong nhiều năm qua. Chính vì tính chu kỳ của sản lượng gạo nên giá cả lúa gạo, bao gồm giá lúa trong nước và giá gạo xuất khẩu cũng mang tính chu kỳ. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa của cả nước nên giá lúa gạo Việt Nam gắn liền với cơ cấu mùa vụ và chu kỳ xuất khẩu của khu vực này. Nhu cầu nhập khẩu của khách hàng nước ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến quy luật trên. Các nhà nhập khẩu đã lợi dụng đặc thù sản xuất lúa gạo của Việt Nam mong muốn giá giảm có lợi nhất cho họ. Thông thường vào thời điểm xuất khẩu gạo nhiều nhất thì giá gần như không bao giờ ở mức cao nhất và ngược lại, khi giá cao nhất thì số lượng xuất khẩu không nhiều. Điều này gây thiệt hại không nhỏ đối với tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.

45

Để giải quyết vấn đề, Chính phủ chủ trương cho các doanh nghiệp mua gạo tạm trữ từ nông dân trong lúc lượng cung dư thừa và giá giảm. Đến lúc giá gạo trên thế giới tăng mới tung lượng gạo dự trữ ra thị trường nhằm bán được giá cao nhất. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong việc thực hiện chủ trương này. Cụ thể là năm 2001, sau vụ thu hoạch đông xuân, giá lúa hạ xuống thấp phổ biến từ 1100-1150 đồng. Các doanh nghiệp do UBND tỉnh chỉ định được ưu tiên vay vốn không lãi trong thời hạn 6 tháng để mua đủ 1 triệu tấn gạo với giá sàn quy định là 1300 đ/kg lúa. Khi giá gạo nhích lên vào tháng 5 và tăng nhanh trong tháng 8, Chính phủ bắt đầu chỉ thị cho các doanh nghiệp tung hàng ra bán nhưng mới được biết rằng, lượng gạo dự trữ không đủ 1 triệu tấn như đã giao chỉ tiêu. Lý do là các doanh nghiệp thấy giá lúa tăng chậm, sợ lỗ nên không mua nhiều, không hoàn thành kế hoạch và không thực hiện các bước đi mà Chính phủ chỉ thị.

Nhìn chung, tính chu kỳ của giá lúa gạo và lượng xuất khẩu hàng tháng có mối quan hệ tương quan chặt chẽ với nhau. Giá xuất khẩu tăng sau khi lượng xuất khẩu biến động hoặc giá xuất khẩu giảm trước, sau đó lượng xuất khẩu giảm theo. Thông thường khi tồn kho trong nước giảm xuống thấp thì áp lực phải xuất khẩu gạo giảm. Lúc đó giá trong nước lên cao, các nhà xuất khẩu không muốn bán ra thị trường bên ngoài tạo sự mất cân bằng giữa cung-cầu gạo xuất khẩu, ảnh hưởng tới uy tín trong kinh doanh của gạo Việt Nam. • Khả năng thanh toán của các nước nhập khẩu và ảnh hưởng của thị

trường lương thực thế giới

Việt Nam thường xuất khẩu gạo sang các nước đang phát triển ở châu Á và châu Phi. Khả năng thanh toán bằng ngoại tệ của những nước này thường bị hạn chế nhất là khi có những khó khăn về kinh tế như khủng hoảng tiền tệ năm 1997, lạm phát... Tình hình đó ảnh hưởng trực tiếp đến biên độ cung cầu về gạo. Giá các loại gạo phẩm cấp trung bình, có tỷ lệ tấm cao thường bị ảnh hưởng.

2.2.2.4. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây

Kết quả xuất khẩu gạo của chúng ta so với những năm đầu thập kỷ 90 thật đáng tự hào. Tuy nhiên vấn đề bất cập nhất đối với các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn là giá gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Việt Nam thường xuất khẩu gạo theo điều kiện FOB là chính. Chúng ta ít có các kênh trực tiếp xuất khẩu gạo gạo đến tận tay khách hàng mà phần lớn phải tái xuất khẩu qua một số nước như Singapo vì không tìm được thị trường. Tính chất mùa vụ của sản xuất cũng ảnh hưởng tới xuất khẩu vì mang đặc điểm từng chuyến, từng đợt nên khó có thể thoả mãn được nhu cầu của khách hàng một cách thường xuyên, ổn định. Thời gian 12 năm tham gia xuất khẩu gạo là một quá trình tương đối dài nhưng so với các nước có truyền thống thì trong lĩnh vực này, Việt Nam vẫn còn là một nước non trẻ. Kinh nghiệm sản xuất, chế biến gạo của nước ta còn nhiều yếu kém về chất lượng nên thường bị thua thiệt và chèn ép về mặt giá cả. Các kênh thông tin không đủ hiện đại để cung cấp cho các doanh nghiệp đầy đủ và cập nhật tình hình lương thực trên thế giới nên dễ dẫn đến hiệu quả kém trong việc nắm bắt và ra quyết định xuất khẩu, dẫn đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn giá của các nước đối thủ cạnh tranh.

46

Qua phân tích trên, chúng ta thấy được việc giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của các nhà xuất khẩu nước ta.

Chúng ta không tự động hạ giá để có sức cạnh tranh cao trên thị trường mà buộc phải chấp nhận mức giá khá cách biệt với thị trường thế giới. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do chúng ta không đáp ứng được đầy đủ những đòi hỏi nghiêm ngặt của gạo xuất khẩu nói chung, về quy cách chất lượng, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và chế biến, năng suất bốc xếp và việc cung ứng hàng.

BiÓu ®å 2.3: So s¸nh gi¸ g¹o trung b×nh cña thÕ giíi vμ ViÖt Nam

400

345

340

329

321

350

289

285

268

300

266

265

) n Ê t /

242

235

230

225

226

Gi¸ thÕ giíi

250

221

214

207

204

Gi¸ ViÖt Nam

D S U

200

150

100

( o ¹ g a Ý G

50

0

1991

1992

1993

1994

1997

1998

1999

1995 1996 N¨m

Nhìn chung, giá xuất khẩu bình quân của gạo Việt Nam từ năm 1989 tới nay có tăng nhưng không ổn định. Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, giá gạo bình quân trong những năm gần đây biến động khá phức tạp, đặc biệt khi so sánh với giá gạo bình quân của thế giới

Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại

Như vậy, mức giá cao nhất là vào năm 1996 (285 USD/MT). Thời kỳ từ 1991 đến 1994 giá gạo xuất khẩu tương đối ổn định. Từ năm 1995 đến 1998 giá tăng, đồng thời số lượng gạo tăng nên tổng kim ngạch lớn. Từ năm 1999, dù xuất khẩu nhiều nhưng giá cả giảm mạnh nên tổng giá trị xuất khẩu không cao. Giá cả bắt đầu suy giảm từ năm này kéo dài đến nay.

47

Những năm gần đây, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn, có năm chỉ sau Thái Lan, nước luôn chiếm vị trí hàng đầu trong xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam qua các năm có xu hướng ngày càng nhích gần với giá cả quốc tế. Dù đã thu nhỏ hơn nhưng khoảng chênh lệch giữa giá xuất khẩu của Thái Lan với giá cùng loại của Việt Nam vẫn còn tồn tại.

Giá quốc tế FOB

Giá xuất khẩu của Việt Nam

Bảng 2.5. So sánh giá gạo cùng phẩm cấp giữa Việt Nam và Thái Lan

Năm

Bangkok 5% tấm

quy theo giá 5% tấm

Số tiền

Tỷ lệ (%)

320

245

75

23,4

1989

287

224

63

22,0

1990

290

234

56

193

1991

280

233

47

16,8

1992

268

230

38

14,2

1993

295

265

30

10,2

1994

338

314

24

7,1

1995

362

342

20

5,5

1996

265

245

20

7,5

1997

285

270

15

5,2

1998

240

232

8

3,3

1999

188

5,0

10

2000

198 Nguồn: FAO – Facsimil Transmission BOT-OMIC Bangkok Vụ Xuất nhập khẩu-Bộ Thương mại

Đơn vị tính: USD/tấn Chênh lệch

48

Qua bảng trên cho thấy, khoảng cách giữa hai giá gạo cùng loại của Thái Lan và Việt Nam đang dần thu ngắn lại. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho giá gạo Việt Nam. Từ chênh lệch với tỷ lệ cao nhất vào năm 1989 là 23,4%, chúng ta đã hạ xuống mức thấp nhất là 3,3% năm 1999. Đặc biệt năm 2001, giá gạo 5% tấm của Việt Nam tăng so với mức tăng của gạo Thái Lan cùng loại. Cuối tháng 5/2001, giá gạo 5% tấm của Thái Lan và Việt Nam lần lượt là 164 USD/tấn và 159 USD/tấn nhưng đến đầu tháng 9, chênh lệch chỉ còn 1 USD/tấn với giá là 174 USD/tấn và 173 USD/tấn. Đặc biệt những ngày đầu tháng 11/2001, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đã lên tới 194 USD/tấn, cao hơn gạo Thái Lan 24 USD/tấn - một dấu hiệu đáng mừng cho giá loại gạo này của Việt Nam. Tuy nhiên, vào thời điểm này, cung gạo của Việt Nam lại khan hiếm, chỉ tập trung chủ yếu vào những hợp đồng nhỏ đã ký (những hợp đồng xuất khẩu sang châu Phi, Ai Cập, Inđônêxia và Nga. Bên cạnh đó, trong cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, các loại gạo cấp thấp và trung bình chiếm tỷ trọng cao, ngược lại đối với Thái Lan, các loại gạo cao cấp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu gạo xuất khẩu nên nhìn

một cách tổng thể, giá gạo bình quân của ta vẫn thấp hơn nhiều so với giá gạo bình quân của Thái Lan. Ví dụ năm 1990, giá gạo xuất khẩu trung bình của Việt Nam là 186,3 USD/tấn chỉ bằng 68,7% so với giá gạo xuất khẩu trung bình của Thái Lan là 271 USD/tấn, thấp hơn 31,3%. Đến những năm gần đây, khoảng cách giữa hai loại giá trên đã được thu ngắn và có những dấu hiệu đáng mừng cho giá gạo Việt Nam.

2.2.3. Phân phối

Đối với sản phẩm gạo xuất khẩu, việc nghiên cứu thị trường gạo thế giới và các đối thủ cạnh tranh để đưa ra một loại gạo phù hợp với chính sách giá hợp lý thôi chưa đủ mà còn phải xem xét nên đưa gạo ra thị trường bên ngoài như thế nào, bằng những hình thức nào cho có hiệu quả nhất.

Chính sách phân phối có vai trò vô cùng quan trọng trong chính sách Marketing gạo xuất khẩu. Theo quan điểm của Marketing-mix, việc xây dựng một chính sách phân phối không chỉ dừng lại ở việc quyết định số gạo sẽ được xuất khẩu thông qua hoạt động mua bán của các trung gian mà nó còn bao gồm cả việc tổ chức vận hành các mạng lưới trung gian đó để kết hợp nhịp nhàng hoạt động tiêu thụ gạo phù hợp với từng biến động trên thị trường thế giới. Chính sách này bao gồm hai khâu: khâu mua và khâu xuất khẩu.

2.2.3.1. Khâu mua

Trước năm 1986, các kế hoạch về xuất khẩu và nhập khẩu đều do Nhà nước quy định và cấp phép. Chỉ những công ty cấp bộ và cấp tỉnh mới có quyền hoạt động trong lĩnh vực này. Các trạm thu mua của các công ty này có nhiệm vụ thu lúa của nông dân từ trong các làng xã. Tuy nhiên, một thị trường tự do khác vẫn tồn tại song song với thị trường trên. Ở cấp làng, những nông dân thừa sản lượng vẫn bán lúa cho những người thiếu. Ở cấp tỉnh, thành phố thì diễn ra các cuộc trao đổi gạo giữa những công ty hoạt động theo cơ chế trên và các công ty không được cấp phép.

49

Sau năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã cải tiến dần hệ thống thương mại ở nước ta. Nhà nước vẫn còn kiểm soát các hoạt động xuất nhập khẩu nhưng việc độc quyền nhà nước trong lưu thông phân phối lúa gạo ở trong nước đã được tháo gỡ. Nông dân có thể tự do bán sản phẩm tới các thương nhân sau khi đã trả đầy đủ các loại thuế theo quy định. Tất cả các thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào kinh doanh lúa gạo, vận chuyển từ người sản xuất đến người tiêu dùng và nhà xuất khẩu.

Tuy nhiên, giữa nông dân và các nhà xuất khẩu, mà chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước có uy tín và khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới vẫn có quá nhiều trung gian. Theo Bộ Thương mại, có tới 95% lượng gạo xuất khẩu là do trung gian mua bán. Người nông dân thiếu địa điểm và các phương pháp tốt để dự trữ, bảo quản lúa, lại luôn cần vốn để chuẩn bị cho vụ mùa tới nên bắt buộc phải bán phần lớn lượng sản phẩm cho tư nhân thu mua lẻ. Tư nhân thu mua lẻ, do thiếu kỹ thuật chế biến, phải bán lại cho tư nhân thu mua lớn. Các nhà kinh doanh này chế biến gạo ra thành phẩm cuối cùng và cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

Nguyên nhân chính của tình hình này là do vốn hạn chế, do bộ máy quản lý và điều hành thiếu năng động trong các đơn vị kinh doanh trực thuộc Nhà nước. Việc tư nhân thực hiện phần lớn khối lượng gạo xay xát xuất khẩu một mặt có những tích cực vì sẽ tạo sức cạnh tranh, chống thế độc quyền của Nhà nước, thúc đẩy lượng gạo xuất khẩu, song mặt khác dẫn đến những bất lợi không nhỏ như việc nông dân bị ép giá, phải bán số lượng lớn giá rẻ cho tư thương, khó dẫn đến thực hiện được chủ trương của Nhà nước trong việc duy trì mức giá đảm bảo cho nông dân mức lợi nhuận 25-40% để khuyến khích sản xuất.

Tương tự như trong khâu thu mua, tư nhân đóng vai trò quan trọng trong khâu chế biến, bảo quản gạo xuất khẩu. Chính vì vậy đã dẫn đến tiêu chuẩn chất lượng và độ đồng đều của gạo xuất khẩu cũng bị hạn chế. Trong khi đó, các cơ sở xay xát lớn của quốc doanh chưa được khai thác triệt để, nhất là những nhà máy có công suất lớn và công nghệ hiện đại với trang thiết bị đồng bộ ở các công đoạn sát, sàng, xoa, hồ tẩy, đánh bóng, đóng gói để phục vụ xuất khẩu.

50

Hiện tại, công suất của các cơ sở xay xát trong nước có thể đáp ứng nhu cầu của cả nước nhưng quốc doanh chỉ chiếm 1/3. Ở miền Nam có những nhà máy có công suất lớn và công nghệ hiện đại như nhà máy xay xát Satake Sài Gòn, công suất 600 tấn/ngày, nhà máy xay Cửu Long công suất 240 tấn/ngày. Ở miền Bắc có gần 2500 cơ sở lớn nhỏ, có thể xay xát hết số thóc sản xuất ra trong năm. Song do thiết bị lạc hậu, một số nhà máy lớn do doanh nghiệp Nhà nước quản lý đều có tuổi thọ trên 30-40 năm, một số được đầu tư cải tạo nhưng thiếu đồng bộ nên giá thành sản phẩm vẫn ở mức cao. Những cơ sở xay xát nhỏ đang chiếm ưu thế, trong đó có 2200 cơ sở nhỏ do tư nhân đầu tư, quản lý, khai thác, chủ yếu đáp ứng nhu cầu thị

trường hiện nay hoặc phục vụ xuất khẩu với khối lượng nhỏ, phẩm cấp trung bình.

Để đổi mới, chúng ta đã nhập các thiết bị đồng bộ, đảm bảo cho các doanh nghiệp quốc doanh có thể chế biến gạo đạt chất lượng cao, nâng cao công suất máy. Bên cạnh xay xát, cần có một hệ thống kho chứa nhằm bảo quản tốt gạo xuất khẩu. Tư nhân thường sử dụng kho nhỏ, không đảm bảo do vị trí xây dựng không được tính toán, không thích hợp với cơ chế thị trường hiện nay. Các kho do quốc doanh lương thực quản lý thường có chất lượng tốt với 50% là kho kiên cố và 50% kho bán kiên cố nhưng hiệu suất sử dụng kho thấp, (30% tổng dung tích kho). Tuy nhiên, ở những địa bàn trọng điểm, nhất là cảng khẩu thì lại thiếu kho, đặc biệt là các loại kho hiện đại, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật bảo quản gạo xuất khẩu.

2.2.3.2. Khâu xuất khẩu

Trong khâu xuất khẩu gạo ở Việt Nam, các doanh nghiệp quốc doanh vẫn chiếm vị trí độc quyền. Những bất cập trong phân phát hạn ngạch và hạn chế số lượng các doanh nghiệp có quyền xuất khẩu gạo đã gây khó khăn không ít đối với kim ngạch gạo xuất khẩu của nước ta nói chung. Nhiều doanh nghiệp tìm mọi cách để có thể tham gia vào xuất khẩu gạo, nảy sinh những cạnh tranh tự phát và tiêu cực. Thương nhân bên ngoài thường lợi dụng tình hình đó để ép giá, gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân.

Để khắc phục những nhược điểm nêu trên, các cơ quan Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và nắm vững biến động cung cầu, giá cả của thị trường gạo quốc tế để quản lý, chỉ đạo giá xuất khẩu trong nước, hướng dẫn các doanh nghiệp đầu mối không xuất khẩu dưới mức giá tối thiểu đã quy định.

51

Trước năm 2001, Bộ Thương mại kết hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chủ trương tinh giảm số doanh nghiệp đầu mối nhằm nâng cao trình độ tập trung, chuyên môn hoá trong xuất khẩu. Tháng 1/1997, Bộ Thương mại đã công bố các quy định mới về các tiêu chuẩn chọn lựa doanh nghiệp chuyên xuất khẩu gạo. Thông báo số 13848/ TM-XNK chỉ rõ các doanh nghiệp này phải thoả mãn ba điều kiện: đã được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu; là thành viên của Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực Việt Nam; đã trình đơn xin phép và được Hiệp hội đề nghị Bộ Thương mại cho phép xuất khẩu gạo. Đặc biệt, các nhà xuất khẩu này phải kinh doanh xuất nhập khẩu gạo (trực tiếp hoặc uỷ thác) trong 3 năm liên tục trước

khi nộp đơn với doanh thu hàng năm tối thiểu 50 tỉ đồng và được cơ quan cấp tỉnh hoặc thành phố chứng nhận. Nếu như năm 1997 có tất cả 16 doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu gạo thì đến năm 2000, theo thông tư số 35/TT- BTM, con số này đã lên tới 47.

Những năm qua, xuất khẩu gạo tập trung vào một số doanh nghiệp nhà nước như Tổng công ty lương thực miền Nam, Tổng công ty lương thực miền Bắc, các công ty lương thực các tỉnh sản xuất gạo chủ yếu như An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Long An... Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, có thể tổng kết số gạo xuất khẩu của các công ty này từ năm 1997 đến 31/08/2001 như sau:

Bảng 2.6. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo với số lượng lớn

(1997-2001)

Stt

Tên doanh nghiệp

Số lượng (tấn)

Trị giá (USD)

1 Tổng công ty lương thực miền Nam

3.675.504

854.573.212

2 Tổng công ty lương thực miền Bắc

2.245.770

552.707.369

3 Công ty lương thực Tiền Giang

1.262.359

269.677.319

4 Công ty lương thực Vĩnh Long

1.241.840

257.603.393

5 Công ty lương thực Long An

802943

165.348.357

802427

180.795.143

6 Công ty XNK lương thực VTNN Đồng Tháp

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu các năm của Vụ Xuất nhập khẩu- Bộ Thương mại

Qua bảng trên cho thấy, Tổng công ty lương thực miền Nam luôn là đơn vị đầu ngành trong xuất khẩu gạo. Trừ Tổng công ty lương thực miền Bắc, các đơn vị xuất khẩu lớn khác đều tập trung tại đồng bằng sông Cửu Long (ngoài các doanh nghiệp kể trên còn có các công ty khác như công ty AFIEX An Giang, công ty lương thực Cần Thơ, Sóc Trăng, các công ty xuất nhập khẩu khác của An Giang...) phản ánh thế mạnh nói chung về gạo của khu vực này.

Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được phép tham gia xuất khẩu gạo như công ty chế biến gạo hấp JFT-Rice tại Long An, công ty Anginmex-Kitoku tại An Giang... tạo sự phong phú và đa dạng cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam.

52

2.2.3.3. Các kênh phân phối

Giữa người sản xuất và người tiêu thụ gạo có một hệ thống trung gian tham gia vào hoạt động phân phối bao gồm những người thu gom, bán buôn, bán lẻ... có nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động phân phối gạo đến tay người tiêu dùng cuối cùng.

Các kênh phân phối gạo của Việt Nam: do còn nhiều bất lợi trong hoạt động xuất khẩu gạo, phần lớn những hợp đồng xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam đều phải thực hiện qua trung gian nước ngoài. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách mở cửa ra thị trường thế giới của nước ta đã tạo ra các hợp đồng sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp thu mua và chế biến gạo. Loại hợp đồng này rất phổ biến ở các nước phát triển trong khu vực hiện nay như Thái Lan và bắt đầu có mặt tại Việt Nam, bảo đảm cho duy trì sản xuất với các điều kiện đã được thoả thuận trước, giảm được những rủi ro trong ngắn hạn. Tuy nhiên, loại hợp đồng này bắt buộc nông dân phải phụ thuộc nhiều vào người mua sản phẩm.

Nhìn chung, phân phối gạo của Việt Nam dựa theo sơ đồ sau:

Sơ đồ2.2. Các kênh phân phối

Người sản xuất

Trung gian nước ngo(cid:31)i

thu

Người

Khách h(cid:31)ng

Nhà xuất

Hợp đồng trực tiếp

Bán lẻ cố định

Bán buôn Như sơ đồ trên đã chỉ rõ, hoạt động xuất khẩu gạo ở Việt Nam được chia làm hai khâu. Ở khâu mua, chủ yếu gạo được chuyển từ người sản xuất, qua một số trung gian tới người xuất khẩu hoặc được chuyển một cách trực tiếp. Các khâu trung gian đóng vai trò rất quan trọng ở Việt Nam nên hình thức phân phối trực tiếp chỉ mới hình thành nhưng xu hướng sẽ phát triển trong tương lai.

53

Trong khâu xuất khẩu, nhà xuất khẩu nước ta phần lớn phải dựa vào trung gian nước ngoài mới đưa dược gạo đến với khách hàng. Các hợp đồng trực tiếp ít được ký kết và đưa vào thực hiện.

Sơ đồ trên có thể chia các cấp kênh theo quan điểm Marketing-mix: - Kênh cấp 0: Người sản xuất - Khách hàng (Người tiêu dùng cuối cùng): kênh này không có đối với xuất khẩu gạo ở Việt Nam vì kênh này không qua một trung gian nào, kể cả người xuất khẩu.

- Kênh cấp 1: Người sản xuất - Nhà xuất khẩu - Khách hàng: chỉ qua một

trung gian là nhà xuất khẩu.

- Kênh cấp 2, 3: Người sản xuất - Một số trung gian - Khách hàng. - Kênh cấp 4: Người sản xuất - Tất cả các trung gian - Khách hàng.

Qua việc chia các kênh như trên, chúng thấy rằng ở Việt Nam, phổ biến nhất vẫn là kênh cấp 4. Để tiến hành xuất khẩu gạo, cần qua tất cả các khâu trung gian mới đến tay được người tiêu dùng. Ưu điểm của hình thức phân khối này là người sản xuất tách được khỏi hoạt động phân phối nên có thể đầu tư nguồn lực vào quá trình sản xuất gạo, nếu kết hợp nhịp nhàng sẽ tạo ra khả năng linh hoạt cho thị trường do chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc phải dùng đến quá nhiều trung gian sẽ phát sinh các vấn đề như giá cả tăng, người sản xuất không có mối quan hệ với khách hàng nên không biết được nhu cầu và mong muốn của họ. Hơn nữa, người sản xuất bị phụ thuộc quá nhiều vào trung gian dễ dẫn đén tình trạng bị ép giá...

2.2.3.4. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam

Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ở đây được hiểu là các nhà nhập khẩu gạo của Việt Nam - Khách hàng, nhân tố cuối cùng trong quan hệ phân phối.

Theo hướng tăng của kim ngạch xuất khẩu gạo, trong những năm qua,

54

thị phần của Việt Nam trên thế giới có nhiều thay đổi. Cụ thể là:

Bảng 2.7. Quy mô xuất khẩu gạo chính ngạch giai đoạn 1989-2001

Lượng gạo xuất khẩu

Lượng gạo mậu dịch

Thị phần gạo Việt

của Việt Nam

Năm

của thế giới (1000T)

Nam (%)

(1000T)

1372

13.900

9,9

1989

1478

11.600

12,7

1990

1016

12.100

8,4

1991

1954

14.200

13,76

1992

1649

14.900

11,1

1993

1962

16.500

11,9

1994

2025

21.000

9,6

1995

3047

19.700

15,5

1996

3682

18.900

19,5

1997

3793

27.700

13,7

1998

4559

24.900

18,3

1999

3470

22.900

15,2

2000

3700

22.200

2001(*)

16,7 (*): Dự kiến Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại

Qua bảng trên ta thấy thị phần của gạo Việt Nam khá lớn trên thế giới, tăng qua các năm nhưng không ổn định. Việt Nam cần củng cố lại những thị trường đã có và mở rộng thị phần thêm nữa.

55

Về thị trường xuất khẩu gạo, Việt Nam hiện có khoảng 80 nước, trong đó châu Á, châu Phi là thị trường chính, chiếm 70-80% lượng gạo xuất khẩu hàng năm. Số còn lại là các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Trung Đông và các nước châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.

Bảng 2.8. Thị trường tiêu thụ (1995-2001) (% so với tổng số lượng xuất khẩu năm đó)

Năm

2001

1995

1996

1997

1998

1999

2000

T. trường

(*)

Châu Á

60,00

33,30

31,00

73,70

54,46

45,16

44,50

Châu Phi

17,00

31,00

42,00

7,60

23,67

26,27

22,70

Trung Đông

6,00

19,00

15,00

11,60

12,52

17,51

13,20

Châu Mỹ

11,00

15,70

9,00

3,10

5,54

5,19

6,70

T.trường khác

1,00

3,00

4,00

3,81

9,90

5,86 (*) Tính đến 31/08/2001 Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại

Qua bảng trên cho thấy thị trường chủ yếu của Việt Nam là các nước châu Á, châu Phi vì Việt Nam thường xuất khẩu các loại gạo có phẩm cấp trung bình và thấp, giá rẻ nên dễ dàng cạnh tranh trên các thị trường này.

Vùng Đông và Đông Nam châu Á là thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam trong đó Malaixia, Philippin là các khách hàng chính và thường xuyên nhất. Trong 7 tháng đầu năm 2001, Philippin là nước nhập khẩu gạo Việt Nam nhiều nhất với 527.250 tấn, trị giá gần 79 triệu USD so với nhu cầu nhập khẩu 850.000 tấn trong cả năm. Ngoài ra, Singapo và Inđônêxia cũng đã trở thành những bạn hàng lớn của Việt Nam trong khu vực này với số lượng gạo nhập khẩu trong 7 tháng đầu năm nay là 151.784 tấn và 196.756 tấn.

Khu vực châu Phi là nơi tập trung các nước đang phát triển có nhu cầu nhập khẩu lớn về gạo tiêu thụ. Chất lượng gạo Việt Nam phù hợp với thị trường này. Tuy nhiên, chúng ta phải chịu rất nhiều rủi ro do khả năng thanh toán ngoại tệ của các nước châu Phi kém, cước phí vận chuyển cao... Các quốc gia nhập gạo của Việt Nam ở khu vực này là Angiêri, Aicập, Xênêgan, Nam Phi...

56

Khu vực Trung Đông là thị trường tiêu thụ lớn thứ ba của gạo Việt Nam. Năm 2000 là năm các nước trong khu vực này nhập khẩu gạo Việt Nam nhiều nhất so với các năm khác (17,51%). Đây là một thị trường rất rộng mở mà chúng ta cần tập trung khai thác bằng cách sản xuất và chế biến các loại gạo đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng và chất lượng sản phẩm.

Tiêu biểu cho nhập khẩu gạo Việt Nam là Irắc, Arập Xêút, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất...

Khu vực Châu Mỹ là nơi nhập khẩu gạo Việt Nam nhiều hơn khu vực Trung Đông vào năm 1995. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỷ trọng này giảm xuống dần. Các quốc gia của khu vực thường đòi hỏi gạo có chất lượng cao mà chúng ta chưa đáp ứng được. Hơn nữa, vị trí địa lý còn là một khó khăn cản trở gạo xuất khẩu của Việt Nam thâm nhập vào thị trường này. So với Thái Lan và Mỹ là những nước có truyền thống xuất khẩu gạo và có những mối quan hệ lâu dài, ổn định về thị trường và khách hàng tiêu thụ đối với mỗi khu vực khác nhau thì thị trường gạo của Việt Nam nhỏ và manh mún hơn nhiều. Trong những năm đầu, chúng ta gặp nhiều khó khăn vì phải xâm nhập vào những thị trường quen thuộc của những nước xuất khẩu lớn, đặc biệt là Thái Lan. Trên thương trường, nước này có nhiều bạn hàng truyền thống lớn với khoảng trên 15 thị trường chính, đã tiêu thụ cho Thái Lan trên 80% lượng gạo xuất khẩu. Hơn nữa, gạo Thái Lan đồng đều, có phẩm chất cao cấp phù hợp với những thị trường khó tính như Nhật Bản, EU... Gạo Việt Nam do mới ở giai đoạn thâm nhập nên chưa có bạn hàng lớn, chất lượng gạo lại thấp, độ trắng không đều, lẫn thóc và nhiều tạp chất, đặc biệt lúa hè thu có độ ẩm cao, bạc bụng, tỷ lệ độ gãy cao, mẫu mã bao bì không đẹp... Chính những điểm yếu đó đã hạn chế việc mở rộng thị trường xuất khẩu của gạo nước ta. Tuy nhiên, chúng ta lại gần như có chung thị trường với Thái Lan vì thị trường nào mà gạo Việt Nam xuất khẩu sang thì gạo của Thái Lan cũng có mặt bằng nhiều con đường trực tiếp và gián tiếp khác nhau. Những khó khăn đó quả là một vấn đề lớn, bức xúc, đòi hỏi sự nỗ lực từ cả phía Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo để tìm ra giải pháp hữu hiệu nhất. Trong hoàn cảnh cụ thể hiện nay khi Việt Nam chính thức gia nhập và tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hoá - xã hội của ASEAN thì những bất lợi do gặp phải cạnh tranh gay gắt của các nước xuất khẩu, đặc biệt khi Việt Nam thực hiện chương trình giảm thuế. Vì vậy, chúng ta cần có những bước đi đúng đắn để đạt được hiệu quả cao nhất trong xuất khẩu gạo, đem lại lợi ích tối đa cho nền kinh tế quốc dân.

2.2.3.5. Các bước tiến hành xuất khẩu

• Chuẩn bị giấy tờ và các chứng từ khác

- Chuẩn bị các thủ tục giấy tờ (hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói,

57

giấy chứng nhận xuất xứ, giấy chứng nhận chất lượng...)

- Tiến hành các thủ tục mà Nhà nước quy định như xin giấy phép xuất

khẩu, làm thủ tục hải quan, kiểm hóa,...

- Theo dõi mặt hàng gạo xuất khẩu nhằm xử lý các thông tin chính xác

về ngày giao hàng, kí mã hiệu lô hàng, số hiệu tàu, điều kiện thanh toán...

• Chuẩn bị và kiểm tra hàng hoá

- Lập kế hoạch thu gom hàng và phân công trách nhiệm cho từng công

việc cụ thể.

- Theo dõi từng bước để kịp thời chỉnh sửa cho hợp lý.

- Đối với các hợp đồng lớn, hàng giao làm nhiều đợt và trong hợp đồng cho phép các điều khoản có quyền được sửa đổi thì công ty phải thường xuyên đưa đến khách hàng để nắm bắt được sự thay đổi kịp thời.

- Chuẩn bị bao bì có chất lượng tốt, thích hợp với mặt hàng gạo, với điều kiện vận tải, điều kiện khí hậu và những quy định ở nước nhập khẩu và bao gói cẩn thận để giảm thiểu những tổn thất có thể xảy ra.

- Kí mã hiệu hàng hóa thì phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ đọc và có đầy đủ các thông số cần thiết. Ngoài ra, chất liệu để kí mã hiệu phải không phai mầu, không thấm nước và không làm ảnh hưởng đến chất lượng của hàng hóa.

- Sau khi đã chuẩn bị hàng, cần tiến hành kiểm tra lại cẩn thận một lần nữa sự phù hợp về chất lượng, bao bì, số lượng... để ngăn chặn kịp thời các thiếu sót dẫn đến hiểu nhầm, tranh chấp, khiếu nại làm giảm hiệu quả của hoạt động xuất khẩu.

• Thuê tàu và mua bảo hiểm

Gạo xuất khẩu của Việt Nam thường bán theo điều kiện FOB nên việc thuê tàu và mua bảo hiểm thuộc về trách nhiệm của nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, chúng ta đang cố gắng để có thể ký kết nhiều hợp đồng bán theo giá CIF hơn nữa nhằm giành quyền thuê tàu cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam.

• Thông quan hàng hoá và giao hàng cho người mua

58

- Khi hàng hóa được kiểm tra đảm bảo yêu cầu, doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ tiến hành hoàn tất các thủ tục cần thiết để thông quan hàng hóa và giao hàng cho người mua. Khi nào hàng được giao cho người mua an toàn thì doanh nghiệp mới coi như hoàn thành được trách nhiệm của mình.

- Chuẩn bị đầy đủ các thủ tục cần thiết như giấy phép xuất khẩu, hóa đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết, hợp đồng xuất khẩu để việc khai báo hải quan được nhanh chóng. Sắp xếp hàng trật tự thuận tiện cho việc kiểm soát khi xuất trình hàng hóa. Để tránh bị phiền hà sách nhiễu cần khai báo trung thực, chính xác, nộp thuế đầy đủ và tuân thủ đúng các yêu cầu của hải quan...

- Khi giao hàng, cần nắm vững kế hoạch giao hàng như thời gian giao hàng, phương thức giao hàng... Phải lập kế hoạch và tổ chức vận chuyển hàng vào cảng tới địa điểm giao hàng đúng thời gian quy định. Khi bốc hàng lên tàu phải thường xuyên giám sát hiện trường, cập nhật số liệu từng ngày, từng giờ để nắm chắc số lượng hàng giao và giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh, đảm bảo thu được vận đơn sạch, đã bốc hàng. Có như vậy, việc thanh toán tiền hàng của doanh nghiệp mới thuận lợi, nhanh chóng. • Làm thủ tục thanh toán

Trong xuất khẩu gạo thường thanh toán bằng thư tín dụng (L/C). Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nước ta khi xuất sang các nước đang phát triển thường phải đôn đốc người mua mở L/C đúng hạn vì khả năng thanh toán của các nước này kém. Sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và khả năng thuận tiện trong việc thu tiền gạo xuất khẩu bằng L/C. • Khiếu nại và giải quyết khiếu nại

Thông thường khi có khiếu nại giữa các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam và các nhà nhập khẩu nước ngoài thường giả quyết bằng thương lượng. Trong quá trình thương lượng, người tham gia thương lượng phải có sự kiên trì, khéo léo, có những lập luận vững vàng, hợp tình, hợp lý...

Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng, hai bên có thể

kiện nhau tại Hội đồng trọng tài nếu có thoả thuận trọng tài hoặc tại Toà án.

2.2.4. Xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh

2.2.4.1. Mục đích

59

Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh có vai trò to lớn trong Marketing-mix đối với sản phẩm gạo. Nhờ các công cụ, chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh, chúng ta có thể thúc đẩy nhanh việc xuất khẩu, thâm nhập thị trường, làm tăng kim ngạch, góp phần nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhờ số lượng gạo bán ra nước ngoài tăng lên, qua đó thu hút khách hàng tiềm năng...

Hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh không chỉ nhằm lôi cuốn sự chú ý của khách hàng nước ngoài đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam mà còn nâng cao vị trí của xuất khẩu các sản phẩm Việt Nam nói chung trên thị trường quốc tế, qua đó lôi kéo thêm các nhà nhập khẩu gạo và giúp cho Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao hơn các nước xuất khẩu khác.

2.2.4.2. Các biện pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh

Các doanh nghiệp ở Việt Nam sử dụng chiến lược “đẩy” trong chính sách xúc tiến để đẩy gạo ra thị trường thông qua mạng lưới kênh phân phối. Chiến lược này đặc biệt chú trọng tới việc tổ chức tốt mạng lưới phân phối nhằm đạt hiệu quả xuất khẩu tối đa. Qua hơn 10 năm thực hiện việc bán gạo ra thị trường thế giới, chúng ta chưa thực sự có những kế hoạch xúc tiến một cách quy củ mà chỉ là những việc làm mang tính chất bước đầu. Cụ thể là:

- Xuất khẩu gạo đã được thúc đẩy bằng một số biện pháp nâng cao chất lượng, giảm giá vận chuyển và nâng cao tiếng tăm của Việt Nam đối với các bạn hàng nước ngoài.

Trong những năm qua, chất lượng gạo đã có những cải tiến đáng kể với việc giảm tỷ lệ phần trăm số gạo gẫy và các chỉ tiêu khác. Tuy nhiên, chất lượng gạo của Việt Nam luôn là vấn đề nhức nhối với các nhà xuất khẩu khi đặt trong bối cảnh cạnh tranh của thị trường thế giới nên yếu tố về chất lượng gạo hiện nay chưa thể là một điểm mạnh trong chính sách xúc tiến kinh doanh của ta được.

- Các biện pháp giảm giá và vận chuyển cũng bước đầu được áp dụng. Tuy nhiên, chi phí cảng, chi phí bốc dỡ và các chi phí liên quan tại cảng biển Việt Nam vẫn còn cao, khó có thể cạnh tranh được với các nhà xuất khẩu khác. Hơn nữa, tốc độ bốc hàng chậm, gây mất cơ hội về giá cả và uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam.

- Cung cấp các dữ liệu tiếp cận thông tin về giá cả, sản xuất lương thực,

thị trường quốc tế và thị trường tiếp thị.

60

Trong thời đại ngày nay, việc trao đổi thông tin giữa các nguồn cung và thị trường là một yếu tố không thể thiếu trong việc Marketing sản phẩm. Chiến lược thông tin ở Việt Nam cho xuất khẩu gạo vẫn còn những bất cập. Các doanh nghiệp không thường xuyên có được những thông tin và dự báo trong việc xác định các thị trường đầu ra, khối lượng gạo có thể xuất khẩu, các chính sách khuyến khích khả năng cạnh tranh của gạo cũng như nhu cầu khách hàng.

61

Khâu nghiên cứu thị trường xuất khẩu gạo vẫn chưa được đầu tư đúng mức. Các nguồn tài liệu về thị trường gao thế giới phục vụ cho kinh doanh xuất khẩu cũng như phục vụ công tác quản lý xuất khẩu, công tác nghiên cứu nhìn chung còn quá ít ỏi, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế trong khi hoạt động xuất khẩu đòi hỏi những thông tin sâu rộng về thị trường để theo dõi kịp thời và hệ thống các diễn biến cung cầu, giá cả. Do nghiên cứu thị trường bị hạn chế nên các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam không xử lý được kịp thời những diễn biến của thị trường, bỏ lỡ rất nhiều cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu gạo, gây thiệt hại tới bản thân doanh nghiệp nói riêng và cho Nhà nước nói chung. Cụ thể là năm 1994, nhu cầu nhập khẩu gạo của Nhật Bản đột ngột tăng tới 2 triệu tấn. Các nhà kinh doanh của ta đã hy vọng có thể xuất khẩu sang thị trường này song do thiếu những thông tin cụ thể về cách thức nhập khẩu, tiến trình nhập sẽ tập trung vào thời gian nào, cấp loại gạo nào... nên không xử lý được linh động, hiệu quả trước tình hình biến động cung cầu, lỡ một hợp đồng lớn mà đáng lẽ chúng ta có thể giành được. Năm 1997, do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, cầu về gạo trên thị trường thế giới tăng mạnh. Các nhà xuất khẩu Việt Nam do thiếu thông tin cập nhật đã đề nghị giá gạo thấp hơn giá thị trường và đã bán hết dự trữ gạo trước khi giá gạo trên thị trường thế giới đạt mức giá trần cao nhất. Đầu năm 1998, giá gạo trên thế giới tiếp tục nhích lên, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã ồ ạt ký hợp đồng. Chỉ trong quý I, số lượng gạo trong hợp đồng xuất khẩu đã ký lên tới 3 triệu tấn. Sang đến quý II, giá gạo xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh, giá lúa đồng bằng sông Cửu Long cũng tăng. Những doanh nghiệp đã ký hợp đồng số lượng lớn bị thua lỗ do không dự đoán được thị trường. Để giải quyết, Chính phủ đã hai lần chỉ đạo tạm ngưng ký hợp đồng mới vào tháng tư và tháng tám nhằm rà soát lại các hợp đồng cũ. Nhiều doanh nghiệp phải tìm cách trì hoãn những hợp đồng đã ký, chịu mất uy tín với bạn hàng. Thiệt hại về giá gạo xuất khẩu 4 tháng đầu năm vào khoảng hàng chục triệu USD, chưa kể đến việc tổ chức thu mua ồ ạt, thậm chí cả tranh mua, đẩy giá gạo cả nước lên quá cao làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu bị thua lỗ lớn. Đến giai đoạn cuối 1998, đầu năm 1999, giá gạo xuất khẩu ở mức cao thì số lượng hợp đồng đã ký lại ở mức thấp do các doanh nghiệp vẫn không dự đoán được thị trường, xu hướng cung cầu và giá cả trong tương lai. Sự thiếu thông tin về gạo trên thế giới luôn làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi khi thực hiện đàm phán, ký kết hợp đồng dẫn đến hiệu quả kém trong hoạt động xuất khẩu.

Trong lĩnh vực sản xuất, những thông tin liên quan đến công nghệ và thị trường cũng đóng một vai trò thiết yếu. Người nông dân ở Việt Nam chủ yếu có được những thông tin qua các mối quan hệ thân quen và trao đổi với những nông dân khác. Vào tháng 11 năm 1999, Trung tâm thông tin của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã xuất bản nguyệt san “Tin lương thực”. Tuy nhiên, phần lớn những tin tức về thị trường trong và ngoài nước đều lấy từ Trung tâm thông tin của Bộ Thương mại, không đủ đáp ứng nhu cầu cập nhật về giá cả thị trường của người sản xuất. Các Hiệp hội lương thực và các tổng công ty đang có hướng mở ra các nhóm nghiên cứu tình hình thị trường trong nước và quốc tế nhưng các hoạt động này vẫn còn nhiều yếu kém. Cùng một báo cáo ngành mà có tới 3, 4 số liệu khác nhau trong khi nguồn cán bộ của cả hai bộ trên đều rất yếu, chưa dám sử dụng những chuyên gia đã được đào tạo chính quy về ngành kinh doanh cho nông nghiệp nên không làm tốt chức năng dự báo thị trường.

Về phía các nhà xuất khẩu, tuy thông tin là thực sự cần thiết nhưng ít chủ động đầu tư thời gian và vốn cho nghiên cứu thị trường. Bên cạnh đó, thông tin phản hồi từ các khách hàng thường không nhiều và các chiến dịch quảng cáo cho sản phẩm gạo gần như không có. Chính phủ Việt Nam còn thiếu những biện pháp để truyền bá, giới thiệu những lợi thế của gạo Việt Nam tới các khách hàng quốc tế, tạo một lỗ hổng lớn trong các kênh thông tin từ người sản xuất tới người tiêu dùng. Hơn nữa, các nguồn tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ cho công tác xuất khẩu và nghiên cứu quá ít ỏi, chưa đấp ứng được yêu cầu thực tế. Hiện nay, mạng Internet đã trở nên rất phổ biến Việt Nam. Đây là một phương tiện thông tin có tính toàn cầu hoá, có khả năng truy cập một khối lượng thông tin khổng lồ song các doanh nghiệp vẫn hạn chế sử dụng do chi phí thuê bao và các nguyên nhân chủ quan khác. Điều đó tạo cho các doanh nghiệp thói quen bị động trước các biến cố xảy ra trên thị trường, dễ gây những hậu quả lớn và khó tránh khỏi.

2.3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam theo mô hình SWOT

62

Qua những phân tích về tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm qua theo quan điểm Marketing-mix tập trung vào 4 vấn đề: chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh, chúng ta đã có một cái nhìn chi tiết về xuất khẩu gạo trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang chuyển mình sang giai đoạn mới. Phải khẳng định rằng gạo đã trở thành một mặt hàng chiến lược không

thể thiếu trong chính sách phát triển của Việt Nam. Với các phân tích trên, chúng ta còn rút ra những nhận định và đánh giá để từ đó hình thành những chiến lược cụ thể theo Marketing-mix cho xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm tới.

Theo quan điểm Marketing, cơ sở hình thành chiến lược gồm bốn điểm: - S (streengths) - điểm mạnh: ở đây hiểu là mặt mạnh mà chúng ta có được trong quản lý vĩ mô đối với sản phẩm gạo và vị trí, khả năng cạnh tranh của xuất khẩu gạo Việt Nam trên trường quốc tế.

- W (weeknesses) - điểm yếu: những khó khăn của Nhà nước trong cơ

chế điều tiết gạo.

- O (oppotinites) - cơ hội: những yếu tố thuận lợi trong bối cảnh khu vực và quốc tế mà chúng ta cần tranh thủ để tăng cường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo.

- T (threats) - thách thức: những nguy cơ từ bên ngoài có thể ảnh hưởng xấu đến tình hình chung và xu hướng xuất khẩu của Việt Nam, cần được phát hiện, điều chỉnh một cách kịp thời cho phù hợp và tránh những hậu quả xảy ra.

Cả bốn yếu tố trên tạo thành mô hình SWOT - là cơ sở hình thành chiến lược trong Marketing-mix mà các nhà hoạch định vẫn thường sử dụng để tạo kế hoạch cho chương trình hành động trong thời gian tới. Nghiên cứu mô hình này đối với sản phẩm gạo ở tầm vĩ mô đòi hỏi có một cách nhìn tổng quát, sắc bén để từ đó rút ra những nhận định đúng đắn và có hiệu quả cao.

2.3.1. S - Điểm mạnh 2.3.1.1. Cơ chế chính sách

63

Thành công trong xuất khẩu gạo của Việt Nam do nhiều yếu tố tác động trong đó sự điều chỉnh và đề ra các chính sách của Đảng và Nhà nước ta đóng một vai trò rất quan trọng. Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo được hoàn thiện liên tục qua từng năm để tạo những điều kiện thuận lợi, đẩy mạnh xuất khẩu gạo với số lượng lớn, nâng vị trí của Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới. Cụ thể là: • Thứ nhất, từ trước đến nay, hạn ngạch được giao một lần và giao trước khi bước vào năm tài chính. Tuy nhiên, đến năm 2001, Chính phủ đã quyết định hạn ngạch xuất khẩu gạo, tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu không bị hạn chế số lượng bởi hạn ngạch.

• Thứ hai, khi ban hành cơ chế điều hành xuất khẩu gạo thường đi cùng với cơ chế nhập khẩu phân bón, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc theo dõi, giám sát tình hình xuất nhập chung của hai mặt hàng này.

• Thứ ba, trước đây, Nhà nước điều tiết lượng gạo xuất khẩu: tiến độ xuất khẩu thông qua hạn ngạch, đầu mối xuất khẩu gạo và biện pháp hành chính tạm dừng xuất khẩu. Số lượng đầu mối xuất khẩu được mở rộng thận trọng. Cụ thể là năm 1996 chỉ có 15 doanh nghiệp được phép tham gia xuất khẩu gạo, năm 1997 con số này là 16 và đến năm 2000 lên tới 47 đầu mối. Tuy nhiên, Nhà nước phân bố số lượng gạo xuất khẩu hàng năm theo hướng giảm dần sự độc quyền của các doanh nghiệp đầu mối, hạn chế tình trạng tranh mua, tranh bán. Năm 2001, bãi bỏ đầu mối và hạn ngạch sẽ tạo một bước tiến mới, thuận tiện hơn cho xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp ngoài đầu mối trước kia.

Ngoài các doanh nghiệp đầu mối, Nhà nước cho phép các công ty của Trung ương, các tổng công ty, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu với hạn ngạch quy định. Các doanh nghiệp ngoài đầu mối của tất cả các thành phần kinh tế, có đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nếu tìm được thị trường tiêu thụ mới (ngoài các nước như Philippin, Inđônêxia, Malaixia và Irăc, Iran), ký được hợp đồng với các điều kiện thương mại có lợi, giá cả cao hơn hoặc bằng giá cả hướng dẫn trong từng thời kỳ, thì gửi văn bản kèm theo hợp đồng về bộ Thương mại để được xem xét cho xuất khẩu.

Chính phủ đã trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu gạo thông qua việc ký kết các hiệp định, nghị định thư trao đổi hàng hoá với chính phủ các nước khác hoặc hợp đồng bán gạo ổn định cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài rồi giao lại cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Bên cạnh đó, Chính phủ còn khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo sản xuất ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung tạo thế cân bằng với khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

64

Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo với nội dung như trên đã đóng góp tích cực vào hoạt động xuất khẩu gạo. Với cơ chế trên chúng ta có thể yên tâm rằng lượng gạo xuất khẩu sẽ tăng ổn định và vững chắc đồng thời đảm bảo mục tiêu về an ninh lương thực quốc gia, tăng cường tính bền vững trong phát triển sản xuất lương thực. Với cơ chế này sẽ tạo khả năng mở rộng và tăng cường các hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp ngoài đầu mối, hiện chiếm 20% lượng gạo xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.

2.3.1.2. Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo.

Ngoài những lợi thế về chi phí sản xuất, chủng loại gạo, giá thành... như đã đề cập ở phần trước, gạo xuất khẩu Việt Nam còn có những ưu điểm sau:

* Truyền thống sản xuất lúa gạo Từ ngàn đời nay, cây lúa vẫn là cây lương thực chính của nhân dân Việt Nam. Lúa mang đến cho chúng ta cuộc sống ấm no và đã tạo nên một nếp nghĩ trong mỗi người khi hay quy tất cả các giá trị các vật dụng khác ra thóc gạo. Truyền thống sản xuất lúa là một thế mạnh, giúp chúng ta có được kinh nghiệm gieo cấy, chăm sóc, tạo điều kiện cho cây lúa phát triển đảm bảo được năng xuất tối đa. Lịch sử sản xuất lúa Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm, nên chúng ta có thể tích tụ được các phương pháp sản xuất có hiệu quả, khai thác triệt để các lợi thế khác của đất nước ứng dụng vào phát triển cây lúa.

* Điều kiện tự nhiên thuận lợi. Ở Việt Nam, sản xuất lúa đã, đang và sẽ là ngành sản xuất quan trọng bậc nhất. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào có thể dựa trên những điều kiện thuận lợi về tự nhiên để phát triển cây lúa nước, hợp với đất đai và đặc tính về sinh thái, khí hậu.

Tài nguyên đất đai và khí hậu đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng lượng và các yếu tố khác cho cây lúa. Diện tích đất trồng lúa của Việt Nam rộng, phì nhiêu cao, chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, hệ sinh thái của ta do kết hợp các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa... nên có thể tạo lợi thế thâm canh, tăng vụ cho cây lúa ở cả hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.

65

Nghề trồng lúa Việt Nam còn có một ưu thế nữa về nguồn nước- yếu tố không thể thiếu đối với sự phát triển của cây lúa. Ngoài nguồn nước sẵn có, chúng ta đã xây dựng một hệ thống thuỷ lợi đảm bảo và đã mang lại những thành quả bước đầu cho việc năng suất lúa. * Vị trí địa lý và hệ thống cảng khẩu. Phải nói rằng, Việt Nam có một vị trí địa lý hết sức thuận lợi cho buôn bán và giao lưu quốc tế, nằm ở cửa ngõ của các con đường nối liền các nước. Hệ thống đường sắt, đường biển thuận lợi là những thế mạnh nổi bật của chúng ta trong việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Việt Nam có hơn 3000 km bờ biển với các cảng thuận lợi, nằm gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đi Đông Bắc Á, Đông Nam Á - Thái

Bình Dương, Trung Cận Đông, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ... là những thị trường chính của gạo xuất khẩu nước ta. Các cảng biển này giúp cho việc vận chuyển gạo tiện lợi, thông dụng với mức cước phí rẻ hơn nhiều so với các phương thức khác, tạo cho Việt Nam một thế mạnh lớn trong xuất khẩu.

2.3.1.3. Hệ số chi phí nguồn lực nội địa ( DRC) của gạo xuất khẩu

Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, mặt hàng gạo của Việt Nam đang vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các nước xuất khẩu khác. Nói đến cạnh tranh là phải nói đến vấn đề chất lượng, mẫu mã, vệ sinh, giá cả... Trong những vấn đề này, điều dễ được người nhập khẩu quan tâm nhất là giá cả. Trên thị trường người mua thường so sánh giá cả mặt hàng cùng loại để đi đến quyết định mua hay không. Như vậy, giá cả là nội dung đầu tiên mà các doanh nghiệp phải quan tâm. Một mặt hàng được coi là có khả năng cạnh tranh nếu như giá trong nước không lớn hơn trong nền kinh tế cạnh tranh. Cụ thể là mặt hàng gạo có khả năng cạnh tranh khi giá gạo tiêu thụ không lớn hơn giá của gạo cùng loại trên thị trường thế giới.

Lợi thế cạnh tranh của gạo có thể đo bằng hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC), là tỷ lệ giữa các chi phí nguồn lực trong nước và các yếu tố đầu vào trung gian bất khả thương (tính bằng giá mờ) cho việc sản xuất trong một sản phẩm nhất định so với ngoại tệ ròng thu được do sản xuất lúa gạo trong nước.

Qua phân tích tình hình xuất khẩu gạo trong thời gian gần đây, ta có được sơ đồ nói lên sự biến động hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC) của gạo như sau:

Năm DRC 1995 0,500 1996 0,474 1997 0,500 1998 0,400 1999 0,500

66

Trong tất cả các năm phân tích, DRC đều nhỏ hơn 1 và tương đối ổn định chứng tỏ nền kinh tế nước ta đã tiết kiệm được ngoại tệ thông qua sản xuất gạo ở trên cả hai mặt trận: xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Điều đó cũng nói lên chi phí cơ hội của các tài nguyên trong nước và các yếu tố sản xuất khác được sử dụng để tạo ra mặt hàng gạo nhỏ hơn so với ngoại tệ thu được. Hệ số chi phí nguồn lực nội địa không phát huy tối đa hiệu quả vì tính cạnh tranh của gạo Việt Nam vẫn không cao so với các quốc gia xuất khẩu gạo khác.

Nói chung, Việt Nam có khá nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Tuy nhiên, để biến những điểm mạnh này thành sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần rất nhiều sự cố gắng, nỗ lực của tất cả các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo ở nước ta.

2.3.2. W - Điểm yếu

2.3.2.1. Cơ chế, chính sách

Cơ chế hiện hành dù đã được chỉnh sửa và có nhiều tiến bộ nhiều năm qua song nhìn chung vẫn tồn tại những hạn chế, phần nào làm giảm khả năng xuất khẩu gạo Việt Nam được biểu hiện cụ thể trên các mặt sau:

* Thứ nhất: việc duy trì đầu mối xuất khẩu trước năm 2001 nhiều khi làm lỡ mất thời cơ xuất khẩu, nhất là khi tham gia đấu thầu các hợp đồng mua gạo của các đối tác nước ngoài. Chỉ những đầu mối mà Chính phủ chỉ định mới được tham gia đấu thầu cung cấp gạo. Điều kiện đó không tạo xu hướng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, dễ dẫn đến các tiêu cực trong công tác quản lý. Năm 1998-1999, nhiều đầu mối do Chính phủ chỉ định tham gia đấu thầu đã thất bại, gây tổn thất đáng kể cho tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Việc Chính phủ Việt Nam xác định đầu mối và phân bổ hạn ngạch chỉ dựa vào tỷ lệ và khối lượng gạo xuất khẩu năm trước của các đơn vị mà không phân biệt lượng xuất khẩu uỷ thác so với lượng xuất khẩu thực sự của các đơn vị đó là bao nhiêu, nên vẫn còn hiện tượng một số đầu mối bán quota và xuất khẩu uỷ thác để được hưởng một tỷ lệ xuất khẩu nhất định trên giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo, phát sinh nhiều tiêu cực trong việc mua bán quota. Hơn nữa, các doanh nghiệp rơi vào thế bị động trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo khi Chính phủ phân bổ hạn ngạch trọn gói cả năm nên sẽ không dự đoán được tương đối chính xác sản lượng gạo xuất khẩu. Hậu quả là những lúc giá gạo trên thị trường thế giới tăng mạnh thì lượng xuất của ta không tăng hoặc tăng không đáng kể, ngược lại khi giá giảm thì chúng ta lại tăng lượng xuất. Tuy nhiên đến năm 2001, khi Chính phủ bỏ hạn hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu gạo lại gây tâm lý lo lắng cho các doanh nghiệp do băn khoăn không biết cơ chế điều hành mới có thuận lợi hay lại ngăn trở, gây khó khăn dưới hình thức khác.

67

* Thứ hai, cơ chế được quy định chỉ có hiệu lực trong thời hạn một năm, do đó doanh nghiệp luôn ở trong thế bị động, thiếu ổn định, không muốn đầu tư dài hạn.

* Thứ ba, cơ chế quy định đòi hỏi Chính phủ phải theo dõi sít sao hoạt động của các doanh nghiệp, làm mất khả năng chủ động của các doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề, vụ việc trong kinh doanh, dễ lỡ thời cơ ký kết các hợp đồng có lợi nhuận lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng phải ra quyết định với quy mô nhỏ làm mất thời gian và công sức của nhân viên các cấp.

Từ năm 2001, Chính phủ thực hiện bỏ đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu gạo. Để thực hiện điều này, các cơ quan chức năng gồm Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... phải xây dựng một cơ chế mới về điều hành xuất khẩu gạo trình Chính phủ. Cơ chế điều hành phải giải quyết được mục tiêu: nông dân có lợi, doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả, bình ổn giá lương thực và giữ an ninh lương thực quốc gia.

Khi bỏ đầu mối xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp trước kia không xuất khẩu gạo sẽ tham gia vào hoạt động này. Hơn nữa, gạo luôn là mặt hàng chủ lực của Việt Nam, khi số doanh nghiệp tăng lên sẽ tạo tình trạng tranh mua, bán, làm giảm hiệu quả xuất khẩu gạo nhưng cũng sẽ tăng sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tránh tình trạng độc quyền xuất khẩu của các đầu mối như tình trạng trước đây.

2.3.2.2. Quản lý giá cả

68

Tuy đã áp dụng cơ chế và chính sách mới và có nhiều chấn chỉnh để thích ứng với tình hình hiện tại của nền kinh tế. Song trên thực tế, hệ thống tổ chức của ta vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác quản lý giá cả. Giá mua lúa gạo nội địa do Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn bằng cách căn cứ vào giá thành sản xuất để quy định giá sàn và giá trần sao cho đảm bảo được quyền lợi của nông dân, còn giá xuất khẩu gạo do Bộ Thương mại căn cứ vào diễn biến, tình hình thị trường thế giới để đưa ra khung giá tối thiểu cho từng mặt hàng và khống chế hợp đồng xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp đã đạt được mức giá tối thiểu này trở nên thì mới được cấp giấy phép xuất khẩu. Do sự không thống nhất với nhau trong quy định vế giá như trên thường dẫn đến việc giá gạo của Việt Nam không thích ứng được với giá trên thị trường quốc tế làm phát sinh giá cả nội địa cao hơn mặt bằng giá gạo quốc tế. Hơn thế, khung giá quy định của các cơ quan Chính phủ thường cứng nhắc, thiếu độ nhạy bén với biến động trên thị trường, gây khó khăn không ít cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Bộ Thương mại ban hành giá chậm thay đổi nên các doanh nghiệp không thể ký hợp đồng vì không được cấp giấy phép khi giá thị trường thấp hơn khung giá quy định. Ngược lại, khi giá thị trường cao hơn khung giá quy định dẫn đến tình trạng

các doanh nghiệp tự ý hạ thấp miễn là vẫn đảm bảo cao hơn giá Nhà nước nhằm bán được cho nhà nhập khẩu số lượng lớn gạo làm giảm hiệu quả xuất khẩu chung. Chính từ sự yếu kém của các doanh nghiệp và khâu quản lý giá dẫn đến việc khách hàng nước ngoài lợi dụng, ép giá nhằm có lợi tối đa cho họ. Khi trên thị trường thế giới giá có xu hướng giảm thì họ tìm cách trì hoãn việc nhận hàng, cam kết thanh toán, gây tâm lý lo lắng cho các nhà xuất khẩu nước ta, sau đó mới đề nghị đàm phán lại điều khoản giá cả của hợp đồng và mới đồng ý đi nhận hàng. Ngược lại, khi xu hướng giá trên thị trường thế giới tăng lên thì họ ép ta phải ký kết hợp đồng và giao hàng ngay nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam.

2.3.2.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng của các cảng khẩu

Gần như phần lớn số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giao tại cảng Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh (70%), có xuất xứ từ đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng phục vụ các khâu chuyên chở, kho tàng bảo quản, thiết bị bốc xếp còn nhiều yếu kém và đang trở thành đáng quan tâm. Hơn nữa, cảng Sài Gòn luôn bị tắc nghẽn, và số lượng gạo xuất khẩu được xuất cảng lại chịu trách nhiệm về phí vận chuyển gạo rất cao trên mức đề xuất. Quốc lộ 1A đoạn thành phố Hồ Chí Minh đến Cần Thơ tuy đã được hoàn thành về cơ bản việc nâng cấp nhưng chưa đủ rộng để cho phép hàng đoàn xe tải nặng đi lại thường xuyên. Cảng Cần Thơ ở giữa khu vực đồng bằng sông Cửu Long - khu vực dư thừa gạo chính của cả nước - đang nhanh chóng mở rộng các hoạt động nhưng vẫn bị hạn chế nghiêm trọng bởi thiếu đầu tư để nâng cấp giao thông đường thuỷ. Cảng này có năng lực bốc xếp theo thiết kế là một triệu tấn/năm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong 3 năm trở lại đây, công suất bốc xếp hàng năm của Cảng chỉ khoảng 40.000 tấn/năm. Cảng chưa đủ điều kiện để đón và phục vụ tàu viễn dương có trọng tải trên 10.000 tấn, mặc dù cảng chỉ cách cửa biển 20km.

69

Cơ sở hạ tầng yếu kém không phải là cản trở duy nhất. Giá vận chuyển cao ở Việt Nam gắn liền với sự chậm trễ trong quá trình chất và vận chuyển hàng chậm dọc theo các kênh nối giữa cảng Sài Gòn với phía Nam biển Trung Quốc phần nào giải thích sự giảm giá hơn nữa của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Mặc dù những chi phí này do các nhà nhập khẩu gạo trả vì hầu hết xuất khẩu gạo nước ta tính theo giá FOB nhưng chi phí này được tính vào giá bán của gạo xuất khẩu. Điều này giải thích thực tế rằng giá FOB

của gạo Việt Nam thấp từ 13-15% so với các đối thủ cạnh tranh khác như Thái Lan.

2.3.2.4. Về phía các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo

Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo Việt Nam cũng tồn tại

nhiều điểm yếu thể hiện trên các mặt sau:

* Thứ nhất, bộ máy quản lý của phần lớn các doanh nghiệp chưa đồng bộ, chưa có sự thống nhất với nhau về cách làm việc. Công tác quản lý còn nhiều yếu kém, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban, đặc biệt trong các doanh nghiệp Nhà nước còn hiện tượng chỉ làm cho đủ số giờ mà không đảm bảo hiệu quả công việc. Đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu ở một số nơi còn yếu kém về trình độ, năng lực, bề dày kinh nghiệm nên hiệu quả không cao. Nhiều doanh nghiệp có thói quen ỷ lại, không tích cực tìm kiếm bạn hàng, nguồn hàng mà coi Chính phủ là một tác nhân quan trọng đến hiệu quả kinh doanh của họ nên nỗ lực để có càng nhiều ưu tiên, giấy phép, hạn ngạch trợ cấp và bảo hộ xuất khẩu.

* Thứ hai, các doanh nghiệp trong cả hai lĩnh vực tư nhân và Nhà nước đều bị hạn chế nghiêm trọng trong việc tiếp cận nguồn vốn cần thiết để tiến hành các hoạt động mua bán, tích trữ tài chính và cấp vốn đầu tư cho sản xuất. Theo tính toán, yêu cầu về vốn ở thời điểm cao nhất bằng khoảng 5 lần mức vốn nhận được của các doanh nghiệp Nhà nước và 10 lần so với các doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù trong các năm vừa qua, các thiết bị vận chuyển và chế biến đã được đầu tư một cách đáng kể nhưng không đáp ứng hết nhu cầu. Do đó, cần phải nâng cao vốn phát hành hiện tại và bổ sung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất (máy móc, nhà máy và các phương tiện vận chuyển) cũng như nguồn vốn nhân lực có qua đào tạo, tiếp thị quản lý chất lượng và tài chính vì với lượng vốn hạn hẹp, các doanh nghiệp không thể cấp tín dụng thương mại cho khách hàng cũng như không có khả năng mua dự trữ nên không thể chủ động kỳ hạn bán ra theo hướng thị trường có lợi, bỏ lỡ nhiều cơ hội, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp.

70

Sự tồn tại nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp cũng không có nghĩa là Chính phủ phải bao cấp các doanh nghiệp toàn bộ nguồn vốn đầu tư mà tạo điều kiện để tiếp thị tín dụng, cung cấp môi trường cho công việc này và cho phép các thành viên trong các doanh nghiệp đóng góp đầu tư của họ về dự trữ, chế biến và vận chuyển lúa gạo.

Tất cả những điểm yếu trên đã và đang làm giảm thế mạnh trong thương mại quốc tế và khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trước những biến động gay gắt trên thị trường thế giới. 2.3.3. O - Cơ hội và T - Thách thức

Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế và bước đầu đã hoà nhập được với nền kinh tế thế giới. Sau một loạt những sự kiện quan trọng trong hợp tác phát triển như bình thường hoá quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN, ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ… và sắp tới sẽ gia nhập Tổ chức kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), chúng ta sẽ có những cơ hội để phát triển thị trường, đưa sản phẩm của ta sánh ngang với các nước khác về chất lượng và đẩy mạnh nền kinh tế... Vì quy mô nhỏ, đề tài chỉ xin đề cập đến cơ hội của gạo xuất khẩu Việt Nam khi Hiệp định Việt - Mỹ đi vào thực thi và khi chúng ta chính thức tham gia vào khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) vào năm 2003. 2.3.3.1. Hiệp định Việt - Mỹ

Khi thực hiện Hiệp định Thương mại, Mỹ sẽ áp dụng thuế suất phù hợp với quy định của WTO (ước tính thuế nhập khẩu trung bình của hàng hoá Việt Nam vào Mỹ sẽ giảm từ 40% xuống còn 4%), loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, các hạn chế định lượng và mở đường cho gạo Việt Nam thâm nhập và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường Mỹ. Hiệp định Thương mại Việt Mỹ không những thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam vào một trong những thị trường lớn nhất thế giới, mà còn tạo thêm động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Thị trường Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ nông sản nhiều nhất trên thế giới, có tính đa dạng và tiềm năng rất lớn. Nhập khẩu nông nghiệp của Mỹ hàng năm lên tới 38 tỷ USD. Tuy nhiên, so với các thị trường có mức thu nhập và tiêu dùng bình quân đầu người tương đương như Mỹ và Nhật Bản thì xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Vì thuế nhập khẩu trung bình đối với các mặt hàng gạo của các thị trường này cao hơn rất nhiều so với Mỹ, nên khi Hiệp định Thương mại được thi hành thì xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ có cơ hội tăng đáng kể. Giá trị xuất khẩu gạo trên đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp so với Thái Lan và khả năng sản xuất vẫn còn mạnh, do đó tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn rất lớn.

* Cơ hội

Tác động của hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đến xuất khẩu gạo của

Việt Nam có thể thông qua các hướng sau:

71

- Thứ nhất, việc giảm hàng rào thuế quan và tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế quan của cả Mỹ và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho gạo tiếp cận thị trường dễ dàng hơn và do đó sẽ thúc đẩy thương mại hai chiều.

- Thứ hai, khả năng tiếp cận thị trường Mỹ dễ dàng hơn, cùng với những điều kiện ưu đãi về đầu tư vào sản xuất gạo sẽ làm tăng đầu tư của Mỹ và các nước khác vào ngành này của Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường Mỹ.

- Thứ ba, Hiệp định Thương mại sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu gạo Việt Nam phát triển hơn nữa theo chiến lược mới: tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam, hình thành nền sản xuất hành hoá mạnh, giúp cho gạo Việt Nam thay đổi cơ cấu theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế (trước hết là đối với Mỹ), tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia rộng rãi hơn vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như xuất khẩu gạo.

* Thách thức

Bên cạnh những lợi ích tạo ra, việc thực thi Hiệp định Việt - Mỹ cũng đem lại những thách thức lớn đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trước đây được hưởng lợi từ sự bảo hộ của một nền kinh tế đóng thì nay sẽ gặp nhiều khó khăn. Những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt gồm có:

- Thứ nhất, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ sẽ mở cửa cho gạo của Mỹ vào thị trường Việt Nam. Đây không phải là lo lắng hàng đầu vì khả năng tiêu dùng gạo Mỹ sẽ không nhiều, do giá cao và chỉ phù hợp với một bộ phận nhỏ dân cư cu trú tại các đô thị lớn. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp Mỹ và các nước khác đầu tư vào thị trường Việt Nam sẽ tăng lên nhằm xuất khẩu gạo sang thị trường Mỹ hay khai thác thị trường nội địa, do đó sẽ gây áp lực tới các doanh nghiệp sản xuất lúa gạo trong nước. Nhà nước ta đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư xuất khẩu gạo nên các doanh nghiệp của Mỹ cũng có thể tham gia. Nếu không có những chuẩn bị cần thiết thì các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh.

- Thứ hai, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ phải đối mặt với sự canh tranh của các đối thủ trên thị trường Mỹ. Chúng ta đã biết rằng Mỹ là một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nên khi gạo Việt Nam thâm nhập vào Mỹ sẽ vấp phải những rào cản về số lượng và chất lượng gạo của Mỹ. Hơn thế nữa, mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường Mỹ so với trước đây nhưng lại có sự cạnh tranh gay gắt từ các nước xuất khẩu gạo truyền thống như Thái Lan, nước đã có chỗ đứng trên thị trường Mỹ từ lâu hoặc Trung Quốc, quốc gia đã ký Hiệp định với Mỹ năm 1999 và vừa gia nhập WTO cũng sẽ là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam.

72

- Thứ ba, muốn xuất khẩu gạo Việt Nam sang Mỹ, các doanh nghiệp phải tìm hiểu những quy định về thương mại và hải quan vốn rất phức tạp của Mỹ. Luật pháp Mỹ quy định tất cả mọi vấn đề có liên quan đến việc

nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào đều thuộc thẩm quyền của Chính phủ liên bang. Bộ Thương mại, văn phòng đại diện thương mại, uỷ ban thương mại quốc tế và cụ thể nhất là Hải quan Mỹ là những cơ quan có trách nhiệm đối với vấn đề này. Ngoài các thủ tục hải quan còn có các quy định thương mại liên quan đến luật như chống độc quyền, chống bán phá giá trách nhiệm sản phẩm, thương mại thống nhất... 2.3.3.2. Tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA)

Tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN là bước khởi động đầu tiên, có ý nghĩa đối với quyết định đối với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Theo lộ trình gia nhập AFTA thì từ nay đến năm 2006, Việt Nam phải từng bước cắt giảm thuế xuống đối với các mặt hàng. Khi đó sự bảo hộ thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước sẽ không còn tác dụng, câu hỏi đặt ra là liệu gạo Việt Nam có thể cạnh tranh với gạo các nước khác tại thị trường trong nước lẫn thị trường ASEAN được không?

Đối với sản xuất và xuất khẩu gạo, ảnh hưởng lớn nhất trong bối cảnh quốc tế hiện nay sẽ là quá trình tự do hoá thương mại trong khuôn khổ AFTA của Việt Nam và tác động của cắt giảm thuế quan, phi thuế quan tới khả năng cạnh tranh của ngành gạo xuất khẩu. Sự tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam trong những năm qua cho thấy thế mạnh và tiềm năng có thể tham gia vào thị trường thế giới và khu vực các nước ASEAN, kể cả các trong các điều kiện thương mại quốc tế có sự tự do hoá. Vì gạo là một mặt hàng thiết yếu đối với nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt là các nước trong khu vực, các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam không nhiều, chủ yếu là Thái Lan và một số nước xuất khẩu tiềm năng có tác động tích cực đến ngành sản xuất lúa gạo và ngành công nghiệp xay xát của nước ta.

Khi Việt Nam thực hiện AFTA, thuế nhập khẩu hàng hoá vào nước ta sẽ giảm xuống đáng kể (5%). Trong trường hợp thương mại hoá hoàn toàn, gạo Thái Lan nhập khẩu vào Việt Nam có thuế xuất bằng 0%. Tuy vậy, gạo Thái Lan cũng không có khả năng chiếm lĩnh phần lớn thị trường của Việt Nam do:

73

* Thứ nhất, gạo Thái Lan là mặt hàng có chất lượng cao nên giá cao. Khi xâm nhập vào Việt Nam, gạo Thái Lan chỉ có thể tiêu thụ ở những khu vực có mức sống và thu nhập của người dân cao như ở các đô thị, khách sạn, nhà hàng... Hiện nay trong các siêu thị Việt Nam đã có bán nhiều gạo Thái Lan song doanh số không cao do người dân thành thị vẫn chưa tiêu dùng loại gạo mới này. Ở các khu vực nông thôn, nơi có mức thu nhập thấp, giá gạo cao không phù hợp với khả năng và nhu cầu của người dân. Khu vực này chiếm tới 80% dân số của cả nước nên khả năng gạo Thái Lan chiếm lĩnh thị

trường là gần như khó có thể xảy ra. Nhìn chung, kể cả khi vào AFTA, Việt Nam vẫn có lợi thế so sánh về sản xuất gạo hơn so với Thái Lan.

* Thứ hai, như đã đề cập, những năm gần đây, sản lượng lương thực đặc biệt là lúa gạo của Việt Nam tăng dù bị ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là bão lũ ở hai vùng đồng bằng sản xuất lúa chính. Khi vào thị trường Việt Nam, gạo Thái Lan chỉ có thể phát huy lợi thế một cách tối đa trong trường hợp cung gạo Việt Nam không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, khả năng thiếu lương thực trong những năm tới là không thể xảy ra, vì sản xuất lúa được đảm bảo, diễn ra trên địa bàn khá rộng, nếu có mất mùa cũng chỉ là cục bộ, không ảnh hưởng lớn đến thu hoạch của cả nước. Bên cạnh đó, tính bền vững trong sản xuất lúa rất cao khi chúng ta đã đảm bảo được an toàn lương thực một cách vững chắc.

* Thứ ba, tác động trong ngân sách. Trong những năm tới khi tham gia vào AFTA, chúng ta sẽ nhập khẩu gạo chất lượng từ Thái Lan để phục vụ nhu cầu gạo của các tầng lớp dân cư có mức sống cao. Vì khối lượng nhập loại gạo này sẽ không nhiều do đặc tính tiêu dùng của người dân Việt Nam nên việc cắt giảm thuế sẽ không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đặt lịch trình giảm thuế khẩn trương đã chuẩn bị cho các bước thực hiện AFTA.

Qua các nguyên nhân trên, có thể khẳng định lịch trình cắt giảm thuế quan nhập khẩu đối với mặt hàng gạo Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực ASEAN. Quá trình thực hiện AFTA sẽ giúp Việt Nam hạn chế được sự bảo hộ gạo ở các nước nhập khẩu gạo Việt Nam như Inđônêxia, Philippin, Malaixia. Việt Nam có thể cạnh tranh với Thái Lan trên thị trường này do yếu tố giá thấp hơn và chất lượng gạo đang dần được cải tiến. Mặt khác, chúng ta đang áp dụng một cơ chế khuyến khích bảo hộ xuất khẩu, hạ thuế suất xuống 0% khi giá quốc tế giảm để các doanh nghiệp duy trì xuất khẩu, lúc bình thường để 1% và khi giá gạo trên thị trường thế giới tăng mạnh thì thuế suất được điều chỉnh lên 3% để vừa tăng thu ngân sách quốc gia và hạn chế việc xuất khẩu quá mức có thể làm ảnh hưởng xấu đến tình hình cân đối lúa gạo trong nước. Việc giảm miễn thuế cũng được áp dụng cho từng nhóm hàng, như đầu năm 1996 thuế suất xuất khẩu gạo là 3%, đến giữa năm do gạo cấp thấp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nguồn hàng và có nguy cơ bị ứ đọng nhiều nên Chính phủ đã miễn hoàn toàn thuế suất với loại gạo 25% tấm trở lên trong khi vẫn giữ mức thuế suất 1% đối với loại gạo 5- 20% tấm.

74

Những nhận định trên cho thấy, việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan là cơ hội tốt cho sản xuất lúa gạo Việt Nam tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy, ta có thể khẳng định việc Việt Nam thực hiện AFTA nói chung và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế như APEC, WTO trong thời gian tới là những cơ hội lớn đối với việc phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu

75

gạo Việt Nam. Chúng ta phải tận dụng những thuận lợi khách quan từ bên ngoài, phát huy tối đa nội lực quốc gia để tạo đà cho ngành sản xuất và xuất khẩu gạo ngày càng có những kết quả to lớn hơn nữa.

CHƯƠNG 3. CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO.

3.1. Định hướng và mục tiêu của sản xuất và xuất khẩu gạo.

3.1.1.

Mục tiêu và định hướng sản xuất lúa gạo.

3.1.1.1. Mục tiêu

Sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là ngành quan trọng bậc nhất của nông nghiệp nhằm thực hiện ba mục tiêu cơ bản mà Đảng và Chính phủ đã vạch ra:

* Thứ nhất: Bảo đảm vững chắc và an toàn lương thực quốc gia, tăng thêm khối lượng dự trữ, thoả mãn nhu cầu lương thực cho tiêu dùng trong bất cứ tình huống nào.

* Thứ hai: Bảo đảm đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. * Thứ ba: Tăng khối lượng xuất khẩu với hiệu quả cao.

Ba mục tiêu trên khẳng định sự cần thiết của ngành sản xuất lúa gạo là phải bảo đảm an ninh lương thực, vấn đề có tính quan trọng hàng đầu đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt với một nước nông nghiệp như Việt Nam. Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu cũng là mục tiêu hướng tới, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi chúng ta có thể khẳng định rằng đã và đang thực hiện tốt vấn đề an toàn lương thực trên phạm vi toàn quốc.

Phát triển ngành sản xuất lúa gạo thường liên quan tới nhiều thành phần khác như nghiên cứu, triển khai, các yếu tố sản xuất (hệ sinh thái, luật pháp, nhân công, vị trí địa lý, các yếu tố đầu vào và tài chính) và các yếu tố để thương mại hóa sản phẩm (thị trường tiêu thụ, hệ thống kho chứa, các phương tiện vận chuyển...). Những thay đổi lớn của Việt Nam trong những năm gần đây đã có tác động trực tiếp tới sản xuất lúa của cả hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long được thể hiện trên 3 khía cạnh sau:

76

* Một là quá trình tự do hoá kinh tế đang tiến triển và ngày càng sâu sắc của nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay gần như không còn những kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước vì giá gạo sản xuất và các yếu tố đầu vào. Trên thị trường gạo, việc cân hàng và chuyển gạo từ vùng thừa gạo sang các khu vực thiếu hụt cũng không gặp nhiều vướng mắc đáng kể. Năm 2001, Chính phủ bỏ đầu mối xuất khẩu và hạn ngạch càng thể hiện việc giảm nhẹ những kiểm soát gắt gao quá trình tự do thương mại, tạo thế chủ động cho các nhà xuất khẩu.

* Hai là, sức tăng trưởng nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Sản phẩm quốc nội và các chỉ tiêu khác về phát triển không ngừng tăng trong những năm qua. Mức tăng trưởng bao gồm cả sản xuất nông nghiệp (trung bình 5,8%/năm kể từ những năm đầu thập kỷ 90), nhanh hơn khu vực công công nghiệp và dịch vụ.

* Ba là, việc sử dụng đất trồng và nhân công bị hạn chế do những vấn đề về nhân khẩu học. Việc tăng dân số không ngừng dẫn tới phải giảm đáng kể diện tích đất trồng do mở rộng làng xã, xây dựng cơ sở hạ tầng và đô thị hoá.

3.1.1.2. Định hướng

Xuất phát từ thực trạng và mục tiêu trên, chúng ta cần lưu ý phát triển

sản xuất lúa gạo theo một số định hướng sau đây:

* Thứ nhất: tăng cường thâm canh tăng năng suất lúa gạo, kết hợp khai hoang, tăng vụ ở những nơi có điều kiện trong đó tập trung vào định hướng có tính chiến lược lâu dài là thâm canh tăng năng suất lúa. Đây là một định hướng đề cập trong tất cả các đại hội Đảng thời gian gần đây vì nó xuyên suốt quá trình phát triển nền kinh tế gắn với nông nghiệp của nước ta và sẽ là kế hoạch phát triển cho tương lai. Định hướng này cho phép chúng ta bảo đảm mục tiêu lớn nhất là an ninh lương thực quốc gia, tăng sản lượng gạo đồng thời có thể chuyển các loại lúa canh tác trong thời vụ hiệu quả nhằm đem lại năng suất cao nhất.

* Thứ hai: đa dạng hoá trong sản xuất lúa gạo bao gồm chủng loại gạo, phẩm chất các giống lúa gạo và người sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu. Theo định hướng này thì đa dạng hoá phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường trên cơ sở nhu cầu và biến động của thị trường quốc tế để sản xuất. Cụ thể là chủng loại gạo bao gồm gạo thường, gạo đặc sản phẩm cấp các loại gạo được cung cấp phong phú với cùng một mặt hàng lúa gạo nhưng có nhiều giống thuần chủng và siêu thuần chủng, nguồn sản xuất được định hướng theo quy mô lớn, nhỏ khác nhau.

77

* Thứ ba: tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để vừa tăng năng suất và sản lượng lúa gạo cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, vừa không ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu đồng thời bảo vệ được môi trường sinh thái. Yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái khi áp dụng khoa học kỹ thuật là hoàn toàn cần thiết vì nếu không tính đến yếu tố này sẽ rất dễ gây nên tình trạng ứng dụng không hợp lý các thành tựu công nghệ hiện đại, tăng cao năng suất lúa nhưng phá hoại môi sinh môi trường, ảnh hưởng

nghiêm trọng đến đời sống của con người, nhất là trong tương lai. Vì vậy Chính phủ cần có những quy định cụ thể và chi tiết hơn.

Theo số liệu của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mục tiêu và

định hướng sản xuất lúa gạo năm 2000 được khái quát như bảng sau:

Bảng 3.1. Mục tiêu cụ thể của sản xuất gạo năm 2010

Chỉ tiêu Năm 2010

Diện tích đất Diện tích đất trồng Năng suất Sản xuất (quy thóc) Xuất khẩu (quy gạo) 4,1 – 4,2 triệu ha 7,5 triệu ha 50 – 55 tạ/ha 38 – 40 triệu tấn 4 – 4,5 triệu tấn

Nguồn: Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

3.1.2. Định hướng và mục tiêu xuất khẩu gạo 3.1.2.1. Cơ chế mới

Theo quyết định 46/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ mới ban hành về cơ chế xuất nhập khẩu các mặt hàng trong năm năm 2001 – 2002 có một số thay đổi liên quan đến gạo xuất khẩu, cụ thể là:

- Chính phủ quyết định chính thức bãi bỏ cơ chế giao hạn ngạch xuất khẩu gạo và việc quy định doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuất khẩu. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được xuất khẩu gạo nếu có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản.

- Những hợp đồng xuất khẩu gạo sang một số thị trường có sự thoả thuận của Chính phủ ta với Chính phủ các nước (hợp đồng Chính phủ), sau khi trao đổi với Hiệp hội lương thực Việt nam được giao cho Bộ Thương mại chỉ định và chỉ đạo doanh nghiệp làm đại diện giao dịch, kí kết hợp đồng.

- Việc xuất khẩu theo kế hoạch trả nợ, viện trợ của Chính phủ, thực hiện

theo cơ chế đấu thầu hoặc quyết định riêng của Thủ tướng chính phủ.

78

- Để đảm bảo lợi ích nông dân, ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong nước, giảm bớt khó khăn đối với hoạt động sản xuất, lưu thông lúa gạo và phân bón khi thị trường trong ngoài nước có biến động, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét, quyết định các biện pháp can thiệp có hiệu quả vào thị trường lúa gạo.

Quy định trên của Thủ tướng Chính phủ đã mở rộng hướng đi cho các nhà xuất khẩu. Không còn các đầu mối nên mọi thành phần kinh tế đều có thể tự do ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài sau khi đã đăng ký kinh doanh. Cơ chế mới đã thông thoáng hơn rất nhiều so với cơ chế ban hành trước đây song cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, đòi hỏi một sự quản lý chặt chẽ, thường xuyên của các ngành, các cấp, tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, ép giá của các doanh nghiệp nhằm thao túng thị trường và thu lợi cao nhất. 31.2.2. Định hướng và mục tiêu xuất khẩu gạo

Cơ chế mới ban hành trong thời điểm chúng ta bước sang thế kỷ mới với những cơ hội và thách thức mới là một công cụ để thực hiện các mục tiêu đặt ra với sản xuất gạo, tăng lượng gạo xuất khẩu, mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng đảm bảo hiệu quả hơn trong xuất khẩu. Thực chất mục tiêu này hướng vào tăng số lượng, cải thiện chất lượng có nghĩa là tăng tổng kim ngạch gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó việc mở rộng thị trường cũng được các nhà hoạch định chiến lược coi trọng vì thị trường là cái đích mà các nhà xuất khẩu hướng đến. Ba mục tiêu trên được tiến hành song song đảm bảo cho gạo sản xuất ra có thể xuất khẩu tạo thành một quá trình thông suốt đồng thời phù hợp với các mục tiêu của sản xuất lúa và xu thế phát triển chung của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn mới.

Cũng như trong sản xuất lúa gạo, trong xuất khẩu để thực hiện các mục

tiêu đã đặt ra cần có các định hướng. Cụ thể là:

- Thứ nhất: đa dạng hoá chủng loại gạo cấp cao nhập khẩu đáp ứng nhu

cầu đa dạng của thị trường thế giới.

- Thứ hai: đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo trong đó tập trung vào

những thị trường tương đối ổn định về số lượng và chất lượng.

- Thứ ba: đa dạng hoá hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu gạo để có thể

đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phức tạp của khách hàng.

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo

3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô

3.2.1.1. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu

79

Những năm gần đây, gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước và Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo xuất khẩu còn thiếu quy hoạch, chưa đa dạng hoá chủng loại hàng, hệ thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn nhiều yếu kém, lại

phân bổ không hợp lý. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng còn ít, tập trung chủ yếu tại TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đầu mối xuất khẩu bó hẹp trong khu vực TP Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí vận chuyển và các chi phí trung gian. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn chưa xác định được chiến lược về thị trường và chiến lược sản phẩm rõ ràng, chưa thiết lập được hệ thống thị trường, bạn hàng lớn ổn định và vẫn còn tình trạng bán qua trung gian, tranh mua, tranh bán ở thị trường nước ngoài. Khâu điều hành xuất khẩu tầm vĩ mô còn nhiều lúng túng, không kịp thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu về nguồn hàng và ký kết hợp đồng.

Để nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới thì vấn đề đặt ra hiện nay chính là hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo. Năm 2001, với cơ chế bãi bỏ hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy được ưu thế của mình, giải quyết được những vướng mắc trong vấn đề quản lý, tránh tình trạng độc quyền nhưng cũng gây nhiều khó khăn mới cho các cơ quan chức năng về kiểm soát lượng gạo xuất khẩu, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.

Vì vậy, cùng với quyết định này cần đưa ra các giải pháp đồng bộ để

ngăn chặn những vướng mắc mới phát sinh. Cụ thể là:

* Thứ nhất: khi bãi bỏ đầu mối hạn ngạch các cơ quan có trách nhiệm cần đánh giá sản lượng thóc để định hướng và công bố ngay tổng mức dự định sẽ xuất khẩu ở năm sau từ cuối năm trước để doanh nghiệp dựa vào đó xác định thời gian và tiến độ, chủ động điều tiết các hoạt động của mình cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Chính phủ chỉ đạo giao cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh và các ngành có liên quan theo dõi, tạo điều kiện hỗ trợ về vốn, tổ chức tốt hơn nữa việc mua lúa cho nông dân vào đúng thời điểm thu hoạch nhằm có những biện pháp bảo quản hàng hoá tốt và ngăn chặn không cho giá xuống.

80

* Thứ hai: vì không còn hạn ngạch và đầu mối, số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sẽ tăng. Nhà nước cần có biện pháp sắp xếp một cách hợp lý, khuyến khích những doanh nghiệp có đủ khả năng, hạn chế sự ồ ạt quá mức của các doanh nghiệp còn non kém về kinh nghiệm, yếu về tài chính. Nhà nước có thể quy định một số quy định đối với doanh nghiệp được kinh doanh xuất khẩu gạo như phải có giấy phép kinh doanh, phải có số vốn tối thiểu quy định, có kho hàng đủ điều kiện và thuận tiện cho xuất khẩu và việc cho kiểm tra của các cơ quan thuế, cơ quan thương mại, đồng thời có một lượng tồn kho nhất định thường xuyên.

* Thứ ba: đối với một số hợp đồng nhất là hợp đồng mua bán gạo cấp Chính phủ nên duy trì trong cơ chế quy định khuyến khích doanh nghiệp tham gia đấu thầu và chỉ định tham gia đấu thầu khi cần thiết. Đối với các trường hợp doanh nghiệp phải dừng hoặc hủy hợp đồng để đảm bảo lợi ích của quốc gia thì nên có các hỗ trợ về tài chính khi có thiệt hại.

* Thứ tư: Chính phủ cần quản lý chặt chẽ các gian lận trong xuất khẩu gạo bằng cách phối hợp các ngành có liên quan. Hiện nay, gian lận thương mại được giấu dưới các hình thức tinh vi có sự phối hợp giữa các bên đối tác nhằm mục đích kiếm lời. Việc hạn chế này sẽ đảm bảo chênh lệch giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và thế giới.

* Thứ năm: tích cực xúc tiến hình thành các trung tâm giao dịch và xuất khẩu gạo để hỗ trợ cho việc điều hành xuất khẩu không theo đầu mối tạo điều kiện nâng cao trình độ xuất khẩu gạo, là cơ sở để Nhà nước điều tiết các hoạt động này.

Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức trên mới chỉ bao quát được tình hình quản lý xuất khẩu của Chính phủ ta trong giai đoạn mới. Thực hiện các giải pháp trên đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của các ngành các cấp đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ nhằm đạt được hiệu quả tối ưu nhất. 3.2.1.2. Các giải pháp về luật pháp, chính sách

Để hướng tới một ngành gạo xuất khẩu đồng bộ, ổn định trong tương lai gần, chúng ta cần có một hệ thống luật pháp với các quy định được ban hành cụ thể rõ ràng tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh với khả năng cạnh tranh cao của mặt hàng. Cụ thể là:

* Thứ nhất: thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như xin giấy phép xuất khẩu, các thủ tục hải quan, thuế... cần được cải cách triệt để, tránh phiền hà sách nhiễu, tạo sự thông thoáng trong hoạt động và các bước đi của các doanh nghiệp, giảm thiểu thời gian, chi phí không cần thiết và các hiện tượng tiêu cực khác. Cần quy định rõ chức năng, quyền hạn của các cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương tới địa phương, nâng cao chất lượng làm việc trong các cơ quan nhà nước, xoá bỏ tệ hách dịch, cửa quyền trong xuất nhập khẩu, đồng thời đẩy mạnh công tác trau dồi trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cho cán bộ công chức hành chính Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng như đạo đức và trách nhiệm trong công việc.

81

* Thứ hai: hướng dẫn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu gạo tham gia ký kết các hợp đồng kinh doanh gạo, tránh tình trạng bị giá quy định quá cao hoặc quá thấp.

* Thứ ba: tích cực có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu gạo mà hỗ trợ tín dụng xuất khẩu là biện pháp hữu ích nhất. Hiện nay, Nhà nước đã có quy định về quy chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu qua quyết định số 133/TTG của Thủ tướng Chính phủ. Các hoạt động cho vay vốn lưu động, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng... của Quỹ về mặt nghiệp vụ giống như các Ngân hàng thương mại nhưng với lãi suất cho vay là lãi suất ưu đãi (lãi cho vay vốn lưu động bằng 80% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển) trong thời gian 720 ngày. Gạo xuất khẩu là mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt trong trường hợp xuất sang thị trường mới hoặc để duy trì thị trường truyền thống theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ cho vay vốn dưới hai hình thức là cho vay trước khi giao hàng và cho vay sau khi giao hàng. Đối với cho vay trước khi giao hàng, các doanh nghiệp được vay vốn ngắn hạn mua gạo để thực hiện hợp đồng xuất khẩu với mức vay không quá 80% giá trị L/C hoặc không quá 70% giá trị hợp đồng xuất khẩu. Việc cho vay sau khi giao hàng được thực hiện sau khi đơn vị đã có hối phiếu hợp lệ với mức cho vay tối đa bằng 90% trị giá. Để cho vay trước khi giao hàng, các doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố, thế chấp trị giá tối thiểu 30% số vốn vay. Đối với cho vay hối phiếu hợp lệ, đơn vị phải xuất trình hối phiếu kèm theo bộ chứng từ hàng xuất. Năm 2000 vừa qua, nghiệp vụ cho vay trước khi giao hàng đã phải chịu rủi ro khi Chính phủ giao cho các ngân hàng cho vay dự trữ 1 triệu tấn lương thực, khi kiểm tra mới thu mua có 66%, doanh nghiệp đóng ở Hà Nội, nhưng thu mua ở khắp mọi nơi, tận đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì vậy, trong hoạt động năm tới cần phải quản lý đảm bảo chặt chẽ, hạn chế rủi ro ở mức độ tối đa. Trên tổng thể, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ để đảm bảo cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước.

82

* Thứ tư: Nhà nước cần hoàn thành luật thuế về kinh doanh lương thực đảm bảo bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường phải tuân thủ, tránh trốn thuế và đầu cơ gây các cơn sốt lương thực trên thị trường. Khi trong nước ta đã đảm bảo được an ninh lương thực thì có thể cho rằng xuất khẩu càng nhiều gạo càng tốt. Chúng ta chấp nhận giá gạo trong nước tăng lên một chút để khuyến khích sản xuất lúa gạo, giảm bớt được phần nào chênh lệch giữa thu nhập của nông dân và thành thị vì chi tiêu về lương thực chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong chi tiêu đời sống hàng ngày của dân thành thị. Trong tương lai không xa, chúng ta có thể

bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo vì cho dù thuế có làm tăng thu ngân sách nhưng vẫn cản trở thương mại tự do.

* Thứ năm: Nhà nước tích cực áp dụng các quy chế thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp làm tốt công tác này nhằm mục đích động viên khuyến khích những thành tích xuất sắc và hiệu quả cao. Căn cứ theo tiêu chuẩn của Quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thể được khen thưởng theo hai tiêu chuẩn: mở rộng thị trường xuất khẩu đã có hoặc mở thêm thị trường mới có hiệu quả với mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm sau so với năm trước là 20% và mức tăng trưởng tuyệt đối từ 500.000 USD trở lên (tiêu chuẩn 5.2); mặt hàng gạo xuất khẩu đạt chất lượng quốc tế (tiêu chuẩn 5.3). Đây là những tiêu chuẩn khá cao, để đạt được cần sự nỗ lực của doanh nghiệp. Trước năm 2001, khi còn quy định về đầu mối, hạn ngạch thì gạo xuất khẩu không được xét thưởng, nay bỏ cơ chế này thì gạo được coi như các mặt hàng khác và có thể được xét thưởng nếu đạt những thành tích cao trong xuất khẩu. Việc tổ chức khen thưởng hàng năm được thực hiện một cách công khai, công bằng và đúng với những quy định tại các quyết định, quy chế đã ban hành. Việc lấy ý kiến của công luận trên các phương tiện thông tin đại chúng phối hợp với cơ quan hải quan của hội đồng xét thưởng khi kiểm tra hồ sơ phải đảm bảo không để xảy ra sai sót đáng tiếc. Có những doanh nghiệp xuất khẩu gạo vẫn chưa hiểu đúng, thậm chí chưa biết những nội dung cơ bản trong Quy chế do việc hướng dẫn thông tin còn chưa thật đầy đủ. Chính vì vậy, Quy chế thưởng xuất khẩu thời gian tới vẫn cần có sự bổ sung, hoàn thiện để phát huy mạnh mẽ hơn nữa, tác dụng động viên khuyến khích doanh nghiệp, phù hợp với cơ chế mới về xuất nhập khẩu gạo đã có sự thay đổi.

Nhìn chung, Nhà nước nên nhất quán chính sách, có biện pháp khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu gạo, tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới của doanh nghiệp Việt Nam. 3.2.1.3. Các giải pháp về đầu tư

83

Cũng như tất cả các ngành nghề khác trong nền kinh tế, ngành sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam muốn phát triển cần có chính sách đầu tư thoả mãn, hợp lý. Hơn nữa, gạo là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, vì vậy cần được đầu tư xứng đáng với vị trí chiến lược của nó trong nền kinh tế hiện nay của đất nước ta.

Để tăng cường đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm

tới, Nhà nước cần tập trung đầu tư trong các lĩnh vực sau:

* Thứ nhất, đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất. Đây là điều kiện tiên quyết để sản xuất có thể hiệu quả. Hệ thống này cần phải được trang bị hiện đại, đồng bộ, phù hợp với môi trường môi sinh, đảm bảo cho sức cạnh tranh của lúa gạo. Cơ sở hạ tầng cần được chú trọng nhất ở các khâu sản xuất, chế biến bằng việc lắp đặt, sử dụng các máy móc mới, công suất cao, cải tiến hệ thống điện nước, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý chất lượng gạo.

* Thứ hai, đầu tư phát triển nguồn nhân lực phục vụ sản xuất lúa gạo. Các nhà khoa học, kỹ sư nông nghiệp và nông dân trực tiếp sản xuất chính là những người quyết định sự phát triển ngành lúa gạo của nước ta nên cần có chính sách đầu tư một cách hợp lý, đội ngũ này về cả chất lượng và số lượng. Nhà nước cũng cần hỗ trợ giáo dục đào tạo trong ngành nông nghiệp để có được những cán bộ có trình độ, tâm huyết với nghề, đem kiến thức của mình vận dụng trong nghiên cứu khoa học, cung cấp thường xuyên cho họ những sách báo, tạp chí khoa học, những thông tin cập nhật về các thành tựu khoa học mới ở trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho họ nâng cao kiến thức, tiếp cận với nền sản xuất lúa gạo của các nước có kỹ thuật tiên tiến.

Với người nông dân, cần chuyển giao đến từng hộ những thông tin về kỹ thuật, kinh tế, tạo điều kiện cho họ học hỏi, nâng cao dân trí. Các cấp huyện, xã cần tổ chức giới thiệu giông lúa mới, cách gieo cấy, chăm sóc có hiệu quả, tránh tình trạng chỉ áp dụng kinh nghiệm lâu năm trong nghề trồng lúa mà coi nhẹ những ứng dụng khoa học công nghệ mới. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân vì để sản xuất lúa gạo xuất khẩu có chất lượng cao cần tuân thủ quy trình kỹ thuật ngặt nghèo và tốn kém. Hỗ trợ vốn dưới hình thức tín dụng sẽ bắt người nông dân phải hoàn lại vốn dưới hình thức lãi suất ưu đãi nên buộc họ phải năng động sáng tạo, tìm cách để kinh doanh có hiệu quả cao để hoàn trả lại số vốn đi vay, xoá bỏ thói quen ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước như khi hỗ trợ cho họ dưới hình thức trợ cấp.

84

* Thứ ba, đầu tư vào nghiên cứu các ứng dụng khoa học công nghệ. Cũng như tất cả các ngành khác, trong sản xuất lúa gạo, khoa học công nghệ là lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư để trở thành động lực mới cho sự phát triển, trong đó cần đầu tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu về công nghệ sinh học gắn với nghiên cứu chuyển giao để giúp nông dân tiếp cận và

sử dụng được những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại về giống, phân bón, thuốc trừ sâu... nhằm có được những sản phẩm có chất lượng cao, sức cạnh tranh với các loại gạo của Thái Lan, Mỹ... trên thị trường thế giới.

Chúng ta cần khắc phục những khó khăn về vấn đề kinh phí cho nghiên cứu khoa học để phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với các nước khác. Nhà nước cần phát huy vai trò chỉ đạo của các cơ sở nghiên cứu chính là các viện, các trường đại học, đồng thời huy động mọi lực lượng khác tham gia nghiên cứu trong đó có các doanh nghiệp, nông trường... Mặt khác, Nhà nước cần khuyến khích đầu tư xây dựng các hệ thống trang trại nghiên cứu - thực nghiệm triển khai về giống, thuỷ nông, bảo vệ thực vật, cải tạo đất ở các khu vực sản xuất.

* Thứ tư, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng và các dịch vụ phục

vụ xuất khẩu gạo. - Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng cho xuất khẩu.

Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cung cấp nguồn gạo chủ yếu cho xuất khẩu của nước ta hiện nay. Gạo được thu mua và xuất sang nước ngoài qua các cảng khẩu. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu ở vùng này nói riêng và cả nước nói chung có rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, chi phí vận chuyển gạo của nước ta bị đẩy lên cao. Dù chi phí này thường do khách hàng trả vì giá gạo tính theo giá FOB nhưng lại bị trừ trong giá sản phẩm nên người chịu thiệt thòi cuối cùng vẫn là các doanh nghiệp xuất khẩu. Gạo xuất khẩu thường tập trung về Sài Gòn, nơi diễn ra hoạt động xuất, nhập của rất nhiều loại hàng nên dễ dẫn đến sự ùn tắc. Vấn đề đặt ra cần tạo sự thông suốt về vận tải, khâu cuối cùng của xuất khẩu gạo. Cảng Sài Gòn là cảng quan trọng nhất nên cần được đầu tư, nâng cấp, cải tiến lại hệ thống kho bãi, phương tiện bốc dỡ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển xuất khẩu gạo đúng thời gian và tiến độ.

85

Một giải pháp nữa cho sự tắc nghẽn là Chính phủ nên tập trung đầu tư, xây dựng, cải tạo lại một số cảng ở đồng bằng sông Cửu Long theo phương pháp dàn trải, tránh tập trung vào một cảng như hiện nay. Cần có những sửa chữa, nâng cấp để biến một số cảng như Long An, Mỹ Tho, Cần Thơ... thành những cảng có chất lượng tốt, có thể là cảng chuyên dùng cho xuất khẩu. Đặc biệt là cảng Cần Thơ, một cảng khẩu có vị trí chiến lược, nếu được đầu tư xây dựng sẽ tác động tích cực đến sản xuất lúa gạo đồng bằng sông Cưu Long, đẩy nhanh tiến độ CNH - HĐH khu vực này, tạo sự lưu thông lúa gạo thuận tiện cho vùng sản xuất lúa và cho xuất khẩu, đồng thời chi phí vận

chuyển từ đồng bằng lên cảng Sài Gòn sẽ giảm đáng kể. Ngoài ra, cần nâng cấp các cảng khẩu ở khu vực miền Bắc nhằm phục vụ cho gạo xuất khẩu ở đồng bằng sông Hồng, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào khu vực phía Nam.

Song song với các cầu cảng, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần ký kết hợp đồng với các cơ quan của bộ giao thông vận tải, bảo đảm đúng tiến độ vận chuyển từ nơi sản xuất, dự trữ và xuất khẩu. - Phát triển dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải phục vụ xuất khẩu gạo.

Hiện tại, giá gạo bán của ta cho các nhà nhập khẩu là giá FOB, tạo cho chúng ta tâm lý an toàn khi xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra trên đường vận chuyển. Tuy nhiên chúng ta không phát triển được đội hàng hải và bảo hiểm, giá lại cao so với CIF. Vì vậy cần đưa ra giải pháp đẩy mạnh dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải bằng cách liên doanh với các hãng bảo hiểm danh tiếng quốc tế tạo tâm lý yên tâm, tín nhiệm với khách hàng, phát triển khả năng vận tải hàng hải. Mục tiêu của Chính phủ đến năm 2010 là xây dựng một đội tàu quốc gia đủ sức chở 99% khối lượng hàng nội địa, 40% khối lượng hàng nhập khẩu và tham gia chở thuê cho nước ngoài. Với những thế mạnh trên, nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam có thể chào hàng theo giá CIF và thu được lợi nhuận từ những dịch vụ bảo hiểm, hàng hải đồng thời tạo điều kiện phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn việc làm cho nhân công trong ngành trên.

3.2.1.4. Các giải pháp về thị trường • Thứ nhất: nghiên cứu và xây dựng thị trường.

Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra của sản phẩm. Nghiên cứu thị trường là nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. Công tác nghiên cứu thị trường cần được tổ chức tập trung, khách quan và khoa học. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu biết về các đặc tính, thói quen tiêu dùng, thị hiếu của các khu vực thị trường cũng như nắm bắt thông tin về các biến động trên thị trường, đồng thời cho phép đánh giá tiềm năng và quy mô thị trường. Từ đó thực hiện xâm nhập và thích ứng với thị trường, tạo thế cạnh tranh để mở rộng thị phần của mình.

86

Để nghiên cứu thị trường gạo - mặt hàng có thị hiếu tiêu dùng đa dạng- Nhà nước cần hình thành các trung tâm chuyên trách cho ngành gạo để khai thác, cung cấp thông tin về giá cả thị trường, tình hình hoạt động của các thành viên trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời các chính sách mới của

Nhà nước cho các nhà xuất khẩu. Hệ thống thông tin phải thật chính xác, cập nhật để có những phản ứng linh hoạt trước những biến động của thị trường. Xây dựng thị trường xuất khẩu gạo là một đòi hỏi mang tính cấp thiết và chiến lược. Nhà nước cần tạo lập và đặt mối quan hệ thương mại với các nước có nhu cầu lớn về xuất khẩu gạo, tranh thủ khai thác các mối quan hệ để ký các hiệp định xuất khẩu gạo hoặc các bản thoả thuận phối hợp, hợp tác với các nước để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đồng thời có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường bên ngoài. Trong quá trình xuất khẩu gạo, cần tranh thủ gây dựng uy tín thương mại quốc tế đối với các bạn hàng, từng bước tạo thói quen ưa chuộng, tiêu dùng gạo Việt Nam, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường. • Thứ hai: các thị trường mục tiêu.

Việc lựa chọn các thị trường mục tiêu cho xuất khẩu gạo trong những năm tới là vấn đề khá nan giải. Điều quan trọng đối với Việt Nam hiện nay là sắp xếp các phân đoạn thị trường xuất khẩu gạo theo thứ tự ưu tiên và hiệu quả kinh tế, đầu tư vốn cho sản xuất, chế biến, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, tạo tiền đề cho xuất khẩu gạo trong tương lai.

Những năm sắp tới, chúng ta tập trung xuất khẩu gạo vào những thị

trường tiêu biểu sau:

* Một, thị trường gạo phẩm cấp thấp. Đây là thị trường tập trung những nước nghèo tiêu thụ gạo chất lượng thấp (tấm 25-35%) như Ấn Độ, Philippin, các quốc gia châu Phi...

87

+ Thị trường ổn định gạo bao gồm các nước ASEAN như Philippin, Malayxia... Đây là một thị trường quan trọng cần hướng tới. Về cơ bản giữa nước ta và các nước ASEAN, cơ cấu hàng xuất khẩu tương tự như nhau. Tuy nhiên ta cần khai thác những ưu thế và giá nhân công rẻ so với nhiều nước trong khu vực địa lý, và trong tương lai nằm trên hệ thống đường bộ và đường sắt xuyên Á và chế độ ưu đãi thuế quan trọng nội bộ các nước ASEAN để tăng mức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ vào thị trường này đặc biệt là các mặt hàng nông sản như gạo. Mặc dù chúng ta gặp sự cạnh tranh gay gắt với Thái Lan về gạo nhưng chúng ta có chỗ đứng tại các nước Inđônêxia, Singapo, Philippin... Chúng ta đã có hướng đi đúng khi liên doanh với các nước trồng lúa cao sản để cung cấp ổn định cho thị trường thế giới với hiệu quả cao. Chúng ta nhận định rằng trong thời kỳ đến năm 2010 thì ASEAN vẫn là thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu của Việt Nam.

+ Thị trường không ổn định là những thị trường nhập gạo của Việt Nam với số lượng không đồng đều như Trung Quốc và các nước Châu Phi. Với số dân 1,3 tỉ người và vị thế địa lý thuận lợi, Trung Quốc hứa hẹn là nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu gạo sang nước này gặp nhiều khó khăn do sự đồng nhất về mùa vụ. Những năm nhu cầu nhập khẩu gạo của Trung Quốc lớn do mất mùa thì chúng ta không đáp ứng đủ với nguyên nhân các tỉnh miền Bắc gặp thiên tai. Năm 1995, khi Trung Quốc cần nhập nhiều lương thực nhất, nhưng chính phủ ta có lệnh cấm xuất khẩu bằng đường tiểu ngạch qua biên giới vì khó khăn về lúa gạo ở miền Bắc. Ngược lại, năm 1997, khi chúng ta thừa gạo cần cho tiêu thụ, Chính phủ ta đã cho phép địa phương được giao dịch để bán cho Trung Quốc nhưng không thực hiện được. Điều đó chứng tỏ tính chất bấp bênh trong quan hệ thương mại với Trung Quốc là thị trường lớn nhưng không ổn định. Chính vì vậy, trong những năm tới chúng ta cần có những điều chỉnh thích hợp để điều hoà thị trường đầy tiềm năng này.

Tương tự như Trung Quốc, thị trường các quốc gia châu Phi rất có triển vọng đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam nhưng cũng gặp nhiều khó khăn. Khu vực này luôn có những bất ổn định về chính trị, khó có khả năng thanh toán nên lượng gạo nhập từ Việt Nam dù nhiều nhưng không ổn định. Tuy nhiên khu vực vẫn là bạn hàng rất lớn của Việt Nam và chúng ta phải tập trung khai thác trong những năm tới.

* Hai, thị trường gạo phẩm chất cao bao gồm các nước nhập khẩu gạo

chất lượng cao của Việt Nam bao gồm:

- Thị trường EU: hiện nay kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam vào thị trường này chưa lớn do có sự cạnh tranh gay gắt của gạo Thái Lan. Tuy nhiên trong tương lai, khi chúng ta nâng cao được chất lượng gạo thì đây là một thị trường rất có tiềm năng. Các chuẩn mực kinh doanh của EU đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải thật sự năng động, đảm bảo chất lượng gạo và giữ chữ tín trong giao dịch, buôn bán, từng bước xuất khẩu trực tiếp gạo Việt Nam vào khu vực này.

88

- Thị trường Mỹ: là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nhưng Mỹ cũng có nhu cầu nhập khẩu. Năm 2001, Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ được ký kết, các doanh nghiệp Việt Nam có thể hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ nên gạo của ta có thể tiếp cận và xâm nhập vào thị trường này dễ dàng hơn. Trong tương lai, chúng ta cần mở rộng quan hệ để có mức

xuất khẩu gạo ổn định vào thị trường Mỹ nói riêng cũng như các nước châu Mỹ nói chung.

- Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là nước tiêu thụ gạo đòi hỏi chất lượng cao. Do vậy, các doanh nghiệp của ta cần nắm bắt xu thế này để đầu tư trang thiết bị nâng cao chất lượng sản phẩm mới có thể có chỗ đứng trên thị trường, nhất là khi Nhật Bản giảm mức bảo hộ đối với mặt hàng gạo theo quy định của WTO.

- Thị trường Trung Đông: đây là khu vực gồm những nước giàu có trên thế giới, có nhu cầu cũng như khả năng thanh toán, giao dịch thương mại quốc tế... Do chưa hiểu biết nhiều về bạn hàng và thị trường ở khu vực này nên kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước này không đáng kể. Bước đầu gạo Việt Nam đã có chỗ đứng và được ưa dùng tại Iran, Irac... Trong tương lai, khu vực này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Nhìn chung, gạo chất lượng thấp của Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao với thị trường châu Á và châu Phi rộng lớn nên cần khai thác mức độ tối đa. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách thúc đẩy đầu tư vào sản xuất nâng cao chất lượng gạo, kết hợp với các chính sách Marketing thị trường của Chính phủ để đưa mặt hàng cao cấp xâm nhập thị trường các nước tiêu thụ loại hàng này với giá cao. Do vậy, chúng ta phải biết kết hợp giữa việc giữ vững các thị phần đã xuất khẩu, chuyển dần sang sản xuất và xuất khẩu gạo cao cấp và đặc sản để đi vào thị trường cao cấp, thu được giá trị xuất khẩu cao hơn.

Như vậy, thị trường xuất khẩu gạo còn rộng mở, khả năng tham gia vào thị trường gạo của Việt Nam ngày càng tăng. Trong những năm tới, chúng ta cần thực hiện hoạt động xuất khẩu gạo sao cho có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền kinh tế quốc dân. 3.2.2. Chiến lược Marketing-mix

89

Vai trò của xuất khẩu trong đó có xuất khẩu gạo đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong văn kiện đại hội Đảng IX. Đó là mục tiêu quan trọng, tạo điều kiện cho đất nước ta thực hiện CNH-HĐH và nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để nâng cao vị thế của gạo Việt Nam, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế, chúng ta cần có một chiến lược cụ thể nhằm đẩy mạnh, xúc tiến xuất khẩu gạo, tăng kim ngạch là tiền đề quan trọng đáp ứng nhu cầu về vốn trong hoạt động đối ngoại.

Đề ra các giải pháp theo quan điểm Marketing-mix hình thành hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo là cần thiết để chiếm lĩnh thị trường thế giới bao gồm chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Mục đích của các chính sách này là tạo điều kiện cho xuất khẩu có thể cạnh tranh và có vị trí cao trên thị trường nước ngoài với chi phí thấp nhất. Các đề xuất nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo mang tính chiến lược dưới đây sẽ liên quan đến hầu hết các vấn đề sản xuất, chế biến, dự trữ lưu thông lúa gạo trong những năm sắp tới.

3.2.2.1. Chính sách sản phẩm

Sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Đối với sản phẩm xuất khẩu, khách hàng nước ngoài có những đặc tính về văn hoá khác biệt nên yêu cầu càng khắt khe hơn. Chính sách sản phẩm của gạo xuất khẩu được trình bày bao gồm các giải pháp trong khâu sản xuất, chất lượng và chủng loại...

Tình hình sản xuất gạo của nước ta đã và đang được phát triển theo xu

hướng tốt cần được khai thác toàn diện về chiều rộng và chiều sâu.

* Thứ nhất, về giống lúa, từ ngàn xưa kinh nghiệm của ông cha để lại thì giống lúa chỉ là yếu tố đứng thứ tư (sau ba nhân tố khác là nước, phân bón, nhân công) nên không coi trọng vai trò của giống lúa đối với sản xuất.

90

Ngày nay, giải pháp về giống lúa cần đi trước một bước, kể cả nghiên cứu, triển khai và việc áp dụng vào thực tiễn nhằm tạo ra những tiền đề cơ bản cho các giải pháp kỹ thuật khác phát huy có hiệu quả. Khi nghiên cứu cải tiến giống lúa hay nhập các loại giống mới phục vụ cho xuất khẩu cần chú ý các yêu cầu như năng suất cao, có khả năng thích nghi với các vùng địa lý, khí hậu của Việt Nam, đạt hiệu quả cao trong quá trình chế biến và có khả năng thoả mãn nhu cầu của khách hàng thế giới. Thời gian từ khâu thử nghiệm đến khâu sản xuất đại trà cần được rút ngắn nhưng đồng thời phải giữ được độ an toàn khi đưa các giống lúa này ra áp dụng. Cần đầu tư cho khoa học, tập trung nhân giống mới chất lượng cao, giúp nông dân đẩy mạnh xuất khẩu lúa thơm xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị trường, tăng tỷ trọng giống lúa này lên cơ cấu xuất khẩu gạo trong những năm tới để đáp ứng thị trường châu Âu, châu Mỹ và các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Singapo... và số lượng đông đảo Việt kiều sống ở nước ngoài. Trong thời gian tới nên tập trung các vùng chuyên canh sản xuất các loại gạo đặc sản như Tám thơm, Nàng Hương, nếp cái hoa vàng... với sản lượng lớn dành cho xuất khẩu. Bên cạnh đó cần khắc phục tình trạng

giảm sút về chất lượng của một số giống gạo đặc sản truyền thống nhằm khôi phục hương thơm vốn có của chúng.

Diện tích chuyên sản xuất lúa hàng hoá xuất khẩu cũng cần được quy hoạch cụ thể. Để có vùng chuyên canh lúa xuất khẩu ổn định cần thực hiện theo nguyên tắc: vùng không phải đánh thuế đất, thóc sản xuất ra phải được tiêu thụ hết với lợi nhuận ít nhất phải bằng trồng lúa hàng hoá tiêu thụ trong nước. Muốn vậy phải có sự ràng buộc chặt chẽ, cụ thể về pháp lý và kinh tế giữa cơ quan chức năng với người dân. Với các cơ quan khoa học và khuyến nông là chất lượng giống và quy trình thâm canh, với các cơ quan quản lý Nhà nước là giám sát và xử lý các sai phạm trong quá trình thực hiện. Trên nguyên tắc đó, khâu giống phải do các Viện và phân viện, các trung tâm khoa học kỹ thuật nông nghiệp các vùng đảm nhận và họ phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước khâu tuyển chọn, du nhập và phổ biến các quy trình kỹ thuật thâm canh cho người dân. Để các cơ quan khoa học kỹ thuật làm tốt các chức năng này cần đầu tư ngân sách cho họ và kết quả của công tác này phải được xem là tiêu chuẩn quan trọng trong nhiệm vụ chính trị của họ. Đông thời, Nhà nước cần có các chính sách vừa có tính chất khuyến khích vừa có tính chất bắt buộc các doanh nghiệp làm chức năng xuất khẩu tham gia vào công tác nghiên cứu và chuyển giao giống lúa chất lượng cao cho dân. Những đơn vị có nhiều đóng góp trong công tác này sẽ được khuyến khích, khen thưởng một cách hợp lý.

* Thứ hai, về phân bón, đây là giải pháp kỹ thuật cần phải được tiến hành đồng bộ với giải pháp về giống lúa do vai trò của phân bón đối với năng suất lúa và chất lượng gạo. Chúng ta cần duy trì các loại phân hữu cơ truyền thống bón lúa vì giá thành rẻ, phù hợp với điều kiện kinh tế của nông dân Việt Nam và không gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, theo xu thế chung ở các nước nông nghiệp các trình độ tiên tiến, chúng ta có thể tăng dần tỷ trọng hai loại phân hữu cơ công nghiệp và vi sinh, giảm dần phân bón hoá học kết hợp với nhập khẩu các loại phân hoá học tổng hợp. Nhà nước cần tăng cường quản lý một cách chặt chẽ đảm bảo cung cấp phân bón có chất lượng cho dân sản xuất, bảo vệ lợi ích cho họ cũng như hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo.

* Thứ ba, về vấn đề cải tiến kỹ thuật canh tác lúa.

91

Ở hầu hết các địa phương, công tác khuyến nông đã được chú trọng nhằm hướng dẫn nông dân các kỹ thuật canh tác tiên tiến, nhưng nhìn chung hiệu quả còn hạn chế vì lực lượng khuyến nông còn mỏng, mạng lưới nông

dân tham gia khuyến nông còn quá ít. Việc cơ giới hoá sản xuất tiến hành rất khó khăn do quy mô sản xuất còn nhỏ. Trong những năm tới, Nhà nước cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn bao gồm: thuỷ lợi, tăng diện tích đất canh tác, cung cấp điện phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển giao thông nông thôn. * Thứ tư, về các khâu sau thu hoạch.

Hiện nay chúng ta vẫn chủ yếu sấy thóc bằng năng lượng mặt trời và có tỷ lệ gãy nát cao lúc xay xát, không đảm bảo chất lượng. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, cần nghiên cứu trang bị những thiết bị sấy có quy mô phù hợp và tận dụng các loại nhiên liệu có sẵn tại địa phương. Công nghệ xay xát và chế biến cần được trang bị hiện đại hơn, có công suất phù hợp, tăng tỷ lệ gạo thu hồi với chất lượng cao. Mục tiêu trong những năm tới sẽ là lắp đặt thêm những trung tâm chế biến gạo nhằm khắc phục những khó khăn trong tái chế theo cách đối phó hiện nay. Chúng ta nên chú trọng chọn lựa và trang bị máy xay xát nhỏ có công nghệ tốt tăng tỷ trọng thu hồi, chất lượng gạo tốt phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và các cơ sở tái chế để xuất khẩu.

Cải tiến kỹ thuật công nghệ và hệ thống kho dự trữ bảo quản việc cất giữ, hạn chế những ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu nước ta là những biện pháp để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Cụ thể, chúng ta cần sắp xếp lại hệ thống kho chứa, bố trí một cách hợp lý và khắc phục những kho chưa đạt tiêu chuẩn quy định, đặc biệt là các kho dự trữ xuất khẩu và xây dựng thêm những kho mới, hiện đại ở một số trọng điểm, tạo điều kiện thuận lợi cho cất trữ, bảo quản lúa gạo. Bên cạnh đó, chúng ta phải áp dụng các công nghệ bảo quản tiên tiến: bảo quản kín gạo, sát trắng, gạo lật bằng cách sử dụng màng PVC trong khí CO2 hoặc khí Nitơ trong các kho dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh, bảo quản mát thóc gạo ở một số cụm kho dự trữ quốc gia hiện đại, đòi hỏi vốn đầu tư lớn để có thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu gạo khác, sản xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh vật, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây độc hại cho người và gia súc, không làm nhiễm bẩn môi trường để bảo quản lương thực trong kho tập trung và phương tiện cất trữ ở gia đình.

92

Với những đầu tư về sản xuất như trên, trong những năm tới, chất lượng gạo của Việt Nam sẽ thay đổi, đạt được hiệu quả cao trong sản xuất và xuất khẩu. Đây là một yếu tố quan trọng có thể quyết định được tương lai

của ngành gạo Việt Nam vì một trong những nhược điểm lớn của chúng ta là chất lượng gạo. Khắc phục được yếu điểm này sẽ giúp chúng ta tăng được giá bán, thu hút nhiều khách hàng mua với số lượng lớn, qua đó tăng được kim ngạch xuất khẩu gạo. Các giải pháp về sản phẩm gạo cần phải thực hiện một cách thống nhất, toàn bộ và đạt được hiệu quả tối ưu.

3.2.2.2. Chính sách giá

Chính sách giá là chính sách khó đưa ra nhất trong Marketing-mix. Định giá cho hàng bán nội địa đã khó, định giá cho hàng xuất khẩu đặc biệt cho những hàng nông sản luôn biến động như gạo lại càng khó hơn. Chính sách giá quyết định tổng kim ngạch xuất khẩu và lợi nhuận. Ngay cả khi chất lượng gạo tốt, có phương pháp xúc tiến xuất khẩu đúng và giá bán đúng thị trường song giá không thích hợp thì những nỗ lực trong các chính sách khác cũng không mang lại nhiều kết quả. Vì lẽ đó, chính sách giá trong Marketing-mix có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Muốn có chính sách giá gạo xuất khẩu đúng đắn, cần tiến hành nghiên cứu tình hình thị trường, phân tích chi phí sản xuất và chi phí Marketing. Có nhiều yếu tố cần phải cân nhắc trước khi đi đến thiết lập giá xuất khẩu trong đó có yếu tố kiểm soát được và những yếu tố không thể kiểm soát.

* Tình hình chung

Như đã phân tích, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam dù có xu hướng tăng trong thời gian gần đây nhưng vẫn thấp hơn so với giá gạo cùng loại của các nước khác như Thái Lan, Mỹ...

Nguyên nhân của tình trang trên do nhiều yếu tố khách quan và chủ

quan từ phía Nhà nước và người sản xuất lúa gạo.

93

- Về khách quan: thị trường gạo thế giới và khu vực đã xuất hiện xu hướng cung lớn hơn cầu. Đặc biệt vào cuối năm 2000, đầu năm 2001 xu hướng trên càng trở nên phổ biến, số lượng lúa gạo sản xuất tăng và nhu cầu tiêu thụ giảm. Sản lượng nhập khẩu của các nước Inđônêxia, Philippin giảm từ 50% đến 70% so với năm 1999. Còn ở các khu vực khác như Trung Đông, châu Phi thì nhu cầu nhập khẩu gạo cũng không tăng do mức tiêu dùng gạo có xu hướng giảm dần. Trong lúc đó, sản lượng sản xuất lúa gạo của các nước có nhiều diện tích lúa như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bănglađét, Inđônêxia, Thái Lan, Philippin đều có xu hướng tăng hoặc ổn định. Hai nước Lào và Campuchia không chỉ tự túc đủ lương thực mà bước đầu có dư thừa để xuất khẩu gạo.

- Về chủ quan: sản xuất gạo tuy có nhiều tiến bộ vượt bực nhưng nhìn chung đến nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng tự phát, tự cấp, tự túc và phân tán theo quy mô hộ gia đình. Tập quán sản xuất gạo để tiêu dùng và bán ra thị trường trong nước khi thừa vẫn còn rất nặng nề trong nhiều hộ nông dân ỏ miền Bắc và miền Trung. Công tác quy hoạch và định hướng của Nhà nước nhiều khi chỉ dừng lại ở các chủ trương, chưa được cụ thể hoá bằng các giải pháp kinh tế tài chính, nên chưa có tác dụng tích cực cho sản xuất lúa gạo. Thông tin kinh tế, thông tin thị trường gạo vừa thiếu, vừa chậm nên không có tác dụng định hướng cho người nông dân. Vai trò của Nhà nước về cung cấp thông tin thị trường lúa gạo chưa phát huy tác dụng tích cực. Vai trò của các doanh nghiệp, các chủ trang trại và các hộ nông dân trong sản xuất lúa gạo đến nay vẫn còn mờ nhạt. Khuyết điểm phổ biến của người nông dân là chạy theo năng suất và số lượng, ít quan tâm đến chất lượng vệ sinh môi trường và giá cả. Do vậy, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước ta vần còn thấp so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới. Đầu ra cho lúa gạo vẫn chưa có một chiến lược rõ ràng, lâu dài mà chỉ có tính chắp vá nhất thời nên chưa ổn định. Việc Chính phủ dùng biện pháp hỗ trợ lãi suất tín dụng để mua lúa gạo tạm trữ tuy có tác dụng tích cực nhưng việc thực hiện cũng rất khó khăn và chưa có tính bền vững. Vì vậy, đã đến lúc cần có một chiến lược giá cả phù hợp và hiệu quả hơn cho gạo xuất khẩu. Việc định giá là cần thiết và được tiến hành lần lượt theo từng bước.

* Các bước định giá hàng xuất khẩu

- Bước một: xác định mục tiêu cho việc định giá. Chiến lược định giá hàng xuất khẩu phải phù hợp với mục tiêu tổng thể. Với ba mục tiêu đã nêu trên của xuất khẩu gạo thì giá cả đưa ra cũng phải theo sát nhằm đảm bảo sự nhất quán trong các chính sách của Nhà nước ta.

- Bước hai: phân tích tình hình thị trường và hành vi của người nhập

khẩu gạo.

Dựa trên thị trường gạo thế giới, chúng ta có thể thiết lập các loại giá phù hợp với chủng loại và chất lượng gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần đánh giá tình hình cạnh tranh của gạo Việt Nam đối với các nước xuất khẩu khác. Muốn cạnh tranh được phải dựa vào các biến số Marketing khác để làm cho gạo Việt Nam tốt hơn các loại gạo cùng loại của đối thủ cạnh tranh như chất lượng, dịch vụ phân phối và xúc tiến bán hàng.

94

- Bước ba: tính chi phí.

Chi phí sản xuất gạo là nhân tố cơ bản trong việc định giá, đòi hỏi phải tinh thông về nghiệp vụ tính toán và bám sát các hoạt động sản xuất và Marketing. Những nhân tố cơ bản cần phải bám sát là chi phí sản xuất lúa gạo, chi phí xay sát chế biến, vận chuyển, phân phối... Tuy nhiên, vai trò của việc phân tích chi phí không phải để xác định giá gạo xuất khẩu mà để giúp cho việc thiết lập một khung giá theo điều kiện thị trường.

- Bước bốn: thiết lập các khung giá mục tiêu. Để đưa ra một khung giá mục tiêu, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nên cố gắng xác định cơ hội thị trường với khả năng giành lợi nhuận bằng cách xem xét lại những phạm vi giá đã đưa ra và được thị trường chấp nhận, đồng thời xem xét phần chi phí và trên cơ sở đó đưa ra một giá đúng cho từng loại gạo xuất khẩu.

Giá gạo xuất khẩu cũng liên quan chặt chẽ tới các kênh phân phối được sử dụng, hình thức bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng, khả năng giao hàng nhanh hay chậm và mức thuế quy định ở từng nước.

- Bước năm: báo giá. Dựa vào khung giá đã được định ra, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ làm báo giá cụ thể gửi cho nhà nhập khẩu theo yêu cầu cụ thể của họ. Trong báo giá này, nhà xuất khẩu cần cung cấp chi tiết về giá chính xác của gạo và các điều kiện cụ thể về việc cung cấp gạo.

* Các chính sách giá cụ thể - Chính sách giá mua. Giá mua là nền tảng quan trọng cho việc định giá bán. Chính sách giá mua cũng đồng thời nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên trường thế giới và thúc đẩy sản xuất. Dựa trên cơ chế giá thị trường, chúng ta cần nghiên cứu các giải pháp sau: + Một, cần giảm thiểu chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất gạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phân bón, giống, nhân công, năng suất lúa... Hiện nay, chi phí sản xuất lúa gạo Việt Nam nhìn chung thấp hơn so với các nước chân Á, đặc biệt là so với Thái Lan, đối thủ cạnh tranh chính của chúng ta do điều kiện tự nhiên thuận lợi, mức độ đầu tư phân bón thấp nhưng có năng suất tương tự như các nước khác, chi phí nhân công rẻ...

95

Chính vì vậy, trong những năm tới chúng ta cần phát huy lợi thế này, tiếp tục giảm thiểu chi phí sản xuất, yếu tố quyết định giá gạo xuất khẩu ra thị trường thế giới.

+ Hai, chính sách giá mua. Gạo Việt Nam được sản xuất theo thời vụ trong khi nhu cầu của các nước nhập khẩu thì thường không đổi trong suốt cả năm. Do đó, giá gạo trong khâu mua thường xuyên biến động, tăng cao khi khan hiếm và giảm và vụ thu hoạch. Sự không ổn định đó về giá kéo theo nguy cơ mất lợi nhuận, gây tâm lý lo lắng cho người nông dân. Chính vì vậy, cần có những biện pháp ổn định giá mua trong đó có mô hình giá bảo hộ gián tiếp. Với mô hình này, Chính phủ không can thiệp trực tiếp vào cơ chế thị trường nhưng áp giá sàn để kiểm soát sự biến động của thị trường gạo. Việc Chính phủ mua gạo tạm trữ là một ví dụ để điều tiết giá. Tuy nhiên, cần tính toán một cách hợp lý, tránh tình trạng tạm trữ gạo trở thành “con dao hai lưỡi”, tạm trữ khi giá xuất khẩu tăng cao rồi sau đó lỗ vốn khi bán ra với giá thấp. Nhà nước nên quản lý lúa gạo và đảm bảo an ninh lương thực thông qua điều tiết thuế. Khi giá lúa xuống quá thấp hay giá xuất khẩu tăng cao, có thể cần thiết cho một số doanh nghiệp có năng lực, có đơn đặt hàng được vay ưu đãi bằng nguồn quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ xuất khẩu trong thời hạn nhất định, không nhất thiết phải đưa ra giá sàn để căn cứ vào đó mà ngân hàng, ngành thuế tính mức ưu đãi, bởi vì giá cả luôn biến động theo thị trường thế giới.

- Chính sách giá xuất khẩu. Ở Việt Nam, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kéo theo việc giá gạo xuất khẩu giảm đáng kể so với gạo cùng chất lượng của các nước xuất khẩu khác. Do đó, cần phải có một chính sách giá chung giữa các nhà xuất khẩu Việt Nam. Năm 1992, Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ra đời nhưng không đảm nhiệm được vai trò của mình. Hơn nữa, lúa gạo là một sản phẩm sản xuất theo thời vụ, phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên trong khi nhu cầu luôn ổn định nên chúng ta cần phải dự báo những thay đổi của thị trường dựa trên những thông tin chính xác để đưa ra một mức giá hợp lý cho gạo xuất khẩu.

96

Giá bán của gạo còn phụ thuộc vào các điều kiện và phương thức thanh toán. INCOTERM 2000 do Phòng thương mại quốc tế đã định nghĩa một cách chính xác tới điểm giao hàng và việc phân chia trách nhiệm giữa người bán và người mua. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam do thiếu kinh nghiệm nên thường bán gạo theo giá FOB để giảm các trách nhiệm liên quan nên đã mất đi nhiều lợi ích đáng kể. Hiện tại, Việt Nam đang là một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nên cần phải thay đổi cách thức bán hàng và chọn giá phù hợp đồng thời có thể mang lại lợi nhuận tối đa cho đất nước.

- Nghiên cứu chính sách giá của các nước xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan. Đây là một việc cần làm ngay vừa mang tính chất học hỏi, vừa biết được các biện pháp áp dụng của đối thủ để có được những đối sách cạnh tranh phù hợp. Nhằm giữ giá lúa không để sụt xuống quá thấp gây thiệt hại cho nông dân, Chính phủ Thái Lan những năm qua đã có một số biện pháp cụ thể là:

+ Một, công bố thông tin rộng rãi về lúa gạo trên các phương tiện thông

tin đại chúng và các trung tâm lúa gạo.

+ Hai, thực hiện biện pháp làm giảm cung lúa ra thị trường, cho nông dân cầm cố (thế chấp) số lúa của mình chưa bán được do giá thị trường trong nước xuống thấp để vay tiền của Ngân hàng hay của các tổ chức khác. Số lượng thóc nhận thế chấp khá lớn, có năm lương thực lên tới hai triệu tấn. Việc thế chấp vay tiền giữ lúa lại được quy định khá cụ thể về các điều kiện. Ví dụ giá lúa để tính giá trị giá thóc thế chấp bằng 80% mức giá sàn được công bố vụ lúa đó, quy đinh độ ẩm và những tiêu chuẩn khác về chất lượng, mức vay tiền không quá 90% trị giá lúa cầm cố, quy định thời gian trả nợ không quá 5 tháng, có kiểm tra, giám sát để ngăn ngừa người vay tiền bán thóc thế chấp mà không trả nợ, đến hạn trả nợ, nếu giá thị trường thấp hơn giá lúa lúc vay thì nông dân được trả theo giá lúa thị trường lúc trả nợ, phần chênh lệch giá do Nhà nước chịu, ngược lại, nếu khi trả nợ giá lúa thị trường lên cao hơn giá lúc vay thì nông dân chỉ phải trả theo giá lúc vay.

+ Ba, Chính phủ áp dụng những biện pháp làm tăng cầu lúa gạo trên thị trường. Một số biện pháp thường được áp dụng cho phép phòng ngoại thương thuộc bộ Thương mại bán gạo “G_TO_G” ngay từ đầu vụ thu hoạch. Ngân hàng cho các nhà máy xay và các nhà xuất khẩu gạo vay để mua lúa, gạo với lãi suất thấp. Năm 2001, 20 tỉ bạt đã được cấp qua Ngân hàng EXIMBANK để thu mua lúa cho việc xuất khẩu gạo.

Qua các biện pháp điển hình trên của Thái Lan chúng ta cần rút ra những mặt tích cực để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của xuất khẩu gạo Việt Nam nhằm đạt hiệu quả tối ưu, nâng cao sức cạnh tranh của xuất khẩu gạo nước ta trên thị trường thế giới.

3.2.2.3. Chính sách phân phối

97

Chính sách phân phối trong Marketing-mix phụ thuộc vào hai yếu tố: sự yêu thích sản phẩm hàng và các kênh phân phối mà người sản xuất có thể cung cấp. Để cho một kênh phân phối hoạt động cần tính đến nhu cầu và thái

độ của thị trường mục tiêu tiềm năng. Chúng ta cần có các biện pháp nâng cao hiệu quả của chính sách phân phối trong giai đoạn tới. Cụ thể là:

* Tổ chức lại khâu mua. Việc tổ chức tốt quá trình lưu thông phân phối gạo trên thị trường có ý nghĩa đối với khâu mua gạo cho xuất khẩu đồng thời đảm bảo cho vấn đề an ninh lương thực quốc gia.

- Tổ chức lại mạng lưới lưu thông lương thực. Hiện nay mạng lưới lưu thông lương thực chịu sự chi phối của thị trường của thành phần tư nhân quá lớn, dẫn đến tình trạng chèn ép giá, cạnh tranh không lành mạnh, đầu cơ, buôn lậu. Quá trình hình thành giá gạo trên thực tế đã bị bóp méo do đội ngũ tư nhân mang tính độc quyền tại địa phương. Để giảm bớt sự thua thiệt về nhiều mặt cho người dân, gần đây Chính phủ có các chính sách trợ giá nông sản song tác dụng rất hạn chế do quy mô hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước có giới hạn. Báo cáo của viện Nghiên cứu lúa cho thấy chỉ có khoảng 1,9% lượng lúa hàng hoá được các doanh nghiệp Nhà nước thu mua trực tiếp từ nông dân. Vì vậy, nên điều chỉnh quá trình lưu thông lương thực hàng hoá bằng cách yêu cầu các doanh nghiệp Nhà nước đặt thêm hệ thống kho trung chuyển xuống các địa phương để tổ chức mua gạo từ các cơ sở xay xát nhỏ chuyển về. Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực của hệ thống tiêu thụ lúa gạo, đặc biệt là hệ thống các chợ trung tâm lúa gạo (chợ đầu mối) là cần thiết và thúc bách. Chợ đầu mối khác so với chợ thông thường ở các làng xã ở chỗ, chợ thông thường chủ yếu làm chức năng liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ, còn ở chợ đầu mối, các doanh nghiệp thương mại phải xây dựng giá, thông tin, kiểm soát an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường...

98

Những chợ đầu mối đầu tiên được tổ chức một cách có quy mô đã xuất hiện tại châu Âu vào cuối thế kỷ XIX. Ngày nay, chợ buôn bán đầu mối đã trở thành một phần không thể thiếu được trong mạng lưới phân phối lúa gạo cho các đô thị lớn. Tại các quốc gia phát triển, các chợ buôn bán đầu mối đã trở thành các trung tâm phân phối lúa gạo lớn. Ở Thái Lan, các trung tâm lúa gạo là kênh tiêu thụ gạo quan trọng nhất vì mua tới 60% lúa do nông dân sản xuất ra. Trung tâm lúa gạo là điểm tập trung của những người bán và mua lúa, vừa tạo nên được một sự cạnh tranh khiến việc mua bán diễn ra công bằng, khắc phục được tình trạng nông dân bị ép giá do không có thông tin về thị trường, tránh được gian lận trong cân đong và xác định chất lượng lúa.

Ngày 6/6/2001, Chính phủ đã có quyết định số 223/QĐ-TTg nhấn mạnh việc hình thành các chợ trung tâm lúa gạo tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang gấp rút chỉ đạo Tổng công ty lương thực Việt Nam nghiên cứu các điều kiện cần thiết để có thể nhanh chóng triển khai các chợ đầu mối tiêu thụ gạo tại Cai Lậy (Tiền Giang), Thanh Bình (Đồng Tháp), Tân Thạnh (Long An). Bộ Thương mại cũng có tờ trình số 263/1/2001/BTM ngày 9/7/2001 trình Chính phủ về việc thành lập các trung tâm giao dịch nông sản hướng về xuất khẩu tại Việt Nam.

Theo thiết kế, chợ lúa gạo đầu mối Thanh Bình (Đồng Tháp) bởi có ưu thế thu hút lúa gạo của Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang. Chợ sẽ ưu tiên xây dựng chính sách vật chất hạ tầng hiện đại theo mô hình của các chợ lúa gạo đầu mối của Thái Lan và tổ chức thêm nhiều loại dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Chợ thứ hai được mở ở Phú Cường huyện Cai Lậy (Tiền Giang), bao gồm: kho chứa, nhà máy xay xát, đánh bóng, chế biến. Chợ rất thuận tiện cho giao thông thuỷ bộ. Phú Cường thường thu hút lúa gạo từ Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp về. Tại chợ, ngoài mua bán lúa gạo, công ty lương thực Tiền Giang sẽ tổ chức thêm các loại dịch vụ trọn gói cho bà con nông dân như cung ứng và phân bón, máy nông nghiệp, xăng dầu, phụ tùng xay xát, chế biến, các mặt hàng tiêu dùng, liên kết với ngân hàng mở tín dụng ngay tại chợ. Chợ thứ ba sẽ được xây dựng ở Thạnh Đông huyện Tân Thanh (Long An) với diện tích khoảng 3 ha sử dụng, vốn dự đoán là 11 tỉ đồng.

Theo nhận định của các nhà kinh tế, chợ lúa gạo ra đời sẽ làm thay đổi tập quán mua bán lâu đời của nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Tuy đang ở trong giai đoạn thủ tục nhưng dự án rất mang tính khả quan nên đã có chương trình hỗ trợ của nhiều doanh nghiệp. Trước mắt, ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần (20-30% tổng vốn đầu tư) để xây dựng cơ sở hạ tầng và cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. Dự kiến cuối năm 2002 các chợ lúa gạo trung tâm ỏ đồng bằng sông Cửu Long sẽ đi vào hoạt động.

99

Việc xây dựng các chợ lúa gạo cần được thực hiện trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng nhu cầu giao dịch trên thị trường gồm cả nhu cầu về các dịch vụ xay xát chế biến. Đặc biệt, không được coi việc hình thành các chợ đầu mối là việc đầu tư cơ sở hạ tầng để cho các cá nhân hay tổ chức thuê chỗ mà phải coi đó là nơi các tổ chức, cá nhân đến để giao dịch, như vậy mới tránh được

tình trạng độc quyền vị trí. Bên cạnh đó, việc hình thành các chợ trung tâm lúa gạo này cần phải được thực hiện dần dần từng bước, vừa giảm chi phí đầu tư, vừa tạo điều kiện để người sản xuất cũng như các tổ chức kinh doanh lúa gạo có điều kiện tiếp cận, làm quen với các phương tiện giao dịch hiện đại. Ngoài ra, để các chợ lúa gạo trung tâm này hoạt động có hiệu quả thì ngoài việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, thuận lợi, thì cần thiết lập cơ chế quản lý tốt, luật lệ giao dịch rõ ràng, với hiệu lực thi hành đảm bảo, có thoả thuận mang tính hợp đồng với những tổ chức, cá nhân tham gia vào chợ, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên có trình độ nghiệp vụ và trách nhiệm cao.

- Tổ chức mua lúa hàng hoá kịp thời cho nông dân và tổ chức dự trữ

lương thực.

Trong những năm qua, Chính phủ đã áp dụng một số giải pháp tình thế để tổ chức mua lúa hàng hoá một cách kịp thời theo từng vùng như lấy quỹ bình ổn giá hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước một phần trong lãi suất ngân hàng hoặc có khi quỹ bình ổn giá trợ lãi suất toàn phần, đồng thời chỉ đạo hệ thống ngân hàng cho các doanh nghiệp Nhà nước vay dưới hình thức tín chấp để các doanh nghiệp có vốn mua lúa. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Nhà nước rất ít tham gia mua lúa trực tiếp của nông dân, mà chủ yếu mua gạo nguyên liệu hoặc thành phẩm của tầng lớp tư thương trung gian. Như vậy, nông dân luôn gặp bất lợi do giá lúa quá rẻ tuy lúa hàng hoá được tiêu thụ hết nhưng thu nhập của họ không tăng, bị buộc phải tái sản xuất lúa. Để giải quyết vấn đề tiêu thụ lúa hàng hoá một cách cơ bản, khi chuẩn bị bước vào kỳ thu hoạch lúa, Chính phủ có thể phân chia địa bàn cụ thể cho các doanh nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh lương thực và Cục dự trữ quốc gia chịu trách nhiệm chính trong việc thu mua lúa hàng hoá. Các đơn vị được phân công xuống địa bàn mình phụ trách để ký kết hợp đồng nguyên tắc đối với những người chuyên đi gom mua lúa. Khi có hợp đồng, các nhà cung ứng và các doanh nghiệp đều lập phương án vay vốn và khi các doanh nghiệp tiêu thụ được gạo thì phải tiến hành giao dịch thanh toán qua ngân hàng mà mình vay vốn mua lúa, gạo nguyên liệu. Qua các giải pháp trên, lúa hàng hoá có thể được bảo đảm mua kịp thời vụ, ổn định giá cả, đảm bảo cho nông dân sản xuất lúa có lãi thoả đáng, nhờ sự phân công chuyên môn hoá hợp lý giữa các thành phần tham gia.

100

Về vấn đề tổ chức dự trữ lương thực cần được thực hiện tốt đảm bảo cho yếu tố ổn định nguồn cung cấp lương thực trong chính sách an toàn

lương thực quốc gia. Trong cơ cấu mặt hàng dự trữ, đối với dự trữ quốc gia tới hạn trung bình khoảng một năm và dự trữ của nông dân tại nơi sản xuất thì dự trữ bằng lúa sẽ thích hợp hơn, còn dự trữ của các doanh nghiệp thông thường từ một đến ba tháng nên có thể dự trữ gạo thành phẩm hoặc bán thành phẩm thì bắt buộc phải đảo kho, đưa lúa gạo cũ ra tiêu thụ và nhập lúa gạo mới về để duy trì chất lượng sản phẩm luôn luôn tốt. Trong khi đó, lúa cũ khoảng 6-12 tháng là nguyên liệu thích hợp để chế biến gạo xuất khẩu có chất lượng tốt nhất, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của nhiều nước nhập gạo trên thế giới. Như vậy, nếu Cục dự trữ quốc gia kết hợp việc đảo kho lương thực dự trữ bảo hiểm để cung ứng lúa gạo cho các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ góp phần rất tốt để ổn định nguồn cung ứng gạo xuất khẩu có chất lượng cao, tăng đáng kể hiệu quả xuất khẩu gạo nói chung và hiệu quả dự trữ bảo hiểm lương thực nói riêng.

Trong thời gian tới, Chính phủ cần nâng mức dự trữ gạo lên 2 triệu tấn và thực hiện ngay trước khi thời vụ Đông-Xuân bắt đầu, một nửa trong số đó là mua hàng hoá của Chính phủ, một nửa còn lại thực hiện theo cơ chế tạm trữ do các doanh nghiệp thực hiện như lâu nay. Con số 2 triệu tấn nói trên là căn cứ vào tình hình thực tế hai năm 2000 và 2001, con số thực tế các năm sau này phải căn cứ vào tình hình sản xuất, khả năng xuất khẩu và diễn biến chỉ số giá hàng tiêu dùng. Chúng ta cần đứng trên quan điểm chung để mạnh dạn xử lý, không nên quá dè dặt, bỏ lỡ những cơ hội tốt xảy ra.

* Tổ chức khâu xuất khẩu.

Nhà nhập khẩu nước ngoài thường tiếp xúc trực tiếp với nhà xuất khẩu gạo hoặc qua trung gian Việt Nam để nhập khẩu gạo. Thời gian thường kéo dài từ 22 đến 30 ngày. Đôi khi thời gian này tăng lên do những thủ tục về giấy tờ. Ví dụ như một nhà xuất khẩu được phép xuất 30.000 tấn gạo muốn xuất 10.000 tấn tại cảng Cần Thơ và 20.000 tấn tại cảng TP Hồ Chí Minh thì phải xuất trình chứng từ ở cả hai cảng. Khi hàng hoá đã sẵn sàng vẫn phải đợi giấy phép của Bộ Thương mại và mất rất nhiều thời gian để giải quyết.

101

Theo kinh nghiệm của những nhà xuất khẩu trước kia, cần có những chuyên gia giỏi để giải quyết các vấn đề trên. Họ có khả năng làm nhanh chóng các thủ tục hành chính liên quan đến xuất khẩu gạo. Khâu trung gian có thể giải quyết những chi tiết quan trọng. Ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu gạo với số lượng lớn cũng sử dụng các dịch vụ trung gian quốc tế đối với một số thị trường. Những doanh nghiệp này biết cách hoàn thành những thủ tục phức tạp. Xu hướng hiện nay của các nhà xuất khẩu là phát triển các

kênh trực tiếp. Tuy nhiên, cần có thời gian để xác lập quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng ở dạng kênh này.

Việc phân phối hàng hoá bao gồm vận chuyển và dự trữ hàng hoá trong suốt thời gian thực hiện kênh phân phối. Hiện nay, chi phí gửi hàng ở Việt Nam khá cao, cơ sở hạ tầng cầu cảng không tốt là những bất lợi của Việt Nam so với các nước xuất khẩu khác. Cụ thể là chi phí cảng, chi phí bốc dỡ xếp hàng và các chi phí liên quan tại cảng Sài Gòn khoảng 40.000 USD/tàu công suất 10.000 tấn (chiếm 1,6% giá gạo xuất khẩu) trong khi chi phí này ở Bangkok chỉ bằng một nửa. Ngoài chi phí cảng, tốc độ bốc dỡ rất chậm, so với Băngcốc ta chậm hơn 6 lần (nghĩa là tại Sài Gòn bốc dỡ được 1.000 tấn/ngày thì Băngcốc là 6.000 tấn/ngày). Chậm trễ do sửa chữa và bốc xếp hàng thường làm tốn thêm khoảng 6.000 USD/ngày. Những hạn chế nói trên làm mất cơ hội về giá và đương nhiên người trồng lúa phải chịu dưới hình thức giá FOB thấp hơn.

Những bất lợi của ta về vận chuyển, bốc dỡ không thể khắc phục trong thời gian ngắn được, nhưng chúng ta cần nhận thức sâu sắc về điều đó để tìm ra những giải pháp hợp lý nhất để nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Hiện tại, các tàu đến cảng Sài Gòn không thể xuất phát sau 3 giờ chiều và đến trước 9 giờ sáng, gây bất tiện và tốn kém cho các tầu nếu không cập cảng trong thời gian trên. Chúng ta có thể cho các tàu chạy trong đêm kênh chở gạo từ cảng này đến bờ biển Trung Quốc, hạn chế phần nào những bất lợi về cơ sở hạ tầng mà chúng ta chưa khắc phục được.

102

Ở chương 2, chúng ta đã nghiên cứu các kênh phân phối gạo xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm tới, chúng ta có thể giảm bớt những bất cập của kênh phân phối hiện tại bằng cách áp dụng mô hình sau:

Sơ đồ 3.1. Mô hình phân phối gạo đề xuất

Người sản xuất

Tư thương

Trạm thu mua

Nhà máy chế

Nhà xuất khẩu

Nhà nhập khẩu-nhà

Bán

Bán lẻ

Người tiêu dùng

Sơ đồ trên có thể chia hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam làm hai khâu. Ở khâu mua, gạo được đưa đến nhà máy chế biến bằng 3 cách: trực tiếp, qua tư thương và qua các trạm thu mua của Nhà nước. Với khâu mua này, chúng ta có thể phát triển mua gạo chế biến bằng cả hai cách trực tiếp và gián tiếp qua trung gian nên người sản xuất chủ động và linh hoạt hơn trong việc bán gạo, tránh tình trạng bị ép giá dẫn đến bán giá rẻ. Tuỳ từng khu vực cụ thể mà ta nên khuyến khích cách thu mua nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất.

103

Ở khâu xuất khẩu chúng ta vẫn vận dụng các kênh cơ bản của Marketing-mix qua kênh cấp 1,2,3,4 tuỳ từng thị trường cụ thể. Tuy nhiên, gạo xuất khẩu Việt Nam từ trước đến nay vẫn phụ thuộc quá nhiều vào trung gian nước ngoài, đặc biệt ở thị trường rất có tiềm năng của ta là châu Phi gây thiệt hại cho ta nhiều về giá gạo. Trong tương lai gần, chúng ta phải hạn chế những nhược điểm này, có thể ký kết hợp đồng trực tiếp với các nước nhập

khẩu gạo và chú trọng sử dụng giá CIF để linh hoạt hơn cho sự lựa chọn mức giá của các nhà nhập khẩu. Chúng ta cần tránh những kênh phân phối quá nhiều trung gian mà tập trung vào các kênh trực tiếp hoặc sử dụng ít trung gian để hạ thấp chi phí, giảm giá bán và tăng số lượng gạo xuất khẩu. Trong những năm tới, cần bổ sung các đại lý tại nước ngoài, đặc biệt là các nước nhập khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam để thuận tiện hơn cho các giao dịch về gạo và đạt được hiệu quả cao nhất.

* Các kênh phân phối gạo của Thái Lan

Đặt trong bối cảnh khu vực và quốc tế, cần thấy rằng các kênh phân phối của Việt Nam còn chưa được Nhà nước quản lý một cách chặt chẽ. Các tư thương và doanh nghiệp Nhà nước còn chưa có sự phối hợp hài hoà trong việc đưa gạo từ người sản xuất đến người tiêu dùng nước ngoài. Chúng ta có thể tham khảo mô hình khâu mua của Thái Lan.

Thương nhân cấp huyện

Thương nhân cấp làng xã

Các đại lý

Các nhà xuất khẩu

Thương nhân cấp tỉnh

Biểu đồ 3.2. Hệ thống lưu thông phân phối gạo ở Thái Lan khâu mua

Chương trình mua lúa của Chính phủ

Cơ sở xay xát huyện hoặc tỉnh

Nông dân

104

Nguồn: Agricultural Marketing Improvement in Thailand Kasetsat University Bangkok 9.1994

Qua mô hình trên, có thể nhận thấy sự quản lý chặt chẽ trong khâu mua gạo xuất khẩu ở Thái Lan. Các kênh phân phối đều là cấp 4 thể hiện được sự phân công lao động hợp lý, chuyên môn hoá cao, tạo hiệu quả tối ưu cho các nhà xuất khẩu Thái Lan tung gạo ra thị trường thế giới.

3.2.2.4. Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh

Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh trong điều kiện thị trường ngày nay, ngành xuất khẩu gạo Việt Nam không còn có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đẩy mạnh chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Trong những năm tới, ngành gạo Việt Nam còn tập trung vào những nhiệm vụ chính:

* Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường cũng như thị hiếu khách hàng.

Nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu biết về quy luật vận động của chúng sẽ giúp chúng ta đưa ra được những quyết định đúng đắn kịp thời. Để đẩy mạnh xuất khẩu gạo, một giải pháp cần thiết là khơi thông tin cho doanh nghiệp vì thông tin thị trường quốc tế là rất cần thiết phục vụ cho doanh nghiệp và Chính phủ trong việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động thương mại và xúc tiến thương mại. Trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp ngày càng phải quan tâm đến thông tin thị trường gạo quốc tế.

Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thường quan tâm đến hai loại thông tin. Một là thông tin về thị trường các nước nhập khẩu với các số liệu thống kê dân số, ngoại thương, thuế quan, các biện pháp kiểm soát xuất nhập khẩu và ngoại lệ và các thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu, các quy định về vệ sinh và an toàn, đại lý quyền và nhãn mác... Hai là thông tin về sản phẩm, đặc biệt là những cơ hội bán hàng cụ thể. Ví dụ như những yêu cầu về gạo của người nhập khẩu, các thống kê về thương mại, sản xuất và tiêu thụ trên thế giới đối với mặt hàng gạo, dự báo nhu cầu ngắn, trung, dài hạn cũng như thông tin về các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, năng lực, hoạt động, nhãn hiệu, thị phần khách hàng, kỹ thuật kinh doanh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng quan tâm đến các mức giá gạo bán trên các thị trường cụ thể, hệ thống và các tập quán buôn bán và phân phối trên phạm vi quốc gia và quôc tế, các kênh tiếp thị, các điều kiện mua bán, cộng giá, giảm giá, các thông tin về các nhà nhập khẩu, các đại lý, những người mua trực tiếp, các điều kiện thương mại quốc tế, thông tin về vận tải và kỹ thuật xúc tiến xuất khẩu.

105

Như đã phân tích, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay đều thiếu thông tin về thị trường gạo quốc tế, trong khi thông tin đang bùng

nổ mạnh. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của nền kinh tế thị trường nên chưa thực sự quan tâm đến công tác thông tin thị trường gạo quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn đều chưa tổ chức hoặc chưa có cán bộ chuyên trách về thông tin. Chi phí cho công tác thông tin, kể cả tiền mua thông tin không đáng kể, thậm chí không có.

Qua đó, cần có các giải pháp để đưa thông tin từ thị trường quốc tế về cho các doanh nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan, các tổ chức dịch vụ. Những người cung cấp thông tin về gạo biết rõ nhu cầu về thông tin của doanh nghiệp, biết xử lý và phân tích nguồn thông tin, đầu tư cho công tác thông tin và mua thông tin nguồn, tránh cung cấp những thông tin không cần thiết cho doanh nghiệp. Các tổ chức cung ứng thông tin phải hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Chính phủ nên hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi trong việc cung cấp và tiếp cận thông tin, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ về tài chính cho doanh nghiệp được cung cấp thông tin, mua thông tin về gạo và Chính phủ cũng cần hỗ trợ bằng cách trực tiếp cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Trên cơ sở các thông tin thu được, các doanh nghiệp sẽ tiến hành chọn lọc, phân tích rút ra nhận xét, kết luận để làm cơ sở xây dựng các kế hoạch chiến lược, phương án kinh doanh.

* Xây dựng hệ thống thị trường và tăng cường đầu tư cho hoạt động tuyên

truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm.

Thị trường xuất khẩu gạo là vấn đề cần tập trung ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì vậy, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề thị trường, các doanh nghiệp phải chủ động tìm bạn hàng và phương thức kinh doanh thích hợp để xâm nhập, duy trì và mở rộng chỗ đứng trên thị trường gạo thế giới. Các doanh nghiệp cần đa dạng hoá khách hàng và tận dụng cả những hợp đồng có khối lượng không lớn đồng thời cũng có thể thiết lập quan hệ với các tập đoàn xuyên quốc gia là những tổ chức kinh tế vững mạnh có tầm hoạt động rộng, sự am hiểu về thị trường và khả năng về vốn lớn để đảm bảo thị trường xuất khẩu ổn định.

106

Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm gạo cũng đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh nhằm xúc tiến nhanh chóng việc bán hàng, góp phần quyết định vào sự thành công hay thất bại của hoạt động xuất khẩu gạo. Quảng cáo sản phẩm này nhằm mở ra những thị trường mới, củng cố uy tín, nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp và là công tác không thể thiếu được trong xuất khẩu gạo hiện nay. Các doanh nghiệp cần quan tâm

107

đầu tư ngân sách cũng như tuyển dụng những người có năng lực, các chuyên gia giỏi cho quảng cáo vì hoạt động này muốn có hiệu quả lớn thì không phải là vấn đề đơn giản, đặc biệt là khi đối tượng tiếp nhận lại là các khách hàng nước ngoài.

KẾT LUẬN

Gạo đã trở thành mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam. Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu gạo, đặc biệt của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã được khẳng định bằng các số liệu trong những năm gần đây. Để khai thác tiềm năng vốn có, cần có những giải pháp hợp lý, đúng hướng để tham gia vào thị trường thế giới trên cơ sở tận dụng các cơ hội, khắc phục các hạn chế và phát huy các lợi thế.

Với việc sử dụng công cụ Marketing-mix để phân tích, đề tài này nhằm mục đích tìm ra các giải pháp mang tính khả thi cho xuất khẩu gạo Việt Nam. Hiện nay, các nhà hoạch định chiến lược phải đối mặt với nhiều vấn đề quan trọng về chính sách nông nghiệp như khả năng duy trì sản xuất lúa gạo, bảo vệ sản xuất trong nước trước những biến động của thị trường thế giới. Trong các vấn đề quan tâm, cần đặc biệt chu ý đến chất lượng, giá cả và thị trường để có thể nâng cao uy tín của gạo Việt Nam, đưa hạt gạo đến với tất cả các nước có nhu cầu nhập khẩu trên thế giới.

Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam đã phát triển tương đối ổn định với kim ngạch và khối lượng tăng khá cao tuy vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế chưa khắc phục được. Sau khi nghiên cứu, phân tích, đề tài rút ta một số kết luận sau:

• Về sản phẩm: Nhìn chung, gạo xuất khẩu Việt Nam có chất lượng không cao, phần lớn được xuất ra các thị trường như châu Phi, châu Á và châu Mỹ La tinh, phần còn lại khó có thể cạnh tranh được với Thái Lan, Mỹ trên các thị trường nhập gạo cấp cao như Nhật Bản và châu Âu. Nguyên nhân cơ bản vẫn là do chưa có nhiều giống lúa cho chất lượng tốt, công nghệ thu hoạch, chế biến và bảo quản của Việt Nam còn lạc hậu, chưa đáp ứng được các yêu cầu chuyên môn hoá sản xuất gạo xuất khẩu.

• Về giá xuất khẩu: Chính những nguyên nhân về chất lượng sản phẩm đã kéo theo những yếu kém về giá gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Vì chỉ có thể xâm nhập vào những thị trường bình dân hoặc thường bị ép giá trên những thị trường gạo cấp cao nên giá gạo nhìn chung khá thấp so với giá gạo cùng loại của các nước xuất khẩu khác. Trong thời gian gần đây, giá gạo của Việt Nam đã tăng đáng kể, một dấu hiệu tốt cho xuất khẩu gạo của Việt Nam.

108

• Về vấn đề phân phối: Các kênh phân phối gạo hiện tại của Việt Nam còn quá nhiều trung gian, có những bất cập trong khâu thu mua và khâu xuất khẩu gây những hạn chế không nhỏ cho việc quản lý, phân phối gạo đến tay người tiêu dùng nước ngoài.

• Về vấn đề xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh: Hiện tại, xuất khẩu gạo của Việt Nam còn thiếu nguồn thông tin cả từ phía các doanh nghiệp xuất khẩu lẫn khách hàng muốn mua sản phẩm gạo của Việt Nam. Các hoạt động quảng cáo, giới thiệu vẫn còn hạn chế và thiếu tính quy mô. Nhằm phát huy lợi thế vốn có và hạn chế các tồn tại, Nhà nước cần đề ra các chính sách mang tính vĩ mô, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến nâng cao chất lượng, đẩy mạnh và mở rộng quan hệ đối ngoại để tạo điều kiện cho việc thâm nhập và mở rộng thi trường, hoàn thiện tổ chức.

Do chỉ nhìn nhận xuất khẩu gạo theo góc độ của Marketing-mix nên đề tài còn thiếu tính tổng quát. Hơn nữa, thời gian hoạt động thực tế và điều kiện nghiên cứu còn nhiều hạn chế, tài liệu tổng kết và thống kê chưa đầy đủ cùng với sự hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân chưa nhiều nên khóa luận không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của độc giả.

Hà Nội, tháng 12 năm 2001

Sinh viên

109

Phạm Thị Thu Hiền

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Nhật Dũng: “Nâng cao khả năng cạnh tranh, vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 281 tháng 10/2001, trang 47,48,49.

2. Một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu

thụ sản phẩm nông nghiệp, Nghị quyết Chính phủ, 15/6/2000.

3. Đặng Kim Sơn, Phạm Quang Diệu: “Tác động của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đến ngành nông nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 277 tháng 6/2001, trang 15,16,17.

4. Hồ Khánh: “Chợ trung tâm lúa gạo, dự án đột phá cho ĐBSCL”, Thời

báo kinh tế Việt Nam số 96, thứ tư, 8/8/2001, trang 5.

5. Hưng Văn: “Gạo tạm trữ: dao hai lưỡi”, Thời báo kinh tế Việt Nam số

98, thứ tư, 15/8/2001, trang 5.

6. Hoài Linh: “Giá gạo tăng vững”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 37, thứ

sáu, 23/3/2001, trang 1.

7. An Yên: “Nâng cấp gạo, cà phê”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 39, thứ

sáu, 30/3/2001, trang 1.

8. Anh Thi: “Lao đao gạo xuất khẩu”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 33, thứ

sáu, 9/3/2001, trang 1.

9. Nguyễn Thế Nghiệp: “Tiêu thụ gạo đạt mức kỷ lục”, Thời báo kinh tế

Việt Nam số 24, thứ sáu, 23/2/2001, trang 14.

10. Thạc sỹ Đỗ Thị Loan: “Định giá trong Marketing xuất khẩu”, Tạp chí

Thương mại số 11/2001, trang 44,45.

11. Võ Hùng Dũng: “Xuất khẩu lương thực: Thành tựu, thách thức và chính sách”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 278, tháng 7/2001, trang 3,4,5,6,7. 12. Phạm Văn Chung: “Hiện trạng và xu thế phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 5/2001, trang 281, 282.

13. Hoàng Sơn: “Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, một đòi hỏi của thực tế sản xuất”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 8/2001, trang 519, 520.

14. Duy Hiếu, Thanh Hải: “Sản xuất và xuất khẩu gạo trong thời gian qua ”,

Tạp chí Thương mại số 4/200, trang 7.

15. Thuý Nga: “Mậu dịch gạo thế giới thời gian gần đây và triển vọng”, Tạp

110

chí Thương mại số 4/2000, trang 9.

16. Phạm Minh Trí: “Nâng cao khả năng cạnh tranh của xuất khẩu nông sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 4/2001, trang 200, 270.

17. Thạc sỹ Nguyễn Thiện Đức: “ Về cơ chế xuất khẩu gạo”, Tạp chí

Thương mại số 14/2000, trang 11, 12.

18. Đoàn Cung: “Giá gạo khởi sắc nhưng giảm nhẹ trong 3 tháng tới”, Tạp

chí Thương mại số 17/2001, trang 17.

19. Nguyễn Đức Hy: “Doanh nghiệp tham gia đầu tư năng cao khả năng cạnh tranh của thóc gạo miền Bắc trên thị trường”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 2/2001, trang13.

20. Thanh Hải: “Chính sánh gạo 2000/02 của Thái Lan”, Tạp chí Ngoại

thương 21/1-10/2/2001, trang 13.

21. V.Trân: “Thị trường gạo thế giới”, Tạp chí Ngoại thương 21/4-30/4 2001,

trang 5.

22. Anh Thi: “Khơi thông nguồn tin cho doanh nghiệp”, Thời báo Kinh tế

Việt Nam số 124, thứ hai 7/10/2001, trang 12.

23. PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc: “Giá nông sản Việt Nam, nguyên nhân và

giải pháp”, Tạp chí Nông thôn mới tháng 4/2001, trang 13,14.

24. Vương Hoàng Sơn: “Thị trường đầu mối bán buôn sản phẩm, động lực hỗ trợ cho nông nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 9/2001, trang 596, 597.

25. “ Sản xuất, lưu thông, xuất khẩu gạo của Thái Lan và Việt Nam, những chính sách và biện pháp quản lý có liên quan”, Vụ xuất nhập khẩu , Bộ Thương mại, 12/5/2000.

26. TS. Nguyễn Trung Vãn: “Lương thực Việt Nam thời đổi mới, hướng xuất

khẩu”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1998.

27. PGS,TS Nguyễn Bách Khoa, Thạc sỹ Phan Thu Hoài: “Marketing thương

mại quốc tế”, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1999.

28. Giáo trình Marketing đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê,

111

Hà Nội 4/2000.