VIỆN GIA ĐÌNH VÀ GIỚI

NUÔI DƯỠNG TRẺ NHỎ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG CỦA VIỆT NAM: Thực tiễn và vấn đề chính sách

Hà Nội, ngày 22 tháng 01 năm 2013

BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT

Tổ chức Y tế Thế giới WHO

Viện Dinh dưỡng Quốc gia NIN

Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc FAO

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam TLĐLĐVN

Công nhân, nhân viên CN, NV

Chuyên môn cao CM cao

Tiểu học TH

Trung học cơ sở THCS

Trung học phổ thông THPT

Trung cấp TC

Cao đẳng, Đại học CĐ, ĐH

Hộ gia đình HGĐ

LỜI CẢM ƠN

Viện Gia đình và Giới xin trân trọng cảm ơn Hội Nhi khoa Việt Nam đã cộng

tác chặt chẽ và giúp đỡ tích cực, hiệu quả trong quá trình viết báo cáo. Chúng tôi cũng cảm ơn Công ty Nghiên cứu Thị trường TNS vì đã cung cấp toàn bộ số liệu điều tra.

Chúng tôi chân thành cảm ơn những ý kiến góp ý của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Ban Gia đình và Xã hội thuộc Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, và nhiều cơ quan, cá nhân khác. Ý kiến và sự chia sẻ của họ đã góp phần quan trọng giúp nhóm nghiên cứu hoàn thiện hơn báo cáo.

Xin trân trọng cảm ơn các quý vị.

3

TM Viện Gia đình và Giới Viện trưởng Nguyễn Hữu Minh

MỤC LỤC

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU .............................................................................. 5

I. Bối cảnh ra đời nghiên cứu .......................................................................... 5

II. Những phát hiện chính................................................................................ 5

III. Các khuyến nghị chính sách...................................................................... 7

PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU ................................................................................... 8

1. Giới thiệu ....................................................................................................... 8

2. Mục tiêu nghiên cứu....................................................................................... 9

3. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................ 9

4. Mẫu khảo sát ................................................................................................ 10

5. Phương pháp phân tích ................................................................................. 11

6. Hạn chế của phân tích .................................................................................. 12

PHẦN HAI: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 13

I. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ .................................................................. 13

1. Tiêu chuẩn quy định và nội dung phân tích .................................................. 13

2. Hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ .................... 13

3. Cho trẻ bú sớm sau khi sinh.......................................................................... 16

4. Cho trẻ bú đúng cách.................................................................................... 20

5. Tiếp tục cho bú sữa mẹ khi trẻ được 12 tháng tuổi và 24 tháng tuổi ............. 23

6. Thời gian bú sữa mẹ ..................................................................................... 29

7. Nhận thức về các biện pháp giúp tăng sinh nguồn sữa mẹ ........................... 31

II. Thực hành bổ sung thức ăn cho trẻ .............................................................. 34

1. Tiêu chuẩn cho ăn bổ sung và nội dung phân tích......................................... 34

2. Thực hành cho trẻ ăn bổ sung....................................................................... 37

3. Thức ăn bổ sung cho trẻ 7-24 tháng tuổi đủ dinh dưỡng theo khuyến nghị ... 53

4. Kiến thức, nguồn thông tin về thức ăn bổ sung và lựa chọn của các bà mẹ về cách cho trẻ ăn.................................................................................................. 56

PHẦN BA. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ............................. 60

1. Về việc cho bé bú sữa mẹ............................................................................. 60

2. Vấn đề cho ăn bổ sung.................................................................................. 61

Tài liệu tham khảo............................................................................................ 63

4

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

I. Bối cảnh ra đời nghiên cứu

Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, hướng tới một thế hệ tương lai khỏe mạnh về

thể chất và trí tuệ đã và đang là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và mang tính chiến lược của Việt Nam. Trong thập kỷ qua Việt Nam đã thành công trong việc cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giảm từ 33,8% năm 2000 xuống còn 16,8% năm 2010 và tỷ lệ còi cọc giảm từ 36,5% năm 2000 xuống còn 27,5% năm 2010 (Viện Dinh dưỡng 2012). Để tiếp tục phát huy thành tích này, chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030 đã xác định mục tiêu cụ thể: (i) giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em

dưới 5 tuổi xuống còn 15% (năm 2015) và dưới 12,5% (năm 2020); và (ii) giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi xuống còn 26% (năm 2015) và 23% (năm 2020). Để đạt được mục tiêu này, Nhà nước đã có những chính sách quan trọng nhằm nâng cao hiểu biết và tăng cường thực hành dinh dưỡng hợp lý, đúng cách cho bà mẹ phù hợp với từng giai đoạn phát triển của trẻ, theo đúng khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Viện Dinh dưỡng quốc gia Việt Nam (NIN) và các tổ chức có liên quan khác.

Tuy nhiên, để có thể đạt được các mục tiêu chính sách đó, các biện pháp thực hiện phải được xây dựng dựa trên cơ sở thông tin đầy đủ về thực tiễn dinh dưỡng cho trẻ nhỏ hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là những khó khăn đối với việc thực hành dinh dưỡng cho trẻ. Với mục đích đó, Nghiên cứu về thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ ở Việt Nam đã được thực hiện, dựa trên số liệu khảo sát bằng phương pháp phỏng vấn của Công ty Nghiên cứu thị trường TNS với sự tư vấn của Hội Nhi Khoa Việt Nam năm 2012, phân tích sâu hơn các tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng và tình trạng nuôi dưỡng trẻ nhỏ, từ đó nêu ra một số khuyến nghị, giúp cho các nhà hoạch định chính sách xây dựng các giải pháp có hiệu quả hơn để tối ưu hóa kết quả dinh dưỡng cho trẻ nhỏ Việt Nam từ 6 đến 24 tháng tuổi và đạt được các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng.

II. Những phát hiện chính

Chính sách của Nhà nước và nhận thức của người dân về nuôi con bằng sữa

mẹ rất tích cực

Theo số liệu điều tra, tỷ lệ trẻ đã từng được bú mẹ rất cao (98%) và cao hơn so

5

với các nước Đông Nam Á theo phương pháp tính toán của WHO (theo Dữ liệu Toàn cầu của WHO về Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ và các nguồn khác). Thời gian trẻ được bú mẹ cũng trung bình là 15 tháng tuổi. Nhận thức về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam hiện rất cao. Đại đa số các bà mẹ Việt Nam hiểu đầy đủ về

lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ và chỉ có 1,8% phụ nữ trả lời không biết về lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ. Thêm vào đó, phần lớn các bà mẹ biết ngành y tế khuyến cáo cho con bú mẹ đến 24 tháng, và 3 lý do chính thúc đẩy bà mẹ cho con bú đó là họ tin rằng: (i) Sữa mẹ là tốt nhất trong việc tăng cường hệ miễn dịch cho con của họ (91%);

(ii) Việc cho bé bú mẹ trong 6 tháng đầu đời là rất quan trọng (78,2%); và (iii) Cho bé bú mẹ cung cấp dưỡng chất vượt trội cho sự phát triển tối ưu của bé (76%).

Nhà nước cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chính sách quan trọng nhằm bảo đảm việc nuôi con bằng sữa mẹ. Các chiến lược, kế hoạch hoạt động tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ, cùng các chính sách nghiêm ngặt nhằm khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ đã tạo ra được một môi trường pháp lý - xã hội tốt nhất cho việc nuôi con bằng sữa mẹ. Nghị định 21/2006/NĐ-CP ngày 27/2/2006 của Chính phủ về việc kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ em được quốc tế đánh giá là một trong những chính sách bảo vệ việc nuôi con bằng sữa mẹ tích cực nhất, có nhiều điểm vượt xa so với các khuyến nghị của Bộ Quy tắc Quốc tế về bán ra thị trường các sản phẩm thay thế sữa mẹ của WHO. Tuy

nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ trên thực tế còn chưa tối ưu do yêu cầu thời gian và hoàn cảnh làm việc của bà mẹ. Ví dụ, nhóm các bà mẹ không đi làm có tỷ lệ cho con bú đến 2 tuổi cao nhất, trong khi nhóm các bà mẹ làm công nhân, nhân viên có tỷ lệ cho con bú đến 2 tuổi thấp nhất, do yêu cầu phải quay trở lại làm việc. Nhà nước đã tiến hành bước đi đầu tiên để khắc phục tình trạng này bằng việc thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi, có hiệu lực thi hành từ tháng 1/5/2013, để bảo đảm về mặt pháp lý cho việc thực hiện khuyến cáo nuôi con hoàn

toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu.

Vấn đề cho ăn bổ sung còn nhiều bất cập

6

Sữa mẹ là thức ăn đầu tiên và tốt nhất cho trẻ nhỏ, nhưng sau 6 tháng trẻ phát triển nhanh, nhu cầu dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn, vì vậy cần được cho ăn bổ sung (hay ăn dặm). Theo UNICEF, “kể cả khi trẻ được bú mẹ tối ưu, trẻ có thể bị còi cọc nếu không được cung cấp đầy đủ thực phẩm bổ sung đảm bảo dinh dưỡng sau 6 tháng tuổi”. Ăn bổ sung hợp lý là cho trẻ ăn thêm các loại thức ăn khác ngoài sữa mẹ đúng thời điểm, đúng độ tuổi, hợp lý về số lượng, chất lượng, cân đối giữa các thành phần dinh dưỡng và được chế biến theo đúng phương pháp. Thực hành cho ăn bổ sung hiện tại ở Việt Nam chưa tuân đúng theo khuyến nghị về thực hành tốt nhất của WHO và NIN. Theo WHO, năm 2010, Việt Nam nằm trong số 16 quốc gia có tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi cao trên phạm vi toàn cầu (dẫn theo Bộ Y tế 2012). Theo NIN, chỉ có 51,7% được nuôi bổ sung đúng, đủ. Tình trạng thiếu các vi chất cung cấp cho cơ thể như Vitamin A, Vitamin C và sắt của trẻ em Việt Nam khá cao, chỉ đạt 30-50% nhu cầu trẻ, trong khi khẩu phần canxi trung bình trên một trẻ em của nước ta chỉ đáp

ứng được 49% nhu cầu (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội 2012). Theo khảo sát, chỉ có 34,7% các bà mẹ thực hành cho trẻ ăn bổ sung theo đúng thời điểm được khuyến nghị, tức là kể từ 6 tháng tuổi. Thời điểm cho trẻ ăn bổ sung sớm (trước 5 tháng tuổi) của các bà mẹ ở thành thị cao hơn so với các bà mẹ ở nông thôn (70,7% so với 63,3%). Thức ăn bổ sung sớm thường là nhóm tinh bột như cơm, cháo, mì (một điều tra khác của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng cho thấy trên trên 70% thức ăn bổ sung cho trẻ khi mẹ quay trở lại làm việc là cháo/bột tự nấu). Các bà mẹ là công nhân, viên chức cho trẻ ăn không đúng cách cao hơn đáng kể so với các nhóm còn lại (88,2% so với khoảng 60%).

Khẩu phần ăn bổ sung của trẻ từ 7 đến 24 tháng cũng chưa bảo đảm sự đa dạng các loại thực phẩm và tính cân đối trong khẩu phần thức ăn. Tỷ lệ sản phẩm dinh dưỡng công thức trong khẩu phần ăn của trẻ nhìn chung còn thấp. Đặc biệt, trẻ em sống ở nông thôn, trong gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn và người mẹ không có nghề nghiệp ổn định về thu nhập có khẩu phần ăn kém da dạng về dinh dưỡng hơn so với các trẻ nhỏ khác.

Việc cho trẻ nhỏ ăn bổ sung đúng cách cũng chưa được chú trọng tại Việt Nam, điều này thể hiện ở việc thực hành cho ăn bổ sung chưa hợp lý của các bà mẹ. Thông tin về các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung được dẫn dắt bởi các quan niệm và thói quen truyền thống, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Các bà mẹ chủ yếu tìm kiếm thông tin từ gia đình và bạn bè. Nguồn thông tin về dinh dưỡng bổ sung cho trẻ nhỏ cũng chưa được phổ biến tới các bà mẹ một cách có hệ thống thông qua các cơ sở y tế và các kênh xã hội hóa chính thống khác, do vậy, việc hỗ trợ để các bà mẹ có lựa chọn dinh dưỡng bổ sung tốt nhất cho trẻ nhỏ từ 6 – 24 tháng còn nhiều hạn chế.

III. Các khuyến nghị chính sách

7

Bên cạnh việc tiếp tục phát huy những thành công đã đạt được về việc nuôi con bằng sữa mẹ, Chính phủ cần có các giải pháp, cơ chế đồng bộ để bảo đảm việc cho con bú đối với nhóm các bà mẹ có thu nhập thấp, học vấn thấp, cũng như đối với đối tượng công nhân và người lao động tự làm việc ở nhà. Ngoài ra, cần chú ý đến nhóm các bà mẹ có thu nhập cao về việc cho con ăn bổ sung quá sớm. Việc tăng cường tập trung cho ăn bổ sung an toàn và đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ từ 6-24 tháng tuổi chính là yếu tố then chốt nhằm đạt được các mục tiêu của Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia 2020. Cần phải có chính sách tiếp tục khuyến khích việc nuôi trẻ hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho trẻ bú mẹ đến 24 tháng tuổi, bên cạnh việc bảo đảm cho các bà mẹ khả năng tiếp cận thuận lợi với các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung an toàn và tốt nhất. Các chính sách cần phải hỗ trợ các bà mẹ để họ có thể đưa ra quyết định chọn lựa được các dinh dưỡng bổ sung tốt nhất và phù hợp nhất cho con mình. Cũng cần có những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.

PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU

1. Giới thiệu

Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh và thích hợp nhất đối với trẻ em khi mới sinh, vì

trong sữa mẹ có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết. Bú sữa mẹ trong những năm đầu đời bảo vệ trẻ em khỏi nhiễm bệnh, cung cấp nguồn dinh dưỡng lý tưởng, đồng thời rất kinh tế và an toàn. Chính vì vậy, chế độ nuôi dưỡng trẻ dưới 6 tháng tuổi thường được coi là đầy đủ khi trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong giai đoạn này.

Tuy nhiên, đối với trẻ trên 6 tháng tuổi, nếu chỉ chú ý đến việc cho trẻ bú mẹ hoàn toàn là chưa đủ. Theo Báo cáo nghiên cứu Khối lượng và Chất lượng của Sữa mẹ năm 1985 của Tổ chức Y tế thế giới (“WHO”), “chỉ có một tỷ lệ nhỏ các bà mẹ [có đủ khối lượng và chất lượng sữa] có thể đáp ứng nhu cầu [dinh dưỡng] của một trẻ cân nặng khoảng 7kg. ... Việc thiếu thức ăn bổ sung và mắc một số bệnh khi còn nhỏ, hơn là sự thiếu chất hay kém chất của sữa mẹ, là lý do của sự chậm phát triển thể lực của trẻ em ở các nước đang phát triển so với trẻ ở các nước phát triển”.1

WHO cũng kết luận trong báo cáo này là: “Những luận điểm khuyến khích bú sữa mẹ là rất hợp lý. Cho con bú sữa mẹ vừa kinh tế, vừa bổ sung các chất đề kháng

cho trẻ. Tuy nhiên, việc kêu gọi kéo dài thời gian bú mẹ đã đánh giá thấp sự thật là dù sớm hay muộn nguồn cung cấp (về khối lượng và chất lượng) sữa mẹ sẽ không thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của trẻ và việc bổ sung thức ăn khác là không thể tránh khỏi”.

Như vậy, giai đoạn cần cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ được 6 đến 24 tháng tuổi, -

là giai đoạn rất nhạy cảm vì đó là thời gian nhiều trẻ bắt đầu có dấu hiệu suy sinh dưỡng. Thời điểm thích hợp cho tất cả trẻ sơ sinh được cho ăn bổ sung bên cạnh việc bú mẹ bắt đầu từ tháng thứ 6 trở đi. Thức ăn bổ sung cần bảo đảm đủ lượng, đủ bữa, ổn định và đa dạng đảm bảo đủ dinh dưỡng song song với sữa mẹ2.

NIN cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của giai đoạn cho ăn bổ sung trong việc phòng ngừa còi cọc. Đánh giá dinh dưỡng của NIN năm 2009-2010 chỉ ra rằng tỷ lệ thấp còi tăng cao nhất trong năm thứ hai của cuộc đời - khi thức ăn bổ sung chiếm tỷ lệ lớn hơn trong tổng lượng dinh dưỡng của trẻ nhỏ (tăng 9,5% so với năm đầu tiên) có trong các giai đoạn tăng trưởng của trẻ dưới 5 tuổi.3 Nghiên cứu của Tổ chức Thrives

1 Nguồn: WHO, Báo cáo nghiên cứu Khối lượng và Chất lượng của Sữa mẹ năm 1985, trang 74 2 Nguồn: WHO, htttp://www.who.int/nutrition/topics/complementary_feeding/en/index.html 3 Nguồn: Viện Dinh dưỡng Việt Nam và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, Đánh giá Thực trạng dinh dưỡng Việt

Nam, 2009-2010, tháng 4/2011

8

and Alives cho thấy rằng có mối quan hệ giữa các chỉ số về cho ăn bổ sung (đa dạng, đủ bữa) và tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi.4

Chính phủ Việt Nam đã khuyến khích áp dụng: (1) cho trẻ bắt đầu ăn bổ sung từ tháng thứ 7 nghĩa là từ khi trẻ được vừa tròn 180 ngày tuổi trở đi; (2) Trong trường hợp bà mẹ vì bất kể một lý do nào đó không có sữa hoặc không thể cho con bú được, phải sử dụng các sản phẩm thay thế sữa mẹ cho trẻ. Sau thời gian này, trẻ cần được cho ăn bổ sung hợp lý để đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ, đồng thời tiếp tục duy trì cho trẻ bú sữa mẹ ít nhất cho đến khi trẻ được 24 tháng. Thời điểm trẻ em được

khuyến nghị ăn bổ sung còn gọi là ăn sam, ăn dặm là một thời kỳ rất quan trọng đối với sự phát triển của trẻ.

Tóm lại, việc cho bé bú sữa mẹ ngay sau khi sinh và bú hoàn toàn trong 6 tháng

đầu cũng như có chế độ bổ sung thức ăn hợp lý cho bé sau 6 tháng tuổi là những yếu tố quan trọng giúp cải thiện tình trạng phát triển của trẻ em. Dựa trên số liệu điều tra của Công ty Nghiên cứu Thị trường TNS đã được Hội Nhi khoa Việt Nam phê duyệt, báo cáo nghiên cứu này tập trung phân tích thực trạng và các yếu tố liên quan đến việc cho trẻ bú mẹ và việc cho trẻ ăn bổ sung trong giai đoạn 7-24 tháng tuổi.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Thu thập thông tin về thói quen nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ từ 0-4 tuổi ở Việt Nam (xem Báo cáo số liệu khảo sát trong Phụ lục).

Xác định các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi nuôi dưỡng trẻ nhỏ từ 7- 24 tháng ở Việt Nam.

Dựa trên kết quả phân tích số liệu, Báo cáo sẽ nêu ra một số khuyến nghị về chính sách để giúp cho các cơ quan hoạch định chính sách có thêm bằng chứng phục vụ cho việc xây dựng văn bản pháp luật.

3. Phạm vi nghiên cứu

Việc cho bé bú sữa mẹ ngay sau khi sinh và bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu cũng như có chế độ bổ sung thức ăn hợp lý cho bé sau 6 tháng tuổi là những yếu tố quan trọng giúp cải thiện tình trạng phát triển của trẻ em. Tuy nhiên, tình hình dinh dưỡng cho trẻ từ 7 đến 24 tháng tuổi hiện nay dường như đang có nhiều vấn đề bất cập

Thực hành nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. 2012, trang 46

9

nhất. Theo báo cáo của nhiều tổ chức y tế trong và ngoài nước thì tình trạng suy dinh dưỡng và thấp còi tại Việt Nam tăng vọt trong 2 năm đầu đời (67%) và tăng đáng kể ngay sau khi thời kỳ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ kết thúc và khi việc cho ăn bổ sung bắt đầu chiếm tỷ trọng lớn hơn trong khẩu phần ăn của trẻ (tức khi trẻ trên 6 4 Nguồn: Alive&Thrive và Viện Nghiên cứu Y-Xã hội học (ISMS) 2012: Báo cáo toàn văn điều tra 11 tỉnh:

tháng tuổi). Cụ thể, tỷ lệ thấp còi tăng vọt lên 20-30% với trẻ từ 6-12 tháng và đến 30- 40% với trẻ từ 15-20 tháng (theo Dữ liệu của Viện Dinh Dưỡng Quốc gia). Chính vì vậy, với mục đích của Nghiên cứu là nhằm đưa ra một số gợi ý, giúp các nhà hoạch định chính sách có thông tin trong việc xây dựng kế hoạch hành động cụ thể nhằm

giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu của Chiến lược Dinh Dưỡng Quốc gia 2011- 2020 nên các phân tích, đánh giá của Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào giai đoạn trẻ từ 7 đến 24 tháng tuổi. Đối với việc cho trẻ dưới 6 tháng tuổi bú sữa mẹ hoàn toàn, cho tới nay đã có nhiều nghiên cứu với quy mô khảo sát lớn của các cơ quan, tổ chức có liên quan; Nhà nước cũng đã xây dựng được các chính sách chặt chẽ, rõ ràng, thu hút được sự quan tâm tuyên truyền, giáo dục của các cấp chính quyền và đông đảo các tổ chức có liên quan nên Nghiên cứu này chỉ đề cấp tới một số kiến nghị về công tác tổ

chức thực hiện nhằm thực hiện tốt hơn các chính sách đã đạt được.

4. Mẫu khảo sát

Khảo sát được tiến hành bởi Công ty TNS, sử dụng phương pháp định lượng với 1200 mẫu các bà mẹ được chọn một cách ngẫu nhiên. Khung mẫu bao gồm các bà mẹ trong độ tuổi 18-40 tuổi, có con trong độ tuổi 0-4, ở các tầng lớp xã hội và nghề nghiệp khác nhau. Nếu người mẹ có nhiều hơn một con, thì con nhỏ nhất sẽ được chọn lấy thông tin.

Các mẫu được lấy rộng khắp 3 miền: Bắc, Trung, Nam Việt Nam, bao gồm cả khu vực thành thị và nông thôn. Có 4 thành phố chính là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng – đại diện cho khu vực thành thị. Ở khu vực nông thôn có 4 tỉnh tham gia là Thái Bình, Nghệ An, Đồng Nai, Tiền Giang, đại diện cho 4 vùng phía

Bắc, Trung, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Cỡ mẫu n = 150 ở mỗi tỉnh.

Số lượng mẫu ở các địa phương cụ thể như sau (Bảng 1):

Bảng 1: Phân bố cỡ mẫu khảo sát

Khu vực Thành thị Nông thôn

Hà Nội n=150 Thái Bình Đà Nẵng n=150 Nghệ An Tp. Hồ Chí Minh n=150 Đồng Nai

Bắc Bộ Trung Bộ Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long Cần Thơ n=150 n=150 n=150 n=150 Tiền Giang n=150 Tổng số 300 300 300 300

Tổng cộng 600 600 1200

10

Các phỏng vấn viên trực tiếp sử dụng bảng câu hỏi cấu trúc với thời gian phỏng vấn trung bình là 60 phút (xem Bảng câu hỏi phỏng vấn ở Phụ lục 2).

5. Phương pháp phân tích

Số liệu trước hết được phân tích đơn biến để xác định hiện trạng thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ, liên quan đến việc cho trẻ bú sữa mẹ và cho bé ăn thức ăn bổ sung. Tiếp đó, nhóm nghiên cứu phân tích thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ theo một số đặc trưng cơ bản như:

Tuổi của mẹ; 

Trình độ học vấn của mẹ; 

Nghề nghiệp hiện nay của mẹ (đã được nhóm lại thành 4 nhóm chính là: i) Tự 

làm riêng, ii) Làm ăn lương: công nhân, nhân viên, iii) Làm ăn lương: chuyên môn cao, iv) Không đi làm với tiêu chí phân biệt là khả năng linh hoạt của người mẹ về mặt thời gian trong công việc);

Nơi cư trú của mẹ (thành thị/nông thôn); 

Thứ tự sinh của bé (lần đầu, lần thứ hai trở đi); 

Hình thức sinh bé (đã được nhóm lại thành hai hình thức chính: i) sinh thường, ii) sinh có can thiệp);

Thu nhập hàng tháng của hộ gia đình (đã được phân nhóm lại thành 3 nhóm: i) <= 4,5 triệu đồng/tháng, ii) Từ 4,6-6,5 triệu đồng/tháng, iii) Trên 6,5 triệu đồng/tháng).

Do ảnh hưởng của các yếu tố trên đến việc thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ có thể

xảy ra đồng thời nên thông qua phân tích hai biến khó có thể xác định vai trò của từng yếu tố. Để làm rõ tác động của từng yếu tố nhóm nghiên cứu đã sử dụng các mô hình phân tích đa biến với hệ các biến số độc lập đã nêu trên.

Kết quả phân tích được trình bày theo hai nội dung chính sau:

a) Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

b) Thực hành cho trẻ ăn bổ sung

11

Đối với mỗi nội dung nêu trên các tác giả luôn đối chiếu với những quy chuẩn quốc gia hoặc quốc tế để đánh giá mức độ thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ một cách khoa học. Do vấn đề thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và thực hành cho trẻ ăn bổ sung có thể chịu tác động của các yếu tố khác nhau nên việc so sánh với các nghiên cứu có liên quan không thực hiện riêng mà gắn vào với mỗi nội dung. Mẫu phân tích cho từng vấn đề cũng khác nhau và được giải thích rõ ở mỗi phần.

6. Hạn chế của phân tích

Vấn đề thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ có liên quan đến nhiều yếu tố kinh tế-xã hội khác nhau và đòi hỏi có sự phân tích hết sức chi tiết để lý giải chính xác đặc điểm của mỗi loại hành vi hay nhận thức. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu sử dụng số liệu có sẵn vì vậy trong một số trường hợp không có đầy đủ thông tin để phân tích sâu, bao gồm cả phân tích đa biến.

Mặc dù mẫu nghiên cứu đã trải rộng trên cả ba vùng miền và bao gồm cả các khu

12

vực thành thị và nông thôn, tuy nhiên vẫn không bảo đảm đây là số liệu có tính đại diện quốc gia. Vì vậy các kết luận rút ra cần được hiểu trong khuôn khổ của mẫu đã được chọn. Trong một số trường hợp, mẫu phân tích chỉ là một bộ phận trong tổng thể mẫu, số lượng hạn chế, vì vậy không thực hiện được các phân tích chi tiết.

PHẦN HAI: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

I. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ

1. Tiêu chuẩn quy định và nội dung phân tích

Việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ được xem xét căn cứ vào các chỉ tiêu theo dõi hoạt động nuôi con bằng sữa mẹ được WHO và Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) khuyến nghị bao gồm:

 Cho trẻ bú sữa mẹ ngay sau khi sinh (được hiểu là trong 1 giờ đầu sau khi

sinh)

 Cho trẻ bú đúng cách (tập trung vào cách thức cho con bú)

 Tiếp tục bú mẹ khi được 12 tháng và 24 tháng tuổi

 Thời gian bú sữa mẹ dài

Việc thực hành cho trẻ bú sữa mẹ phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của các bà mẹ về việc cho con bú. Vì vậy trước hết nhóm nghiên cứu phân tích những hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ.

2. Hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ

Kết quả khảo sát cho thấy nhận thức của người dân về lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ rất tích cực. Theo số liệu điều tra, hầu hết phụ nữ (88%) biết rõ về những lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ5, bên cạnh đó là 10,2% phụ nữ có biết đôi chút về những lợi ích này và tỷ lệ phụ nữ trả lời không biết về lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ chỉ có 1,8% (Biểu đồ 1.1). Ngoài ra, tìm hiểu sự hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ, trong số 1160 bà mẹ trả lời phỏng vấn, có ba lý do chủ yếu thúc

đẩy họ cho con bú mẹ là vì họ tin rằng: i) Sữa mẹ là tốt nhất trong việc tăng cường hệ miễn dịch cho con của họ (91%), ii) Việc cho bé bú mẹ trong 6 tháng đầu đời là rất quan trọng (78,2%), iii) Cho bé bú mẹ cung cấp dưỡng chất vượt trội cho sự phát triển tối ưu của bé (76%). Đây là tín hiệu khả quan cho những nỗ lực của Nhà nước và các cơ quan hữu quan trong quá trình thực hiện các chiến lược, các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ6.

5 Hiểu biết của người mẹ về những lợi ích của việc cho bé bú mẹ được xây dựng từ câu hỏi Q16, với việc nhóm

5 phương án trả lời lại thành 3 phương án để phân tích: 1/Không biết và biết rất ít = Không biết, 2/ Biết mộtchút, 3/ Biết khá rõ và biết rất rõ = Biết rõ.

6 Ví dụ về các chương trình/dự án đã được thực hiện để thúc đẩy nuôi con bằng sữa mẹ - Hỗ trợ 20.000 lao động nữ nuôi con bằng sữa mẹ đúng cách. Nguồn: Báo điện tử Chính phủ nước

CHXHCNVN, http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Ho-tro-20000-lao-dong-nu-nuoi-con-bang-sua-me-dung- cach/201211/153293.vgp.

- “Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu”: Nhận thức của mẹ - sức khoẻ của con. Nguồn: Tổng

Liên đoàn Lao động Việt Nam, http://www.congdoanvn.org.vn/details.asp?l=1&c=56&m=5993.

13

100

88

90

80

70

60

Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ phụ nữ biết về lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ

% ệ

50

l

ỷ T

40

30

20

10.2

10

1.8

0

Không biết

Biết một chút

Biết rõ

Nhìn chung, sự khác biệt về nhận thức giữa các nhóm người mẹ có đặc điểm

nhân khẩu-xã hội khác nhau là tương đối nhỏ (trên dưới 5 điểm phần trăm) (xem Bảng 1.1). Cụ thể, tỷ lệ phụ nữ thuộc các gia đình có thu nhập trung bình từ 6,5 triệu đồng/tháng trở lên biết rõ về ích lợi của việc cho bé bú mẹ cao hơn so với nhóm phụ nữ thuộc các gia đình có mức thu nhập trung bình từ 4,5 triệu đồng/tháng trở xuống (90,5% so với 86,5%). Tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn từ cao đẳng/đại học trở lên biết rõ về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ (91%) cũng cao hơn tỷ lệ này ở phụ nữ có học vấn từ lớp 9 trở xuống (85,7%).

Sự khác biệt về nhận thức của các bà mẹ thể hiện rõ hơn một chút khi so sánh ngành nghề của họ: chỉ có 82,5% bà mẹ có công việc tự làm riêng biết rõ về lợi ích của việc cho bé bú mẹ, trong khi tỷ lệ này ở nhóm phụ nữ làm công ăn lương có chuyên

môn cao là 94,3%.

- Mười bước Nuôi con bằng sữa mẹ thành công. Nguồn: Sở y tế Thành phố Hà Nội,

http://www.soyte.hanoi.gov.vn/?u=dt&id=6134.

- Hưởng ứng Tuần lễ Nuôi con bằng sữa mẹ từ 1/8-7/8. Nguồn: Viện Dinh dưỡng Việt Nam,

http://viendinhduong.vn/news/vi/317/12/2/a/huong-ung-tuan-le-nuoi-con-bang-sua-me-tu-18-78.aspx

14

Bảng 1.1: Hiểu biết của phụ nữ về lợi ích của việc cho bé bú mẹ

- so sánh theo các đặc trưng của người mẹ

Số lượng Tỷ lệ phụ nữ biết về lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ (%)

Không biết Biết một chút Biết rõ Thu nhập hộ gia đình

- <=4,5 triệu đồng/tháng 507 2,1 11,5 86,5

- 4,6-6,5 triệu đồng/tháng 522 1,4 9,4 89,2

- Trên 6,5 triệu đồng/tháng 171 2,2 7,3 90,5

2,3 1,6 0,5 1,5 1,5 1,8 3,0 1,2 2,3 1,8 1,9 2,6 11,9 9,9 8,5 11,1 11,3 8,4 8,3 9,5 11,0 10,5 10,1 14,9 85,7 88,5 91,0 87,4 87,2 89,8 88,6 89,3 86,7 87,7 88,0 82,5

438 516 241 331 445 277 147 621 579 600 600 292 178 2,0 7,8 90,2

180 0,7 5,0 94,3

Trình độ học vấn của mẹ - Từ 0-9 - Từ 10-12+Trung cấp - Cao đẳng/đại học trở lên Tuổi của mẹ - 18-25 tuổi - 26-30 tuổi - 31-35 tuổi - 36-40 tuổi Thứ tự sinh con - Con đầu lòng - Con thứ Nơi cư trú - Thành thị - Nông thôn Nghề nghiệp hiện nay - Tự làm riêng - Làm ăn lương: Công nhân nhân viên - Làm ăn lương:chuyên môn cao - Không đi làm Hình thức sinh bé 549 1,2 9,3 89,5

15

- Sinh thường - Sinh có can thiệp 916 284 1,5 2,7 9,8 12,1 88,6 85,2

Phần lớn các bà mẹ biết khuyến cáo của ngành y tế về việc cho con bú đến 24 tháng tuổi (67,3%), ngoài ra, chỉ có 11,9% phụ nữ cho rằng ngành y tế khuyến cáo cho trẻ bú mẹ đến 12 tháng. Tuy nhiên, những bà mẹ thuộc các nhóm như gia đình có mức thu nhập 4,5 triệu/tháng trở xuống, hiện sinh sống ở nông thôn, tự làm riêng, đã sinh

con thứ hai trở lên biết rõ hơn về khuyến cáo cho con bú mẹ đến 24 tháng của ngành y tế so với nhóm các bà mẹ thuộc các nhóm: gia đình có mức thu nhập từ 4,6 triệu đồng/tháng trở lên, ở thành thị, làm công ăn lương hay không đi làm, mới có con đầu lòng. Đáng lưu ý là có hơn một nửa số các bà mẹ có nghề nghiệp là công nhân, nhân viên không biết đến khuyến cáo cho con bú mẹ đến 24 tháng của ngành y tế. Điều này đặt ra yêu cầu cần quan tâm hơn đến việc tuyên truyền cho các bà mẹ công nhân, nhân viên. Kết quả này cũng có thể còn do ở khu vực đô thị các bà mẹ thường tự tìm hiểu về

các vấn đề chăm sóc con, trong khi đó ở nông thôn việc tuyên truyền thông qua hội phụ nữ là khá tốt. Trong hoàn cảnh đó, nếu công việc quá bận bịu thì các bà mẹ ở đô thị hay là công nhân sẽ có ít điều kiện biết thông tin hơn.

Nhìn chung, phần lớn các bà mẹ có nhận thức tốt về lợi ích của việc cho bé bú

mẹ và biết đến khuyến cáo về thời gian nên duy trì việc cho bé bú mẹ của ngành y tế. Thực tế đáng khích lệ này cũng được chứng minh thêm khi có 75,9% phụ nữ trong diện khảo sát cho rằng, theo ý kiến cá nhân của họ thì 24 tháng là khoảng thời gian tốt nhất duy trì việc cho bé bú mẹ. Sự tương đồng giữa việc phụ nữ “biết” về khuyến cáo của ngành y tế với việc họ “đồng ý” rằng 24 tháng là khoảng thời gian tốt nhất duy trì việc cho trẻ bú sữa mẹ phần nào cho thấy tác động tích cực của các chiến dịch truyền thông và chính sách hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ đến nhận thức của người mẹ. Số liệu

này cũng tương đồng với kết quả điều tra của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN), Điều tra về Nghỉ thai sản và Nuôi con bằng sữa mẹ của Lao động nữ, tháng 9/2011 (gần 83% số bà mẹ quan niệm rằng cho trẻ bú mẹ kéo dài trên 12 tháng và 67,8% cho rằng cần bú mẹ kéo dài đến 24 tháng). (Phạm Thị Thanh Hồng 2011)

Tỷ lệ cao các bà mẹ tự thừa nhận là biết rõ lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ là cơ sở nhận thức quan trọng của việc cho con bú sữa mẹ đúng cách. Tuy nhiên, từ nhận thức này đến thực hành còn có khoảng cách. Dưới đây sẽ lần lượt xem xét các thực hành cho bé bú theo các chỉ tiêu theo dõi do WHO và UNICEF khuyến nghị.

3. Cho trẻ bú sớm sau khi sinh

16

Cho trẻ bú sữa mẹ ngay sau khi sinh là một việc làm quan trọng nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, đồng thời tạo tiền đề cơ sở vững chắc cho sức khỏe và sự phát triển của trẻ. Mặc dù lượng sữa lúc đầu rất ít nhưng việc cho con bú sớm ngay sau khi sinh sẽ giúp người mẹ sản xuất được nhiều sữa hơn. Vì thế, các chuyên gia y tế

khuyến nghị việc bú sữa mẹ nên được thực hiện ngay trong vòng 1 giờ sau khi trẻ em được sinh ra.

Theo kết quả khảo sát, trong số 1160 trẻ em đã từng được bú mẹ, chỉ có 42,6% trẻ em được mẹ cho bú ngay sau khi sinh (Bảng 1.2). Kết quả này có thể do một số bà mẹ vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tập quán cho con bú khi bầu vú căng sữa (hay còn gọi là xuống sữa). Thời gian chờ đợi cho việc xuống sữa thường là 1-2 ngày sau khi sinh. Việc người mẹ chờ đợi đủ sữa để cho con bú là một quan niệm sai lầm và ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của trẻ sơ sinh. Trẻ bú muộn sẽ không được tiếp cận với sữa

non - nguồn sữa có nhiều vitamin A chống bệnh khô mắt, có nhiều kháng thể giúp trẻ chỗng nhiễm khuẩn và đỡ bị vàng da.

Trẻ em là con đầu có tỷ lệ được bú sữa mẹ ngay sau khi sinh thấp hơn trẻ em có

số thứ tự sinh khác, 33% so với 52%. Điều này thể hiện sự tích lũy kiến thức, kinh nghiệm của người mẹ ở lần sinh khác so với lần sinh đầu trong việc cho trẻ bú sớm ngay sau khi sinh.

Người mẹ sinh ở bệnh viện công có tỷ lệ cho con bú sớm ngay sau khi sinh thấp

hơn so với người mẹ sinh ở nơi khác. Hình thức sinh của người mẹ cũng có mối liên hệ với việc cho con bú sớm ngay sau khi sinh. Các bà mẹ sinh mổ hoặc có can thiệp có tỷ lệ cho con bú sớm ngay sau khi sinh chỉ bằng một nửa (22% so với 47,1%) so với những người mẹ khác. Nguyên nhân có thể là do theo khuyến cáo của ngành y tế đối với những trường hợp sinh mổ, thời gian bắt đầu cho trẻ bú nên khoảng sau 6 giờ vì người mẹ phải đợi hồi phục sau tác dụng của thuốc gây mê và kháng sinh.

17

So với hai nhóm tuổi trẻ nhất (18-25 tuổi) và lớn nhất (36-40 tuổi), người mẹ ở nhóm tuổi 26-30 và 31-35 có tỷ lệ cho con bú sớm sau sinh cao hơn với tỷ lệ là 44% và 47,4%, so với 36,8% và 42,1%.

Bảng 1.2: Tỷ lệ cho con bú sớm ngay sau khi sinh chia theo một số đặc trưng cơ bản của người mẹ

Phần trăm Số trường hợp

181 251 286 146 381 51 106 163 113 50 180 177 73 138 55 47 192 167 265 432 33,0 52,0 39,5 48,3 47,0 22,1 36,8 44,0 47,5 42,3 51,2 39,1 34,0 56,3 35,8 25,6 40,1 28,3 49,3 42,6 Số lần sinh Lần đầu Lần thứ hai trở đi Nơi sinh Bệnh viên công Nơi khác Hình thức sinh Sinh thường Sinh mổ/có can thiệp Tuổi của mẹ 18-25 26-30 31-35 36-40 Học vấn của mẹ 0-9 10-12, Trung cấp Cao đẳng, Đại học trở lên Nghề nghiệp của mẹ Tự làm riêng Làm ăn lương: NV, CN Làm ăn lương: CM cao Không đi làm Nơi cư trú Thành thị Nông thôn Chung

18

Có xu hướng là những người mẹ ở nhóm học vấn thấp hơn có tỷ lệ cho con bú sớm cao hơn nhóm có học vấn cao hơn. Khoảng một nửa (51,1%) bà mẹ có trình độ học vấn từ THCS trở xuống đã cho con bú ngay sau khi sinh, tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 40% ở nhóm có trình độ THPT và 34% ở nhóm có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Ngay cả khi tách ra theo nhóm con sinh lần đầu và sinh lần khác thì nhóm bà mẹ có học vấn cao hơn vẫn có có tỷ lệ cho con bú sớm ngay sau khi sinh thấp hơn ở cả hai nhóm con đầu và không phải con đầu (Biểu đồ 1.2).

61.4

51.9

46

39.3

35.8

33.1

32.5

31.1

70 60 50 40 30 20 10 0

Biểu đồ 1.2: Tỷ lệ trẻ em được bú sớm ngay sau khi sinh chia theo học vấn và lần sinh của người mẹ

0-9

>= CĐ ĐH

Chung

10-12 + TC Lần đầu

Lần khác

Xét theo nhóm nghề nghiệp của người mẹ: Tỷ lệ trẻ được bú sớm ngay sau khi sinh cao nhất ở trong nhóm có mẹ tự làm riêng, 56%, tiếp theo là ở nhóm có mẹ không đi làm, 40%. Trẻ em là con của những người mẹ làm công ăn lương có chuyên môn cao có tỷ lệ được bú sớm sau khi sinh thấp nhất, 25,6%, và tỷ lệ này ở trẻ có mẹ làm công ăn lương là nhân viên hoặc công nhân là 35,8% (Bảng 1.2). Kể cả khi phân tích riêng cho các bé sinh lần đầu và các lần sau thì kết quả này vẫn giữ nguyên. Trẻ em là con của người mẹ làm công ăn lương với chuyên môn cao có tỷ lệ được bú sớm ngay sau khi sinh thấp nhất ở cả hai nhóm, 24% ở nhóm có thứ tự sinh lần đầu và 30% ở nhóm có thứ tự sinh khác. Trong khi đó tỷ lệ trẻ em được bú mẹ ngay sau khi sinh vẫn cao nhất trong nhóm có mẹ tự làm nghề riêng, 41,1% ở nhóm có thứ tự sinh đầu và 63,2% ở nhóm có thứ tự sinh khác (Biểu đồ 1.3).

63.2

48.4

41.1

40.6

33.2

32.5

29.3

23.9

70 60 50 40 30 20 10 0

Biểu đồ 1.3: Tỷ lệ trẻ em được bú sớm ngay sau khi sinh chia theo nghề nghiệp và lần sinh của người mẹ

Tự làm riêng

CN, NV

CM cao

K0 đi làm

Lần đầu

Lần khác

19

Trẻ em ở khu vực nông thôn có tỷ lệ được bú sớm ngay sau khi sinh cao hơn so với trẻ em ở khu vực thành thị, 49,3% so với 28,3% (Bảng 1.2). Chênh lệch giữa hai khu vực về tỷ lệ trẻ được bú sớm ngay sau khi sinh khoảng 21 điểm phần trăm.

4. Cho trẻ bú đúng cách

Theo hướng dẫn của ngành y tế, cho trẻ bú đúng cách là cho bú hết một bên rồi chuyển sang bú bên kia nếu trẻ còn đói. Người mẹ không nên cho trẻ bú một chút bên này rồi một chút bên kia vì như vậy là trẻ sẽ chỉ bú sữa trong dẫn đến trẻ dễ bị tiêu chảy và không tăng cân. Đối với trẻ mới sinh, nếu không bú hết sữa thì người mẹ phải vắt bỏ sữa còn lại trong bầu vú tránh còn thừa sữa sẽ làm hạn chế việc tiết sữa.

Cuộc khảo sát tiến hành thu thập thông tin đối với 543 người mẹ hiện vẫn đang cho con bú về cách thức cho con bú. Kết quả phân tích cho thấy, chỉ có khoảng một phần ba (33%) người mẹ đang cho con bú thực hiện việc cho bú đúng bằng cách cho bú hết một bên rồi sang bên kia.

Thứ tự lần sinh của người mẹ không có mối liên hệ với việc cho con bú đúng cách, nghĩa là giữa nhóm người mẹ sinh lần đầu và nhóm người mẹ sinh lần khác đều có tỷ lệ tương đương nhau trong việc cho trẻ bú đúng cách. Tương tự, tuổi và nơi cư trú của người mẹ là nông thôn hay thành thị cũng không có mối liên hệ với việc cho trẻ bú đúng cách (Bảng 1.3).

Bảng 1.3: Tỷ lệ trẻ nhỏ được bú đúng cách chia theo một số đặc trưng cơ bản của người mẹ

Phần trăm

Số trường hợp

33,5 31,6 35,0 31,0 31,8 27,3 32,2 44,3 28,2 31,8 44,2 32,1

104 86 68 68 54 63 77 48 26 15 29 119

Thứ tự lần sinh Lần đầu Lần thứ hai trở đi Tuổi của mẹ 18-25 26-30 31-40 Học vấn của mẹ 0-9 10-12, TC CĐ, ĐH+ Nghề nghiệp của mẹ Tự làm riêng Làm ăn lương: NV, CN Làm ăn lương: CM cao Không đi làm Mức độ ảnh hưởng của tài liệu quảng bá cho bú sữa mẹ Không/ảnh hưởng vừa phải Rất/ khá ảnh hưởng Nơi cư trú Thành thị Nông thôn Chung

34,5 29,7 34,5 32,0 32,6

125 65 84 106 190

20

Học vấn của người mẹ có mối liên hệ với việc cho con bú đúng cách: người mẹ có học vấn cao hơn có tỷ lệ cho con bú đúng cách cao hơn, bất kể địa bàn cư trú. Kết quả phân tích cho thấy, khoảng 27,3% số bà mẹ trong nhóm học vấn lớp 0-9 cho con bú đúng cách, tỷ lệ này tăng lên ở mức 32,2% trong nhóm người mẹ có học vấn Trung học phổ thông và trung cấp. Đối với nhóm người mẹ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên, tỷ lệ cho con bú đúng cách đạt 44,3%.

50

44.4

44.4

40

34.2

33.2

31.9

29.7

27.6

27.1

30

20

10

0

Biểu đồ 1.4: Tỷ lệ trẻ em được bú đúng cách chia theo học vấn và nơi cư trú của người mẹ

0-9

10-12 + TC

>= CĐ ĐH

Chung

Thành thị Nông thôn

Trong số nhóm người mẹ có nghề tự làm riêng như nông dân, người buôn bán nhỏ, chủ cửa hàng… tỷ lệ cho con bú đúng cách chiếm 28,2%, tỷ lệ thấp nhất trong các nhóm nghề. Tỷ lệ cho con bú đúng cách của người mẹ ở hai nhóm nghề nghiệp không đi làm và làm công ăn lương như công nhân, nhân viên chiếm khoảng 32%. Nhóm người mẹ làm công ăn lương với chuyên môn cao có tỷ lệ cho bú sữa mẹ đúng cách cao nhất, 44,2%.

Việc từng xem/nghe/thấy quảng cáo hay tài liệu quảng bá việc cho bé bú mẹ là một yếu tố quan trọng trong việc cung cấp thêm kiến thức, thông tin giúp người mẹ cho con bú đúng cách hơn. Theo kết quả khảo sát, có 13 loại tài liệu mà người mẹ từng được tiếp cận như: Quảng cáo trên tivi/đài phát thanh, bài viết trên báo/tạp chí, mạng internet, tờ rơi… Tuy nhiên, những người mẹ từng tiếp cận một trong những tài liệu quảng bá về việc cho bú sữa mẹ và rất bị/hoặc khá bị ảnh hưởng từ những tài liệu đó lại có tỷ lệ cho con bú đúng cách thấp hơn những người mẹ chưa từng tiếp cận tài liệu hoặc tiếp cận nhưng không chịu ảnh hưởng hoặc chịu ảnh hưởng vừa phải, 29,7% so với 38,2%. Điều này đặt ra câu hỏi về hiệu quả tác động từ các tài liệu thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ.

Phân tích đa biến về các yếu tố tác động tới khả năng cho con bú đúng cách

21

Để đánh giá vai trò của từng yếu tố cá nhân, gia đình, khu vực sinh sống đối với khả năng cho con bú đúng cách của người mẹ trong điều kiện có tác động của nhiều yếu tố khác nhau, mô hình phân tích đa biến với các biến số sau đã được thực hiện: thứ tự lần sinh của mẹ; tuổi, học vấn, nghề nghiệp của người mẹ; người mẹ từng tiếp cận với

tài liệu quảng bá việc cho bé bú mẹ và chịu ảnh hưởng nhiều của việc quảng bá đó; khu vực cư trú (thành thị/nông thôn). Kết quả cho thấy, yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng cho con bú đúng cách là học vấn của người mẹ. Học vấn của người mẹ càng cao thì xác suất cho con bú đúng cách càng cao hơn. So với nhóm người mẹ có học vấn từ lớp 9 trở xuống, người mẹ có học vấn cao đẳng, đại học có khả năng cho con bú đúng cách cao hơn 2,1 lần. Nhóm người mẹ có học vấn THPT cũng có khả năng cho con bú đúng cách cao hơn nhóm người mẹ có học vấn từ lớp 9 trở xuống là 1,3 lần. Các yếu tố còn lại trong mô hình phân tích đa biến đều không có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng bà mẹ cho con bú đúng cách.

Bảng 1.4: Tác động của các yếu tố người mẹ đến khả năng cho con bú đúng cách

Tỷ số chênh lệch

(Exp(B))

Thứ tự lần sinh

Lần đầu 1

Lần thứ hai trở đi 1,145

Tuổi của mẹ

18-25 1

26-30 0,772

31-40 0,786

Học vấn của mẹ

0-9 1

10-12, TC 1,280

CĐ, ĐH+ 2,128**

Nghề nghiệp của mẹ

Tự làm riêng 1

Làm công ăn lương 1,147

Mức độ ảnh hưởng của tài liệu quảng bá cho bú sữa mẹ

Không/ ảnh hưởng vừa phải 1

Rất/ khá ảnh hưởng 0,790

Nơi cư trú

Thành thị 1

Nông thôn 1,080

0,582 Hằng số

22

Ghi chú: Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01

5. Tiếp tục cho bú sữa mẹ khi trẻ được 12 tháng tuổi và 24 tháng tuổi

Biểu đồ 1.5 minh họa tỷ lệ trẻ nhỏ còn bú sữa mẹ trong số trẻ từ 7 đến 24 tháng tuổi tại thời điểm khảo sát. Nhìn chung, tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ giảm dần theo số tháng tuổi của trẻ. Đối với nhóm trẻ được 7 tháng tuổi, tỷ lệ còn được bú sữa mẹ đạt 95,1%, tỷ lệ này giảm xuống còn ở mức 74,4% khi trẻ được 12 tháng tuổi. Đến 24 tháng tuổi, tỷ lệ trẻ còn bú sữa mẹ giảm xuống chỉ còn 19,6%.

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

7

8

9

10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Biều đồ 1.5: Tỷ lệ trẻ từ 7 đến 24 tháng tuổi bú sữa mẹ

Bảng 1.5 trình bày kết quả phân tích số liệu trẻ em tiếp tục được bú sữa mẹ khi

1 tuổi (12-16 tháng) và khi 2 tuổi (20-24 tháng). Khoảng hai phần ba (70%) trong số 114 trẻ em ở độ tuổi 12-16 tháng vẫn tiếp tục được bú sữa mẹ, tỷ lệ này trong số 122 trẻ em ở nhóm tuổi 20-24 tháng là 26,3%.

Đối với cả hai nhóm tuổi, hầu như không có sự khác biệt khi so sánh theo thứ tự

sinh của trẻ trong việc bé tiếp tục được bú sữa mẹ lúc 1 tuổi và 2 tuổi. Tương tự, tuổi người mẹ và việc người mẹ chịu ảnh hưởng nhiều của tài liệu quảng bá về cho bé bú mẹ không có tác động đáng kể đối với việc duy trì cho con bú lúc trẻ được 1 tuổi và 2 tuổi.

Cách thức sinh trẻ có ảnh hưởng đến việc trẻ được tiếp tục bú sữa mẹ khi 1 tuổi. Những trẻ được sinh thường có tỷ lệ tiếp tục được bú sữa mẹ khi 1 tuổi cao hơn so với trẻ sinh mổ/can thiệp, 73% so với 60%, tỷ lệ này không có sự khác biệt nhiều ở nhóm trẻ 2 tuổi.

23

Học vấn của người mẹ có mối liên hệ với việc nuôi con bằng sữa mẹ cho đến lúc trẻ được 1 tuổi. Người mẹ có học vấn cao hơn có tỷ lệ cho con tiếp tục bú sữa mẹ lúc 1 tuổi thấp hơn, khoảng 77% trẻ em trong độ tuổi 12-16 tháng hiện vẫn đang bú sữa mẹ trong nhóm mẹ có học vấn lớp 0-9 và 72,9% trong nhóm mẹ có học vấn lớp 10-12 và trung cấp. Trong khi đó tỷ lệ trẻ em tiếp tục được bú sữa mẹ khi 1 tuổi ở

nhóm người mẹ có học vấn cao đẳng đại học trở lên là 50%. Tuy nhiên, số liệu chưa cho thấy rõ đây có phải là kết quả tác động của yếu tố trình độ học vấn hay của do yếu tố khác. Một số lớn các bà mẹ có học vấn cao thường là những người làm công ăn lương, không có điều kiện ở nhà cho con bú. Đối với nhóm trẻ được 2 tuổi, học vấn

của người mẹ không có mối liên hệ rõ ràng với việc trẻ tiếp tục được bú sữa mẹ.

Kết quả phân tích cũng cho thấy nghề nghiệp của người mẹ có mối liên hệ với việc tiếp tục cho con bú sữa mẹ khi trẻ 1 tuổi. Tỷ lệ vẫn cho con bú khi trẻ được 12-16 tháng tuổi cao nhất ở nhóm người mẹ không đi làm (83,9%), tỷ lệ này ở nhóm người

mẹ làm công ăn lương như công nhân, nhân viên là 60% và ở nhóm tự làm riêng là 52,2%. Chưa đến một nửa (47,4%) người mẹ có nghề chuyên môn cao tiếp tục cho con bú lúc 1 tuổi.

Việc duy trì cho trẻ bú sữa mẹ khi trẻ được 2 tuổi theo nghề nghiệp của người mẹ cũng có khuôn mẫu tương tự như nhóm trẻ 1 tuổi. Nhóm người mẹ không đi làm có tỷ lệ vẫn đang cho con bú cao nhất, 36,2%, tỷ lệ này thấp hơn và ở mức 22,4% ở nhóm người mẹ tự làm riêng và 25% ở nhóm người mẹ làm nghề có chuyên môn cao. Nhóm người mẹ làm công nhân hoặc nhân viên có tỷ lệ tiếp tục cho con bú khi trẻ được 2 tuổi thấp nhất, 14,3%.

Bảng 1.5: Tỷ lệ trẻ em tiếp tục được bú sữa mẹ khi 1 tuổi và 2 tuổi chia theo một số đặc trưng cơ bản của người mẹ Trẻ em 12-16 tháng (phần trăm) Trẻ em 20-24 tháng (phần trăm)

24

Số lần sinh Lần đầu Lần thứ hai trở đi Hình thức sinh Sinh thường Sinh mổ/có can thiệp Tuổi của mẹ 18-25 26-30 31-40 Học vấn của mẹ 0-9 10-12, TC CĐ, ĐH+ Nghề nghiệp của mẹ Tự làm riêng 69,1 71,1 73,0 60,0 69,2 62,8 81,3 76,2 72,9 50,0 52,2 25,4 26,5 25,5 30,4 33,3 25,0 22,4 28,6 23,1 31,6 22,4

60,0 47,4 83,9 50,0 69,8 74,5 14,3 25,0 36,2 23,8 19,6 31,7

63,3 63,2 20,0 21,4

Làm ăn lương: NV, CN Làm ăn lương: CM cao Không đi làm Hiểu biết về bú mẹ Rất ít/ đôi chút Khá rõ Rất rõ Mức độ ảnh hưởng (AH) của tài liệu quảng bá cho bú sữa mẹ Không/ AH vừa phải Rất/ khá ảnh hưởng Biết khuyến cáo của ngành y tế về thời gian cho con bú Không biết Biết Thu nhập của HGĐ <= 4,5 triệu 4,6-6,5 triệu > 6,5 triệu Nơi cư trú Thành thị Nông thôn Chung 65,0 81,8 82,0 62,1 60,0 54,8 78,9 70,2 19,5 40,0 27,8 18,5 29,4 18,4 29,5 26,3

Nghề nghiệp có liên quan đến hành vi tiếp tục nuôi con bằng sữa mẹ khi trẻ được 1 hoặc 2 tuổi của người mẹ. Nghề nghiệp của người mẹ góp phần chuyển hướng trách nhiệm nuôi con từ phía người mẹ sang các thành viên khác trong gia đình hoặc sang các thiết chế xã hội khác. Đối với nhóm người mẹ làm công ăn lương, họ không thể duy trì việc cho con bú sữa mẹ lúc trẻ 1 hoặc 2 tuổi vì còn phải quay trở lại làm việc và thường cho trẻ ăn bổ sung ngay sau thời gian nghỉ đẻ (thời gian nghỉ đẻ thường là 4 tháng). Ngoài ra, sữa mẹ là được tiết theo cơ chế phản xạ, vì thế nếu những người mẹ có nghề nghiệp chuyên môn cao thường phải đi làm sau khi sinh với tinh thần không được thoải mái, có nhiều căng thẳng, lo âu, mất ngủ, chế độ lao động nghỉ ngơi không được hợp lý thì sẽ ảnh hưởng phần nào đến việc bài tiết sữa, do đó đã không thể duy trì việc cho con bú sữa mẹ khi trẻ được 1 tuổi hoặc 2 tuổi.

25

Số liệu cũng cho thấy việc các bà mẹ có biết khuyến cáo của cơ quan y tế về thời gian cho con bú thì có nhiều khả năng cho con tiếp tục bú sau 1 tuổi cao hơn. Nếu trong số các bà mẹ biết khuyến cáo của cơ quan y tế về thời gian cho con bú có tỷ lệ

khoảng 82% cho con tiếp tục bú khi 1 tuổi thì đối với các bà mẹ không biết khuyến cáo chỉ có 65%. Kết quả tương tự cho con tiếp tục bú đến 2 tuổi là 40% so với 19,5%.

Hiểu biết về lợi ích của việc cho bé bú mẹ của người mẹ có mối liên hệ với việc thực hiện tiếp tục cho con bú mẹ tới 1 tuổi. Những người mẹ cho rằng mình hiểu biết rất rõ về những lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ có tỷ lệ tiếp tục cho con bú khi trẻ được 1 tuổi và 2 tuổi cao nhất, 74,5%. Tỷ lệ này giảm xuống còn ở mức 69,8% ở những người mẹ hiểu biết khá rõ và ở mức 50% ở những người mẹ cho rằng mình hiểu biết rất ít hoặc đôi chút. Tương tự, người mẹ cho rằng mình hiểu biết rất rõ về lợi ích của việc cho bú mẹ có tỷ lệ duy trì cho con bú khi trẻ được 2 tuổi cao nhất, khoảng 32%. Tỷ lệ này ở nhóm người mẹ cho rằng mình hiểu biết khá rõ lợi ích của việc bú mẹ là 19,6% và hiểu biết đôi chút là 23,8% (Bảng 1.5).

Thu nhập của gia đình có ảnh hưởng đến việc tiếp tục cho con bú bằng sữa mẹ lúc trẻ được 1 tuổi. Có đến gần 82% trẻ em 1 tuổi trong gia đình có mức thu nhập thấp nhất (4,5 triệu đồng trở xuống) được cho bú mẹ đến 1 tuổi. Tỷ lệ này giảm 20 điểm phần trăm và còn ở mức khoảng 61% ở hai nhóm gia đình có mức thu nhập cao hơn. Rất có thể ở những gia đình có thu nhập cao hơn người mẹ phải trở lại nơi làm việc sớm hơn hoặc công việc của họ đòi hỏi mức độ căng thẳng hơn nên đành phải dừng cho con bú, vì khi bà mẹ đi làm lại, công việc căng thẳng cũng ảnh hưởng lớn tới việc tiết sữa.

Có sự khác biệt giữa nơi cư trú và việc tiếp tục được bú sữa mẹ khi trẻ được 1 tuổi và 2 tuổi và có xu hướng là trẻ em ở nông thôn tiếp tục được bú sữa mẹ cao hơn khu vực thành thị. Tỷ lệ trẻ em tiếp tục được bú sữa mẹ khi 1 tuổi ở nông thôn là 78,9%, so với 54,8% ở khu vực thành thị. Tương tự, ở nhóm trẻ được 2 tuổi, tỷ lệ tiếp tục được bú sữa mẹ ở nông thôn là 29,5% và ở thành thị là 18,4%. Có thể, các bà mẹ ở khu vực thành thị không duy trì cho trẻ bú lúc 1 tuổi và 2 tuổi là vì họ thường là người làm công ăn lương, phải quay trở lại làm việc sau thời gian nghỉ đẻ.

Việc người mẹ có cho con bú đến 24 tháng tuổi hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, đặc biệt là các yếu tố sinh học, cụ thể là liệu người mẹ có còn sữa để cho con bú hay không. Vì vậy việc tìm hiểu các lý do dừng không cho bé tiếp tục bú mẹ là cần thiết.

Biểu đồ 1.6 dưới đây trình bày các lý do trẻ ngừng bú theo số tháng tuổi (trước 6 tháng tuổi; trước 12 tháng; trước 18 tháng; trước 24 tháng). Nhìn chung lý do chủ yếu trẻ dừng bú ở cả 4 nhóm tuổi là những nguyên nhân sinh học do người mẹ có vấn đề với đầu vú, bị bệnh... Lý do có tỷ lệ cao thứ hai là do người mẹ phải đi làm trở lại hoặc không có thời gian cho trẻ bú7. Hai lý do còn lại do theo lời khuyên của bạn bè

7 Kết quả điều tra Điều tra về Nghỉ thai sản và Nuôi con bằng sữa mẹ của Lao động nữ của của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) vào tháng 9/2011 cũng cho thấy kết quả tương tự: 83% lao động nữ đồng ý rằng họ không thể tiếp tục cho con bú hoàn toàn sau 6 tháng tuổi do nhu cầu quay trở lại làm việc. Các nguyên nhân của việc ngừng cho con bú là: không có đủ sữa (khoảng 35%); trẻ đã quá lớn; mẹ không có đủ thời gian

26

hoặc của bác sĩ có tỷ lệ rất thấp. Như vậy, một trong những vấn đề cần quan tâm để tạo điều kiện cho các bà mẹ cho con bú được dài hơn là giúp họ xử lý những vấn đề sức khỏe liên quan tới việc tiết sữa hoặc khả năng cho con bú.

93.2

91.7

91.6

100

89.1

80

60

40

29.8

28.5

27.5

27.5

20

10.1

7

4.7

2.4

2.1

1.8

1.8

0.8

0

Biểu đồ 1.6: Lý do người mẹ ngưng không cho con bú theo tuổi của trẻ khi ngừng bú

LD Sinh học

LD đi làm

LD BB khuyên

LD BS khuyên

=< 6 tháng

< 12 tháng

< 18 tháng

< 24 tháng

Biểu đồ 1.7 làm rõ hơn sự khác biệt giữa nơi cư trú đối với việc tiếp tục cho con bú khi trẻ được 2 tuổi theo loại hình nghề nghiệp của người mẹ. Cho dù có loại hình nghề nghiệp như thế nào, người mẹ cư trú ở nông thôn có tỷ lệ tiếp tục cho con bú khi trẻ được 2 tuổi vẫn cao hơn so với người mẹ cư trú ở khu vực thành thị. Ví dụ, 20% người mẹ ở nông thôn làm nghề công nhân, nhân viên vẫn tiếp tục cho con bú khi trẻ được 2 tuổi, trong khi tỷ lệ này ở người mẹ cùng nhóm nghề nhưng cư trú ở khu vực thành thị là 0%. Tương tự có 42,4% người mẹ ở nông thôn không làm việc đã tiếp tục duy trì cho con bú khi trẻ được 2 tuổi, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm người mẹ không làm việc nhưng cư trú ở khu vực thành thị chỉ bằng một nửa (21,4%).

50

42.4

40

25

24.4

30

21.4

20

20

16.7

20

10

0

0

Biểu đồ 1.7: Tỷ lệ trẻ em bú sữa mẹ khi được 2 tuổi chia theo nghề nghiệp và nơi cư trú của người mẹ

Tự làm

CN, NV

CM cao

Không làm việc

Thành thị

Nông thôn

để cho bú; bản thân trẻ từ chối bú; tiếp tục có thai cản trở việc cho bú; và các vấn đề về vú. (Phạm Thị Thanh Hồng 2011)

27

Việc phân tích mối liên hệ giữa các yếu tố có liên quan đến việc cho trẻ nhỏ bú sữa mẹ sau 12 tháng cũng rất quan trọng. Bảng 1.6 dưới đây trình bày kết quả phân tích đó. Chỉ số trẻ nhỏ tiếp tục bú sữa mẹ sau 12 tháng được xây dựng từ 2 nguồn thông tin: 1) Số lượng trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên vẫn đang bú sữa mẹ tại thời điểm khảo sát; và 2) Số lượng trẻ ngừng bú mẹ từ 12 tháng tuổi trở đi trong số những trẻ đã ngừng bú mẹ tại thời điểm khảo sát. Trong số 756 trẻ có độ tuổi từ 12 đến 48 tháng, có 579 trẻ tiếp tục được bú sữa mẹ từ tháng thứ 12 trở đi.

Thứ tự sinh của trẻ có mối liên hệ với việc được bú sữa mẹ sau 12 tháng tuổi. Những trẻ là con đầu có tỷ lệ tiếp tục được bú sữa mẹ thấp hơn so với nhóm trẻ là con từ thứ hai trở đi, 79,2% so với 85,1%. Những người mẹ sinh thường có tỷ lệ tiếp tục cho con bú cao hơn nhóm người mẹ có cách thức sinh bằng mổ đẻ hoặc có can thiệp, 87% so với 63,8%.

Bảng 1.6: Tỷ lệ trẻ em tiếp tục được bú sữa mẹ khi được 12 tháng tuổi chia theo một số đặc trưng cơ bản của người mẹ

Phần trăm Số lượng trẻ

28

Thứ tự lần sinh Lần đầu Lần thứ hai trở đi Hình thức sinh Sinh thường Sinh mổ/có can thiệp Tuổi của mẹ 18-25 26-30 31-40 Học vấn của mẹ 0-9 10-12, TC CĐ, ĐH+ Nghề nghiệp của mẹ Tự làm riêng Làm ăn lương: NV, CN Làm ăn lương: CM cao Không đi làm Hiểu biết về bú mẹ Rất ít/ đôi chút Khá rõ Rất rõ 79,2 85,1 87,0 63,8 82,5 81,1 83,0 84,4 85,0 69,6 87,5 74,4 71,6 83,9 74,0 81,7 85,8 277 302 463 116 122 209 248 227 252 97 186 94 85 213 69 256 254

83,5 79,0 408 171

Mức độ ảnh hưởng của tài liệu quảng bá cho bú sữa mẹ Không/ ảnh hưởng vừa phải Rất/ khá ảnh hưởng Biết khuyến cáo của ngành y tế về thời gian cho con bú Không biết Biết Thu nhập của HGĐ <= 4,5 triệu 4,6-6,5 triệu > 6,5 triệu Nơi cư trú Thành thị Nông thôn Chung

78,5 90,8 90,9 78,8 70,2 68,0 90,4 82,2 407 172 270 125 184 271 308 579

Kết quả phân tích đa biến khi xem xét đồng thời các yếu tố (không trình bày cụ thể ở đây) cho thấy, trong số các yếu tố nêu trên, tác động của yếu tố hình thức sinh đẻ, hiểu biết về bú mẹ, biết khuyến cáo của ngành y tế về thời gian cho con bú là quan trọng nhất. Khả năng các bé được tiếp tục bú mẹ sau 12 tháng sẽ cao hơn nếu bé được sinh ra không phải dùng can thiệp y tế, mẹ bé có hiểu biết tốt về lợi ích của cho trẻ bú mẹ, và mẹ bé biết khuyến cáo của ngành y tế về thời gian cho con bú.

6. Thời gian bú sữa mẹ

Theo kết quả khảo sát, trong số 1187 người mẹ đã từng nuôi con bằng sữa mẹ, 603 người cho biết đã cai sữa cho trẻ. Thời gian trẻ được bú mẹ trung bình của mẫu khảo sát là khoảng 15 tháng (Bảng 1.8).

Số tháng trung bình được bú sữa mẹ của nhóm trẻ là con đầu thấp hơn so với nhóm trẻ không phải là con đầu. Nhóm trẻ được sinh ở bệnh viện có thời gian bú mẹ trung bình thấp hơn nhóm trẻ được sinh nơi khác, 14 so với 17 tháng. Nhóm trẻ được sinh bình thường có khoảng thời gian trung bình bú mẹ lâu hơn nhóm trẻ sinh mổ/có can thiệp khoảng 3 tháng. Điều này có thể là do việc sinh đẻ bị can thiệp y tế ảnh hưởng đến sức khỏe và do đó đến mức độ có sữa của người mẹ.

29

Người mẹ có học vấn cao hơn và nghề nghiệp là làm công ăn lương có thời gian cho con bú trung bình thấp hơn so với những người mẹ có đặc điểm khác. Kết quả này một lần nữa cho thấy những trở ngại mà người mẹ làm công ăn lương phải đối mặt khi nuôi con nhỏ.

Thời gian trung bình bú sữa mẹ của trẻ tăng dần theo sự hiểu biết của người mẹ về bú sữa mẹ. Nếu những người mẹ cho rằng họ hiểu biết ít thì con của họ được bú sữa mẹ trung bình khoảng 13 tháng. Số tháng trung bình trẻ được bú sữa mẹ tăng lên khoảng 14 tháng ở nhóm người mẹ hiểu biết ‘khá rõ’ về bú mẹ và 15 tháng ở nhóm người mẹ có hiểu biết ‘rất rõ’.

Thu nhập của hộ gia đình cao hơn thì trẻ được bú mẹ trung bình với số tháng thấp hơn, từ 16 tháng ở gia đình có thu nhập dưới 4,5 triệu đồng một tháng xuống 14 tháng ở gia đình có thu nhập 4,6 triệu đến 6,5 triệu đồng và còn khoảng 13 tháng ở những gia đình có thu nhập trên 6,5 triệu đồng một tháng. Như đã đề cập ở trên, thu nhập cao có thể tạo thuận lợi hơn cho các bà mẹ sử dụng sữa bột công thức cho trẻ để thay thế sữa mẹ.

Chênh lệch số tháng trung bình được bú sữa mẹ giữa hai nhóm trẻ ở thành thị và nông thôn là 4 tháng, trong đó trẻ em ở khu vực thành thị được bú sữa mẹ trung bình khoảng 12 tháng và trẻ em ở khu vực nông thôn là 16 tháng.

Bảng 1.8: Số tháng trung bình bú sữa mẹ chia theo một số đặc trưng cơ bản của người mẹ

Trung bình 14,2 15,5 Số trường hợp 297 306

13,9 16,9

15,4 12,8

14,0 14,4 15,7 15,1 15,4 12,9

30

Số lần sinh Lần đầu Lần thứ hai trở đi Nơi sinh Bệnh viên công Nơi khác Hình thức sinh Sinh thường Sinh mổ/có can thiệp Tuổi của mẹ 18-25 26-30 31-40 Học vấn của mẹ 0-9 10-12, TC CĐ, ĐH+ Nghề nghiệp của mẹ Tự làm riêng Làm ăn lương: NV, CN Làm ăn lương: CM cao Không đi làm 16,9 13,3 13,0 13,7 446 157 451 152 114 232 257 219 264 119 199 119 101 184

13,5 14,8 15,5 94 266 243

13,7 18,0

16,6 13,7 13,0

Hiểu biết về bú mẹ Rất ít/ đôi chút Khá rõ Rất rõ Biết khuyến cáo của ngành y tế về thời gian cho con bú Không biết Biết Thu nhập của HGĐ <= 4,5 triệu 4,6-6,5 triệu > 6,5 triệu Nơi cư trú Thành thị Nông thôn Chung

12,3 16,5 14,8 462 141 233 147 223 330 273 603

7. Nhận thức về các biện pháp giúp tăng sinh nguồn sữa mẹ

Như đã phân tích ở trên, một trong những lý do quan trọng buộc người mẹ phải ngừng cho con bú chính là yếu tố sinh học, trong đó có nguyên nhân thiếu sữa mẹ. Theo WHO, một trong những nỗi lo lắng thường gặp nhất của các bà mẹ khi sinh con là không có đủ sữa cho con bú8. Các cơ quan y tế đã đưa ra nhiều khuyến cáo về vấn đề làm thế nào để tăng nguồn sữa cho người mẹ, trong đó thường được nhắc đến nhất là cần cho con bú thường xuyên, bú đúng cách để kích thích tuyến sữa hoạt động, cần

phải ăn đủ chất dinh dưỡng (không phải là ăn thật nhiều), uống nhiều nước bởi thành phần chính trong sữa mẹ là nước (gồm cả nước hoa quả, nước cháo, sữa,..), ngủ đủ giấc và giữ tinh thần thoải mái, tự tin, tránh căng thẳng, lo âu, buồn phiền9. Chính vì vậy, việc phân tích nhận thức của các bà mẹ về biện pháp tăng nguồn sữa mẹ là rất cần thiết.

8 Nguồn: Mười thực tế về nuôi con bằng sữa mẹ, Bộ Y tế

http://moh.gov.vn/wps/portal/boyte/tintuc/chitiet/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3hnd0cPE3 MfAwN3d0MDA0_XAAsPU1MnAwMnc_2CbEdFAJfzeRk!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/con nect/moh/boyte/sa_tintuc/sa_tinveduoc/78b9db004a8b8ae5885a8dbda18b7158

9 Nguồn: Làm thế nào để bảo vệ nguồn sữa mẹ, NIN, http://viendinhduong.vn/news/vi/82/56/0/a/lam-the-nao-

de-bao-ve-nguon-sua-me.aspx

Nguồn: Chuyên đề 3: Làm thế nào để tăng cường nguồn sữa mẹ, Bệnh viện Từ Dũ – TP HCM

http://tudu.com.vn/vn/thong-tin-y-hoc/y-hoc-cho-moi-nguoi/suc-khoe-phu-nu/lam-me-an-toan/cham-soc-tre- so-sinh/nuoi-con-bang-sua-me-nhu-the-nao-cho-dung-cach-phan-3/

Nguồn: Làm thế nào để tăng tạo sữa và phục hồi sữa mẹ, http://mattroibetho.vn/vi/nuoi-con-bang-sua-

me.nd139/lam-the-nao-de-tang-tao-sua-va-phuc-hoi-sua-me-.i323.bic…

31

Đối với các bà mẹ cho con bú trong khảo sát này, dường như kinh nghiệm dân gian về các món ăn giúp tăng tiết sữa mẹ được họ ưu tiên sử dụng hơn cả, có tới 83,6% bà mẹ đã từng áp dụng biện pháp là ăn chân giò heo/lợn. Việc phần lớn các bà mẹ cho rằng ăn các món ăn cổ truyền giúp mẹ nhiều sữa như chân giò heo/lợn,

móng giò hầm đu đủ, chân chó đen hầm, canh chân gà,.. có thể do họ được chỉ bảo theo kinh nghiệm của những người lớn tuổi, mà trực tiếp nhất ở đây là người mẹ/người thân trong gia đình.

Bảng 1.9: Các biện pháp người mẹ sử dụng để tăng nguồn sữa

Tỷ lệ % Biện pháp

Ăn chân giò heo/ lợn 83,6

Ngủ điều độ 48,8

Luôn luôn trong trạng thái tinh thần vui vẻ/ thoải 43,6 mái

Uống nhiều nước 41,7

Cho bé bú nhiều lần trong ngày 27,1

Ăn thức ăn giàu vitamin A 26,7

Uống nước ép trái cây tươi 21,4

Uống sữa bột dành cho bà mẹ cho con bú 20,7

Uống sữa tươi 17,8

Uống thuốc lợi sữa 9,4

Tin tưởng rằng tôi có đủ sữa cho bé bú 5,5

Các biện pháp như ngủ điều độ, luôn luôn trong trạng thái tinh thần vui vẻ/ thoải mái, uống nhiều nước,.. cũng được nhiều bà mẹ từng sử dụng, song tỷ lệ khá khiêm tốn (dưới 50%).

Đáng chú ý nhất là chỉ có 27,1% bà mẹ từng sử dụng biện pháp cho bé bú nhiều lần trong ngày. Đây là một cách thức quan trọng giúp tăng sinh nguồn sữa mẹ, bởi việc cho bé bú nhiều lần trong ngày giúp kích thích các tuyến sữa hoạt động tích cực hơn,

do đó, sữa được tiết ra nhiều hơn, đáng tiếc là tỷ lệ các bà mẹ áp dụng cách này khá hạn chế.

Khảo sát này không tính đến yếu tố cho bé bú đúng cách như một biện pháp giúp tăng nguồn sữa mẹ. Việc cho bé bú đúng tư thế được coi là một yếu tố quan trọng

32

thúc đẩy tăng sinh nguồn sữa mẹ, nếu cho con bú sai cách, mẹ và bé có thể sẽ cùng cảm thấy căng thẳng, dẫn tới tình trạng bỏ bú ở trẻ và đau núm vú, căng sữa, thậm chí

tắc tuyến sữa ở người mẹ10. Thực tế này cần được các nhân viên y tế quan tâm vì theo một nghiên cứu định tính của Alive&Thrive năm 2009, có khoảng 80-90% bà mẹ sinh tại cơ sở y tế không được cán bộ y tế hướng dẫn cách cho con bú11.

Thảo luận

Tác động của việc bắt đầu cho con bú sớm đến sự phát triển của trẻ được nhiều người biết đến. Nhìn chung, đại đa số phụ nữ Việt Nam hiểu rõ những lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ cũng như tầm quan trọng của việc cho con bú tới 24 tháng tuổi. Tuy nhiên vẫn còn có khoảng cách giữa nhận thức và thực hành. Chỉ có khoảng hai phần năm người mẹ trong mẫu khảo sát cho con bú sớm ngay sau khi sinh. Tương tự, tỷ lệ cho trẻ bú đúng cách chỉ khoảng một phần ba, có khoảng 75% trẻ bú sữa mẹ đến 1 tuổi và 20% trẻ bú sữa mẹ đến 2 tuổi. Quãng thời gian trung bình cho trẻ bú mẹ là 15

tháng.

Việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu không chỉ là sự lựa chọn của cá nhân người mẹ về phong cách sống, mà phải được xem là một khuyến nghị quan trọng về y tế và sức khoẻ. Tỷ lệ người mẹ sinh ở bệnh viện có tỷ lệ cho con

bú sớm ngay sau khi sinh thấp hơn các cơ sở y tế khác cho dù không xác nhận ảnh hưởng của yếu tố sinh tại bệnh viện nhưng vẫn gợi ra rằng, đội ngũ cán bộ y tế ở các cơ sở y tế, bệnh viện cần quan tâm hơn đến vấn đề này, tích cực hơn trong việc “tạo điều kiện để bà mẹ được cho con bú trong vòng một giờ đầu sau khi sinh” và “tuyên truyền, khuyến khích việc nuôi trẻ bằng sữa mẹ” (theo yêu cầu của Nghị định 21/2006/NĐ-CP của Chính phủ).

Nhìn chung trẻ là con đầu gặp trở ngại trong việc bú sữa mẹ so với trẻ có các lần sinh sau. Việc trẻ được sinh bằng hình thức mổ/có can thiệp cũng gặp bất lợi trong việc tiếp cận và duy trì bú sữa mẹ.

Người mẹ làm công ăn lương gặp khó khăn khi thực hiện việc nuôi con bằng sữa mẹ. Điều cản trở là do người mẹ ở nhóm này thường phải trở lại đi làm sớm sau khi sinh, áp lực trong công việc, đi công tác… nên phần nào hạn chế việc duy trì cho con bú sữa mẹ. Một trong những yếu tố đầu vào đảm bảo sự cân bằng giữa số lượng hoặc chất lượng của những đứa con là tăng cường sự đầu tư nuôi con bằng sữa mẹ

10 Nguồn: Mười thực tế về nuôi con bằng sữa mẹ, Bộ Y tế,

http://moh.gov.vn/wps/portal/boyte/tintuc/chitiet/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3hnd0cPE3 MfAwN3d0MDA0_XAAsPU1MnAwMnc_2CbEdFAJfzeRk!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/con nect/moh/boyte/sa_tintuc/sa_tinveduoc/78b9db004a8b8ae5885a8dbda18b7158

Alive&Thrive Việt Nam. 2011. Tài liệu hướng dẫn giảng dạy tư vấn nuôi dưỡng trẻ nhỏ tại cơ sở y tế. Nguồn:

http://aliveandthrive.org/sites/default/files/Trainer%20Manual%202%20Counseling_VN_draft.pdf

Bí quyết cho con bú đúng cách. Nguồn: http://mattroibetho.vn/vi/tin-noi-bat.nd13/nuoi-con-sua-me.i263.bic 11 Alive&Thrive Việt Nam. 2011. Tài liệu hướng dẫn giảng dạy tư vấn nuôi dưỡng trẻ nhỏ tại cơ sở y tế. Nguồn:

http://aliveandthrive.org/sites/default/files/Trainer%20Manual%202%20Counseling_VN_draft.pdf

33

trong khoảng thời gian sơ sinh. Hơn nữa, những cháu bé có mẹ luôn bận rộn với công việc, ít được quan tâm, âu yếm vỗ về sẽ phản ứng lại bằng cách từ chối bú sữa mẹ. Do đó, người mẹ cần phải quan tâm đến con cái bằng cách cắt giảm áp lực làm việc cho bản thân, đầu tư nhiều hơn vào thời gian chăm sóc cho trẻ. Về mặt nhà nước, việc tạo

điều kiện thêm về thời gian nghỉ cho các bà mẹ đang làm việc sẽ giúp họ có thể cho con bú với thời gian dài hơn.

Hiểu biết của người mẹ về lợi ích của việc bú mẹ có mối quan hệ song hành với việc thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ. Theo đó, người mẹ tự cho là hiểu biết ở mức độ

cao hơn thì nuôi con bằng sữa mẹ tốt hơn. Đồng thời, những người mẹ biết khuyến cáo của ngành y tế về thời gian cho con bú cũng thực hiện việc cho con bú sữa mẹ tốt hơn.

Người mẹ trong gia đình có mức sống cao hơn lại thực hành nuôi con bằng sữa

mẹ kém hơn những người mẹ trong gia đình có mức sống thấp hơn. Thông tin từ cuộc khảo sát chưa cho phép lý giải chính xác vấn đề này. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng bà mẹ trong những gia đình có thu nhập cao hơn thường là nhân viên làm công ăn lương với đòi hỏi công việc cao hơn và yêu cầu quay trở lại làm việc sớm hơn (thường là sau 4 tháng nghỉ thai sản).

Người mẹ ở khu vực nông thôn luôn thực hành nuôi con bằng sữa mẹ tốt hơn (cho con bú sớm ngay sau khi sinh, cho con bú lâu hơn) so với khu vực thành thị. Đây có thể là tác động hỗn hợp của các yếu tố như trình độ học vấn, nghề nghiệp và tình trạng kinh tế.

Vai trò của các yếu tố sinh học (sức khỏe người mẹ, đầu vú, v.v.) đối với việc làm giảm thời gian cho con bú sữa mẹ cũng cần được ngành y tế đặc biệt quan tâm để tạo điều kiện cho các bà mẹ kéo dài thời gian cho con bú hơn. Ngoài ra, phân tích cũng cho thấy tỷ lệ các bà mẹ hiểu biết rõ về các biện pháp tăng nguồn sữa mẹ chưa cao, do vậy công tác tuyên truyền về bú sữa mẹ cũng cần quan tâm hơn đến vấn đề này.

II. Thực hành bổ sung thức ăn cho trẻ

1. Tiêu chuẩn cho ăn bổ sung và nội dung phân tích

34

Theo WHO, thức ăn bổ sung nên bắt đầu lúc 6 tháng tuổi với một lượng nhỏ thức ăn và tăng dần số lượng khi trẻ lớn hơn, trong khi vẫn duy trì nuôi con bằng sữa mẹ. Đối với trẻ ở các nước đang phát triển nhu cầu năng lượng từ thức ăn bổ sung khoảng 200 kcal mỗi ngày khi trẻ từ 6-8 tháng tuổi, 300 kcal mỗi ngày vào lúc 9-11 tháng tuổi, và 550 kcal mỗi ngày tại 12-23 tháng tuổi. Trẻ được ăn thức ăn xay nhuyễn, nghiền và đặc hơn khi trẻ sau 6 tháng, hầu hết trẻ 8 tháng có thể ăn thức ăn cầm tay. Đến 12 tháng tuổi, hầu hết trẻ có thể ăn giống các loại thực phẩm như gia đình (luôn lưu ý là

những thực phẩm giầu dinh dưỡng). Tránh các loại thức ăn có thể gây nguy hiểm cho trẻ như các loại hạt. Số lần cho trẻ ăn bổ sung tăng lên khi trẻ lớn hơn và tùy vào năng lượng của loại thực phẩm và nhu cầu mỗi lần ăn của trẻ. Trung bình đối với trẻ khỏe mạnh nên được ăn từ 2-3 lần mỗi ngày ở giai đoạn 6-8 tháng tuổi và 3-4 lần mỗi ngày

ở giai đoạn từ 9 - 11 tháng và 12-24 tháng tuổi đồng thời bổ sung đồ ăn nhẹ từ 1-2 lần mỗi ngày như trái cây hoặc bánh mì, là các thức ăn giữa các bữa, dễ chuẩn bị và đảm bảo dinh dưỡng. Nếu mức năng lượng hoặc số lượng thức ăn mỗi bữa ăn thấp, hoặc trẻ không còn bú sữa mẹ thì số lần bữa ăn cần nhiều hơn. Trẻ cần được ăn nhiều loại thức ăn để đảm bảo đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng. Thịt gia cầm, cá hay trứng nên ăn hàng ngày, càng nhiều càng tốt. Chế độ ăn chay không thể đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng ở lứa tuổi này. Trái cây và rau quả giàu Vitamin A nên ăn hàng ngày. Nên cung cấp chế

độ ăn có hàm lượng chất béo thích hợp. Tránh thức uống có giá trị dinh dưỡng thấp như cà phê, trà và các đồ uống có đường như soda12.

Việc cho trẻ ăn bổ sung cần tuân theo “Bảng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam”13 - là tài liệu chính thức do NIN xây dựng theo nhóm tuổi cho trẻ em và người trưởng thành, dựa trên khuyến nghị của FAO/WHO, UNICEF và kinh nghiệm các nước trên thế giới và thực tiễn ăn uống của người Việt Nam. Nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng được khuyến nghị đối với trẻ em được chia thành 3 nhóm tuổi: < 6 tháng tuổi, 6-12 tháng tuổi và nhóm từ 1-3 tuổi. Đối với trẻ dưới <6 tháng áp dụng khuyến nghị của WHO/UNICEF 2005 cho trẻ bú mẹ hoàn toàn. Đối với trẻ từ 6 -12 tháng tuổi và 1 tuổi đến 3 tuổi nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng được khuyến nghị cụ thể và dựa trên kiến thức về các nhóm dinh dưỡng chính, đó là:

1. Nhóm chất đạm (Protid/Protein): thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa, đậu đỗ, lạc, vừng... Nhu cầu protein cho trẻ theo tháng tuổi phải đạt được các mức như: từ 7- 12 tháng đạt 21-25g/ngày không phân biệt trai gái, với năng lượng do protein cung cấp là từ 12% - 15% với mức sử dụng protein (NPU) ước tính = 70%.

2. Nhóm bột đường và chất xơ (Glucid) gồm các loại lương thực (gạo, mì, khoai ngô), đường, chất xơ (có nhiều trong rau, hoa quả, ngũ cốc), - là các thành phần cơ bản nhất, và chiếm khối lượng lớn nhất của các bữa ăn, trong đó chất đường

ngọt đã tinh chế (sugars) chỉ nên tiêu thụ không quá 10% nhu cầu các chất glucid.

12 Nguồn: WHO, Nuôi bổ sung cho trẻ không được bú mẹ từ 6-24 tháng tuổi, Kỷ yếu hội thảo, Geneva 8-

10/3/2004

35

13 Nguồn: NIN, Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 2006.

3. Nhóm chất béo (Lipid) có nguồn gốc thực vật và động vật như dầu, mỡ, lạc, vừng... Nhu cầu năng lượng do lipid cho trẻ 6-12 tháng là 40%, từ 1-3 tuổi là 35- 40% năng lượng tổng số.

4. Nhóm các khoáng chất và vi khoáng, được gọi chung là các vi chất dinh dưỡng như sắt, calci, kẽm. Các vitamin tan trong dầu như A D, E K (có trong rau, quả, đặc biệt các loại rau có màu xanh thẫm và các loại quả có màu đỏ hoặc vàng) và Vitamin tan trong như C hoăc nhóm B; và nhu cầu nước và các chất điện giải.

Một số nguyên tắc khi bổ sung thức ăn cho trẻ cũng cần có những lưu ý như: Tất cả các dụng cụ chế biến phải được vệ sinh sạch sẽ, rửa tay sạch trước khi chế biến thức ăn và khi cho trẻ ăn, ngoài ra khâu bảo quản thực phẩm phải đảm bảo vệ sinh sạch. Tất cả các loại thức ăn tươi, sạch, giàu dinh dưỡng mà người lớn ăn được hằng ngày đều có thể cho trẻ ăn được, trừ rượu, bia và các loại gia vị chua, cay. Trẻ nhỏ không cần kiêng dầu, mỡ, rau xanh, cá, tôm, cua, trứng , thịt... vì một lượng nhỏ các loại thức ăn này cũng giúp cho trẻ khỏe mạnh14 và 15.

Cho đến 6 tháng tuổi hoặc ít nhất là 4 tháng tuổi, nếu không có nguồn sữa mẹ tự nhiên, trẻ sơ sinh không nên sử dụng các loại thực phẩm khác như sữa bò, sữa đậu nành, sữa cho người lớn hay bột ăn dặm để thay thế, nguồn thực phẩm an toàn cho trẻ nhỏ là sản phẩm dinh dưỡng công thức đạt tiêu chuẩn CODEX. Đối với nhóm trẻ có yêu cầu dinh dưỡng đặc biệt như trẻ sinh non, nhẹ cân, trẻ bị dị ứng không dung nạp lactose, trẻ bị tiêu chảy... thì buộc phải tuân theo các chỉ dẫn của bác sỹ16.

Trong phần này, việc thực hành cho trẻ 7-24 tháng tuổi ăn thức ăn bổ sung được xem xét trong mối quan hệ với các yếu tố như: khu vực sống (thành thị - nông thôn), đặc điểm nhân khẩu của người mẹ (học vấn, nghề nghiệp) và kiểu/cách cho trẻ ăn17 và thu nhập hộ gia đình. Cỡ mẫu phân tích gồm 475 trường hợp trẻ 7-24 tháng tuổi18, trong đó có 258 trường hợp trẻ có chế độ ăn bú sữa mẹ là chủ yếu đồng thời cho ăn thực phẩm khác và 217 số trẻ hiện ăn các thực phẩm khác là chủ yếu.

http://www.viendinhduong.vn/news/vi/71/55/0/a/lam-the-nao-cho-tre-an-bo-sung-hop-ly.aspx

16 Nguồn: Tổ chức Thống nhất và Tín thác Bảo vệ Người Tiêu dùng (CUTS), 2012, Tình hình cạnh tranh trên thị trường sữa công thức dành cho trẻ em từ 0-12 tháng tuổi tại Việt Nam qua các năm 2009-2011 (tháng 6/2012). 17 Đang hoặc không bú mẹ: Câu Q3 về phân loại cách ăn, xây dựng biến mới gồm 2 nhóm: Hiện đang bú mẹ chủ

36

yếu + uống sữa/thực phẩm khác (2 3 4 5); và Hiện không bú mẹ (6 7 8). 18 Loại trừ nhóm trẻ đang trong độ tuổi cần phải bú sữa mẹ hoàn toàn (14%)

Một số nội dung phân tích về thời điểm cho ăn bổ sung sẽ dựa trên cơ sở mẫu là các bà mẹ hiện đang cho con bú chủ yếu và có cho ăn thức ăn khác (385 trường hợp); phần thực hành uống sữa bò, sữa tươi chỉ phân tích cơ sở mẫu ở trẻ dưới 12 tháng tuổi (377 trường hợp); hoặc nội dung phân tích về nhận thức và quan niệm/sự lựa chọn cách cho trẻ ăn tốt nhất của các bà mẹ sẽ được phân tích trên toàn bộ mẫu là 1200 trường hợp. 14 Nguồn: Viện Dinh dưỡng, 2012, Kết quả chủ yếu của Tổng điều tra giới thiệu chiến lược giai đoạn 2011-2020 15 Nguồn: Lê Thị Hải, 2010, Làm thế nào cho trẻ ăn bổ sung hợp lý?

Dựa vào khuyến nghị thực hành thức ăn bổ sung cho trẻ của WHO, UNICEF và NIN19, trong nghiên cứu này, khái niệm thức ăn bổ sung cho trẻ nhỏ được hiểu là: các loại thức ăn, uống và sản phẩm gia vị phù hợp khi nguồn sữa mẹ không còn đủ để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của trẻ nhỏ. Thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung là từ khi trẻ đủ

6 tháng tuổi trở lên. Thức ăn bổ sung cần đảm bảo đủ ít nhất 4 nhóm thực phẩm chính: 1) Nhóm chất đạm; 2) Nhóm tinh bột; 3) Nhóm chất béo; 4) Nhóm giàu vitamin và chất khoáng. Trẻ ăn cần được cho ăn bổ sung đầy đủ, tức là được ăn các thức ăn đủ lượng, ổn định và đa dạng để tiếp nhận đủ dinh dưỡng song song với sữa mẹ.

Phần phân tích dưới đây sẽ tập trung vào các nội dung thực hành cho trẻ ăn bổ

sung ở độ tuổi từ 7-24 tháng tuổi để trả lời cho các câu hỏi sau:

i) Thời điểm nào trẻ được cho ăn thức ăn bổ sung và yếu tố nào liên quan đến việc

trẻ được cho ăn bổ sung theo khuyến cáo chính thức?

ii) Các loại thức ăn, thức uống và gia vị nào đã được sử dụng trong khẩu phần ăn của trẻ hiện nay, và các loại thức ăn trong khẩu phần ăn của trẻ đã đảm bảo tính đa dạng và sự cân đối về dinh dưỡng hay không? Các sản phẩm dinh dưỡng được

khuyến nghị như các loại sản phẩm dinh dưỡng công thức bổ sung, thức uống trong khẩu phần ăn trẻ đã được đáp ứng trong giai đoạn phát triển như thế nào, và các bà mẹ có quan tâm về việc cho trẻ uống thuốc bổ hay không? Yếu tố nào có liên hệ với việc bổ sung nhiều loại thức ăn và bổ sung cho trẻ uống sản phẩm dinh dưỡng công thức có nhãn hiệu?

iii) Việc thực hành cho trẻ ăn bổ sung đủ ít nhất 4 nhóm thực phẩm chính của trẻ

dưới 24 tháng tuổi như thế nào?

iv) Kiến thức, nguồn thông tin về thức ăn bổ sung và lựa chọn của các bà mẹ về cách

cho trẻ ăn?

2. Thực hành cho trẻ ăn bổ sung

Nhìn chung việc thực hành cho trẻ ăn bổ sung chưa tuân thủ theo khuyến nghị về

thực hành tốt nhất của WHO và NIN.

a) Thời điểm cho trẻ ăn thức ăn bổ sung:

Đặc điểm chủ yếu của việc cho trẻ ăn bổ sung là chưa đúng thời điểm. Theo NIN,

năm 2002, ở Việt Nam trẻ sơ sinh được cho ăn bổ sung từ rất sớm. Một nửa số trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi ở Việt Nam đã cai sữa và bắt đầu được cho ăn bổ sung thay vì

19 Dữ liệu không cho phép đo lường theo hướng dẫn/định nghĩa về nuôi dưỡng trẻ nhỏ của WHO, là cơ sở để

tham khảo.

37

được bú sữa mẹ hoàn toàn. Trẻ sơ sinh ăn thức ăn khác ngoài sữa mẹ từ 3 tháng tuổi vẫn còn cao chiếm tỷ lệ từ 30-80% theo từng khu vực.20

Trên cơ sở mẫu gồm các bà mẹ cho con bú sữa chủ yếu có kết hợp với thực phẩm khác21 (385 bà mẹ), kết quả cho thấy có khoảng 2/3 (65,3%) các bà mẹ không thực hành đúng độ tuổi khuyến nghị trẻ ăn được bổ sung từ 6 tháng, phần lớn là quá sớm so với tháng tuổi (61,3% cho trẻ ăn từ 1-5 tháng tuổi và 4% cho ăn bổ sung quá muộn 10 tháng trở lên). Thức ăn bổ sung sớm thường là nhóm tinh bột như cơm, cháo và mì. Nhìn chung, việc cho trẻ ăn quá sớm (trước 3 tháng) hoặc quá muộn (sau 7 tháng) là

một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng rối loạn về tiêu hóa và suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ sau này. Theo WHO trẻ ăn bổ sung quá sớm sẽ không tốt bởi khi đó trẻ chưa có nhu cầu bổ sung các loại thức ăn này và nó có thể khiến nhu cầu bú sữa mẹ của trẻ ít đi và người mẹ cũng tiết ít sữa hơn và như vậy không đảm bảo về dinh dưỡng vì trẻ không nhận dưỡng chất quan trọng của sữa mẹ cho hệ miễn dịch, trẻ có nguy cơ mắc bệnh tiêu hóa do thức ăn không an toàn như sữa mẹ. Các thức ăn bổ sung như súp, bột, nước cơm có thể giúp trẻ ăn no nhưng lại có hàm lượng dinh dưỡng thấp.

Ngược lại, trẻ được ăn bổ sung quá muộn sẽ có những hậu quả như trẻ không được bổ sung đầy đủ nhu cầu năng lượng và dinh dưỡng là nguyên nhân trẻ chậm phát triển và bị suy dinh dưỡng.22

Chỉ có 34,7% các bà mẹ trong số này có thực hành cho trẻ ăn bổ sung theo đúng khuyến nghị trẻ ăn bổ sung từ 6-8,9 tháng23, vốn là giai đoạn quan trọng để tập cho trẻ làm quen với thức ăn mềm với số lượng ít.

Các bà mẹ ở thành thị cho trẻ ăn bổ sung không đúng cách (ăn sớm trước 5 tháng

tuổi) cao hơn so với ở nông thôn (70,7% so với 63,3%). Các bà mẹ là công nhân, viên chức cho trẻ ăn không đúng cách cao hơn đáng kể so với các nhóm còn lại (88,2% so với các nhóm còn lại có tỷ lệ trên dưới 60%). Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, nhiều bà mẹ ở thành thị còn có trào lưu phổ biến là cho trẻ ăn dặm sớm từ lúc sang 5 tháng tuổi theo kiểu Nhật (xem ví dụ thực đơn ăn dặm và diễn đàn tại link24)

20 Nguồn: Mạng lưới tư vấn và tập huấn sức khỏe cộng đồng, Báo cáo kỹ thuật về nghiên cứu hình thành: Đánh

giá về thực hành dinh dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, Hà Nội, Tháng 3/2010, trang 21 (tên tiếng Anh: Community health training and consulting network, Technical report for formative research: infant and young child feeding (IYCF) assessment, Ha Noi- March 2010)

21 Cơ sở mẫu là 385 bà mẹ hiện đang cho con bú chủ yếu + thức ăn khác (Q39a) trên toàn bộ mẫu 1200. Câu

hỏi này chỉ hỏi về thời điểm bắt đầu cho bé an bổ sung thực phẩm khác? Không có thông tin về loại thức ăn, vì vậy không thể phân tích cụ thể.

22 Nguồn: WHO, Nuôi bổ sung bằng thức ăn gia đình cho trẻ bú mẹ, năm 2000, trang 7 (tiếng Anh:

Complementary Feeding Family foods for breastfed children, download tại http://whqlibdoc.who.int/hq/2000/WHO_NHD_00.1.pdf )

23 Theo định nghĩa về các chỉ số nuôi dưỡng trẻ nhỏ 24 Nguồn: http://www.webtretho.com/forum/f81/tong-hop-thuc-don-an-dam-kieu-nhat-chi-tiet-gio-an-luong-an-

mon-an-1129996/

38

Khi phân tích hai biến, tác động của các yếu tố có thể lẫn với nhau. Vì vậy, để xác định vai trò của các yếu tố tác động tới khả năng trẻ được ăn đúng thời điểm khuyến nghị nhóm nghiên cứu đã sử dụng mô hình phân tích đa biến logistic. Các yếu tố được đưa vào phân tích gồm: khu vực sống, học vấn, nghề nghiệp của người mẹ và thu nhập hộ gia đình25. Kết quả ở Bảng 2.1 cho thấy so với nhóm trẻ em sống ở nông thôn (nhóm đối chứng) thì khả năng trẻ em ở thành thị được cho ăn bổ sung đúng thời điểm thấp hơn 0,8 lần. So với trẻ ở nhóm các bà mẹ có học vấn “Trung học phổ thông” và “Trung cấp, cao đẳng trở lên” thì trẻ ở nhóm các bà mẹ có học vấn trung học cơ sở trở xuống có khả năng được cho ăn đúng thời điểm thấp hơn. Trẻ ở nhóm mẹ có nghề nghiệp làm công ăn lương (công nhân viên chức và chuyên môn cao) thì có khả năng được ăn bổ sung đúng tháng tuổi thấp hơn so với nhóm trẻ có mẹ tự làm việc. Điều

này có thể do các bà mẹ làm công ăn lương phải chịu sức ép về thời gian nghỉ thai sản ngắn hơn so khuyến nghị về thời điểm cho trẻ ăn bổ sung (từ 2012 trở về trước là 4 tháng) nên họ buộc phải tập cho trẻ ăn sớm hơn để chuẩn bị đi làm. Đáng chú ý là so với trẻ em sống ở hộ gia đình có mức thu nhập cao thì trẻ em sống trong gia đình có mức thu nhập thấp nhất lại có khả năng được cho ăn đúng thời điểm sẽ tăng lên 1,3 lần. Tuy nhiên, nhìn chung thì các yếu tố đưa vào phân tích đều không có tác động mạnh tới thời điểm cho trẻ ăn bổ sung đúng khuyến nghị.

Bảng 2.1: Các yếu tố tác động tới thời điểm cho trẻ ăn bổ sung đúng khuyến nghị (N=385) Số lượng Tỷ số chênh lệch Biến số độc lập

Khu vực Thành thị Nông thôn (nhóm đối chứng) Học vấn mẹ Từ THCS trở xuống Trung học phổ thông Trung cấp, cao đẳng trở lên (nhóm đối chứng) Nghề nghiệp của mẹ Tự làm việc Làm công ăn lương (nhóm đối chứng) Phân tầng xã hội (thu nhập hộ gia đình) Thu nhập thấp Thu nhập trung bình Thu nhập cao (nhóm đối chứng) 0,8 1 0,8 1 1 1,2 1 1,3 1 1 167 216 139 140 104 293 90 174 76 133

25 Trong đó yếu tố học vấn và nghề nghiệp của người mẹ sẽ được nhóm gộp lai: cụ thể là học vấn của người mẹ chia thành 3 nhóm: Trung học cơ sở trở xuống, Trung học phổ thông và Trung cấp, cao đẳng trở lên; Nghề nghiệp của mẹ chia thành 2 nhóm: Tự làm riêng và làm công ăn lương.

39

Ăn bổ sung song song với bú mẹ cho trẻ 7-24 tháng tuổi là một lựa chọn hợp lý theo đúng khuyến nghị, vì theo WHO, từ tháng thứ 6 trở đi, sữa mẹ không cung cấp đủ năng lượng cho trẻ nữa (xem Biểu đồ 2.1). Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là quyết định lựa chọn kết hợp giữa bú mẹ và cho ăn các thực phẩm khác chủ yếu vì những lý do

bất khả kháng do hoàn cảnh (phải đi làm, không có thời gian, chậm xuống sữa, v.v), chứ không hoàn toàn vì người nuôi trẻ hiểu rõ tầm quan trọng của việc kết hợp như vậy.

Biểu đồ 2.126: So sánh giữa năng lượng cần thiết (đường phía trên) và năng lượng từ sữa mẹ

Cụ thể, 18,6% bà mẹ do không đủ sữa, 15,2% phải đi làm trở lại, 12,3% cho biết vì không có thời gian/quá bận rộn không cho bú được, lý do vì chậm xuống sữa (7,9%). Ngoài ra, kết quả phân tích cũng cho thấy các bà mẹ chưa chủ động tìm đến cán bộ y tế để hỏi ý kiến, cụ thể khi lựa chọn cách kết hợp giữa cho trẻ bú mẹ và các loại thực phẩm khác thì có 21,5% các bà mẹ làm theo lời khuyên của bạn bè/đồng nghiệp trong khi chỉ có 3,7% theo lời khuyên của bác sỹ. Điều này đáng quan tâm vì một số bạn bè

40

đồng nghiệp có thể cho những lời khuyên chính xác, nhưng nhìn chung đó là thông tin không chính thống, không bảo đảm tính khoa học bằng lời khuyên của các cán bộ y tế hay các kênh thông tin chính thống khác. Tuy nhiên đây cũng chỉ là một gợi ý vì cuộc nghiên cứu không có thông tin về những lời khuyên cụ thể.

26 Nguồn: WHO, Nuôi bổ sung bằng thức ăn gia đình cho trẻ bú mẹ, năm 2000, trang 10

b) Các loại thức ăn trong khẩu phần của trẻ từ 7 -24 tháng:

Đặc điểm nổi bật là thức ăn trong khẩu phần của trẻ từ 7 đến 24 tháng chưa đảm

bảo sự đa dạng các loại thực phẩm và tính cân đối trong khẩu phần.

Đa dạng các loại thức ăn cho trẻ 7-24 tháng

Về lý thuyết, ăn bổ sung nhiều loại thực phẩm khác nhau, cơ thể sẽ nhận được các loại đa chất cũng như vi chất dinh dưỡng, đồng thời sự phối hợp thực phẩm đúng sẽ tạo ra một nguồn dinh dưỡng hợp lý. Trong nghiên cứu này các loại thức ăn, uống từ sữa, các thực phẩm khác và các gia vị27 đảm bảo đầy đủ 4 nhóm dinh dưỡng chính theo khuyến nghị, gồm:

- Loại thức ăn/uống từ sữa gồm 7 loại: sản phẩm dinh dưỡng công thức với mục đích ăn bổ sung (theo đúng tên gọi trong Quy chuẩn Quốc gia vừa được Bộ Y tế ban

hành, và tên gọi của Codex quốc tế; trong báo cáo này có thể được gọi bằng tên gọi thông dụng trước đây là “Sữa bột công thức”), sữa bột không công thức, sữa tươi, sữa đặc có đường và sữa chua, sữa yaourt và phô mai (gọi tắt là “Nhóm 1”).

- Loại thức uống khác gồm 8 loại: nước, nước đường, nước cơm, sữa đậu nành,

nước ép trái cây, rau củ, thức uống pha từ bột sô cô la (gọi tắt là “Nhóm 2”).

- Loại thức ăn khác gồm 6 loại: bột dinh dưỡng, cơm/cháo, bánh mì, đậu hũ,

thịt/cá/gà/tôm/cua/hải sản và trái cây rau củ (gọi tắt là “Nhóm 3”).

- Các sản phẩm gia vị, gồm 3 loại: đường, dầu ăn, hạt nêm nước mắm, tương,

muối (gọi tắt là “Nhóm 4”).

Mô hình truyền thống cho trẻ em sơ sinh ăn ở Việt Nam bắt đầu từ sữa mẹ và/hoặc tiếp đến là các loại thức ăn khác như bột, cháo và cơm. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra hai thách thức chủ yếu trong việc cho trẻ ăn bổ sung đó là: ăn bổ sung sớm và các loại thực phẩm bổ sung nghèo về nguồn năng lượng cũng như các chất protein và các vi chất dinh dưỡng thấp. Bột gạo là thức ăn phổ biến nhất đầu tiên cung cấp cho trẻ em, tiếp theo là dinh dưỡng công thức và cháo. Các nghiên cứu này cũng cho thấy mức

tiêu thụ các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật như thịt, trứng và thực phẩm khác như trái cây còn thấp.28

27 Biến số thức ăn đa dạng được xây dựng trên câu hỏi Q1A: Hiện tại chị đang cho bé ăn, uống các loại thực

phẩm hay thức uống gì, kể cả những sản phẩm gia vị mà người mẹ cho vào thức ăn khi chế biến cho bé. Câu hỏi này không trực tiếp đo bằng bữa ăn của trẻ ngày hôm qua/gần đây, vì vậy biến phụ thuộc về khẩu ăn đa dạng sẽ là: Số loại thức ăn/uống hiện tại người mẹ sử dụng khi chế biến thức ăn cho trẻ.

28 Nguồn: TS. Nguyễn Hồng Phương, , TS. Purnima Menon, TS. Mariel Ruel , Nemat Hajeebhoy Điểm lại tình hình thực hành cho ăn bổ sung ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ở Việt Nam, trang 364 (tên tiếng Anh: A situational review of infant and young child feeding practices and interventions in Viet Nam, Asia Pacific Journal of Clinical Nutr 2011; 20 (3):359-374)

41

Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy, ngoài sữa mẹ, 100% số trẻ từ 7 tháng tuổi trở lên hiện được cho ăn ít nhất từ 2 loại thức ăn/uống trở lên, tuy nhiên con số này chưa cho thấy tính đa dạng trong khẩu phần của trẻ. Ngoại trừ sản phẩm dinh dưỡng công thức có nhãn hiệu, số liệu từ Biểu đồ 2.2 cho thấy tỷ lệ trẻ được bổ sung các thức

ăn uống từ sữa hoặc thức uống có hàm lượng dinh dưỡng còn thấp, cụ thể: có 41,8% số trẻ 7-24 tháng tuổi được bổ sung sữa tươi, sữa nước; 34,2% trẻ ăn sữa chua Yaout; 12,5% có ăn phô mai; 9,8% ăn sữa uống; 31,8% uống nước ép trái cây; 12,8% uống sữa đậu nành. Đáng chú ý vẫn có một số trẻ hiện được ăn các thức ăn bổ sung có hàm lượng dinh dưỡng thấp, ví dụ có 10 trẻ hiện được uống sữa đặc có đường (1,6% ), 3 trẻ được cho uống nước đường (1%) và có 14 trẻ 7-24 uống nước cơm (4,2%).

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ thức ăn uống từ sữa hiện có trong khẩu phần ăn của trẻ 7-24 tháng (N=475)

95.6

100

90

80

68.3

70

60

50

%

41.8

34.2

40

31.8

30

20

12.8

12.5

9.8

4.2

10

3.4

2.3

1.7

1.6

1

0.5

0

i

i

i

l

i

a ữ s , i

m ơ c

c ớ ư N

c ớ ư N

c ứ h T

g n ố u

c ớ ư N

a ữ S

h n à n

a ô c ô s

g n ờ ư đ

t ộ b ừ

c ớ ư n

ó C –

g n ố u

g n ô h k

c ứ h T

ủ c u a r

t

ơ ư

. y â c i á r t

t ộ b a ữ S

t

a m - ô h P

n ã h n / T C

u ậ đ a ữ S

t ộ b a ữ S

p é c ớ ư N

c ặ đ a ữ S

ạ o l c á C

a h p g n ố u

a u h c a ữ S

t r u o a y / n ă

a u h c a ữ S

g n ờ ư đ ó c

ả g c ớ ư n

c ứ h t g n ô c

g n ó đ t á h k

THỨC ĂN/ UỐNG TỪ SỮA

THỨC UỐNG KHÁC

Biểu đồ 2.3 về tỷ lệ trẻ 7-24 tháng được cho ăn các thức ăn và gia vị, cho thấy khoảng hơn 2/3 số trẻ 7-24 tháng tuổi được bổ sung thức ăn cung cấp chất bột đường, chất đạm và các thức ăn giầu chất khoáng và vitamin như trái cây, rau củ hoặc các loại đậu. Như vậy vẫn còn một số không nhỏ các bà mẹ chưa thực hành đúng việc đa dạng

42

thức ăn theo 4 nhóm dinh dưỡng chính. Ví dụ hơn 1/10 (15%) số bà mẹ chưa cho trẻ ăn cơm/cháo/gạo là nhóm chất bột đường, 1/5 các bà mẹ không bổ sung nhóm chất đạm như thịt/cá/hải sản và 1/3 bà mẹ chưa đưa nhóm trái cây rau củ vào khẩu phẩu ăn của trẻ. Trong khi trái cây và rau quả giàu Vitamin A được WHO khuyến nghị nên cho trẻ ăn hàng ngày. Vẫn còn số ít các bà mẹ cho trẻ uống các loại đồ uống bị coi là không tốt cho trẻ như uống các loại nước giải khát đóng chai hoặc nước uống sôcôla.

Nhu cầu nước cho trẻ em là cần thiết, theo NIN có nhiều lý do để xác định riêng về nhu cầu nước ở trẻ em như khả năng làm việc của thận chưa hoàn chỉnh, không biết kêu khát hoặc đòi uống nên không được người lớn cho uống nước/bồi phụ nước… Vì vậy, nhu cầu nước của trẻ em được xác định là 1,5 ml/1 kg cân nặng/ngày29. Trong nghiên cứu này vẫn có tới gần 5% số trẻ không được bổ sung nước theo đúng khuyến nghị.

Các sản phẩm gia vị như hạt nêm và dầu ăn chưa được các bà mẹ chú ý bổ sung

vào khẩu phần ăn cho trẻ. 35% bà mẹ chưa bổ sung dầu ăn vào bữa ăn cho trẻ cho

thấy sự thiếu hụt về nhu cầu lipid cho trẻ. Do cơ thể trẻ đang phát triển nhanh, rất cần

acid arachidonic, một acid béo không no có nhiều trong mỡ động vật, do đó tỷ lệ cân

đối giữa lipid động vật và lipid thực vật được khuyến nghị là 70% và 30%. Trong các

thức ăn bổ sung của trẻ thường được cho thêm thịt, cá, trứng, vốn đã có một lượng

nhất định lipid động vật nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu về lipid cho lứa tuổi

này, vì thế vẫn cần phải cho thêm vào khẩu phần của trẻ hoặc là các loại dầu ăn hoặc là mỡ theo tỷ lệ một bữa dầu, một bữa mỡ30. Theo khuyến nghị của WHO các loại

dầu (như dầu đậu nành) và chất béo (như bơ, bơ thực vật), đường/ đường thốt nốt và

mật ong cũng là chất giầu năng lượng. Vì vậy, có thể cho thêm 1 muỗng cà phê dầu

hoặc mỡ vào bữa ăn cho trẻ hoặc cho đường/đường thốt nốt và mật ong vào cháo và các loại thực phẩm khác nhưng với số lượng nhỏ31.

Những hạn chế nêu ở trên về việc cho trẻ ăn bổ sung có thể xuất phát từ nhận

thức của các bà mẹ hoặc do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Nghiên cứu của

Hương L.T năm 2007 ở huyện Lang Chánh của tỉnh Thanh Hóa cho thấy: Nhiều bà

mẹ trong khảo sát cho rằng dầu ăn là thực phẩm tốt cho trẻ em nhưng vì nó đắt tiền,

nên họ không đủ khả năng để mua mà thay vào đó là cho trẻ ăn mỡ động vật. Một số

người còn không nhận ra rằng chất béo và protein có nhiều trong đậu phộng và mè và

thậm chí họ còn nghĩ rằng các loại thực phẩm này phù hợp hơn cho người lớn. Tương

tự môt số người cũng cho biết họ không đủ tiền để mua hoa quả cho trẻ hàng ngày mà chủ yếu ưu tiên mua gạo, rau, tiếp đến là cá hoặc thịt32.

29 Nguồn: NIN, Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 2006, trang

83

30 Nguồn: NIN, Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 2006, trang

28

31 Nguồn: WHO, Cho ăn bổ sung bằng thức ăn gia đình đối với trẻ trong độ tuổi còn bú mẹ (tên tiếng Anh:

Complementary Feeding Family foods for breasged children), 2000, trang 21

32 Nguồn: Mạng lưới tư vấn và tập huấn sức khỏe cộng đồng, Báo cáo kỹ thuật về nghiên cứu hình thành: Đánh

giá về thực hành dinh dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, Hà Nội, Tháng 3/2010, trang 25 (tên tiếng Anh: Community health training and consulting network, Technical report for formative research: infant and young child feeding (IYCF) assessment)

43

100

Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ trẻ 7-24 tháng được ăn thức ăn và các sản phẩm gia vị (N=475)

86.3

90

79.6

74.2

70.1

65.2

80 70

60

%

50

36

40

27.3

17

30 20

10

2.9

0

Dầu ăn

Đường

Trái cây, rau củ

Bột dinh dưỡng

Cơm/ Cháo/ Bánh mì

Đậu hũ (đậu phụ). các loại hạt đậu

Thức ăn sệt đóng hũ có nhãn hiệu

Thịt, cá, gà, tôm, cua, hải sản các loại

Hạt nêm, nước mắm, nước tương, muối

THỨC ĂN KHÁC

CÁC SẢN PHẨM GIA VỊ

Phân tích tỷ lệ trẻ 7-24 tháng tuổi được bổ sung các loại thức ăn/uống theo 4

nhóm nêu trên cho kết quả như sau:

Hầu hết trẻ đều được uống nước và các thức uống khác (95,6% được uống nước

hoặc các thức uống khác như nước đường, nước cơm, sữa đậu nành, nước ép trái cây,

rau củ, thức uống pha từ bột sô cô la).

Hơn 2/3 số trẻ 7-24 tháng hiện được cho ăn/uống ở 3 nhóm thức ăn/uống còn lại

(nhóm 1, 3, 4 là nhóm có nhiều loại thức ăn đảm bảo đủ 4 nhóm thực phẩm chính), ví

dụ: có 87,9% trẻ có ăn 1 trong 7 loại thức ăn/uống từ sữa như sản phẩm dinh dưỡng

công thức, không công thức, sữa tươi, sữa đặc có đường và sữa chua, sữa yaourt và

phô mai; 94% trẻ có ăn bột dinh dưỡng, cơm/cháo, bánh mì, đậu hũ và trái cây rau củ

và 77,6% các bà mẹ có sử dụng gia vị như đường, dầu ăn, hạt nêm nước mắm, tương,

muối vào khẩu phần ăn hàng ngày của trẻ.

Phân loại theo số lượng các loại thức ăn, uống cho thấy: có 10,6% trẻ 7-24 tháng

hiện được ăn 3 loại thức ăn trở xuống; 54,8% từ 4-9 loại và 34,6% cho ăn từ 10-15 loại

thức ăn. Sự đa dạng về thức ăn có khác biệt theo khu vực sống của trẻ: Trẻ ở thành thị

có số lượng thức ăn đa dạng hơn so với ở nông thôn, đặc biệt là số lượng từ 10-15 loại

thức ăn (40% so 31%) ngược lại ở nông thôn trẻ ăn phổ biến ở mức từ 4-9 loại thức

44

ăn/uống (Bảng 2.2).

Bảng 2.2: Số lượng các loại thức ăn, uống của trẻ từ 7-24 tháng tuổi theo khu vực sống, đặc điểm nhân khẩu của người mẹ và thu nhập hộ gia đình

Số lượng các loại thức ăn 1-3 loại 4-9 loại Chung % (số mẫu N) 10-15 loại

Khu vực Thành thị Nông thôn Học vấn của người mẹ Từ THCS trở xuống PTTH, Trung cấp Cao đẳng trở lên Nghề nghiệp của người mẹ Tự làm riêng Làm công ăn lương CNVC Ăn lương: chuyên môn cao Không đi làm Chế độ ăn Bú mẹ chủ yếu Ăn thực phẩm khác chủ yếu Thu nhập hộ gia đình <= 4,5 triệu 4,5-6,5 triệu > 6,5 triệu 46,7 59,2 52,9 54,6 59,0 60,0 49,1 54,7 53,2 57,4 51,0 59,8 55,4 45,7 40,0 31,6 38,2 34,4 28,9 38,5 43,4 34,4 30,9 26,1 46,9 29,9 34,7 42,9 100 (242) 100 (235) 100 (169) 100 (203) 100 (101) 100 (99) 100 (57) 100 (83) 100 (235) 100 (258) 100 (217) 100 (188) 100 (109) 100 (178) 13,3 9,2 8,8 11,0 12,0 1,5 7,5 10,9 15,9 16,5 2,0 10,4 9,9 11,4

Không có khác biệt về số lượng các loại thức ăn, thức uống của trẻ theo học vấn và nghề nghiệp của người mẹ. Song có khác biệt theo thu nhập hộ gia đình, thu nhập hộ gia đình càng cao thì tỷ lệ trẻ được sử dụng đa dạng nhiều loại thức ăn hơn. Ví dụ, tỷ lệ nhóm trẻ ở hộ gia đình thu nhập thấp nhất được ăn ở mức từ 10-15 loại thức ăn là 29,9%, tăng lên lần lượt là 34,7% ở nhóm thu nhập trung bình và 42,9% ở nhóm hộ có

thu nhập cao nhất. Nếu cho rằng trẻ được bổ sung nhiều loại thức ăn sẽ chống được suy dinh dưỡng, kết quả này phần nào cho thấy mối liên hệ giữa điều kiện kinh tế với việc thực hành bổ sung đa dạng thức ăn cho trẻ nhỏ, nhất là ở nhóm hộ gia đình nghèo.

Bảng 2.3 trình bày các yếu tố tác động tới khả năng trẻ em 7-24 tháng tuổi được

45

sử dụng đa dạng các loại thức ăn trong khẩu phần, qua chỉ báo trẻ được ăn từ 10 loại thức ăn trở lên (biến số phụ thuộc). Như số liệu phân tích chỉ ra, tác động của các yếu tố kinh tế-xã hội đến việc cho trẻ 7-24 tháng tuổi được ăn từ 10 loại thức ăn trở lên không mạnh. Kết quả từ mô hình hồi quy đa biến cho thấy so với nhóm trẻ em 7-24 tháng tuổi sống ở nông thôn (nhóm đối chứng) thì khả năng trẻ em ở thành thị được ăn trên 10 loại thức ăn sẽ tăng lên 1,2 lần. Trẻ ở nhóm các bà mẹ có nghề nghiệp làm

công ăn lương (công nhân viên chức và chuyên môn cao) thì khả năng sẽ được ăn 10 loại thức ăn trở lên cao hơn so với trẻ ở nhóm bà mẹ tự làm việc. Trẻ ở hộ gia đình có thu nhập cao thì khả năng sẽ được ăn 10 loại thức ăn trở lên cao hơn so với trẻ ở hộ gia đình có thu nhập trung bình và thu nhập thấp. Tuy nhiên, so với trẻ em ở nhóm các bà

mẹ có học vấn cao nhất “Cao đẳng trở lên” (nhóm đối chứng) thì khả năng trẻ được ăn trên 10 loại thức ăn lại thấp hơn trẻ ở nhóm các bà mẹ học vấn thấp hơn đến 1,4 và 1,9 lần. Như vậy trẻ em sống ở thành thị, trong gia đình có điều kiện kinh tế tốt và người mẹ có nghề nghiệp ổn định về thu nhập có xu hướng tác động tích cực đến khả năng cho trẻ ăn với khẩu phần ăn da dạng về dinh dưỡng.

Bảng 2.3: Các yếu tố tác động tới việc trẻ 7-24 tháng tuổi được ăn từ 10 loại thức ăn trở lên Số lượng Biến số độc lập Tỷ số chênh lệch

Khu vực Thành thị Nông thôn (nhóm đối chứng) Học vấn mẹ Từ THCS trở xuống Trung học phổ thông Trung cấp, cao đẳng trở lên (nhóm đối chứng) Nghề nghiệp của mẹ Tự làm việc Làm công ăn lương ((nhóm đối chứng) Phân tầng xã hội (thu nhập hộ gia đình) Thu nhập thấp Thu nhập trung bình Thu nhập cao (nhóm đối chứng) 1,2 1 1,9 1,4 1 0,8 1 0,5 0,7 1 240 233 169 168 136 333 140 188 108 177

Khẩu phần ăn cân đối

Khẩu phần của mỗi loại thức ăn, uống mà các bà mẹ chế biến hoặc cho trẻ sử dụng phải hợp lý để đảm bảo dinh dưỡng cũng như tùy theo đặc điểm của từng cá nhân trẻ và tùy vào nhóm tuổi. Theo khuyến nghị về nhu cầu dinh dưỡng cho nhóm trẻ

em của NIN, về cơ bản, một bữa ăn cân đối gồm 4 nhóm dinh dưỡng đã nêu ở trên.

Nếu tính toán khẩu phần ăn trung bình cho từng nhóm thức ăn (theo 4 nhóm đã nêu trên) tính chung ở nhóm trẻ 7-24 tháng cho thấy: khẩu phần trung bình của các loại thức ăn khác ở Nhóm 3 (tinh bột, rau quả, chất đạm) là cao nhất chiếm 3,7 phần;

46

khẩu phần trung bình của Nhóm 1 (thức ăn/uống từ sữa) chiếm 2,8 phần; Nhóm 2 (thức uống khác) là 1,2;; và nhóm 4 (các sản phẩm gia vị) có trong khẩu phần ăn của trẻ là 0,8 phần.

Như vậy cơ cấu dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của trẻ còn chưa đồng đều, cho thấy tính cân đối của khẩu phần ăn chưa được đảm bảo, có thể do mức độ nhận thức về cơ cấu bữa ăn đủ dinh dưỡng của các bà mẹ còn thấp và hạn chế. Kết quả nghiên cứu về khẩu phần ăn và tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi ở một số nghiên cứu đã

chỉ ra rằng: bữa ăn của trẻ dưới <5 tuổi thường chủ yếu nghiêng về cơm, cháo, gạo, trong khi các loại rau, dầu lạc, chất béo... lại rất ít được sử dụng33; khẩu phần sữa cũng không bảo đảm, theo lời khuyên của WHO thì lượng sữa cho trẻ không được bú sữa mẹ từ 6-24 tháng tuổi là ”200ml-400ml/ngày nếu trẻ ăn bổ sung đầy đủ từ thực phẩm có nguồn gốc động vật; nếu không ăn đầy đủ thì lượng sữa cần thiết là từ 300ml- 500ml”34. Sự thiếu hụt và mất cân đối trong khẩu phần ăn của trẻ thường xuyên và kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể chất của trẻ. Theo báo cáo của NIN và

UNICEF, chỉ có 51,7% trẻ nhỏ dưới 24 tháng tuổi được cung cấp thức ăn bổ sung đáp ứng được khẩu phần tối thiểu2. Các loại thực phẩm lỏng và rắn không phù hợp khác như nước đường, sữa đặc có đường và nước trái cây chế biến cũng là những lựa chọn nuôi bổ sung phổ biến dành cho trẻ dưới 2 tuổi tại Việt Nam. Các nhà dinh dưỡng cho rằng các thực phẩm này không cung cấp đủ dưỡng chất cần thiết cho sự tăng trưởng của trẻ sơ sinh và nhỏ.

c) Bổ sung sản phẩm dinh dưỡng công thức35

Sản phẩm dinh dưỡng công thức trong khẩu phần ăn của trẻ

Các nghiên cứu đã cho thấy sữa công thức là một thực phẩm rất tốt có chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng giúp trẻ tăng trưởng và phát triển chiều cao, sữa là nguồn cung cấp canxi quan trọng. Vì thế, ngày 17/1/2013, trong Quyết định số 189/QĐ-BYT về

“10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý đến năm 2020” thực hiện Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến năm 2030, Bộ Y tế đã đưa ra khuyến nghị “trẻ sau 6 tháng và người trưởng thành nên sử dụng sữa và các sản phẩm sữa phù hợp với từng lứa tuổi”. Ở Việt Nam, lượng sữa tiêu thụ vẫn còn rất khiêm tốn, chỉ khoảng 15 kg/người/năm vào năm 2010 so với số liệu trung bình thế giới là 104,7 kg/người/năm (theo Báo cáo Tình hình Ngành sữa Thế giới 2011). Do đó, Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm

2025 đã đặt mục tiêu phấn đấu tiêu thụ đạt 21kg sữa/người/năm vào năm 2015.

33 Nguồn: Bùi Thị Tá Tâm và cộng sự, 2003, Nghiên cứu khẩu phần ăn và tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại một quần thể dân cư sống trên thuyền ở phường Phú Bình, thành phố Huế. Tạp chí Khoa học, số 18. 34 Nguồn: Tài liệu: Cho ăn bổ sung đối với trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ từ 6-24 tháng, Kỷ yếu Hội thảo,

WHO, Geneva, 8-10/3/2004, trang 9

2 Nguồn: NIN-UNICEF, Báo cáo tình hình dinh dưỡng Việt Nam, 2009-2010, tháng 4/2011, trang 25 35 Sản phẩm này có tên gọi thông dụng là “sữa bột công thức”, trong báo cáo này đôi khi hai thuật ngữ này

cũng được thay thế cho nhau

47

Theo WHO, “các sản phẩm dinh dưỡng công thức được sản xuất công nghiệp

cũng là một giải pháp cho một số bà mẹ có khả năng chi trả và có kiến thức và

phương tiện vật chất để pha chế và cho trẻ nhỏ ăn một cách an toàn. Khi được bán

hay phân phối ra thị trường, các sản phẩm dinh dưỡng công thức này cho trẻ sơ sinh

và trẻ nhỏ nên tuân thủ các tiêu chuẩn do Ủy ban Codex Alimentarius khuyến nghị và Bộ Quy tắc Codex về Thực hành Vệ sinh cho Thức ăn của Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ”36.

Dinh dưỡng công thức với mục đích ăn bổ sung là sản phẩm được sản xuất theo đúng

tiêu chuẩn về dinh dưỡng, đầy đủ các dưỡng chất cần thiết cho sự tăng trưởng và phát

triển tối ưu thể chất và trí tuệ của trẻ. Sản phẩm dinh dưỡng công thức với mục đích ăn

bổ sung được coi là một sản phẩm rất đặc thù nên phải tuân theo các tiêu chuẩn kỹ thuật

nghiêm ngặt do Ủy ban Codex Alimentarius đặt ra. Bộ Y Tế cũng mới ban hành Bộ

Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về các sản phẩm Dinh dưỡng công thức cho trẻ nhỏ,

trong đó phân biệt rõ sản phẩm dinh dưỡng công thức với mục đích ăn bổ sung cho trẻ

từ 6-24 tháng và sản phẩm dinh dưỡng công thức có thể được sử dụng thay thế sữa mẹ

cho trẻ dưới 12 tháng. Bổ sung dinh dưỡng công thức cho trẻ nhỏ được các chuyên gia

dinh dưỡng khuyến nghị, đặc biệt là khi nguồn sữa mẹ không còn đủ để đáp ứng nhu

cầu dinh dưỡng của trẻ và khi người mẹ không cho con bú được hay chỉ cho bú được

một phần cần thêm vào thức ăn bổ sung. Theo khuyến nghị của WHO, tần suất uống

sữa bột công thức đối với những trẻ không bú mẹ (từ 7-24 tháng) là ít nhất 2 lần/ngày.

Trong nghiên cứu này hiện có 63,8% bà mẹ đang sử dụng sản phẩm dinh dưỡng công thức có nhãn hiệu cho trẻ từ 7-24 tháng tuổi, đó là giai đoạn khi cơ thể của trẻ đòi hỏi phải được nuôi bằng thức ăn bổ sung. Trong số các bà mẹ đã từng cho con sử dụng sản phẩm dinh dưỡng công thức có tới 60% bà mẹ cho biết lý do là họ lựa chọn

loại sản phẩm này cho trẻ vì đây là thức uống cung cấp đầy đủ dinh dưỡng như vitamin và khoáng chất37, tiếp đến là lý do sữa bột giúp trẻ khỏe mạnh (53,7%), các lý do khác như: giúp trẻ cân bằng dinh dưỡng, được bác sĩ khuyên dùng, để mẹ đi làm, v.v. chiếm tỷ lệ khoảng từ 20 đến 32%, và lý do mẹ không đủ sữa là 21%.

Việc bổ sung dinh dưỡng công thức trong khẩu phần ăn của trẻ có sự khác biệt đáng kể theo khu vực sống và giai tầng xã hội. Chỉ có hơn một nửa số trẻ từ 7-24 tháng tuổi ở nông thôn hiện được bổ sung dinh dưỡng công thức (58,5%) so với 87,2% trẻ ở thành thị. Các bà mẹ làm việc ở lĩnh vực chuyên môn cao có tỷ lệ cho trẻ sử dụng dinh dưỡng công thức cao hơn đáng kể so với các nhóm nghề nghiệp còn lại (89,1% so

36 Nguồn: WHO, Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ - Chiến lược toàn cầu về nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ

nhỏ, Báo cáo Ban thư ký, WHO, 16/04/2002, trang 6, truy cập tại http://apps.who.int/gb/archive/pdf_files/WHA55/ea5515.pdf

48

37 Dành cho các bà mẹ đã từng cho con uống sản phẩm dinh dưỡng công thức

với 60%-75%). Có sự khác biệt đáng kể theo thu nhập hộ gia đình trong việc cho trẻ uống dinh dưỡng công thức: 84,3% ở nhóm thu nhập cao nhất so với 75,2% ở hộ có thu nhập trung bình và 56% có mức thu nhập hộ gia đình thấp nhất. Học vấn mẹ càng cao thì tỷ lệ sử dụng dinh dưỡng công thức càng nhiều: 60,4% ở nhóm học vấn từ

THCS trở xuống so với 68,3% nhóm PTTH, Trung cấp và 85,4% nhóm học vấn từ Cao đẳng trở lên.

Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ trẻ 7-24 tháng tuổi được bổ sung sản phẩm dinh dưỡng

công thức có nhãn hiệu theo khu vực sống, học vấn và nghề nghiệp của người mẹ

Không đi làm

65

p ệ

i

Ăn lương: chuyên môn cao

89

76

Công nhân viên chức

h g n ề h g N

Tự làm riêng

60

Từ 4.6 triệu trở lên

56

75

4.6- 4.5 triệu

i

h n ì đ a g

<4,5 triệu

84

ộ h p ậ h n u h T

Cao đẳng trở lên

85

68

THPT, TC

n ẫ v c ọ H

0-9

60

Nông thôn

59

87

Thành thị

c ự v u h K

0

10

20

30

40

60

70

80

90

100

50

%

và thu nhập hộ gia đình (N=475)

Tính trung bình các bà mẹ trong mẫu nghiên cứu này cho trẻ uống dinh dưỡng công thức khoảng 3 lần/mỗi ngày38. Nếu theo khuyến nghị của WHO, trong nghiên cứu này có tới gần 40% trẻ hiện chưa được uống đủ sữa hoặc chỉ được uống vừa đủ số lần sữa, cụ thể: có 6,2% các bà mẹ hiện cho trẻ 7-24 tháng uống sữa bột chưa đủ lượng (1 lần/ngày); 32,6% trẻ được uống trung bình 2 lần/ngày; 35,9% uống trung bình 3 lần/ngày và 25,2% uống trung bình 4 lần/ngày.

49

Có sự khác biệt lớn về số lần uống sữa bột công thức của trẻ 7-24 tháng tuổi theo khu vực sống. Số lượng trẻ uống chưa đủ lượng là 1 lần/ngày ở nông thôn cao hơn đáng kể so với trẻ thành thị (9,7 % so với 2,1%). Trong khi ở trẻ nông thôn uống chủ yếu ở mức 2 lần/1 ngày (40,9% so 22,2% ở thành thị), thì 75,7% trẻ sống ở thành thị có số lần uống sữa trung bình từ 3-4 lần/ngày, cao hơn 1,5 lần so với trẻ ở nông thôn (49,5%) (Xem Biểu đồ 2.5).

38 Tính trong nhóm bà mẹ hiện vẫn còn cho con dùng dinh dưỡng công thức là N=655

80

75.7

70

60

49.5

50

40.9

Thành thị

Biều đồ 2.5: Số lần trung bình trẻ uống dinh dưỡng công thức/ngày theo khu vực (N=328)

%

40

Nông thôn

30

22.2

20

9.7

10

2.1

0

1 lần

2 lần

3 -4 lần

Kết quả từ nghiên cứu về lượng sữa trẻ 7-24 tháng tuổi uống mỗi lần cho thấy; có 33% số trẻ hiện uống ở mức 90ml/1 lần trở xuống, 42,4% uống ở mức từ 90-150ml và 24,5% uống ở mức từ 150ml trở lên. Nhìn chung nhóm trẻ có chế độ ăn thức ăn khác hoàn toàn có nhu cầu uống lượng sữa nhiều hơn so với nhóm trẻ hiện đang chủ yếu bú mẹ (40,9% uống từ mức 150ml sữa trở lên so với 13,1% ở nhóm bú mẹ là chủ yếu).39

Ước tính lượng sữa bột công thức trung bình mỗi lần uống của trẻ ở thành thị có mức từ 150ml trở lên cao gấp hơn 2 lần so với trẻ ở nông thôn (36,8% so với 15,1%). Lượng sữa của trẻ ở nông thôn uống chủ yếu ở mức <90ml (48,6%). Tương tự, trẻ ở

hộ gia đình có mức thu nhập càng cao thì lượng sữa từ 150ml trở lên cao hơn đáng kể so với trẻ ở hộ gia đình có mức sống thấp hơn lần lượt là 38,5% so với 28,9% và 9,7%.

Nếu so sánh mức uống sữa thấp nhất cho thấy sự khác biệt đáng kể, ví dụ như chỉ

có 8,8% bà mẹ làm việc ở lĩnh vực chuyên môn cao cho trẻ uống sữa ở mức thấp dưới 90ml so với 26-55% ở các nhóm còn lại. Tương tự, 8,6% bà mẹ có học vấn cao từ trung cấp cao đẳng trở lên so với 36% ở nhóm bà mẹ học vấn THPT và 46% học vấn từ THCS trở xuống. Kết quả này cho thấy sự khác biệt rõ nét theo khu vực sống, theo đặc điểm cá nhân của bà mẹ và giai tầng xã hội đối với việc cho trẻ 7-24 tháng tuổi được cho ăn bổ sung bằng Dinh dưỡng công thức.

Theo khuyến nghị của WHO thì lượng sữa/ngày đối với trẻ không được bú mẹ là:

 200-400 ml nếu ăn đủ lượng thực phẩm có nguồn gốc động vật.

 300-500 ml nếu không ăn đủ lượng thực phẩm có nguồn gốc động vật.

Trong nghiên cứu này không có đủ thông tin về việc trẻ có ăn đủ lượng thực

39 Theo khuyến nghị của WHO thì trẻ cần uống đủ 200-400ml/ngày. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này cho thấy

với mức từ 240ml trở lên/ngày, chỉ có 5 trẻ uống đủ.

50

phẩm có nguồn gốc động vật hay không, vì vậy nhóm nghiên cứu chọn phương án tối thiểu, với giả định là trẻ có ăn đủ. Như vậy, ít nhất trẻ không được bú mẹ cũng phải sử dụng 200 ml sữa/ngày. Theo tiêu chuẩn này thì có thể thấy rằng phần lớn nhóm trẻ ăn thức ăn khác là chủ yếu (tạm coi là tương đương với nhóm trẻ không được bú mẹ) đã

được bổ sung lượng sữa theo khuyến nghị.

Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm xã hội đối với việc bổ sung lượng sữa theo khuyến nghị của WHO. Một số nhóm các bà mẹ trong nhóm ăn thức ăn khác là chủ yếu đã sử dụng sản phẩm dinh dưỡng công thức

quá ít (<200ml) so với khuyến nghị. Cụ thể, dưới đây là tỷ lệ trẻ trong nhóm ăn thức ăn khác là chủ yếu có sử dụng sản phẩm dinh dưỡng công thức ít hơn 200ml/ngày:

 37,1% trẻ ở nông thôn so với 1,3% trẻ ở thành thị.

 13% trẻ ở nhóm bà mẹ có học vấn trung học cơ sở trở xuống so với 0% trẻ ở

nhóm bà mẹ có học vấn cao đẳng trở lên.

 48,6% trẻ ở nhóm gia đình thu nhập thấp so với 1,7% trẻ ở nhóm gia đình thu

nhập cao.

Vậy, yếu tố nào thực sự có tác động đến việc trẻ 7-24 tháng tuổi được bổ sung dinh dưỡng công thức? Kết quả phân tích đa biến logistic ở Biểu đồ 2.6 cho thấy: so với nhóm trẻ em 7-24 tháng tuổi sống ở nông thôn (nhóm đối chứng) thì khả năng trẻ em ở thành thị được uống dinh dưỡng công thức sẽ tăng lên 3 lần. So với nhóm trẻ em 7-24 tháng tuổi sống ở hộ gia đình có mức thu nhập cao thì khả năng được bổ sung

dinh dưỡng công thức có nhãn hiệu ở hộ gia đình có mức thu nhập trung bình và thấp sẽ giảm xuống (tỷ số chênh lệch lần lượt là 1 so với 0,8 và 0,5). So với trẻ em có mẹ ở nhóm học vấn cao nhất “Cao đẳng trở lên” (nhóm đối chứng) thì khả năng trẻ 7-24 tháng ở nhóm bà mẹ học vấn thấp được uống dinh dưỡng công thức thấp hơn. Trẻ có mẹ có nghề nghiệp làm công ăn lương (công nhân viên chức và chuyên môn cao) thì có khả năng được uống dinh dưỡng công thức cao hơn so với nhóm trẻ có mẹ tự làm việc.

Yếu tố khu vực sống và kinh tế gia đình là có tác động tích cực/mạnh nhất đến khả năng được bổ sung dinh dưỡng công thức cho trẻ ở giai đoạn từ 7-24 tháng. Phát hiện này một lần nữa khẳng định có mối quan hệ giữa dinh dưỡng trẻ nhỏ với mức sống của hộ gia đình, đặc biệt đối với các gia đình nghèo ở nông thôn và vùng sâu,

51

vùng xa - là nơi thực sự gặp khó khăn để đảm bảo các nhu cầu dinh dưỡng trẻ em, nó cho thấy sự cần thiết mở rộng phạm vi triển khai chương trình dinh dưỡng sữa học đường hướng tới các nhóm tuổi nhỏ hơn, ở vùng nông thôn và gia đình nghèo. Khu vực thành thị là nơi mà các bà mẹ dễ dàng tiếp cận với các loại dinh dưỡng công thức này.

i

a

i

Thu nhập cao (nhóm đối chứng)

1

Thu nhập trung bình

0.8

) h n ì đ

Thu nhập thấp

0.5

g ộ h p ậ h n u h t (

ộ h ã x g n ầ t n â h P

Làm công ăn lương (nhóm đối chứng)

1

p ệ

i

ề h g N

h g n

ẹ m a ủ c

Tự làm việc

0.7

Trung cấp, cao đẳng trở lên (nhóm đối chứng)

1

ẹ m

i

Trung học phổ thông

0.7

ờ ư g n

a ủ c n ấ v c ọ H

Từ THCS trở xuống

0.6

Nông thôn (nhóm đối chứng)

1

g n ố s

Thành thị

3***

c ự v u h K

0

0.5

1

1.5

2

2.5

3

3.5

Biểu 2.6: Các yếu tố tác động tới việc uống Dinh dưỡng công thức của trẻ nhỏ ở độ tuổi 7-24 tháng (N=473)

Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01

Việc vệ sinh bình cho trẻ bú:

Theo khuyến nghị, tất cả các dụng cụ chế biến phải sạch sẽ, các bà mẹ cần rửa tay sạch trước khi chế biến thức ăn và khi cho trẻ ăn. Có thể thấy việc sử dụng dụng cụ bình và cốc nhựa khi cho bé uống sữa công thức được nhiều bà mẹ lựa chọn (53%), có 24,5% bà mẹ sử dụng bình hoặc cốc thủy tinh. Đa số các bà mẹ đã thực hiện đúng cách làm sạch dụng cụ trước khi cho trẻ bú: 85,4% bà mẹ làm sạch dụng cụ bú bình trước khi sử dụng bằng cách luộc (17,6%), rửa bằng nước sôi/nóng (65,4%) và một tỷ lệ nhỏ

dùng máy khử trùng (2,3%). Hơn 1/10 số bà mẹ chưa thực hiện vệ sinh đúng cách dụng cụ ăn uống cho trẻ vì họ rửa với xà bông/xà phòng và nước không (14,6%). Theo kết quả nghiên cứu của Alive & Thrive và ISMS (2012), tần suất rửa tay các bà mẹ tại một số thời điểm quan trọng như trước khi chế biến thức ăn là rất thấp.

Thực hành uống sản phẩm sữa ở trẻ dưới 12 tháng tuổi40:

Trong số 337 trẻ dưới 12 tháng tuổi, có 17,1% trẻ có uống sữa tươi (sữa nước), 17,8% trẻ được ăn sữa chua/yaourt, 5,1% số trẻ uống sữa chua, và chỉ có 1 trường hợp

trẻ dưới 12 tháng tuổi có uống sữa đặc có đường, nếu tính chung có 10 trẻ từ 2 tuổi trở xuống hiện đang được uống các sản phẩm từ sữatrên41. Số liệu cũng cho thấy hiện có 45 trẻ <48 tháng tuổi (4,3%/1055 trẻ) hiện được uống sữa đặc có đường. Khuyến nghị

40 Tổng số có 482 trẻ < 12 tháng tuổi, loại số trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn là 145 trẻ. 41 Số liệu chưa tính bình quân gia quyền thì có 45 trẻ/1055 trẻ uống sữa đặc có đường (4,3%), trong đó 10 trẻ < 12 tháng tuổi (số liệu tính bình quân gia quyền có tỷ lệ thấp hơn 2,9%). 7/10 bà mẹ có con <12 tháng uống sữa bò có học vấn từ THCS trở xuống.

52

chung là không nên cho trẻ uống sữa tươi thanh trùng còn nguyên kem trước 12 tháng tuổi. Việc cho trẻ dưới 1 tuổi sử dụng sữa tươi có thể dẫn đến bệnh thiếu máu do thiếu sắt. Sữa tươi nghèo về hàm lượng chất sắt cần thiết cho quá trình phát triển và tăng trưởng của trẻ sơ sinh và hạn chế việc hấp thụ các thức ăn giàu chất sắt và có thể làm

kích ứng niêm mạc đường ruột – dạ dày có thể gây xuất huyết, đây là nguyên nhân gây mất sắt. Hiện tượng xuất huyết, mất máu từ từ trong ruột kết hợp với việc hấp thụ sắt kém làm cho cơ thể thiếu sắt và gây ra bệnh thiếu máu42. Trẻ dưới 2 tuổi cũng được khuyến cáo không nên uống quá nhiều sữa tươi trong một ngày, vì có mối liên quan giữa sữa bò với tình trạng thiếu máu do thiếu sắt - một chứng bệnh suy dinh dưỡng rất thường thấy ở trẻ em, bởi sắt là khoáng chất cần thiết cho hoạt động của cơ thể và để có một sức khỏe dồi dào. Điều đó cho thấy sự cần thiết của việc hướng dẫn cho bà mẹ

và nữ thanh niên thực hành cho trẻ ăn bổ sung đúng cách, đồng thời lưu ý đến những loại thức ăn tốt hoặc không tốt cho trẻ theo từng giai đoạn phát triển. Bởi khi cai sữa mẹ, trẻ cần được bổ sung các loại dinh dưỡng công thức theo tuổi, hoặc uống sữa tươi khi trẻ đã lớn43, song kết quả với khoảng 1/5 số trẻ dưới 12 tháng tuổi và 1/3 số trẻ dưới 2 tuổi được uống sữa tươi cho thấy sự thiếu hụt trong việc bổ sung sản phẩm dinh dưỡng tốt vào khẩu phần ăn của trẻ.

3. Thức ăn bổ sung cho trẻ 7-24 tháng tuổi đủ dinh dưỡng theo khuyến nghị

Nhận xét chung là việc cho trẻ 7-24 tháng tuổi ăn thức ăn bổ sung còn chưa đúng

cách và chưa được các bà mẹ chú trọng.

a) Ăn đủ ít nhất 4 nhóm thực phẩm

Để tìm hiểu việc cho trẻ ăn đúng cách, phần này sẽ phân tích trên cơ sở lựa chọn các bà mẹ hiện cho trẻ ăn ít nhất 4 nhóm thực phẩm nêu trên, với giả định rằng, những bà mẹ thực hiện đúng cách nếu họ hiện cho trẻ ăn đủ ít nhất 4 nhóm thực phẩm: 1) Chất bột đường là cơm/cháo/mì và 2) nhóm chất đạm gồm thịt, cá, gà, tôm, cua, hải sản các loại; 3) Nhóm chất xơ bao gồm ăn đậu phụ, các loại hạt đậu hoặc có sữa đậu

nành; 4) Nhóm vitamin và khoáng chất là những bà mẹ có cho con ăn trái cây, rau củ hoặc uống nước ép trái cây, rau củ.

Kết quả là chỉ có 1/3 số trẻ 7-24 tháng tuổi (30,7%) đang được mẹ cho ăn ít nhất

milk induced intestinal bleeding in infancy, Archives of Disease in Childhood; 68: 240-245)

43 Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 2012, Chương trình sữa học đường hỗ trợ nâng cao thể trạng

cho trẻ em mầm non và tiểu học giai đoạn 2011-2015, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hà Nội 9/2012

53

4 nhóm thức ăn theo khuyến nghị (xem Biểu đồ 2.7). Một phần năm số trẻ ở nhóm bú mẹ chủ yếu được cho ăn đủ 4 nhóm thực phẩm theo khuyến nghị (26%). Tỷ lệ này ở nhóm trẻ hoàn toàn ăn thực phẩm khác là 37,8%. Còn lại khoảng 2/3 số trẻ ở cả hai 42 Nguồn: Peter B Sullivan,1993, Sữa bò gây ra chảy máu trong ruột ở trẻ sơ sinh: 68-245 (tiếng Anh: Cows'

nhóm bú mẹ chủ yếu (74%) và nhóm hoàn toàn ăn thực phẩm khác (62,2%) chưa bổ sung ít nhất 4 loại nhóm thực phẩm, cho thấy sự cần thiết thực hành bổ sung dinh dưỡng hợp lý cho nhóm trẻ ở độ tuổi này.

Nhóm người mẹ tự làm riêng, làm công nhân, viên chức có tỷ lệ cho trẻ ăn đúng cách cao hơn so với nhóm chuyên môn cao và không đi làm (41-43% so với 28-30%). Tuy nhiên những bà mẹ nhiều tuổi nhất (36-40 tuổi) lại có tỷ lệ cho trẻ ăn tối thiểu 4 nhóm thực phẩm là cao nhất, chiếm 43%; tiếp đến là 38,6% ở nhóm tuổi 31-35, giảm dần xuống còn 35,3% ở nhóm 26-30 và ở nhóm bà mẹ trẻ nhất là 18-25 tỷ lệ này chỉ

có 20%. Hộ gia đình có mức thu nhập thấp nhất có tỷ lệ cho trẻ ăn đúng cách thấp hơn so với hộ có thu nhập cao nhất (32,2% so với 37,6%). Không có khác biệt khu vực sống và học vấn của mẹ. Đáng chú ý là tỷ lệ trẻ 7-24 tháng ở thành thị chưa được ăn đủ 4 nhóm thực phẩm cao hơn so với nông thôn, có thể là do khả năng tiếp cận thực phẩm sạch (rau, thịt, cá) được sản xuất tại địa phương rất hạn chế. Sự khó khăn trong việc tiếp cận thực phẩm sạch ở địa phương của các bà mẹ thành thị cũng có thể giải thích cho việc khẩu phần dinh dưỡng công thức được chú trọng hơn để bổ sung thêm

chất dinh dưỡng an toàn cho con.

37.8

40

33.2

35

30

26

25.6

25

%

20

15

10

5

0

Hiện đang bú mẹ chủ yếu

Thành thị

Nông thôn

Hòan toàn ăn thực phẩm khác

Chế độ ăn

Khu vực

Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ trẻ ăn ít nhất 4 nhóm thực phẩm theo khuyến nghị (N=475)

b) Sử dụng các sản phẩm bổ sung vi chất

54

WHO khuyến cáo nên bổ sung vi chất dinh dưỡng cho trẻ em không được bú mẹ nhằm phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em44. Việc sử dụng các sản phẩm bổ sung vi chất cho trẻ dưới 2 tháng tuổi là rất quan trọng nhưng cần có sự chỉ định của bác sĩ. Ví dụ, việc bổ sung chất sắt là khoáng chất cần thiết cho hoạt động của cơ thể và để có một sức khỏe dồi dào. Cơ thể trẻ thơ và kể cả ở giai đoạn thanh thiếu niên cần nhiều chất sắt. Trẻ có nguy cơ mắc bệnh nhiều hơn trong suốt giai đoạn phát triển nếu chế độ

44 Nguồn: WHO, Nuôi bổ sung đối với trẻ 6-24 tháng tuổi, Kỷ yếu họp, Geneva, 8-10/03/2004 (tiếng Anh: Feeding the non-breastfed child 6-24 months of age, Meeting report, Geneva, 8-10 March 2004)

dinh dưỡng thiếu sắt. Hoặc các sản phẩm có chứa DHA, là một acid béo thuộc nhóm omega-3, là dưỡng chất tối quan trọng cho sự phát triển toàn diện của trẻ nhỏ như ảnh hưởng đến sự hoạt động của chất dẫn truyền thần kinh, quan trọng cho chức năng của não và mắt. Theo nghiên cứu của WHO và FAO, đối với trẻ dưới 12 tháng tuổi, DHA

ở hàm lượng 0,32% trong tổng axit béo, tương ứng 17mg/100kcal là tối ưu. Trẻ từ 1-6 tuổi thì cần được bổ sung DHA với hàm lượng từ 75mg/ngày. Dầu cá cũng là lựa chọn để các bà mẹ bổ sung DHA cho con, song lựa chọn này cần được sự tư vấn kỹ càng của bác sĩ. Như vậy, điều quan trọng cần phải lưu ý là vai trò tư vấn của bác sĩ, ví dụ trẻ không nên được bổ sung sắt liều mạnh mà không được bác sĩ tư vấn trước. Theo Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa kỳ (AAP) thì việc hấp thụ sắt quá nhiều là nguyên nhân chính gây ngộ độc nặng ở trẻ em.

Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy, đa phần các bà mẹ chưa từng sử dụng bất cứ loại thuốc bổ gì cho trẻ từ 7-24 tháng (70,2%), nhóm trẻ nhỏ ở nông thôn chưa từng sử dụng loại thuốc bổ nào cao hơn đáng kể so với trẻ ở thành thị (81% so với 49,1%). Các loại sản phẩm bổ sung vi chất được các bà mẹ sử dụng bao gồm các loại vitamin hỗn

hợp, bổ sung chất sắt, vitamin D, khoáng chất, nhưng tỷ lệ các bà mẹ đã từng sử dụng các loại sản phẩm bổ sung vi chất này rất thấp, dao động từ 4,9 đến 17,1%, không có một bà mẹ nào bổ sung sản phẩm có DHA, AA và ARA cho trẻ ở nhóm tuổi này (Biểu đồ 2.8).

Bên cạnh việc bổ sung dinh dưỡng giầu chất sắt, theo khuyến nghị trẻ cần được bổ sung thực phẩm giàu sắt hoặc thực phẩm bổ sung sắt được sản xuất dành riêng cho trẻ nhỏ ở độ tuổi từ 6-24 tháng. Tỷ lệ các bà mẹ hiện có bổ sung sắt cho trẻ là rất thấp, 9,1%. Đa số các bà mẹ bắt đầu cho trẻ bổ sung các sản phẩm thuốc bổ trong vòng 12 tháng đầu. Việc cho trẻ bổ sung thuốc bổ phải có sự chỉ định của bác sĩ, tuy nhiên, chỉ có khoảng một nửa (48%) bà mẹ trong số này cho biết họ có sử dụng các loại thuốc bổ cho trẻ theo kê đơn của bác sĩ.

17.1

18

15

16

14

12

10.4

9.1

10

Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ sử dụng các loại thuốc bổ và sản phẩm bổ sung (N=475)

%

8

6

4.9

4

2

0

0

Thuốc bổ vitamin

Bổ sung chất s ắt

Canxi

VitaminD

Bổ sung khoáng chất

Sản phẩm có bổ s ung DHA, AA, ARA

55

4. Kiến thức, nguồn thông tin về thức ăn bổ sung và lựa chọn của các bà mẹ về cách cho trẻ ăn

a) Nguồn thông tin

Trẻ dưới 2 tuổi cần được cho ăn bổ sung đầy đủ về lượng, ổn định và đa dạng để

tiếp nhận đủ dinh dưỡng song song với sữa mẹ. Nếu kiến thức về nuôi dưỡng trẻ của người mẹ chưa đầy đủ sẽ có nhiều ảnh hưởng không tốt đến việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ, vì họ là người có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ nhỏ. 98,4% các bà mẹ trong nghiên cứu cho biết họ là người quyết định chính cách cho trẻ ăn. Nguồn thông tin có ảnh hưởng quan trọng nhất đến các bà mẹ trong việc cho trẻ ăn uống là từ mẹ đẻ 44%, tiếp đến là chồng và mẹ chồng (Biểu đồ 2.9). Không có sự khác biệt theo vùng rõ nét, song nguồn ảnh hưởng quan trọng nhất từ nhóm cán bộ y tế và

quảng cáo ở thành thị có cao hơn so với ở nông thôn (6% so khoảng 2,5%), ngược lại, thông tin từ nhóm người thân khác trong gia đình ở nông thôn chiếm tỷ lệ cao gấp 2 lần so với ở thành thị, 16,7% so với 8,3%. Điều này cho thấy việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ có thể bị tác động bởi những tập quán của cộng đồng rất rõ nét nhất là vùng nông thôn, trong đó đóng vai trò quan trọng là những người phụ nữ lớn tuổi như mẹ đẻ và mẹ chồng và những người thân khác. Mặt khác nghiên cứu này cho thấy bà mẹ chưa có thói quen tìm đến cán bộ y tế để được tư vấn về thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ (3,8%). Kênh quảng cáo có tác

động nhỏ nhất tới quyết định nuôi dưỡng trẻ nhỏ của bà mẹ (3,6%).

3.8

3.6

20.2

13.8

Chồng

Mẹ đẻ

Mẹ chồng

Người thân khác

Quảng cáo

Cán bộ y tế

14.3

44.3

Biểu đồ 2.9: Nguồn thông tin có ảnh hưởng quan trọng nhất đến cách cho ăn của các bà mẹ hiện nay (N=1055)

56

b) Lựa chọn cách nuôi dưỡng trẻ Một nửa số bà mẹ có dự định cho trẻ uống sữa công thức từ 25-48 tháng tuổi (49,4%), cho tới 2 tuổi (27%) và tới 49 tháng tuổi (22,3%)45. Nhìn chung, chế độ ăn chủ yếu bú mẹ và có bổ sung dinh dưỡng công thức được gần một nửa số bà mẹ lựa chọn (48,7%), có thể xem là cách cho bé ăn hợp lý nhất đặc biệt ở trẻ trong độ tuổi 7 tháng - 24 tháng.

45 Q44: Khi chọn cho bé bú/uống sữa bột công thức, chị đã dự định cho bé dùng sữa bột đến bao nhiêu tháng tuổi.

Bảng 2.4. Lựa chọn cách thức cho trẻ ăn tốt nhất của những bà mẹ có con từ 7-24 tháng Cách cho ăn thích nhất %

1. Chủ yếu bú mẹ, và bổ sung sữa bột công thức 44,5

2. Chủ yếu bú mẹ và bổ sung thực phẩm khác 37,2

3. Cho bú mẹ, đồng thời dùng sữa bột công thức 22,5

4. Có bú mẹ và dùng các loại thực phẩm khác 13,5

5. Dùng sữa bột công thức và các loại thực phẩm khác, nhưng 10,6

không cho bú mẹ

6. Chỉ dùng sữa bột công thức cho bé 6,0

7. Chỉ dùng các loại thực phẩm khác mà không có sữa mẹ và 1,5

sữa bột công thức

Thảo luận

Đa số nhóm trẻ 7-24 tháng tuổi được sử dụng đa dạng các loại thức ăn, uống chứa đầy đủ ít nhất 4 nhóm thực phẩm chính. Trẻ ở hộ gia đình có thu nhập cao, nhóm trẻ ở thành thị có số lượng thức ăn đa dạng nhiều hơn. Khẩu phần ăn trẻ còn chưa đồng đều về cơ cấu dinh dưỡng, tính cân đối của khẩu phần ăn chưa đảm bảo, một phần có thể do nhận thức về cơ cấu bữa ăn đủ dinh dưỡng của các bà mẹ còn hạn chế.

Đa số trẻ ở nhóm tuổi 7-24 tháng hiện còn bú sữa là chủ yếu được các bà mẹ thực hành nuôi dưỡng đúng cách theo khuyến nghị của WHO cho trẻ ăn bổ sung đa dạng song song với việc duy trì cho trẻ bú sữa mẹ đến 24 tháng (83,5%).

Trẻ ở độ tuổi 7-24 tháng chưa bổ sung ít nhất 4 loại nhóm thực phẩm chính còn chiếm đa số cho thấy có bất cập trong thực hành dinh dưỡng hợp lý cho nhóm trẻ ở độ tuổi này. Nhóm người mẹ tự làm riêng, làm công nhân viên chức có tỷ lệ cho trẻ ăn đúng cách cao hơn so với nhóm chuyên môn cao và không đi làm. Hộ gia đình có mức thu nhập thấp nhất có tỷ lệ cho trẻ ăn đúng cách thấp hơn so với hộ có thu nhập

cao nhất.

Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy dinh dưỡng công thức chưa phải là thức ăn chiếm ưu thế trong khẩu phần ăn của trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên. Có sự khác biệt rõ nét trong việc bổ sung dinh dưỡng công thức vào khẩu phần ăn của trẻ theo khu vực sống,

57

nghề nghiệp, học vấn của mẹ và theo thu nhập hộ gia đình. Trẻ ở nông thôn được uống dinh dưỡng công thức thấp hơn đáng kể so với trẻ thành thị. Tỷ lệ trẻ được uống dinh dưỡng công thức cao hơn ở nhóm trẻ có mẹ có học vấn cao nhất, làm việc ở lĩnh vực chuyên môn cao, và ở hộ gia đình thu nhập cao. Một số ít các bà mẹ chưa thực hiện vệ

sinh đúng cách dụng cụ ăn uống cho trẻ. Rất ít các bà mẹ sử dụng các sản phấm sữa tươi để bổ sung vào bữa ăn hàng ngày cho trẻ. Trên thực tế thị trường dinh dưỡng công thức cho trẻ em dưới 12 tháng tuổi ở Việt Nam chịu sự tác động của rất nhiều các luật, quy định và chính sách điều tiết khác nhau, cả ở tầm thế giới (Bộ Quy tắc WHO) và ở trong nước (Nghị định số 21/2006/NĐ-CP ngày 27/2/2006)46. Trong đó Nghị định 21/2006/NĐ-CP đã nhấn mạnh việc thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ tối ưu bằng cách hạn chế cách thức và phạm vi các sản phẩm thay thế bằng sữa mẹ được phép quảng bá, nói cách khác hạn chế sử dụng các sản phẩm thay thế sữa mẹ47.

Các phân tích đa biến cho thấy, sống ở thành thị và có thu nhập cao là yếu tố có tác động mạnh nhất làm tăng khả năng trẻ được sử dụng đa dạng thức ăn và bổ sung dinh dưỡng công thức. Phát hiện này một lần nữa khẳng định có mối quan hệ giữa dinh dưỡng trẻ nhỏ với mức sống của hộ gia đình, đặc biệt đối với hộ gia đình nghèo ở nông thôn, vì vậy cần có chính sách mở rộng phạm vi chương trình dinh dưỡng sữa học đường tới cả nhóm tuổi nhỏ hơn, đặc biệt ở vùng nông thôn và gia đình nghèo. Trong khi đó, tình trạng người mẹ làm công ăn lương, hoặc sống ở thành thị lại làm

giảm khả năng trẻ được ăn bổ sung đúng thời điểm cho thấy những khó khăn trong sắp xếp công việc tác động đến việc chăm sóc và nuôi dưỡng con nhỏ hợp lý theo khuyến nghị đối với những bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi.

Nghiên cứu này cho thấy số lượng các bà mẹ đã từng sử dụng các loại sản phẩm bổ sung vi chất, như thuốc bổ, sản phẩm bổ sung loại vitamin hỗn hợp, bổ sung chất sắt, vitamin D, khoáng chất, bổ sung DHA, AA và ARA là rất thấp. Việc cho trẻ bổ sung thuốc bổ với sự chỉ định của bác sĩ là rất hạn chế. Hầu hết các bà mẹ là người quyết định chính việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ. Quyết định của mẹ thường bị ảnh hưởng bởi mẹ đẻ của họ. Ảnh hưởng của các kênh truyền thông, vai trò của cán bộ, nhân viên y tế trong việc thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ tới các bà mẹ là rất thấp.

Nhận thức của các bà mẹ về cách nuôi con ăn bổ sung đúng cách nhìn chung chưa đúng với các khuyến nghị về thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ. Theo Bộ Y tế (2012) kiến thức, thực hành dinh dưỡng chưa hợp lý còn phổ biến ở các bà mẹ và các thành viên trong gia đình, đặc biệt ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa48.

48 Nguồn: Bộ Y tế. 2012, Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng, giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030, Viện Dinh

dưỡng, Nxb Y học, Hà Nội

58

Tóm lại, việc thực hành cho trẻ dưới 2 tuổi ăn bổ sung còn chưa tuân thủ đúng theo các khuyến nghị của WHO, UNICEF và Chính phủ Việt Nam. Thời điểm cho trẻ 46 Nguồn: Tổ chức Thống nhất và Tín thác Bảo vệ Người Tiêu dùng (CUTS), 2012, Tình hình cạnh tranh trên thị trường sữa công thức dành cho trẻ em từ 0-12 tháng tuổi tại Việt Nam qua các năm 2009-2011, tháng 6/2012 47 Nguồn: Alive & Thrive và Bộ Y tế và UNICEF, 2012, Chính sách pháp luật nhằm bảo vệ việc nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam: Tăng cường thực thi Nghị định 21/2006/NĐ-CP góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em và giảm tỷ lệ thấp còi

ăn bổ sung chủ yếu là cho trẻ ăn quá sớm. Nhìn chung chưa sử dụng đa dạng các loại thức ăn, uống trong khẩu phần của trẻ, cũng như chưa bảo đảm sự cân đối về dinh dưỡng. Khẩu phần dinh dưỡng công thức cho trẻ trên 6 tháng tuổi còn thấp. Rất ít các bà mẹ chú ý và quan tâm tới việc bổ sung đủ các vi chất dinh dưỡng từ các nguồn

thuốc bổ khác cho trẻ. Khác biệt rõ nét nhất trong thực hành cho trẻ ăn bổ sung chủ yếu theo khu vực sống giữa nông thôn và thành thị, giữa nhóm bà mẹ học vấn cao, làm trong lĩnh vực chuyên môn cao và ở hộ gia đình có mức thu nhập cao nhất so với với các nhóm bà mẹ khác. Chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ liên quan chặt chẽ tới tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ em sau này. Các bà mẹ tuân thủ đúng theo các khuyến cáo về thức ăn bổ sung cho trẻ nhỏ sẽ làm giảm nguy cơ trẻ bị thấp còi, suy dinh dưỡng, góp phần nuôi dưỡng một thế hệ/nguồn nhân lực tương lai khỏe mạnh về thể

59

chất về trí tuệ cho đất nước.

PHẦN BA. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

1. Về việc cho bé bú sữa mẹ

Nhìn chung các bà mẹ, cho dù ở các nhóm nhân khẩu-xã hội khác nhau, đều thể hiện một nhận thức rất tích cực về lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ. Tỷ lệ cao các bà mẹ tự thừa nhận là biết rõ lợi ích của việc cho con bú sữa mẹ là cơ sở quan trọng cho việc nâng cao tỷ lệ cho con bú sữa mẹ đúng cách. Tuy nhiên, từ nhận thức đến

hành động là có khoảng cách. Tỷ lệ trẻ em được bú mẹ ngay sau khi sinh chưa được 50%. Yếu tố tập quán, kiến thức của bà mẹ, nghề nghiệp của người mẹ, và hình thức sinh, v.v. có ảnh hưởng nhất định đến thực hành cho con bú mẹ ngay sau khi sinh.

Cũng còn một tỷ lệ không nhỏ các bà mẹ chưa cho con bú đúng cách, trong đó

những bà mẹ học vấn thấp, làm các công việc sản xuất trực tiếp (công nhân) hoặc không làm việc bên ngoài, có tỷ lệ cho bé bú đúng cách thấp hơn. Do đó, khi thực hiện các chiến dịch tuyên truyền, Nhà nước nên chú ý tới nhóm đối tượng này.

Việc thực hành nuôi con bằng sữa mẹ trên thực tế còn chưa tối ưu một phần do yêu cầu thời gian và hoàn cảnh làm việc của bà mẹ. Ví dụ, nhóm các bà mẹ không đi làm có tỷ lệ cho con bú đến 2 tuổi cao nhất, trong khi nhóm các bà mẹ làm công nhân, nhân viên có tỷ lệ cho con bú đến 2 tuổi thấp nhất, do yêu cầu phải quay trở lại làm việc. Vì vậy, để nâng cao khả năng duy trì bé tiếp tục bú sữa mẹ thì cần quan tâm hỗ trợ hơn đến nhóm bà mẹ phải sử dụng can thiệp y tế khi sinh đẻ, nhóm bà mẹ hiện đang đi làm (hiện nay Luật Lao động đã quan tâm một phần đến việc tạo điều kiện cho

các bà mẹ được nghỉ thai sản đến 6 tháng), những bà mẹ có ít cơ hội tiếp xúc với các phương tiện truyền thông đại chúng. Ngoài ra, cần quan tâm đến việc tạo điều kiện cho các bà mẹ xử lý những vấn đề sức khỏe liên quan đến việc tăng chất lượng và số lượng sữa mẹ.

Như vậy, bên cạnh việc tiếp tục phát huy những thành công đã đạt được về việc nuôi con bằng sữa mẹ, Chính phủ cần có các giải pháp, cơ chế đồng bộ để bảo đảm việc cho con bú đối với nhóm các bà mẹ có thu nhập thấp, học vấn thấp, cũng như đối với đối tượng công nhân và tự làm việc ở nhà. Đối với các bà mẹ đang đi làm, đặc biệt ở thành thị, các giải pháp hỗ trợ tại nơi làm việc đối với người mẹ trong thời kỳ cho con bú cần được quan tâm hơn nữa. Chẳng hạn, các cơ quan, doanh nghiệp có thể xây dựng các nhà trẻ để bà mẹ cho con bú trong giờ giải lao, hoặc có tủ lạnh để lưu giữ sữa

mẹ và cho bé bú ở phòng riêng. Vấn đề vắt sữa ở nhà cho con bú hay kỹ thuật giữ sữa

60

mẹ ít tốn kém cũng cần được quan tâm, để giúp cho các bà mẹ cho con bú sữa mẹ nhiều hơn. Cũng cần quan tâm bảo đảm quyền lợi vật chất và nghề nghiệp cho các bà

mẹ trong thời gian họ nghỉ thai sản và thời gian sau đó, để họ có thể duy trì việc cho con bú đến 24 tháng.

Ngoài ra, các cán bộ y tế cần quan tâm truyền thông tư vấn cho người mẹ về nhu cầu và khả năng đáp ứng của sữa mẹ, về cách cho bé bú đúng. Công tác truyền

thông cần được tăng cường hơn và đặc biệt là chú ý bảo đảm có các thông điệp truyền thông chính xác và đầy đủ. Chẳng hạn, hiện nay các bà mẹ mới chỉ chú ý đến việc cho bé bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu, nhưng cũng chưa hiểu rõ ràng vì sao phải như vậy, còn những vấn đề liên quan tới việc cho con bú đúng cách, việc cho bé bú thường xuyên để duy trì nguồn sữa mẹ, v.v. chưa được quan tâm. Việc hướng dẫn cho các bà mẹ biết cách nghỉ ngơi hợp lý tại gia đình để có thể duy trì nguồn sữa cho con bú là rất quan trọng.

2. Vấn đề cho ăn bổ sung

Đa số trẻ ở độ tuổi 7-24 tháng còn chưa được bổ sung thức ăn hợp lý. Thời điểm cho trẻ ăn bổ sung chủ yếu là cho trẻ ăn quá sớm. Các bà mẹ trong những gia đình có mức thu nhập thấp có tỷ lệ cho trẻ ăn bổ sung hợp lý thấp hơn so với các bà mẹ trong những gia đình có thu nhập cao. Khẩu phần ăn bổ sung của trẻ từ 7 đến 24 tháng cũng chưa đảm bảo sự đa dạng các loại thực phẩm và tính cân đối trong khẩu phần thức ăn. Tỷ lệ sản phẩm dinh dưỡng công thức trong khẩu phần ăn của trẻ nhìn

chung còn thấp. Đặc biệt, trẻ em sống ở nông thôn, trong gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn và người mẹ không có nghề nghiệp ổn định về thu nhập có khẩu phần ăn kém da dạng về dinh dưỡng hơn so với các trẻ nhỏ khác.

Thông tin cho các bà mẹ về các thức ăn dinh dưỡng bổ sung được dẫn dắt bởi

các quan niệm và thói quen truyền thống, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Các bà mẹ chủ yếu tìm kiếm thông tin từ gia đình và bạn bè. Ảnh hưởng của các kênh truyền thông, vai trò của cán bộ, nhân viên y tế trong việc thực hành cho trẻ nhỏ ăn bổ sung tới các bà mẹ là rất thấp.

Việc tăng cường tập trung cho ăn bổ sung an toàn và đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ từ 6-24 tháng tuổi chính là yếu tố then chốt nhằm đạt được các mục tiêu của Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia 2020. Cần phải có chính sách nâng cao nhận thức cho các bà mẹ về việc cho trẻ ăn bổ sung đúng thời điểm, đúng khẩu phần, bảo đảm cho các bà mẹ khả năng tiếp cận thuận lợi với các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung an toàn và tốt nhất. Các chính sách cần phải hỗ trợ các bà mẹ để họ có thể đưa ra quyết định và thực

61

hiện chọn lựa được các dinh dưỡng bổ sung tốt nhất và phù hợp nhất cho con mình, đặc biệt là quan tâm tới các bà mẹ và trẻ nhỏ ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, gia đình có thu nhập thấp. Chính sách trợ cấp nuôi dưỡng trẻ nhỏ từ 7-24 tháng tuổi, mở rộng chương trình dinh dưỡng sữa học đường tới cả nhóm tuổi nhỏ hơn là một hướng đi có

thể khắc phục những hạn chế về việc cho trẻ ăn bổ sung hiện nay. Ngoài ra cần hướng dẫn các bà mẹ về cách phối hợp bổ sung thức ăn cho trẻ nhỏ (chẳng hạn, phương thức “tô màu bát bột”), cách thức cải tạo, sử dụng các chất dinh dưỡng có sẵn ở địa phương. Cần phát huy hơn nữa vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ và các tổ chức chính trị, xã hội,

kinh tế có liên quan nhằm tạo điều kiện giúp các bà mẹ có thu nhập thấp có thể bổ sung thức ăn cho trẻ một cách khoa học.

Về mặt nghiên cứu, cho đến nay những nghiên cứu liên quan đến việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ nhỏ từ góc độ khoa học xã hội hay sự kết hợp giữa khoa học xã hội và

62

y học chưa nhiều. Những vấn đề về cách thức tăng nguồn sữa mẹ, nâng cao nhận thức của các bà mẹ về việc cho con bú, về cách thức cho trẻ ăn bổ sung, về cách thức truyền thông và tác động của truyền thông đối với việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ, về mối liên hệ giữa quá trình nuôi dưỡng trẻ ngay từ khi trong bụng mẹ và khi được sinh ra, v.v. là những hướng nghiên cứu cần được quan tâm hiện nay./.

Tài liệu tham khảo

 Alive & Thrive và Bộ y tế và UNICEF, 2012, Chính sách pháp luật nhằm bảo vệ việc nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam: Tăng cường thực thi Nghị định 21/2006/NĐ-CP góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em và giảm tỷ lệ thấp còi.

 Alive & Thrive và Viện Nghiên cứu Y-Xã hội học (ISMS), 2012, Báo cáo toàn văn Điều tra 11 tỉnh: Thực hành nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 2012, Chương trình sữa học đường hỗ trợ nâng cao thể trạng cho trẻ em mầm non và tiểu học giai đoạn 2011-2015, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hà Nội 9/2012.

 Bộ Y tế. 2012. Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng, giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030. Viện Dinh dưỡng. Nxb. Y học. Hà Nội.

 Bùi Thị Tá Tâm và cộng sự, 2003, Nghiên cứu khẩu phần ăn và tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi tại một quần thể dân cư sống trên thuyền ở phường Phú Bình, thành phố Huế. Tạp chí Khoa học, số 18.

 Community health training and consulting network, 2010, Technical report for formative research: infant and young child feeding (IYCF) assessment, Ha Noi- March 2010

 Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng 2000-2010, http://www.cimsi.org.vn/

 Dùng sữa thế nào là khoa học? Theo Sức khỏe & An toàn thực phẩm,

http://www.suasach.com/cam-nang-dung-sua/145-dung-sua-the-nao-la-khoa- hoc.html

 Hoàng Kim Thanh, 2010, Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ từ 1-3 tuổi,

http://www.viendinhduong.vn/news/vi/73/55/0/a/nhu-cau-dinh-duong-cua-tre-tu-1- 3-tuoi.aspx

 http://aliveandthrive.org/sites/default/files/Trainer%20Manual%202%20Counse ling_VN_draft.pdf

 http://mattroibetho.vn/vi/nuoi-con-bang-sua-me.nd139/lam-the-nao-de-tang- tao-sua-va-phuc-hoi-sua-me-.i323.bic…

 http://moh.gov.vn/wps/portal/boyte/tintuc/chitiet/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9M SSzPy8xBz9CP0os3hnd0cPE3MfAwN3d0MDA0_XAAsPU1MnAwMnc_2Cb EdFAJfzeRk!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/moh/boyte/s a_tintuc/sa_tinveduoc/78b9db004a8b8ae5885a8dbda18b7158  http://tudu.com.vn/vn/thong-tin-y-hoc/y-hoc-cho-moi-nguoi/suc-khoe-phu-

nu/lam-me-an-toan/cham-soc-tre-so-sinh/nuoi-con-bang-sua-me-nhu-the-nao- cho-dung-cach-phan-3/  http://viendinhduong.vn/news/vi/317/12/2/a/huong-ung-tuan-le-nuoi-con-bang- sua-me-tu-18-78.aspx

63

 http://www.soyte.hanoi.gov.vn/?u=dt&id=6134.  http://www.webtretho.com/forum/f81/tong-hop-thuc-don-an-dam-kieu-nhat- chi-tiet-gio-an-luong-an-mon-an-1129996/

 Lê Thị Hải, 2010, Làm thế nào cho trẻ ăn bổ sung hợp lý?

http://www.viendinhduong.vn/news/vi/71/55/0/a/lam-the-nao-cho-tre-an-bo-sung- hop-ly.aspx

 NIN, 2006, Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội

 NIN, Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội 2006.  NIN-UNICEF, Báo cáo tình hình dinh dưỡng Việt Nam, 2009-2010, tháng 4/2011, trang 25

 Nguyễn Quang Vinh và CS, 2007, Khảo sát tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ < 5 tuổi tại Quận Bình Thạnh năm 2006. Y Học TP. Hồ Chí Minh, Tập 11, Phụ bản Số 4, 2007.

 Peter B Sullivan,1993, Cows' milk induced intestinal bleeding in infancy, Archives of Disease in Childhood; 68: 240-245.

 Phạm Thanh Hồng 2011. Báo cáo Kết quả điều tra về nghỉ thai sản và nuôi con bằng sữa mẹ của lao động nữ. Hà Nội 9-2011.

 Phuong Hong Nguyen PhD, Purnima Menon PhD, Mariel Ruel PhD, Nemat

Hajeebhoy MHS, 2011, A situational review of infant and young child feeding practices and interventions in Viet Nam, Review Asia Pac J Clin Nutr 2011;20 (3):359-374.

 Tổ chức Thống nhất và Tín thác Bảo vệ Người Tiêu dùng (CUTS), 2012, Tình hình cạnh tranh trên thị trường sữa công thức dành cho trẻ em từ 0-12 tháng tuổi tại Việt Nam qua các năm 2009-2011 (tháng 6/2012).

 Tổng cục Thống kê. 2006. Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2006 (MICS3). Báo cáo cuối cùng. Hà Nội.

 Tổng cục Thống kê. 2011. Việt Nam - Ðiều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ 2010–2011 (MICS4). Báo cáo kết quả. Hà Nội.

 UNICEF. 2010. Báo cáo phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam.

 Viện Dinh dưỡng (NIN), 2012, Kết quả chủ yếu của Tổng điều tra giới thiệu chiến lược giai đoạn 2011-2020.

 Viện Dinh dưỡng Việt Nam và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, Đánh giá Thực trạng dinh dưỡng Việt Nam, 2009-2010, tháng 4/2011

 Viện Dinh dưỡng, http://viendinhduong.vn/home/vi/Default.aspx

 Vũ Thanh Hương, 2010, Chế biến thức ăn bổ sung cho trẻ,

http://www.nutifood.com.vn/vn/Dinh-duong-ct.aspx?bn=Nut&pg=Dinh- duong&con=0&par=3&cat=16&id=52

 Website báo CHXHCNVN. nước điện phủ tử

Chính http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Ho-tro-20000-lao-dong-nu-nuoi-con-bang- sua-me-dung-cach/201211/153293.vgp.

 Website pháp Việt Tư Bộ

64

Nam, http://vbqppl.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.asp x?ItemID=16547

 Website Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id= 1&mode=detail&document_id=163008.

 Website Sở tế phố Hà Nội, Thành y http://www.soyte.hanoi.gov.vn/?u=dt&id=6134.

 Website Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. http://www.congdoanvn.org.vn/details.asp?l=1&c=56&m=5993.

 Website tại Việt Nam. UNICEF http://www.unicef.org/vietnam/vi/media_19468.html

 Website Viện Dinh dưỡng Việt Nam,

http://viendinhduong.vn/news/vi/317/12/2/a/huong-ung-tuan-le-nuoi-con-bang- sua-me-tu-18-78.aspx

 WHO, 2000, Complementary Feeding Family foods for breasged children

 WHO, 2004, Feeding the non-breastfed child 6-24 months of age, Meeting report, Geneva, 8-10 March 2004

 WHO, Báo cáo nghiên cứu Khối lượng và Chất lượng của Sữa mẹ năm 1985  WHO, Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ - Chiến lược toàn cầu về nuôi

dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, Báo cáo Ban thư ký, WHO, 16/04/2002, trang 6, truy cập tại http://apps.who.int/gb/archive/pdf_files/WHA55/ea5515.pdf

 WHO, Guiding principles for complementary feeding of the breastfed child,

http://www.who.int/maternal_child_adolescent/documents/a85622/en/index .html

65

 WHO, htttp://www.who.int/nutrition/topics/complementary_feeding/en/index.html