CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT HỌC BỔNG
CHƢƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG LẦN II
NĂM 2013
LƢƠNG THỤY LAN HƢƠNG
TƢ DUY HƢỚNG BIỂN CỦA CÁC NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX
HÀ NỘI, 2013
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT HỌC BỔNG
CHƢƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG LẦN II
NĂM 2013
TƢ DUY HƢỚNG BIỂN CỦA CÁC NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX
Học viên: Lƣơng Thụy Lan Hƣơng
Khoa: Lịch Sử
Trƣờng: ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn HN
Khóa: QH-2012
HÀ NỘI, 2013
Lƣơng Thụy Lan Hƣơng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
1. HN Hà Nội
2. KHXH&NV Khoa học Xã hội và Nhân Văn
3. Nxb Nhà xuất bản
4. Sđd Sách đã dẫn
5. Tp Thành phố
Lƣơng Thụy Lan Hƣơng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
6. Tr Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CỦA TRIỀU NGUYỄN TRƢỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC ............. 5
Chƣơng 1: TƢ DUY BIỂN CỦA NGƢỜI VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH BIỂN
1.1. Tƣ duy biển của ngƣời Việt trƣớc thế kỷ XIX ................................ 5
1.1.1. Tư duy biển của người Việt trước thế kỷ X........................................ 5
1.1.2. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XV ..................... 8
1.1.3. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX ...... 11
1.2. Chính sách biển của triều Nguyễn ....................................................... 17
1.2.1. Chính sách đóng cửa với phương Tây ................................................ 17
1.2.2. Chính sách phòng ngự bờ biển ........................................................... 24
1.2.2.1. Tuần tra trên biển .............................................................................. 26
1.2.2.2. Xây lực lượng thủy quân và các pháo đài ven biển ........................... 29
1.2.3. Chính sách tiễu trừ hải phỉ ................................................................. 40
NỬA CUỐI THỂ KỶ XIX ................................................................................ 52
Chƣơng 2: TƢ DUY HƢỚNG BIỂN CỦA CÁC NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
2.1. Sự cần thiết phải khai phóng đất nƣớc ................................................ 52
2.2. Tƣ duy quân sự biển .............................................................................. 62
2.3. Mở thƣơng cảng biển ............................................................................. 76
2.4. Phát triển kinh tế biển ........................................................................... 84
2.4.1. Lập các hội buôn .................................................................................. 84
2.4.2. Khuyến khích hoạt động thương mại trên biển ................................. 88
2.4.3. Khai thác tài nguyên biển .................................................................... 90
2.5. Mở lớp học dạy về biển ......................................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
Lƣơng Thụy Lan Hƣơng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................... 105
MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Đề tài “Tư duy hướng biển của các nhà cải cách Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XIX” thuộc chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. Tƣ duy hƣớng biển là
một nội dung nằm trong tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc cuối thế kỷ XIX. Trong
toàn bộ những tƣ tƣởng canh tân thì tƣ duy về biển đã đƣợc các nhà cải cách
đặc biệt quan tâm. Tuy vậy, việc nghiên cứu về tƣ duy hƣớng biển của các
nhà cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX ít đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý đến
và chƣa có một đề tài nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề này. Nghiên cứu về tƣ
tƣởng canh tân đất nƣớc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đã có rất nhiều tác
phẩm, sách báo, bài nghiên cứu, tạp chí và các kỷ yếu hội thảo khoa học, tiêu
biểu nhƣ:
Cuốn sách “Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn”, xuất bản
năm 1999 của nhóm tác giả Đỗ Bang, Trần Bạch Đằng, Đinh Xuân Lâm,
v.v..; gồm nhiều bài viết giới thiệu cuộc đời sự nghiệp và tƣ tƣởng canh tân
đất nƣớc của Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch,v.v..; những đề xuất
trong tƣ tƣởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Triều Nguyễn với trào
lƣu canh tân đất nƣớc, và trách nhiệm của triều Nguyễn trong sự thất bại của
xu hƣớng đổi mới ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX.
Cuốn sách “Nguyễn Lộ Trạch và di thảo”, xuất bản năm 1995, do
Nguyễn Văn Huyền biên dịch, gồm hai phần: Phần một tác giả giới thiệu về
cuộc đời và sự nghiệp của nhà cải cách Nguyễn Lộ Trạch, trong đó tác giả cố
gắng làm nổi bật lên tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của ông. Phần hai, tác giả tập
hợp và dịch một số tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Lộ Trạch nhƣ “Quỳ ưu
lục”, “Thời vụ sách” từ chữ Hán sang chữ Việt. Đây chính là nguồn tƣ liệu
1
quan trọng để nghiên cứu về những tƣ tƣởng cải cách của Nguyễn Lộ Trạch.
Trong cuốn sách “Nguyễn Trường Tộ thời thế và tư duy cách tân”,
xuất bản năm 2001 của tác giả Hoàng Thanh Đạm đã nghiên cứu về con
ngƣời và cuộc đời của nhà cải cách Nguyễn Trƣờng Tộ; thái độ của ngƣời đời
đối với ông khi ông đang sống và sau khi ông mất; hệ thống tƣ duy cách tân
của Nguyễn Trƣờng Tộ…
Năm 1999, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội đã ấn hành cuốn
sách “Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế kỷ XIX” của Thế
Văn và Quang Khải. Đây là công trình nghiên cứu về cuộc đời, thân thế, sự
nghiệp của Bùi Viện, qua đó làm nổi bật lên tƣ tƣởng và hành động mới mẻ
của ông.
Cuốn sách “Đặng Huy Trứ con người và tác phẩm”, xuất bản năm
1990 của Đặng Hƣng Doanh và Bùi Văn Côn, viết về cuộc đời và sự nghiệp
viết văn của Đặng Huy Trứ, đồng thời tập hợp những tác phẩm văn học của
ông, qua đó thể hiện tƣ duy cách tân của Đặng Huy Trứ.
Cuốn sách “Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân”, xuất bản năm
1995, của nhóm tác giả Phạm Phú Hạt, Lâm Quang Huyên, Mai Thúc Luân...
đề cập đến bối cảnh lịch sử, gia phả và truyền thống ham học của dòng họ
Phạm Phú - tƣ tƣởng canh tân các mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục,
quốc phòng và ngoại giao... của Phạm Phú Thứ.
Các công trình nêu trên tuy đã nghiên cứu một cách khá đầy đủ về tƣ
tƣởng canh tân đất nƣớc của các nhà cải cách Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, v.v..; nhƣng chƣa đề cập
sâu sắc và chƣa nghiên cứu một cách có hệ thống về tƣ duy hƣớng biển của
họ.
2. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Việt Nam là quốc gia nằm ở phía đông nam của châu Á, từ lâu biển đã
2
giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế, quốc phòng của
ngƣời Việt Nam. Hiện nay, biển đảo là một trong những vấn đề quan trọng
hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và đối ngoại
của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta. Bởi vậy, trong việc khẳng định và bảo
vệ quyền lợi quốc gia đối với biển đảo cần đƣợc nhìn nhận từ nhiều khía
cạnh, trong đó có tiến trình về tƣ duy biển của con ngƣời Việt Nam. Đồng
thời để hƣớng tới một quốc gia kinh tế biển phát triển, điều cần thiết trƣớc
tiên đòi hỏi ngƣời Việt Nam cần có một sự nhận thức đầy đủ về biển. Chính
vì vậy, việc tìm hiểu những tƣ duy về biển của ngƣời Việt Nam trong lịch sử
là rất cần thiết. Đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ XIX, ở nƣớc ra đã có rất nhiều
nhà cải cách đƣa ra những tƣ tƣởng tiến bộ, mang tính thời đại về vị trí, vai
trò của biển nhƣ: Nguyễn Trƣờng Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú
Thứ, và Đinh Văn Điền. Những tƣ duy mới mẻ của họ có một ý nghĩa nhất
định trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và phát triển kinh tế biển hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận nhằm:
- Làm rõ một phần tƣ duy về biển của ngƣời Việt trƣớc nửa cuối thế kỷ
XIX.
- Làm rõ một phần bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX
và các chính sách biển của triều Nguyễn.
- Làm rõ tƣ duy hƣớng biển trong tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của các
nhà cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là những tƣ duy về biển của ngƣời
Việt trƣớc nửa cuối thế kỷ XIX; bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế
kỷ XIX và hệ thống tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách Việt Nam nhƣ
Nguyễn Trƣờng Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy
3
Trứ…
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận chủ yếu nằm trong khoảng thời gian
nửa cuối thế kỷ XIX, dƣới triều vua Tự Đức (1847 – 1883), với không gian là
xã hội Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận này, tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu nhƣ: phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử, phƣơng pháp phân tích tài liệu,
phƣơng pháp đối chiếu, phƣơng pháp so sánh, v.v...
6. Bố cục
Bố cục của khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo
và phụ lục, gồm 2 chƣơng:
- Chƣơng 1: Tƣ duy biển của ngƣời Việt Nam và chính sách biển của
triều Nguyễn trƣớc khi thực dân Pháp xâm lƣợc.
- Chƣơng 2: Tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách Việt Nam nửa cuối
4
thế kỷ XIX.
Chƣơng 1
TƢ DUY BIỂN CỦA NGƢỜI VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH BIỂN CỦA
TRIỀU NGUYỄN TRƢỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC
1.1. Tƣ duy biển của ngƣời Việt trƣớc thế kỷ XIX
1.1.1. Tư duy biển của người Việt trước thế kỷ X
Nằm ở vùng chân dãy núi Himalaya, trong khu vực châu Á gió mùa,
nên Đông Nam Á đƣợc coi là một trong những trung tâm xuất hiện sớm của
cây lúa nƣớc. Trong lịch sử, cây lúa đã trở thành nguồn sống, là cơ sở kinh tế
chủ yếu của ngƣời Việt. Cuộc sống của ngƣời Việt đƣợc gắn liền với nƣớc và
phƣơng thức canh tác lúa nƣớc, vì vậy từ xa xƣa ngƣời Việt đã sớm bộc lộ
những tƣ duy về sông nƣớc. Sự bộc lộ đó thể hiện rõ trong các truyền thuyết
nhƣ Lạc Long Quân - Âu Cơ, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Mai An Tiêm, Chử Đồng
Tử - Tiên Dung, Dã Tràng, v.v.. Các triều đình phong kiến Việt Nam cũng đã
sớm có ý thức bảo vệ chủ quyền trên biển đảo và xây dựng lực lƣợng thuỷ
quân. Nhƣng nhìn chung, cƣ dân ngƣời Việt vẫn chƣa đánh giá đầy đủ vị trí
của biển và chƣa chú ý đến biển. Tƣ duy của ngƣời Việt chủ yếu là “tư duy
đất liền”, “xa rừng nhạt biển”, coi trọng kinh tế nông nghiệp hơn là khai thác
những tiềm năng kinh tế biển.
Việt Nam có hơn 3.000 km đƣờng bờ biển và là nƣớc có chỉ số duyên
hải ISCL (Index of Sea Coastal Line) cao. Chỉ số duyên hải cao và môi
trƣờng kinh tế đảo, bán đảo là điều kiện thuận lợi để nƣớc ta có thể thiết lập
và mở rộng quan hệ giao thƣơng với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, ngƣời
Việt ít chú trọng khai thác biển. Việt Nam không có nền kinh tế thƣơng mại
và hàng hải phát triển, không có nền văn hoá hải dƣơng, khai phóng và hội
nhập nhƣ cƣ dân các nƣớc khu vực Địa Trung Hải hay một vài quốc gia ven
biển khác trên thế giới. Ngƣời Việt xƣa không có truyền thống đi xa và buôn
bán đƣờng dài. Ngƣời Việt có làm cảng ở sông, ở biển, nhƣng chủ yếu là để
5
buôn bán nội vùng, khá hơn là liên vùng trong nƣớc. Ngƣời Việt thụ động
trông chờ ngƣời nƣớc ngoài đến buôn bán mà không chủ động đóng tàu
thuyền ra nƣớc ngoài buôn bán. Có thể thấy ngƣời Việt khá bị động trƣớc
biển. Mối liên hệ kinh tế văn hoá giữa Đại Việt với các nƣớc Đông Nam Á
hay châu Á, ngoại trừ trƣờng hợp Trung Quốc, không thực sự sâu sắc và
thƣờng xuyên. Sự hiểu biết của ngƣời Việt về địa lý, lịch sử, kinh tế các nƣớc
trên thế giới, kể cả các quốc gia láng giềng cũng rất hạn hẹp. Đó là một hạn
chế của ngƣời Việt Nam trong việc khai thác các thế mạnh và tiềm năng của
biển.
Vào những thế kỷ sau Công Nguyên, mặc dù đã làm chủ đƣợc hầu
khắp vùng đồng bằng sông Hồng và chinh phục đƣợc một số dải đất ven biển
nhƣng ngƣời Việt vẫn không thể (và thực tế là không cần) vƣợt ra khỏi không
gian kinh tế nông nghiệp truyền thống để tiến ra biển: “Cái không gian sinh
tồn cụ thể và độc đáo này đã đào luyện nên tính cách hạ bạn, tâm lý hoá thân
vào đồng đất và mở rộng bờ cõi với hướng chảy dọc theo các đồng bằng ven biển”1.
Tập quán sinh sống định cƣ gắn chặt với đồng đất và nguồn cung cấp
thực phẩm đa dạng, lƣợng thuỷ sản nƣớc ngọt khá phong phú của một không
gian địa - kinh tế ẩm, trũng miền chân núi là nguyên nhân chính yếu kiềm toả
sức vƣơn ra biển, nhu cầu muốn chinh phục biển khơi của ngƣời Việt. Biển là
một thế giới quá mênh mông, mơ hồ và đầy hiểm nguy trong tâm thức của
ngƣời Việt. Ngƣời Việt cũng có truyền thống đóng thuyền đi trên sông nƣớc
nhƣng đó chủ yếu là các thuyền đi trong sông, eo, vịnh… chứ chƣa thực sự là
thuyền đi biển, có thể vƣợt xa đại dƣơng.
Mặt khác, do tác động của tƣ tƣởng trọng nông ức thƣơng, nền thƣơng
nghiệp Việt Nam, trong đó có ngoại thƣơng, luôn đƣợc coi là ngành kinh tế
1 Nguyễn Văn Kim: “Hệ thống buôn bán ở biển Đông thế kỷ XVI- XVII và vị trí của một số thƣơng cảng Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1, năm 2002, tr. 45.
6
phụ, không căn bản. Ngay cả những làng, những vùng có truyền thống ngƣ
nghiệp, buôn bán trên sông nƣớc vẫn thƣờng có và luôn giữ một khoảnh đất
để canh tác nông nghiệp và thờ cúng tổ tiên. Đặc tính đó thể hiện rõ tƣ duy
hƣớng nội là chủ yếu trong tƣ tƣởng kinh tế và văn hoá truyền thống của
ngƣời Việt.
Trong kho tàng văn hóa dân tộc từ thời dựng nƣớc cũng có rất nhiều
huyền thoại, truyền thuyết gắn liền với tâm thức của các cộng đồng cƣ dân về
biển. Biển là điểm khởi nguồn đồng thời cũng là nơi trở về của nhiều nhân
vật huyền thoại. Huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ kết duyên với nhau
sinh ra một trăm ngƣời con để rồi lại phân chia ra, nửa theo Mẹ về Núi, nửa
theo Cha xuống Biển, và những khi ở trên Lục quốc có chuyện, Long Quân
vẫn luôn trở về đất liền để cứu giúp nhân dân. Huyền thoại Lạc Long Quân –
Âu Cơ đã thể hiện mối liên hệ giữa Đất và Nước trong tâm thức của ngƣời
Việt cổ. Trên một bình diện khác, truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh là sự
thể hiện sức mạnh và cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ giữa hai thế lực Núi
và Nước. Ngƣời ta hay lấy cuộc hận thù duyên phận giữa hai con ngƣời – hai
vị thần tài giỏi để luận giải về truyền thống khai phá, giành giật đất đai, xây
dựng hệ thống thủy nông. “Huyền thoại đó còn là ký ức về một cuộc đại
chuyển cư, mở mang châu thổ do tác động của quá trình biển tiến, biển lùi trong lịch sử xa xưa của người Việt”2. Với tập quán canh tác lúa nƣớc thì
hiện tƣợng nƣớc dâng lên rồi rút đi là một trong những điều kiện không thể
thiếu đƣợc cho sự phát triển trù phú, mùa màng bội thu. Chính vì vậy, từ xa
xƣa, ngƣời Việt vừa có tâm lý sợ nƣớc (nhất thủy, nhì hỏa) vừa cầu nƣớc và
mong nƣớc về. “Nước là một bộ phận hợp thành của truyền thống văn hóa,
2 Nguyễn Văn Kim: “Từ huyền thoại về biển đến cơ tầng văn hóa biển; nhận thức về biển, đảo trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc”, trích trong cuốn Người Việt với biển, Nguyễn Văn Kim chủ biên, Nxb. Thế giới, HN, 2011, tr. 40.
7
khắc đậm trong tư duy, trong quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và cả
trong thế giới huyền thoại của người Việt cổ”3. Tƣ duy về biển của ngƣời
Việt cổ không chỉ đƣợc thể hiện qua các huyền thoại và truyền thuyết từ xa
xƣa mà còn đƣợc thể hiện qua các di chỉ khảo cổ học của các nền văn hóa
nhƣ Văn hóa biển Hạ Long thời kỳ hậu đá mới, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa
Sa Huỳnh của thời đại kim khí hay cả Thể chế biển Phù Nam và Chămpa sau
đó.
Mặc dù đã có những bằng chứng cho thấy sự tồn tại về một tƣ duy biển
của ngƣời Việt cổ trƣớc thế kỷ X nhƣng nó dƣờng nhƣ cũng chƣa mấy rõ
ràng. Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang đã trồng dƣa hấu để trao đổi với
những tàu buôn đi qua đó lấy các vật dụng và thực phẩm, nhƣng cuối cùng
cũng quay trở lại đất liền. Khi nỏ thần mất tác dụng và bị quân địch đánh cho
thua trận, An Dƣơng Vƣơng đã bỏ chạy ra đến bờ biển rồi rút gƣơm tự vẫn.
Nghề đánh bắt cá hay cƣ dân sống trên sông nƣớc đƣợc phản ánh trong
chuyện cổ tích với những nhân vật nhƣ Trƣơng Chi, Chử Đồng Tử, v.v..;
luôn có vị thế xã hội thấp kém hơn ngƣời và nghề khác. Mối tình của chàng
đánh cá Trƣơng Chi với cô gái con nhà quyền quý kết thúc trong bi thảm.
Còn Chử Đồng Tử, chàng trai nghèo đến nỗi thân không một mảnh khố, chỉ
có thể đổi đời bằng việc kết hôn với công chúa con vua. Truyền thuyết Dã
Tràng thì phản ánh sự bất lực của con ngƣời trƣớc biển:
“Dã tràng xe cát biển Đông
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”
Tuy nhiên, chính những tƣ duy sơ khai, ban đầu ấy đã tạo nền tảng cho
ngƣời Việt có một tƣ duy đầy đủ hơn về biển trong những thế kỷ sau đó.
1.1.2. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
Từ thế kỷ X trở đi, sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 của
3 Nguyễn Văn Kim: “Từ huyền thoại về biển đến cơ tầng văn hóa biển; nhận thức về biển, đảo trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc”, Sđd, tr. 40.
8
Ngô Quyền, Việt Nam bƣớc vào kỷ nguyên độc lập tự chủ. Ý thức sâu sắc về
chủ quyền đất nƣớc, các vƣơng triều phong kiến đã có sự quan tâm nhất định
tới vấn đề biển đảo. Các vƣơng triều phong kiến đầu tiên Ngô – Đinh – Tiền
Lê đã chú trọng đến việc xây dựng các căn cứ, chốt thủy quân ở vùng Đông
Bắc mà trọng tâm là cửa sông Bạch Đằng. Triều Lý (thế kỷ XI-XIII) đã chú ý
đến việc buôn bán với nƣớc ngoài bằng đƣờng biển (Trung Quốc và một số
nƣớc Đông Nam Á). Công việc quan trọng đầu tiên của vua Lý Anh Tông
(1139 - 1175) (và cũng có thể đƣợc coi là của cả Vƣơng triều Lý) đối với các
vùng biển đảo là đặt ra hành dinh ở trại Yên Hƣng (Quảng Ninh) vào tháng
10 - 1147 nhƣ là một cơ quan quản lý của triều đình trung ƣơng đối với cửa
ngõ yết hầu sông nƣớc quan trọng nhất của đất nƣớc, cũng nhƣ toàn bộ các
vùng biển đảo của quốc gia Đại Việt nói chung. Sau đó, tháng 2 – 1149, nhân
việc thuyền buôn 3 nƣớc Trảo Oa (Java, Indonesia), Lộ Lạc và Xiêm La (đều
thuộc Thái Lan ngày nay) vào Hải Đông xin cƣ trú buôn bán, vua Lý Anh
Tông “bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương”4. “Vượt ra khỏi ý nghĩa quốc gia về chiến
lược phát triển kinh tế, trên phương diện hải thương khu vực và quốc tế, việc
nhà Lý lập trang Vân Đồn có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu sự dự
nhập của quốc gia Đại Việt vào hệ thống hải thương khu vực và quốc tế qua khu vực Biển Đông”5. Ở khu vực phía nam, các trung tâm trao đổi ở vùng
Nghệ – Tĩnh cũng có điều kiện phát triển, thu hút một lƣợng lớn thƣơng nhân
từ Trung Quốc và Đông Nam Á đến buôn bán.
Không chỉ chú ý đến việc mở mang thƣơng nghiệp, năm 1171, đích
thân nhà vua đã “đi tuần các hải đảo, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết dân tình đau khổ và đường đi xa gần thế nào”6. Tháng 2 – 1172, nhà vua “lại
4 Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 317. 5 Hoàng Anh Tuấn: “Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thƣơng mại biển Đông thời cổ trung đại”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9-10/2008, tr. 6. 6 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr. 325.
9
đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ ghi chép
phong vật”7. Đồng thời, vua Lý Anh Tông liên tục cho đóng nhiều thuyền lớn
tham gia vào việc kiểm tra, kiểm soát, khai thác và bảo vệ các vùng sông
nƣớc, biển đảo nhƣ các thuyền hiệu Vĩnh Long, Thanh Lan, Trƣờng Quyết,
Phụng Tiên, Nhật Long, Ngoạn Thủy… Có thể khẳng định, trong triều Lý và
nhiều vƣơng triều phong kiến khác ở nƣớc ta, hiếm có vị vua nào lại có ý
thức sâu sắc về chủ quyền biển đảo và quan tâm đến việc phát triển thƣơng
mại biển nhƣ vua Lý Anh Tông.
Kế tục sự nghiệp của nhà Lý, Đại Việt từ cuối thời Trần và đầu thời
Lê, vai trò của thƣơng cảng Vân Đồn và vùng cảng biển Đông Bắc trong hệ
thống hải thƣơng khu vực và quốc tế ở Biển Đông đƣợc biết đến nhiều qua
chức năng trung chuyển và xuất khẩu gốm sứ từ Trung Quốc ra thị trƣờng
khu vực, đồng thời đƣa gốm sứ Đại Việt (men nâu thời Trần và men lam thời
Lê Sơ) ra thị trƣờng quốc tế. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XV, vua Hồng Đức
(1460-1497), đã có những chính sách thiếu tính tích cực đối với vấn đề ngoại
thƣơng và khu vực hải cảng Vân Đồn cũng nhƣ toàn bộ vùng Đông Bắc.
Điều này đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của Vân Đồn nói riêng và
toàn khu vực hải cảng Đông Bắc nói chung trong thời kỳ nhà Lê trị vì. Cho
đến cuối thế kỷ XV, hải cảng Vân Đồn dƣờng nhƣ đã suy tàn và không còn là
điểm đến của các thƣơng nhân nƣớc ngoài.
Bên cạnh việc quan tâm đến ngoại thƣơng thì các vƣơng triều phong
kiến Lý, Trần và Lê cũng đã chú ý đến việc xây dựng và phát triển lực lƣợng
thủy quân để bảo vệ nƣớc nhà trƣớc sự xâm lƣợc của phƣơng Bắc. Trong và
sau ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc Mông – Nguyên thế kỷ XIII,
nhà Trần luôn ý thức sâu sắc về vai trò và vị thế của biển, đảo trong việc bảo
vệ chủ quyền, an ninh đất nƣớc. Nhà Trần ba lần chống quân Mông Nguyên
đều có sự tham gia của lực lƣợng thủy quân. Chiến thắng Vân Đồn và chiến
7 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr. 326.
10
thắng Bạch Đằng năm 1288 cũng nhƣ các cuộc rút lui chiến lƣợc của quân
dân Đại Việt về vùng duyên hải Đông Bắc đã cho thấy nghệ thuật quân sự
của quý tộc nhà Trần nhằm phát huy tối đa lợi thế của điều kiện tự nhiên để
chế ngự và chiến thắng kẻ thù.
Nhìn chung, các triều đình phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến thế
kỷ XV hầu nhƣ chƣa thể hiện một tƣ duy toàn diện về biển. Ngƣời Việt chỉ
khai thác biển nhƣ một nguồn tài nguyên tự nhiên, và những chính quyền
phong kiến chỉ quan tâm tới việc phòng thủ biển để bảo vệ đất liền, chứ chƣa
kết hợp đƣợc phát triển kinh tế biển với phát triển ngoại thƣơng và củng cố
quốc phòng.
1.1.3. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX
Từ thế kỷ XVI trở đi, do sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn
phong kiến, Đại Việt bị tách thành hai tiểu quốc là Đàng Ngoài và Đàng
Trong. Một bộ phận cƣ dân ở Đàng Trong phải từng bƣớc di cƣ xuống phía
Nam men theo bờ biển. Chính sách khai phá các vùng đất hoang vu, quan
tâm đến nông nghiệp, mở rộng thủ công nghiệp và phát triển ngoại thƣơng
của các chúa Nguyễn đã tạo điều kiện cho kinh tế Đàng Trong phát triển.
Nhiều đô thị ven biển và các hải cảng nổi tiếng nhƣ Hội An, Thanh Hà, Gia
Định đƣợc hình thành và phồn thịnh. Quan hệ buôn bán giữa Đàng Trong với
các nƣớc Đông Bắc Á, Đông Nam Á và một số nƣớc phƣơng Tây đƣợc thiết
lập và phát triển. Trong tác phẩm “Tư Dung Vãn” của Đào Duy Từ đã nói tới
những cánh buồm của thƣơng nhân trên vùng biển miền Trung: “Buồm ai dàng dạng chân trời”8.
Đƣợc biết đến là thƣơng cảng lớn nhất của Đàng Trong, lại nằm ở vị trí
giao thƣơng quốc tế thuận lợi, Hội An nhanh chóng trở thành cửa ngõ giao
thƣơng và đối ngoại quan trọng nhất với thế giới bên ngoài. Thƣơng cảng này
8 Lê Tiến Công:“Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua đầu triều Nguyễn”, Tạp chí Xưa và Nay, số 275 và 276, 2007, tr. 46.
11
đã đóng góp cho ngân sách chính quyền một lƣợng thuế lớn, giúp chúa
Nguyễn có đƣợc nguồn tài chính vững chắc để xây dựng quân đội, củng cố
chính quyền và đƣơng đầu với các cuộc tấn công của chính quyền Lê – Trịnh.
Sau thƣơng cảng Hội An thế kỷ XVI - XVII, ngƣời Việt Nam ở Đàng Trong
lại có thêm thƣơng cảng Hà Tiên thế kỷ XVIII… Các đền miếu thờ Long
Vƣơng, Hải thần, phong tục thờ Cá Ông và các bài vè đi biển phổ biến suốt
vùng duyên hải Việt Nam từ đèo Hải Vân trở vào Nam còn cho thấy ngƣời
Việt Nam ở Đàng Trong đã nhất hóa nhiều yếu tố biển vào với sinh hoạt vật
chất và tinh thần của cộng đồng mình.
Bên cạnh việc mở mang phát triển kinh tế thì “Chúa Nguyễn Hoàng đã
sớm chăm lo xây dựng các đội thuyền, mở cửa buôn bán với nước ngoài để
phát huy sức mạnh trong nước và chuẩn bị những bước đi đầu tiên cho việc
chiếm lĩnh các quần đảo giữa biển Đông. Công việc thực thi chủ quyền ở khu
vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thật sự được bắt đầu khi chúa
Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm quyền và đặt ra các đội Hoàng Sa đặc trách
công việc khai thác và bảo vệ Biển Đông từ tuyến ngoài. Đây là một phương
thức thực thi chủ quyền độc đáo của nhà nước Việt Nam trên các vùng quần
đảo giữa Biển Đông mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được”9.
Trên thế giới, từ thế kỷ XVII trở đi là thời kỳ sôi động của các hệ
thống thƣơng mại Đông - Tây, các “đế chế đại dương” bắt đầu chiếm ƣu thế
đồng thời chấm dứt thời kỳ hoàng kim của các “đế chế lục địa”. Các “Quốc
gia thương nghiệp” đƣợc hình thành ở vùng hải đảo, hoặc khu vực ven biển
phát triển rực rỡ. Từ đó, biển trở thành một nhân tố hết sức quan trọng trong
việc phát triển kinh tế và chiến lƣợc quốc phòng của mỗi quốc gia.
Với quyết tâm trở thành một lực lƣợng chính trị độc lập có thể đối chọi
9 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org.
12
lại với Đàng Ngoài và mở rộng lãnh thổ về phía Nam, các chúa Nguyễn
không ngừng phát triển lực lƣợng hải quân. Qua một số ghi chép của các tác
giả nƣớc ngoài thì thủy quân của Đàng Ngoài đƣợc trang bị số thuyền chiến
nhiều hơn so với Đàng Trong. Theo Alexandre de Rhodes, số lƣợng thuyền
chiến của Đàng Ngoài là khoảng 500 hay 600 thuyền, nhiều hơn gấp ba lần con số 200 thuyền của Đàng Trong10. Tuy chiến thuyền của Đàng Trong ít
hơn nhƣng các chúa Nguyễn luôn tìm cách tăng số lƣợng thuyền và mở rộng
lực lƣợng thủy binh. Theo C. Borri, Đàng Trong thƣờng xuyên cƣớp thuyền
của Đàng Ngoài. Mặt khác, họ thực hiện triều cống với nhà Trịnh để đổi lấy
gỗ đóng thuyền, gả con gái cho vua Campuchia để nhận đƣợc sự giúp đỡ về thuyền chiến và binh lính nhằm chống lại sự gây hấn của quân Xiêm11. Chính
vì vậy, sức mạnh thủy quân của Đàng Trong đến năm 1695 đã tăng lên một
cách đáng kinh ngạc. Điều chắc chắn là, nhờ có các phƣơng tiện đi biển lớn
và an toàn đó mà chính quyền Đàng Trong (Nguyễn Phúc Chu) đã thành lập
đội Hoàng Sa, cho thuyền đến các đảo Hoàng Sa, Bắc Hải (Trƣờng Sa) để
khai thác nguồn lợi hải sản, thu gom hóa vật, đo đạc hải trình và xác lập chủ
quyền trên các đảo đại dƣơng của Tổ quốc. Cũng chính vì đạt đƣợc sự cân
bằng về tƣơng quan lực lƣợng nên chúa Trịnh đã phải đồng ý ký thỏa hiệp
ngừng chiến, chấp nhận Đàng Trong nhƣ là một thế lực chính trị độc lập. Sau
khi cuộc nội chiến Đàng Trong – Đàng Ngoài kết thúc, chúa Trịnh ở phía
Bắc không còn chú tâm phát triển lực lƣợng thủy quân nữa mà tận dụng thời
gian yên bình để phát triển kinh tế. Ngƣợc lại, chúa Nguyễn ở Đàng Trong
vẫn tích cực sắm thêm thuyền, phát triển thủy quân, phục vụ cho chiến lƣợc
mở rộng thế lực trong suốt thế kỷ XVIII.
Trong khi các chúa Nguyễn tích cực quan tâm đến việc phát triển
ngoại thƣơng và quân sự thì ở Đàng Ngoài, nhà nƣớc Lê – Trịnh cũng đã
13
thực hiện chính sách thông thoáng hơn đối với các nhà buôn phƣơng Tây. 10 Phạm Văn Thủy: “Thủy quân Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX qua các nguồn sử liệu phương Tây”, trích trong cuốn Người Việt với biển, Sđd, tr. 508. 11 Phạm Văn Thủy: “Thủy quân Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX qua các nguồn sử liệu phương Tây”, Sđd, tr. 509.
Thƣơng nhân Hà Lan và sau đó là thƣơng nhân Anh đã đƣợc cho phép đến
buôn bán, xây dựng nhà cửa, cửa hiệu tại một số nơi ở Phố Hiến hay kinh
thành Thăng Long. Thế kỷ XVII – XVIII có thể đƣợc coi là giai đoạn phát
triển phồn thịnh nhất của nền ngoại thƣơng Việt Nam thời phong kiến.
Mặc dù các chúa Nguyễn ở Đàng Trong vẫn tiếp tục quan tâm đến việc
mở rộng lực lƣợng thủy quân vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, nhƣng
sự phát triển đột phá về sức mạnh hải quân của Việt Nam chỉ có đƣợc là vào
cuối thế kỷ XVIII, cùng thời điểm với sự nổi dậy của nghĩa quân Tây Sơn.
Trong lịch sử phát triển của phong trào nông dân Tây Sơn, ngay từ thời kỳ
đầu đã có nhiều lần xuất quân vƣợt biển từ Qui Nhơn tấn công vào Gia Định
làm tan rã lực lƣợng cát cứ của chúa Nguyễn, tiêu diệt gần 4 vạn quân xâm
lƣợc Xiêm. Đến năm 1786, sau khi giải phóng hoàn toàn đất Đàng Trong,
Nguyễn Huệ kéo đại quân ra Bắc tiêu diệt chế độ thống trị của họ Trịnh.
Riêng đạo quân tiên phong tập kết ở Vị Hoàng trƣớc khi đánh thẳng vào Thăng Long cũng có tới 400 chiến thuyền12. Đến cuối năm 1788, sau khi lên
ngôi hoàng đế, Quang Trung - Nguyễn Huệ tổ chức một cuộc hành quân
thần tốc ra Bắc diệt giặc Thanh. Phƣơng tiện vận chuyển binh lính, vũ khí,
quân lƣơng trong cuộc hành quân thần tốc này cũng chủ yếu là thuyền. Nét
độc đáo trong chiến dịch đại phá quân Thanh đầu năm Kỷ Dậu 1789 là quân
Tây Sơn đã xây dựng đƣợc phòng tuyến thuỷ bộ liên hoàn Tam Điệp - Biện
Sơn làm bàn đạp cho ba đạo quân tấn công chính diện trên bộ và hai đạo
quân thuỷ vƣợt biển bao vây sau lƣng địch.
Sau khi chiến thắng vẻ vang thù trong, giặc ngoài, trong chủ trƣơng
xây dựng quân đội, vua Quang Trung muốn phát triển một cách tƣơng đối hài
hoà các binh chủng bộ binh, thuỷ binh, tƣợng binh, pháo binh để phát huy
sức mạnh tổng hợp của quân đội. Ông đặc biệt quan tâm bảo vệ chủ quyền
14
trên biển, chăm lo xây dựng và phát triển lực lƣợng thủy binh, quyết tâm đƣa 12 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org.
hải quân lên hàng quân chủng: “Chiến thuyền của Tây Sơn bao gồm nhiều
loại, trong đó loại lớn trọng tải đến 900 tấn, có thể chở được voi chiến hoặc có khi chở được 700 lính và 60 khẩu đại bác”13. Trong quá trình xây dựng và
phát triển lực lƣợng thuỷ quân, hải quân đáp ứng những đòi hỏi ngày càng
cao của đất nƣớc, các vƣơng triều Tây Sơn, đặc biệt là triều Quang Trung và
Cảnh Thịnh đều đặc biệt chú ý đến việc khai thác, sử dụng lực lƣợng Tàu Ô
đang có mặt trên Biển Đông. Họ là những ngƣời giỏi đi biển hay chuyên hoạt
động trên biển hoặc vì trung thành với triều đình nhà Minh, hoặc vì chống
đối chính quyền Mãn Thanh mà bị đánh đuổi phải phiêu bạt, nƣơng náu trên
vùng biển đảo. Không ít trong số họ đã kết lại thành các băng đảng cƣớp biển
khét tiếng. Triều Tây Sơn đã ban nhiều tờ chiếu khuyến dụ lực lƣợng này qui
thuận. Chiếu dụ Tàu Ô viết dƣới thời Quang Trung từng vạch rõ họ “ra vào
nơi bể nước, tụ tập đồ đảng lấy việc cướp bóc làm kế sinh nhai, có lẽ cũng là
việc bất đắc dĩ, phần vì thiếu miếng ăn nên phải làm bậy, phần vì những chính sách bạo ngược xua đẩy”14 và kêu gọi họ sớm đầu hàng. Quang Trung
luôn “mở lòng bao dung, tuỳ tài cất dụng” và chiều theo sở nguyện của từng
ngƣời, thậm chí chấp thuận cho cả “những người có chí lớn, muốn xông pha nơi ngọn sóng cùng hải đảo”15. Qui thuận những ngƣời Trung Quốc xiêu dạt
sống gửi trên mặt biển và sử dụng họ tham gia vào công việc giữ gìn Biển
Đông là một chính sách quan trọng và có hiệu quả cao của vƣơng triều Tây
Sơn.
Sự phát triển của sức mạnh hải quân Việt Nam cuối thế kỷ XVIII làm
kinh ngạc tất cả những ngƣời châu Âu khi họ đến đây. John Barrow, một
ngƣời Anh đến Đàng Trong vào những năm 1792-1793 đã miêu tả tỉ mỉ kỹ
15
nghệ đóng thuyền của ngƣời Đàng Trong nhƣ là một trong những nghề mà họ 13 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org. 14 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org. 15 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org.
thành thạo nhất. Ông nhấn mạnh đến kỹ thuật chia đáy thuyền thành các
khoang khác nhau và vì thế thuyền sẽ không bị chìm dù va phải đá ngầm.
Theo J. Barrow, kỹ nghệ đóng thuyền này thậm chí đang đƣợc áp dụng cho hải quân của hoàng gia Anh16. Thủy quân Tây Sơn đƣợc đánh giá là một
trong những lực lƣợng thủy quân mạnh nhất trong khu vực Đông Nam Á thời
bấy giờ.
Cùng với việc phát triển lực lƣợng thủy quân hùng mạnh nhà Tây Sơn
cũng tăng cƣờng thực thi chủ quyền trên các quần đảo ngoài Biển Đông, đặc
biệt là ở Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Giống nhƣ các chúa Nguyễn trƣớc đây nhà
Tây Sơn vẫn tiếp tục tổ chức các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ
yếu là bảo vệ và khai thác vùng quần đảo xa giữa biển Đông. Trên thực tế hải
quân Tây Sơn đã kiểm soát đƣợc các tuyến giao thông, giao thƣơng trên Biển
và là chủ nhân của các vùng đảo, quần đảo kể cả khu vực ven bờ và giữa biển
Đông.
Nguyễn Ánh, hơn ai hết, hiểu rất rõ thế mạnh của thuỷ quân, hải quân
Tây Sơn nên từ đầu những năm 1790 đã mời và đặc biệt trọng dụng anh em
nhà Dayot (Jean Marie Dayot và Felix Dayot) trong chủ trƣơng xây dựng lực
lƣợng hải quân, đóng mới tàu chiến hiện đại và điều tra thám sát, vẽ bản đồ
các hải cảng, bờ biển và toàn bộ vùng biển, đảo một cách khoa học, có hệ
thống với chất lƣợng chuyên môn cao. Anh em nhà Dayot đã góp phần rất
quan trọng giúp cho Nguyễn Ánh tạo ra năng lực trội vƣợt của hải quân, thuỷ
quân Nguyễn, làm cơ sở đánh bại lực lƣợng hải quân, thuỷ quân Tây Sơn vốn
rất mạnh nhƣng lại sớm bị rơi vào tình trạng tàn tạ và tan tác của vƣơng triều
giai đoạn cuối mùa. Sự thất bại của hải quân Tây Sơn trƣớc hải quân Nguyễn
Ánh không hề phủ định một thời hoàng kim mạnh mẽ và oai hùng của nó,
16 Phạm Văn Thủy: “Thủy quân Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX qua các nguồn sử liệu phương Tây”, Sđd, tr. 515.
16
nhất là vào những năm dƣới thời Quang Trung và đầu thời Quang Toản.
Năm 1802, triều Nguyễn đƣợc thiết lập sau khi đã lật đổ nhà Tây Sơn.
Các vị vua đầu triều Nguyễn nhƣ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự
Đức vẫn tiếp tục bảo vệ vùng biển đảo, khẳng định chủ quyền của Việt Nam
đối với hệ thống các đảo và quần đảo ở Biển Đông, đặc biệt là quần đảo
Hoàng Sa và Trƣờng Sa bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau nhƣ
vãng thám, kiểm tra, kiểm soát, khai thác các hoá vật và hải sản, tổ chức thu
thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát, đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ
quyền, dựng bài gỗ lƣu dấu để ghi nhớ, trồng cây để cho ngƣời qua lại dễ
nhận biết... Tiếp sau vƣơng triều Tây Sơn, nhà Nguyễn đã có những đóng
góp quan trọng vào việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông
trong thế kỷ XIX.
1.2. Chính sách biển của triều Nguyễn thế kỷ XIX
Đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn quản lý toàn bộ vùng bờ biển Việt Nam
dài, rộng, kéo dài từ Bắc vào Nam. Tại hơn 130 cửa biển lớn nhỏ và một số
hải đảo quan trọng của Việt Nam, các vua Nguyễn đã tổ chức lực lƣợng trấn
giữ, hình thành một hệ thống đồn, thành lũy, trấn thủ bao bọc bờ biển liên
hoàn kết hợp giữa lực lƣợng của triều đình và lực lƣợng dân binh sở tại của
các địa phƣơng để canh giữ, kiểm soát bờ biển, hải đảo. Chính sách bảo vệ
vùng biển của triều Nguyễn có thể khái quát trên một số vấn đề nhƣ: chính
sách đóng cửa với phƣơng Tây, chính sách phòng ngự bờ biển, chính sách
phòng chống hải tặc.
1.2.1. Chính sách đóng cửa với phương Tây
Vua Gia Long (Nguyễn Ánh) là một ngƣời am hiểu về biển và vị trí
quan trọng của biển đối với an ninh, quốc phòng. Khi cơ nghiệp của chúa
Nguyễn ở Đàng Trong bị nhà Tây Sơn lật đổ, Nguyễn Ánh nhiều lần bị quân
Tây Sơn truy sát đã phải bỏ chạy ra vùng biển và trốn ở các đảo hoang. Sự an
nguy của Nguyễn Ánh gắn liền với biển đảo. Nguyễn Ánh đã lấy biển đảo
17
làm bàn đạp để từng bƣớc giành lại vƣơng quyền. Thuỷ quân và thuyền chiến
thời Nguyễn đƣợc huấn luyện theo binh pháp châu Âu. Từ năm 1789, theo lời
khuyên của giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine): “Nguyễn Ánh ra sức
tăng cường thuỷ binh, trở thành lực lượng thuỷ binh mạnh nhất chưa từng có ở vùng biển Ấn Độ”17. Tuy nhiên, sau khi giành lại đƣợc vƣơng quyền, vua
Gia Long lại không thực hiện những cải cách mở cửa thông thƣơng với nƣớc
ngoài, ngay cả với nƣớc Pháp đã giúp vua trong cuộc chiến tranh cũng không
ngoại lệ. Tháng 11 - 1817 (năm Gia Long thứ 16), tàu nƣớc Pháp cập cảng
Đà Nẵng, cho ngƣời mang thƣ đến nói với viên quan Nguyễn Văn Thắng
rằng: “Quốc vương đã về nước rồi, truyền kéo cờ đi khắp các cửa biển, để cho các nước biết; xin đem phẩm vật vào Kinh chiêm yết”18. Nhƣng vua Gia
Long nghĩ rằng tàu này không có quốc thƣ nên không cho vào yết kiến. Mặc
dù vậy, vua cũng sai các quan ở Quảng Nam tiếp đãi thành viên của phái
đoàn, rồi yêu cầu họ đƣa tàu ra. Nhân sự việc đó, vua truyền chỉ cho quan
Tấn thủ Đà Nẵng rằng: “Nếu tàu Đại Pháp có kéo cờ và phát 21 tiếng súng
mừng, thời trên đài Điện Hải cũng phát 21 tiếng súng. Từ nay về sau như tàu
nước khác vào cửa biển ta, dẫu nó phát súng nhiều nữa, mình chỉ phát 3 tiếng làm hiệu mà thôi”19. Trƣớc đấy, tháng 9 – 1816, nhà vua đã ra lệnh
“cấm thuyền buôn chở riêng thóc gạo, hóa vật thông thương với nước ngoài.
Người nào phạm thì lấy luật ra riêng ngoài cõi và luật phạm cấm ra biển để
xử, thuyền và hàng hóa xung công. Quan sở tại biết mà cố ý dung túng thì cùng tội”20. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, mặc dù đã dựa vào phƣơng Tây để lấy
lại vƣơng quyền nhƣng ngay sau khi củng cố đƣợc quyền lực, vua Gia Long
đã quay lƣng lại với nƣớc Pháp, ông không những không thực hiện chính
sách mở cửa giao thƣơng với nƣớc ngoài mà còn cấm những thƣơng nhân
17 Lê Tiến Công:“Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua đầu triều Nguyễn”, Tạp chí Xưa và Nay, số 275 và 276, 2007, tr. 45. 18 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998, tr.135 19 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr.135. 20 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb. Giáo dục, HN, 2004, tr. 935.
18
trong nƣớc chở hàng hóa ra nƣớc ngoài buôn bán. Tƣ tƣởng đóng cửa của
vua Gia Long đƣợc hình thành do sự e sợ sức mạnh của các thế lực nƣớc
ngoài sẽ làm ảnh hƣởng đến vƣơng quyền của triều đình, tƣ tƣởng đó đã ảnh
hƣởng mạnh mẽ đến vua Minh Mạng kế vị sau đó.
Vua Minh Mạng lên ngôi năm 1820, ông vẫn tiếp tục thực hiện chính
sách đóng cửa từ thời vua Gia Long. Tuy nhiên, trong những năm đầu khi
mới lên ngôi, ông đã cho thi hành một số biện pháp giảm thuế cho thuyền
buôn nƣớc ngoài. Tháng 11 – 1820, nhà vua cho đổi định lệ thuế cảng và lễ
cho các thuyền buôn nƣớc ngoài. Theo lệ cũ, thuyền buôn Ma Cao và các
nƣớc phƣơng Tây đến buôn bán cũng đánh thuế nhƣ thuyền buôn Quảng
Đông, cứ lấy thƣớc tấc bề rộng các thuyền mà thu khác nhau. Vua mới lên
ngôi, muốn tỏ lòng yêu mến ngƣời phƣơng xa nên đã cho giảm bớt số tiền
thuế. Ví dụ, nếu thuyền đến buôn bán ở Gia Định, thuyền phủ Quảng Châu,
phủ Thiều Châu, châu Nam Hùng, phủ Huệ Châu, phủ Triệu Khánh, tỉnh
Phúc Kiến, tỉnh Chiết Giang, Ma Cao và các nƣớc phƣơng Tây, rộng 25 thƣớc đến 14 thƣớc, mỗi thƣớc tiền thuế 140 quan (lệ trƣớc là 160 quan)21
v.v.. Mặc dù đã thực hiện giảm thuế cho các thuyền buôn nƣớc ngoài, nhƣng
đối với việc các nƣớc phƣơng Tây đến xin thông thƣơng thì triều đình Huế lại
không chấp nhận. Biểu hiện rõ nét nhất của chính sách bế quan là việc triều
đình khƣớc từ tất cả quốc thƣ và các yêu cầu thông thƣơng của những nƣớc
phƣơng Tây nhƣ Anh, Pháp, Hoa Kỳ… Trong 20 năm vua Minh Mạng trị vì,
đã có rất nhiều lần phái đoàn của các nƣớc phƣơng Tây đến Việt Nam, đƣa
thƣ xin thông thƣơng buôn bán nhƣng đều không đƣợc nhà vua chấp nhận.
Tháng 7 – 1822, “Tổng đốc Mạnh Nha Hố (tên đất) nước Anh Cát Lợi
là Hà Sĩ Định, sai Cá La Thoa Khắc mang thư đến dâng phương vật (500
khẩu súng tay, một đôi đèn pha lê lớn). Thuyền đến Đà Nẵng, Dinh thần
Quảng Nam dịch thư dâng lên. Trong thư chỉ xin thông thương, cũng như các
21 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb. Giáo dục, HN, 2004, tr. 101.
19
ngoại quốc khác, không dám xin lập phố để ở. Sai đưa đến Kinh. Cá La Thoa
Khắc thành khẩn xin yết kiến. Vua nói: “Hắn là người của tổng đốc phái đi,
không phải do mệnh của quốc vương. Không cho”. Những phẩm vật dâng
biếu cũng không nhận. Sai hữu ty bàn định điều lệ về việc các nước đến buôn, làm thư của Thương bạc bảo cho biết”22. Tiếp đó, tháng 12 – 1824,
nƣớc Pháp cũng cử một phái đoàn đem Quốc thƣ và phẩm vật tới xin thông
hiếu, tàu đến cửa Đà Nẵng, quan dinh Quảng Nam tâu lên, vua Minh Mạng
dụ rằng: “Nước Pháp với Anh Cát Lợi thù nhau, năm trước nước Anh thường
cầu nạp khoản, ta khước không chịu, nay có lẽ nào cho nước Pháp thông
hiếu, nhưng ta nghĩ đức Hoàng khảo ta khi mới khai quốc, có khiến ông Anh
Duệ thái tử qua nước Pháp, vẫn có ơn cũ, nếu khước ngay đi, e không phải ý đãi người xa”23. Sau đó, vua đề nghị Viện Thƣơng bạc làm tờ thƣ trả lời phái
đoàn Pháp và thƣởng cho một số đồ mang về; còn quốc thƣ và vật phẩm thì
không cho dâng lên. Tháng 11 – 1830, binh thuyền của nƣớc Pháp lại đến
cửa biển Đà Nẵng, vua lệnh cho Thị lang Trƣơng Đăng Quế, quyền chức
quan Viện Thƣơng bạc, đến gặp thuyền trƣởng của tàu nói chuyện: “Thuyền
trưởng ấy nói rằng vua nước Pháp muốn cùng nước ta giao hiếu, nhưng xa
cách biển khơi không đạo đạt được, nay nghe tin nước Hồng Mao (nước Anh)
mưu đồ xâm lấn đất Quảng Đông (Trung Quốc), thế tất rồi cũng lan đến
nước ta, nên vua nước ấy sai đến báo tin dặn ta đừng giúp Quảng Đông.
Trương Đăng Quế về tâu, vua cười nói rằng: “Nước ấy muốn mượn việc đó
làm ơn với ta để mong đạt kế muốn giao hiếu đó thôi. Nước Hồng Mao mưu
lấn nước Thanh, có can thiệp gì đến ta”. Lại sai Nguyễn Tri Phương đến bảo
cho họ biết. Khi Tri Phương đã về thuyền ấy vẫn còn dùng dằng chưa đi, tự
tiện lên núi Tam Thai (Non Nước) để xem xét, lại nói muốn được một người
hoa tiêu cùng đi ra các hạt Bắc Thành để vẽ đồ bản. Viên tấn thủ báo về, Bộ
Binh tâu lên. Vua nói: “Vào nước người ta tất phải hỏi các điều cấm. Vượt
22 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr. 226. 23 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 169.
20
qua hải phận có điều lệ nghiêm cấm huống chi muốn vào nước người mà vẽ
địa đồ mang về sao họ vô lý đến thế. Tấn thủ không biết lấy lời lẽ nghiêm
nghị mà cự tuyệt, động một tý là tâu báo, sao lại không có định kiến như
thế”. Sai Tri Phương lại đến hiểu thị thuyền ấy mới đi. Bọn Thành thủ úy án
thủ hai đài thành An Hải, Điện Hải là Lê Văn Tường, Thủ ngự Đà Nẵng là
Nguyễn Văn Ngữ, Hiệp thủ là Trương Vân Loan, vì không ngăn cản được việc họ lên núi đều bị cách chức”24. Sau đó, vua điều ngƣời khác đến trấn thủ
hai đài này và lệnh xuống cho quan trấn thủ, từ nay nếu gặp thuyền nƣớc
ngoài hoặc thuyền quan đậu ở cửa biển thì phải phái binh thuyền đi tuần xét
và cho viên án thủ đài hội đồng với viên trấn thủ mà làm cho ổn thỏa, nếu
việc phải tâu lên triều đình thì phải cho ngƣời báo ngay không đƣợc chậm trễ.
Tháng 11 – 1832, phái đoàn của nƣớc Hoa Kỳ (khi đó gọi là nƣớc Nhã
Di Lý) mang quốc thƣ đến đậu thuyền ở cửa Vũng Lẫm thuộc tỉnh Phú Yên,
muốn thông thƣơng, buôn bán với nƣớc ta. Vua Minh Mạng sai Nguyễn Tri
Phƣơng, Lý Văn Phức cùng với quan tỉnh Phú Yên lên trên thuyền thiết tiệc
và hỏi ý họ đến làm gì. “Họ nói: chỉ đến vì muốn giao hiếu và thông thương,
nhưng dịch thư có nhiều chỗ không hợp thể thức, vua nói không cần dâng thư
lên rồi cho quan Thương bạc làm tờ trả lời, đại lược nói: “Nước ấy muốn xin
thông thương, cố nhiên là ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật
đã định. Từ nay, nếu có đến buôn bán thì chỗ đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà
Nẵng, không được lên bờ làm nhà, vượt quá kỷ luật, rồi giao thư bảo họ đi”25. Đến tháng 9 – 1835, trƣớc sự thay đổi của tình hình khu vực, vua Minh
Mạng càng tăng cƣờng thêm việc kiểm soát đối với các tàu nƣớc ngoài vào
Việt Nam, vua lệnh cho Bộ Binh: “Bộ phải tư ra các tỉnh miền biển về phía
Nam, hễ thấy có tàu lớn ghé lại ở địa hải phận tấn nào, thời người Tấn thủ
phải đem theo một người Thông ngôn hay là người Tàu hiểu tiếng Tây, đến
nơi xét hỏi tàu ở từ đâu mà tới, ấy là tàu trận hay tàu buôn cho rõ ràng, rồi
24 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, Tập 3, Nxb. Giáo dục, HN ,2004, tr. 118. 25 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, Tập 3, Sđd, tr. 413.
21
báo lập tức; nếu là tàu trận thời nhứt diện phi tâu, nhứt diện phái quân
nghiêm giữ và tư qua các lân tỉnh phòng bị, ngày nào tàu đi, hoặc đóng lại làm sự trạng gì, cũng phải tâu luôn”26.
Triều đình không chỉ thực hiện đóng cửa với những nƣớc phƣơng Tây
mà ngay cả nƣớc Trung Quốc có quan hệ lâu đời, vua Minh Mạng cũng rất dè
dặt. Tháng Giêng năm 1837, quan tỉnh Gia Định tâu xin cho thuyền chở thuê
của ngƣời Tàu ở Gia Định đi buôn tại Nam Kỳ và Bắc Kỳ. Nhƣng nhà vua
không đồng ý và dụ rằng: “Người buôn nước Tàu dối trá trăm cách, từng
trung chở lúa gạo vào bán trộm nha phiến, thường bắt được; từ nay người
Tàu ở ta không được đóng thuyền đi biển, quan địa phương không xét kỹ thời có tội”27.
Vì thực hiện chính sách đóng cửa, không giao thƣơng với phƣơng Tây
nên vua Minh Mạng cũng định lệ buôn bán rất nghiêm ngặt. Tháng 7 – 1826,
vua Minh Mạng ra lệnh cấm thuyền buôn nước ngoài mua tơ. Ai phạm phải
thì bị tội 100 trƣợng, tang vật sung công. Ngƣời bán cũng bị tội nhƣ thế. Viện Thƣơng bạc, tấn thủ và quan lại địa phƣơng đều xử tội thất sát28. Tháng 10 –
1935, tỉnh Hà Tiên có chiếc thuyền buôn bọc đồng đến đậu ở Hòn Na Dự,
trong tàu có ngƣời Hồng Mao (ngƣời Anh) chở đồ hóa hạng và sáu súng điểu
thƣơng, súng doãn mã cò máy đá, xin vào buôn bán chịu thuế. Quan tỉnh Hà
Tiên tâu lên, vua dụ xuống rằng: “Lệ tàu Tây đậu tại cửa Hàn (Đà Nẵng),
còn các cửa biển khác không được tới buôn, phép nước rất nghiêm chẳng
nên trái; biểu chiếc tàu ấy nên ra biển lập tức, không cho vào cửa. Từ nay về
sau người Tàu phải đi tàu buôn nước Tàu, mới cho vào cửa biển buôn bán;
người Tây phải đi tàu nước Tây vào cửa Hàn thông thương, không được ghé vào cửa khác có lỗi”29. Có thể nói, trong 20 năm trị vì của mình, vua Minh
26 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 269. 27 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 283. 28 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr. 528. 29 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 270.
22
Mạng đã xây dựng khá hoàn chỉnh các chính sách về mọi mặt đời sống kinh
tế - xã hội của đất nƣớc nói chung và chính sách bế quan tỏa cảng nói riêng.
Các vị vua kế nghiệp sự của vua Minh Mạng sau này cơ bản cũng thi hành
các chính sách nhƣ ông đã đặt ra.
Vua Thiệu Trị lên ngôi năm 1841 vẫn nhất nhất tuân theo những quy
định đã đặt ra từ đời vua cha. Đối với các đề nghị xin thông thƣơng của các
nƣớc phƣơng Tây vua Thiệu Trị đều khƣớc từ. Tháng 9 – 1847, có hai chiếc
quân thuyền nƣớc Anh đến cửa biển Đà Nẵng, thuyền trƣởng nói theo lệnh
vua Anh muốn đƣợc đến kinh cầu kiến, xin trình quốc thƣ lên. Nhƣng các
quan trong triều đình cho là không hợp lệ, xin nhà vua không cho trình quốc thƣ. Hơn 10 ngày sau thì thuyền ấy nhổ neo đi30.
Kế tục sự nghiệp của vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, vua Tự
Đức sau khi lên ngôi (1848), đối với việc mở cửa giao thƣơng với nƣớc ngoài
vẫn rất dè dặt, dù tình hình trong nƣớc và thế giới cuối thế kỷ XIX đã khác
rất nhiều so với thời kỳ trƣớc đó. Nhà vua vẫn thực hiện chính sách bế quan
tỏa cảng và khƣớc từ những đề nghị giao thƣơng từ phƣơng Tây. Năm 1850,
“sứ nước Ma-ly-căn (nước Mỹ) ở Tây Dương là Ba Ly Chì (Balestier) chở 1
chiếc thuyền đến cửa biển Đà Nẵng nói: mang thư của nước ấy đến tạ lỗi, xin
thông thương. (Trong thư có nói: 4 năm trước thuyền nước ấy đến nước ta,
lên bờ giết người, vua nước ấy đã đem trưởng thuyền làm tội rồi, nay mong
bỏ qua hết oán cũ đi, cho được thông thương hòa hảo). Vua sai Tôn Thất Bật
đến hỏi han, Bật bàn với bọn Ngô Bá Hy, án sát Quảng Nam sai thông ngôn
trả lời: …Nhân dân nước ta chuyên nghề làm ruộng trồng dâu, không thích
chơi của lạ, nếu có lại buôn cũng không lợi gì, thư này không dám đề đạt lên. Sau xin tạm nhận thư nhưng vua không cho rồi chiếc thuyền kia cũng đi”31.
Tuy nhiên, chính sách đóng cửa của vua Tự Đức không thể thực hiện đƣợc
lâu trƣớc sức ép từ bên ngoài và cuộc xâm lƣợc của thực dân Pháp năm 1858
23
đã buộc nhà Nguyễn phải thụ động mở cửa bằng các hiệp ƣớc quân sự. 30 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 26, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1972, tr. 388. 31 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 27, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1973, tr. 215.
1.2.2. Chính sách phòng ngự bờ biển
Mặc dù đã cho thi hành chính sách đóng cửa nhằm ngăn chặn ảnh
hƣởng của nƣớc ngoài với mong muốn Việt Nam không trở thành miếng mồi
của các nƣớc thực dân phƣơng Tây, nhƣng triều Nguyễn cũng không tin
tƣởng hoàn toàn chính sách bế quan tỏa cảng có thể ngăn chặn đƣợc âm mƣu
xâm lƣợc của nƣớc ngoài. Vì vậy, bên cạnh việc thực hiện các chính sách
nhƣ đóng cửa, cấm đạo Thiên chúa, triều Nguyễn còn cho thi hành các chính
sách tăng cƣờng tiềm lực quân sự của đất nƣớc nhƣ tăng cƣờng lực lƣợng
quân đội, củng cố quốc phòng bằng việc xây thêm các pháo đài, mua sắm vũ
khí và thực hiện các chính sách phòng ngự bờ biển. Chính sách phòng ngự bờ
biển bao gồm một số vấn đề chủ yếu là: xây lực lƣợng thủy quân và các pháo
đài ven biển, phát triển hệ thống tàu thuyền đi biển, tuần tra trên biển…
Muốn bảo vệ vùng biển, trƣớc hết phải hiểu biết về vùng biển của nƣớc
nhà. Hiểu rõ đƣợc điều đó nên từ tháng 9 – 1806, vua Gia Long đã cho làm
xong sách Nhất thống dư địa chí: núi sông hiểm trở, đƣờng xá xa gần, giới
hạn, nguồn sông, cửa biển… đều ghi chép hết, để phục vụ đắc lực trong công
tác vận hải và tuần phòng. Đồng thời nhà nƣớc thƣờng xuyên tổ chức thăm
dò, đo vẽ cửa biển, đƣờng biển, đây là nhiệm vụ của các cửa biển do quan
Trấn thủ, Thủ ngự chỉ huy. Tháng 1 – 1813, vua Gia Long truyền dụ cho các
quan trấn thủ (quan giữ các cửa biển) phải đo cửa biển, chỗ nào sâu, cạn,
rộng, hẹp, mỗi năm đến mùa xuân, mùa đông vẽ bản đồ dâng lên, bộ Công
phải đem đồ bản ấy giao cho các đội lính thủy, để cho biết đƣờng thủy chỗ nào hiểm, chỗ nào không32. Tháng 2 – 1815, vua điều đội Hoàng Sa do Phạm
Quang Ảnh chỉ huy ra đảo Hoàng Sa thăm dò đƣờng biển. Tháng 3 – 1816,
nhà vua ra lệnh cho các dinh trấn, xem đo đƣờng biển cách nhau xa gần bao
nhiêu, vẽ bản đồ dâng lên; điều thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra
32 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 110.
24
Hoàng Sa tiếp tục thăm dò đƣờng thủy. Có thể thấy, việc xác lập chủ quyền
đối với các đảo và quần đảo ven biển, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa đã đƣợc
các vua Nguyễn ý thức từ rất sớm.
Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825), một ngƣời Pháp đã từng theo
Nguyễn Ánh đánh nhau với Tây Sơn, sau đó trở thành một đại thần trong
triều đình Huế có tên Việt là Nguyễn Văn Thắng đã viết trong phần mở đầu
cuốn hồi ký Le Mesmoire sur la Cochinchine (Hồi ức về xứ Nam Kỳ) nhƣ
sau: “Xứ Đàng Trong - địa thế - phân chia hình thể - xứ Đàng Trong mà quốc
vương ngày nay mang danh hiệu Hoàng Đế bao gồm xứ Nam Hà theo đúng
nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một phần vương quốc Cao Miên, một vài đảo có
người ở không xa bờ biển và quần đảo Hoàng Sa, gồm có những đảo nhỏ,
bãi đá ngầm và mỏm đá không có người ở. Chỉ đến năm 1816 thì Nhà vua hiện nay mới chiếm hữu được quần đảo này”33. Cũng trong cuốn sách cho
biết, năm 1817, một đại thƣơng nhân Bồ Đào Nha đã dâng lên vua Gia Long
một tấm bản đồ về quần đảo Hoàng Sa (tức quần đảo Paracel) đã đƣợc nhà
vua đặc biệt chú ý.
Vua Minh Mạng cũng đặc biệt chú ý đến việc tìm hiểu rõ các vùng
biển, cƣơng vực của nƣớc nhà. Sách Đại Nam nhất thống toàn đồ vẽ thời
Minh Mạng đã cho biết diện mạo khá hoàn chỉnh của cƣơng vực, lãnh thổ
Việt Nam. Các cửa sông, cửa biển, tấn sở đƣợc ghi chép khác đầy đủ. Năm
1820, ông giao cho các quan thủ ngự phải có nhiệm vụ “cắm tiêu” tại những
cửa biển để hƣớng dẫn thuyền qua lại. Đặc biệt đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trƣờng Sa, nhà vua vẫn tiếp tục tăng cƣờng việc khẳng định chủ quyền
của Việt Nam và tăng cƣờng thêm hải quân phòng thủ. Tháng 6 – 1835, vua
Minh Mạng cho lập đền thờ thần Hoàng Sa ở bãi biển tỉnh Quảng Ngãi. Bãi
Hoàng Sa ngoài biển có một chỗ cây cối rậm tốt, trong cồn có giếng, phía tây
33 Nguyễn Thừa Hỷ: “Quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa (Paracels) thế kỷ XVII – XIX qua nguồn tư liệu phương Tây”, trích trong cuốn Người Việt với biển, Sđd, tr. 492.
25
nam có Cổ miếu có bia khắc 4 chữ: “Vạn lý ba bình”. Vua cho ngƣời lập
Miếu dựng bia, ở phía trƣớc xây thêm một cái bình phong34. Tháng Giêng
năm 1836, vua lại lệnh cho Thủy quân Suất đội Phạm Hữu Nhật đem binh
thuyền qua Quảng Ngãi, thẳng tới bãi Hoàng Sa, “không nệ hòn cù lao nào,
cồn cát nào, hễ dài ngang rộng cao chu vi, và bốn phía gần đó có đá mọc cát
ngầm hay không; hình thế mấy chỗ ấy có hiểm hay không, từ cửa biển ra đó
đàng thủy đi mấy dặm; đó gần bờ biển huyện nào làng nào; đến đâu khám
xét rõ ràng, rồi cắm tiêu làm dấu, vẽ thành đồ bản đem về dâng lên để nhà vua ngự lãm”35.
Việc vãng thám Hoàng Sa tuy rất vất vả nhƣng vẫn đƣợc triều đình đặc
biệt quan tâm và hỗ trợ. Dƣới thời vua Minh Mạng, hàng năm vào mùa xuân,
việc phái binh thuyền vãng thám Hoàng Sa cho thành thục đƣờng đi lối lại đã
thành lệ. Tuy nhiên, đến thời vua Thiệu Trị, việc vãng thám bị đình hoãn vì
công vụ bận rộn. Phúc tấu của Bộ Công ngày 26 - 1 - 1847 có ghi: “Tháng 6
năm 1845 phụng sắc về việc đình hoãn thám Hoàng Sa. Nay phúc tấu đợi chỉ có nên vãng thám Hoàng Sa kỳ này hay không? Châu phê: đình hoãn”36. Từ
đó trở về sau, các chuyến tham vãng Hoàng Sa ngày càng ít đi do tình hình
đất nƣớc sau khi vua Tự Đức lên ngôi phải đối diện với nhiều vấn đề phức
tạp, đặc biệt là cuộc xâm lƣợc của thực dân Pháp năm 1858.
1.2.2.1. Tuần tra trên biển
Vua Gia Long và Minh Mạng đã nhận thức rất rõ về vị thế của biển và
mối lo ngại hải tặc tấn công, nên ngoài việc bố phòng cẩn mật tại bờ biển thì
công tác tuần tra và kiểm soát vùng biển đƣợc các vua Nguyễn ban hành
nhiều chính sách cụ thể. Tuần tra là hoạt động quan trọng trong việc bảo vệ,
thực thi chủ quyền vùng biển. Cái lợi của tuần tra mặt biển đƣợc vua Minh
Mạng chỉ rõ, đi tuần phòng ven biển một là để thao luyện cách lái thuyền cho
34 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 266. 35 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 274. 36 Lê Tiến Công:“Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua đầu triều Nguyễn”, Sđd,tr. 48.
26
quen thiện dòng nƣớc, hai là để tập đánh dƣới nƣớc, biết rõ đƣờng biển,
khiến cho bọn giặc biển nghe tin không dám gây sự. Một trong những cái lợi
trực tiếp của việc tuần tra chính là bảo vệ an toàn việc vận chuyển sản vật và
vật liệu ở các địa phƣơng về kinh đô bằng đƣờng biển. Thủy quân của triều
đình đƣợc sử dụng tuần tra theo mùa. Hàng năm từ tháng 2 đến tháng 7 và 8,
định thủy quân sử dụng 2 đội gồm nhiều thuyền lớn chở quân theo hai hƣớng
Nam và Bắc đi tuần trên các vùng biển lớn. Theo quy định của nhà Nguyễn,
hàng năm các đội thủy quân của mỗi tỉnh cùng với thủy quân của triều đình
đóng tại địa phƣơng phối hợp tuần tiễu trên biển từ tháng 4 đến tháng 10.
Thông thƣờng, các tàu thuyền đi tuần tiễu đƣợc trang bị các đại bác, súng
trƣờng, hỏa pháo, pháo thăng thiên, câu liêm, kính thiên lý… để sẵn sàng đối
phó với cƣớp biển hoặc thuyền gian trên biển. Trƣớc mùa tuần biển quân lính
đƣợc ứng trƣớc 1 đến 4 tháng lƣơng thực để sống trên biển dài ngày: “Bộ
biền Kinh phái thì được lĩnh 3. 4 tháng lương thực. Bộ biền tỉnh phái cũng được lĩnh 1, 2 tháng lương thực, đều tùy tiện chia tải để đủ quan dùng”37.
Vua Gia Long còn lệnh cho Bộ Công biên tập cuốn Hải trình tập nghiệm
sách trên cơ sở tra tập các sách. Nội dung bao gồm các mục là “Tóm tắt về
mưa gió”, “Những điều kiêng kỵ khi chạy tàu thuyền” và “Tập nghiệm những
việc đã qua”, đồng thời ra lệnh cho các nơi ven biển vẽ bản đồ cửa biển trong
vùng hải phận của mình, cùng phát cho thủy quân và những ngƣời có liên
quan học tập.
Tháng 3 – 1822, vua Minh Mạng ra cửa biển Thuận An, định kỷ luật tuần tra dƣới nƣớc, trên cạn cho các quân38. Tháng 2 – 1825, vua cho thuyền binh đi tuần xét cửa biển Biện Sơn (Thanh Hóa), là nơi quan yếu39. Đến
37 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tập 5, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2005, tr. 432. 38 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 202. 39 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 405
27
tháng 3 – 1826, vua ra lệnh tăng thêm 70 chiếc thuyền và 200 ngƣời thủy thủ
ở Hoài Đức và Quảng Yên theo quan quân chia phái đi tuần phòng mặt biển; đồng thời nhà vua đi tuần phòng ở cửa biển Thuận An40.
Tháng 3 – 1833, Hộ lý Tuần phủ Thanh Hóa là Nguyễn Đăng Giai tâu
nói: “Về công việc tuần phòng mặt biển, từ quan Tổng đốc Đoàn Văn Trường
trước nghĩ bàn tâu lên, đã được chuẩn cho thi hành; nay đã phái viên Lãnh
binh Thủy sư là Phạm Văn Bình đem biền binh thuộc tỉnh và hơn 500 người
phu thuyền ở các tấn sở Bạch Câu, Hãn Bạng cùng 12 chiếc thuyền, chạy đến
hải phận Biện Sơn, tìm bắt giặc biển”. Vua dụ rằng: “Việc đi tuần biển, nay
đã có phương sách để làm rồi. Ngươi nên thi thố thế nào để cho lũ giặc biển
yên lặng lâu dài, ta sẽ liệu khen thưởng hơn nữa. Nếu chỉ đóng quân một chỗ,
làm tốn lương thưởng, hay là còn để giặc biển thừa cơ nổi lên thì lời ngươi nói trước còn kia e khó tránh được lỗi nặng”41. Cuối tháng 3, vua hạ lệnh cho
rút những đội lính tuần biển của các hạt Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dƣơng về42.
Việc tuần tra kiểm soát vùng biển nói chung trên cả nƣớc đƣợc giao
cho quân đội chính quy, nhƣng ở các địa phƣơng giáp biển thì đƣợc giao
quyền chủ động. Năm 1834, vua Minh Mạng ban dụ: “Các Tổng đốc, Tuần
phủ, Bố chánh, Án sát ở các địa phương ven biển, điều nên xét các đảo ở hải
phận trong hạt hiện có dân cư thì điều sức cho dân ở tỉnh ấy đem thuyền
đánh cá nhanh chóng sửa chữa, cho được nhanh nhẹn. Nơi dân số nhiều thì
làm 2, 3 chiếc. Mỗi chiếc có thể ngồi được trên dưới 20 người. Về phí tổn sửa
chữa hết bao nhiêu thì nhà nước cấp tiền. Lại liệu cấp cho giáo dài, súng
trường, thuốc đạn, giao cho dân ấy nhận lĩnh, để dùng đi tuần thám”. Nhƣng
40 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 494 41 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 491 42 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 515. 43 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 5, Sđd, tr. 426.
28
“những thuyền binh được phái đi cũng nên hết lòng dậy bảo nghiêm ngặt, không được nhân việc mượn cớ quấy rối thuyền buôn”43.
Công việc tuần tra trên biển ngày càng đƣợc chú trọng tổ chức chặt
chẽ. Năm 1836, vua Minh Mạng phê chuẩn thí điểm về trang bị tuần biển của
các đồn, trấn thuộc bờ biển phủ Thừa Thiên. Theo đó, mỗi đồn biển đƣợc
trang bị 2 chiến thuyền và 3 chiếc thuyền nhẹ chia lƣợt thành hai ban chia
nhau đi tuần thám trên biển. Đến năm 1838, quy định về tuần biển của các
đồn trấn thủ ven biển đã đƣợc nhà vua chuẩn cho thi hành trên tất cả các địa
phƣơng ven biển. Cũng trong năm này, nhà vua còn ra lệnh cho Bộ Binh và
Bộ Công cùng bàn bạc thống nhất chế tạo ra loại thuyền tuần biển phù hợp
với điều kiện biển của Việt Nam.
Tuần tra trên biển đƣợc thực hiện theo chu kỳ nhất định, tùy thuộc vào
thời gian có nhiều thuyền buôn và thuyền công sai đi lại nhiều hay ít. Tháng
6 – 1839, do có thuyền vận tải công bị giặc biển đón chặn, nên vua chuẩn
định: “từ nay trở đi phàm thuyền công phái đi ngoại quốc hay ra biển tuần
tiễu, cùng là đi các địa phương tải đồ vật đều phải chiểu theo số cỗ súng xe
đặt trong thuyền mà mang theo đạn lan can, đạn tổng cương cho đủ dùng, ghi làm định lệ”44.
Việc tuần tra trên biển đã đƣợc vua Gia Long và vua Minh Mạng hết
sức chú ý, đến khi vua Thiệu Trị lên ngôi cũng vẫn quan tâm đến việc cử
thủy quân của nhà nƣớc và các tỉnh đi tuần tra trên biển để phòng chống hải
tặc và nguy cơ ngoại xâm. Sau khi vua Tự Đức kế vị, việc tuần tra trên biển
vẫn đƣợc thực hiện nhƣng trên thực tế nó không mang lại kết quả nhƣ mong
đợi. Trong cả nửa đầu thế kỷ XIX, đặc biệt là dƣới thời vua Minh Mạng, mặc
dù việc tuần tra trên biển đƣợc nhà nƣớc đặc biệt quan tâm nhƣng nó vẫn
không ngăn chặn đƣợc nạn hải tặc đang hoành hành khi đó.
1.2.2.2. Xây lực lượng thủy quân và các pháo đài ven biển
Từ những năm cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh đã ra sức xây dựng lực
29
lƣợng thủy quân hùng mạnh để chống lại thủy quân Tây Sơn. Sau khi lên 44 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 21, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1969, tr. 128
ngôi năm 1802, vua Gia Long vẫn tiếp tục quan tâm đến việc phát triển thủy
quân, phát triển số lƣợng tàu thuyền và xây dựng các pháo đài ven biển.
Trong thời kỳ vua Minh Mạng trị vì (1820-1840), thuỷ quân tiếp tục đƣợc coi
trọng. Đặc biệt, cả vua Gia Long và Minh Mạng đều chú trọng phát triển
thuyền đi biển và thuyền chiến. Đến năm 1821, tổng số tàu thuyền ở Việt
Nam là 3.190 chiếc. Riêng thuyền chiến cũng có nhiều loại đƣợc trang bị vũ
khí khác nhau. Vua Minh Mạng còn chú trọng cải tiến thuyền bọc đồng và đẩy mạnh phát triển việc đóng thuyền bọc đồng theo kỹ thuật phƣơng Tây45.
Đối với việc xây dựng các pháo đài phòng thủ ven biển, đặc biệt là
vùng biển gần kinh thành Huế, ngay từ khi mới lên ngôi, vua Minh Mạng đã
đặc biệt chú trọng đến việc tăng cƣờng các pháo đài phòng hải. Tháng 5 -
1820, ngay sau khi lên ngôi vua Minh Mạng đã lệnh cho Lê Chất trông coi
công việc sửa đắp đài Trấn Hải. Đài Trấn Hải nằm ở phía bắc cửa biển Thuận
An, xây năm Gia Long thứ 12 (1813). Vua Gia Long đã cho đắp đài này để
giữ cửa biển Thuận An nhƣng lâu ngày sóng vỗ vào bờ làm sụt lở, vì vậy vua Minh Mạng đã cho lấy thêm nhiều cọc gỗ đóng vào rồi lấp lại bằng gạch đá46.
Tháng 9 - 1820, vua nhận thấy đất Nghệ An là “nơi núi và biển giăng liền,
thường có nhiều cướp, sai trấn thần xem đất đặt bảo để phòng bị cho nghiêm”47. Tháng 2 - 1823, nhà vua tiếp tục cho di dời đài Điện Hải ở Quảng
Nam về nơi kiên cố hơn. Đầu thời vua Gia Long đã cho xây đắp đài này
nhƣng không kiên cố, lại thêm gần sát bờ biển, nƣớc biển xói mòn, ngày càng
sụt lở, nên vua Minh Mạng quyết định cho dời đài này về phía nam hơn 50
trƣợng, chỗ đất cao để củng cố thêm hệ thống phòng thủ bờ biển. Đồng thời
45 Nguyễn Thị Phƣơng Chi, Trần Thị Hữu Hạnh:“Chính sách bảo vệ vùng biển Đông Bắc Việt Nam của vua Gia Long và Minh Mạng”,Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9,2011, tr.43. 46 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 62. 47 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 89. 48 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 264.
30
cho đặt một pháo đài nhỏ phía Đông trạm Nam Chân, gọi là pháo đài Định Hải. Sau khi xây xong, vua lệnh cho quân lính đến đóng giữ ở hai đài này48.
Năm 1825, nhà vua ra Chỉ dụ nêu rõ: “Những chỗ xung yếu ở gần cửa
bể như cửa bể Thuận An, cửa bể Tư Dung không đâu là không lập pháo đài”49. Tháng 3 - 1825, vua ra cửa biển Thuận An xem Trấn Hải đài, lại đến
cửa biển Tƣ Dung, thấy đây là nơi quan yếu của kinh thành mà lại bị phù sa
bồi lấp nên lệnh cho quân lính khơi đào: “Vua nhân nghĩ rằng cửa cảng lệch
về bên tả thì không thể chịu dòng chảy mạnh, tất phải đổi cho chảy theo rìa
núi quanh xuống khiến cho thế nước chảy nhanh thì cát mới không ứ đọng
nên sai Đô thống chế Tôn Thất Dịch trông coi 3.000 kinh binh mà đào đường cảng khác” 50. Đồng thời nhà vua cho đắp đài phong hỏa ở núi Hãn Môn (tức
núi Quy Sơn ở bên tả cửa biển Tƣ Dung) và dựng đền thần cửa biển Tƣ Dung51.
Tháng 6 - 1826, Phủ thần thừa thiên là Đoàn Văn Trƣờng tâu: “Các
cửa biển Chu Mãi và Cảnh Dương thuộc hạt phủ trước thuộc thủ ngự Hải
Vân quan kiêm quản; vả lại một dải ven biển thì Vân Quan, Chu Mãi và
Cảnh Dương đều là nơi thuyền ghe thường đậu, khi có thuyền vận tải đường
thủy qua lại ngoài biển thì thường do những chỗ ấy nhìn thăm, thế mà phần
đất cách nhau đều vài mươi dặm, chợt có việc khẩn cấp phải báo thì bao lần
núi non cách trở, chưa dễ thông ngay được, vậy xin ở Chu Mãi đặt riêng Thủ
ngự và Hiệp thủ kiêm lĩnh cả cửa biển Cảnh Dương, để việc tuần phòng cửa biển không thiếu sót”. Vua y lời tâu cho đặt thủ sở ở Chu Mãi52. Tháng 7 –
1826, vua ra lệnh các quan phải cho dự trữ tiền, gạo và muối ở đài Trấn Hải
và cửa Hải Vân ở Thừa Thiên, đài Điện Hải và pháo đài Định Hải ở Quảng Nam, đều là những nơi hiểm yếu để phòng khi dùng đến53.
Tháng 12 - 1827, vua Minh Mạng lại ra lệnh chế kiềm gỗ cấp cho các
49 Lê Tiến Công:“Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua đầu triều Nguyễn”,Sđd, tr.46. 50 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 409. 51 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 410. 52 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 514. 53 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 524.
31
nơi trấn thủ cửa biển ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Hòa, cửa
Phan Thiết ở Bình Thuận, các cửa biển ở Biên Hòa, Định Tƣờng, Hà Tiên, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hoa, Nam Định54. Đến tháng 12 - 1828, vua
đổi Lai cảng ở trấn Vĩnh Thanh là cửa biển Định An, đặt thủ An Thái.
“Nguyên là có một nhánh sông Hậu Giang ở Vĩnh Thanh thông ra biển, cửa
biển có nhiều đảo, phía tả gọi là Lai Cảng, phía hữu gọi cửa biển Mỹ Thanh.
Từ trước đến giờ, ở Mỹ Thanh đã lập thủ sở Thanh Hải để giữ. Còn Lai cảng
chỉ tạm phái người đóng giữa. Đến nay thành thần Gia Định cho rằng Lai
cảng là nơi xung yếu mà cách Mỹ Thanh cũng xa, tâu xin đổi danh hiệu để
đặt thêm thủ sở, lập thủ binh gọi là đội Bình Hải, sai quản thủ mộ người xung vào”55. Tháng 3 - 1829, vua cho đắp hai pháo đài ở Biện Sơn, Thanh
Hóa, dựng cột cờ và làm nhà quân. Ở pháo đài lớn (Biện Sơn), dựng thêm
kho thuốc súng, chở ở Kinh thành ra 4 cỗ đại bác, 8 cỗ đồng bác quá sơn (mỗi cỗ 200 viên đạn) chia để ở đấy56.
Năm 1830, đài An Hải ở Quảng Nam, đối ngạn với đài Điện Hải,
đƣợc xây đắp từ tháng 3 đến tháng 4 thì xây xong. Vua lệnh cho quân lính
canh phòng nghiêm ngặt, đặt súng, đạn thuốc, lại lấy 2 thuyền ô và 2 thuyền
sam bản ở Kinh thành, cho làm thuyền định ngạch của đài Điện Hải. Sắc
xuống rằng: “Từ nay về sau, những viên đương lượt án thủ phải cứ những nơi
cần phải phòng hộ ở một dải cửa lạch bờ biển ở vụng Trà Sơn gần đài cùng
những thuyền quan hải vận đi về đậu ở cửa biển Đà Nẵng, mà phân phái lính
đi tuần phòng. Cùng là thuyền lớn bọc đồng, năm thường đỗ ở cửa biển thì
phải cùng với biền binh trong thuyền mà trông coi giữ gìn. Nếu làm sai sót thì theo nặng nhẹ mà xử trị. Ghi làm lệ mãi mãi”57.
Tháng 5 - 1832, bắt đầu đặt Thuận An tấn thủ. Tấn thủ là cơ quan quân
54 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 698. 55 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 803. 56 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 841. 57 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 52.
32
sự và thƣơng chính đóng giữ ở bến sông hoặc cửa biển, dƣới triều Nguyễn,
có chức thủ ngự và tấn thủ làm việc canh phòng và coi quản. Xét về địa thế
thì cửa biển Thuận An là nơi xung yếu nhất về đƣờng biển ở Kinh thành, vua
Minh Mạng đã lệnh cho Bộ Binh bàn bạc về việc giúp đỡ bảo vệ các thuyền
công ra vào cửa biển. Sau đó, vua hạ lệnh cho thêm thuyền binh, làm 3 bộ neo sắt hạng lớn có đủ dây chão giao cho tấn thủ giữ lấy để dùng58.
Tháng 3 - 1833, vua tiếp tục cho xây dựng đài đốt lửa báo tin ở 2 cửa
biển Chu Mãi và Tƣ Dung. Lệnh cho quan phủ Thừa Thiên thuê dân làm việc xây dựng59. Tháng 12 - 1835, xây pháo đài Ninh Hải ở tỉnh Khánh Hòa.
Khánh Hòa là nơi có vùng biển rộng, ven biển lại có nhiều cù lao với bãi biển
Nha Trang có mực nƣớc biển sâu, nhiều tàu thuyền neo đậu nên quan tỉnh tâu
xin đặt pháo đài để phòng vệ đƣợc chắc chắn. Vua theo lời tâu, cho xây dựng
pháo đài Ninh Hải và đặt súng đại bác, phái quân canh giữ cả 3 mặt đông nam bắc60.
Tháng Giêng năm 1840, vua ra lệnh xây đắp lại thành Trấn Hải (Thừa Thiên) cho hoàn chỉnh61. Tháng 7 – 1840, vua cấp 10 chiến thuyền cho đồn
đóng giữ cửa biển Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam (thuyền Hải đạo lớn 5 chiếc,
thuyền Hải đạo 5 chiếc, đồ vật phụ tùng thuyền, và cái sàn thủy chiến đều
đủ). Vua cho lãnh binh chuyên quản hai thành An Hải, Điện Hải, là Lƣơng
Văn Liễu nhận giữ để phòng khi sai phái. Sau đó, vua lệnh xuống Cơ mật
viện rẳng: “Nay nghe nước Anh-cát-lợi cùng nước Thanh gây hiềm khích, xảy
ra chiến tranh, mà nước ta tiếp liền với cõi nước Thanh, tự trước đến giờ tàu
ngoại quốc cũng thường đến đậu ở úc Trà Sơn tỉnh Quảng Nam, cần nên
trước khi có việc gia tâm tuần xét để việc phòng bị bờ biển được vững chắc.
Vậy nên truyền dụ cho tỉnh thần Quảng Nam sức ngay cho Lương Văn Liễu
58 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 312. 59 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 505. 60 Quốc sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 282. 61 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 22, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1969, tr. 20.
33
cùng viên coi đồn Đà Nẵng liệu phái người biết việc ngày thường đem kính
thiên lý ngồi vào chiếc thuyền nhanh nhẹ ra ngoài biển khơi trông dòm. Nếu
thấy chiến thuyền đến 3, 4 chiếc trở lên, lập tức báo cho tỉnh biết, tỉnh thần
thượng khẩn làm tờ sớ đệ tâu. Và phải phái 1 viên quản vệ cơ đem lính tỉnh
500 hay 600 tên đến ngay hội đồng với biền binh trú phòng 2 thành An Hải, Điện Hải, hợp sức lại để phòng hộ, không được để chậm một khắc nào”62.
Sau đó, vua cho xây pháo đài Phòng hải ở tỉnh Quảng Nam. Vua Minh Mạng
nhận thấy vũng Trà Sơn ở đầu cửa biển Đà Nẵng là nơi trọng yếu của bờ
biển, công việc phòng bị phải thật chu đáo cẩn mật, nên lệnh cho Hữu tham
tri Bộ Công là Nguyễn Công Trứ và Phó vệ úy Loan giá Tôn Thất Tƣờng đi
đến nơi xem xét tỉ mỉ những chỗ thuyền lớn bọc đồng có thể neo đậu, nếu có
chiến tranh thì nên tăng thêm bao nhiêu lính và đặt thêm bao nhiêu binh khí
cho đủ dùng? Khi đi khảo sát về, Nguyễn Công Trứ tâu xin xây pháo đài cho
dễ bề phòng ngự. Vua theo lời cho xây pháo đài gọi là “Phòng hải pháo đài”
và lệnh cho Tôn Thất Tƣờng dẫn đầu hai suất đội doanh Thần cơ đem 114 cỗ
súng Hồng y, Quá sơn các hạng đến để ở đấy, thí nghiệm từng khẩu thật cẩn
thận… Lại lệnh cho Tả tham tri Bộ Lễ gia hàm Tham tri sung biện việc Nội
các là Nguyễn Tri Phƣơng quyền thự tuần phủ Nam – Ngãi để lo việc phòng bị cho chu đáo63.
Ngay sau đó, vua cho xây dựng pháo đài Hổ Cơ và bảo Thi Nại ở tỉnh
Bình Định. Cửa biển Thi Nại là nơi nƣớc sâu núi cao, tàu thuyền thƣờng đi
lại và neo đậu, vua Minh Mạng cho rằng đây cũng là chỗ địa đầu xung yếu,
vì vậy lệnh cho các quan lập một pháo đài ở xứ Hổ Cơ và đặt một bảo đắp
lũy đất ở gò cát đối ngạn với pháo đài gọi là bảo Thi Nại để chống đỡ với nhau64. Tháng 8 – 1840, vua lại lệnh xuống Bộ Binh: “Một dải Trường Sơn,
62 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 22, Sđd, tr. 182. 63 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 22, Sđd, tr. 188. 64 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 22, Sđd, tr. 197.
34
nguyên thuộc địa phận hạt Quảng Yên, tỉnh thần phải nên thời thường thăm
dò tin tức tâu lên”65. Nơi này vốn xa xôi hẻo lánh, ít đƣợc quan tâm, khi đó
chỉ có khoảng hơn 200 ngƣời Thanh sinh sống ở đấy. Bộ Binh sau khi cử
ngƣời đi thăm dò đã dâng sớ xin vua cho thêm dân đến sinh sống và khai
khẩn, nhƣ thế vừa đóng giữ vững, vừa cày cấy, binh dân đều tiện… Vua nhận thấy hợp lý nên cho làm nhƣ lời tâu66.
Có thể thấy, càng về những năm cuối đời, vua Minh Mạng càng đặc
biệt quan tâm đến việc xây dựng các pháo đài phòng thủ ven biển. Sự quan
tâm này của nhà vua là hoàn toàn đúng đắn, do tình hình khu vực trong
những thập niên 1830, 1840 đã có nhiều biến chuyển khác trƣớc. Trƣớc sự
đóng cửa của các nƣớc phƣơng Đông, chủ nghĩa tƣ bản phƣơng Tây đã đẩy
mạnh công cuộc thâm nhập phƣơng Đông bằng biện pháp quân sự, tiêu biểu
là cuộc Chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất của nƣớc Anh với Trung Quốc
năm 1840 – 1843. Chính vì vậy, vua Minh Mạng ngày càng chú ý đến việc
tăng cƣờng xây dựng các pháo đài phòng thủ, phát triển quân đội, tàu chiến,
vũ khí… nhằm củng cố tiềm lực quân sự của đất nƣớc, đề phòng sự xâm lƣợc
từ bên ngoài.
Cùng với việc xây dựng rất nhiều pháo đài phòng thủ ven biển, vua
Minh Mạng cũng cho đúc thêm nhiều vũ khí, đóng hoặc mua thêm tàu thuyền
cho quân đội. Năm 1821, vua sai đúc 3 khẩu súng đại bác Uy phúc (Uy để chống giặc, phúc ứng điềm lành)67. Tháng 3, vua thăm trƣờng bắn, xem các
quân diễn bắn, sai ngƣời hàng ngày đến xem, ai bắn trúng thì thƣởng (ba ngày 1 lần)68. Tháng 5 – 1821, vua ngự xem diễn tập thủy quân ở sông
65 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 22, Sđd, tr. 220. 66 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 22, Sđd, tr. 220. 67 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 111. 68 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 125. 69 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 136.
35
Hƣơng. Lại sai đắp ụ bắn súng ở xã Thanh Phƣớc, sai tƣớng sĩ thủy bộ hàng ngày diễn tập và nhiều lần đến xem69. Đến tháng 6, lại cho đặt trƣờng đúc
súng. Tháng 11 – 1832, vua ra lệnh định rõ số ngạch các thuyền cho 6 tỉnh
Nam Kỳ.
Tháng 4 – 1839, vua Minh Mạng cho tiến hành thí nghiệm đóng tàu
chạy máy hơi nƣớc. Vua khen ngợi các quan và thợ đã có công làm cho tàu
chạy nhanh và máy tốt. Tháng 5 - 1839, vua đề nghị làm thêm cho kinh và
các tỉnh 50 chiếc thuyền vận tải đƣờng biển (ở kinh và Nghệ An mỗi nơi đều
6 chiếc, các tỉnh khác tùy theo quy định. Lệ trƣớc mỗi chiếc trên dƣới chở
đƣợc 17 vạn cân, nay sai đóng rộng thêm có thể chở đƣợc 20 vạn cân). Vua
nói với các quan rằng: “Vận tải đường biển là một việc rất gian lao, nhưng
nước ta phía sau tựa vào núi, phía trước trông ra biển, việc đi biển không thể
không tranh thủ lấy cái nghề sở trường của mình. Nếu đi bộ 5 ngày thì đường
thủy chỉ một lèo buồm là tới. Trẫm sở dĩ để ý đến việc thuyền là muốn cho
quan tỉnh của ta tập quen đường thủy để phòng về lâu dài, không phải chỉ chuyên về việc vận lương hàng năm mà thôi”70. Tháng 10, vua lệnh cho chế
thêm một chiếc tàu máy lớn, phí tổn hơn 11.000 quan tiền. Vua truyền cho
Bộ Hộ: “Ta muốn công tượng nước ta đều biết tập nghề máy móc, vậy nên không kể phí tổn”71.
Ngoài việc cho đóng thêm tàu thuyền ở trong nƣớc, vua Minh Mạng
còn cử ngƣời đi mua tàu thuyền cùng vũ khí từ nƣớc ngoài, kết hợp với việc
thăm dò động tĩnh của các nƣớc phƣơng Tây qua các thuộc địa của họ ở
phƣơng Đông. Tháng 2 - 1823, vua sai Cai cơ Ngô Văn Trung và Tuần hải đô
dinh Hoàng Trung Đồng chia ngồi thuyền hai hiệu Bình Ba, Định Lãng đi Hạ
Châu. Mục đích của chuyến đi đƣợc vua Minh Mạng nói rõ: “Chuyến đi này
không phải để mua hàng hóa, chính là muốn biết núi sông phong tục nhân
70 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 21, Sđd, tr. 112. 71 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 21, Sđd, tr. 225. 72 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 261.
36
vật của nước ngoài. Bọn ngươi đến nơi phải xem kỹ la bàn, ghi chép rõ ràng cho biết phương hướng”72. Trong 20 năm trị vì của mình, vua Minh Mạng đã
nhiều lần cử ngƣời đi công cán nƣớc ngoài. Việc phân bố các chuyến đi giữa
các năm không đều nhau, có năm có, có năm không và tập trung nhiều ở
những năm cuối đời. Tháng 8 - 1830, vua lệnh cho quyền lĩnh Vệ úy Tả thủy là Đoàn Dũ, Tu soạn Nội các là Đào Trí Phú đi Giang Lƣu Ba (Gia các ta)73.
Tháng 11- 1831, vua lại cho thủy quân Vệ úy Trần Văn Lễ, Phó vệ úy Phan
Văn Mẫn và Đoàn Khác chia nhau đi các hiệu thuyền Uy Phƣợng, Thanh
Dƣơng và Bình Dƣơng, đến Giang Lƣu Ba, Hòn Cau và Hạ Châu (Singapo)74. Tháng 10 - 1839, phân phái thuyền đi công cán ở nƣớc ngoài
Giang Lƣu Ba, Tam-ba-lăng (Indonexia), Tiểu Tây Dƣơng (Ấn Độ), Hạ Châu và mua hàng hóa mang về75. Trấn Tú Đỉnh, Đào Trí Phú qua Giang Lƣu Ba;
Trần Bƣu, Cao Hữu Tán qua Tam Ba Răng; Nguyễn Đức Long, Lê Bá Tú
qua Tiểu Tây Dƣơng; Nguyễn Đãi Bản, Nguyễn Du, Lê Văn Thu, Đỗ Mậu
Thƣờng qua Hạ Châu. Đồng thời vua lệnh cho Trần Viết Xƣơng, Tôn Thất
Thƣờng đem hai ngƣời thông ngôn đến Giang Lƣu Ba rồi đi tàu Tây qua Đại Tây mua đồ76. Năm 1835, vua Minh Mạng cho mua súng đá lửa của Pháp;
năm 1836 lại mua thuốc súng của Anh… Tàu thuyền đi công cán mua hàng
hóa cho Nhà nƣớc theo đơn kê mua hàng hóa chia ra 100 thành, đƣợc quy
định rõ ràng. Nếu mua đƣợc nhiều thành hàng hóa hạng ƣu thì chánh phó
biện sẽ đƣợc thƣởng nhiều hơn mua đƣợc ít hàng hóa hạng ƣu.
Kế thừa sự nghiệp của vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị cũng đặc biệt
quan tâm đến việc phát triển thủy quân và tăng cƣờng số lƣợng tàu thuyền đi
biển. Vua Thiệu Trị đã nhiều lần đích thân đi xem các cửa biển, xem diễn tập
thủy trận, đặc biệt là cửa biển Thuận An và Đà Nẵng. Ông đã có những đánh
giá rất cao về vị thế chiến lƣợc của các cửa biển này. Trong một lần đến cửa
biển Thuận An (tháng 5 - 1847) xem tập thuỷ trận, nhà vua đã làm tám bài
37
thơ vịnh cảnh Thuận An cho các quan hộ tống cùng thƣởng thức. 73 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 95. 74 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 249. 75 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 21, Sđd, tr. 230. 76 Quốc sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 304.
Tháng 7 – 1844, phái viên thuyền Phấn Bằng là Tham tri Đào Trí Phú
từ nƣớc phƣơng Tây trở về, dâng một chiếc thuyền có máy đốt lửa, trị giá
hơn 280.000 quan tiền. Đào Trí Phú từng đƣợc vua Minh Mạng phái sang
phƣơng Tây, mua 1 chiếc thuyền nhỏ có máy đốt lửa đem về, có những hiệu
thuyền Yên Phi, Vụ Phi và Hƣơng Phi. Đến khi đó, lại tiến thuyền lớn có
máy đốt lửa, hiệu là Điện Phi (thân thuyền to dài, chính là chạy bằng máy hơi
nƣớc của phƣơng Tây, vì thuyền chạy nhanh hơn ngựa phi nên vua đặt tên
cho là Điện Phi). Vua Thiệu Trị ra lệnh mang thuyền ra cửa biển Thuận An
chạy thử, điểm duyệt thủy trận, thấy thuyền máy móc linh động, đi lại nhƣ bay, bèn thƣởng tiền cho những quan lại làm việc77. Sau đó, vua lệnh cho Bộ
Binh phái 3 chiếc thuyền (Điện Phi, Yên Phi, Vân Phi) có máy chạy bằng hơi
nƣớc, và 5 chiếc thuyền nhiều dây (Bình Dƣơng, Định Dƣơng, Định Hải,
Tĩnh Hải, Thanh Hải) đến ngoài cửa biển Thuận An thao diễn, tập bắn súng
lớn, tùy theo sự bắn trúng nhiều hay ít mà định thƣởng, phạt. Vua bảo các
quan Bộ Công rằng: “Thuyền có máy đốt lửa, do ngoại quốc chế. Người
ngoại quốc chuyên dùng để tải hàng hóa buôn bán, thu lấy nhiều lợi; nước ta dùng để làm cho việc vũ bị được nghiêm”78. Tuy nhiên muốn chế tạo thuyền
đó thì cũng rất là khó, Hoàng Văn Lịch, Đinh Văn Quý đã nhiều lần thí
nghiệm mà chƣa thu đƣợc kết quả. Tháng 8 – 1844, vua cho đóng các thuyền
hiệu: Điềm Dƣơng (bọc đồng, do tỉnh Nghệ An chế tạo), Thanh Hải (do tỉnh
Quảng Bình chế tạo), Định Hải (do kinh thành chế tạo).
Tháng 3 – 1845, vua đặt thêm chức thành thủ úy ở pháo đài Phòng hải
tỉnh Quảng Nam. Trƣớc kia, pháo đài Phòng hải do tỉnh Quảng Nam lần lƣợt
phái một đội biền binh đóng giữ; sau đó, vua Thiệu Trị cho rằng bờ biển là
77 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 25, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1971, tr. 110. 78 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 25, Sđd, tr. 111. 79 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 25, Sđd, tr. 271.
38
nơi quan trọng, đặc cách đặt thêm chức thành thủ úy, lấy cai đội đội Thất, vệ Nhất, doanh Vũ lâm là Tôn Thất Tƣờng cho giữ chức ấy79. Tháng 5, vua đi
chơi miền hải cƣơng và đi xem xét cửa biển Tƣ Hiền (cách huyện Phú Lộc 41
dặm về phía đông nam. Trƣớc kia, triều Lý gọi là cửa biển Ô Long, triều
Trần đổi là cửa Tƣ Dung, triều Lê vẫn để là Tƣ Dung, quan quân thƣờng đóng giữ ở đây)80. Tháng 7 – 1845, vua lệnh cho hữu tƣ làm biển đề tên cho
thuyền đồng và thuyền hỏa cơ, phân biệt từng hạng rõ ràng: Bảo Long, Thái
Loan, Kim Ƣng, Linh Phƣợng, Phấn Bằng, là hạng đại; Vị Phi, Vân Điêu,
Thần Giao, Tiên Ly, Thọ Hạc là hạng nhất; Tĩnh Dƣơng, Bình Dƣơng, Định
Dƣơng, Điềm Dƣơng là hạng nhì; Thanh Hải, Tĩnh Hải, Bình Hải, Định Hải,
An Hải là hạng ba; Hỏa Cơ, Điện Phi là thuyền to; Yên Phi là thuyền vừa, Vân Phi là thuyền nhỏ81.
Tháng 6 – 1847, vua tiếp tục cho đúc 9 cỗ súng bằng đồng, đặt hiệu là
“Thần uy phục viễn đại tướng quân” và ba cỗ súng hiệu “Bảo đại định công
an dân hòa chúng thượng tướng quân”, đến tháng 7 thì 12 cỗ súng đƣợc đúc xong82. Tháng 9 – 1847, vua định lệ tu bổ tàu thuyền. Phàm những thuyền
bọc đồng, kể bắt đầu từ năm mới đóng, năm năm một lần tu bổ, thuyền không
bọc đồng thì 3 năm một lần tu bổ. Đã trải qua 2, 3 lần tu bổ rồi mà tài liệu có
hƣ hỏng, cho tháo ra từng tấm ván để đóng lại; nếu không hƣ hỏng thì chi hóa
vật công ra để tu bổ, không buộc vào niên hạn, cứ hàng năm lau dầu và sửa sang lại một lần83. Trong khoảng thời gian cai trị ngắn ngủi của mình, vua
Thiệu Trị đã rất quan tâm đến việc tăng cƣờng tiềm lực quân sự của đất nƣớc
bằng việc củng cố thêm các pháo đài vua Minh Mạng đã xây, đồng thời tích
cực cho ngƣời mua sắm thuyền từ phƣơng Tây, lại đóng thêm các hiệu
thuyền trong nƣớc và đúc thêm nhiều loại vũ khí. Vua Tự Đức lên ngôi sau
đó (1848) cũng đã chăm lo đến việc tăng cƣờng phòng thủ bờ biển và các
80 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 25, Sđd, tr. 288. 81 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 25, Sđd, tr. 320. 82 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 26, Sđd, tr. 338. 83 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 26, Sđd, tr. 388.
39
pháo đài quân sự. Tuy nhiên, các pháo đài quân sự này của nhà Nguyễn vẫn
không thể chống lại đƣợc các phƣơng tiện chiến tranh hiện đại từ phƣơng
Tây.
1.2.3. Chính sách tiễu trừ hải phỉ
Cùng với một loạt các hoạt động tuần tra bảo vệ vùng biển thì việc
ngăn chặn nạn hải tặc cũng là một vần để lớn đƣợc các vua Nguyễn đặc biệt
quan tâm. Thời đó, hải tặc ở vùng biển Trung Quốc rất phát triển, thƣờng hay
xuống cƣớp bóc ở vùng biển của Việt Nam. Chúng là mối lo ngại thƣờng
xuyên trên biển đối với thuyền buôn và cũng là thách thức đối với chính
quyền. Ở hải phận miền Nam nhƣ các vùng biển Phú Quốc, Hà Tiên…
thƣờng có giặc biển Chà Và, Bồ Đà… nổi lên cƣớp bóc. Thuyền cƣớp biển
thƣờng dị dạng, trà trộn lẫn với các thuyền buôn và thuyền đánh cá, để phân
biệt thuyền cƣớp biển với thuyền buôn và thuyền của nhà nƣớc (thuyền tuần
tiễu, thuyền công sai). Năm 1828, triều đình quy định nếu thấy thuyền giặc
thì thuyền tuần biển phải treo cờ, bắn súng để báo hiệu. Nếu không có cờ, tức
thuyền của giặc, phải nhanh chóng đuổi, đánh, không đƣợc lầm lỡ. Để việc
theo dõi trên biển đƣợc chính xác, năm 1829 vua Minh Mạng ban chỉ dụ phân
cấp kính thiên lý cho các tỉnh có vùng biển, đồn biển và thuyền tuần tiểu bởi “Vùng biển mênh mông, chỉ có kính thiên lý mới có thể trông xa được”84.
Đối với những nơi bị giặc cƣớp biển vào cƣớp bóc, đốt phá, nhà vua
cũng quy định hỗ trợ tiền cho nhân dân, đối với những quan trấn thủ đã đƣợc
giao nhiệm vụ bảo vệ vùng biển mà không chặn bắt đƣợc giặc thì bị phạt
nặng, nếu đánh bắt đƣợc giặc thì đều đƣợc thƣởng. Tuy nhiên, đối với việc
tìm bắt hải tặc, mặc dù triều đình đã có những chính sách tích cực nhƣng vẫn
không đƣa lại kết quả khả quan. Tháng 7 – 1823, Thanh Hóa có giặc biển đến
xã Cự Nham (huyện Quảng Xƣơng), giết hại dân, đốt phá hơn 300 nhà, cƣớp
84 Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 5, Sđd, tr. 425.
40
hết của cải rồi lại rút ra biển. Vua nghe tin sai truy bắt giặc biển và cấp tiền
cho những nhà dân bị hại85. Tháng 9 – 1826, Thanh Hóa lại có giặc biển đón
cƣớp thuyền buôn ở đảo ngoài cửa Y Bích. Chủ thuyền là Nguyễn Ba đã đốc
suất những thợ lái, thủy thủ hết sức đánh nhau với giặc, bắt đƣợc 2 chiếc
thuyền của giặc và súng ống khí giới đƣa nộp lại cho quan phủ. Vua thƣởng cho 100 quan tiền86.
Tháng 2 – 1827, cƣớp biển ở Quảng Yên là Ba Công Dụng tập hợp
hơn 50 chiếc thuyền đến cƣớp châu Tiên Yên. Trấn thủ Nguyễn Đăng Khánh
và Tham hiệp Lê Đạo Quảng thân đem binh thuyền đi đánh bắt nhƣng thất bại87. Tháng 5 – 1827, ngoài biển Thừa Thiên cũng có một chiếc thuyền giặc
đón cƣớp thuyền buôn rồi kéo buồm đi thẳng. Sau khi nghe tin, vua Minh
Mạng lệnh cho Phó vệ úy Đoàn Dƣỡng đem binh thuyền đuổi bắt và cấp cho
các trấn thủ Thuận An, Tƣ Dung, Chu Mãi, Vân Quan mỗi nơi một chiếc thuyền sai tuần dƣơng88. Đến tháng 12 – 1827, hải tặc Lý Công Đồng tụ họp
một số thuyền đánh cá lén nổi lên ở ngoài biển xã Chân Châu, Quảng Yên.
Tên Đồng là ngƣời Quảng Đông ở Trung Quốc, là ngƣời dƣới trƣớng của
tƣớng giặc Hoàng Kỳ Trung. Năm trƣớc hắn đến ở châu Tiên Yên, can án
trốn đi, rồi họp đồ đảng ở Trạm Dƣơng, thƣờng chặn đƣờng biển để cƣớp
bóc. Trấn thủ Lê Huy Tích đƣợc tin báo, đem binh thuyền đến bắt. Bọn hải
tặc chạy về phía đông, vài ngày sau chúng lại đến bãi dài châu Tiên Yên. Lê
Huy Tích cùng với Phó vệ úy vệ Long võ trung là Nguyễn Văn Đàm hợp sức
cùng đánh giặc nhƣng chỉ giết đƣợc vài tên, bắt đƣợc hai chiếc thuyền, số còn lại đều trốn thoát89.
Tháng 4 – 1828, hải tặc Lý Công Đồng lại tập hợp đến cƣớp ngoài hải
85 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 297. 86 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 541. 87 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 587. 88 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 634. 89 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 699.
41
phận Nghệ An. Vua dụ sai Trấn thủ Thanh Hóa là Ngô Văn Vĩnh, Phan Bá
Hùng, điều binh thuyền đi tuần biển Nghệ An, Ninh Bình. Lý Công Đồng ẩn
trốn ở núi Chàng thuộc Quảng Yên. Ngƣời nƣớc Thanh (Trung Quốc) là Trần
Quý bắt đƣợc đem nộp lên quan phủ. Vua sai thƣởng cho Trần Quý còn tên Đồng bị chém đầu90. Tháng 6 – 1828, vua Minh Mạng lại lệnh cho thống chế
Thủy quân là Nguyễn Văn Hạnh và Nguyễn Tài Năng, Thống chế dinh Tiền
Phong là Phạm Văn Lý, đem thuyền binh đi tuần bắt giặc biển ở Thanh Hóa.
Thanh Hóa thƣờng có hải tặc hoành hành cƣớp bóc ở ngoài vùng biển Biện
Sơn, binh lính ở đây đánh nhau với giặc thƣờng bị thua nên vua sai Nguyễn
Văn Hạnh đi đuổi bắt nhƣng vì mùa thu sóng to nên không đuổi đƣợc nên vua lại cho rút quân về91.
Tháng 4 - 1830, Quảng Bình và Thanh Nghệ có hải tặc ngƣời Thanh
đến cƣớp thuyền buôn. Các trấn thần đem việc báo lên. Vua liền sai Phó vệ
úy Long võ tả là Nguyễn Đức Trƣờng, Vệ úy vệ Hữu thủy thủy quân là
Nguyễn Văn Cần, Phó vệ úy là Đoàn Kim đem binh thuyền chia nhau đi tìm
bắt. Lại truyền dụ cho từ Quảng Nam trở về Nam đến Phú Yên, từ Quảng Trị
trở về Bắc đến Bắc Thành, các địa phƣơng ven biển đều đem binh thuyền
theo địa hạt mà tuần phòng dò xét. Nhƣng hơn một tháng sau cũng không bắt
đƣợc gì, vua đành hạ lệnh rút quân về hết. Các trấn thần cùng các quan võ
đƣợc phái đi tuần bắt giặc biển không làm tròn nhiệm vụ nên đều bị giáng
phạt. Vua ra chỉ dụ cho Bộ Binh rằng: “Gần đây giặc biển quấy rối phần
nhiều là tự cuối xuân đền đầu thu, quãng ấy chúng dựa vào các đảo ngoài
biển làm sào huyệt. Nên truyền chỉ cho các địa phương ven biển từ Quảng
Bình trở về Bắc, từ nay về sau, hằng năm cứ bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 7
thì phải 2 lần lượng phái binh thuyền đến các hòn đảo mà thuyền giặc có thể
đỗ được để tìm xét. Nếu thấy thuyền người Thanh dị dạng ẩn nấp, tình trạng
khả nghi, thì bắt giải cho quan địa phương tra xét. Lại thông dụ cho các
42
thành trấn chuyển sức cho lái buôn người Thanh, bảo lẫn nhau phàm đến 90 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 733. 91 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 2, Sđd, tr. 748.
buôn bán ở các hạt phải cho hàng hóa mới cho vào cửa biển, không cho nói
thác là thuyền không chiêu khách để ngăn sự gian trá. Làm trái thì phải tội”92.
Tháng 6 – 1830, giặc biển Chà Và nổi trộm ở ngoài biển Phù My trấn
Bình Thuận cƣớp bóc thuyền buôn rồi đi, các hạt Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Hà
Tiên đều có thuyền giặc đi lại cƣớp bóc của cải và thuyền của nhân dân. Vua
Minh Mạng truyền chỉ cho Tổng trấn Lê Văn Duyệt phái binh đón bắt nhƣng không bắt đƣợc 93. Đến tháng 8 – 1830, giặc lại đến Hòn Rái thuộc Hà Tiên,
đem đồ đảng lên bờ đóng trại đặt súng, Phó quản cơ cơ Vĩnh Bảo hậu là
Nguyễn Văn Nghi và Chánh đội trƣởng cơ Hà Tiên là Mạc Hầu Hy đến đánh
nhƣng không bắt đƣợc. Bọn giặc vẫn tiếp tục cƣớp thuyền buôn ở phần biển Sôi Rạp94.
Tháng Giêng năm 1831, cửa biển ở Nghệ An phát hiện có hải tặc đi lại
ở ngoài biển, trấn thần phái ngay binh đi bắt xét. Vua lại truyền dụ cho Bộ
Binh: “Địa thế nước ta ven biển, vốn lấy thủy quân làm món sở trường. Nhà
Lê xưa không phòng thủy chiến, đến nỗi bại vong. Tây Sơn sau khi được
nước cũng coi khinh thường không chịu thao luyện cho tinh. Thủy quân của
Hoàng khảo ta tiến một trận giặc liền tan vỡ, dư uy lừng lấy cũng vì cớ đó.
Nay tuy gặp buổi thanh bình, thủy quân càng không thể coi thường được.
Nên bắt thao diễn luôn để ngày thêm tinh thục rồi cho tuần xét ngoài mặt
biển để dẹp yên giặc biển, thế cũng là làm một việc mà được hai. Vậy hạ lệnh
cho Vệ úy vệ Hữu nhị quân Vũ lâm Nguyễn Lương Huy, Phó vệ úy vệ Nội
thủy là Đoàn Dưỡng đem những binh ngân thương, giáo dưỡng thủy binh,
pháo thủ, chia nhau cỡ các hiệu thuyền lớn tiến đến các dương phận phía
Bắc cho đến Quảng Yên, lại diễn tập và đi tuần khắp nơi những cù lao và
92 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 52. 93 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 86. 94 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 96.
43
vụng sâu, sao cho đường thủy chỗ đi chỗ đứng đều quen thuộc hết và biết
tình hình mặt biển đều hiểu rõ hết, nếu gặp giặc biển ẩn nấp thời tùy cơ đánh bắt”95.
Tháng 4 – 1832, thuyền giặc biển Quảng Yên, khi ẩn khi hiện ở ngoài biển Vân Đồn, quân ở huyện giao chiến nhƣng bị thua96. Cũng trong tháng
đó, hải phận Vân Sơn thuộc Thanh Hóa có thuyền giặc biển đón cƣớp thuyền
buôn, ngày đến 3, 4 lần. Vua hết sức tức giận, lệnh cho các quan binh phải dốc sức bắt giặc97. Tháng 8 – 1832, Tổng đốc Thanh Hóa Đoàn Văn Trƣờng
vì thấy phần biển thuộc tỉnh hạt, hằng năm giặc biển nhiều lần đến cƣớp,
quan quân đi tuần biển, thƣờng vì không có công trạng mà bị tội, bèn cùng
Nguyễn Đăng Giai ở Phiên ty dâng sớ điều trần về binh, thuyền, địa thế của
tỉnh có 3 điều chƣa tiện. Đó là quân thủy không nhiều, chủ yếu là bộ binh
không thạo nghề biển, gặp sóng gió không thi thố đƣợc, còn thuyền chỉ có
một số thuyền to, còn lại là thuyền nhỏ, không thể đọ lại với thuyền giặc; địa
thế có hai hòn đảo Biện Sơn và Vân Sơn, là những chỗ thuyền giặc rất hay
qua lại, Biện Sơn đã có pháo đài phái quân phòng giữ, nhƣng Vân Sơn cách
Biện Sơn dẫu có thể trông thấy đƣợc nhƣng thuyền đi thuận gió thì mất 3
khắc, ngƣợc gió thì đến 5, 6 khắc mới tới đƣợc, nhƣng vậy thuyền giặc cũng
chạy mất rồi. Những năm trƣớc đó, bộ biền do Kinh phái đi, có bắt đƣợc hơn
30 chiếc thuyền giặc, những thuyền ấy của giặc có sức buồm mạnh ngang với
thuyền nhà Thanh, nếu trang bị súng ống khí giới thì mạnh gấp 2, gấp 5. Vì
vậy, Đoàn Văn Trƣờng xin vua cho Bộ Công lựa chọn cấp cho 5 chiếc đặt ở
nơi tấn sở cửa Bạng, hàng năm đến đầu xuân, đẩy xuống, chở ra cửa Biện
Sơn, chuẩn bị đạn dƣợc để đợi. Về phần tỉnh thì thƣợng tuần tháng hai phái
ủy cán viên đem binh lƣơng súng ống khí giới đi đến thay phiên ngồi ở
95 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 137. 96 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 304. 97 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 306.
44
thuyền ấy ra khơi tuần tiễu. Lại xin cho thêm 10 chiếc thuyền miễn dịch lớn ở
cửa Bạch Câu, cửa Hàn, cửa Bạng, mỗi chiếc 1 ngƣời lái và 12 thủy thủ… Vua đọc bản tấu thấy hợp lý nên chuẩn cho đƣợc thi hành98.
Tháng 9 – 1832, hải tặc Chà Và lại lén lút nổi lên ở tấn phận Long
Hƣng thuộc Vĩnh Long, cƣớp bóc của cải và bắt ngƣời đem đi. Vua Minh
Mạng cho rằng Côn Lôn thủ và Hà Tiên Phú Quốc thủ (Thủ là một vị trí quân
sự có đặt quân đội để phòng thủ) đều là những nơi xung yếu, dân ở đông đúc,
thế mà thƣờng có giặc biển xuất hiện cƣớp bóc. Liền truyền dụ cho quan
thành chọn đất ở hai chỗ thủ ấy, xây đặt pháo đài, liệu cấp súng đạn, khí giới,
thuyền bè, phái quân đóng giữ. Những cƣ dân sinh sống cạnh đó cũng cấp
cho khí giới để cùng phòng giữ. Lại ra lệnh cho các làng sở tại ven biển đều
sẵn sàng thuyền bè khí giới, nếu thấy thuyền giặc đến gần bờ, tức thì cùng nhau tiếp ứng góp sức đánh bắt99.
Tháng 1 – 1833, hải phỉ ở Quảng Yên là Nguyễn Bảo, liên kết với
đoàn thuyền nhà Thanh, ra vào ở vùng biển Hoa Phong, Vân Đồn. Viên thổ
lại mục ở Vạn Ninh là Phan Huy Bích, đem thủ hạ và hƣơng dõng đi tuần
thám, gặp thuyền giặc liền xông vào đuổi bắt, giặc vừa đánh vừa lui. Quân
của Huy Bích đuổi một ngày một đêm, đến bãi Vụ Thủy, thuộc hải phận Hải
Nam, phủ Quỳnh Châu nhà Thanh thì đánh đắm đƣợc một chiếc thuyền giặc,
giết đƣợc kẻ cầm đầu đoàn thuyền nhà Thanh là Ngô Á Tam và bắt sống
đƣợc tên đồng đảng là Phan Á Bát. Còn tên Bảo liều chết nhảy lên bờ, một
mình trốn thoát. Các thuyền giặc khác chạy về phía Đông đều bị quan quân
nhà Thanh bắt đƣợc. Thự Tuần phủ Lê Đạo Quảng đem việc đó tâu lên. Vua
hết sức khen ngợi, thƣởng Phan Huy Bích, Tòng bát phẩm bá hộ và 500 quan
tiền. Sau đó, Phan Huy Bích lại bắt đƣợc Nguyễn Bảo, đem nộp. Vua rất
98 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 352. 99 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 384. 100 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 459.
45
mừng, xuống chỉ khen ngợi, phong cho ông làm Chánh thất phẩm thiên hộ, thƣởng thêm cho 100 lạng bạc và 200 quan tiền100.
Mùa thu năm 1833, hải tặc Đồ Bà tập hợp hơn 20 chiếc lén lút xuất
hiện ở đảo Thuận Tĩnh tỉnh Bình Thuận. Nhân dân ở đây đánh nhau với giặc,
bị thƣơng và chết hơn 100 ngƣời. Tỉnh phái Phó lãnh binh là Phạm Văn
Huyền và Phó quản cơ cơ Thuận tráng là Dƣơng Văn Khoa, lập tức đem
thuyền quân đi dò bắt, đến đảo Mao Dữ, đánh và đoạt đƣợc một chiếc thuyền
của giặc, bắt đƣợc 3 tên và giết chết rất nhiều tên giặc. Sau khi nghe tin, vua
Minh Mạng thƣởng cho Phạm Văn Huyền, Dƣơng Văn Khoa mỗi ngƣời 5
đồng tiền Phi long hạng lớn; quân, dân 300 quan tiền. Ngƣời bị thƣơng, chết,
đƣợc cấp tiền theo thứ bậc. Tuy nhiên, quân triều đình vẫn chƣa tiêu diệt hết
đƣợc hải tặc Đồ Bà. Ngay sau đó, bọn chúng lại đón cƣớp thuyền buôn và lên
bờ đốt phá nhà dân hơn 10 chỗ khác nhau tại các hải phận Cam Linh, Nha
Nhu, Vân Phong, Cầu Huân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Vua biết tin liền truyền
lệnh xuống rằng: “Giặc ấy chảng qua là lũ tiểu yêu hôi tanh. Thuyền quân do
tỉnh phái đi làm công trạng gì, mà để cho lũ giặc kia có thể nhân kẽ hở, lén
lút xuất hiện như vào chỗ không có người? Vậy, bộ biền Lãnh binh là Trương
Văn Thận, Phó quản cơ Hòa tráng là Dương Văn Phong cùng các Suất đội ở
chuyến đi ấy và thủ ngự các đồn tấn đều trước phải cách chức, nhưng cho ở
lại làm vệc. Các tỉnh thần phải ra sức vây bắt cho được cả đoàn thuyền của giặc, đưa đến trị tội”101. Đồng thời lệnh cho các tỉnh Phú Yên, Bình Thuận,
Quãng Ngãi đều phái thuyền quân đến hội tiễu. Nhân đó, vua truyền dụ cho
Bộ Binh: “Mỗi khi giao tiết hạ thu, giặc biển Đồ Bà nhân sở hở, lén lút xuất
hiện, đón cướp thuyền buôn và đậu thuyền vào chỗ thôn xóm vắng vẻ hẻo
lánh ở bờ biển để cướp bóc. Nhân dân ven biển phần nhiều khổ sở vì chúng!
Vậy, ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa đều xem xét dân cư ven biển
thuộc địa hạt mình, chỗ nào bọn giặc có thể đến đậu thuyền để xâm lấn cướp
bóc được, thì liệu lượng cấp cho mỗi xã thôn 3 hay 5 cây súng điểu sang, mỗi
cây súng được 30 phát đạn, lại phát cho 20 hay 30 cây giáo trường để dùng
46
vào việc phòng bị chống giữ. Đến tháng 9, gặp tiết gió Bắc, bọn giặc ấy khó 101 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 688.
lòng ở biển được, tức thì phải nộp lại đúng số. Nếu có chi dùng quá thuốc đạn, thì đề vào là đã tiêu hao đi rồi. Hàng năm cứ làm theo lệ này”102.
Sau đó, Dƣơng Văn Khoa đem binh thuyền đuổi đánh hải phỉ Đồ Bà
đến tận hải phận biển Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa, đánh phá đƣợc thuyền
giặc, bắt đƣợc hàng chục tên và cứu đƣợc nạn dân. Vua khen ngợi, cho phục
lại chức cũ và thƣởng cho 5 đồng ngân tiền Phi long hạng lớn, các biền binh
đƣợc thƣởng tiền 300 quan.
Tháng 3 – 1834, ở Quảng Nam lại có hai thuyền giặc Thanh lén lút đến
hải phận Đại Chiêm, đón cƣớp của cải của thuyền buôn và lên bờ đốt phá nhà
dân. Binh thuyền do tỉnh phái đi đánh chỉ bắn giết đƣợc mấy tên rồi thuyền
giặc lại giong buồm chạy về phía đông. Không lâu sau lại đến vùng biển Thái
Cần thuộc Quảng Ngãi cƣớp bóc rồi bỏ đi. Vua hết sức tức giận, lệnh xuống
Bộ Binh rằng: “Bọn thuyền nhà Thanh cứ quen thói cũ, thường lảng vảng ở
ngoài biển, mua lậu gạo, rồi gặp chỗ vắng người, nhân kẽ sơ hở, đón cướp
thuyền buôn, tưởng không phải chỉ riêng một chiếc thuyền này. Vả, gần đây ở
hải phận Nam, Ngãi cũng có hai ba chiếc thuyền giặc bị quan quân đuổi
đánh, tìm đường lẩn trốn. Hiện nay gió Bắc đương lộng, thế tất chúng còn ẩn
nấp quanh các hải đảo, chưa thể đi xa được. Vậy, truyền dụ cho cá tỉnh từ
Quảng Nam trở vào Nam tới Bình Thuận, phải nghiêm sức các bộ biền tuần
dương và các tấn sở thủ sở, phải ngày đêm đi lại tuần tra, thoăn thoắt đưa
thoi, nếu gặp thuyền lạ người Thanh, có vẻ khả nghi, xét không phải là thuyền buôn thì lập tức bắt giải để xét trị”103.
Trong các năm 1838 – 1839, vua Minh Mệnh thƣờng xuyên ra lệnh
cho Nguyễn Công Trứ mang quân đánh dẹp giặc biển ở Chàng Sơn, lập đồn ở
Vân Đồn, Vĩnh Thực, Ba Phong. Tháng 1 – 1839, vua lệnh cho quân thủy bộ
102 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 3, Sđd, tr. 688. 103 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb. Giáo dục, HN, 2004, tr. 95.
47
ở kinh, 4 quản vệ và trên 500 biền binh đi thuyền Thanh Hải, Định Hải, Tuần
Hải ô thuyền 10 chiếc chia làm 2 đạo: 1 đạo từ Thừa Thiên trở vào Nam đến
Bình Thuận, 1 đạo từ Thừa Thiên trở ra Bắc đến Quảng Yên, tuần tiễu giặc biển104. Tháng 3, ở phận biển Đại Áp tỉnh Quảng Nam lại có giặc biển lén lút
xuất hiện. Vua truyền dụ cho Bộ Binh: “Ở kinh thuyền quân đi tuần biển, lệ
định từ kinh trở về Nam đến Bình Thuận, trở ra Bắc đến Quảng Yên, chia
nhau đi lại để tra bắt. Nay nghĩ bờ biển dài suốt, trông coi hoặc có không
chu đáo, mà từ trước đến nay, giặc biển thưởng ở phận hạt Nam, Ngãi,
Thanh, Nghệ, nhân sơ hở lẻn ra rồi chạy xa ngay. Đến lúc ấy đòi bắt, thực có
thể hối không kịp, huống chi các hạt phần nhiều là thuyền buôn đi lại, tuần
bắt càng phải nghiêm mật, nên truyền dụ binh thuyền ở kinh phái đi, trở vào
Nam thì chuẩn cho từ Bình Định đến kinh, trở ra Bắc thì từ Biện Sơn trở vào,
đều lần lượt tuần bắt để tin tức cùng biết, đánh dẹp cho dễ. Nay địa hạt
Quảng Yên đã có quan quân đóng đồn, lũ giặc thế tất không dám quen thói
cũ, đóng ở biển, mà từ Khánh Hòa, Phú Yên trở vào Nam, nếu có sinh lòng
nhòm sơ hở, thì đương tiết hậu gió nam này, khi nghe tin báo, ta ở đầu gió đi ngay đón chẹn, thì chúng không thể trốn thoát được”105.
Sau đó, tháng 4 – 1839, ở các cửa biển Nhật Lệ, tỉnh Quảng Bình và
cửa biển tỉnh Hà Tĩnh, giặc biển nhiều lần nổi lên, tấn thủ những chỗ ấy và
quân lính tỉnh phái đi bắt giặc đuổi đánh chúng phải chạy đi, cứu thoát thuyền buôn, không mất mát gì. Vua ban chỉ khen ngợi106.
Thời vua Thiệu Trị, mặc dù triều đình đã dốc sức tiễu trừ hải phỉ
nhƣng nạn hải tặc vẫn không chấm dứt. Tháng 8 - 1842, Nam Định và Quảng
Yên có nạn giặc biển, thuyền buôn phần nhiều bị trở ngại, quan quân đều bất
lực. Vua dụ xuống Bộ Binh: “Bọn giặc biển làm dữ, năm nay càng tệ hơn.
Đó đều là tội bất lực của bọn đi tuần biển do kinh phái hoặc tỉnh phái. Vậy
104 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 21, Sđd, tr. 30. 105 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 21, Sđd, tr. 71. 106 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 21, Sđd, tr. 86.
48
truyền dụ các thuyền binh từ kinh vào Nam và từ kinh ra Bắc đều phải gia
tâm lùng bắt giặc để mặt biển được yên tĩnh; nếu chỉ hư ứng cho xong việc, sẽ trừng trị nặng không tha”107. Đồng thời vua lệnh cho Bộ Lễ làm tờ quốc
thƣ cho tỉnh Quảng Đông nghiêm nã quân giặc để khỏi vƣợt bờ cõi sang quấy rối vùng biển nƣớc ta108. Mặc dù cũng có nhiều lần quan quân triều đình chặn
bắt đƣợc hải tặc nhƣng trên thực tế số hải tặc bị bắt giết không đáng kể, phần
nhiều chúng vẫn chạy thoát và tiếp tục quay lại cƣớp bóc.
Đến đời vua Tự Đức, hải tặc vẫn là một vấn nạn của đất nƣớc. Tháng 8
– 1849, hơn 70 chiếc thuyền của cƣớp biển kéo đến phần biển tỉnh Hải
Dƣơng, lên đƣờng bộ quấy nhiễu cƣớp bóc, quan quân đánh giết, giặc lui đi,
rồi lại nhân đêm lẻn đến phần sông tỉnh Quảng Yên hƣớng vào tỉnh thành
sinh sự. Bố chính sứ là Nguyễn Khoa Dục ra ngoài thành đốc quân đánh lại,
giặc tan ra, những tên giặc bắt đƣợc chuyển cho Khâm châu nƣớc Thanh xử lý109. Càng về những năm sau đó, hải tặc càng hoành hành mạnh mẽ trên
vùng biển Việt Nam, triều đình gần nhƣ bất lực trong việc ngăn chặn tận gốc
nạn cƣớp biển.
Sự quan tâm và đánh giá cao vị thế của biển trong chiến lƣợc an ninh,
quốc phòng của triều Nguyễn là hoàn toàn đúng đắn, nhất là trong bối cảnh
các nƣớc thực dân phƣơng Tây đang sử dụng sức mạnh hải quân để xâm lƣợc
các nƣớc châu Á. Tăng cƣờng phòng thủ bờ biển để phòng bị địch tấn công là
một chủ trƣơng đúng đắn và thức thời. Nhƣng đáng tiếc các vua đầu triều
Nguyễn chỉ dừng lại ở mức độ phòng thủ bờ biển mà chƣa có tƣ tƣởng tiến
công trên biển hay chủ động phòng ngự từ xa. Vấn đề hiện đại hoá lực lƣợng
thuỷ quân chƣa tƣơng xứng với những nguy cơ bị đe doạ tấn công từ phía
biển vào. Hơn nữa với tâm lý lo sợ bị tấn công từ phía biển, ngoài việc tăng
cƣờng hệ thống phòng thủ ven biển, triều Nguyễn lại đóng cửa các cửa sông,
107 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 24, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tr. 194. 108 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 24, Sđd, tr. 194. 109 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 27, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973, tr. 195.
49
cửa biển nhằm ngăn chặn quan hệ buôn bán giữa phƣơng Tây và Việt Nam.
Các chính sách biển của triều Nguyễn, đặc biệt là chính sách đóng cửa phản
ánh tƣ tƣởng co cụm trƣớc những mối đe dọa ngoại xâm đến từ phía biển.
Tiểu kết chƣơng 1
1. Từ khởi thủy cho đến trƣớc khi thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, ngƣời
Việt Nam đã bƣớc đầu hình thành những tƣ duy về biển. Biển xuất hiện trong
nhiều truyền thuyết và các câu chuyện cổ tích của ngƣời Việt. Biển cũng là
một phần quan trọng tạo nên các nền văn hóa cổ xƣa. Giành lại độc lập sau
một ngàn năm Bắc thuộc, các vƣơng triều phong kiến Việt Nam đã có thái độ
quan tâm nhất định đến việc xây dựng lực lƣợng thủy quân và bảo vệ vùng
biển của nƣớc nhà.
2. Vào những thế kỷ XVII – XVIII, vùng biển của Việt Nam hết sức sôi
động nhờ sự xuất hiện của một hệ thống các thƣơng cảng ven biển và những
thƣơng nhân từ các nơi đến buôn bán, ngƣời Việt bắt đầu biết đến kỹ thuật
đóng những thuyền lớn đi biển và ra biển đi buôn. Tuy nhiên, do hoàn cảnh
lịch sử, điều kiện địa lý và sự thay đổi chính sách của các vƣơng triều phong
kiến khác nhau nên sự phát triển của nền kinh tế thƣơng nghiệp ở Việt Nam
chỉ phồn thịnh trong khoảng thời gian ngắn ngủi và dần suy tàn vào cuối thế
kỷ XVIII.
3. Sau khi triều Nguyễn đƣợc thành lập vào năm 1802, các vua Nguyễn
bắt đầu thắt chặt quan hệ buôn bán giữa trong nƣớc với nƣớc ngoài. Các vua
đầu triều Nguyễn đã ý thức đƣợc mối đe dọa từ bên ngoài đối với nền độc lập
của Việt Nam, nhƣng từ sự lo sợ đó, các vua Nguyễn đã lựa chọn một giải
pháp an toàn cho vƣơng triều đó là chính sách bế quan tỏa cảng, đóng cửa với
phƣơng Tây.
4. Bên cạnh việc thực hiện chính sách đóng cửa, các vua Nguyễn đã ra
sức tăng cƣờng tiềm lực quân sự của đất nƣớc bằng cách xây dựng thủy quân,
50
xây dựng các pháo đài phòng thủ ven biển, đóng và mua thêm các tàu chiến,
vũ khí; thực hiện tiễu trừ hải tặc để bảo vệ vùng biển của nƣớc nhà; khẳng
định chủ quyền của Việt Nam ở các đảo và quần đảo ngoài khơi v.v..
5. Mặc dù vậy, các vị vua Nguyễn đã không ý thức đƣợc đầy đủ về tình
hình thế giới lúc bấy giờ, chính chính sách đóng cửa của triều Nguyễn đã
ngăn cản sự giao lƣu buôn bán giữa Việt Nam với nƣớc ngoài, nó không
những không bảo vệ đƣợc đất nƣớc khỏi sự xâm lƣợc từ phƣơng Tây mà còn
làm suy giảm tiềm lực của đất nƣớc, khiến cho phƣơng Tây càng thèm muốn
Việt Nam. Chính sách bế quan tỏa cảng đã làm cho nƣớc ta mất đi rất nhiều
cơ hội giao lƣu, hợp tác với nƣớc ngoài. Chính sách đó cùng với chính sách
cấm đạo Thiên Chúa đã tạo thành cái cớ để cho thực dân Pháp xâm lƣợc
51
nƣớc ta vào năm 1858.
Chƣơng 2
TƢ DUY HƢỚNG BIỂN CỦA CÁC NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
NỬA CUỐI THỂ KỶ XIX
2.1. Sự cần thiết phải khai phóng đất nƣớc
Đến thế kỷ XIX, nhiều nƣớc tƣ bản ở châu Âu đã chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, trở thành những nƣớc thực dân đi
xâm lƣợc các nƣớc khác trên thế giới để mở rộng thị trƣờng, tranh giành
thuộc địa. Cho đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nƣớc châu Á đã trở thành
thuộc địa của các nƣớc thực dân phƣơng Tây, chủ yếu là của Anh và Pháp.
Ở châu Á, chế độ phong kiến Nhật Bản Tokugawa, sau mấy thế kỷ
thống trị đến nửa đầu thế kỷ XIX đã rơi vào khủng hoảng, bế tắc. Nông
nghiệp chậm phát triển. Tình trạng mất mùa đói kém xảy ra liên miên, các
quan hệ sản xuất cũ tan rã và thay vào là các quan hệ sản xuất mới. Những
cuộc nổi dậy của nhân dân chống chế độ Mạc Phủ ngày càng lên cao. Trong
khi đó ở bên ngoài các nƣớc phong kiến phƣơng Tây luôn nhòm ngó, rình
rập. Trƣớc tình thế đó, Nhật Bản đã sáng suốt tiến hành duy tân đất nƣớc (cải
cách của vua Meiji), mở cửa cho các nƣớc phƣơng Tây vào buôn bán đồng
thời tiến hành hiện đại hoá đất nƣớc theo mô hình các nƣớc phát triển ở
phƣơng Tây. Nhờ đó Nhật Bản không bị các nƣớc phƣơng Tây xâm lƣợc và
trở nên cƣờng thịnh.
Xã hội Trung Quốc cuối thế kỷ XIX cũng rơi vào tình trạng khủng
hoảng sâu sắc. Nông dân bị áp bức, bóc lột nặng nề nên đã liên tiếp nổi dậy
khởi nghĩa. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh Nha phiến giữa Trung Quốc và
Anh bùng nổ năm 1839. Kết quả là Trung Quốc thua trận và phải ký Hiệp
ước Thiên Tân với đế quốc Anh, nhƣợng cho Anh nhiều đặc quyền kinh tế.
Từ đó, Trung Quốc ngày càng suy yếu và bị nhiều nƣớc thực dân phƣơng
52
Tây xâu xé.
Thái Lan trong thế kỷ XIX đã bị Anh và Pháp nhòm ngó. Một nửa đất
nƣớc thuộc phạm vi quyền lợi của Anh, một nửa còn lại thuộc phạm vi quyền
lợi của Pháp. Trong tình cảnh đó, nhà nƣớc phong kiến Thái Lan đã thực hiện
chính sách ngoại giao khôn khéo, mở cửa buôn bán với các nƣớc phƣơng
Tây. Nhờ những chính sách khôn khéo Thái Lan đã thoát khỏi nạn ngoại xâm
và đổi mới đất nƣớc theo phƣơng Tây, và trở nên giàu mạnh.
Trừ hai nƣớc Nhật Bản và Thái Lan, các nƣớc ở khu vực châu Á còn
lại đều rơi vào ách xâm lƣợc của các nƣớc thực dân phƣơng Tây, trở thành thị
trƣờng tiêu thụ hàng hóa, nơi cung cấp nguyên liệu và nguồn nhân công rẻ
mạt cho các nƣớc tƣ bản - thực dân phƣơng Tây.
Xã hội Việt Nam giữa thế kỷ XIX đứng trƣớc những thử thách hết sức
nặng nề. Nông nghiệp sa sút đã làm cho cuộc sống của nhân dân gặp nhiều
khó khăn. Thủ công nghiệp suy giảm đáng kể do bị triều đình khống chế.
Thƣơng nghiệp bị hạn chế phát triển, đặc biệt là chính sách đóng cửa đã cắt
đứt quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và phƣơng Tây.
Về chính trị, mâu thuẫn giữa triều đình với dân chúng, đặc biệt là nông
dân rất gay gắt. Hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra để chống lại sự
cai trị hà khắc của triều Nguyễn. Để bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của giai
cấp thống trị, triều Nguyễn đã thẳng tay đàn áp đẫm máu các cuộc khởi nghĩa
nông dân.
Chính sách đối ngoại của triều Nguyễn mắc phải nhiều sai lầm nghiêm
trọng. Nhận thấy nguy cơ bị các nƣớc phƣơng Tây xâm lƣợc, vua Gia Long
đã cảnh giác hơn trong quan hệ với Pháp. Ông thực thi chính sách đóng cửa,
hạn chế buôn bán, tiếp xúc với nƣớc ngoài. Hành động phòng vệ thụ động
của Nguyễn Ánh thể hiện năng lực hạn chế của triều đình trong việc phân
tích tình hình thế giới và khu vực, khả năng phán đoán và đánh giá kẻ thù
53
cũng nhƣ thái độ ứng xử bất cập trong quan hệ quốc tế.
Kế tục sự nghiệp của vua Gia Long, vua Minh Mạng vẫn tiếp tục thực
hiện chính sách đóng cửa mà cha ông để lại. Vua Minh Mạng đã tìm cách vô
hiệu hoá những ngƣời Pháp đã từng làm việc trong triều dƣới thời Gia Long,
kiên quyết cự tuyệt quan hệ buôn bán với các phƣơng Tây vì sợ họ can thiệp
vào công việc của triều đình. Các tàu buôn nƣớc ngoài đến neo đậu ở cửa
biển xin thông thƣơng đều bị triều Nguyễn từ chối thẳng thừng. Sự kiện
Trung Quốc bị thất bại trong chiến tranh Nha phiến với ngƣời Anh đã làm
cho nhà vua càng thêm lo sợ và xa lánh bọn ngƣời "man di" này. Mặc dù vua
Minh Mạng đã cử một số phái đoàn ra nƣớc ngoài, nhƣng đƣờng lối đối
ngoại của ông thì không hề thay đổi. Những phái đoàn này đƣợc cử đi không
phải để thiết lập quan hệ ngoại giao, mở rộng giao thƣơng, mà chủ yếu để tìm
hiểu khả năng và kế hoạch của ngƣời phƣơng Tây mà thôi.
Đến thời vua Thiệu Trị và vua Tự Đức, chính sách đối ngoại của triều
Nguyễn vẫn không thay đổi theo hƣớng cởi mở, thậm chí còn cứng nhắc hơn.
Ngay từ năm 1847, tàu chiến Pháp bắn chìm năm chiếc tàu của Việt
Nam ở cửa biển Đà Nẵng đã cho thấy âm mƣu xâm lƣợc Việt Nam của thực
dân Pháp. Tuy nhiên, triều Nguyễn đã không có những chính sách đối phó
hữu hiệu nào để chống lại âm mƣu xâm lƣợc của ngƣời Pháp. Trái lại, triều
Nguyễn lại xiết chặt hơn chính sách đóng cửa với phƣơng Tây, tích cực đàn
áp những ngƣời dân theo đạo Ki tô. Xuất phát từ quan niệm cho rằng việc đặt
quan hệ giao dịch, thƣơng mại chính thức với các nƣớc phƣơng Tây có thể sẽ
dẫn đến sự suy đồi về đạo đức, làm xói mòn những giá trị của tƣ tƣởng Nho
giáo, ảnh hƣởng trực tiếp đến uy thế và quyền lực, sự tồn tại của triều đình,
nên triều Nguyễn đã bày tỏ thái độ cự tuyệt với xu hƣớng này. Ngoài ra,
những hoạt động trắng trợn của các giáo sĩ thừa sai nhƣ xâm nhập bất hợp
pháp lãnh thổ, hỗ trợ một số hoạt động chống đối triều đình của một số lực
lƣợng xã hội trong quá trình truyền bá Ki tô giáo, làm cho triều Nguyễn ngày
54
càng thận trọng, e dè và cảnh giác trong quan hệ với phƣơng Tây. Thậm chí,
vua Tự Đức còn ban hành các chỉ dụ cấm đạo, không cho các giáo sĩ hoạt
động, gây ra sự căng thẳng trong quan hệ Việt - Pháp, tạo thành cái cớ để
Pháp đẩy nhanh quá trình xâm lƣợc vào Việt Nam.
Lấy cớ bảo vệ đạo Ki tô ở Việt Nam, ngày 31 tháng 8 năm 1858, thực
dân Pháp đã chính thức nổ súng xâm lƣợc nƣớc ta. Lợi dụng sự nhu nhƣợc và
yếu hèn của triều Nguyễn, thực dân Pháp đã tăng cƣờng mở rộng phạm vi
đánh chiếm nhằm thôn tính toàn cõi Việt Nam.
Nhìn chung, phản ứng của triều Nguyễn trƣớc sự bành trƣớng về
thƣơng mại và quân sự của Pháp và các nƣớc phƣơng Tây là thụ động, lo sợ,
nghi ngờ và thiếu tự tin. Thay vì một mặt phải tìm hiểu, tiếp cận, nghiên cứu
đối phƣơng, mặt khác phải phát huy sức mạnh của bộ máy, động viên, tập
hợp lực lƣợng, triều Nguyễn đã tìm cách né tránh, hạn chế giao tiếp và thực
hiện chính sách bế quan toả cảng.
Trong điều kiện đó mở cửa và canh tân làm cho dân giàu nƣớc mạnh
trở thành vấn đề mất còn của nƣớc nhà. Một xu hƣớng đòi cải cách mở cửa
không chỉ ở các tầng lớp trí thức nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch
mà cả ở những nho sĩ, đại thần ở triều đình nhƣ Phạm Phú Thứ, Đặng Huy
Trứ, Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tế, Bùi Viện và ngay cả Viện Thương Bạc
(một cơ quan gần nhƣ Bộ Thƣơng mại sau này) cũng đề xuất với triều đình
xin mở cảng Đà Nẵng, Ba Lạt và Đồ Sơn để thông thƣơng. Qua đó đủ thấy
rằng, vào nửa cuối thế kỷ XIX ở nƣớc ta xu hƣớng đòi canh tân và mở cửa
đƣợc đặt ra bức thiết. Chính Nguyễn Lộ Trạch đã phải rất đau đớn khi nhận
xét: “Đại thế ngày nay không còn là đại thế như ngày trước. Ngày trước còn
110 Mai Cao Chƣơng, Đoàn Lê Giang: Nguyễn Lộ Trạch: điều trần và thơ văn/ Thiên hạ đại thế luận, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1995, tr. 95.
55
có thể làm mà không làm, ngày nay muốn làm mà không còn thì giờ và làm không kịp...”110.
Những ngƣời đề xƣớng canh tân đất nƣớc trƣớc hết phải kể đến
Nguyễn Trƣờng Tộ. Ông từng sống ở một số nƣớc phƣơng Tây. Vì giỏi Pháp
văn và Hán văn nên ông thƣờng làm phiên dịch trong các cuộc tiếp xúc ngoại
giao Pháp - Việt. Chính trong cuộc thƣơng thuyết giữa đại thần Phan Thanh
Giản và Soái phủ Pháp tại Gia Định năm 1861, Nguyễn Trƣờng Tộ lần đầu
tiên đề xuất ý tƣởng duy tân, qua bức thƣ gửi Phan Thanh Giản. Từ đó đến
năm 1871 (năm ông mất), Nguyễn Trƣờng Tộ liên tiếp dâng lên vua Tự Đức
58 bản điều trần với cả một hệ thống về các vấn đề cải cách kinh tế, chính trị,
ngoại giao, xã hội và văn hóa. Các điều trần của Nguyễn Trƣờng Tộ tập trung
ở các tác phẩm nhƣ bài: “Trần tình khải”, “Dư tài tế cấp luận - lục lợi từ”,
“Giáo môn luận”, “Tế cấp bát điều”, v.v..; đã đề cập đến việc cải cách học
thuật; cải cách văn tự, mở cửa ngoại thƣơng; cải cách quân sự, v.v… Các đề
nghị cải cách của ông đƣợc trình bày một cách có hệ thống và hợp lý với
những tƣ tƣởng tiến bộ ở thời điểm lịch sử của những thập kỷ 60, 70 thế kỷ
XIX. Ông là ngƣời mở ra xu hƣớng cải cách và gây ảnh hƣởng lớn nhất đối
với những ngƣời có đầu óc duy tân thời ấy.
Bên cạnh Nguyễn Trƣờng Tộ là một số quan lại cùng chí hƣớng nhƣ:
Tham tri Bộ Lại là Phạm Phú Thứ, sau chuyến đi sứ sang Pháp (1863-
1864), đã tận mắt chứng kiến nền kinh tế - xã hội và khoa học kỹ thuật hiện
đại của nhiều nƣớc phƣơng Tây, khi về nƣớc đã xin mở trƣờng hàng hải, học
chữ nƣớc ngoài, khai mỏ, v.v... Toàn bộ ý thức canh tân của ông đƣợc thể
hiện tập trung trong tác phẩm “Tây hành nhật ký” và “Tây phù thi lục”. Ngoài
hai tác phẩm trên, trong suốt thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XIX, ông đã viết hàng
chục tờ tấu, sớ cho vua Tự Đức và các quan chức đại thần để trình bày quan
điểm của mình và đề xuất những quan điểm cần thiết trƣớc mắt.
Bùi Viện là một ngƣời có đầu óc canh tân mạnh mẽ. Ông đƣợc mệnh
danh là nhà canh tân thực hành. Ông là ngƣời có công lớn khi khai mở cảng
56
Ninh Hải (nay là cảng Hải Phòng), từng đứng đầu cơ quan ngoại thƣơng quốc
gia (Thƣơng chính tham biện), khai sinh lực lƣợng Tuần dương quân và trực
tiếp làm Thủy sƣ Đô đốc (Tuần hải nha chánh quản đốc). Ông là ngƣời có tƣ
duy hƣớng biển mạnh mẽ.
Nối dòng tƣ tƣởng canh tân của Nguyễn Trƣờng Tộ, Phạm Phú Thứ,
Bùi Viện có Nguyễn Lộ Trạch, ngƣời ham đọc Tân thƣ hơn văn chƣơng cử
nghiệp, không đi thi cũng dâng các bản điều trần “Thời vụ sách”, “Qùy ưu
lục”, “Thiên hạ đại thế luận”, v.v..; đề nghị mở mang ngoại thƣơng, học kỹ
thuật phƣơng Tây và tổ chức hạm đội kiểu mới.
Ngoài ra còn các nhà cải cách khác nhƣ Biện lý Bộ Hình là Trần Túc
và Nguyễn Huy Tế. Sau chuyến đi Anh vào năm Mậu Thìn (1868), ông đã
xin mở các cửa biển Trà Lý, Nam Định và đặt lãnh sự ở Hƣơng Cảng.
Năm 1868, Đinh Văn Điền đã dâng lên vua Tự Đức bản điều trần với
nhiều khoản mục: đặt đinh điền, khai mỏ, đóng tàu; chiêu đãi ngƣời phƣơng
Tây, nhờ ngƣời Anh giúp đỡ; đặt quan hệ buôn bán với các nƣớc xa gần;
chấn chỉnh quân đội bằng việc tăng luyện tập và tăng lƣơng, ban chính sách
khen thƣởng và ƣu đãi thƣơng binh.
Năm 1879, Nguyễn Hiệp sau khi đi xứ Xiêm (Thái Lan) về đã đề nghị
triều đình nên giao hảo với nhiều nƣớc phƣơng Tây nhƣ Bồ Đào Nha, Anh,
Italia, Ailen, Tây Ban Nha, Hà Lan, v.v..; để phát triển buôn bán.
Đặng Huy Trứ có tƣ tƣởng trọng thƣơng. Ông đề nghị triều đình mở
rộng quan hệ hợp tác với các nƣớc trên thế giới nhất là các nƣớc phƣơng Tây,
nhờ ngƣời Tây dạy cho ta buôn bán và kỹ thuật. Ông đã lập rất nhiều thƣơng
điếm ở Hà Nội, đồng thời ông cũng là ngƣời du nhập nghề nhiếp ảnh vào
Việt Nam và mở nhà in “Trí Trung Đường”.
Phan Thanh Giản đã đề nghị triều đình dẹp những tệ nạn hủ lậu để
57
thuận lợi cho buôn bán, tăng cƣờng quan hệ hữu nghị với các nƣớc phƣơng
Tây. Trƣớc khi mất, ông căn dặn con cháu: thực dân Pháp là kẻ thù cần phải
đánh nhƣng cũng cần phải học hỏi văn minh của chúng.
Điểm chung nhất trong các nhà cải cách Việt Nam giai đoạn này là họ
đều là những ngƣời xuất thân trong các gia đình khoa bảng, thừa hƣởng nền
giáo dục Nho học và thuộc tầng lớp trên của xã hội. Nhờ có trình độ học vấn
và đỗ đạt trong các kỳ thi, phần lớn họ vì thế đều nắm giữ một vị trí nhất định
trong bộ máy quan lại của triều Nguyễn. Ví dụ nhƣ Phạm Phú Thứ đỗ tiến sĩ
năm 1843 và đã từng giữ chức Tham tri Bộ Lại rồi Thƣợng thƣ Bộ Hộ. Phan
Thanh Giản, ngƣời Nam Kỳ đầu tiên giữ học vị tiến sĩ; là nhà ngoại giao, ông
giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong các cuộc đàm phán Pháp - Việt trong giai
đoạn đầu thực dân Pháp xâm lƣợc Việt Nam. Bùi Viện từng đƣợc cử đi sứ hai lần sang Mỹ với mục đích cầu viện cứu nƣớc nhƣng không thành công111.
Cho dù có vị trí nhƣ thế nào trong bộ máy đó, tất cả họ đều thể hiện là những
ông quan không ham danh vọng, có tâm huyết với vận mệnh của dân tộc,
mong muốn đất nƣớc cƣờng thịnh bằng con đƣờng canh tân.
Những nhà canh tân Việt Nam giai đoạn này là họ đều là những ngƣời
trực tiếp hay gián tiếp, ít hay nhiều, có tiếp xúc với văn minh phƣơng Tây,
với thế giới bên ngoài. Mặc dù còn rất nhiều hạn chế, nhƣng họ là những
ngƣời thông qua giao lƣu với thế giới bên ngoài, mới có những hiểu biết và
có thể so sánh tình hình Việt Nam với khu vực và thế giới, phù hợp với thực
tế khách quan.
Năm 1851, Phạm Phú Thứ đƣợc cử sang Quảng Châu. Qua các trí thức
Trung Hoa, ông biết tới sự phát triển mạnh mẽ của Ma Cao và Hồng Kông.
Năm 1863, ông đƣợc triều đình cử sang Pháp thƣơng lƣợng để chuộc lại ba
tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Đây là một chuyến đi dài ngày, qua nhiều nƣớc
111 Một số tƣ liệu đã nêu lên sự kiện Bùi Viện sang Mỹ để thiết lập mối quan hệ ngoại giao Việt- Mỹ, nhƣng cho đến nay sự việc này vẫn chƣa đƣợc chứng thực rõ ràng.
58
trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia ven biển nhƣ: Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Italia, và Pháp. Bùi Viện một nhà cải cách trẻ tuổi từng đƣợc triều đình
cử đi Ma Cao và Hƣơng Cảng. Nhƣng ngƣời đi nhiều hơn cả là Nguyễn
Trƣờng Tộ. Ông đã từng đi rất nhiều nƣớc châu Âu và châu Á.
Do đƣợc ra bên ngoài nên họ đƣợc tận mắt chứng kiến những thay đổi
mạnh mẽ của thế giới. Trong chuyến sang Pháp 1863 - 1864, phái đoàn Việt
Nam rất đỗi ngạc nhiên trƣớc sự giàu có và thịnh vƣợng của các quốc gia
châu Âu. Họ thấy những thành phố tráng lệ, thấy cảnh buôn bán tấp tại các
thƣơng cảng ven biển, thấy vô số các nhà máy hoạt động ầm ầm, đƣợc đi trên
tàu máy hơi nƣớc sang trọng và chạy rất nhanh, đƣợc đi tàu hoả, đƣợc thấy
ánh đèn điện, đƣợc chụp ảnh, v.v…; tất cả đối với họ đều lạ lẫm, đều gây ấn
tƣợng mạnh, và để lại nhiều cảm xúc, tất nhiên là cả sự khâm phục nữa.
Sự khâm phục còn gắn liền với sự lo ngại cho vận mệnh dân tộc. Nhƣ
Phan Thanh Giản đã từng thốt lên:
“Từ ngày đi sứ Tây kinh
Thấy việc Âu châu phải giật mình”
Hải trình từ Đông sang Tây làm cho thế giới quan của các nhà cải cách
đƣợc mở rộng, từ đó dẫn tới những thay đổi về nhân sinh quan. Họ mang về
cho đất nƣớc, trƣớc hết là cho triều đình những điều mới lạ và những xu thế
phát triển của thế giới. Theo họ thế giới đang thay đổi một cách mạnh mẽ vì
vậy Việt Nam không thể co mình đóng cửa cố thủ đƣợc mà cần phải tiến
hành mở cửa đất nƣớc.
Nguyễn Trƣờng Tộ kịch liệt phản đối những ngƣời có tƣ tƣởng bảo thủ
khép kín: “Bọn hủ nho sao không biết thời thế biến chuyển, cứ câu lệ vào
nghĩa lý sách vở nói bừa bãi rằng : Triều đình mở cửa đón kẻ cướp vào? Sao
59
không biết rằng lúc thời thế đã đến, thì không thể ngăn chặn được?... Cửa bể
các nước Phương Đông… đã khai thông cả, thì tại sao một mình nước ta có thể đóng cửa được?”112.
Cùng chung quan điểm với Nguyễn Trƣờng Tộ là Nguyễn Lộ Trạch.
Ông cho rằng với sức mạnh hiện có của phƣơng Tây thì triều đình làm sao có
thể đóng cửa cố thủ đƣợc: “Tây Dương là bọn giặc mạnh, xưa nay chưa từng
có. Chúng hành binh ở ngoài biển trùng dương bảy dặm mà không phải mệt
nhọc dầm mưa dãi nắng vận chuyển, có thể đảo luận được thế khách - chủ,
mà chẳng bị người ta lôi kéo. Đến coi như việc đi được ngàn dặm chỉ trong
chớp mắt, xem biển Đông như cái ao, vậy thì ta có thể dời núi Thái Hằng, ngăn biển Vĩ Lư để triệt đường tiếp tế viện binh của chúng được”113.
Tất cả các nhà cải cách đều nhận thấy chính sách đóng cửa của triều
Nguyễn là thụ động, tự ti và thiếu hiểu biết về sự thay đổi của thế giới. Vì
vậy họ đồng thanh kêu gọi triều đình phải mở cửa để khai phóng đất nƣớc.
Triều đình cần phải tăng cƣờng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là đối
với các đối tác phƣơng Tây nhƣ Anh, Pháp và Mỹ. Hợp tác kinh tế đƣợc xác
định là trọng tâm. Theo họ giải pháp tốt nhất để giữ nƣớc và phát triển đất
nƣớc chính là mở cửa và bắt tay hợp tác với các cƣờng quốc phƣơng Tây để
học hỏi những thành tựu khoa học tiên tiến và kinh nghiệm giao thƣơng của
họ. Học Tây chính là con đƣờng hữu hiệu nhất để chống lại tham vọng thực
dân của phƣơng Tây. Để khích lệ vua Tự Đức và triều đình từ bỏ chính sách
đóng cửa, Nguyễn Trƣờng Tộ viện dẫn rằng, các bậc tiên đế là Gia Long và
Minh Mệnh đã từng hợp tác rất hiệu quả với ngƣời Tây: “Chỉ riêng mình
nước ta thi hành đường lối khác, cho nên thiên hạ cho nước ta là một nước
112 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb. Tp.Hồ Chí Minh, 1988, tr.69. 113 Mai Cao Chƣơng, Đoàn Lê Giang: Nguyễn Lộ Trạch: điều trần và thơ văn/Kế sách đối với thời cuộc 1 (Thời vụ sách Thượng), Sđd, tr. 87.
60
kỳ dị nhất. Triều đình ta trong khoảng từ Gia Long đến thời hợp tác với
người phương Tây, thường phái người du hành đi các nước trở về dần dần được hưng thịnh”114.
Các nhà cải cách cũng đƣa ra những ví dụ điển hình để cho triều đình
thấy đƣợc. Đó là những khu vực và quốc gia lân bang nhƣ Ma Cao, Hƣơng
Cảng và đặc biệt là Nhật Bản và Thái Lan đều đã tiến hành đổi mới và thu
đƣợc những kết quả đáng kể: “Xem Nhật Bản xưa là một lũ người lùn, từ
Trung Diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào
Nha, kế đến mới đến Hợp Chủng quốc (Hoa Kỳ) giúp vào việc nước mở mắt
nhìn ra thiên hạ mới có được chí hướng lớn như vậy. Từ đó, họ đóng tàu bè,
luyện tập võ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp nên đất nước
mỗi ngày một mạnh được khen với biệt danh là Tiểu Tây… Còn như đối diện
với nước ta là Xiêm La. Nước ấy trước đây chẳng có thế lực hùng mạnh gì.
Nhưng từ khi người phương Tây khuấy động khiến họ chợt tỉnh thức, bèn lấy
Anh, Pháp làm bạn, lấy Ý, Bồ làm khách, mời tất cả các nước trên thế giới
tới buôn bán, du lịch, còn nước ấy nghiễm nhiên trở thành một ông chủ nhà
lớn đàng hoàng… Hiện nay nước ấy nhờ ngoại giao mà được lợi ích, ngày
một nhanh chóng trở nên giàu mạnh, nội loạn không sinh, kẻ địch bên ngoài không đến, thuyền buôn qua lại trên mặt biển đông như mắc cửi”115.
Phần lớn các nhà cải cách đều bày tỏ sự lo ngại về tình hình đất nƣớc,
về thái độ bàng quan, thờ ơ, chậm trễ của triều đình. Theo họ, lẽ ra phải tiến
hành ngay các biện pháp canh tân, chấn hƣng đất nƣớc, phải đề ra những chủ
trƣơng đối nội và đối ngoại phù hợp, chứ không thể chần chừ, chờ đợi lâu
hơn nữa. Xuất phát từ nhận thức về thời thế, các nhà cải cách Việt Nam thế
kỷ XIX đều nhằm vào các mục đích trƣớc mắt và lâu dài cho một chƣơng
114 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo/ Thiên hạ đại thế luận, Sđd, tr. 107. 115 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo/ Nên mở cửa chứ không nên khép kín, Sđd, tr. 408- 409.
61
trình cải cách toàn diện. Mục đích cấp thiết trƣớc mắt theo các nhà cải cách là
tạo ra thế cân bằng cho đất nƣớc đủ sức chống lại sự xâm lƣợc của thực dân
Pháp, cứu dân tộc khỏi ách nô dịch. Không chỉ hạn chế bởi những mục đích
ngắn hạn, trƣớc mắt nhằm chống lại sự xâm lƣợc của Pháp, các nhà cải cách
còn nhìn nhận và đề ra mục đích lâu dài mà các kế hoạch này phải đạt đƣợc.
Đó là đƣa đất nƣớc phát triển toàn diện về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quân
sự, văn hoá và giáo dục, nhằm tiến kịp, thậm chí vƣợt các quốc gia trong khu
vực và thế giới, bởi vì theo Đặng Huy Trứ "trong thiên hạ, không có cái nhục nào bằng cái nhục không được như người”116.
2.2. Tƣ duy quân sự biển
Không phải các vua Nguyễn không nhận thức đƣợc nguy cơ bị tấn
công từ phía biển. Chính vì nhận thức đƣợc điều đó, nên các vua Nguyễn đều
rất chú trọng phòng thủ ven biển, triều đình đã bỏ ra những khoản kinh phí
lớn để trang bị cho lực lƣợng hải quân nhƣ mua thuyền chiến, vũ khí, xây
dựng các pháo đài phòng hải. Năm 1858, thực dân Pháp tấn công xâm lƣợc
chúng ta tại bán đảo Sơn Trà đã cho thấy việc xác định hƣớng tiến công của
kẻ thù từ phía biển của triều Nguyễn là đúng đắn. Vua Tự Đức đã từng dụ
rằng: “Lần này người Tây Dương sinh sự, những nơi bờ biển nên phòng bị.
Mà nay các tỉnh Biên Hoà, Gia Định còn sơ phòng đến nỗi thành Gia Định
không giữ được. Nhân thể truyền dụ cho các địa phương từ Quảng Ngãi đến
Biên Hoà, lại từ Định Tường đến Hà Tiên… phòng các công việc phòng thủ ven biển phải gia tâm kiểm soát, dốc sức”117. Thế nhƣng triều Nguyễn vẫn
thất bại trƣớc những đòn tấn công trên biển của giặc Pháp. Và chẳng bao lâu
sau đã để thực dân Pháp chiếm toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ.
Trong tình hình đó thì vấn đề quân sự lại ngày càng trở nên cấp thiết.
Làm thế nào để tăng cƣờng lực lƣợng phòng thủ của triều đình, không cho
116 Phạm Tuấn Khánh: “Một bài văn của Đặng Huy Trứ”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1, năm 1990, tr.70. 117 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 29, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1974, tr. 14.
62
Pháp đánh chiếm rộng ra Bắc Kỳ và Trung Kỳ đồng thời lấy lại Nam Kỳ lục
tỉnh? Trƣớc tình hình khó khăn của đất nƣớc, quân sự cũng là vấn đề đƣợc
chú trọng hàng đầu trong tƣ tƣởng canh tân của các nhà cải cách, nổi bật nhƣ
Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trƣờng Tộ và Phạm Phú Thứ.
Bùi Viện là một ngƣời rất chú trọng đến phòng thủ miền ven biển, tƣ
duy về quân sự biển là tƣ duy chủ đạo trong tƣ tƣởng canh tân của ông. Tƣ
duy về quân sự biển của Bùi Viện chủ yếu thể hiện trên hai lĩnh vực, đó là
diệt giặc Tàu Ô và lập đội Tuần Dƣơng Quân.
Bùi Viện là con ngƣời của hành động. Vì vậy, ông không để lại nhiều
tác phẩm thể hiện tƣ tƣởng của mình. Muốn hiểu đƣợc tƣ tƣởng của ông cần
phải xem xét những việc ông đã làm đƣợc.
Dƣới thời vua Tự Đức, giặc Tàu Ô trở thành nỗi ám ảnh hãi hùng, nhất
là những ai ra tới nơi cửa sông, cửa biển. Khi nhà Thanh mới bình định đƣợc
Trung Quốc, có nhiều quan lại trung thành với nhà Minh, không chịu phục
chủ mới đã trốn vào rừng núi, hoặc lánh ra ngoài biển để mƣu đồ khôi phục
lại giang sơn. Số ở biển lúc đầu còn giữ đƣợc những hành vi minh chính,
nhƣng lâu ngày, chí phục quốc dần dần nguội lạnh mà lƣơng thực cũng hết,
họ xoay ra cƣớp các thuyền buôn làm kế sinh nhai. Từ những chiến sĩ “phản
Thanh, phục Minh”, họ trở thành những toán giặc biển tại miền duyên hải
Trung Quốc và Việt Nam. Nhà cửa của họ là những chiếc thuyền đinh cực
lớn, sơn đen mà ngƣời Việt Nam quen gọi là Tàu Ô. Họ cƣớp của, giết ngƣời
rất tàn bạo. Từ đời này qua đời khác, chúng sống một cuộc đời trôi nổi trên
mặt biển khơi. Nếu họ lên bờ thì chỉ để cƣớp phá làng mạc, có khi bắt cả đàn
bà, trẻ con mang bán cho các tỉnh miền Nam Trung Quốc làm thê thiếp. Về
cuối đời nhà Lê, giặc Tàu Ô là một mối lo lớn cho triều đình. Sang triều Tây
Sơn thì ngƣời ta không lo về giặc Tàu Ô nữa vì vua Quang Trung đã rất khôn
khéo ứng xử, tha thứ và phong quan tƣớc cho họ nên họ đều về hàng vua
63
Quang Trung. Nhƣng sau khi triều Tây Sơn đổ, chính sách của vua Gia Long
khác hẳn. Nhà vua thu hồi lại hết các sắc phong, vì thế mà giặc Tàu Ô lại trở
thành thù địch của triều Nguyễn.
Có lần vua Tự Đức cùng một số quan lại tận mắt chứng kiến cảnh giặc
Tàu Ô ngang nhiên cƣớp phá đoàn tàu chở lƣơng thực của triều đình, giết
ngƣời và trọc tức quan quân triều đình. Vua Tự Đức vô cùng tức giận nhƣng
đành bất lực.
Năm 1876, Bùi Viện đƣợc nhà vua trao cho nhiệm vụ phải báo cáo với
triều đình về tình hình thƣơng mại của nƣớc nhà và những hành động của bọn
giặc Tàu Ô ở ngoài biển. Sau mấy tháng đi khảo sát các tỉnh ven biển từ Nam
Định đến Quảng Nam, Bùi Viện trở về Huế. Ngày 8 tháng 7 năm 1876, Bùi
Viện tấu trình một bản báo cáo rất tƣờng tận lên triều đình Huế về tình hình
buôn bán và nạn giặc Tàu Ô hoành hành ở các tỉnh ven biển.
Bắt đầu, ông nói về tình hình khốn quẫn của các nhà buôn lƣơng thiện
ở ngoài khơi. Đáp lại lời khuyến khích của triều đình, các nhà buôn Việt Nam
ở mấy tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An và Nam Định đã đóng thuyền đi biển để
trao đổi hàng hoá với những tỉnh miền Nam nhƣ Quảng Bình, Quảng Trị,
Quảng Nam và Huế. Nhƣng triều đình không lo bảo vệ cho họ, chống lại giặc
Tàu Ô, cho nên các thuyền buôn khi đã ra khơi rồi thì không những bị sóng
to, gió lớn mà lại còn làm mồi cho bọn cƣớp biển. Trong tờ biểu tấu dâng lên
vua Tự Đức, Bùi Viện viết:
“... Triều đình tuy dụng công khuyến khích mà nghề buôn của người
Việt Nam vẫn không phát đạt, cớ chính vì các thuyền bè công, tư thường bị
giặc bể cướp phá phía ngoài khơi. Trị bệnh tất nhiên là phải trị từ gốc, nghĩa
là trước lo trừ giặc thì sau mới có hy vọng cho việc thông thương được thêm
phát đạt.
Tại các nước châu Âu, người ta lo việc bảo vệ đường giao thông trước,
64
rồi mời khuếch trương việc buôn bán sau. Việc trị an ở ngoài bể, gần đây
nước ta chỉ tin cậy vào công cuộc hải phòng của một nước ngoài. Nhưng
chống trọi với hàng muôn ngàn chiếc thuyền của giặc Tàu Ô, chúng ta chỉ có
vài chiếc tàu thủy vừa chậm chạp, vừa nặng nề. Giữ được chỗ nọ thì hỏng
chỗ kia, vài con voi địch với một đàn hổ, dù thế mạnh đến đâu cũng không che chở cho được...”118.
Ta thấy Bùi Viện đã nhìn rõ khó khăn của các tàu buôn trên biển và sự
yếu kém trong công việc trị an ngoài bể của triều đình, từ đó ông đã đề xuất
giải pháp lập một đội quân để tiễu trừ giặc bể, bảo vệ các tàu buôn. Trong tờ
biểu tấu đề ngày 8 - 7 - 1876, Bùi Viện viết tiếp: “Hồi tháng 5 năm nay, hạ
thần đã đi kinh lý khắp miền duyên hải, trực tiếp với một phần lớn nhà buôn
có thuyền xuôi ngược ngoài khơi. Theo lời họ khai với hạ thần thì mỗi thuyền
bằng lòng nộp vào công quỹ hàng năm, một trăm phương thóc và ba mươi quan tiền để triều đình “bảo vệ” cho họ khỏi bị tàn hại vì giặc bể”119.
Rõ ràng là Bùi Viện đã nhìn thấy những mối hại do giặc Tàu Ô gây ra.
Trƣớc tình hình đó ông đã đề nghị triều đình thực hiện những biện pháp để
tiễu trừ giặc Tàu Ô. Cũng trong tờ biểu tấu đề ngày 8 - 7 - 1876, ông viết :
“ Triều đình nên lợi dụng ngay cơ hội này mà tổ chức một đội hải
quân, trước là trông nom cho các nhà buôn giao thông được thuận tiện- như
vậy mới có hy vọng thương nghiệp mở mang, sau chúng ta dần dần luyện tập
cho thủy thủ các quân thuyền về mặt thủy chiến để sau này có một đội hải
quân hùng tráng, sẽ có ngày dùng đến.
Nếu triều đình chấp thuận những đề nghị của hạ thần thì lập tức có thể
tổ chức được một thủy đội, trong đó có một ngàn người mà bảy trăm là dân
118 Thế Văn, Quang Khải: Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế kỷ XIX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 59. 119 Thế Văn, Quang Khải: Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr. 60.
65
chài lưới ở bến Trà Lý và ba trăm khác là những người Tàu rất thiện chiến
về mặt thủy, để làm những tên lính đắc lực. Chiến thuyền và khí giới thì do
nhà nước cung cấp cho họ.
Đội hải quân này sẽ đi tuần khắp miền duyên hải của nước ta. Đồng
thời họ phải làm cả ba việc: vận tải tiền lương của nhà nước, hộ vệ các nhà
buôn và trừ diệt những giặc bể hiện đương hoành hành ở Đông Hải.
Hải quân sẽ thuộc quyền chỉ huy của một vị quan cao cấp, lập bản
doanh tại Nam Định. Nhưng suốt từ Bắc Kỳ đến Quảng Nam, bến nào cũng
có lập thêm một đồn gọi là đồn quân phòng. Những đồn này sẽ do một vị
quan nhỏ cai trị. Đồn vừa là chi nhánh của đại doanh, vừa là trụ sở của quân
ta mỗi khi đổ bộ. Hạ thần xin đặt những đồn nhỏ ở mấy nơi như sau: Quảng
Nam, Đà Nẵng, Bàn Sơn, Nê Sơn, Ninh Hải.
Triều đình đã đặt ra đội “Tuần dương quân” nghĩa là đội quân đi tiễu
giặc ở ngoài bể, thì đội quân ở các tỉnh mà xưa nay chúng ta gọi là “quan
phòng” sẽ trở nên không có tác dụng gì. Thực ra từ khi đặt ra đến giờ, những
đội “quan phòng” ở các đồn duyên hải cũng không có ích gì cho nhà nước
cả. Vì chức trách của họ là phải phòng ngừa giặc bề, mà giặc bể thì chỉ
hoành hành ở ngoài khơi. Dù họ có biết đích là ngoài bể có giặc thì cũng chỉ đến giương mắt mà nhìn chứ không có cách gì xoay sở...”120.
Rõ ràng Bùi Viện đã nhận thấy sự vô dụng của đội quan phòng nhƣng
ông không chủ trƣơng loại bỏ hẳn. Theo ông, thì ngoài cửa Thuận An ra – là
hải cảng quan trọng nhất mà nhà nƣớc cần phải lƣu số lính phòng nhƣ cũ, còn
lại các đồn khác ba phần chỉ nên lƣu lại một mà rút đi hai. Nhƣng công dụng
của lính quan phòng sẽ thay đổi. Nếu trƣớc kia họ có trách nhiệm tiễu trừ
giặc biển thì từ nay chỉ nên giao cho họ nhiệm vụ là hỏi giấy thông hành của
những ngƣời ngoại quốc hoặc bản xứ qua lại các thƣơng cảng. Số lính đƣợc
66
bãi binh sẽ cho về nhà để họ sum họp với gia đình và thêm một số nhân công 120 Thế Văn, Quang Khải: Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr. 61-62.
mới để khai khẩn ruộng đất. Trong khi đó vua quan triều Nguyễn vẫn chƣa
nhận thấy tác dụng của Tuần dƣơng quân. Vua Tự Đức vẫn cho rằng:
“Đường biển rộng rãi đi tuần hết sao được, chỉ cho các thuyền vận tải của công và dân tuỳ tiện đi, giặc đâu có thể đón đường mà cướp hết được.”121.
Số tiền tiết kiệm về lính quan phòng, Bùi Viện cũng yêu cầu chia làm
ba phần: hai phần dùng vào việc sắm thuyền bè, khí giới và trả lƣơng cho
Tuần dƣơng quân, còn phần thứ ba thì lƣu lại công quỹ và chi tiêu vào các
việc cần yếu khác.
Kết luận tờ tấu, Bùi Viện cho rằng, nếu theo phƣơng pháp của ông thì
nhà nƣớc không tổn phí gì thêm, trái lại còn tiết kiệm đƣợc rất nhiều tiền gạo,
đồng thời đạt tới mục đích:
1. Trừ bọn giặc biển để bảo vệ an ninh cho các thuyền buôn và dân
quê miền duyên hải nƣớc Việt Nam.
2. Chấn hƣng nghề buôn bằng cách bảo đảm cho họ đƣợc yên ổn ở
chỗ chân trời mặt sóng.
3. Tổ chức việc vận tải của nhà nƣớc đƣợc chu đáo để khỏi hao hụt
công quỹ.
4. Huấn luyện cho “Tuần dương quân” thành một đội thủy quân mạnh
đủ sức bảo vệ vùng biển của tổ quốc.
Bùi Viện nhấn mạnh rằng tờ biểu tấu của ông mới chỉ là những điều
đại cƣơng. Nếu triều đình ƣng chuẩn ông sẽ trình bày những chi tiết minh
bạch về cách tổ chức. Đồng thời ông cũng xin đảm nhiệm lấy việc tổ chức
“Tuần dương quân” trƣớc khi thỏa thuận với Nguyễn Chính Lâm là Bố
chánh Quảng Nam kiêm chức Chủ sự Nha Thƣơng Chính.
Những ý tƣởng thiết thực của Bùi Viện nêu trong bản tấu đƣợc thể hiện
bằng văn phong rất giản dị nhƣng lôgíc và hợp lý. Những tƣởng rằng tập biểu
121 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 33, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1975, tr. 20.
67
tấu của Bùi Viện sẽ đƣợc triều đình Huế rất hoan nghênh, thế nhƣng nó lại bị
nhiều vị đại thần ganh ghét phản đối. Cuối cùng vua Tự Đức cũng đã đồng ý
để xem xét thực hiện việc này. Bùi Viện đƣợc phong chức Tuần Hải Nha
Chánh quản đốc – một chức tƣơng tự nhƣ Bộ trƣởng Bộ Hải quân kiêm Hàng
hải và Thƣơng mại của các nƣớc phƣơng Tây. Ông lập tức bắt tay và làm
việc một cách cấp bách. Ông dâng biểu tấu lên vua Tự Đức trình bày về ý
nghĩa của việc lập Tuần dƣơng quân, sau đó lại soạn thảo khá đầy đủ bản
quân luật bao gồm 20 khoản rất nghiêm minh. Ông tiến hành thu phục một số
giặc cƣớp làm bề tôi triều đình, tuyển ngƣời vào Tuần dƣơng quân. Những
việc làm của ông đã mạng lại kết quả to lớn. Ông đã thu phục đƣợc nhiều
tƣớng giặc xƣa nay vẫn nổi tiếng ở Biển Đông. Những ngƣời đƣợc ông bổ
nhiệm chức đội trƣởng ở xuất đội phần lớn là những ngƣời rất can đảm và
giỏi thủy chiến.
Bùi Viện chia Tuần dƣơng quân làm hai đoàn:
Đoàn thứ nhất toàn ngƣời Hoa do ngƣời Hoa chỉ huy. Đoàn này lấy tên
là “Thanh đoàn” mặc áo nẹp xanh. Đây là kế sách “dùng người Hoa trị người
Hoa” của ông. Đoàn thứ hai gồm toàn ngƣời Việt, lấy tên là “Thủy dũng”,
mặc áo nẹp đỏ. Cả hai đoàn cùng thuộc quyền chỉ huy của Bùi Viện. Ông
cũng tiến hành đóng thêm hai trăm thuyền lớn, lập làm thủy đội và tiến hành
huấn luyện quân sĩ theo hiệu lệnh mà ông soạn ra. Cuối cùng Tuần dƣơng
quân cũng đƣợc chính thức thành lập và tiến hành tấn công tiêu diệt giặc Tàu
Ô.
Nhờ có đội thủy quân của Bùi Viện hộ tống nên các đoàn thuyền chở
lƣơng tiền của triều Nguyễn từ Bắc Kỳ vào và từ mạn Quảng Nam ra Huế
đều an toàn. Các nhà buôn trên mặt biển cũng nhờ đấy đƣợc yên ổn làm ăn.
Sự khôn khéo chỉ huy của Bùi Viện giúp cho lực lƣợng Tuần dƣơng quân
ngày càng thêm đông, thêm vững mạnh. Giặc Tàu Ô bị lực lƣợng Tuần
68
dƣơng quân nhiều lần đánh cho tan tác, chịu tổn thất rất nhiều. Vì vậy, nhiều
bọn hải tặc đã phải bỏ hải phận Việt Nam quay về hải phận Trung Hoa để
hành nghề cƣớp bóc. Số còn lại phải ra hàng và đã đƣợc Bùi Viện thu dụng.
Đƣợc sự đồng ý của vua Tự Đức, Bùi Viện đã lập chi điếm của Nha
Tuần hải ở Nam Định, tiếp đến là ở thƣơng cảng Ninh Hải. Tại nơi này, ngoài
những chỗ làm việc của các quan chức của Nha Thƣơng chính, Bùi Viện lập
ra kho chứa hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động buôn bán. Sau đó
Bùi Viện tiếp tục mở các chi điếm ở Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng và
Quảng Nam. Mỗi việc làm của Bùi Viện đều mang lại những lợi ích đáng kể
cho triều đình về mặt quân sự và thƣơng nghiệp.
Tại Huế, Tuần dƣơng quân là một đạo quân mới do Bùi Viện thành
lập, thay thế cho đội lính quan phòng của triều đình trƣớc đó. Tuần dƣơng
quân chia đóng các đồn rải rác ở mặt sông Hƣơng. Những đồn này hầu hết là
xây bằng gạch, bốn góc có pháo đài quan sát kiên cố, chung quanh đồn, Bùi
Viện cho dàn súng đại bác, trên đồn có Tuần dƣơng quân thay nhau canh gác
nghiêm ngặt. Tại Kinh thành, trụ sở của Nha Tuần hải là Lầu Thƣơng Bạc.
Lầu này ở trên bờ sông Hƣơng, chếch với Thƣợng Tứ, tức là cửa Đông Nam
Hoàng Thành. Trong lầu, Bùi Viện đặt các phòng giấy của Nha Thƣơng
chính, đồng thời cũng là Bộ Tổng tƣ lệnh của Tuần dƣơng quân.
Bùi Viện tuy không viết nhiều nhƣng chính những việc ông làm đƣợc
đã thể hiện tƣ duy hƣớng biển của ông. Quan niệm mới mẻ của ông về chiến
tranh và quốc phòng. Ông đã nhận thức đƣợc rằng muốn bảo vệ đất nƣớc
không phải chỉ xây dựng bộ binh là đủ, mà phải tăng cƣờng thủy binh, xây
dựng một đội thủy quân hùng mạnh, nhƣ vậy mới có thể chống lại sự xâm
lƣợc của phƣơng Tây mà trực tiếp ở đây là thực dân Pháp. Thực dân Pháp
biết đến nƣớc ta là qua đƣờng biển và cũng xâm lƣợc nƣớc ta bằng đƣờng
biển. Vì vậy ta muốn đánh giặc phải đánh chúng ngay ở trận địa trên biển.
Cùng chung quan điểm với Bùi Viện là Nguyễn Trƣờng Tộ. Nguyễn
69
Trƣờng Tộ hiểu rõ vấn nạn hải tặc, ông nêu nhƣ sau: “Giặc biển là mối hại
chung cho cả nước ta, nạn này đã lâu lắm rồi chẳng phải một sớm một chiều
nữa mà tương lai biết đến lúc nào thì hết, nghiễm nhiên là một giặc dai dẳng.
Những thứ giặc khác cũng có lúc bại vong chứ bọn giặc biển này thì cha
truyền con nối. Nước ta bị chúng nhiễu hại, nếu chỉ một vài năm còn có thể
dần dà mong khỏi, nếu chỉ có một vài lần thì có thể tìm cách bắt. Nhưng
chúng tới lui chẳng phải có một hai năm, cướp bóc giết hại chẳng phải chỉ
một hai lần nữa. Sự tổn thất của công và của tư mỗi năm kể có số vạn, đương
thương mại không thông thương, hàng hoá ứ đọng thật là một cái hại lớn cho
sinh dân. Năm nay qua năm khác chẳng đã thiệt hại hàng ức triệu đó sao?
Dân ven biển, những nhà buôn bán giàu sang là cửa họng của cư dân thượng
hạ bạn, thế mà mấy năm nay bị chúng cướp phá hết không biết bao nhiêu nay trở thành nghèo cùng”122.
Để tiễu trừ hải tặc, Nguyễn Trƣờng Tộ đề xuất bốn biện pháp nhƣ sau :
1. “Thương lượng với người Pháp ở sài Gòn để họ cho tầu tuần tiễu
giúp dẹp bọn cướp biển.
2. Đóng tiền cho hội bảo hiểm ở Sài Gòn để họ tiễu trừ giặc biển.
3. Mỗi tỉnh mua một, hai thuyền máy để tự mình tiễu trừ giặc biển.
4. Buộc các thuyền buôn của Trung Quốc phải có giấy thông hành để
tránh nạn thuyền buôn và thuyền giặc lẫn lộn”123.
Theo Nguyễn Trƣờng Tộ cần phải xây dựng cơ sở quân sự ở các nơi
hiểm yếu và quan trọng. Trƣớc tiên phải “xem xét thật kỹ địa hình”, sau đó
xây dựng đồn lũy, nhất là “ở các cửa sông”. Ông còn đề xuất: “Ở các cửa
122 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo/ Bản di thảo số 38: Tiễu trừ giặc biển, Sđd, tr. 310. 123 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo/ Bản di thảo số 38: Tiễu trừ giặc biển, Sđd, tr. 310-312. 124 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Sđd, tr. 430.
70
biển và tỉnh thành, kinh thành chỗ nào cần có tường hào thì đều xây hào ngay thẳng chỉnh tề”124.
Nguyễn Trƣờng Tộ còn nhận thấy sự cần thiết phải hiện đại hoá các
trang thiết bị quân sự để có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu trong tình hình mới. Sự
lạc hậu về vũ khí chính là một nguyên nhân dẫn tới thất bại khi có chiến
tranh: “Người xưa làm cung tên để đánh giặc, sử dụng giỏi có thể thắng.
Nhưng nay đem địch với đại pháo thì cung tên chỉ là trò chơi con nít mà thôi. Cho dẫu có tài bắn hay cũng khó tránh khỏi thua bại”125. Muốn tránh điều đó
“phải chế tạo các loại vũ khí mới lạ, có thể đối phó được với giặc, cất vào kho vũ khí để sử dụng khi cần thiết”126.
Nếu nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ và Bùi Viện mới chỉ nhấn mạnh đến việc
cần thiết phải bảo vệ hải phận để chống hải tặc, bảo vệ dân chúng và các
thƣơng cảng thì Nguyễn Lộ Trạch đã nâng tầm vai trò của biển trong chiến
lƣợc phòng thủ quốc gia. Nguyễn Lộ Trạch là con rể của Thƣợng thƣ Bộ
Binh Trần Tiễn Thành. Cha ông cũng từng là Thƣợng thƣ Bộ Hình. Tuy
nhiên, ông không chịu theo lối mòn khoa cử ở các nho sĩ đƣơng thời mà say
sƣa tìm đọc các tân thƣ, hƣớng tầm nhìn ra thế giới bên ngoài. Mặc dù không
giữ một chức vụ gì, nhƣng ông thƣờng xuyên quan tâm tha thiết đến vận
mệnh đất nƣớc trƣớc họa xâm lăng: “Chớ thấy đất nước loạn lạc mà sợ hãi,
lẩn tránh. Một ngày còn có trách nhiệm với đời này thì một ngày còn có việc phải làm”127. Trƣớc khi thực dân Pháp chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ, ông thƣờng
xuyên viết thƣ trao đổi với các vị phụ chính đại thần và viết hai bản điều trần
“Thời vụ sách thượng” và “Thời vụ sách hạ” dâng lên vua Tự Đức, trình bày
quan điểm của mình và kiến nghị những giải pháp nhằm duy tân đất nƣớc.
Những bài luận và thƣ từ nói trên đã đƣợc ông tập hợp thành một tập sách
mang tên “Quỳ ưu lục”. Những bộ sách này, đã thể hiện tƣ duy quân sự biển
125 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Sđd, tr. 434. 126 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Sđd, tr. 434. 127 Lạc Dƣơng: Những đề nghị cải cách ở cuối thế kỷ XIX/ Quỳ ưu lục (tài liệu nghiên cứu), Thƣ viện Khoa Lịch Sử, Trƣờng Đại học KHXH & NV Hà Nội, tr. 21.
71
hết sức lỗi lạc và mới mẻ của Nguyễn Lộ Trạch.
Trong tác phẩm “Quỳ ưu lục”, Nguyễn Lộ Trạch viết: “Tôi đã từng
nghĩ nước ta tuy có dài vạn dặm, song đều theo chiều dọc, trên nương núi,
dưới tựa biển, nếu họ dùng vài mươi chiếc tàu hoả, sớm mai đến miền Hải -
Vân, buổi chiều đến miền Hoành Sơn, nay khuấy rối vùng Nam Nghĩa, mai
đánh phá miền Nghệ An, Thanh Hoá trong chốc lát lại phái tàu qua lại ngoài
hải phận Thuận An, không chỉ việc vận tải không thông kinh sử sẽ mang nạn
đói mà đường giao thông Bắc - Nam bị ngăn trở, lệnh trưng triệu không đi
khắp được, như thế dầu chưa đến chí nguy, song ta đã khó bề ứng phó biết bao!”128. Ông đã nhận thấy những khó khăn và bất lợi của nƣớc ta khi thực
dân Pháp đánh từ biển vào. Từ đó Nguyễn Lộ Trạch cũng đƣa ra quan niệm
hết sức rõ ràng về việc phân định chiến trƣờng phòng thủ, giữ nƣớc. Ông
viết: “Đến thủ là một phương sách phòng hoạn trù biện mà chưa phải yếu
thuật ngư giặc. Vả thủ có hai thuyết:
Nguỵ Nguyên có nói giữ người Dương không bằng giữ các hải khẩu,
giữ hải khẩu không bằng giữ nội hà.
Trái lại tôi thấy giữ nội hà không bằng giữ hải khẩu, giữ hải khẩu
không bằng giữ oai ngoài biển. Nay lấy toàn lực cả nước giữ phần nội hà
không phải là thiên sách, huống nước ta đường biển làm cương giới, con
đường vận tải dài tải đều nhờ ngoài biển, nếu bỏ đường biển không giữ thì
không có đường nội nào giữ thành, không có thành luỹ nào bền chắc, ruộng
đất phì nhiêu sẽ xem như vật thừa mà chui vào trong rừng sâu núi rậm cùng
thú dữ mà cùng làm xóm riềng; đâu có hiểm trở mà thứ ruộng sơi đó không
làm gì có hoa lợi nuôi sống sẽ nương cậy vào đâu mà dựng nước nhà? Vậy bỏ mặt biển mà nói thủ, thật không chỗ nào mà thủ cho vững chắc được”129.
Nhƣ vậy, Nguyễn Lộ Trạch phê phán triều đình chỉ theo lối quân sự
128 Lạc Dƣơng: Những đề nghị cải cách ở cuối thế kỷ XIX/ Quỳ ưu lục, Sđd, tr. 2. 129 Lạc Dƣơng: Những đề nghị cải cách ở cuối thế kỷ XIX/ Quỳ ưu lục, Sđd, tr. 2.
72
truyền thống từ thời Trung cổ, coi chiến trƣờng chỉ có trong đất liền, đánh
nhau chỉ bằng sức ngƣời với vũ khí thô sơ. Bấy giờ trƣớc sự xâm lƣợc của
thực dân Pháp, quân triều đình liên tiếp thua trận, thành Gia Định đƣợc xây
rất kiên cố theo kiểu phòng thủ trƣớc kia “thành cao, hào sâu” vậy mà chỉ
mấy phát đại bác của Pháp thôi đã bị phá hủy hoàn toàn. Điều này đã chứng
minh cách phòng thủ và cách đánh truyền thống đã trở nên vô tác dụng, vậy
mà triều đình vẫn theo quan niệm cũ, chỉ giữ “phần nội hà” mà không phòng
thủ ngoài biển đó. Theo Nguyễn Lộ Trạch đó là một sai lầm.
Trong tác phẩm “Thiên hạ đại thế luận”, Nguyễn Lộ Trạch đã khẳng
định việc cố thủ ngoài biển, lấy biển làm cƣơng giới và nêu lên những lý do
giải thích tại sao nên giữ ở cửa biển mà không giữ ở cửa sông:
“... Còn bàn đến việc giữ, đó chỉ là một cách phòng thủ biên cương mà
chưa phải là phương sách trọng yếu chống giặc. Thuyết chủ trương giữ cho
rằng: “Giữ ngoài biển không bằng giữ cửa biển. Giữ cửa biển khồng bằng
giữ trong sông”. Trái lại, tôi cho rằng: “Giữ trong sông không bằng giữ cửa
biển. Giữ cửa biển không bằng giữ ngoài biển. Trung Quốc đem toàn lực giữ
trong sông còn không phải là chước đúng. Huống chi nước ta, biển làm
cương giới, lợi nhờ vào biển bạc, vận tải tàu thuyền đều nhờ vào đường biển.
Nếu bỏ đi không giữ thì không còn thành trì đâu để mà cố giữ, không còn
làng mạc nào được yên ổn. Như thế khác nào coi ruộng đất phì nhiêu như vật
thừa, để chui vào trong núi sâu rừng rậm, cùng thú dữ ma rừng làm làng
xóm. Ở đó dù có hiểm trở, nhưng đất ruộng sỏi đá không làm gì ra hoa lợi tự nuôi sống”130.
Mặc dù nhận thức đƣợc rõ nguy cơ tấn công từ phía biển, nhƣng triều
Nguyễn không xác định biển là chiến trƣờng chiến lƣợc. Triều đình coi trọng
việc phòng thủ các cửa sông và đất liền hơn. Năm Tự Đức thứ 13 (1860):
130 Mai Cao Chƣơng, Đoàn Lê Giang: Nguyễn Lộ Trạch: điều trần và thơ văn/ Thiên hạ đại thế luận, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1995, tr. 95.
73
“Vua cho rằng thuyền Tây Dương chia đi nhiều ngả, ta giữ ở các cửa biển
không bằng giữ ở trong sông. Sai các địa phương ven biển, chọn những chỗ
sông hẹp nhỏ có thể giữ được, thì đắp đồn bảo vệ cho vững chắc, đặt nhiều súng khí giới”131. Trái với tƣ duy đó Nguyễn Lộ Trạch đã nhận thức đƣợc
phòng thủ ngoài biển là quan trọng hơn.
Tuy nhiên với tình hình lúc đó muốn thủ đƣợc thật là vô cùng khó
khăn. Nguyễn Lộ Trạch không phải là không nhận ra điều đó, ông viết: “Thủ
ngoài mặt biển không phải chiến là gì? Ngày nay nói chiến, tôi cũng tự biết
là nói càn, vì súng cũ, thuyền xưa không phải khí cụ có thể thủ thắng. Song
cần phải nghiên cứu chỗ sở trường của họ mà gắng sức dụng công làm cho
thế lực ngang họ được thì nay tuy chưa làm gì để mà không phải là hoàn
toàn không có cơ hội vẫy vùng nên giữ ngoài biển là yếu sách. Ngày nay mà
muốn giữ ngoài biển, ngoài tầu bền súng lợi ra chẳng có kế sách gì khác”.
“Trước kia ta không tàu, không pháo, không sao lường được tình hình bên
địch. Cho nên họ chỉ dùng vài chiếc tàu, sớm vào Nam, chiều ra Bắc, buộc ta
phải phòng giữ nhiều bề mà ta không biết đâu là đâu. Nay nếu ta có tàu có
pháo, giữ chốn cửa biển để chắc nơi căn bản, tuần tiễu trên mặt biển để phô
trương thanh thế. Nếu miền Đông bị đánh ta sẽ phòng ngự bên trong, quấy
phá bên ngoài... Nếu mình có tinh binh, đi tàu hơi nước, ngày đêm tuần tiễu nghìn dặm trên mặt biển khi có việc gấp cũng dễ bề hô ứng”.132
Từ quan niệm về chiến trƣờng là “biển”, hoàn toàn khác với chiến
trƣờng trong tƣ duy quân sự truyền thống là “đất” hay “sông”, nên quan niệm
về phƣơng tiện chiến đấu của Nguyễn Lộ Trạch cũng khác. Chiến tranh bây
giờ là phải sử dụng: tàu chiến, đại bác, súng... chứ không phải các vũ khí thô
sơ nhƣ gƣơm, kiếm, tên và nỏ. Tuy nhiên với tình hình nƣớc ta lúc ấy mà nói,
muốn có đại bác, tàu chiến thật không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, ông
cũng nhìn nhận: “Không thể cứ tin chắc cửa biển có thể giữ bền được mà chỉ
74
dụng công đóng cừ và sắt làm khoá, đến lúc ngoài biển không cần giữ theo 131 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 29, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1974, tr. 61. 132 Lạc Dƣơng: Những đề nghị cải cách ở cuối thế kỷ XIX/ Quỳ ưu lục, Sđd, tr. 3.
ngu kiến chưa lấy gì làm vẹn toàn được”133. Chính vì nhìn nhận đƣợc sự thật
nhƣ vậy nên phần cuối của “Quỳ ưu lục”, Nguyễn Lộ Trạch thể hiện tƣ tƣởng
giảng hòa chứ không đánh. Tuy nhiên chữ “hòa” của ông không phải là đầu
hàng địch, là chấp nhận làm nô lệ mà hòa là để kéo dài thời gian, tận dụng cơ
hội để canh tân đất nƣớc, sau đó khi đất nƣớc mạnh lên mới đánh.
Vào lúc bấy giờ, ta có thể thấy tƣ duy quân sự của Nguyễn Lộ Trạch
là vô cùng tiến bộ. Ngày xƣa cha ông ta đánh giặc lấy trận địa chủ yếu trên
đất liền, hoặc trên sông. Ngay cả Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên
sông Bạch Đằng cũng là thắng trên sông chứ không phải trên biển. Nay các
nhà canh tân, lấy trận địa chủ yếu là biển, thể hiện một cách nhìn mới, một tƣ
duy mới về quân sự.
Phạm Phú Thứ cũng là một trong những ngƣời có tƣ tƣởng canh tân
trong triều đình lúc bấy giờ. Mặc dù tƣ duy quân sự biển của ông không đƣợc
thể hiện nhiều trong các tác phẩm nhƣng ông lại là ngƣời hết sức ủng hộ Bùi
Viện trong việc lập nên Tuần dƣơng quân và các tƣ tƣởng của các nhà cải
cách trong khi nó không đƣợc chấp nhận. Ông đã từng tâu lên vua Tự Đức:
“Xin thuê tàu máy của tướng nước Phú, kèm theo thuyền của quân ta đi ngay
đến đánh phá sào huyệt của giặc ở Đồ Sơn, thẳng vào đường sông đánh phá
vào nơi trung tâm của giặc, phía tả thông với Hải Dương, phía hữu viện trợ cho Quảng Yên đường thuỷ thẳng thì giặc phải run lòng.”134
Nhìn chung tƣ duy quân sự biển của các nhà cải cách Việt Nam là khá
mới mẻ. Họ đã thoát ra khỏi tƣ duy quân sự truyền thống của triều đình
phong kiến. Họ tạo nên một hệ thống những tƣ duy về quân sự biển nhƣ: coi
chiến trƣờng là biển, lấy vũ khí là tàu đồng, đại bác, lấy thuỷ binh làm mũi
133 Lạc Dƣơng: Những đề nghị cải cách ở cuối thế kỷ XIX/ Quỳ ưu lục, Sđd, tr. 3. 134 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 29, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1974, tr. 317.
75
nhọn chiến đấu, và chú trọng phòng thủ ven biển. Với những ý tƣởng đó,
chúng ta có thể coi những nhà cải cách là những nhà quân sự biển tài ba của
thế kỷ XIX.
2.3. Mở thƣơng cảng biển
Trƣớc đây, triều Nguyễn thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”,
đóng cửa không giao lƣu buôn bán với các nƣớc phƣơng Tây. Vua Tự Đức đã
từng nói rằng: “Thông thương là việc rất cần kíp duy chỉ nước khác làm thì
dễ, mà ta làm thì khó, vì các dân châu Âu phần nhiều theo nghề buôn, lại
khéo đi biển, những nơi biển rộng đảo xa, không chỗ nào là không đi đến, đi
đến đâu lấy mới lạ làm thân thiết, cho nên kéo cả bọn đến được. Nước ta từ
trước cấm ra nước ngoài, dân không đi buôn xa, trong nước không có bọn buôn mà muốn giắt người buôn nước ngoài đến, thế chưa thể vội được”135.
Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX, dù triều đình có muốn đóng chặt cửa nhằm
tránh sự xâm lƣợc từ bên ngoài thì cũng không đƣợc nữa. Việt Nam trở thành
một trong những tâm điểm nhòm ngó của các nƣớc thực dân phƣơng Tây,
đặc biệt là thực dân Pháp. Vì vậy, triều Nguyễn dù có đóng cửa thì họ cũng
quyết phá cho đƣợc. Trƣớc tình cảnh đó, những nhà cải cách chủ trƣơng phải
tiến hành “mở cửa” và giao lƣu với nƣớc ngoài. Mà muốn “mở cửa” giao lƣu
với nƣớc ngoài thì đƣơng nhiên là phải mở các cảng biển. Việc mở các cảng
biển đƣợc các nhà cải cách đặc biệt đề cao. Chính những chuyến xuất dƣơng
từ Đông sang Tây đã giúp các nhà cải cách nhận ra những bí quyết cơ bản
dẫn đến sự phát triển của các cƣờng quốc phƣơng Tây. Đó là tôn trọng quyền
tự do của con ngƣời, phát triển và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật
vào sản xuất hàng hoá, và mở rộng quan hệ giao thƣơng trên thế giới.
Nhà cải cách Phạm Phú Thứ đã bị cuốn hút mạnh mẽ bởi sự hoạt động
tấp nập của thƣơng cảng Marseilles ở Pháp, còn Bùi Viện đã bị cuốn hút bởi
135 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 35, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1976, tr. 90.
76
sự phát triển của Ma Cao và Hƣơng Cảng. Đây là hai trong số những trung
tâm giao dịch trong tuyến thƣơng mại trên biển quan trọng giữa phƣơng Tây
và phƣơng Đông.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của biển trong vai trò giao thƣơng
quốc tế, Phạm Phú Thứ và Bùi Viện tha thiết kêu gọi triều đình sớm mở các
cửa cảng ven biển để tăng cƣờng quan hệ buôn bán với phƣơng Tây. Hai ông
là những ngƣời có công lớn nhất trong việc xây dựng thƣơng cảng Ninh Hải.
Phạm Phú Thứ là ngƣời khai mở ý tƣởng xây dựng cảng Ninh Hải, còn Bùi
Viện là ngƣời thực hiện ý tƣởng đó.
Bùi Viện sinh ra ở đất Trình Phố, tổng An Bồi, một vùng cửa biển Trà
Lý (Thái Bình). Ông không tập đi biển mà theo nghiệp đèn sách tập và cày
cuốc. Nhƣng từ lúc bé đến khi trƣởng thành ông luôn gần gũi với biển quê
hƣơng. Từ nhỏ ông đã sống với biển, ông đã hòa mình và hiểu biết nhiều về
đời sống, cảnh ngộ và tâm tính của dân đi biển, về nghề ra khơi vào lộng của
họ, về đời sống thƣơng nhân thƣờng neo thuyền buôn bán trên cửa biển.
Bằng chứng của sự hiểu biết này là về sau ông đã chọn 700 tráng đinh Trà Lý
theo nghề biển vào Tuần dƣơng quân của ông. Ông đã học đƣợc nhiều điều
về đất nƣớc, về thời đại từ đời sống nơi cửa biển Trà Lý quê ông. Chính
những vốn kiến thức, vốn sống này, tƣ chất con ngƣời của biển này đã là cái
vốn quan trọng nhất và là hành trang có sức nặng nhất giúp ông từ một nho
sinh sớm có xu hƣớng noi theo văn minh kỹ nghệ và thƣơng mại phƣơng
Tây.
Lúc ấy các cửa biển Trà Lý, Ninh Hải đƣợc đƣa ra bàn luận để xem mở
cửa nào có lợi hơn. Tháng 9 năm 1868, Trần Đình Túc, Nguyễn Duy Tế, tâu
xin mở cửa biển Trà Lý (Thái Bình). Quan doanh điền sứ Nam Định, tiến sĩ
Doãn Khê đề nghị bảy điều mở mang kinh tế, thì tâu xin không chọn Trà Lý,
vì thổ nhƣỡng, địa hình và thủy triều đều không thuận lợi cho việc mở cảng,
lập phố. Tháng 1 năm 1873, Viện Thương Bạc lại tâu xin mở ba cửa biển Đà
77
Nẵng, cửa Ba Lạt, cửa Đồ Sơn. Cuối cùng thì cửa Ninh Hải đã đƣợc chọn.
Bùi Viện ngƣời có công lớn trong việc chọn địa điểm mở cảng biển Ninh Hải
và chỉ đạo triển khai kế hoạch ban đầu.
Việc tham gia lựa chọn và triển khai xây dựng cảng Ninh Hải làm cảng
biển của Bắc Kỳ thực sự đã phản ánh tầm nhìn và quan điểm tiến bộ của Bùi
Viện. Cửa khẩu Ninh Hải vốn có từ trƣớc nhƣng vì lý do quốc phòng an ninh
nên hoạt động giao thƣơng ở đây kém nhiều so với các cửa Ba Lạt, Trà Lý ở
Sơn Nam Hạ. Vào những năm 60 của thế kỷ XIX, tiền thuế thu đƣợc ở cửa
Trà Lý cao hơn nhiều số thu ở cửa Ninh Hải. Hòa ƣớc Nhâm Tuất 1862, thực
dân Pháp cũng đòi mở cửa khẩu Trà Lý và Quảng Yên ở Bắc Kỳ chứ cũng
chƣa nhắc đến Ninh Hải. Thế mà Bùi Viện lại đề xuất và trực tiếp chỉ huy
đôn đốc mở cảng biển xứ Bắc Kỳ ở Ninh Hải. Diễn biến phù sa ở các vùng
cửa sông Liêu, cửa Lác, cửa Ba Lạt, cửa Trà Lý và cửa Cấm hơn một trăm
năm qua càng xác định vị trí quan trọng của cửa Cấm và cảng Hải Phòng.
Việc xây dựng cảng Ninh Hải cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Bùi Viện.
Ông không bị óc cục bộ địa phƣơng (ông quê ở trấn Sơn Nam hạ, thuộc tỉnh
Thái Bình ngày nay) chi phối khi phải lo việc nƣớc. Tài năng và công lao của
Bùi Viện đối với đất nƣớc trong việc mở cảng Ninh Hải ngay lúc ông còn
sống đã đƣợc nhiều ngƣời đánh giá cao.
Ninh Hải lúc ấy chỉ là một xóm nhỏ lác đác với dăm ba ngôi nhà lá của
dân chài nằm giữa phù sa hoang vu gần cửa sông Cấm. Nơi đây cũng là sào
huyệt của bọn cƣớp biển. Thực tế thì, thời gian Bùi Viện trực tiếp đốc thúc
xây dựng cảng Ninh Hải không lâu, với 200 lính và phu, vốn đầu tƣ xây dựng
không lớn. Cuối năm 1872, theo yêu cầu của Tổng đốc Hải Dƣơng Phạm Phú
Thứ, ông lại phải bàn giao việc xây dựng cảng cho ngƣời khác để về giúp
việc tiễu phỉ. Do đó, ông chỉ có khoảng 10 tháng triển khai các công trình xây
dựng, có lẽ cũng chỉ mới làm đƣợc đồn Hải Phòng và Nhà Thƣơng chính mà
78
thôi vì ba đồn Ninh Hải nhất, Ninh Hải nhì, Ninh Hải tam đã đƣợc nhắc đến
từ năm Tự Đức thứ 22 (1869). Nhƣng điều quan trọng nhất là ở ý tƣởng và
ông là ngƣời xây nền đắp móng cho ý tƣởng đó trở thành hiện thực.
Năm 1871, Bùi Viện bắt tay vào việc xây dựng cảng Ninh Hải. Ông
tuyển mộ binh lính, dân phu để đào sông tháo nƣớc ra biển, vƣợt đất lên cạn
để làm vƣờn tƣợc, nền nhà, trục đƣờng giao thông: “Ban ngày ông đốc thúc
dân phu đào sông để tháo nước ra bể, và vượt đất làm vườn, hoặc nền móng
cho các phủ đệ sau này. Rồi đêm đến lại phải phòng giặc Tàu Ô ngoài bể
tràn vào, hoặc thổ phỉ nổi lên cướp phá dân gian, gián tiếp phá hoại công cuộc kiến thiết của chính phủ”136.
Năm 1874, Phạm Phú Thứ đƣợc triều đình bổ nhiệm chức Tổng đốc
kiêm Tổng lý thƣơng nghiệp đại thần ở Hải Yên (Hải Dƣơng và Quảng Yên).
Tại đây ông đã cùng lãnh sự Pháp thành lập Nha thương chính Hải Ninh và
đƣa thƣơng cảng Ninh Hải vào hoạt động. Ông còn mạnh dạn đề nghị ngƣời
Pháp giúp ta dạy nghiệp vụ kinh doanh. Những hoạt động thƣơng mại ở Ninh
Hải diễn ra khá tấp nập và đã mang lại những hiệu quả kinh tế đáng kể.
Với sự cố gắng của Bùi Viện và Phạm Phú Thứ, ít lâu sau Ninh Hải
trở thành cảng biển buôn bán tấp nập, trên bến dƣới thuyền với phố xá, làng
mạc sầm uất, có cơ quan phòng thủ suốt một vùng duyên hải, có Tòa Thƣơng
chính phụ trách việc đánh thuế tàu thuyền ra vào. Bùi Viện và Phạm Phú Thứ
đã tự khẳng định là một nhà tổ chức kinh tế, công tác thủy lợi có tài, biết kết
hợp kinh tế với an ninh quốc phòng, khi bắt tay xây dựng cảng Ninh Hải.
Ninh Hải còn đƣợc gọi là Hải biên phòng thủ, tức là phố cảng Hải Phòng
hiện nay.
Cùng quan điểm với Bùi Viện, có Nguyễn Trƣờng Tộ. Ông là ngƣời
đầu tiên nêu lên một cách có hệ thống những quan điểm và phƣơng pháp
136 Phan Trần Chúc: Bùi Viện với chính phủ Mỹ, lịch sử ngoại giao thời Tự Đức, Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1953, tr. 25.
79
canh tân đất nƣớc, trong đó chú trọng đặc biệt việc mở mang kinh tế theo
phƣơng hƣớng mới, khác hẳn cách nhìn, cách nghĩ, cách làm của vua Nguyễn
và nho sĩ đƣơng thời. Những kiến nghị kinh tế của Nguyễn Trƣờng Tộ rất
phong phú, bao gồm từ đƣờng lối chung về sinh tài đến nông chính, khai
khoáng, giao thông, đạc điền, thống kê, việc lập các hội buôn… nhƣng đáng
chú ý nhất là ông đề nghị mở cửa cảng để giao lƣu thông thƣơng với bên
ngoài.
Nguyễn Trƣờng Tộ phê phán tƣ tƣởng bảo thủ, phê phán quan niệm
“mở cửa buôn bán là mở cửa cho giặc vào”. Ông viết: “…Cửa bể khắp các
nước phương Đông đã khai thông cả thì tại sao một mình nước ta lại có thể đóng kín được”137. Từ trên thực tế của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,
Nguyễn Trƣờng Tộ đã chua chát nói rằng: “Chỉ riêng một mình nước ta thi
hành đường lối khác, cho nên thiên hạ cho nước ta là một nước li kỳ nhất.
Triều đình ta từ trong khoảng từ Gia Long đến Minh Mạng hợp tác với người
Tây, thường phái thuyền đi du hành các nước trở nên dần dần hưng thịnh.
Nếu không có lệnh đóng của đuổi khách bạn ra, mà theo đường lối ấy tới nay
thì ta cũng có thể sánh vai dong duổi cùng thiên hạ và người Pháp cũng không thể tác oai, tác quái với ta được”138.
Năm 1866, ông gửi bản điều trần về việc học thực dụng lên vua Tự
Đức, nêu ra 14 điều, trong đó 11 điều bàn về kinh tế thực dụng, coi trọng
nghề nghiệp. Ông đặt khoa Hải lợi. Ông khuyến khích ai có vốn riêng hoặc
góp vốn đóng đƣợc thuyền lớn, mua đƣợc tàu có thể vƣợt biển đi buôn bán
với nƣớc ngoài cũng đƣợc thƣởng. Nguyễn Trƣờng Tộ nhấn mạnh: “Nước ta
một mặt là bờ biển, đất hẹp mà dài, đường bộ khó đi, cho nên lấy xa làm gần
thì chỉ có đường biển mà thôi. Đường biển của ta có ba cái hại lớn: Một là
137 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo/ Nên mở cửa chứ không nên khép kín, Sđd, tr. 410. 138 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo/ Nên mở cửa chứ không nên khép kín, Sđd, tr. 412.
80
gió bão, hai là giặc biển, ba là người Tây. Muốn trừ được ba cái hại ấy chỉ
có kế khai cảng. Khai cảng là một kế lớn có lợi lâu dài cho nước ta, thế mà
nhiều người không hiểu, chỉ thấy cái cực nhọc trước mắt, bàn chuyện cản
trở. Trong chính sách mở cửa, Nguyễn Trường Tộ có nói rằng: Lại nhân việc
mở mang này mà ta mở các cửa khẩu để thuyền bè các nước ra vào, ta ngồi
thu thuế mà tăng quốc dụng. Mặt khác có hoả thuyền qua lại trên mặt biển
thì cái hoạ giặc biển cũng dần dần tiêu diệt, sự sinh sống của nhân dân ta cũng dần thịnh vượng hơn”139.
Nguyễn Trƣờng Tộ nhấn mạnh nƣớc ta có đầy đủ các điều kiện tự
nhiên để mở cảng biển. Trong một văn bản gửi triều đình vào tháng 7 năm
1864, Nguyễn Trƣờng Tộ đã nói về vị trí địa lý, bản tính ngƣời Việt Nam và
điều kiện để tiến kịp ngƣời “tung hoành nơi bốn bể” nhƣ sau: “nhiều sông
chảy qua; từ bờ biển đến tận vùng rừng núi chỉ mất 5,6 ngày đi bộ mà thôi…,
thật là một nơi địa thế tốt nhất trên quả cầu. Người các nước đã từng ngợi
khen, chính cũng vì núi sông gần nhau, cân đối nhau, mối lợi của nó rất lớn”140.
Nhƣ vậy Nguyễn Trƣờng Tộ đã khẳng định đƣợc lợi thế của nƣớc ta
khi mở các cửa biển. Theo ông, mở các cửa cảng có thể tiễu trừ đƣợc giặc
biển và đánh đƣợc giặc Tây.
Bên cạnh Bùi Viện, Nguyễn Trƣờng Tộ, còn một số các quan lại cùng
chí hƣớng nhƣ: Phạm Phú Thứ, Trần Túc và Nguyễn Huy Tế. Họ đã đề nghị
triều đình mở các cửa cảng để mở rộng quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ buôn
bán với ngƣời nƣớc ngoài.
Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tế sau chuyến đi Anh vào năm Mậu Thìn
(1868), đã xin mở các cửa biển Trà Lý, Nam Định và đặt lãnh sự ở Hƣơng
Cảng. Họ tâu với vua Tự Đức rằng: “Chúng tôi xét cửa biển Trà Lý, thuộc
139 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Sđd, tr. 416. 140 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Sđd, tr. 389.
81
tỉnh Nam Định, bãi cát cao rộng, nhà cửa được yên ổn; cửa biển hơi sâu, tàu
thuyền đậu được vững vàng; đường thủy thông với tỉnh Nam Định, cũng là
một chỗ rất quan yếu; còn đường biển thời thuyền Thanh Hóa, Nghệ An, Hải
Dương và các xứ Nam Bắc đều tới đó nhóm đậu được; đường sông từ thời
Nam Định đến mấy hạt miền thượng du các tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình, Bắc
Ninh, Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang qua lại đều được tiện lợi.
Gần đây tàu buôn các nước tới đậu nhiều chỗ ấy cũng là chỗ tốt. Vậy xin cho
mở cửa hàng buôn bán cho dân tới buôn và nhóm của thiên hạ để tính việc lâu dài”141 . Họ nhấn mạnh tới yêu cầu “mở thương điểm thông thương với
bên ngoài, chiêu tập nhân dân trong thiên hạ, tụ hội hàng ngoài thiên hạ để tính cách lợi ích lâu dài sau này”142. Những việc này đƣợc vua Tự Đức giao
cho đình thần nghị bàn nhƣng sau cũng không đƣợc thi hành.
Đến tháng 1 – 1873, các quan ở Viện Thƣơng Bạc cũng xin mở ba cửa
biển ở Đà Nẵng, Ba Lạt và Đồ Sơn để thông thƣơng: “Mở cửa buôn bán ở
các hải khẩu Đà Nẵng, Ba Lạt, Đồ Sơn nhằm phát triển kinh tế hàng hóa, mở
rộng giao thương với bên ngoài nhằm nắm rõ tình hình thế giới. Việc làm
này có 5 điều lợi là nhóm dân ở bờ biển để làm bền vững bờ cõi đất nước,
tích chứa của cải trong dân và làm mạnh quân đội nhờ việc buôn bán, các cơ
sở buôn thiết lập dọc bờ biển thì tin tức thông suốt từ Đông sang Tây sẽ ngăn
được hải tặc, lập các sở buôn thì thuyền chiến phải có mặt ở đó vừa đuổi
được giặc lại vừa bảo vệ được các tàu vận tải, ta với ngoại quốc thông
thương hàng hóa thì lâu ngày sẽ biết nhau hơn mà dễ xem xét tình trạng của các nước ngoài”143. Tuy nhiên, trƣớc đề nghị này của Viện Thƣơng Bạc, vua
Tự Đức đã giao cho các quan trong triều cùng bàn bạc. Sau khi thƣơng thảo,
các quan tâu lên vua Tự Đức việc mở mang buôn bán có 5 điều lợi mà cũng
có 8 điều khó, chƣa nên làm vội, vì vậy đề nghị này của Viện Thƣơng Bạc bị
141 Quốc sử Quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 480. 142 Quốc Sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 480. 143 Quốc Sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 497.
82
gác lại. (Năm điều lợi đƣợc nêu ra là: 1. Nhóm dân ở bờ biển, nhân đó bền
vững bờ cõi ta; 2. Chứa của ở nơi dân, ngụ binh ở việc buôn; 3. Hãng buôn
dọc bờ biển, tin tức thông nhau, đông tây tiếp ứng, ngăn được giặc biển; 4.
Hãng buôn lập ra, thuyền chiến phải nhóm tại đó, đã đuổi được giặc cũng
bảo hộ được tàu vận tải nữa; 5. Ta với ngoại quốc thông thương, chứa các
hàng hóa, lâu ngày tinh nhau, nhân đó mà xét được tình trạng các nước. Còn
tám điều khó là: 1. Mở hãng buôn, nhóm kẻ giàu, tất phải có thành quách,
súng ống, binh bộ, tàu thủy, mới nương cậy được, mà ta nay của hết sức
cùng, chi phí không đủ. 2. Binh thủy và binh bộ phòng ngoài biển, phải cấp
lương hậu hơn cách thường, nay lính theo đánh giặc lương ăn như lệ cũ,
thành ra kẻ hậu người bạc sanh điều ta oán; 3. Phải cần người tài giỏi trí
cao quản độc việc buôn, mới có thể phủ ủy các người buôn xa và ứng tiếp
các nước; 4. Gắng gượng mở hàng, linh tinh từng phố, sao cho bền vững
được. 5. Vượt biển buôn bán phải xuất tiền công bổn thì dân mới vui theo, mà
bây giờ nhiều việc, không nên phí của kho và ép dân; 6. Chứa của nơi xa xôi,
chắc chắn là dân giàu sợ không tới, chỉ những nhà buôn nho nhỏ chịu mở
cửa hàng, thì lại làm mồi cho giặc; 7. Nhóm dân ở bờ biển mà không người
trong trấn để giữ trị, nếu có người khác tới giành, ở trong bọn buôn chắc có
kẻ tỏ tình với giặc, để lo cho nước nước về sau; 8. Lâu nay ta chưa lập cuộc
buôn, mà còn có kẻ chở trộm đồ quân trang vào sông và đem lén đồ cần thiết
cấm ra biển, huống chi nay mởi cuộc buôn tụ hội người các xứ, thì chứ kẻ dan dối sẽ gây họa chiến tranh)144.
Nhƣ vậy, tất cả các nhà canh tân đều có chung một điểm là mong
muốn “mở cửa” mở cảng biển để giao lƣu, buôn bán với nƣớc ngoài. Từ việc
thông thƣơng buôn bán với nƣớc ngoài mà ta có thể tránh đƣợc sự xâm lƣợc
thực dân Pháp, hay dù thực dân Pháp đã chiếm đóng toàn bộ Nam Kỳ, thì
việc mở cảng biển cũng làm cho kinh tế phát triển, tạo tiềm lực để chúng ta
144 Quốc Sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 497.
83
có thể đẩy lùi cuộc xâm lƣợc của chúng. Đây là một khía cạnh quan trọng
trong tƣ duy hƣớng biển nói riêng cũng nhƣ tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của
các nhà cải cách nói chung.
2.4. Phát triển kinh tế biển
2.4.1. Lập các hội buôn
Đặng Huy Trứ đã từng nói: “Làm ra của cải là một đạo lý lớn, không
thể coi thường” (Sinh tài đại đạo sự phi khinh). Trong cơ cấu xã hội “tứ dân”
truyền thống (sĩ, nông, công, thƣơng) thì thƣơng nhân là tầng lớp có địa vị
thấp nhất trong xã hội. Triều Nguyễn chỉ đề cao ngƣời học chữ thánh hiền,
mà không chú trọng đến tầng lớp thƣơng nhân, vì vậy phần lớn ngƣời dân
đều muốn theo đƣờng khoa bảng làm quan chứ không muốn phải đi buôn bán
khắp nơi. Tƣ tƣởng trọng nông ức thƣơng đã ăn sâu vào trong tiềm thức của
vua quan nhà Nguyễn. Dƣới thời vua Minh Mạng đã từng ban lệnh cấm ra
biển đi buôn. Đến thời vua Thiệu Trị năm 1842, Thự Tổng đốc Ninh – Thái
Nguyễn Đăng Giai đã từng tâu xin tha giảm thuế cửa ải và bến đò để cho
ngƣời dân đƣợc mua bán hàng hóa dễ dàng nhƣng vua Thiệu Trị không đồng
ý và dụ rằng: “Cửa ải và bến đò đặt ra là có ý chuộng nghề nông là gốc mà
ức chế nghề buôn là ngọn, nguyên vì tiểu dân hay bỏ việc gốc, theo việc
ngọn, cho nên định ra phép thu thuế quan để bảo cho dân phải hạn chế việc buôn mà trọng việc làm ruộng”145. Nguyễn Trƣờng Tộ cũng đã nhận xét:
“Thời Tự Đức chẳng những chỉ biết trọng văn, khinh võ, lại còn khinh cả các
nghề chân tay làm ra của cải vật chất. Điều đó khác hẳn với văn minh phương Tây chú trọng đến công nghệ và kỹ xảo”146.
Tuy nhiên, cuối thế kỷ XIX, các nhà canh tân đất nƣớc lại đƣa ra tƣ
tƣởng phát triển thƣơng nghiệp, khuyến khích nhân dân lập hội buôn bán.
145 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 24, Sđd, tr. 335. 146 Hoàng Thanh Đạm: Nguyễn Trường Tộ thời thế và tư duy cách tân, Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 34.
84
Ngƣời đi đầu trong việc lập các hội buôn bán lại chính là những viên quan
đứng đầu triều đình nhƣ: Bùi Viện, Phạm Phú Thứ và Đặng Huy Trứ. Đặng
Huy Trứ tuy nói việc buôn bán là nghề mạt, nhƣng lại khẳng định đó là việc
ích nƣớc lợi dân, là việc lớn của triều đình. Có thể nói các nhà cải cách đã
nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi tƣ duy kinh tế lúc bấy giờ của vua quan
triều Nguyễn. Họ đề nghị lập hội buôn để mở rộng quan hệ buôn bán với
nƣớc ngoài, một việc làm hoàn toàn đối lập với chính sách “bế quan toả
cảng” truyền thống của triều Nguyễn đƣơng thời.
Sau khi lập ra Tuần Dƣơng Quân, Bùi Viện đã thành lập Chiêu
Thƣơng Cục. Chiêu Thƣơng Cục là một tổ chức buôn bán lập ở cửa biển
Thuận An mà số cổ phần một nửa là của triều đình Huế. Với sáng kiến này
của Bùi Viện, Chiêu Thƣơng Cục có thể gọi là công ty buôn bán lớn nhất từ
trƣớc đến lúc bấy giờ ở Việt Nam, do ngƣời Việt Nam điều hành. Chiêu
Thƣơng Cục có tới hai trăm chiếc thuyền qua lại Thanh Hải và các sông to,
nhỏ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Công việc của Chiêu Thƣơng cục là mang các
nông - lâm sản từ Việt Nam nhƣ thóc, gạo, gỗ và khoáng sản sang bán ở
Trung Hoa, rồi từ đó ngƣời Trung Hoa buôn đi các nƣớc Âu - Mĩ. Từ Thƣợng
Hải và Hƣơng Cảng, Chiêu Thƣơng Cục còn mua các thứ hóa phẩm của
Trung Hoa, Âu- Mĩ mang về bán cho các nhà buôn nhỏ ở Hà Nội, Huế, và
các thị trấn khác ở địa phận Việt Nam. Việc trao đổi hàng hóa trên cửa biển
mà Bùi Viện là ngƣời đứng đầu đã mang lại những mối lợi lớn cho dân, cho
nƣớc và cho triều đình.
Đối với dân quê, nông sản dễ tiêu thụ khiến cho việc làm ăn của họ
đƣợc dễ dàng. Các hàng hóa vật dụng hàng ngày, cũng nhờ Chiêu Thƣơng
Cục mà họ mua đƣợc giá rẻ hơn trƣớc. Với triều đình thì việc khuếch trƣơng
về thƣơng mại đã đem lại cho công quỹ một món tiền rất quan trọng. Điều
này làm cho Bùi Viện rất vui mừng. Từ khi ở Hoa Kỳ về, Bùi Viện cho rằng
muốn thắng kẻ thù thì ngoài việc xây dựng một đội quân hiện đại thì triều
85
đình cần phải phát triển công thƣơng nghiệp và kỹ xảo để theo kịp cuộc tiến
hóa của các nƣớc phƣơng Tây. Vì vậy, triều đình phải luôn có đại biểu ở
nƣớc ngoài để giao thiệp, thông thƣơng và đồng thời đƣa học sinh ra nƣớc
ngoài để học hỏi các môn khoa học và công nghệ. Nhƣng muốn làm đƣợc
những việc trên thì phải có tiền. Vì vậy, Bùi Viện đã dày công suy nghĩ và
tiến hành thực hiện các biện pháp để tăng thêm nguồn thu cho công quỹ.
Với tƣ tƣởng canh tân và lòng yêu nƣớc, Bùi Viện muốn sử dụng đồng
tiền để mƣu cuộc tiến hóa cho dân tộc Việt Nam. Đây là ý nghĩ khác thƣờng
vào thời bấy giờ, tuy nhiên nó đã đƣợc nhiều ngƣời bạn của ông hiểu và ủng
hộ nhƣ: Nguyễn Tƣ Giản, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Đỗ Huy Diễn và
Đặng Văn Ứng. Bùi Viện là một trong số ít ngƣời đã gây đƣợc cảm tình với
nhiều ngƣời không cùng chí hƣớng với mình.
Đặng Huy Trứ đã đƣợc vua Tự Đức hai lần cử ra nƣớc ngoài. Vì vậy,
ông đã đƣợc chứng kiến sự sầm uất của thƣơng cảng Ma Cao và Hƣơng Cảng
(Trung Quốc). Khi về nƣớc, ông đã thành lập nhiều thƣơng điếm ở Hà Nội để
xuất cảng hàng hóa của nƣớc ta ra nƣớc ngoài; khuyến khích tiểu công nghệ
tập hợp những hộ nghề nghiệp theo ngành nghề; cổ vũ việc khai mỏ, lập đồn
điền. Đặng Huy Trứ là một nhà nho thức thời, sớm có tƣ tƣởng canh tân đất
nƣớc về mọi mặt kinh tế, tài chính, giáo dục, văn hóa... Bài văn: “Bệnh trung
đắc Dã Trì chủ nhân tứ giáo, thi dĩ chí chi” (Trong khi ốm đƣợc Dã Trì chủ
nhân chỉ giáo, làm thơ ghi lại) đã nói lên những quan điểm cải cách và mong
ƣớc của ông, muốn cho nƣớc nhà đƣợc cƣờng thịnh, nhân dân đủ cơm ăn áo
mặc, ốm đau có ngƣời chăm sóc, ai ai cũng đƣợc sung sƣớng. Ông coi việc
làm giàu là đạo lớn và không đáng khinh (Sinh tài đại đạo sự phi khinh), đã
mạnh dạn xin triều đình cho ông đƣợc đi buôn.
Năm 1865, Đặng Huy Trứ đƣợc triều đình phái sang Hƣơng Cảng công
tác, lúc về ông đã xin đặt Ty Bình Chuẩn để thu mua hàng hoá cất vào kho,
chờ khi giá cả lên cao thì đƣa ra bán rẻ cho dân để giữ giá cả thăng bằng,
86
ngăn ngừa con buôn đầu cơ trục lợi. Sau đó, ông đƣợc triều đình bổ nhiệm
chức Bình Chuẩn Xứ Ty phụ trách việc buôn bán. Ông đã thiết lập đƣợc nhiều
cơ sở buôn bán trong nƣớc nhƣ Hà Nội, Quảng Nam, Vĩnh Long và Gia
Định. Ông rất chú ý đến việc kiểm soát các hoạt động thƣơng mại trên biển,
đặc biệt là chính sách thu thuế đối với thƣơng nhân nƣớc ngoài, đặc biệt
thƣơng nhân Trung Hoa để thu lợi. Có thể thấy việc lập hội buôn bán trong tƣ
tƣởng của ông không còn là buôn bán nhỏ lẻ trong nƣớc nữa mà chủ yếu là
hƣớng ra biển, buôn bán với nƣớc ngoài, nhằm đem lại lợi nhuận cho đất
nƣớc. Ông là vị quan triều Nguyễn luôn tất bật với công việc buôn bán ngƣợc
xuôi.
Ngoài Bùi Viện và Đặng Huy Trứ là các vị quan chú trọng nghề đi
buôn, Đinh Văn Điền – một ngƣời giáo dân bình thƣờng cũng đã dám dâng
bản điều trần lên vua Tự Đức xin cho thông thƣơng hàng hóa. Tháng 10 –
1868, Đinh Văn Điền, ngƣời huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình, dâng bản điều
trần tâu xin “lập sở Dinh Điền, mở mỏ vàng, làm tàu hỏa, rước người Thái
Tây qua dạy; kết với nước Anh làm viện, lập nhà thông thương hàng hóa; tha
cấm binh thơ binh pháp, cho người trong nước học tập; quân lính thời khiến
chuyên tập nghề bắn, bớt làm việc quan và thêm lương ăn để chúng nó duyệt
tập cho siêng, khi lâm sự thời thưởng phẩm hàm cho hậu, tử trận thời xét cho
cháu mà dùng, tên nào bị tật bị thương thời cấp lương nuôi trọn đời”. Tuy
nhiên, những điều tâu trong bản điều trần bị triều đình nhận xét là chƣa hợp thời thế nên đề nghị nhà vua bỏ qua không cho thi hành147.
Có thể thấy những nhà cải cách đã vƣợt qua những lề thói của lễ giáo
phong kiến khắt khe, đề xuất và thực hiện những ý tƣởng kinh tế phi truyền
thống nhằm mƣu lợi cho dân, cho nƣớc. Tuy vậy, chỉ có một số rất ít trong
147 Quốc Sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 481.
87
những đề nghị đúng đắn này của họ đƣợc triều đình chấp thuận và thực hiện.
2.4.2. Khuyến khích hoạt động thương mại trên biển
Triều Nguyễn có rất ít những chính sách nhằm khuyến khích các hoạt
động thƣơng mại trên biển bởi tƣ tƣởng “bế quan toả cảng ” đã ăn sâu trong
tiềm thức của các vua triều Nguyễn. Thế nhƣng đến nửa cuối thế kỷ XIX,
một số nhà cải cách nhƣ: Nguyễn Trƣờng Tộ, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh
Giản đã đƣa ra những chính sách thiết thực nhằm phát triển thƣơng mại biển.
Để kiểm soát các hoạt động ngoại thƣơng trên biển, Nguyễn Trƣờng
Tộ mạnh dạn đề nghị triều đình cho phép những nhà giàu ở gần cửa biển
đƣợc mua những tàu lớn để có thể vƣợt biển chở những đồ vật của nƣớc mình
đƣa ra bên ngoài bán và chở về nƣớc những vật dụng cần thiết. Rõ ràng
Nguyễn Trƣờng Tộ không muốn ngƣời Việt Nam thụ động chỉ biết trông chờ
ngƣời nƣớc ngoài đến giao thƣơng với mình mà cần phải chủ động trong các
mối giao thƣơng quốc tế.
Có thể thấy Nguyễn Trƣờng Tộ và Đặng Huy Trứ đã gặp nhau ở một
điểm: đó là cả hai ông đều nhấn mạnh đến việc thu thuế để lấy lợi cho dân.
Theo Nguyễn Trƣờng Tộ: “Lại nhân việc mở mang này mà ta mở các cửa khẩu để thuyền bè các nước ra vào, ta ngồi thu thuế mà tăng quốc dụng”148.
Ngay từ giữa thế kỷ XIX, các nhà cải cách đã nhìn thấy đƣợc mối lợi từ việc
thu thuế khoá, điều đó thể hiện tầm nhìn thời đại của các ông.
Triều Nguyễn nổi tiếng về chính sách ức thƣơng, chẳng những coi
khinh nghề buôn mà còn tìm mọi cách ức chế việc lƣu thông hàng hoá.
Nguyễn Trƣờng Tộ đề nghị khuyến khích việc buôn bán: Những nhà buôn
nào biết góp vốn lập hãng buôn mà tiền vốn lên đến trăm vạn quan xét có
thực thì ban thƣởng. Ai có vốn riêng hoặc góp vốn đóng đƣợc thuyền lớn,
mua đƣợc tàu có thể vƣợt biển đi buôn bán với nƣớc ngoài cũng đƣợc
148 Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Sđd, tr. 416.
88
thƣởng.
Phạm Phú Thứ cũng là ngƣời đƣa ra những tƣ tƣởng rất mới mẻ
“hướng ra biển”. Năm 1856, lúc đang làm Án sát tỉnh Thanh Hoá, Phạm Phú
Thứ lúc đó đã dám chịu trách nhiệm với triều đình, hƣớng dẫn cho thợ đóng
một chiếc tàu vận tải đƣờng biển “kiểu mới” và một chiếc “tàu đồng” mang
tên Thuỵ Nhạc. Cũng ở Thanh Hoá năm 1857, ông đề nghị một phƣơng án
táo bạo về tổ chức kinh tế và quốc phòng của nhà nƣớc: Xin triều đình Huế
thuê thuyền buôn tƣ nhân vận chuyển gạo thóc các tỉnh về kinh bán, thay cho
tàu nhà nƣớc dùng để chuyên chở các hàng nặng và tuần tra biển. Nhà nƣớc
quy định biểu cƣớc hợp lý cho thuyền dân theo trọng lƣợng gạo, kiểm tra
chặt chẽ giá mua và bán. Theo ông việc làm này sẽ làm chi phí vận chuyển
cho triều đình và khuyến khích sự phát triển của các thuyền nhân trong nƣớc.
Để giúp việc lƣu thông hàng hoá ở các cửa sông, cửa biển đƣợc thuận tiện,
năm 1874, Phạm Phú Thứ yêu cầu triều đình và một số tỉnh lớn ven sông
Hồng bãi bỏ các trạm tuần ti các cửa biển và cửa sông. Ông đã thí điểm việc
áp dụng thuế lệ mới đối với thuyền buôn ở Ninh Hải khi đánh thuế theo số
lƣợng hàng hoá chứ không theo cỡ thuyền nhƣ trƣớc kia.
Để tạo thuận lợi cho việc buôn bán, Phan Thanh Giản đề nghị triều
đình nghiêm cấm những quy chế hủ lậu về việc đƣa tiền trầu cau, chè lá cho
ngƣời coi ở cửa quan bến đò và những cửa biển.
Có thể nói những chính sách đó của các nhà cải cách đã góp phần tạo
những điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi, buôn bán giữa nƣớc ta với các
nƣớc phƣơng Tây. Không những chỉ đề nghị xoá bỏ thủ tục lạc hậu kìm hãm
việc phát triển thƣơng mại biển mà họ còn đƣa ra những biện pháp rất cụ thể
để khuyến khích ngƣời dân buôn bán trên biển. Đặc biệt, trƣớc sức ép của
149 Quốc Sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, tr. 519.
89
thực dân Pháp, tháng 3 – 1876, vua Tự Đức đã phải ban lệnh: “Tha cấm ra biển đi buôn”149.
2.4.3. Khai thác tài nguyên biển
Từ xa xƣa ngƣời Việt ven biển cũng đã quan tâm tới khai thác tài
nguyên biển. Họ cũng đóng thuyền từ sớm nhƣng sự khai thác chỉ dừng
lại ở đánh cá gần bờ, ven bờ, chỉ dừng lại ở phƣơng thức khai thác giản đơn,
thô sơ chứ họ chƣa ý thức đƣợc nên khai thác một cách triệt để những tài
nguyên mà biển đem lại.
Tƣ duy biển luôn gắn chặt với khai thác tài nguyên biển nhƣng tƣ duy
kinh tế biển của ngƣời Việt Nam trong lịch sử luôn bị giới hạn bởi nhãn quan
chính trị và định hƣớng kinh tế nhiều khi rất thiển cận và ít tiến bộ của các
triều đại phong kiến. Các nhà cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX đã nhìn ra
điều đó và họ đã bắt đầu đƣa ra những tƣ duy kinh tế mới mẻ - hƣớng vào
khai thác các nguồn lợi của Biển Đông.
Nguyễn Trƣờng Tộ là ngƣời có tƣ duy kinh tế sắc sảo nhất trong đội
ngũ những nhà cải cách. Đổi mới kinh tế phải diễn ra đồng bộ trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thƣơng nghiệp. Nguyễn
Trƣờng Tộ luôn nhấn mạnh đến nguồn tài nguyên phong phú là “rừng vàng
biển bạc” của nƣớc ta, bao gồm bốn tài nguyên chính là: hải lợi, lâm lợi, thổ
lợi và khoáng lợi. Ông cũng nhấn mạnh chúng ta cần nhanh chóng khai thác
nguồn tài nguyên dồi dào này tránh bị bọn xâm lƣợc chiếm mất. Phải tận
dụng tất cả các nguồn lợi khác nhau, bao gồm cả những nguồn lợi từ biển
nhƣ cá và muối để trao đổi trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, ông chƣa đƣa ra
biện pháp cụ thể để khai thác nguồn lợi từ biển.
Nguyễn Lộ Trạch không có tƣ duy về kinh tế toàn diện và sắc sảo nhƣ
Nguyễn Trƣờng Tộ, nhƣng ông lại đặc biệt chú ý đến việc khai thác các tài
nguyên biển. Trong tác phẩm “Thời vụ sách hạ” của Nguyễn Lộ Trạch, ông
đã từng viết: “Đếm việc thông thương vẫn là một yêu thuật làm giàu cho
nước. Nấu biển làm muối. Hoàn Công làm cho nước tề thêm giàu, nước ta từ
90
Quảng Bình trở vào từ Bình Thuận trở ra, dọc miền biển đều làm muối được
cả. Nay đặt chức quan coi việc làm muối và bán sang Quảng Tây, Vân Nam
nước Tầu, mỗi năm có thể được vài muôn vạn lạng bạc, nếu có vốn trăm vạn
buôn vào bán ra; mỗi năm sẽ có lợi tức vài mươi vạn. Nay thử xuất công bản
10 vạn lạng, giao cho cán viên cỡi hoả thuyền ra mậu dịch nước ngoài,
không cần hỏi số xuất thu nhập thế nào, chỉ buộc thu số lợi thuế mỗi năm 2
vạn còn bao nhiêu thì được hưởng… lệnh trên ban xuống, tất có người ra
hưởng ứng. Đó chỉ là việc cấp cứu trong một thời mà quyền làm biến thông.
Song xem sự biến thiên trên toàn cầu, các nước thế giới mượn cái trũng
thông thương qua lại du lịch nước ngoài, khảo sát xem xét, tìm bổ điều
khuyết, thất cho nước mình có bổ ích trên đường làm nên phú cường không phải là ít”150. Theo nhƣ những điều Nguyễn Lộ Trạch đã viết trên đây, ta thấy
ông đã nhìn ra những nguồn lợi từ biển và bƣớc đầu đƣa ra kế sách để khai
thác các nguồn lợi này, mang xuất khẩu ra nƣớc ngoài để thu lợi nhuận.
Có thể nói việc khai thác các nguồn tài nguyên từ biển cũng nhƣ phát
triển kinh tế biển thật sự chƣa đƣợc các nhà cải cách Việt Nam chú ý nhiều
lắm, nhƣng những nhận thức bƣớc đầu của các ông về khai thác nguồn lợi
của biển đã dần mở ra trong tƣ duy của ngƣời Việt Nam sau này những suy
nghĩ về việc phát triển kinh tế biển.
2.5. Mở lớp học dạy về biển
Muốn khai thác tốt những tiềm năng của biển trong việc phát triển kinh
tế và an ninh quốc phòng nhất thiết phải có những kiến thức sâu sắc về biển.
Từ nhận thức đó, một số nhà cải cách cuối thế kỷ XIX nhƣ: Phạm Phú Thứ,
Nguyễn Trƣờng Tộ, Phan Thanh Giản đã đề nghị triều đình mở các lớp học
dạy về biển.
Từ tháng 6 năm 1863 đến tháng 3 năm 1864, vua Tự Đức cử một phái
150 Nguyễn Văn Huyền (biên dịch): Nguyễn Lộ Trạch và di thảo/ Thời vụ sách hạ, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1995, tr. 129.
91
đoàn đi sứ các nƣớc phƣơng Tây. Trong phái bộ, Phạm Phú Thứ đƣợc phân
công ghi những sự việc xảy ra trong thời gian đi sứ kéo dài 9 tháng lênh đênh
trên biển và sống ở trên đất Pháp hoặc đi thăm một số nƣớc ở châu Âu nhƣ
Tây Ban Nha (đƣợc yết kiến hoàng hậu Isabelle) và Ý Đại Lợi (đƣợc yết kiến
Giáo hoàng ở Tòa thánh La Mã). Sau khi về nƣớc, Phạm Phú Thứ dâng lên
vua Tự Đức những tài liệu ghi chép, đóng thành hai tập nhan đề: “Tây hành
nhật ký” và “Tây phù thi thảo”. Ngoài ra ông còn dâng lên bản tƣờng trình
những điều tai nghe mắt thấy ở một số nƣớc phƣơng Tây và cả suốt lộ trình
tàu thủy đi qua và ghé lại nhƣ Tân Gia Ba (Singapore), Ấn Độ, Ai Cập, v.v…
Ông còn sƣu tầm và mang về nhiều tài liệu biên soạn, đóng thành sách do
ông đề tựa, quyên tiền in ấn để phổ biến những kiến thức mới cho đồng bào,
thanh niên trong nƣớc biết, nhƣ:
1. Bác vật tân biên (sách nói về khoa học)
2. Khai môi yếu pháp (sách nói về cách khai mỏ)
3. Hàng hải kim châm (sách nói về cách đi biển)
4. Vạn quốc công pháp (sách nói về lề lối giao thiệp quốc tế)
Để phát triển nghề đi biển đƣợc thuận lợi, năm 1868 Phạm Phú thứ đề
nghị Triều đình lập trƣờng thuỷ học (hàng hải), lấy tên là “Hải học đường”.
Trong “Gia Vĩnh toàn tập” có ghi rằng, ngày 20 tháng Giêng năm Tự Đức
thứ 18, Phạm Phú Thứ kính tâu: “Lập nhà thủy học để tu tạo các thuyền bè:
thủy sư nay đã có đặt chuyên viên rồi. Phép xem chiều gió để vượt bể quan
hệ không phải là nhỏ. Nếu chỉ cứ giao cho bọn lính thủy cầm lái dốt nát thì
lâu nay đã không được việc gì rồi.
Nay xin sắc xuống, chuẩn cho các trường học về ngành quân thủy ở
các nha, phàm những lý lộ, hành trình về mặt bể của nước ta và các nước lân
cận. Cùng với độ số sâu cạn ở các cửa bể và tất cả các phép tắc dùng để sửa
chữa, đóng tạo các hạng thuyền bè đều phải vẽ hình ra mà học, đẽo ra từng
cái mà tập làm. Chọn những người cử nhân, tú tài, thí sinh các tỉnh, các trực
92
và các bộ thuộc, tuổi từ 30 trở lên, thân thể mạnh mẽ, tư chất thông minh mà
muốn học tập nghề ấy, mỗi thứ hạng bao nhiêu người, cấp cho học bổng thật
hậu (sao cho hàng ngày ăn dùng rồi còn có thừa) dạy cho học nghề, dạy cho
cầm lái thuyền. Học xong, sát hạch, bổ đi làm quan (chức hàm đơn vị lính bộ
cho thêm hai trật), phân phối đi các tỉnh có nhiều thuyền bè, cùng nhau quản
lý. Việc học về thuyền bè đã thạo, tự nhiên dùng đi ra ngoài các mặt bể, đã
có tri thức, đã có sức khỏe, thì những người có lòng yêu nước sẽ không đến
nỗi uổng phí tinh thần chỉ nói suông không bổ ích mà thuyền quan không đến vô dụng mới có thể kinh lý bờ bể được”.151
Về mặt tổ chức, “Hải học đường” đƣợc đặt dƣới quyền quản lý của
một cơ quan hàng hải cấp trung ƣơng.
1. Nhiệm vụ của trƣờng:
- Dạy và nghiên cứu kỹ thuật hàng hải
- Nghiên cứu bờ biển, cửa sông của ta và các nƣớc lân cận
- Nghiên cứu phƣơng pháp phòng bị bờ biển, cửa sông
- Sửa chữa tàu thuyền
- Vẽ bản đồ bờ biển và sông ngòi.
2. Về điều kiện tuyển sinh :
- Tuổi tối đa của học sinh : 30
- Trình độ văn hoá : từ thí sinh đến tú tài, cử nhân
3. Quyền lợi:
- Lƣơng bổng hậu
- Phẩm hàm cao hơn quan võ hai trật.
Sau khi đi sứ sang các nƣớc phƣơng Tây, Phạm Phú Thứ đã ghi chép
và quan sát rất kỹ càng cách họ làm để về ứng dụng vào nƣớc nhà. Sáng kiến
lập trƣờng hàng hải của ông đã thể hiện mạnh mẽ tƣ duy hƣớng ra biển một
cách bài bản của ông. Ông hiểu rõ muốn thành công thì không chỉ có thuyền
151 Lạc Dƣơng: Những đề nghị cải cách ở cuối thế kỷ XIX/ Gia Vĩnh toàn tập (tài liệu nghiên cứu), Thƣ viện Khoa Lịch Sử, Trƣờng Đại học KHXH & NV HN, tr. 5.
93
tốt là đƣợc mà còn phải có ngƣời điều khiển, có kỹ thuật, có thợ giỏi... mà
muốn đƣợc nhƣ vậy thì cách duy nhất là phải đào tạo, chính vì vậy việc lập
trƣờng dạy về hàng hải là một việc làm rất cần thiết. Trƣớc Phạm Phú Thứ
chƣa từng có một ai đƣa ra tƣ tƣởng mới mẻ nhƣ vậy.
Những đề nghị của Phạm Phú Thứ đã đƣợc vua Tự Đức chấp nhận.
Vua phê: “Còn học chữ và tiếng nói, ta đã thi hành, vẫn chưa thấy có công
hiệu, hay là cũng do sự kén chọn khinh thường mà học thì ít; xin thông sức
cho các địa phương hết lòng hiểu dụ để mộ lấy người, không cứ là cử nhân,
tú tài học trò thí sinh khóa sinh và con em các quan viên, trên dưới 20 tuổi,
người nào thông nghĩa sách biết chữ mà tình nguyện đi học thì đều chiểu lệ
đi Hương Cảng, đi sang Tây, cấp cho tiền lệ phí, nhưng hạn cho 5 năm về sát
hạch nếu thành tài, thì chiểu lệ cử tu bổ làm quan bổ dụng (nếu học được
chữ, tiếng một nước và một nghề như đóng tàu, đúc súng, các đồ binh khí,
khai mỏ, luyện tập quân, thì chiểu lệ tú tài hạch trúng bổ cửu phẩm; học
được chữ tiếng 2 nước và 2 nghề, chiểu lệ cử nhân không phân số; học được
chữ tiếng 3 nước và 3 nghề, chiểu lệ cử nhân có phân số, đều bổ làm quan
ngay) nhưng đều cho làm quan theo nghề của mình, để cho được thạo việc,
sau có cố gắng làm được việc thì tăng lên cũng giống lệ các nha nhiều việc ít việc, ngõ hầu hoặc có nhiều người muốn đi học mà có thể đủ dùng được”152.
Nguyễn Trƣờng Tộ cũng là ngƣời đặc biệt chú trọng đến giáo dục trên
tất cả các mặt, nhƣng riêng về biển thì ông cũng yêu cầu triều đình đặt Khoa
Hải lợi để dạy về biển và những gì liên quan đến biển. Ông cho rằng việc
giáo dục những kiến thức về biển là vô cùng cần thiết. Bên cạnh việc thành
lập các Khoa Sơn lợi, Địa lợi và Thuỷ lợi, nhất thiết phải thành lập Khoa Hải
152 Viện Sử học: Đại Nam thực lục, tập 25, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1976, tr. 59.
94
lợi: “Xin đặt các khoa hải lợi. Những người có khả năng làm muối theo cách
thức mới, tìm ra các phương pháp chài lưới, ghe thuyền đăng đó… hay hơn phương pháp cũ thì sẽ cân nhắc mà ban thưởng”153.
Năm 1865, Phan Thanh Giản đã đề nghị triều đình thành lập nhà Thuỷ
học, coi đó là một trong những biện pháp chấn hƣng đất nƣớc: “Về nhà thuỷ
học, xin ở kinh thì Thuỷ sư đề đốc, hay Hiệp lý, ở ngoài các tỉnh thì lãnh binh
xét rõ người nào am hiểu những việc: ở cửa biển, chỗ nào hiểm trở hay dễ đi,
nông hay sâu, xem chiều gió, thông khí trời… có thể dạy bảo người được, thì chỉ rõ tên tuổi cử lên, nếu là quản suất thì thăng bổ”154.
Việc mở các lớp học dạy về biển của các nhà cải cách đã chứng tỏ sự
quan tâm một cách toàn diện tới biển của họ. Ngƣời Việt Nam vốn tâm lý
“xa rừng nhạt biển”, nên những kiến thức về biển còn rất hạn chế. Họ ít
nhiều chƣa ý thức đƣợc hết đầy đủ những tiềm năng mà biển đem lại cho
cuộc sống, cũng nhƣ những thiên tai từ biển. Chính vì vậy, tƣ duy về việc mở
các lớp học dạy về biển của các nhà cải cách có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to
lớn.
Tiểu kết chƣơng 2
1. Những chính sách biển của triều Nguyễn đầu thế kỷ XIX đã không đƣa
lại tác dụng nhƣ mong muốn. Trong khi lịch sử đang đặt ra yêu cầu phải mở
cửa, khai phóng đất nƣớc thì triều Nguyễn lại thực hiện đóng cửa, bế quan.
Chính sách đóng cửa với phƣơng Tây của các vị vua Nguyễn cùng với chính
sách cấm đạo Thiên Chúa đã tạo thành cái cớ để thực dân Pháp xâm lƣợc
nƣớc ta vào tháng 8 – 1858.
2. Trƣớc sự xâm chiếm của thực dân Pháp ở Nam Kỳ, và âm mƣu mở
153 Chƣơng Thâu và Trần Lê Hữu: Nguyễn Trường Tộ toàn tập (1828- 1871)/ Điều trần về việc học tập bồi dưỡng nhân tài, Tƣ liệu khoa Lịch sử, Trƣờng Đại Học KHXH & NV HN, tr. 77. 154 Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam chính biên liệt truyện, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1993, tr. 158.
95
rộng xâm lƣợc ra toàn nƣớc ta nhằm mở đƣờng cho Pháp tiến vào thị trƣờng
Nam Trung Hoa. Ở Việt Nam đã xuất hiện một lớp các nhà canh tân, họ đã
thấy rõ âm mƣu của thực dân Pháp và sự cần thiết phải khai phóng đất nƣớc
vào nửa cuối thế kỷ XIX. Những nhà cải cách nhƣ Bùi Viện, Nguyễn Trƣờng
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Đinh Văn Điền hay
Phan Thanh Giản đã ý thức đƣợc sự cần thiết phải khai phóng đất nƣớc và tất
cả họ đã lần lƣợt dâng lên triều đình những bản điều trần về mọi mặt của đời
sống kinh tế, xã hội nhằm tăng cƣờng tiềm lực của quốc gia, mong muốn
thoát khỏi họa ngoại xâm.
3. Trong vô vàn các nghề nghị cải cách của các ông, có rất nhiều điều liên
quan đến biển, thể hiện sự quan tâm đến biển của các nhà cải cách. Tƣ duy
hƣớng ra biển của các ông đƣợc thể hiện trên tất cả các mặt quân sự, kinh tế,
thƣơng mại, giáo dục. Các nhà cải cách đã thể hiện một hệ thống tƣ duy
hƣớng biển toàn diện. Những tƣ duy về biển này là khá mới mẻ so với những
tƣ duy biển truyền thống của ngƣời Việt. Nếu đƣợc thực hiện ngay từ đầu, có
lẽ những đề nghị cải cách ấy sẽ đƣa lại kết quả tích cực. Tuy nhiên, những đề
96
nghị canh tân đất nƣớc đã không đƣợc triều đình chấp thuận và thực hiện.
KẾT LUẬN
Trải qua nhiều thế kỷ, ngƣời Việt đã hình thành những tƣ duy bƣớc
đầu về biển nhƣng do những hạn chế của lịch sử ngƣời Việt vẫn chƣa có
đƣợc một cái nhìn toàn diện về biển. Các vƣơng triều phong kiến quan tâm
đến biển chủ yếu vẫn là để bảo vệ đất liền chứ chƣa thực sự có tƣ tƣởng
hƣớng ra biển. Ngƣời Việt dù đã có xu hƣớng tiến ra biển, nhƣng chỉ dừng lại
ở giới hạn nhất định. Biển không phải là đối tƣợng của những nỗ lực khám
phá và chinh phục để phát triển. Khát vọng về biển không phải là vƣợt đại
dƣơng, tìm ra những bờ biển mới. Phải đến cuối thế kỷ XIX, với những điều
kiện lịch sử đặc biệt, những tƣ duy mang tính đột phá về hƣớng biển mới
hình thành ở những nhà cải cách nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Phạm Phú Thứ,
Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, Phan Thanh Giản v.v..
Hệ thống tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX đã
vƣợt ra khỏi những hạn chế và bất cập của chế độ phong kiến đƣơng thời. Tƣ
duy hƣớng biển phản ánh tƣ tƣởng cấp tiến của một bộ phận quan lại trí thức
Việt Nam trong triều Nguyễn. Mặc dù những tƣ tƣởng cải cách đó không
đƣợc triều Nguyễn thi hành đầy đủ, nhƣng đã phản ánh đƣợc trí tuệ và tầm
vóc của một bộ phận trí thức Việt Nam trƣớc vận mệnh sống còn của dân tộc.
Họ muốn chuyển biến những thách thức và nguy cơ thành cơ hội và vận hội
cho dân tộc phát triển.
Những tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách là sự phát triển tiếp nối,
đồng thời mở rộng hơn, cao hơn và toàn diện hơn so với tƣ duy về biển của
ngƣời Việt trƣớc đây. Hệ thống tƣ duy hƣớng biển đó thể hiện trên nhiều lĩnh
vực: quân sự, ngoại thƣơng, kinh tế và giáo dục. Nó biểu hiện tầm nhìn chiến
lƣợc của các nhà cải cách là muốn phát triển, muốn tránh đƣợc hoạ xâm lăng
thì đất nƣớc ta phải hƣớng ra biển cũng đồng nghĩa với việc hƣớng ra bên
97
ngoài, giao lƣu với các nƣớc bên ngoài. Trong thời hoàn cảnh xã hội nƣớc ta
khi đó, thì tƣ duy hƣớng ra bên ngoài của các nhà cải cách lại càng quý và
đáng trân trọng hơn bao giờ hết.
Một trong những điểm đáng đƣợc trân trọng nhất trong hệ thống tƣ
duy hƣớng biển là tƣ duy về quân sự biển của các nhà cải cách. Họ nhìn thấy
đƣợc lợi thế khi lấy chiến trƣờng là biển, vũ khí là tàu đồng và đại bác. Xem
cách Bùi Viện lập nên đội thuỷ quân hùng mạnh trên biển ta nhƣ thấy đƣợc
tâm huyết và cái nhìn của ông khi lấy chiến trƣờng là biển: “Đội hải quân
này sẽ đi tuần khắp miền duyên hải của nước ta. Đồng thời họ phải làm cả ba
việc: vận tải tiền lương của nhà nước, hộ vệ các nhà buôn và trừ diệt những
giặc bể hiện đương hoành hành ở Đông hải... Sau chúng ta dần dần luyện tập
cho thủy thủ các quân thuyền về mặt thủy chiến để sau này có một đội hải quân hùng tráng, sẽ có ngày dùng đến…”155.
Tƣ duy kinh tế biển của các nhà cải cách đã thoát ra khỏi cái nhìn hạn
hẹp của ông cha ta từ trƣớc đến nay về biển. Ông cha ta xƣa kia, nhìn ra biển
khơi cũng chỉ mong đƣợc tôm cá đầy thuyền, chứ chƣa có tƣ duy đầy đủ về
việc qua biển mà giao thƣơng với nƣớc ngoài để phát triển kinh tế kết hợp
với củng cố quốc phòng. Tất cả những ý tƣởng nhƣ mở rộng quan hệ buôn
bán quốc tế của Nguyễn Trƣờng Tộ, thành lập Chiêu thƣơng cục của Bùi
Viện, lập các thƣơng điếm ven biển của Đặng Huy Trứ và mở trƣờng hải học
của Phạm Phú Thứ đã chứng tỏ họ đã ý thức đƣợc vị thế của biển đối với sự
tồn tại và phát triển của đất nƣớc.
Nhƣng những tƣ duy hƣớng biển đó đã không đƣợc triều Nguyễn quan
tâm đúng mức. Cuộc cải cách chỉ tồn tại chƣa đầy 20 năm kể từ khi thực dân
Pháp nổ súng xâm lƣợc cho đến những ngày độc lập cuối cùng của triều
Nguyễn. Ý tƣởng của những nhà cải cách là vô cùng tiến bộ và thiết thực
155 Thế Văn, Quang Khải: Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế kỷ XIX, Sđd, tr. 63.
98
nhƣng nhìn chung vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Các ông
phần lớn mới chỉ chú trọng đến việc phòng thủ ven biển, đề xuất xây dựng
một đội thủy quân mạnh nhƣng lại chƣa đƣa ra đƣợc biện pháp thiết thực
trong tình hình lúc đó. Phạm Phú Thứ đề nghị lập Hải học đƣờng nhƣng mới
chỉ dừng lại ở bản kế hoạch chứ chƣa đi vào thực tế nên không đem lại đƣợc
kết quả thực tiễn.
Những tƣ duy của các ông thiếu những hậu thuẫn về mặt xã hội làm cơ
sở vật chất bên trong. Không đƣợc sự ủng hộ của đại bộ phận tầng lớp trong
xã hội nên thất bại là điều khó tránh khỏi. Với vai trò là ngƣời đứng đầu nhà
nƣớc, vua Tự Đức tuy khá quan tâm đến đề nghị canh tân, song lại thiếu tính
quyết đoán và tỏ ra không đủ năng lực để thực hiện. Thêm vào đó, thái độ
bảo thủ và tầm nhìn hạn hẹp của số đông triều thần đã bóp chết nhiều bản
điều trần ngay từ trên giấy.
Thực dân Pháp xâm lƣợc đã cản trở đáng kể đến vấn đề canh tân đất
nƣớc. Triều Nguyễn tiếp nhận các đề nghị cải cách và tiến hành một phần cải
cách trong hoàn cảnh Nam Bộ từng bƣớc bị địch chiếm đóng. Các hiệp ƣớc
lần lƣợt đƣợc ký kết với những điều khoản đầy bất lợi đã trói buộc triều
Nguyễn trong quan hệ một chiều với Pháp.
Tuy những kiến nghị của các nhà cải cách không đƣợc thực hiện hoặc
chỉ đƣợc thực hiện một vài điều nhỏ nhƣng lại có ý nghĩa chính trị và tƣ
tƣởng quan trọng. Một là thể hiện đƣợc sự thay đổi lớn trong nhận thức của
một bộ phận trí thức Nho học Việt Nam, tấn công trực diện vào các hệ tƣ
tuởng phong kiến lỗi thời. Hai là tạo tiền đề cho phong trào cải cách ở Việt
Nam về sau, mà trực tiếp nhất là phong trào Duy Tân ở đầu thế kỷ XX.
Từ những bài học thành công và thất bại của những nhà cải cách Việt
Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX sẽ giúp chúng ta rút ra những kinh nghiệm quý
báu cho sự nghiệp đổi mới đất nƣớc trong hiện tại. Đó là Việt Nam muốn
phát triển thì phải tiến hành mở cửa và giao lƣu rộng rãi hơn nữa với các
99
nƣớc trên thế giới. Việt Nam cần phải hƣớng mạnh hơn nữa ra biển. Trong
khi nguồn tài nguyên trên đất liền của chúng ta đang ngày một cạn kiệt, thì
cần phải khai thác các nguồn tài nguyên trên biển. Biển giữ vị trí sống còn
không chỉ trong phát triển kinh tế và đối ngoại, mà còn là vấn đề bảo vệ an
ninh quốc phòng, đặc biệt là giữ vững chủ quyền biển đảo của đất nƣớc.
Ngày nay thế kỷ XXI đƣợc nhiều ngƣời nhận định là thế kỷ của đại dƣơng.
Lợi thế phát triển sẽ thuộc về các quốc gia có biển. Điều này đã cho thấy tƣ
duy hƣớng biển của các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX là vô cùng đúng đắn và
mang tầm thời đại.
Cho tới những năm đầu thế kỷ XXI, Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam đã
rất nhấn mạnh đến những lợi ích chiến lƣợc của biển. Chiến lƣợc biển đến
năm 2020 của Đảng và Nhà nƣớc và mới đây là Đề án “Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt
Nam” (tháng 3 năm 2011) đã biểu hiện tƣ duy lớn của những nhà lãnh đạo
đất nƣớc. Trong tƣơng lai với nhận thức mới (vốn đƣợc vun trồng từ quá khứ
và sự bắt nhịp với xu hƣớng thời đại hiện tại), với chiến lƣợc mới, Việt Nam
chắc chắn sẽ tận dụng tốt những tiềm năng và lợi thế của biển trong phát triển
kinh tế, đối ngoại và an ninh quốc phòng, đƣa Việt Nam sớm thành một
cƣờng quốc biển. Tƣ duy xa rừng nhạt biển sẽ không còn nữa, một nền văn
100
hóa biển sẽ hình thành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Bang, Trần Bạch Đằng, Đinh Xuân Lâm: Tư tưởng canh tân đất nước
dưới triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1999.
2. Đỗ Bang: Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb.
Thuận Hoá, Huế, 1997.
3. Trƣơng Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb. Tp. Hồ
Chí Minh, 1988.
4. Nguyễn Thị Phƣơng Chi, Trần Thị Hữu Hạnh: “Chính sách bảo vệ vùng
biển Đông Bắc Việt Nam của vua Gia Long và Minh Mạng”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 9, 2011.
5. Phan Trần Chúc: Bùi Viện với chính phủ Mỹ, lịch sử ngoại giao thời Tự
Đức, Nxb. Chính Ký, HN, 1953.
6. Mai Cao Chƣơng, Đoàn Lê Giang: Nguyễn Lộ Trạch: điều trần và thơ
văn, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1995.
7. Lê Tiến Công: “Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua đầu triều
Nguyễn”, Tạp chí Xưa và Nay, số 275 và 276, tháng 1 năm 2007.
8. Đặng Hƣng Doanh, Bùi Văn Côn (Sƣu tầm khảo cứu)... Chủ biên: Phạm
Tuấn Khanh: Đặng Huy Trứ con người và tác phẩm, Nxb. Tp. Hồ Chí
Minh, 1990.
9. Lê Thị Kim Dung: “Về các chuyến đi công cán nƣớc ngoài dƣới thời
Minh Mạng (1820 – 1840)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2, 1999.
10. Lạc Dƣơng: Những đề nghị cải cách ở cuối thế kỷ XIX (tài liệu nghiên
cứu), thƣ viện Khoa Lịch Sử, Trƣờng Đại học KHXH & NV HN.
11. Đại Việt sử kí toàn thư Tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1993.
12. Hoàng Thanh Đạm: Nguyễn Trường Tộ thời thế và tư duy cách tân, Nxb.
101
Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, 2001.
13. Phạm Phú Hạt, Lâm Quang Huyên, Mai Thúc Luân...Thái Nhân Hoà (chủ
biên): Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân, Nxb. Hội Khoa học Lịch sử,
Tp. Hồ Chí Minh, 1995.
14. Hải Ngọc Thái Nhân Hoà: Trúc Đường Phạm Phú Thứ với xu hướng
canh tân, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
15. Nguyễn Văn Huyền (biên dịch): Nguyễn Lộ Trạch và di thảo, Nxb. HN,
1995.
16. Nguyễn Văn Huyền: “Nguyễn Lộ Trạch ( 1853 – 1895) những điều mới
phát hiện”, Tạp chí Xưa và Nay, số 101, tháng 10 , 2001.
17. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 5, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2005.
18. Nguyễn Văn Kim: “Hệ thống buôn bán ở biển Đông thế kỷ XVI – XVII
và vị trí của một số thƣơng cảng Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử,
số 1, 2002.
19. Nguyễn Văn Kim (chủ biên): Người Việt với biển, Nxb. Thế giới, HN,
2011.
20. Nguyễn Văn Kim: “Văn minh và đế chế - Nhìn lại con đƣờng phát triển
của các quốc gia Đông Á”, http://baotangnhanhoc.org.
21. Nguyễn Văn Kim: Nhật Bản với châu Á những mối liên hệ lịch sử và
chuyển biến kinh tế xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
22. Phạm Tuấn Khánh: “Một bài văn của Đặng Huy Trứ”, Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, số 1, 1990.
23. Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất
nước”, Trung tâm nghiên cứu Hán nôm, Tp. Hồ Chí Minh, 1992.
24. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ: Đại cương Lịch
sử Việt Nam tập II (1858-1945), Nxb. Giáo Dục, HN, 2006.
25. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Hồng: Xu hướng đổi mới trong lịch sử Việt
Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, HN, 1998.
26. Nguyễn Phong Nam (chủ biên): Những vấn đề lịch sử và văn chương
102
triều Nguyễn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.
27. Nguyễn Quang Ngọc: “Biển đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ
đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org.
28. Phan Ngọc: “Con ngƣời của thế giới hiện đại”, Tạp chí Xưa và Nay, số
91, tháng 5, 2001.
29. Vũ Dƣơng Ninh, Nguyễn Văn Hồng: Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb. Giáo
Dục, HN, 2006.
30. Quốc Sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Nxb. Thuận
Hóa, Huế, 1998.
31. Quốc Sử quán triều Nguyễn: Đại Nam chính biên liệt truyện, Nxb. Thuận
Hoá, Huế, 1993.
32. “Tài liệu để nghiên cứu chuyên đề: “Những đề nghị cải cách ở cuối thế
kỷ XIX” (tập II, III) (tài liệu lƣu hành nội bộ),Thƣ viện Khoa Lịch Sử,
Trƣờng Đại học KHXH & NV HN.
33. “Tập hợp điều trần: tài liệu đánh máy”, Thƣ viện Khoa Lịch Sử, Trƣờng
Đại học KHXH & NV HN.
34. Chƣơng Thâu, Trần Lê Hữu: Nguyễn Trường Tộ toàn tập (1828 – 1871),
Thƣ viện Khoa Lịch Sử, Trƣờng Đại học KHXH & NV HN.
35. Hoàng Anh Tuấn: “Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thƣơng mại biển
Đông thời cổ trung đại”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9-10, 2008.
36. Nguyễn Trƣờng Tộ: “Trần tình khải”, Thƣ viện Khoa Sử, Trƣờng Đại
học KHXH & NV HN.
37. Trung tâm nghiên cứu quốc học: Châu bản triều Tự Đức (1848 – 1883),
Nxb. Văn học, HN, 2003.
38. Lê Tƣơng Ứng: “Bùi viện và mối bang giao Việt – Mỹ đầu tiên”, Tạp chí
Xưa và Nay, số 90, tháng 5, 2001.
39. Thế Văn, Quang Khải: Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế
kỷ XIX, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1999.
40. Đặng Huy Vận, Chƣơng Thâu: Những đề nghị cải cách của Nguyễn
103
Trường Tộ cuối thế kỷ XIX, Nxb. Giáo Dục, HN, 1961.
41. Đặng Huy Vận, Chƣơng Thâu: “Vài ý kiến nhỏ bàn góp thêm về những
đề nghị cải cách của Nguyễn Trƣờng Tộ cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 1, 2000.
42. Trần Thị Vinh: “Nhà nƣớc Lê – Trịnh đối với nền kinh tế ngoại thƣơng ở
thế kỷ XVI – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12, 2007.
43. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 1, Nxb. Giáo dục, HN, 2004.
44. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 2, Nxb. Giáo dục, HN, 2004.
45. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 3, Nxb. Giáo dục, HN, 2004.
46. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 4, Nxb. Giáo dục, HN, 2004.
47. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 21, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1969.
48. Viện Sử học: Đại Nam thực lực tập 22, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1969.
49. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 23, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1970.
50. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 24, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1971.
51. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 25, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1971.
52. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 26, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1972.
53. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 27, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1973.
54. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 28, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1973.
55. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 29, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1974.
56. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 30, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1974.
57. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 31, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1974.
58. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 32, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1975.
59. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 33, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1975.
60. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 34, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1976.
104
61. Viện Sử học: Đại Nam thực lục tập 35, Nxb. Khoa học xã hội, HN, 1976.
PHỤ LỤC ẢNH
105
1. Ảnh: Nguyễn Trƣờng Tộ (1828 - 1871)
106
2. Ảnh: Bùi Viện (1839 - 1878)
107
3. Ảnh: Phạm Phú Thứ (1821 - 1882)
108
4. Ảnh: Đặng Huy Trứ ( 1825 - 1874 )