ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
CÔNG TÁC KIỂM KÊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Đà Nẵng, tháng 12 năm 2015
MỤC LỤC ............................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2
1. Lý do kiểm kê ................................................................................................. 2
2. Đối tượng và phạm vi kiểm kê ....................................................................... 2
a) Đối tượng kiểm kê: ..................................................................................... 2
b) Phạm vi kiểm kê ......................................................................................... 3
3. Phương pháp kiểm kê ..................................................................................... 3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC KIỂM KÊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ........................................................................................... 4
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ CHI TIẾT TỪNG LOẠI HÌNH DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ........................................................................................... 6
1. Nhận diện từng loại hình di sản văn hóa phi vật thể ...................................... 6
a) Ngữ văn dân gian ........................................................................................ 6
b) Nghệ thuật trình diễn dân gian ................................................................... 8
c) Tập quán xã hội ......................................................................................... 10
d) Lễ hội truyền thống ................................................................................... 27
e) Nghề thủ công truyền thống...................................................................... 30
2. Một số di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu………………………………34
f) Tri thức dân gian ....................................................................................... 32
CHƯƠNG III: HIỆN TRẠNG VÀ GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ..................................................................................................................... 39
1. Đánh giá thực trạng di sản văn hóa phi vật thể ............................................ 39
2. Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể ........................................................... 43
CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ............................................................................... 46
1. Định hướng trong công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn thành phố Đà Nẵng........................................................................................... 46
2. Các giải pháp cụ thể trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đã được kiểm kê ...................................................................... 47
MỞ ĐẦU
1. Lý do kiểm kê
Văn hóa phi vật thể (hay văn hóa vô thể, văn hóa ẩn) là một bộ phận quan trọng của một nền văn hóa, là sự kết tinh cao độ những giá trị mang bản sắc của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Văn hóa phi vật thể nằm trong trí nhớ con người và thể hiện trong các hành động phong tục, tập quán, nếp sống, cách ứng xử, các loại hình văn học nghệ thuật. Ngày nay, vai trò của văn hóa phi vật thể trở nên quan trọng hơn, trước những thay đổi nhanh chóng, mang tính thời đại ở các phương diện kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển văn hóa – xã hội ở nhiều nước cho thấy: dân tộc nào giữ được vốn văn hóa phi vật thể thì dân tộc đó giữ được bản sắc văn hóa của mình.
Những năm gần đây, do hiểu được tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể, Nhà nước ta đã có chủ trương đầu tư kinh phí và chất xám cho hoạt động sưu tầm và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể. Điều này được cụ thể hóa ở mục tiêu IV của Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn hóa.
Trong công tác quản lý văn hóa – xã hội, việc nắm bắt được thực trạng cũng như tiềm năng văn hóa nói chung, văn hóa phi vật thể nói riêng một cách cụ thể và hệ thống sẽ đem lại căn cứ khoa học để các nhà quản lý có thể điều chỉnh, tác động tích cực đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân một cách hiệu quả hơn. Riêng đối với thành phố Đà Nẵng, vấn đề văn hóa phi vật thể được đặt ra một cách cấp bách hơn. Là một thành phố có tốc độ phát triển kinh tế, cũng như đô thị hóa nhanh nhất cả nước, Đà Nẵng đang phải đối mặt với nhiều mặt trái không mong muốn của sự phát triển là những biến đổi, tác động lớn đến diện mạo và cấu trúc của các giá trị văn hóa truyền thống.
Công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể sẽ gi p các tổ chức, cá nhân làm công tác uản lý di sản và các chủ thể văn hóa có thể nâng cao nhận thức về di sản và tầm uan trọng của nó đối với các cá nhân và cộng đồng sở hữu, uản lý. ên cạnh đó, có kế hoạch bảo vệ khẩn cấp đối với các di sản văn hoá phi vật thể đang bị mất dần và lựa chọn các di sản tiêu biểu có giá trị để lập hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
2. Đối tượng và phạm vi kiểm kê
a) Đối tượng kiểm kê:
Đối tượng kiểm kê là những di sản văn hóa phi vật thể đang tồn tại trên địa bàn quận Sơn Trà, bao gồm các loại hình di sản được uy định tại Thông tư số 2 1 TT- V TTDL ngày 3 tháng năm 2 1 của ộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Cụ thể như sau:
- Ngữ văn dân gian;
2
- Nghệ thuật trình diễn dân gian;
- Tập quán xã hội;
- Lễ hội truyền thống;
- Nghề thủ công truyền thống;
- Tri thức dân gian.
Ưu tiên kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể đang bị mai một cần bảo vệ
khẩn cấp.
b) Phạm vi kiểm kê
Về phạm vi kiểm kê, chú trọng khảo sát điểm, lựa chọn các địa bàn được
đánh giá giàu trữ lượng di sản văn hóa ở quận Sơn Trà để triển khai kiểm kê.
3. Phương pháp kiểm kê
3
Phương pháp tiến hành kiểm kê: Thu thập, nghiên cứu và phân tích các tài liệu hiện có (sách, báo, tạp chí, chuyên luận...) liên uan đến từng loại hình văn hoá phi vật thể trên địa bàn; khảo sát điền dã; phỏng vấn, ghi chép, tư liệu hóa các thông tin thu thập được trong uá trình điền dã; thống kê, phân loại và phân tích tài liệu thu được tại thực địa từng địa phương (bảng, biểu phỏng vấn, băng ghi âm, ghi hình...); đồng thời tổng hợp, so sánh, đối chiếu, tư liệu hóa, hệ thống hóa, thư mục hóa các thông tin, các phiếu kiểm kê và các tài liệu, tư liệu có liên uan đã thu thập được.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC KIỂM KÊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
Với sự nỗ lực, cố gắng của toàn đội ngũ cán bộ kiểm kê và sự phối hợp chặt chẽ, nhiệt tình tham gia của cán bộ Ph ng Văn hóa – Thông tin các uận, cán bộ văn hóa các phường trên địa bàn quận Sơn Trà và đại diện chủ thể di sản văn hoá, công tác kiểm kê đã đạt được một số kết quả khả quan. Tổng số phiếu kiểm kê thu được là 28 phiếu. Trong các đối tượng kiểm kê, có nhiều di sản văn hóa tồn tại như là một phức thể văn hóa với nhiều yếu tố, nhiều loại hình di sản văn hóa cùng xuất hiện, dẫn đến việc phân chia về mặt loại hình có tính phức tạp. Với những trường hợp đó, tùy vào tính chất trội của một mặt, một yếu tố nào đó, để chúng tôi xếp chọn vào loại hình di sản văn hóa phù hợp nhất.
- Về loại hình ngữ văn dân gian
Ngữ văn dân gian là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân gian, nó vừa có tính bản địa sâu sắc, vừa có sự tiếp thu ảnh hưởng từ bên ngoài. Loại hình này vốn hình thành, tồn tại thông qua hình thức truyền miệng và trí nhớ của nhân dân, nay chỉ còn rải rác trong dân gian. Cùng với uá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, các câu ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện dân gian… đã bị mai một. Ngoài ra, dân cư trên từng địa bàn quận không ổn định, có sự di cư của các bộ phận người lao động từ nơi khác đến, gây ra sự xáo trộn và mất dần di sản văn hóa phi vật thể. Số phiếu thu được ở loại hình này chỉ có 03 phiếu.
- Về loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian
Nghệ thuật trình diễn dân gian là một trong những thành tố của di sản văn hóa phi vật thể. Đó là hình thức hoạt động của con người thông qua âm thanh, ngôn ngữ, diễn xướng… để chuyển tải một thông điệp nào đó đến khán giả. Trong phạm vi kiểm kê, loại hình này thu được 02 phiếu, đó là: Hát bả trạo của ngư dân ven biển và hát Bài chòi.
- Về loại hình tập quán xã hội
Đây là loại hình mang tính phổ biến nhất của di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn quận Sơn Trà nói riêng và thành phố Đà Nẵng nói chung, bao gồm các luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong tục khác. Những phong tục tập quán xã hội này vừa mang những điểm chung vừa có nét đặc trưng riêng của vùng đất, con người nơi đây.
Trong tập quán xã hội, tập trung chủ yếu vào nghi lễ cúng tế và các phong tục trong lao động sản xuất, đời sống sinh hoạt của người dân lao động. Số phiếu thu được ở loại hình này là 17 phiếu.
4
- Về loại hình lễ hội truyền thống
Trong đời sống tín ngưỡng và tâm linh của người Việt, đã từ lâu lễ hội truyền thống chiếm một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt làng xã, nó biểu hiện các giá trị xã hội của một cộng đồng. Lễ hội được tổ chức định kỳ hàng năm và diễn ra một cách khá trang nghiêm, sùng kính.
Trên địa bàn quận Sơn Trà, chủ yếu là loại hình: Lễ hội tín ngưỡng ngư
nghiệp, số phiếu thu được về loại hình này là 03 phiếu.
- Về loại hình nghề thủ công truyền thống
Số phiếu kiểm kê thu được về nghề thủ công truyền thống là 01 phiếu.
- Về loại hình tri thức dân gian
5
Tri thức dân gian (c n được hiểu tương ứng với các thuật ngữ như tri thức bản địa, tri thức địa phương), đó là toàn bộ những hiểu biết của cộng đồng về thiên nhiên, đời sống con người, lao động sản xuất, y dược học cổ truyền, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác được tích lũy trong một thời gian dài qua kinh nghiệm của bản thân cộng đồng đó. Số phiếu kiểm kê thu được là 02 phiếu, trong đó tập trung vào tri thức y học cổ truyền và tri thức về nghề biển.
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ CHI TIẾT TỪNG LOẠI HÌNH DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1. Nhận diện từng loại hình di sản văn hóa phi vật thể
a) Ngữ văn dân gian
- Ch ện tình i t (Phường ân Thái, uận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng)
Chuyện kể rằng: Ngày xưa, vùng đất nơi đây c n rất hoang vu, dân chài sống ven biển Sơn Trà gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh bắt cá trên biển. Nhiều chuyến ra khơi của bà con ngư dân trở về tay trắng. Những con sóng dữ luôn lật úp từng chiếc thuyền khi ra khơi. Chưa kể, mỗi năm bà con hứng chịu hàng chục cơn bão biển càn quét vùng quê nghèo. Cuộc sống luôn diễn ra trong sự nghèo khó, túng thiếu. Trong làng có một gia đình trẻ, chồng làm nghề chài lưới, vợ ngày ngày lên n i đốn củi, chăm lo vườn tược. Họ sống với nhau rất hạnh phúc, êm ấm. Thế rồi, vào một ngày cũng như thường lệ, người vợ ra bến tiễn chồng cùng một số đàn ông trong làng lên tàu đi đánh cá. Chồng đi được vài hôm, ở nhà, trời bỗng nhiên đổ mưa to, sấm chớp đùng đùng, những cơn gió làm ngọn sóng tung lên cao trắng xóa. Đoán chuyện chẳng lành xảy ra với chồng, người vợ đội mưa gió ra bến đợi chồng về. Nhưng nàng đợi ngày này qua ngày khác mà chồng vẫn không trở lại. Trong nỗi đau khổ tột cùng khi người chồng không bao giờ trở về, nàng đã tìm đến cái chết. Hiểu được nỗi đau khổ của nàng, bụt đã hiện lên nói rằng sấm chớp là lẽ vô thường của cõi nhân sinh và khuyên nàng nên bình tâm trở lại. Sau đêm gặp bụt tại bãi biển, nàng trở về nhà, thu xếp quần áo rồi tìm đến ngôi chùa gần đó để đi tu. Có một điều lạ là, từ ngày bụt xuất hiện trên bãi biển và nghe lại câu chuyện của người đàn bà trẻ, dân làng liên tục được mùa cá, cuộc sống yên ấm, mưa thuận gió hòa. Biết ơn đôi vợ chồng trẻ, người dân đặt tên bãi biển nơi nàng đứng chờ chồng là Bãi Bụt và truyền tai nhau câu chuyện tình đẹp và thiêng liêng này.
Xung quanh khu du lịch Bãi Bụt còn có một tích khác kể lại rằng, vào thời vua Minh Mạng, dân chài nơi đây đã phát hiện một tượng Phật trên bãi cát bèn lập am thờ tự. Và rồi, Ngài Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn xuất hiện cứu con người vượt kiếp trầm luân, sóng yên biển lặng, dân chài yên ổn làm ăn. Từ đó, nơi đây có tên gọi là Bãi Bụt, hay còn gọi là Cõi Phật giữa chốn trần gian. Theo quan niệm của người dân, “bãi” tức là bãi biển, “ ụt” tức là Phật.
Câu chuyện ẩn chứa giá trị nhân văn cao cả, đó là ngợi ca tình yêu, sự chung thủy và ước nguyện của nhân dân về cuộc sống yên ấm, mưa thuận gió hòa, sóng yên biển lặng, dân chài yên ổn làm ăn.
- Ch ện tình Tiên Sa (Phường Thọ uang, uận Sơn Trà, Tp. Đà Nẵng)
6
ưa Sơn Trà là nơi có thắng cảnh tuyệt đẹp và ngày nào các nàng tiên cũng xuống trần gian để tha hồ ngắm nhìn n i đồi hùng vĩ, biển xanh bao la, say
sưa nghe tiếng chim kêu, dừng chân sát bãi biển để nghe sóng vỗ, dõi theo cánh bay của những con chim yến đi làm tổ, hướng về các bờ đá chênh vênh, thăm những con suối thơ mộng bên chân n i, nước triều lên xuống đều đặn hàng triệu năm bào m n và lau sạch những tảng đá chồng chất ven bờ, ngắm nhìn những bãi cát v ng uanh bán đảo sạch sẽ và mịn màng… Khi đã thưởng thức mê say vẻ đẹp của Sơn Trà các nàng tiên cởi những đôi cánh của mình ra để trên bờ, trên những ghềnh đá và đắm mình xuống dòng xanh, mát lạnh của biển, các nàng nô đùa với cảnh thiên nhiên sông nước. Khi chiều về các nàng tiên đắm say, mê mẩn cảnh trần gian lưu luyến không muốn về.
Có một chàng trai chài lưới mình trần, ngực đỏ, khi nhìn thấy các nàng tiên tắm, trong lòng cảm thấy xôn xao, rạo rực. Chưa bao giờ trong đời, người thanh niên này lại thấy những người phụ nữ đẹp đến như vậy và cứ thế khi chiều về, chàng lại ra nấp sau các ghềnh đá để lén ngắm nhìn các nàng tiên tắm và anh đã nghĩ cách chờ l c các nàng tiên đang say sưa nô đùa, anh vội lấy một đôi cánh dấu vào hang đá. Đến lúc mặt trời sắp lặn, các nàng lắp đôi cánh vào để bay về trời, chỉ còn một nàng tiên không bay về được vì không tìm ra đôi cánh của mình, đành phải ở lại với trần gian, với chàng trai chài lưới và hai người sống với nhau rất hạnh phúc.
Sau một thời gian sống hạnh phúc bên nhau, một hôm, nàng được Ngọc oàng cho người đến báo rằng nàng phải trở về với Thiên đình, nếu không, Ngọc Hoàng sẽ không để cho trần gian yên ổn. Tin đã được truyền đi nhưng chờ mãi vẫn chưa thấy con trở về, Ngọc oàng đã thật sự nổi giận. Ngài cho sấm chớp, bão giông, làm cho hạ giới đổ nát, điêu tàn. Lo sợ trước cơn thịnh nộ của vua cha, nàng tâm sự với chồng “Em là tiên, chàng là người trần tục, chúng ta không thể ở mãi bên nhau được. Em phải trở về tiên giới theo lệnh vua cha, nếu không chàng và tất cả trần gian sẽ phải chịu nhiều tai ương”. Dù không muốn chia xa nhưng rồi nàng cũng phải trở về với trời. Chàng đau khổ, nhớ thương vợ không nguôi, ngày ngày ra ngồi bên tảng đá chờ đợi người vợ của mình trở lại. Chờ mãi, chờ mãi đến khi sức tàn lực kiệt, chàng hóa thành tảng đá rất đẹp, vẫn đứng đợi chờ mãi không thôi. Từ đó, trần gian trời yên biển lặng. Để tưởng nhớ đến mối tình chung thủy của hai người và tạ ơn nàng tiên đã hy sinh hạnh phúc của mình để mang lại cuộc sống thanh bình, sung t c, người ta đã lập làng, đặt tên là Vĩnh Yên (sau này đổi thành Mân Quang), xây một am thờ bên tảng đá gọi là Am Bà.
7
Chuyện tình Tiên Sa là câu chuyện tình rất đẹp và lãng mạn thể hiện tình yêu chân thành, mộc mạc của chàng trai chài lưới với tiên nữ trên trời. Tuy rằng, câu chuyện được sáng tạo theo tâm thức dân gian mang nhiều đường nét hư cấu huyền ảo, phần nào thỏa mãn trí t m của người dân đối với thiên nhiên xung uanh mình, song đó cũng chính là khát vọng về hạnh phúc lứa đôi, ước nguyện về cuộc sống ấm no, bình yên, hạnh phúc của người dân nơi đây.
- S t h Miế Ông Chài (Phường ân Thái, uận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng)
Sự tích về miếu Ông Chài có từ lâu và tồn tại đến nay trong nhân dân. Chuyện kể rằng, ngày xưa có một người đàn ông làm nghề chài lưới góa vợ từ rất lâu, nhưng ông ở vậy để nuôi dưỡng đứa con gái của vợ chồng ông sinh ra. Dân trong vùng không ai biết biết quê quán, nhà cửa ông ở đâu, ngay cả tên họ cũng không biết, chỉ thấy hằng ngày ông thường đến bãi Đá đánh cá. Nên người dân quanh vùng gọi ông là ông Chài.
Cô con gái của ông, ngày càng lớn khôn xinh đẹp và hiếu hạnh. Cuộc đời của cha con ông Chài tuy sống đạm bạc đơn côi, nhưng rất tôn trọng đạo lý can thường. Tình phụ tử, lễ giáo và hiếu hạnh luôn được đề cao, gắn bó. Một hôm, đang ngồi trong lều chờ cha đánh lưới trở về, trời bỗng nổi giông tố sấm sét, mưa tr t xuống xối xả. Bị mưa ướt gió lạnh, ông Chài vội vàng về lều. Ngồi trong lều thấy cha ướt lạnh run rẩy, động l ng thương cha, bất chấp mưa to gió lớn, cô liền vụt chạy ra dìu cha. Trước hai chuyển động ngược chiều, cô con gái ông Chài từ trên đồi chạy xuống, ông Chài bị trượt ngã chồm đến trước, bất ngờ tay ông chạm mạnh vào “nhũ hoa” con gái mình và làm s t n t cài, để phô bộ ngực nõn nà của đứa con gái yêu quý của ông. Khi về nhà ngồi nhìn con mình, ông Chài vô cùng xấu hổ và day dứt. Ông bèn nói dối với con gái rằng ông lên đồi có công chuyện. Cô con gái chờ mãi không thấy ông trở lại lều, bèn đi tìm cha, thì ôi thôi, thấy cha cô đã đập đầu vào gốc cây chết thê thảm. Đau đớn tột cùng, cô ôm cha vào lòng khóc than khôn xiết.
Sau đó không lâu, người ta không còn thấy cô có mái tóc dài mượt mà, mà thay vào đó đầu cô trùm kín bởi chiếc mũ vải. Và cũng kể từ đấy, biền biệt không thấy cô trở lại viếng mộ cha. Cảm động và thương xót cha con ông Chài, người dân quanh vùng đã lập miếu thờ tại nơi ông mất. Miếu này hiện nay vẫn c n trên n i Sơn Trà.
Sự tích miếu ông Chài, đề cao những truyền thống tốt đẹp vốn có từ bao
đời của ông cha ta, đó là: tình phụ tử, lễ giáo, hiếu hạnh và sự gắn bó.
b) Nghệ th ật trình diễn dân gian
- Hát bả trạo của ngư dân ven biển (Phường Mân Thái, quận Sơn Trà,
Thành phố Đà Nẵng)
Hát bả trạo là hình thức diễn xướng dân gian xuất phát từ tín ngưỡng thờ cá ông (Đại Đức Ngư ông) của ngư dân ven biển. “ ả” là nắm chắc, “trạo” là mái chèo. át “bả trạo” là hát vững tay chèo theo động tác chèo thuyền. Hát bả trạo c n được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau như: hát chèo bả trạo, chèo cầu ngư, chèo cạn, h rước Ông.
8
Hình thức diễn xướng này được tổ chức theo tục lệ hàng năm trong lễ hội Cầu ngư, hoặc trình diễn nhân dịp đưa tang cá Ông. Đây là loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian mang tính nghi lễ của ngư dân ven biển.
- Đội hát bả trạo, gồm có:
+ Tổng mũi (tổng thuyền): Đứng trước mũi thuyền, người chỉ đường, hai
tay cầm cặp sanh để gõ chỉ huy đội hát bả trạo từ đầu đến cuối buổi diễn.
+ Tổng khoang (tổng thương): Đứng ở khoang thuyền, khi thuyền neo lại
thì canh gác, tay cầm cần câu và gàu tát nước.
+ Tổng lái (tổng hậu): Đứng cuối đuôi thuyền, hai tay nắm chèo lái để
điều khiển con thuyền đi đ ng hướng.
Trước năm 1975, trang phục của ba ông Tổng rất đơn giản, chỉ là áo dài đen, uần trắng, chân đi tất. Hiện nay, để buổi biểu diễn trở nên sống động, trang phục cũng mang nhiều màu sắc hơn. Ông Tổng mũi: trang phục áo dài màu xanh, cổ tay bóp màu tím, lưng thắt dây màu tím, quần tím, đầu đội mão, chân quấn xà cạp, đi giày vải. Ông Tổng khoang: mặc áo ngắn màu xanh nước biển viền cổ trắng xanh, lưng thắt dây màu xanh, quần màu xanh nước biển, chân quấn xà cạp, đi giày vải, đầu đội nón lá. Ông Tổng lái: đầu đội mão, áo dài màu tím nhạt, viền áo màu xanh nước biển, lưng thắt dây màu xanh nước biển, quần dài màu tím, chân quấn xà cạp, mang giày vải. Khuôn mặt của ba ông Tổng được vẽ như trong hát Tuồng.
+ Con trạo: gồm 12 đến 1 người, tùy theo biên chế của từng địa phương. Trước năm 1975, con trạo thường là thanh niên còn trẻ, từ 17 đến 20 tuổi, có sức khỏe, chưa vợ. Hiện nay, con trạo là các em nữ, độ tuổi từ 13 đến 15 tuổi. Con trạo mặc áo xanh lá cây, đầu đội nón lá, lưng thắt đai xanh, chân mang xà cạp, tay cầm mái chèo dài 1,2m sơn đỏ, vàng.
Trong buổi biểu diễn, ông Tổng mũi sử dụng cặp sanh điều khiển cả đội. Theo hiệu lệnh, các con trạo có sự phối hợp nhịp nhàng, các con trạo nghiên mình tư thế giống như đang chèo thuyền, vừa hát vừa múa mái chèo. Ba ông Tổng thì xướng theo các làn: thán, lụy, ngâm, bình thơ, nam ai. C n các tay chèo thì xô theo hiệu lệnh của ông Tổng.
- Dàn nhạc cụ biểu diễn gồm có: trống, chiêng, kèn, đàn c , sênh.
* Hát bả trạo trong lễ hội Cầu ngư, diễn ra theo trình tự sau:
- Trong lễ Nghinh thần, còn gọi là lễ rước thần Nam Hải về tham dự lễ hội Cầu ngư, sau khi ba vị chủ tế thực hiện xong nghi lễ, đội hát bả trạo theo hiệu lệnh tiếng sênh của Tổng mũi tiến vào biểu diễn. Nội dung của buổi diễn là ca ngợi công đức của Ngư ông và nghinh Ông về tham dự lễ hội cùng ngư dân. Sau đó, đội hát tham gia vào đội hình rước Ông về tham dự lễ Cầu ngư.
9
- Khi lễ tế chính vừa kết thúc, là chương trình nghi lễ của đội hát bả trạo. Ông chánh tế đứng lên niệm hương xin phép cho đội hát bả trạo vào trình diện. Sau khi 3 ông Tổng thắp hương làm lễ, đội hát theo hiệu lệnh bằng tiếng sênh của Tổng mũi, chạy xoắn ốc ra giữa sân, mái chèo dựng đứng sắp thành 3 hàng dọc, 3 ông Tổng đứng hàng giữa theo vị trí: Tổng mũi đứng đầu, Tổng khoang
đứng giữa, Tổng lái cuối cùng, con trạo đứng hai bên, tạo thành hình chiếc thuyền giữa biển khơi. Tiếng sanh của Tổng mũi gõ 2 tiếng vang lên, toàn đội quỳ lạy Ông 3 lạy. Nội dung của buổi biểu diễn có kịch bản rõ ràng, gồm 3 đoạn: Ra khơi, bủa lưới đánh cá; Thuyền gặp bão tố bị tai nạn được Ông cứu giúp; Kể về công đức của Ông và cầu mong Ông luôn cứu gi p ngư dân bình an.
Nội dung hát bả trạo trong lễ Cầu ngư nhằm ca ngợi công đức của cá Ông đối với ngư dân hoặc mô tả quá trình lao động vất vả của ngư dân giữa biển khơi, đồng thời ca ngợi sự giàu có của biển, sự đoàn kết của bạn chèo vươn tới cuộc sống ấm no đầy đủ.
át bả trạo gắn liền với lễ Cầu ngư cũng như tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông của ngư dân ven biển. Đây cũng là một hình thức thể hiện tín ngưỡng của cư dân vạn chài đối với đức Ngư Ông, có tác động sâu sắc đến yếu tố an dân trong hành nghề đi biển và niềm tin trong sự an cư lạc nghiệp của cộng đồng vạn chài.
) Tập q án x hội
- Lễ tang ma ở Sơn Trà (Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
ột lễ tang ma có đầy đủ các nghi lễ chính như: Khâm liệm, thần phục, di uan, hạ huyệt….Các vùng Thọ uang, Nại iên Đông và n ải Tây chỉ khác nhau về một số hình thức và uan niệm:
Khi gia đình có người mất thì phải cử người đi xem thầy để chọn giờ tốt, ngày tốt khâm liệm, động uan, thần phục, di quan và hạ huyệt. em được ngày giờ rồi báo với chính quyền địa phương. Chính uyền sẽ họp toàn dân làng để phân công trách nhiệm phục vụ việc tang lễ.
Gia đình nhờ (hoặc thuê) một người chuyên liệm xác để liệm cho người đã mất. Lúc liệm để 7 hạt gạo 7 hạt muối vào miệng (nếu người mất là đàn ông) hoặc 9 hạt gạo 9 hạt muối (nếu người mất là đàn bà). Có l c người ta bỏ gần người chết 50 hoặc 100 ngàn tiền thật coi như là lộ phí đi đường cho người đó. Từ l c người đó mất đến lúc khâm liệm phải che bàn thờ tổ tiên trong nhà lại. Sau khi triệu tổ xong mới mở và thắp hương trên bàn thờ. Sau đó, những người đại diện làng đứng ra tổ chức lễ cúng cáo Thành hoàng làng ở đình.
Từ lúc liệm cho đến khi động uan, người ta thắp dĩa dầu dưới 4 chân giường (dưới uan). Người chết đầu uay vào trong, chân uay ra ngoài (người chết bất đắc kì tử thì ngược lại) lúc di quan mới uay đầu đi ra trước với quan niệm là để người chết nhìn lại nhà và người thân. Người chết khi liệm mặc áo trắng vải thô, cột hai cẳng chân, bụng (có cả 2 tay) lại với nhau. Bên trong quan tài để trà, bông gòn hoặc đất ở bên trong. Bên ngoài quan, hai phần đầu đuôi dùng ba vòng lạt dẻo cột lại và có đóng néo.
L c di uan, đập vỡ một hủ sành hoặc một tràng pháo nổ (xưa) hoặc tạt một ca nước vôi từ trong nhà (nơi để uan) ra. Người dân quan niệm làm như vậy để hồn người chết đi theo xác. Di quan có ba lần nghỉ giữa đường (nếu nghỉ ở địa phận làng khác thì phải cúng tế độ trung, còn nếu nghỉ ở địa phận làng 10
mình thì không cúng). Đến huyệt, đặt quan xuống nghỉ, đ ng giờ thì hạ huyệt. Ba ngày sau thì mở cửa mã.
Nhạc cổ dùng trong tang lễ có thể là của làng hoặc thuê từ làng khác. Âm
công: do làng sắp đặt.
Người mới chết không được thờ chung với bàn thờ tổ tiên mà thường được lập một bàn thờ riêng. Đến hết 49 ngày, mới làm lễ rước bát hương lên bàn thờ tổ tiên. Có nơi tập tục lại uy định sau 100 ngày, thậm chí có những gia đình lại để sau giỗ đầu mới rước bát hương người mới mất lên bàn thờ tổ tiên.
Hằng ngày, tính từ ngày đã an táng xong, người nhà đều đặn thắp hương, cơm, canh vào các bữa chính, trước khi gia đình ăn cơm, hoặc những món ăn mà lúc còn sống người chết thích ăn, mời người chết về cùng hưởng thụ.
Lễ tang ma là sự thể hiện tình cảm của cộng đồng làng xã, của người thân trong gia đình đối với người mất. Đối với người sống, lễ tang ma có sự gi p đỡ, giúp sức của cộng đồng người dân sống trong khu vực đó. Đó là tình đoàn kết, gắn bó, mang tính qua lại.
- Tập t ư i h i ở Sơn Trà (Quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Dựng vợ gã chồng là một vấn đề trọng đại của cuộc đời mỗi con người. Chính vì vậy, mọi người ai cũng coi trọng và tuân thủ theo những kinh nghiệm từ trước đến nay của ông bà đi trước, nhằm cầu mong điều may mắn, niềm vui, hạnh phúc.
Sau khi bàn bạc kĩ lưỡng, gia đình nhà trai đến chơi nhà gái và xin phép ngày nào đó gia đình nhà trai sang nói chuyện cưới xin. Đ ng ngày, nhà trai mang sang 1 chai rượu, 1 dĩa trầu cau bàn bạc chọn ngày, lễ vật như thế nào… ột số nhà muốn đơn giản hoặc do điều kiện gia đình khó khăn thì có thể gộp cả đám cưới và đám hỏi vào cùng 1 ngày. Gia đình nhà trai đưa cho cô dâu tương lai một số tiền nhất định để mua sắm áo uần và nữ trang.
Đến ngày cưới ngoài các công việc phụ như rạp, âm nhạc, mời họ hàng, bạn bè… thì uan trọng nhất vẫn là lễ xin dâu và rước dâu về nhà chồng. Nhà trai cử 1 số người đến rước dâu ở nhà gái, số người đi phải chẵn và không uan niệm 1 cặp phải là 1 nam 1 nữ, mà có thể là 2 nam hoặc 2 nữ. Những người đi xin dâu là họ hàng thân thiết của ch rể, nhất thiết phải có cha. Nếu cha mất hoặc bị bệnh tật không đại diện được thì ch hoặc bác hoặc ông nội, ông ngoại của ch rể thay mặt. Người này dẫn đầu đoàn xin dâu và có trách nhiệm mở lời xin, đồng thời giới thiệu vị trí những người đi cùng nhà gái rõ. Những người khác không yêu cầu phải song toàn nhưng nhất thiết không bị tàn tật.
Lễ vật xin dâu gồm 5 khay, trên có phủ vải đỏ, bao gồm: trầu, rượu, bánh,
chả nem, trà. Tất cả phải đủ đôi chứ không được lẻ.
11
Sau khi giới thiệu 2 bên gia đình, đ ng giờ thì rước dâu. Người dân ở đây uan niệm cô dâu mang bầu trước khi cưới thì không được đi vào nhà bằng cửa
chính mà bằng cửa phụ và không được thắp hương trên bàn thờ tổ tiên. a mẹ cô dâu sẽ đến nhà trai sau khi đoàn dẫn đã rước dâu về nhà trai.
Sau khi làm lễ c ng bái gia tiên, ch c rượu mọi người, hôn lễ coi như kết th c. a ngày sau, cô dâu cùng chồng mới cưới về lại mặt ba mẹ, lễ vật mang theo là trầu, rượu, bánh trái. Trường hợp ở xa thì cô dâu, ch rể được miễn “lại mặt”.
Đám cưới ngày nay thường diễn ra ở nhà hàng. ọi thứ có sẵn và thủ tục hết sức đơn giản.. Vì vậy, lớp trẻ ngày nay, ít biết đến các nghi thức cưới hỏi truyền thống. Đó là do sự phát triển kinh tế kéo theo sự giao lưu văn hóa làm thay đổi uan niệm của người dân.
- Nghi thức truyền thống ình làng Tân Thái (Làng Tân Thái, phường
ân Thái, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng).
Đình Tân Thái thuộc khối Tân n, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, là ngôi đình cổ ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử và là nơi sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương. Đình là nơi thờ phụng Thành hoàng cùng các vị tiền hiền và cũng nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Hằng năm, vào ngày mồng 1 tháng Chạp là ngày Tảo mộ Tiền nhân, ngày
20 tháng 6 âm lịch dân làng tổ chức lễ cầu an tại đình.
Trước khi tổ chức lễ cầu an, mọi công tác về người, địa điểm, lễ vật, thời gian… đều được chuẩn bị kĩ lưỡng. Kinh phí do dân làng đóng góp. Lễ cầu an lớn hay nhỏ tùy vào kinh phí đóng góp hằng năm.
Trước một ngày, tập trung cúng và thắp hương ở đình để mời thành hoàng bổn xứ về dự. Sau khi mọi công tác chuẩn bị về rạp, người, âm thanh, ban nội trợ … xong xuôi thì sáng ngày 20, khoảng giờ, lễ tế và cầu an sẽ bắt đầu.
Ông chủ tế (do dân bầu) đứng ra chịu trách nhiệm c ng bái và đọc văn tế. ài văn tế này do một người cao niên trong làng chuyên việc soạn văn tế soạn ra. Nội dung của nó là cầu mong sự chứng giám của thần linh, báo cáo tình hình làng xã và mong một vụ mùa bội thu, sức khỏe dồi dào, xóm làng yên ổn. Nếu năm nào tổ chức lễ lớn thì sẽ có sự góp mặt của đội ngũ học trò gia lễ. Nhạc cổ như trống cái, chiêng (chinh), lệnh (thanh la) của làng đã có sẵn và sẽ do người trong làng đánh. C n các loại nhạc cụ như kèn, trống nhỏ… phải thuê ở nơi khác đến.
Lễ vật dâng cúng thần bao gồm heo, gà, vịt, hương hoa… Lễ vật do làng
mua sống về và tự làm để không bị ô uế.
12
Nghi lễ truyền thống đình làng Tân Thái đã trở thành tín ngưỡng văn hoá ở làng uê, yếu tố tâm linh từ ngàn xưa không thể tách khỏi cộng đồng sinh hoạt làng xã. Đây là một cách để ông cha ta kể lại cho con cháu nguồn gốc, lịch sử, cũng như các giá trị văn hóa, xã hội của làng. ơn nữa đây c n là dịp để nhân
dân trong làng thể hiện sự đoàn kết, gắn bó, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của cha ông ta để lại.
- Nghi thức truyền thống lăng Âm linh Mân Thái (Làng Tân n,
phường ân Thái, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng).
Lăng Âm linh phường ân Thái được xây dựng năm 19 3 là nơi thờ những chiến sĩ vô danh đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, và những người chết biển vô danh. Tại đây, hằng năm người dân làng Tân Thái, Cổ Mân (xưa) và Tân n, Tân Thái, phường ân Thái (ngày nay) đều tổ chức các hoạt động lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng của vùng biển Sơn Trà như: Lễ cầu an nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an; đồng thời cũng là dịp để tưởng nhớ đến những công lao của các anh hùng liệt sĩ, các bậc tiền bối đã có công xây dựng lăng Âm linh.
Hằng năm, vào ngày 15 tháng 3 âm lịch, dân làng tổ chức lễ cúng tại lăng âm linh. Kinh phí do nhân dân đóng góp. Lễ cúng lớn hay nhỏ tùy vào kinh phí đóng góp hằng năm.
Phần nghi lễ gồm:
- Lễ Nghinh thần: Sáng sớm ngày 15/3, những người trong ban tế lễ, đi nghinh rước các vị thần hoàng bổn xứ về tại lăng. Gồm lễ nghinh tại bãi Bắc và Nghê, nghinh các sở tại địa phương, nghinh à bá.
- Lễ Vọng và lễ tế chiến sỹ.
- Lễ Chánh tế: Có học trò diễn lễ, có chánh tế và bồi tế, đọc văn tế có hô, xướng đi nhịp nhàng theo đội hình. Nhạc cổ như trống cái, chiêng (chinh), lệnh (thanh la) của làng đã có sẵn và sẽ do người trong làng đánh. C n các loại nhạc cụ như kèn, trống nhỏ… phải thuê ở nơi khác đến. Thời gian cúng tế khoảng 1 tiếng rưỡi. Lễ vật dâng cúng tại lăng bao gồm heo, gà, vịt, hương hoa… Lễ vật do làng mua sống về và tự làm để không bị ô uế. Ông chủ tế (do dân bầu) đứng ra chịu trách nhiệm làm lễ và đọc văn tế. ài văn tế này do một người cao niên trong làng chuyên việc soạn văn tế soạn ra. Nội dung của nó là cầu mong sự chứng giám của thần linh, báo cáo tình hình làng xã và mong một vụ mùa bội thu, sức khỏe dồi dào, xóm làng yên ổn và tưởng nhớ đến những công lao của các anh hùng liệt sĩ, các bậc tiền bối đã có công xây dựng lăng Âm linh.
- Lễ xây chầu – hát lễ (hát Tuồng cổ): Diễn ra trang nghiêm, người được chọn xây chầu phải là người song toàn, giờ xây chầu cũng phải chọn giờ tốt. Sau lễ xây chầu là biểu diễn tuồng cổ, hát phúc, lộc, thọ.
- Lễ tạ: Đốt văn tế, sau đó chủ lễ và các lễ sinh cùng ban tế lễ, dân làng
thắp hương và bái.
Nghi lễ truyền thống tổ chức tại lăng âm linh đã trở thành tín ngưỡng văn
13
hóa, yếu tố tâm linh của cộng đồng làng ngư nghiệp nơi đây.
- Nghi thức truyền thống ình làng Cổ Mân (Làng Cổ ân, phường
ân Thái, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Vào thế kỷ 17, khu vực Cổ ân là vùng đất cát bằng phẳng, các bậc tiền nhân đã dừng chân tại đây định cư và lập nghiệp. Đình làng Cổ ân được xây dựng bằng phên tre mái lá để có nơi thờ tự những vị thần linh, cầu mong trời đất cho mưa thuận gió hòa, sản xuất phát triển. Ngôi đình là nơi các họ tộc, nhân dân trong làng tham gia sinh hoạt. Qua thời gian, ngôi đình làng được xây dựng, trùng tu lại bằng vật liệu kiên cố: gạch, đá, ngói, vôi, cát, sạn, mật đường. Đây c n là địa điểm thuận lợi để cán bộ cách mạng hội họp, triển khai xây dựng cơ sở cách mạng trong những năm chống Pháp và chống Mỹ. Đình làng Cổ Mân là một trong tám ngôi đình ở khu vực phía đông sông àn thường gọi khu Đông.
Với ước nguyện cầu mong trời đất cho mưa thuận gió hòa, sản xuất phát triển, hằng năm, vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch, tại đình Cổ Mân, dân làng tập trung tu bổ phần mộ, thắp hương tưởng niệm, tổ chức nghi lễ đón Tết Nguyên đán, treo cờ, cắm phướn, dựng nêu, chọn người hiền xông đất đầu năm, chuẩn bị lễ vật, hoa, cây trái, bánh chưng, bánh tét bày cúng trong 3 ngày Tết, tổ chức văn hóa, vui chơi giải trí, dân làng mến mộ nhất là loại nghệ thuật tuồng, hát bội.
Ngoài ra, đến ngày 16/3 âm lịch làm lễ cầu an, 16/8 làm lễ tế thu, trùng với lễ c ng cơm mới, đây là những kỳ lệ được tổ chức trang nghiêm tại đình làng, thể hiện nét đẹp văn hoá truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Những năm có kinh phí, làng còn tổ chức thêm phần hội.
- Nghi thức truyền thống ình làng Mân Q ang (Làng ân uang,
phường Thọ uang, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Đình làng ân uang hiện thuộc tổ 33, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Tương truyền làng ân uang được khai phá vào nửa cuối thế kỷ 15, do các cư dân người Việt ở vùng oan, Ái di cư vào, trong đó những người được coi là có công đầu là các cụ Lê Phước Thọ, Trần Văn ỹ, Võ Văn Linh, Thái Công ạ, Nguyễn Văn Thành và Đinh Vạn Khang. Cùng với việc khai phá lập làng thì ngôi đình làng được dựng lên để thờ thần thành hoàng và nhiều vị thần khác trong tín ngưỡng dân gian của người Việt. Sau này, nhiều vị tiền hiền, hậu hiền, những người có công với làng cũng được nhân dân địa phương thờ tại đình làng.
Hằng năm, tại khu di tích đình làng ân uang diễn ra các hoạt động
cúng tế, lễ hội do nhân dân địa phương tổ chức, gồm:
- Cúng tại miếu Táo uân và lăng Nghề cá (tức lăng Ông) vào các ngày
12 tháng 2 và 12 tháng 7 âm lịch.
- Cúng tại miếu Quan Thánh và miếu Thành hoàng vào các ngày 13 tháng
1, 13 tháng 5 và 24 tháng 6 âm lịch.
- Cúng tại miếu Cao Các, miếu Bà và miếu Âm linh vào ngày 25 tháng 1
14
âm lịch.
Đặc biệt vào hai ngày 15, 16 tháng 3 (Âm lịch), nhân dân Mân Quang lại tề tựu về đình để tổ chức lễ hội đình làng. Trong suốt hai ngày này, các nghi thức tế lễ và các hoạt động diễn xướng, tr chơi dân gian của người dân địa phương diễn ra liên tục trong đại điện và trước sân đình. Trước khi tổ chức lễ hội, dân làng họp trước một tháng để bàn bạc xem xét tổ chức lễ như thế nào, kinh phí đóng góp bao nhiêu, lễ vật ra sao, ai làm việc gì.
Chiều 15/3, tại sân đình, dân làng đặt bàn án với các lễ vật như cơm, xôi, gà, vịt, heo, bánh trái, hương đèn, cháo trắng, hạt nổ, vàng bạc… để làm lễ vọng cúng âm linh.
Ngày 1 3, giờ sáng, dân làng tổ chức lễ chánh tế trong đình với đầy đủ các nghi thức dâng trà, rượu, hương, bái lạy với sự tham gia của chánh tế, bồi tế, và đội ngũ học trò gia lễ.
Đây là dịp con dân của làng bày tỏ sự ngưỡng vọng, l ng tri ân đến thánh thần và các bậc tiền nhân đã phù trợ, gi p đỡ dân làng xây dựng uê hương. Đồng thời, thông ua đó lễ hội đình làng c n có tác dụng thắt chặt mối quan hệ tình làng nghĩa xóm, cũng như việc gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương.
- Nghi lễ truyền thống ình An Hải (Phường An Hải Tây, quận Sơn Trà,
Thành phố Đà Nẵng)
Theo như lời kể của cụ Lê Đức Ngọ, người có công đầu trong việc khai phá lập làng n ải là một phụ nữ có tên gọi là à Thân (tên của bà trở thành địa danh cho một vùng đất sát ven sông àn, về sau gọi chệch thành à Thân. Ngày nay, tại phường n ải Tây, có một ngôi chợ người dân thường gọi là chợ à Thân hoặc à Thân). à là một lưu dân từ phía ắc vào lập làng từ thời vua Lê Thánh Tông lập đạo Thừa tuyên uảng Nam (năm 1 71). Năm 1 30, nhân dân làng An Hải góp của và trích quỹ ruộng hương hỏa cho xây dựng ngôi đình mái lợp tại địa điểm như hiện nay. Thời vua Tự Đức thứ 3 (1 77), đình được trùng tu lần thứ nhất và cách đây hơn năm (vào năm Giáp Thìn) sửa chữa lần thứ hai. Đình làng được vua Tự Đức ban tặng 4 chữ lớn tại bức hoành “Thiện Tục Khả Phong” nghĩa là nếp sống an lành đáng khen.
Tự ngàn xưa, yếu tố tâm linh của người dân Việt Nam không thể tách khỏi cuộc sống hàng ngày trong mỗi con người. Ngôi đình làng trở thành thiết chế tín ngưỡng văn hóa ở làng uê. ỗi làng đều dựng một ngôi đình làng để có nơi thờ c ng, sinh hoạt văn hóa, hội họp. Từ khi xây dựng đình làng, nghi thức lễ cúng truyền thống đình n ải đã được nhân dân duy trì và gìn giữ đến ngày hôm nay.
15
Lễ chính đình n ải được tổ chức vào ngày 10/8 âm lịch, gọi là lễ tế thu cầu an. àng năm, lễ được tổ chức dưới dạng “trung lễ”, thông lệ 3 năm tổ chức lễ lớn một lần. Kinh phí chủ yếu do nhân dân đóng góp, chính uyền chỉ hỗ trợ về mặt an ninh, trật tự.
Trước lễ chính 1 ngày, các chư phái tộc trong làng họp lại để thảo luận, phân công nhiệm vụ. Vào ngày 9/8 âm lịch, nhân dân đã tụ tập tại đình để dọn dẹp, trang trí chuẩn bị cho lễ chính. Tối ngày 9/8, tổ chức lễ Vọng ngoài sân đình.
Khoảng 8h ngày 10/8 âm lịch, lễ tế chính thức được diễn ra với các nghi lễ đ ng theo các nghi thức cổ truyền của dân tộc. Trong lễ chính có nhạc bát âm, đọc văn tế với nội dung cầu mong mưa thuận gió hòa, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Ban nghi lễ gồm có 1 vị chủ bái, 2 vị bồi bái, 1 vị tư lễ, 1 vị xướng lễ và 12 học trò gia lễ. Trang phục của ban nghi lễ đình làng gồm:
- Chủ tế: mũ đỏ, áo đỏ sau lưng có hình con rồng, quần trắng.
- 02 vị bồi bái: áo lam, quần trắng, mũ hia màu xanh.
- 01 vị tư lễ, 01 vị xướng lễ: áo đen, uần trắng, mũ hia màu đen.
- 12 học trò lễ: áo lam, quần trắng, mũ hia màu xanh.
Đồ c ng thường là gà, thịt, trái cây, rượu, trà.
Ngoài ra, đình làng n ải còn có các ngày lễ:
- Ngày mùng 2/3 âm lịch, ngày giỗ tiền hiền
- Ngày mùng 6/ âm lịch, giỗ hậu hiền, đồng thời kỷ niệm ngày mất danh
nhân Khâm sai thống chế Thoại Ngọc ầu.
Lễ nghi đình làng n ải nhắc nhở mọi người luôn tự hào về uê hương, đất nước. Đây cũng là dịp để nhân dân trong làng có thể gặp gỡ, giao lưu, giáo dục con cháu biết gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống.
- Nghi lễ Cầ ngư tr ền thống (Phường An Hải Tây, quận Sơn Trà,
Thành phố Đà Nẵng)
“Lăng Ông vạn tứ chánh Nam Hải” của An Hải Tây được xây dựng hơn 1 năm. Lăng thờ vị thần Nam Hải cùng với những vị chư thần biển, các vị tiền bối hậu bối đã sáng lập ra nghề biển tại vùng đất này. Cùng với sự hình thành lăng Ông, nghi thức lễ cầu ngư đã được nhân dân duy trì và gìn giữ cho đến ngày nay.
Hàng năm, nghi thức cầu ngư truyền thống được tổ chức vào ngày 20 tháng 02 âm lịch. Lễ được tổ chức dưới dạng “tiểu lễ”, với sự tham gia của các ngư dân phường An Hải Tây. Điều hành lễ cúng gồm có: 01 vị chủ bái và 02 vị văn hiến. Trang phục của chủ tế: quần áo gấm đỏ, mũ hia đỏ; 02 vị văn hiến: quần áo gấm xanh, mũ xanh. Thức c ng thường là hoa uả, heo, gà và trà rượu.
Ngoài ngày lễ chính, trong năm c n có 2 ngày lễ:
- Ngày 25 tháng chạp: lễ thượng cờ
16
- Ngày 7 tháng giêng: lễ hạ cờ.
Lễ cầu ngư là một tập uán có ý nghĩa. Từ bao đời nay, ngư dân vùng n Hải Tây vẫn giữ và lưu truyền nó với mục đích truyền tải ước vọng tâm linh. Nhưng hiện nay, với quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, lực lượng ngư dân làm biển đã giảm đi rất nhiều. Theo thống kê của phường, số lượng tàu cá kể cả lớn nhỏ chỉ còn lại khoảng 40 thuyền. Đây chính là nguyên nhân chính làm cho lễ cầu ngư truyền thống không còn sức sống trong cộng đồng.
- Lễ tang cá Ông của ngư dân i biển (Phường Mân Thái, Thọ Quang,
Nại iên Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Quận Sơn Trà là địa phương ven biển, người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy, hải sản. Cả quận có hơn % dân số trực tiếp sống về nghề biển. Ngoài ra, số còn lại làm các dịch vụ liên uan đến nghề biển như: cung cấp lưới, làm các công cụ đánh bắt, buôn bán tôm cá…Ngư dân đánh bắt trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch và tấp nập nhất là từ tháng 4 đến tháng 6 âm lịch.
Cộng đồng ngư dân uan niệm cá voi như là thần biển rất linh thiêng và gọi một cách tôn kính là cá Ông, cá Ông Voi hay Ngài Ngư, Đức Ngư Ông. Theo quan niệm của họ thì Đức Ngư Ông luôn theo sát người dân đi biển, trong l c bão gió ngoài khơi để cứu vớt người dân. Và họ tin rằng cá Ông (cá voi) chính là sự hiển linh của thần biển có mặt ở biển khơi và xuất hiện khi có bão tố để cứu độ dân chài. Vì thế, dân chài quận Sơn Trà rất tôn sùng cá Ông, coi cá Ông như là ph c thần của dân chài. Khi đi biển gặp cá voi, họ coi đó là điềm lành báo hiệu ngày đó đi biển đánh bắt sẽ được nhiều. Đang giăng lưới đánh bắt ở ngoài khơi, nếu gặp cá voi họ thu lưới tránh đường cho ngài đi, với niềm tin và nghiệm thấy làm vậy hôm đó đánh bắt được nhiều rõ rệt.
Gặp cá Ông lụy (cá voi chết) ngư dân ở đây coi đó là điềm lành, chẳng những đối với người nhìn thấy đầu tiên, mà c n đối với cả vạn chài, cả làng, cả xã, không những năm ấy mà còn nhiều năm sau nữa dân chài trong vùng vẫn được mùa đánh cá. Người dân tìm cách đưa cá Ông lên bờ và tiến hành mai táng, hay còn gọi là lễ tang cá Ông.
Khi gặp cá Ông bị chết trên biển hay trôi dạt, ngư dân tìm cách dìu thi hài cá Ông vào bờ. Nếu trường hợp cá Ông uá to, không đưa lên bờ được thì dùng đăng uây lại, cử người canh giữ cho đến khi thịt rữa hết dưới nước, rửa sạch hài cốt để mai táng. Người đầu tiên phát hiện được xem như là người được “Ông” tín nhiệm và vinh dự làm “trưởng nam”, tức là thân chủ thay mặt dân làng bịt khăn tang bằng vải điều đỏ, chịu tang trong vòng 100 ngày. Theo phong tục, nếu phụ nữ mà phát hiện cá Ông lụy thì phải nhanh chóng đi thông báo cho một người đàn ông khác trong làng để người đó đứng ra chịu tang.
Sau khi đưa cá Ông vào bờ, dân chài cắm một lá cờ thần trên bãi biển báo hiệu cho mọi người biết. Không khí tang lễ không phải ai oán, bi thương như đám ma của người bình thường mà rất hồ hởi, vui vẻ. Việc tổ chức chôn vào ngày, giờ nào, ở đâu phải được bàn bạc trước đó khi người “ được Ông” trình 17
vạn tại nhà, có mời chính quyền địa phương và các bạn chài. Lễ mai tang cá Ông được tiến hành theo trình tự như sau:
- Ngày thứ nhất: Lập tang chủ, dùng vải điều đỏ và rượu trắng lau rửa sạch sẽ để tiến hành liệm. Những tấm vải đỏ lớn khâm liệm thi thể ngài cẩn thận trước khi mang chôn. Nhiều người còn dùng giấy bản thấm nước miếng (dãi) của Ông về phơi khô hoặc lấy giấy vàng mã đắp vào hai mắt của Ngài để thắm một ít dịch nước mắt, rồi sau đó phơi khô, gấp lại làm tư và cho vào một miếng vải mới khâu lại thành lá bùa, đeo vào cổ trẻ em để chống lại ma quỷ, bệnh tật. Ngư dân tiến hành nhập quan, lập bàn thờ, lập bài vị ghi ngày tháng phát hiện cá Ông lụy trên giấy điều.
- Ngày thứ hai: ngư dân tổ chức cúng tế, đốt nhan trên bàn thờ, người “trưởng nam” túc trực trong suốt uá trình mai táng… ọi ngư dân ai cũng đến thắp hương vái lạy cầu an, cầu phúc. Ngay cả các ngư dân, vạn chài ở làng khác nghe tin nơi nào có cá Ông “lụy” vào, dù xa xôi đến đâu cũng mang hương hoa đến để cúng tế Ngài.
- Ngày thứ ba: Tổ chức đám tang, hát m a bả trạo bản “Đưa Ngư Ông”. Nếu Ông lớn thì chôn tại bãi biển, còn Ông nhỏ thì đan rọ bằng tre, dưới rải vàng bạc, áo giấy, đặt cá Ông vào, phía trên phủ vải điều đỏ đem về chôn tại lăng Ông (thường là phía sau lăng). Trên đường đi, có đầy đủ cờ xí và chiêng trống linh đình, bát hương đặt trên bàn thờ cũng được thỉnh về an vị tại lăng Ông. Huyệt mộ cá Ông được đào rộng hẹp tùy theo kích thức của Ông, có thể dài tới 20 – 30 mét và rộng chừng 5 mét. Trên mộ đặt một bàn thờ nhỏ bằng gỗ trên có bày đồ thờ như bát hương, bình hoa, chén…
Sau ba ngày tổ chức đám tang, tiến hành lễ mở cửa mã. Sau đó, ngư dân tiến hành cúng tuần 7 ngày, 21 ngày, 9 ngày, 1 ngày. Đ ng 1 ngày thì làm lễ dỡ bỏ tang phục cho vị trưởng nam thân chủ. Đủ ba năm tiến hành lễ cải táng, ngư dân đào mộ cá Ông lên, rốc thịt lấy xương, dùng nước lạnh, sau đó là rượu trắng rửa sạch, xếp thứ tự vào và đưa vào để trong khám của lăng. Đến lúc này, người “được Ông” coi như mãn tang (trong thời gian phục tang, người này không phải kiêng kị gì cả).
àng năm, vào ngày phát hiện cá Ông lụy, ngư dân đều tổ chức ngày kỵ
Ông.
Nghi thức tang cá Ông vừa bày tỏ lòng biết ơn đối với đức Ngư Ông linh thiêng, vừa hàm chứa niềm ước vọng của những người làm nghề sông nước, mong một mùa bội thu tôm, cá. Đây cũng là dịp thể hiện tính gắn kết cộng đồng, cùng nhau hợp sức chống chọi với thiên nhiên, xây dựng tình làng nghĩa xóm, gi p đỡ nhau l c khó khăn, hoạn nạn.
- Lễ tống ôn của ngư dân i biển (Phường Mân Thái, Thọ Quang, Nại
18
iên Đông, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Đây là một nghi lễ nằm trong diễn trình lễ tế Âm linh của hầu hết các làng biển Đà Nẵng, c n gọi là lễ “tống cói hạ kỳ” hay “tống ôn đưa khách”. Tùy theo phong tục của từng địa phương mà lại tổ chức lễ tế Âm linh vào những ngày khác nhau, cụ thể như: lăng Âm linh ân Thái ngày 15 3 ÂL, lăng Ông Nại iên Đông ngày 12 7 ÂL.
Lễ tống ôn thường diễn ra ở lăng Ông hoặc lăng Âm linh của địa phương. Lễ bắt đầu vào lúc sáng sớm, gồm 2 nghi lễ liên hoàn là lễ nhương ôn và lễ tống ôn.
- Lễ nhương ôn nhằm khao mời ôn hoàng dịch lệ, vong hồn Cô bác và các “khách”. ên cạnh đó, c n mang ý nghĩa giải hạn cho làng vạn. Các bàn án của lễ nhương ôn được bài trí từ trong lăng ra đến ngoài hiên, sân. Thường có ba bàn đặt theo hàng dọc ở gian tả của lăng Âm linh (nhìn từ trong ra ngoài). Trước bàn nhương ôn đặt bè Long Chu. Vật phẩm dâng c ng ở 3 bàn án khá giống nhau, gồm: trầu, rượu, hoa uả, kim ngân, thanh y, xôi chè, tôm, cua thịt (cá gọi là gỏi, gà gọi là chim). Ngoài những thứ đó ra, bàn c ng Cô bác và nhương ôn c n thêm bông nổ, bánh trái, khoai sắn, cơm canh, rau sống, mắm cái, bánh tráng cùng rất nhiều giấy vẽ hình nhân thế mạng.
Lễ nhương ôn bắt đầu sau 3 hồi chiêng trống. Vị chủ tế của làng, sau khi thắp hương c ng các bàn hương án của gian chánh điện, lần lượt đến các bàn án c ng Thành oàng, Tiền hiền và Hậu hiền, Cô bác Âm linh và bàn nhương ôn. Lời khấn tại bàn c ng Thành oàng và Cô bác giống nhau, đại thể là cầu xin sự hộ trì cho làng vạn cả năm làm ăn tấn tài tấn lợi, ghe thuyền ra khơi vào lộng an toàn. C n đến bàn nhương ôn, vị chủ tế khấn ôn hoàng dịch lệ, những ma ọi, ma Rợ mời về hưởng lễ, xin đừng uấy làng phá xóm.
Nghi thức c ng nhương ôn hoàn tất, toàn bộ thức c ng của bàn nhương ôn và các đồ mã của bàn Cô bác được để hết vào các khoang của Long chu tống tiễn. Long Chu là chiếc bè được làm bằng tre, dán giấy, đặt trên một chiếc bè tre hoặc bè chuối. Vì là phương tiện chuyên chở ôn hoàng dịch lệ tống ra biển, cũng là phương tiện tiễn đưa Cô bác và Người khuất mặt về cõi địa phủ nên Long Chu phải đẹp, phải vững để trôi nhanh ra biển. Kích thước Long Chu dài từ 1,6m – 1,8m, cao và rộng khoảng đến 80cm. Tiếng chiêng lại vang lên, lễ tống ôn bắt đầu. Trước khi tống tiễn, Long chu được khai khoang điểm nhãn và tẩy uế. ưa kia, người làm việc này là thầy pháp, c n ngày nay phổ biến ở các làng là ông chủ tế của làng thực hiện.
19
Sau đó, bè Long Chu được 04 thanh niên khỏe mạnh khiêng ra biển. Trong đoàn c n có đuốc lửa, trống chiêng, cờ xí, và đông đảo bà con trong làng tham dự. Vào thời điểm tống Long Chu, mọi nhà không mở cửa, không chạy ra đường. Nếu làm trái, ma uỷ sẽ uay trở lại tìm nơi tr ngụ, uậy phá làng vạn. Đến biển, đám người khiêng Long Chu chạy ào xuống, trên bờ, chiêng đánh liên hồi kỳ trận. ọ thực sự an tâm, phấn chấn khi thấy Long Chu trôi nhanh ra biển. ởi sự kiện này đồng nghĩa với những điềm lành trong năm. Năm nào mà Long
Chu không trôi nhanh, bị nghiêng ngả, nhất là bị lật úp xuống biển thì báo hiệu điều xấu, không may sẽ đến với làng. Lễ tống ôn đến đây coi như là hoàn tất.
ục đích lễ tống ôn là để tống tiễn xua đuổi ôn hoàng dịch lệ, đồng thời để đặt nguyện vọng của cộng đồng dân biển được các thần linh và các vị đã khuất phù hộ để có cuộc sống bình an.
- Một số nghi lễ liên q an ến công c và phương tiện i biển (Quận
Sơn Trà, Đà Nẵng)
Quận Sơn Trà là địa phương ven biển, nhân dân chủ yếu mưu sinh bằng nghề đánh bắt hải sản. Cả quận có hơn % dân số trực tiếp sống về nghề biển. Ngoài ra, số còn lại làm các dịch vụ như: cung cấp chài lưới, làm các công cụ đánh bắt, buôn bán tôm cá... Ngư dân đánh bắt trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch và tấp nập nhất là từ tháng đến tháng 6 âm lịch.
Do cuộc sống phụ thuộc vào biển cả, vì vậy người dân ven biển Đà Nẵng luôn có ước nguyện làm cho biển cả trở nên hiền hòa hơn, con thuyền và những vật dụng đánh bắt khác trở nên mạnh mẽ và hữu hiệu trong uá trình tiến ra biển.
ột số nghi lễ liên uan đến phương tiện, công cụ của nghề biển:
- Lễ phạt mộc: Giống như lễ động thổ khi làm nhà cửa, lễ phạt mộc tiến hành sau khi chủ thuyền đã coi tuổi, coi ngày, giờ tốt để bắt bắt đầu đóng một con thuyền mới. Lễ vật cũng như nhiều nghi lễ thờ c ng khác, gồm: Trầu rượu, hoa uả, vàng mã... đặc biệt trên giấy hàng mã có vẽ các bà Kim, ộc, Thuỷ. Việc c ng các bà có liên uan đến chất liệu sử dụng để đóng thuyền và môi trường hoạt động của thuyền. Sau khi thắp hương c ng cáo ba bà, mời cô bác, chủ thuyền dùng rùi phạt vào gỗ ba lần. Dăm gỗ được giữ lại một ít gói vào vải điều nhỏ để tống đi khi hạ thuyền.
- Lễ tống mộc đưa dăm: Lễ tẩy uế thuyền trước khi hạ thủy. Lễ c ng gồm 2 mâm lễ vật, một để trên mũi thuyền để c ng bà ộc, một đặt trên bờ để c ng bồi bãi và cô bác. âm lễ c ng bà ộc nhất thiết phải có một chiếc thuyền nhỏ làm bằng giấy, đặt trên chiếc bè chuối nhỏ. ốn góc bè cắm bốn cây cờ xéo nhỏ bằng giấy. giữa l ng đặt một gói dăm bào (được chủ thuyền cất ở lễ phạt mộc), bên cạnh là một đĩa trầu cau (một lá trầu và một uả cau), một con cá nướng đặt trên đĩa, xung uanh là áo mũ c ng cô hồn. Lễ được tiến hành với nghi thức “khoán bùa” của thầy c ng, sau đó thắp hương rồi vái tứ phương xin hành lễ. Tiếp theo chủ thuyền buông bè xuống biển.
- Sau cùng là lễ “hành thuyền phóng thủy” tức “đẩy thuyền xuống biển”. Chủ thuyền cho thuyền chạy ra cửa hoặc chạy cách bờ một uảng đường vài cây số. Lễ hành thuyền được coi là chuyến đi đầu tiên, mở màn nên gọi là “đi mở hàng”.
- Lễ nh ng lưới, được tiến hành vào đầu xuân thường là ngày chẵn tháng Giêng âm lịch. Địa điểm nh ng lưới có thể ngay tại bến hoặc cửa biển. Tại 20
những nơi này, người ta thắp hương khấn vái bà Thủy, ông Ngư, cô bác rồi sau đó vãi hết vật c ng xuống biển.
- Sau một mùa đánh bắt trên ngư trường, các công cụ và phương tiện đi biển đem về thường được cất ở trên cao, những nơi khô ráo. Trước khi tiến hành lấy các công cụ để chuẩn bị cho một mùa đánh bắt mới, ngư dân phải làm lễ cúng tại nhà để cầu mong một mùa đánh bắt bội thu, sau đó mới được mang các công cụ, phương tiện đi biển xuống thuyền.
Các nghi lễ liên uan đến công cụ và phương tiện đi biển có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tâm linh của cộng đồng ngư dân, có tác động sâu sắc đến yếu tố an dân trong hành nghề trên biển và niềm tin sự an cư lạc nghiệp trong cộng đồng vạn chài.
- Nghi lễ truyền thống ình Nại Hiên (Phường Nại iên Đông, uận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Đình Nại iên được xây dựng bằng mái lá đơn sơ vào năm 1 57. Năm 1945 - 195 , đình là nơi hội tụ của lực lượng vũ trang Khu Đông Đà Nẵng, nơi giữ hòm thư mật để chuyển tài liệu cách mạng ra các tàu đậu ở vịnh Đà Nẵng. Năm 19 7, giặc Pháp đốt cháy, phá nát toàn bộ ngôi đình. Năm 195 ngôi đình được xây dựng lại tranh tre, năm 1957 đình được xây dựng kiên cố bằng gạch ngói, xi măng. Đến năm 199 , nhân dân đóng góp tiền của, công sức trùng tu lại đình.
Nghi lễ đình Nại Hiên bắt đầu từ khi có đình làng và vẫn tiếp tục được nhân dân duy trì và gìn giữ đến ngày hôm nay. Một năm, đình Nại Hiên có 02 ngày cúng chính, gồm có: Lễ cầu an ngày 12/2 ÂL, lễ tế Âm linh ngày 12/7 ÂL.
- Lễ cầu an diễn ra tại đình Nại iên, do điều kiện kinh phí nên chỉ tổ chức dưới dạng “tiểu lễ”. an tổ chức nghi lễ họp nhân dân trước 2 ngày để phân công nhiệm vụ, vận động kinh phí. Lễ vật cúng gồm có: gà, trái cây, đặc biệt có con heo sống chưa ua chế biến (chưa nấu chín), c n được gọi là “uế mao huyết” (hiện nay chỉ duy nhất nghi lễ truyền thống đình Nại Hiên là còn lễ vật c ng đặc biệt này). Lễ có đầy đủ các nghi thức truyền thống: dâng rượu, dâng trà, đọc văn tế. Nội dung bài văn tế ca ngợi công đức của các vị tiền hiền, hậu hiền đã có công khai khẩn lập nên vùng đất Nại Hiên ngày nay, báo cáo tình hình làng xã và mong một vụ mùa bội thu, sức khỏe dồi dào, xóm làng yên ổn.
- Lễ tế Âm linh diễn ra tại sở Âm linh, nhằm cầu siêu cho các vong linh những người chết đường, chết trận, chết không có con cháu thờ tự. Nghi thức lễ cũng tương tự như lễ cầu an đình làng.
Ban nghi thức lễ nhiệm kỳ 3 năm bầu 01 lần, vị chủ bái phải là người thuộc 07 họ lớn trong làng (Trương, uỳnh, Lê, Trần, Nguyễn Công, Nguyễn Văn, ai), gia đình không mắc tang, không tật nguyền, vợ chồng song toàn, được nhân dân tin tưởng. Trang phục của ban nghi lễ gồm có:
21
+ Vị chủ bái: áo màu xanh, đội mão, chân đi tất trắng.
+ 02 vị tả, hữu phân hiến: áo màu xanh đậm, quần trắng, chân đi tất trắng.
Nhạc cổ như trống cái, chiêng (chinh), lệnh (thanh la) của làng đã có sẵn và sẽ do người trong làng đánh. C n các loại nhạc cụ như kèn, trống nhỏ.. phải thuê ở nơi khác đến.
Ngoài ra còn có các ngày giỗ tiền hiền 20/8 ÂL, ngày dựng neo 25/12 ÂL,
hạ neo 07/01 ÂL.
Nghi thức lễ đình Nại Hiên nhằm cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió h a, làm ăn được mùa. Đây là một trong những nghi lễ truyền thống, biểu hiện đời sống tâm linh tín ngưỡng của cộng đồng cư dân.
- Nghi lễ cầ an ình Mỹ Khê (Phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng)
Đình ỹ Khê được xây dựng khoảng từ 300 – năm, ban đầu đình chỉ được xây dựng đơn giản bằng tranh tre để làm nơi hội họp, thờ cúng. Trải qua một thời gian dài bị tàn phá, nhân dân đóng góp tiền của, công sức để trùng tu đình vào những năm 1913, 2 13. Đình thờ tiền hiền, hậu hiền và 12 tôn tộc cùng xây dựng nên làng Mỹ Khê. Các tộc họ có công khai phá đất đai lập làng ỹ Khê gồm có: tộc Đàm (ông Đàm Văn Độn có công khai phá nên vùng đất Mỹ Khê), và trở thành tiền hiền của làng, về sau c n các tộc Nguyễn, ồ, uỳnh, Đinh, Trần Lê, Dương, Ngô... là hậu hiền của làng.
Lễ cầu an, cầu ngư đình ỹ Khê được tổ chức vào ngày 24/01 ÂL, tùy thuộc vào kinh phí đóng góp của người dân mà tổ chức dưới dạng “tiểu lễ”, “trung lễ”, “đại lễ”. Nghi thức lễ được diễn ra theo trình tự sau:
- Lễ vọng: Khoảng 5h tại sân đình, ban nghi lễ tổ chức lễ Vọng để mời
các vị tiền hiền, hậu hiền về tham dự lễ cùng với người dân.
- Lễ rước văn: h tổ chức rước văn từ lăng à về đình làng để chuẩn bị cho lễ chính. Tham gia đoàn rước có ban nghi lễ, kiệu rước làm bằng tre được 04 thanh niên trong làng khiêng, ban nhạc cổ.
- Lễ chánh: Sau khi đón tiếp đại biểu và nhân dân về tham dự, lễ tế chính được bắt đầu khoảng 8h. Ban thực hiện nghi lễ gồm có: 01 vị chủ bái, 02 vị tả hữu văn hiến, vị xướng lễ. Nếu tổ chức lễ lớn thì có thêm đội học trò gia lễ. Lễ vật cúng chủ yếu là gà, thịt heo, cá, trái cây… đều do người dân tự chế biến. Lễ có đầy đủ các nghi thức truyền thống: dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế. Nội dung văn tế là ca ngợi công đức của các vị tiền, hậu hiền, cầu mong một năm mưa thuận gió h a, nhân dân làm ăn phát đạt.
Đối với làng Mỹ Khê, ban nghi lễ được bầu 5 năm 1 lần, 01 vị chủ bái được bầu phải là người có chữ tín trong làng, gia đình song toàn, không có tang.
Ngoài ra, đình c n có các ngày lễ truyền thống khác: lễ kỵ yên ngày 16/6
22
ÂL, tất niên ngày 25/12 ÂL.
Đình là nơi nhân dân tổ chức các hoạt động tín ngưỡng của nhân dân Mỹ Khê. Trong suốt những năm chiến tranh, do điều kiện kinh tế khó khăn, người dân chỉ thắp hương vào ngày lễ. Sau chiến tranh, nhân dân đã khôi phục lại lễ cầu an và duy trì, phát triển đến ngày hôm nay.
- Nghi lễ cầ ngư tr ền thống (Phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà,
Thành phố Đà Nẵng)
Trước đây, làng ỹ Khê vốn là làng chài, người dân chủ yếu sống bằng nghề đi biển. Lăng Ông được xây dựng hoang sơ bằng đá n i, san hô vào những năm đầu khai hoang, lập nghiệp. Trong những năm chiến tranh, lăng bị đập phá, hư hại nặng nề. Vào những năm 9 , trước sự xuống cấp của lăng, được sự hỗ trợ của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, nhân dân làng Mỹ Khê đã huy động sự đóng góp tiền bạc, sức lực xây dựng lăng Ông hoàn toàn mới dựa trên nền kiến trúc của lăng cũ.
Lăng Ông vừa có chức năng tín ngưỡng lại vừa là nơi tổ chức lễ cầu ngư hàng năm. Phần lễ được tiến hành một cách đơn giản nhưng đầy không khí trang nghiêm thành kính. Nghi lễ nhằm bày tỏ lòng thành kính của ngư dân vùng biển với cá Ông, cầu mong sự che chở, tốt lành bội thu và cũng như để xua đi mọi điều xấu.
Trước đây, lễ cầu ngư được tổ chức hàng năm vào ngày 1 5 ÂL. Sau năm 2 , vùng đất Mỹ Khê được giải tỏa, ngư dân có sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, nhân dân làm nghề đánh bắt thủy, hải sản chỉ còn lại khoảng 2 đến 30 hộ. Việc duy trì nghi lễ cầu ngư truyền thống trở nên khó khăn về cả kinh phí lẫn nhân sự. Trước tình hình đó, ngư dân đã thống nhất thực hiện nghi lễ chung với lễ cầu an đình ỹ Khê, vào ngày 24/01 ÂL.
Vào sáng sớm ngày 24/01, ban nghi lễ tổ chức lễ tại lăng Ông Mỹ Khê để mời thần Nam Hải và các vị tiền bối, hậu bối nghề biển về tham dự lễ. Sau nghi lễ tại lăng Ông, ban nghi lễ về đình làng ỹ Khê để cúng tế, nhằm bày tỏ lòng thành kính của ngư dân vùng biển với cá Ông, cầu mong sự che chở, tốt lành bội thu và cũng như để xua đi mọi điều xấu. Lễ vật cúng gồm: trái cây, gà, xôi, thịt và áo giấy. Sau khi ban nghi lễ cầu ngư thực hiện lễ tế xong, ban nghi lễ đình làng Mỹ Khê mới tiến vào đình để thực hiện nghi lễ cầu an tại đình.
Ban nghi lễ cầu ngư là những ngư dân c n hành nghề biển, đều là những người lớn tuổi, có đạo đức, được nhân dân tin tưởng và trọng dụng. Những vị trong ban nghi lễ sẽ giữ chức vụ đến khi tuổi cao không đảm nhiệm được nữa thì mới bầu một vị mới lên thay.
- Kiêng kị khi i biển của ngư dân q ận Sơn Trà (Quận Sơn Trà, Đà
Nẵng)
23
Quận Sơn Trà là địa phương ven biển, người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy, hải sản. Cả quận có hơn % dân số trực tiếp sống về nghề
biển. Ngoài ra, số còn lại làm các dịch vụ liên uan đến nghề biển như: cung cấp lưới, làm các công cụ đánh bắt, buôn bán tôm cá..
Trước đây, khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển, các phương tiên dự báo thời tiết không có, dụng cụ đánh bắt rất thô sơ. Để dự báo thời tiết trên biển, ngư dân chỉ căn cứ vào đầu sóng, sự thay đổi “nếp sinh hoạt” thường ngày của cá, tôm, sự biến đổi của ráng mây, bầu trời… Họ chỉ có thể dựa bằng vốn sống và kinh nghiệm thực tế chứ hoàn toàn không có cơ sở khoa học. Chính vì thế mà không biết bao nhiêu con thuyền cùng với những sinh mạng bị nhấn chìm dưới đáy biển. Từ đó, người ta bắt đầu tin vào sức mạnh vô hình thiên nhiên nào đó, họ vừa sợ hãi, vừa mong sợ che chở.
Với những thách thức từ biển cả nên họ đã trang bị cho mình những ứng xử riêng trong mối uan hệ xã hội và với biển, hay nói cách khác, họ đã hình thành riêng một sinh hoạt, phong tục đặc trưng của cư dân ven biển trước nhu cầu của cuộc sống. Và trước hết là những kiêng kỵ trong cuộc sống và sinh hoạt trên biển.
Những kiêng kỵ trong ngôn ngữ:
- Người đi biển nói chung thường tránh nói đến một số từ ngữ liên uan đến nghề nghiệp. Người Việt miền Trung kiêng nhắc đến từ “sóng”. Sóng to gió lớn là nỗi kinh hoàng của những con tàu đánh cá nhỏ nhoi lênh đênh ngoài khơi. Do vậy, thay vì gọi là “sóng”, người ta dùng “nhóc” (khi ở trong lộng) và “tố” (khi ở ngoài khơi). Người ta cũng kiêng gọi tên các loại ngư cụ, chỉ dùng những từ ngữ chung chung như “bộ nghề”, “mang nghề” hay “dọn nghề” trong những ngữ cảnh cần thiết. Sợ x c phạm đến thần Nam ải và sợ những chuyến đi biển sau không có cá, ngư dân tránh dùng những từ như “đánh”, “bắt” mà thay thế bằng “m c”, không dám gọi thẳng tên những loài cá lớn, họ dùng những từ như “rau”, “mồi” để thay thế. Dùng những cách nói như “no rồi” hoặc “chững d ng” thay cho “thôi”, “đầy” khi cá đã đầy khoang, không đánh bắt nữa bởi họ cho rằng, từ “thôi” có thể sẽ làm cho chuyến đi biển sau không đánh bắt được gì và thậm chí “thôi” được hiểu là không bao giờ ra biển nữa. Trong cuộc sống hàng ngày, người ta rất kỵ nói đến những tiếng liên uan đến tai họa của nghề biển: “lật”, “chìm”, “bể”.
- Cư dân ven biển rất coi trọng việc thờ c ng cá voi, người ta không gọi là cá voi, sợ x c phạm đến thần mà gọi là Ngư Ông, Đức Ngư Ông…bộc lộ sự kính cẩn, linh thiêng.
Những kiêng kỵ trong việc đánh bắt thủy, hải sản:
- Trong những kiêng kỵ của người Việt đi biển thì kiêng kỵ liên uan đến con thuyền được đặc biệt coi trọng. Nhiều nơi có phong tục vẽ mắt thuyền. Người ta tin rằng con mắt sẽ gi p thuyền tránh uái vật làm hại, gi p cho ngư dân tìm được luồng cá và gi p cho bạn hàng tìm được bến bờ nhiều tài lộc.
24
- Những người có tang (2 tháng) thì không được ngồi trước mũi thuyền.
- Những người vừa bốc mộ hoặc có vợ mới hư thai không được xuống ghe thuyền, người có tang chưa ua khỏi 1 ngày thì không được đi biển. Cấm phụ nữ không được bước ua tay lái thuyền, nhất là ngồi trên mũi thuyền vì đó là nơi linh thiêng: có hương án c ng thần linh, có 2 mắt thần dẫn đường.
- Người đi biển cũng kỵ thuyền khác đi ngang ua mũi thuyền mình, người ngồi ở mũi thuyền chỉ được hướng ra phía trước mà không được uay lại phía sau…
- Khi may đường may đầu tiên của nghề “lưới quay” thì phải coi ngày,
giờ cẩn thận.
- Trước khi ra biển, kỵ nhất là người đến thăm hỏi, dặn d . Trên đường đi, người ta cũng đặc biệt sợ ai đó kêu giật trở lại. Những điều này gọi là điềm gỡ. - Đi biển, ngư dân luôn có ý thức chọn ngày tốt. ọ tránh ngày “tam nương”, “sát chủ”. Người dân sợ sườn thuyền bị đóng đinh (yểm đinh) vì như vậy sẽ hết đường làm ăn, có khi phải bỏ nghề.
- Nếu đi đánh bắt mà gặp con đẵng (rắn biển) đi ngang ua thuyền thì coi
như là có điềm xấu, thuyền chỉ có thể quay trở về chứ không dám đi tiếp.
- Khi đi thuyền mà gặp người chết, muốn vớt đưa lên thuyền thì phải đưa
lên bên nào, để xuống lại bên đó, chứ được không đưa ngang ua thuyền.
Các hình thức kiêng kỵ phản ánh rõ nét đời sống tâm linh, tín ngưỡng của ngư dân, thể hiện ước nguyện của con người muốn làm chủ thiên nhiên, biển cả.
- Nghi lễ truyền thống ình Nam Thọ (Phường Thọ Quang, quận Sơn
Trà, Thành phố Đà Nẵng)
Theo tài liệu các vị cao niên c n lưu giữ, đình được xây dựng lần đầu vào ngày 12 ÂL dưới triều vua Lê y Tông, đây cũng chính là ngày làm lễ cầu an của đình. L c đầu, ngôi đình mái lợp tranh và được cột thắt bằng mây. Vì ở gần n i rừng nên mọi vật liệu đều được lấy từ rừng về. Đình thờ Thành hoàng làng và được xây dựng bằng sự đóng góp của cư dân trong làng. Đến năm Giáp Ngọ 171 do kinh tế khá hơn nên đình được dựng tại Trảng Già, Cây e ở chân n i Sơn Trà. Đến năm 1 thì ngôi đình lại được chuyển về Vũng Chấn cách 5 m về hướng ắc của ngôi đình hiện nay. Theo các cụ cao tuổi trong làng thì lần di dời nào cũng giữ nguyên kiến tr c ban đầu.
Vào năm 1937, hậu tẩm của ngôi đình được xây dựng, nâng cao mái lớp ngói, tường xây làm bằng đá vôi, san hô. Năm 19 xây phần chính điện và phần tiền đình. Tiền của đều do dân làng đóng góp một phần là từ ruộng công. Đình được trùng tu lớn vào năm 19 3 và năm 1993 thì được sơn uét lại.
25
Đình là trung tâm tín ngưỡng tâm linh của người dân địa phương ua bao đời. Từ khi xây dựng đình làng, người dân đã tổ chức các nghi lễ truyền thống hàng năm tại đình Nam Thọ để tưởng nhớ đến các vị tiền, hậu hiền đã có công khai hoang, lập ấp.
Từ khi lập đình đến nay, lễ cầu an vẫn được tổ chức vào ngày 12/6 âm lịch hàng năm. Cứ 5 năm tổ chức lớn một lần, gồm cả phần lễ và phần hội, kinh phí do nhân dân đóng góp.
Trước lễ 1 tháng, nhân dân họp lại để bàn bạc, phân công nhiệm vụ tổ chức lễ. Đình làng được quét dọn sạch sẽ, trang trí cờ hoa rực rỡ, các miếu (lăng) trong làng cũng được nhân dân quét dọn, trang trí để chuẩn bị cho ngày lễ lớn.
- Lễ Vọng: Khoảng 6 giờ tối ngày 11/6 ÂL thì tổ chức lễ vọng tại sân
đình. Sau lễ, toàn bộ ban nghi lễ phải ở lại đình để lo chuẩn bị lễ chính.
- Lễ chính: Sáng sớm ngày 12/6 ÂL, tổ chức rước thần ở các miếu trong làng Nam Thọ. Đoàn rước có kiệu hương làm mới bằng tre, do 4 thanh niên trong làng khiên, trên kiệu có đặt bát nhan, trái cây. Đến mỗi miếu, vị chủ bái làm lễ c ng, sau đó r t một cây hương thắp vào bát nhan trên kiệu để thỉnh các vị về tham dự lễ. Sau khi đoàn rước về đến đình làng, lễ tế chính được bắt đầu.
- Lễ tạ: Đốt văn tế, sau đó chủ lễ cùng ban nghi lễ, khách dự và dân làng
lần lượt vào đình thắp hương.
Lễ cầu an kết thúc vào khoảng 11h trưa.
Ban nghi lễ có nhiệm kỳ 5 năm 1 lần, vị chủ bái phải là người có uy tín trong làng, không có tang, gia đình song toàn, hạnh phúc. Nếu trong nhiệm kỳ, vị chủ bái mắc tang thì phải thôi chức vị để dân làng bầu cử vị khác ra thay thế.
Trang phục của ban nghi lễ như sau:
+ Vị chủ bái: áo dài đỏ, phía trước thêu hai con rồng, phía sau thêu hình
lưỡng long chầu nguyệt, mão đỏ.
+ Hai vị bồi bái: áo dài xanh, phía trước có thêu hình hai con rồng, mão
xanh.
+ Tư văn, xướng lễ: áo xanh, mão đen.
+ 12 học trò gia lễ: áo xanh, quần trắng, lưng thắt đai xanh, chân đi tất
trắng.
- Phần hội được tổ chức vào chiều 12/6 ÂL, với nhiều hoạt động vui chơi, giải trí như: kéo co, bóng chuyền, đẩy gậy thu hút sự tham gia đông đảo của người dân và khách thập phương. Tối 12/6 ÂL, nhân dân tập trung tại đình làng để nghe hát tuồng đến khuya.
- Nghi lễ cầ ngư tr ền thống Mân Quang (Phường Thọ Quang, quận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
26
Lăng Ông ở làng ân uang được xây dựng hơn 1 năm. Lăng thờ vị thần Nam Hải cùng với những vị chư thần biển, các vị tiền bối hậu bối đã sáng lập ra nghề biển tại vùng đất này. Cùng với sự hình thành lăng Ông, tín ngưỡng thờ c ng cá Ông đã được nhân dân duy trì và gìn giữ cho đến ngày nay.
àng năm, lễ cầu ngư truyền thống ân uang được tổ chức vào ngày 12
tháng 7 âm lịch. Lễ được tổ chức dưới dạng “tiểu lễ”.
Lễ bắt đầu khoảng 7h sáng với sự tham gia của ngư dân làng Mân Quang. Trước khi tổ chức lễ chính ở lăng Ông, ban nghi lễ phải làm lễ ở đình làng ân uang để thông báo cho Thành hoàng làng và các vị tiền, hậu hiền của làng biết để về tham dự. Điều hành lễ cúng gồm có: 1 vị chủ bái và 2 vị bồi bái. Trang phục của chủ bái: áo gấm đỏ, mũ hia đỏ, quần đỏ, chân đi tất trắng; 2 vị bồi bái: áo gấm xanh, mũ xanh, uần xanh. Lễ vật c ng thường là hoa uả, heo, gà và trà rượu.
Khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển, cộng đồng cư dân ven biển còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, tín ngưỡng thờ c ng cá Ông được truyền từ thời kỳ này qua thời kỳ khác đã gi p họ có thêm niềm tin, nghị lực để tiếp tục ra khơi đánh bắt thủy, hải sản.
d) Lễ hội tr ền thống
- Lễ hội cầ ngư tr ền thống Nại Hiên Đông (Phường Nại Hiên Đông,
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Lăng Ông phường Nại iên Đông được xây dựng vào năm 193 , lăng c n được ngư dân gọi với cái tên “Đền thờ ngư Ông cửa khẩu sông Hàn Đà Nẵng” hoặc “Lăng Ông tứ chánh hội vạn nghề”. Trải qua một thời gian dài bị thiên nhiên tàn phá, lăng bị xuống cấp nghiêm trọng. Vào năm 2 12, ngư dân Nại iên Đông đã chung góp tiền bạc và công sức để xây dựng Lăng Ông như hiện nay. Lăng Ông Nại iên Đông có kiến tr c tương tư như các lăng Ông khác trong thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, trên bệ thờ của vị thần “Nam ải” lại tạc bức tượng cá Voi, tượng trưng cho hiện thân của thần “Nam ải”, đây được coi là một điểm khác biệt với các lăng khác. ai bên gian thờ chính các bệ tẩm đặt xương cốt cá Ông, hay c n được gọi là “Ngọc cốt”, trên thờ các vị chư thần biển như “ à á”, các vị tiền bối, hậu bối đã sáng lập ra nghề biển tại vùng đất này. Phía đối diện, thờ thần “Tiêu Diện đại sỹ”, chuyên uản các âm binh cô hồn chết nước. Hai bên tả, hữu ban là thờ các vong linh chết sông, chết biển.
Lăng vừa có chức năng tín ngưỡng lại vừa là nơi tổ chức lễ Cầu ngư hàng năm. L c đầu chỉ có phần lễ mà không có phần hội. Phần lễ được tiến hành một cách đơn giản nhưng đầy không khí trang nghiêm thành kính. Lễ hội Cầu ngư được tổ chức nhằm bày tỏ lòng thành kính của ngư dân vùng biển với cá Ông, cầu mong sự che chở, tốt lành bội thu và cũng như để xua đi mọi điều xấu.
27
Lễ thường được tổ chức 3 năm 1 lần, không cố định một ngày cụ thể, ngày lễ chính phải là ngày đại lợi trong tháng 02 âm lịch, đặc biệt không kỵ với vị chủ bái, tránh ngày sát chủ. Đây là một điểm đặc biệt so với các lễ Cầu ngư ở nơi khác.
Trước ngày diễn ra lễ hội, ngư dân phải tạm ngưng mọi việc, không đi biển, nếu đang đánh bắt cũng phải về nhà để lo sơn sửa, trang trí thuyền ghe, tham gia chuẩn bị cho lễ hội.
Trước lễ chính một ngày, ngư dân tổ chức lễ Vọng, trên bàn lễ có đặt một lẵng hoa to ghi tên tất cả các vạn nghề biển của phường Nại iên Đông, lễ nhằm thỉnh tất cả các vị thần về tham gia lễ hội.
Sáng sớm ngày lễ chính, các vị đại diện ban ngư dân cùng với 4 thuyền hoa tiến ra ngoài cửa biển để làm lễ nghinh Ông. Đi trên thuyền hoa, gồm có 3 vị chủ tế, 12 học trò lễ, đội hát bả trạo, đội nhạc cổ, đội nhạc đại cổ (chiêng, trống lớn), đội tiểu cổ (trống nhỏ, kèn), áo giấy vàng mã đươc rải dọc trên đường đi. át nhan của thần Nam Hải trong lăng Ông được đặt trang trọng trong kiệu hoa gồm bốn người khiêng. Khi ra đến cửa biển, vị chủ tế đứng thẳng, mắt hướng về hương đông, bắt đầu tiến hành lễ thỉnh rước sắc thần Nam Hải. Kết thúc phần lễ, vị chủ bái múc một bát nước, còn gọi là nước của Bà Thủy, đại diện cho các vị thần ở biển khơi chứng giám cho lễ của ngư dân. Ngoài ra, một lẵng hoa lớn thắp hương bên trong cũng được mang thả xuống biển để tưởng nhớ các vong linh bị tử nạn sông biển. Khi thuyền vào bờ, chiêng chống nổi lên rộn ràng, đội hình tham gia rước kiệu về lăng ông trong trang phục chỉnh tề, đi theo thứ tự sau:
- Đi đầu là 20 thanh niên xếp hàng đôi tay cầm cờ thần – đuôi nheo dẫn
đường.
- Đội cờ ngũ phương, trong đó người cầm cờ ở giữa phải là người được ngư dân lựa chọn theo tiêu chuẩn sau: ngư dân làm ăn đạt năng suất cao nhất trong ba năm vừa ua, gia đình h a thuận và không mắc tang.
- Đội rồng, đội lân.
- Đoàn nhạc cổ vừa đi vừa chơi nhạc.
- Đoàn hát bả trạo với trang phục rực rỡ, nón lá trắng, quần áo xanh nẹp trắng, mỗi người cầm một mái chèo sơn nửa vàng nửa đỏ, vừa đi vừa đẩy mái chèo theo nhịp chèo thuyền và hát. Đội gồm có: Tổng mũi (tổng thuyền), tổng khoang (tổng trung) và tổng lái (tổng hậu) và khoảng từ 1 đến 16 thành viên gọi là con trạo (tay chèo), số lượng con trạo bao giờ cũng là số chẵn.
- Ba ông chủ lễ, 12 học trò gia lễ.
- Kiệu rước sắc thần Nam Hải được làm bằng khung gỗ, trang trí bằng lá
dừa, bẹ chuối do 4 thanh niên to khỏe trong vùng khiêng.
- Sau cùng là đại diện các vị ngư dân cao tuổi, đại diện các ngư dân trẻ
tuổi, đại diện hậu cần nghề cá.
28
Đoàn rước đến sân lăng Ông thì ban nghi lễ làm lễ “sắc thần nhập điện”.
Khoảng 8h, lễ chính được diễn ra, đội hát bả trao hát “tuồng ông ngư” để tri ân thần Nam Hải gi p cho mưa thuận gió h a, đánh bắt được thắng lợi, tiếp đến là bản “hò âm linh” nhằm tri ân những vị tiền nhân đã sáng lập ra nghề cá, các âm linh cô hồn chết sông, chết biển. Tiếp đến là lễ cầu mùa, lễ cầu an. Cuối cùng, lễ tạ để tạ các vị thần đã về chứng kiến lễ, ngư dân xin tài lộc trong 3 năm tới. Lễ vật cúng: lễ chính gồm các đồ chay; Lễ tạ gồm heo, gà, vịt.
Phần hội gồm những hoạt động gắn liền với bà con ngư dân: hát dân ca
gắn liền với các chủ đề trên sông nước, đua thuyền, lắc th ng…
Ngoài lễ Cầu ngư truyền thống, còn có các nghi lễ tế vào các ngày như:
+ Ngày 25 tháng 12 (ÂL): Ngày khép ấn.
+ Ngày 7 tháng giêng: (ÂL): Ngày hạ neo.
Ban nghi lễ nhiệm kỳ 24 tháng bầu một lần. Riêng đối với vị chủ tế điều kiện phải trên 60 tuổi, gia đình phải song toàn, không có người mất, không có sanh đẻ.
Đối với các năm không làm đại lễ, các dạng nghề biển tự tổ chức cúng lễ
của riêng dạng nghề.
Lễ hội chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện rõ nét tín ngưỡng thờ c ng đức Ngư Ông của cư dân vùng biển, có vai trò rất lớn trong đời sống tâm linh, có tác động sâu sắc đến yếu tố an dân trong hành nghề trên biển và niềm tin trong sự an cư lạc nghiệp trong cộng đồng vạn chài.
- Lễ hội Cầ ngư Nam Thọ (Phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng)
Nam Thọ là vùng đất giáp biển, nhân dân chủ yếu sinh sống bằng ngư nghiệp, cuộc sống của người dân gắn với biển cả, vì lẽ đó, hàng năm trước mỗi mùa ra khơi nhân dân nơi đây thường tổ chức lễ hội Cầu ngư. Đây là lễ hội lớn nhất của ngư dân, một trong những sinh hoạt văn hóa mang đậm yếu tố tâm linh. Lễ hội không chỉ được xem là sự tôn kính thần linh mà còn gắn liền với sự hưng thịnh của vạn chài Nam Thọ.
Lễ Cầu ngư Nam Thọ được tổ chức vào ngày 26/2 âm lịch hàng năm. Cứ ba năm, lễ được tổ chức lớn một lần. Kinh phí chủ yếu do nhân dân tự đóng góp.
Trước ngày lễ chính, lăng Ông được vệ sinh, quét vôi sạch sẽ, trang hoàng hết sức rực rỡ, trang nghiêm, có kết hoa, chăng đèn. Các nhà trong vạn chài đều đặt hương án trước nhà, trên có đèn nhang, bánh trái, mâm xôi. Trình tự của lễ hội cầu ngư được tiến hành theo các nghi thức như sau:
+ Lễ rước sắc, rước văn: an nghi lễ nghinh sắc, nghinh văn từ đình làng
Nam Thọ về lăng Ông.
29
+ Lễ nghinh thần: Trước lễ chính 1 ngày (25/2 âm lịch), 10 tàu thuyền lớn được trang trí nhiều màu rực rỡ, từ cột buồm đến mũi và lái đều chăng hoa.
Đoàn thuyền đến các lăng, miếu của làng nằm ngoài các bãi Nam, bãi Bắc để thỉnh các vị thần về tham dự lễ. Kiệu nghinh thần được làm bằng tre, do 4 thanh niên to khỏe trong làng khiêng, hai bên là ban nhạc lễ. Khi đến mỗi lăng, hay miếu thờ, ông chủ tế khởi lệnh làm lễ, r t ba cây hương cắm vào bát hương trên kiệu nghinh thần.
+ Lễ vọng: Chiều 25/2, lễ vọng được tổ chức trước sân. Lễ vọng nhằm cầu cho các vong hồn, những người tử nạn trên biển được siêu thoát. Sau khi kết thúc, toàn bộ ban nghi lễ phải ở lại lăng Ông để chuẩn bị cho lễ chánh.
+ Lễ chánh: Lễ thường bắt đầu lúc 7h sáng với sự tham gia của chính quyền địa phương cùng đông đảo người dân trong vạn chài. Sau khi đại diện chính quyền lên đọc diễn văn khai mạc, tiếng trống do một vị cao tuổi và có uy tín trong vạn chài gióng lên mở màng mùa lễ hội, cầu mong một năm mới tốt lành. Lễ chánh diễn ra với các nghi lễ truyền thống: đọc văn tế, dâng hương, dâng rượu, dâng trà. Ban nghi lễ gồm có: chánh tế, 2 vị phân hiến, 12 học trò gia lễ, nhạc lễ, xướng lễ. Nếu chỉ tổ chức “tiểu lễ” hay “trung lễ” thì không có học trò gia lễ. Các vị trong ban nghi lễ đều mặc lễ phục chỉnh tề, áo tay rộng, màu đen hay màu xanh có hoa chữ thọ, quần dài trắng, đội mão cùng màu với màu áo, chân đi tất trắng. Học trò gia lễ mặc áo rộng màu xanh có hoa, mão tiến sĩ màu xanh có tua thả phía sau. Sau phần nghi lễ truyền thống là màn “xây chầu hát lễ”, người thực hiện nghi thức được chọn lựa kỹ càng, phải là một người có chức sắc trong làng, không có tang, được tuổi trong năm đấy thì mới đủ điều kiện đứng ra thực hiện. Người xây chầu mặc áo, quần và khăn đóng đều màu đỏ, chân đi tất trắng. Trống chầu được để giữa sân, trên mặt có phủ vải điều đỏ. Khi đánh trống, tay cầm dùi v ng ua đầu, đánh 3 hồi dài lại 9 tiếng, đánh hồi thứ 3 thì rút tấm vải điều ra. Hát lễ thường hát tuồng “Ph c-Lộc-Thọ”. Đồ cúng gồm có: heo, gà, trái cây, xôi…
Phần hội diễn ra suốt 2 ngày 25, 26/2 âm lịch gồm có các tr chơi dân gian mang đặc trưng vùng biển thu h t được sự tham gia của đông đảo ngư dân như: lắc thúng, kéo co, bóng chuyền, đua thuyền…
Nam Thọ là vùng có 50% dân số làm nghề biển, chính vì vậy lễ hội Cầu ngư có vai tr rất lớn trong đời sống tâm linh, có tác động sâu sắc đến yếu tố trong hành nghề đi biển và niềm tin về an cư lạc nghiệp trong cộng đồng vạn chài. Lễ hội còn là dịp để người dân thể hiện sự biết ơn, l ng thành kính với cá Ông, cầu mong sự che chở, cũng như xua đi mọi điều xấu.
e) Nghề thủ ông tr ền thống
- Nghề an th ền thúng Thọ Quang (Phường Thọ Quang, quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng)
30
Làng chài Thọ Quang có từ lâu, thế nhưng nghề đan th ng ở Thọ Quang thì có cách đây khoảng 3 đến năm. ắt nguồn từ xã Duy Vinh, Duy Xuyên, Quảng Nam, theo chân cha ông và ra làm nghề ở Thọ Quang và tồn tại cho đến
ngày nay. Đây là nghề thủ công truyền thống cha truyền con nối, l c ban đầu chỉ đan những thúng nhỏ, khi có kinh phí đan những thuyền thúng lớn.
Nguyên liệu: Chủ yếu là tre (mua ở a Ph , a Nhơn, huyện Hòa Vang). Tre làm thuyền thúng phải là tre già, từ một năm rưỡi đến hai năm tuổi trở lên mới bảo đảm được độ bền, dẻo dai của thúng.
Quy trình làm thúng: Gồm các công đoạn: h nan: Tre mua về được cắt khúc theo kích thước của thúng, róc mắt, chuốt hết tinh màu xanh của tre để sau này trét dầu rái thấm vào th ng. Sau đó, chẻ nan ra để vót. Nan chỉ lấy cật, bỏ ruột. Điều này giúp thúng không bị thấm nước, cũng như mối mọt xâm hại. Nan thúng cỡ 2 - 2,5 cm thì thúng đan mới chặt và tr n đều. uá trình chẻ và vót nan sao cho đầu nan cứng, phần giữa thì mềm dẻo để có thể uốn và lật lại th ng mới đứng. Nan tre phải phơi – 5 nắng cho khô, để khi đan không bị hở.
Đan nan: Đây được coi là công đoạn quan trọng trong quá trình làm thúng. Nan tre phải được chọn lựa kỹ lưỡng. Khi đan nan đến đâu người thợ phải chít lại với nhau thật kỹ để không có lỗ hở (còn gọi là giật nan). Các nan được đan vào nhau thành tấm lớn gọi là mê. Chiếc thuyền th ng được đan theo thứ tự từ trong ra ngoài theo các uy định: long mốt, long hai, long ba và long bốn. Công đoạn này người thợ phải cẩn thận, khéo léo mới cho ra một chiếc th ng tr n, đều.
Vót vành: Vành là vòng tròn bằng tre bao quanh miệng th ng, được làm từ tre già, lâu năm hơn tre dùng làm nan, cho nên dày và đảm bảo không bị bể khi uốn vành. Vành tre được đem phơi từ 5 -7 nắng cho thật khô rồi uốn lại, đây là công đoạn khó nhất uyết định độ bền chặt của th ng. Vành th ng được vót kỹ, mịn. Đối với thúng nhỏ (th ng bơi), vành gồm 4 thanh tre cuộn lại, thúng lớn thì 6 thanh tre. Thúng hột xoài (th ng máy) kích thước lớn nên cần đến 12 hoặc 16 thanh.
Lận th ng: Khi đã vót xong vành th ng, người thợ đào hố trong l ng đất kích cỡ bằng chiếc thuyền th ng và đóng các cọc và treo vành lên. Sau đó, bỏ mê lên trên rồi đạp xuống, lận cho đều mê chính vào vành. Khi chỉnh sửa như ý thì lấy cước sợi to buộc chặt uanh vành, dùng kềm siết chặt để cố định th ng lại. Đây cũng là công việc đ i hỏi khéo tay, phải thắt dây cước thật kỹ và đều để làm cho thúng không lỏng lẻo, xộc xệch.
Tr t phân bò: Sau khi đã tạo ra hình thù của một chiếc thuyền th ng, người thợ trét phân b lên bề mặt th ng, sau đó đem phơi khô từ 6 – 7 ngày.
Trét dầu rái: Đây là công đoạn cuối cùng. Dầu rái là một chất kết dính rất cao được uét lên để bảo vệ và chống thấm cho th ng.
31
Nghề đan thuyền thúng có nhiều ở các tỉnh ven biển nhưng cũng như các nghề thủ công khác, nghề này đang dần dần bị mai một. Trước đây có rất nhiều hộ gia đình theo nghề, có đến 5 hộ, mỗi hộ có đến hơn chục người làm nghề, về sau gặp rất nhiều khó khăn nên người dân đã bỏ nghề theo nghề khác. Hiện
nay, do nguồn nguyên liệu để làm thúng tại địa phương khan hiếm, người làm th ng phải tìm mua nguyên liệu ở những nơi khác, vì vậy sản phẩm làm ra bán ít có lời. ơn nữa, ngoài thuyền thúng truyền thống, hiện nay ngư dân c n dùng thuyền thúng nhựa composite. So với thuyền thúng truyền thống, thuyền thúng bằng vật liệu composite có ưu điểm nhẹ hơn, giá thành rẻ hơn, độ bền khoảng 20 năm và hằng năm không phải bảo dưỡng.
f) Tri thứ dân gian
- ài th ố dân gian hữa bệnh tr ng gió a b ng kiết a lưng ảm thương hàn a ầ a răng ầm má (Phường Thọ uang, phường Nại iên Đông, phường n ải Tây, uận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng)
Trong uá trình thích nghi với điều kiện tự nhiên, các thế hệ đi trước đã dày công tìm hiểu về đặc điểm và tác dụng trị bệnh của các loài thuốc chữa bệnh của các loài cây, hoa... ua đó, sáng tạo ra các loại thuốc chữa bệnh mà không cần tốn kém về sức lực, thời gian, tiền bạc.
h a bệnh tr ng gi : Cây sả rửa sạch, bỏ phần lá, giã nhỏ, lấy nước
thoa lên người để 3- giờ rồi tắm. Làm như thế cho đến khi thấy đỡ thì thôi.
h a đau bụng kiết: Khoai lang nấu chín, xắt lát mỏng đem phơi khô, dùng nấu chín rồi ăn. ỗi bữa chỉ cần 1 chén. Dùng trong khoảng 2 - 3 ngày là khỏi.
h a đau lưng: cây ngải cứu rửa sạch, trộn với một ít muối sống và gừng tươi, đem hỗn hợp ấy giã nhỏ, đắp lên lưng trong v ng 1- 2 giờ đồng hồ, làm 1 ngày 1 lần trong nhiều ngày sẽ khỏi.
h a cảm:
Cách 1: ông hơi bằng hỗn hợp lá chanh, ổi, sả, tràm, tre và một số loại lá
khác. ỗi ngày 1 lần, liên tục trong 3 ngày.
Cách 2: Củ nén giã nhỏ đắp lên trán hoặc nấu cháo để ăn, dùng ngay l c
nóng.
h a thương hàn: ột ít móng tay cùng với gừng tươi, vỏ uế và một ít cồn. óng tay đốt cháy, dùng nó trộn với gừng và vỏ uế (đã giã nhỏ) và một ít cồn dùng sẽ hết bệnh.
Đau đầu: Dùng lá ngũ vị hương giã nhỏ với ít muối sống dùng đắp lên đầu. L c nào lá khô thì thì bỏ ra. Làm như thế 2 - 3 lần 1 ngày. oặc dùng củ nén giã nhỏ đắp lên trán.
h a cầm máu: Củ hành mọi đập và giã nhỏ với một ít muối sống rịt
vào vết thương. Khoảng 2 - 3 giờ sau gỡ ra.
h a đau răng: ngậm nước muối hoặc rượu gạo sẽ đỡ.
h a bệnh mưng m ở tai c a tr con: lấy trứng của châu chấu trời nấu
32
lên (có ít nước), đổ ra chén nhỏ rồi đặt gần tai trẻ. Làm vài lần sẽ hết.
Sử dụng các bài thuốc dân gian vừa an toàn, có tác dụng chữa bệnh tốt, ít tác dụng phụ, mặc dù thời gian giảm bệnh lâu hơn sử dụng thuốc tây, song về lâu dài đảm bảo cho sức khỏe của con người. Đặc biệt đối với các khu vực dân cư nghèo thì nó càng có giá trị vì ít tốn kém sức lực và tiền bạc.
- Cách nhận biết có thời tiết xấu, một số kinh nghiệm ánh bắt cá và
kiêng kị ối v i ngư dân (Phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, tp ĐN)
Ngày xưa khi mà điều kiện kinh tế c n khó khăn, việc tiếp cận các phương tiện truyền thông để biết dự báo thời tiết là không thể. Cho nên, các thế hệ ngư dân đi biển phải tự học hỏi và tiếp thu truyền thống và nhận biết sự thay đổi của các sự vật trong tự nhiên để biết và phòng tránh thiên tai. Những kinh nghiệm này đặc biệt có giá trị khi ngư dân lênh đênh trên biển, đánh cược số phận của mình với thiên nhiên khắc nghiệt. Do đó, như thành thông lệ, bất cứ ngư dân nào cũng có một “kho tàng” kinh nghiệm xem trời đất, cá, nước… để dự đoán mưa bão.
+ Cách nhận biết thời tiết xấu: Trời âm u, khí nóng lạnh rất khó chịu: Có
giông, sấm sét đánh ở phía biển.
Buổi sáng, mặt trời có màu đỏ rực là sắp có bão.
Tháng 1, có sương mù trong v ng 2 – 3 ngày, sau đó ắt có gió bắc lớn.
Nước biển dẻo như có bùn và có “ngời” (ánh sáng như tia laze chạy dài)
thì sau đó 2 – 3 ngày sẽ có gió lớn và không có cá.
+ Kinh nghiệm đánh bắt cá theo mùa:
Tháng 1, 2: là mùa cá chuồn, cá ghềnh.
Dùng “mơ” để trong một hòm tre, rỗng một đầu, đặt hai bên mạn tàu, cá
chuồn vào đẻ thì cất lên.
Tháng 2: là mùa cá cơm thon, đến tháng 3, tháng 4 là hết. Tháng 7 có cá
cơm lại đợt 2.
Tháng 2, tháng 3: là mùa cá giò.
Tháng 3: là thời điểm có nhiều cá ghềnh đến tháng 5 thì hết.
Cá ngừ: có thường xuyên.
+ Một số kiêng kị:
Trên đường ra biển, nếu gặp rắn biển, rùa biển (vít, vích) thì xui xẻo, có
thể đánh được ít cá hoặc gặp nạn.
Nếu gặp xác người chết thì bỏ vào thúng, cột theo tàu rồi kéo đi chứ
không mang thẳng lên tàu, sợ bị hồn ma ám không làm ăn được.
Đàn bà không được lên tàu, trừ ghe nhỏ đánh bắt gần bờ có thể mang
33
theo vợ con.
Quy luật cá nhiều – ít theo mùa vụ thực sự rất có ích đối với đời sống ngư dân. Bởi vì, mục đích lớn nhất ngư dân mong muốn chính là đánh bắt được thật nhiều hải sản. Chỉ có như vậy mới làm giàu đời sống kinh tế gia đình.
Một số kiêng kị của ngư dân mặc dù mang tính tâm linh tín ngưỡng nhưng nó đảm bảo sự ổn định về mặt tinh thần, tư tưởng. Khi những kiêng kị đó được thực hiện nghiêm t c và đầy đủ, người ta sẽ an tâm để làm ăn, sinh sống.
2. Một số di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu
a) Lễ hội cầ ngư Mân Thái (Phường Mân Thái, quận Sơn Trà
thành phố Đà Nẵng)
Lễ hội cầu ngư ân Thái được tổ chức tại lăng Ông, đây là nơi thờ cúng
cá Ông và các bậc tiền nhân đã khai sinh ra nghề biển.
Lăng Ông được xây dựng gần bờ biển, quay mặt về hướng Đông. Lăng có 3 gian nhà, trong đó gian giữa có xây một bàn thờ lớn hình hộp chữ nhật. Phía trên bàn thờ là bức đại tự lớn “Nam ải chư thần” và dưới bức đại tự là chữ “thần” lớn. Hai gian bên cạnh thờ hữu ban liệt vị, theo sự giải thích của người dân thì đó là thờ các ban bệ hậu cần giúp việc Đức Ngư Ông. Phía tả, hữu của lăng thờ có những bức đại tự lớn đề “Khiết minh” (ánh sáng của người có công), “Tuấn đức” (đức sáng) để ca ngợi Đức Ngư Ông và các chư thần. Qua các bức đại tự ở lăng Ông thấy rõ cá voi đã được nhân dân thần thánh hóa, coi như một vị thần che chở cho dân chài. Lễ cầu ngư ở phường ân Thái có từ thời Cảnh ưng nhà Lê (1740 - 17 ), nhưng đến đầu thế kỷ , thời vua Gia Long nhà Nguyễn mới phát triển mạnh và được duy trì liên tục cho đến ngày nay.
Lễ hội cầu ngư tổ chức hàng năm vào ngày 25, 26 tháng Giêng âm lịch. Khoảng 3 đến 5 năm, lễ lại được tổ chức lớn một lần, tùy theo kinh phí đóng góp của nhân dân. Hội lớn được tổ chức dài ngày (4 – 5 ngày) với quy mô lớn, còn lễ nhỏ chỉ cúng vào ngày chính.
Trình tự lễ hội cầu ngư ân Thái diễn ra như sau:
Trước ngày tổ chức lễ hội khoảng 10 ngày, các tàu thuyền đánh cá tập trung về neo đậu gần bờ, nhân dân tổng vệ sinh nhà cửa, đường phố, bãi biển và nơi diễn ra lễ hội. Lăng Ông được dựng rạp, dọn dẹp sạch sẽ. ương cá Ông được mang ra rửa bằng rượu trắng và lau bằng vải điều đỏ, phơi khô để chuẩn bị cho lễ chính thức.
- Ngày 25 tháng giêng âm lịch:
+ Lễ vọng: tổ chức vào lúc 12h tại sân lăng Ông, là lễ cáo giỗ và cầu xin cá Ông báo ứng cho cư dân vạn chài điềm lành dữ trong năm. Lễ diễn ra trong không khí trang nghiêm với đầy đủ các nghi thức tế lễ truyền thống.
+ Lễ nghinh thần: tổ chức vào lúc 14h, là lễ để rước đức Ngư Ông và thần linh ở các lăng miếu, đình ở trong làng và những vong linh chẳng may bỏ mạng trên biển về tham dự lễ hội. Đây được coi là một trong những nghi thức quan 34
trọng nhất trong phần lễ, mang nhiều nét văn hóa vùng biển. Đ ng giờ đã định, ba hồi trống vang lên từ lăng thờ cá Ông, chủ bái trong trang phục áo the, khăn đóng, báo hiệu để đoàn rước xuất phát từ lăng. Đội hình nghinh thần gồm có: Đi đầu là cờ tổ quốc, tiếp theo là ban nghi lễ gồm có 1 vị chủ bái, 2 vị bồi bái và 12 học trò gia lễ. Tiếp đến là kiệu người khiêng, trên để bài vị và đồ c ng. Đi hai bên là hai người cầm cờ phướn, rồi đến đoàn vác chấp kích và lỗ bộ gồm 8 người cùng dàn nhạc cổ vừa đi vừa chơi nhạc. Theo đoàn rước c n có đội hát chèo bả trạo với trang phục rực rỡ, vừa đi vừa đưa đẩy mái chèo theo nhịp chèo thuyền và hát ca ngợi công đức Ngư ông. Và cuối cùng là chính quyền đại diện và các đoàn thể địa phương với trang phục ngày lễ đẹp, lịch sự. Đoàn rước đi dọc từ lăng Ông đến đình, các lăng miếu trong làng. Mỗi khi đến nơi, vị chủ tế làm lễ và rút một cây hương thắp vào bát nhan trên kiệu để nghinh thần về lăng tham dự lễ hội Cầu ngư.
Suốt cả đêm 25, ban thực hiện nghi lễ gồm: vị chủ lễ, 12 học trò gia lễ,
ban nhạc cổ phải túc trực ở lăng Ông để chuẩn bị cho ngày lễ chính.
- Ngày 26 tháng Giêng âm lịch:
+ Lễ thỉnh văn: 3h sáng tổ chức rước văn tế từ nhà tư văn về lăng, chuẩn
bị cho lễ chính thức.
+ Lễ tế chính: Tổ chức vào khoảng 7h sáng, sau khi đón tiếp đại biểu uan khách và nhân dân đến tham gia lễ hội. Ban nghi lễ gồm có 1 vị chánh tế, 2 vị tả, hữu phân hiến, 12 học trò gia lễ, ông chủ xướng và những người đứng phụ 2 bên lo việc dâng hương và dâng rượu. Nội dung văn tế nhằm ca ngợi đức Ngư Ông, bậc tiền nhân phù hộ cho nghề đánh bắt cá mãi mãi phát đạt, mong cho trời yên biển lặng làng xóm yên vui hưởng thái bình. Sau khi đọc văn tế, kết thúc lễ tế, vị chủ tế vào thắp 3 nén hương, xin cho đoàn hát bả trạo vào trình diện đức Ngư Ông.
35
Hát bả trạo vừa mang tính chất lễ, lại vừa mang tính chất hội diễn được tổ chức ngay trên sân lăng Ông. Đội gồm có 15 người: một trưởng đoàn đóng vai thuyền trưởng gọi là ông Tổng mũi (Tổng thuyền), người đứng giữa thuyền làm nhiệm vụ tát nước gọi là ông Tổng khoang (Tổng trung) và người đứng cuối thuyền gọi là ông Tổng lái (Tổng hậu), còn lại là 12 em nữ (từ 12 đến 15 tuổi) đóng vai người chèo thuyền, tay cầm mái chèo đưa đẩy theo nhịp thuyền và hát. Trước năm 1975, trang phục của ba ông Tổng rất đơn giản, chỉ là áo dài đen, quần trắng, chân đi tất. Hiện nay, để buổi biểu diễn trở nên sống động, trang phục cũng mang nhiều màu sắc hơn. Ông Tổng mũi: trang phục áo dài màu xanh, cổ tay bóp màu tím, lưng thắt dây màu tím, quần tím, đầu đội mão, chân quấn xà cạp, đi giày vải. Ông Tổng khoang: mặc áo ngắn màu xanh nước biển viền cổ trắng xanh, lưng thắt dây màu xanh, quần màu xanh nước biển, chân quấn xà cạp, đi giày vải, đầu đội nón lá. Ông Tổng lái: đầu đội mão, áo dài màu tím nhạt, viền áo màu xanh nước biển, lưng thắt dây màu xanh nước biển, quần dài màu tím, chân quấn xà cạp, mang giày vải. Khuôn mặt của ba ông được vẽ
như trong hát Tuồng. Con trạo mặc áo xanh lá cây, đầu đội nón lá, lưng thắt đai xanh, chân mang xà cạp, tay cầm mái chèo dài 1,2m sơn đỏ, vàng. Trong lễ chính, đội hát bả trạo hát bản chèo “Kỵ ông Cầu ngư”. Nội dung mô tả cảnh đánh bắt cá vất vả, ngày đêm lênh đênh trên biển, cầu đức Ngư Ông gi p cho trời yên, biển lặng, đánh bắt được tôm cá đầy thuyền. Trước những năm 2 , do phần hát bả trạo kéo dài đến 3 tiếng nên biểu diễn vào tối ngày 25 tháng Giêng, nhưng hiện nay do hạn chế về thời gian, nghi thức hát bả trạo được chuyển vào sau lễ tế chính. Hiện nay, lễ tế chính còn gắn liền với chương trình mít tinh trọng thể phát động ngày ra uân đánh bắt hải sản đầu năm.
Nếu tổ chức lớn, sau khi kết thúc phần hát bả trạo là nghi thức xây chầu hát lễ, đây là một nghi thức cổ truyền của làng Tân Thái. Trống chầu để giữa sân, nơi trang trọng nhất, trên mặt trống có phủ vải điều. Người đánh trống xây chầu phải là người có uy tín nhất, không có tang chế, gia đình song toàn, hạnh ph c. Khi đánh trống chân đứng chữ đinh J, tay cầm dùi v ng ua đầu, đánh 3 hồi dài lại 9 tiếng. Sau cùng, là phần hát ch c, thường là trích đoạn hát tuồng “Ph c – Lộc – Thọ”.
Trong suốt 2 ngày 25, 26 tháng Giêng, phần hội gồm nhiều hoạt động thể thao gắn liền với vùng biển như: lắc thúng, kéo co, ngoáy thúng. Ngoài ra, từ tối 25 đến tối 2 , đoàn tuồng biểu diễn phục vụ bà con trong làng.
Lễ hội cầu ngư mang những nét đặc trưng của làng biển Tân Thái, vừa thể hiện tính chất tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn đối với đức Ngư Ông linh thiêng, vừa hàm chứa niềm ước vọng của những người làm nghề sông nước, mong một mùa bội thu tôm, cá. Lễ hội cũng thể hiện tính gắn kết cộng đồng, cùng nhau hợp sức chống chọi với thiên nhiên, xây dựng tình làng nghĩa xóm, gi p đỡ nhau l c khó khăn, hoạn nạn. Đây cũng là dịp vui chơi, giải trí, sinh hoạt văn hóa bù đắp những ngày lao động vất vả trên biển khơi. Cũng như nhiều lễ hội khác, phần lễ và phần hội đan xen làm cho không khí lễ vừa trang trọng thiêng liêng, vừa hồ hởi vui vẻ.
b) Hát bài Chòi (Phường Nại Hiên Đông phường Thọ Quang, quận
Sơn Trà thành phố Đà Nẵng).
át bài ch i là loại hình diễn xướng dân gian có từ lâu đời, trải dài từ tỉnh Quảng Trị cho đến tỉnh Ninh Thuận. Mặc dù đã có nhiều bài nghiên cứu, sưu tầm nhưng vẫn chưa xác định được chính xác bài ch i ra đời từ khi nào, ở đâu. vùng ven biển Sơn Trà cũng vậy, không xác định rõ thời gian chỉ biết loại hình diễn xướng này đã có từ lâu đời, được nhân dân vô cùng yêu thích. Một vài người dân có năng khiếu ca hát bắt đầu tự mày mò, học tập. Dần dần, họ thành thạo, hát hay diễn giỏi cộng với l ng đam mê, sự nhiệt huyết cho nên tập hợp lại và trở thành một nhóm, lưu diễn khắp các vùng.
36
Từ xưa đến nay, hát bài chòi không chỉ diễn ra trong các hoạt động vui chơi giải trí mà trong lao động sản xuất người ta không ngại ca những bài vui,
trữ tình để thư giãn tinh thần. Đó là vốn quý mà các nghệ nhân lớn tuổi ở đây đang cố gắng để trao truyền lại cho thế hệ trẻ địa phương.
át bài ch i ngày nay thường diễn ra vào dịp lễ tết, hoặc khi làng tổ
chức lễ hội, hoặc hát trong các lễ cưới hỏi theo yêu cầu của mọi người.
Sân khấu thường là vùng đất trống, rộng và bằng phẳng. Trước đây, người chơi thường ngồi trên những chiếc chòi bằng tre lá đơn sơ, cao uá đầu người, ba mặt sau bịt kín còn mặt trước quay vào giữa, có bậc thang lên xuống. Hiện nay, các ch i được thay thế bằng những chiếc ghế nhỏ để thuận tiện cho người chơi. Sân khấu được trang bị bằng cờ tướng và các con bài đã được phóng to.
Nghệ nhân khi hát mang áo bà ba, ăn mặc chỉ cần gọn gàng, sạch đẹp chứ
không cần cầu kì.
Mỗi ván bài chòi có 30 quân cờ với 30 tên gọi khác nhau chia thành 10 loại thẻ gỗ (3 quân cờ là một thẻ) và người chơi sẽ được chọn mua các loại thẻ đó. Trên mỗi con bài đều có những hình vẽ rất khác nhau: hình đồng tiền, con gà, hai người ôm nhau, hoặc những hình tròn, những nét lăng uăng, hài hước. Sau khi “nhà cái” phát hết thẻ cho mọi người, ván cờ sẽ được bắt đầu bằng việc rút thăm ue tre có ghi tên một quân cờ. L c này, anh “hiệu” (người hô hiệu) sẽ dẫn dắt cuộc chơi bằng những bài thơ lục bát, câu hát dân ca truyền thống mượt mà giai điệu uê hương, nhất là nội dung “ uân đến Tết về” có liên uan đến tên quân cờ ghi trên chiếc thăm đó. Mỗi con cờ thì có rất nhiều nội dung hát khác nhau, thường người hô phải thuộc rất nhiều câu hát hoặc có khi còn tự sáng tác để cuộc chơi thêm phần hấp dẫn. Ví dụ, con bài “Bảy thưa” thì có thể hát nhiều cách như sau:
Bảy thưa
Ngồi buồn nghĩ chuyện xưa nay Trai tài gái sắc so tài ngày xưa Đời nay ăn sớm ng trưa Ngồi lê đôi mách bỏ thưa việc nhà *
Đò ngang qua kh c lạch sâu Gặp hai người khách lấy trầu mời ăn Thưa rằng: cha mẹ em răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người *
37
Biết thì thưa thì thốt Không biết dựa cột mà nghe Cho dù nhà lợp tranh tre Ch tình em gi , em đậy che răng dành *
Ðừng ham nón tốt dột mưa Ðừng ham người tốt mã mà thưa chuyện nhà
ô con nào thì người chơi tự kiểm tra bài mình, nếu đ ng con bài đó thì phải hô lên để được phát một lá cờ vàng. Người hô bài phải hô lần lượt hết 30 con bài thì tr chơi mới kết thúc. Có thể thay đổi người hô bài, thường là một cặp nam nữ thay nhau hát kiểu đối đáp. Nếu người chơi có được thẻ có cả 3 con bài thì sẽ chiến thắng, ván cờ đến đó coi như kết thúc.
Điểm hấp dẫn nhất trong hát bài ch i chính là các câu hát thường sử dụng trong tr chơi. Lời hô bài ch i ban đầu đơn giản chỉ là các câu ca dao, tục ngữ, rồi phát triển lên thành những câu hát có nội dung câu chuyện rõ ràng, phản ánh cuộc sống sinh hoạt thường ngày của con người. Âm nhạc bài chòi có các làn điệu chính: xàng xê, cổ bản, xuân nữ, hồ quảng.
bài chòi phần diễn xướng chủ yếu là xướng, bao gồm: nói lối, xuống hò và hát. Còn phần diễn tuy không quan trọng bằng phần xướng, nhưng anh iệu cũng cần có những màn diễn để pha trò sôi nổi nhằm mang lại tiếng cười cho người chơi.
Âm nhạc đi kèm: đàn c và trống cơm.
Cốt lõi của tr chơi này là sự vui tai phán đoán nước bài qua những câu hát có vần, có điệu, những câu hát bình dị liên uan đến đời sống ngư nghiệp của người dân. Chính vì tính dân dã, mộc mạc và vui nhộn nên hát bài chòi thu hút rất nhiều người tham gia và xem; đông nhất là những người già, phụ nữ và trẻ em.
Đây là th vui chơi cộng đồng giúp xua tan bớt những áp lực trong cuộc
sống, tìm về với vốn văn hóa cổ truyền đậm chất trữ tình, mộc mạc.
Hát bài chòi chứa đựng những giá trị văn hóa nghệ thuật rất phong ph . Đó là kho tàng tri thức dân gian, truyện ngụ ngôn, đạo đức, tập quán, âm nhạc, ca hát, nhảy múa, văn học...
Giáo dục và trao truyền vốn di sản lại cho thế hệ trẻ - tương lai của dân
tộc.
38
Hiện nay, ở phường Nại iên Đông chỉ có 1 đội hát bài chòi nghiệp dư do Ủy ban nhân dân phường Nại iên Đông uản lý. Kinh phí hạn hẹp nên đội hát bài chòi không có cơ hội tập luyện, nâng cao khả năng biểu diễn. Đội chỉ hát trong địa phương vào những dịp lễ tết, lễ hội truyền thống của dân tộc.
CHƯƠNG III
HIỆN TRẠNG VÀ GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1. Đánh giá th trạng di sản văn hóa phi vật thể
Quận Sơn Trà có địa thế thuận lợi về phát triển kinh tế biển, kinh tế du lịch, quốc phòng và an ninh, là cửa ngõ hướng ra biển Đông của thành phố và đây cũng là uận có nhiều di sản văn hóa phi vật thể còn tồn tại, như các huyền thoại, truyền thuyết dân gian, các loại hình văn hóa mang đậm đặc trưng của văn hóa biển... Trong những năm ua, trên địa bàn quận tốc độ đô thị hóa cao, mật độ dân số đông và sự tiếp nhận giao lưu văn hóa cũng đa dạng, phong phú. Bên cạnh những yếu tố văn hóa truyền thống được bảo lưu, gìn giữ thì đã có nhiều yếu tố hoặc bị mai một hoặc đang dần du nhập những yếu tố văn hóa mới. Nhiều di sản văn hóa do những thay đổi lịch sử, do điều kiện kinh tế - xã hội mới có xu hướng biến đổi, nhưng đó không phải là dấu hiệu tiêu cực mà là quy luật vận hành (thích nghi và tích hợp) của văn hóa. Tất nhiên, cái cũ với sự xác lập địa vị hơn nghìn năm trước không dễ bị mất đi trong một sớm một chiều và cái mới cũng không phải nhanh chóng được khẳng định ngay lập tức mà tất cả phải có một uá trình “kiểm nghiệm” xem có c n phù hợp với đời sống hiện đại không. uá trình “kiểm nghiệm” này do chính các cộng đồng cư dân tự chọn lựa. Nhìn chung, người dân ở đây vẫn còn bảo lưu được những yếu tố văn hóa cội nguồn trong đời sống của mình.
Ngữ văn dân gian
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong tình hình hiện nay, khi đời sống xã hội có những bước tiến vũ bão theo hướng đô thị hóa, hiện đại hóa thì các thể loại ngữ văn dân gian này đã và đang có nguy cơ mai một nhanh chóng. Đây là thực trạng đáng báo động, xuất phát từ những nguyên nhân sau:
+ Số lượng người lưu giữ, truyền dạy những truyện cổ, câu ca dao, tục ngữ đã không c n nhiều. Hầu hết đều đã khá cao tuổi, trí nhớ không còn chuẩn xác. Một số cụ vài năm trước vẫn c n nay đã uá cố, mang theo vào quên lãng kho kiến thức về ca dao, tục ngữ nói riêng, văn hóa dân gian nói chung.
+ Thế hệ trẻ thì bị chi phối bởi nhiều loại hình giải trí khác như truyện tranh, tiểu thuyết... nên không còn mặn mà với kho tàng ngữ văn dân gian – vốn là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn của biết bao thế hệ người Việt.
39
+ Một số đơn vị ca dao, tục ngữ sưu tầm được thường có sự không chuẩn xác ở một số từ, nhất là những từ, cụm từ Hán Việt hoặc liên uan đến các điển tích, điển cố. Một số đơn vị ca dao, tục ngữ do các cụ cao tuổi cung cấp có hiện tượng không hoàn chỉnh, đầy đủ, thường thiếu một số câu, đoạn.
Nghệ thuật trình diễn dân gian
Nghệ thuật trình diễn dân gian là một trong những thành tố của di sản văn hóa phi vật thể. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là các hình thức trình diễn này không có sức hấp dẫn với đông đảo công chúng. Hát bả trạo chỉ được diễn xướng trong lễ hội Cầu ngư, lễ hội mang tính địa phương, số lượng người tham gia không nhiều, tính giải trí không cao. Trong khi đó, hát bài ch i chỉ được tổ chức vào những dịp lễ tết, ngày hội truyền thống của địa phương. Âm nhạc bát âm và ngũ âm sử dụng nhiều trong ma chay, lễ tế, nhưng đã có pha trộn ảnh hưởng từ nhạc hiện đại. Đồng thời, lớp trẻ lại không mấy uan tâm ch ý đến ngũ âm và bát âm.
Những nguyên nhân trên xuất phát từ nhiều thực tế khách quan.
+ Hoạt động tổ chức hay quản lý biểu diễn nghệ thuật truyền thống chưa thật sự được các cấp quản lý văn hóa uan tâm. Vì vậy, mọi khâu từ công tác chuẩn bị như nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí… các nhóm phải tự lo, mà chưa có bất kì sự hỗ trợ nào từ chính quyền.
+ Các nghệ nhân đang thực hành di sản không nhận được bất kỳ chính sách, chế độ ưu đãi nào từ các cấp chính quyền. Chính điều này đã làm cho họ khó khăn trong uá trình thực hành và truyền dạy các nghệ thuật diễn xướng.
+ Bên cạnh đó, công tác uảng bá, truyền thông - vốn được xem là chìa
khóa mở cửa trái tim công ch ng, chưa được các nhà quản lý coi trọng.
+ Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục nghệ thuật đã được thực hiện, song đến nay không còn sức hút nữa. Việc tìm kiếm những người thực sự có tố chất để kế thừa những tinh hoa nghệ thuật đã trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. Thế hệ trẻ trong xã hội hiện nay có nhiều hình thức vui chơi giải trí hấp dẫn nên không hứng thú với nghệ thuật trình diễn cổ truyền.
Tập quán xã hội
Đây là loại hình c n được bảo lưu tốt ở quận Sơn Trà thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, trong thời đại mới, bên cạnh việc tuân thủ theo những gì mà cha ông đã đ c r t ua nhiều năm, họ đã biết tiếp nhận thêm cái mới, cái tiến bộ, tích cực. Đi cùng với việc tiếp thu cái mới, phong tục tập uán được chuyển hóa theo hướng đơn giản hóa, không rườm rà, cầu kì. Nhiều tập quán xã hội trong sản xuất nông, ngư nghiệp đã được thay đổi hoặc đơn giản hóa đi rất nhiều.
40
Những mối quan hệ trong hôn nhân, gia đình, d ng tộc, giữa người với người… có những biến đổi nhất định. Ví như trước đây, trong hôn nhân đa phần là do “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”, hơn thế khi tiến hành hôn nhân phải tuân thủ nhiều lễ nghi phức tạp, tốn kém thì hôm nay đã có nhiều biến đổi: lớp trẻ được tự do yêu đương, tự do tìm hiểu người bạn đời cho mình. Gia đình, d ng họ, ông bà, cha mẹ chỉ làm vai tr tư vấn, định hướng cho con cái trong hôn nhân. Các nghi lễ trong cưới hỏi, tang ma cũng được tổ chức đơn giản, tiết kiệm, nhanh gọn nhưng vẫn đầy ý nghĩa.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, yếu tố tâm linh trong các nghi thức thờ cúng so với trước đây đã có phần giảm đi rất nhiều. Có nhiều lễ cúng chỉ diễn ra về mặt hình thức, yếu tố tâm linh đã mất hẳn. Đây là thực trạng diễn ra ở hầu hết các cộng đồng cư dân.
Nguyên nhân của thực trạng nói trên là do tình hình kinh tế - xã hội ngày càng biến đổi. Đời sống tâm linh tín ngưỡng theo đó cũng có nhiều biến thiên để phù hợp với cuộc sống hiện tại. Các nghi lễ cúng cầu mùa, cúng ở các miếu thờ giảm đi rất nhanh. Còn các nghi lễ thờ cúng gia tiên, thờ cúng các vị tiền hiền, hậu hiền ở đình làng, nghi lễ cúng tế âm linh… vẫn tiếp tục tồn tại nhưng bị đồng hóa, có sự bắt chước, sao chép một cách máy móc, không có bản sắc đặc trưng của từng địa phương. Ngoài ra, cũng phải kể đến sự thiếu hụt những vị cao niên am tường các nghi lễ cúng tế, cho nên các nghi thức cúng tế này không có sức bền trong xã hội hiện đại. Một nguyên nhân nữa là việc trao truyền vốn văn hóa truyền thống trong từng gia đình, d ng họ, cộng đồng chưa được quan tâm đ ng mức. Do đó, vốn văn hóa không có người kế thừa.
Lễ hội truyền thống
Lễ hội là một loại hình văn hóa mang đến cho cộng đồng sự thỏa mãn về mặt tâm linh cũng như tạo ra những hi vọng về nhu cầu sinh tồn của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. ơn nữa, lễ hội phản ánh những nét đặc trưng về lịch sử và văn hóa của mỗi địa phương. Theo số liệu thống kê ở quận Sơn Trà, có 03 lễ hội truyền thống, các lễ hội này được tổ chức quy củ, bảo tồn nguyên bản nghi thức cúng tế cổ truyền như: Lễ hội Cầu ngư ân Thái, lễ cầu ngư Nam Thọ - phường Thọ Quang, lễ cầu ngư Nại iên Đông, phường Nại iên Đông. Tuy nhiên, những lễ hội mang sắc thái đậm nét không nhiều, có xu hướng tương đồng nhau giữa các nơi trong địa bàn thành phố. Đặc biệt, nghi thức tế lễ đã không còn giữ được vốn truyền thống như xưa. Hiện nay, một số nghi thức đã thay đổi để phù hợp với xã hội hiện đại.
Sự tồn tại của lễ hội đang có nguy cơ mai một. Nguyên nhân thì có nhiều,
nhưng có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Thứ nhất, hiện nay, thành phố đã, đang và sẽ có quy hoạch chỉnh trang đô thị, chắc chắn nhiều di tích là không gian văn hóa diễn ra lễ hội sẽ mất đi. Mặc dù được thay thế, đền bù bằng diện tích đất khác nhưng không gian văn hóa không thể như xưa. uá trình đô thị hóa làm cộng đồng cư dân bị thay đổi liên tục dẫn đến hệ quả là: người dân bị cắt khỏi địa phương sinh sống lâu năm, và điều đó cũng có nghĩa là nó bị cắt ra khỏi truyền thống của mình, không còn đình làng, không c n các vị Thành hoàng làng.
+ Thứ hai, số lượng các cụ già am hiểu về nghi lễ tế và văn hóa địa phương không nhiều. Mỗi khâu trong quy trình tế lễ, mỗi loại lễ vật, cách sắp xếp bài trí... đều mang một ý nghĩa nhất định nhưng không có nhiều người hiểu hết, ngay cả những vị trực tiếp tham gia thực hành nghi lễ. Theo khảo sát của chúng tôi, hầu hết người trong ban tế lễ thường không hiểu biết về nghi thức 41
cúng lạy mà chỉ thực hiện vô thức, giống như những gì ông cha xưa truyền lại hay tham khảo cách thức thực hiện ở những vùng lân cận. Trong khi đó, tư duy và nhận thức của cộng đồng ngày nay thay đổi rất nhanh theo đà phát triển của xã hội. Thế hệ trẻ tỏ ra thờ ơ, không uan tâm, cũng như không tiếp nhận sự trao truyền văn hóa.
+ Thứ ba, các nghi thức lễ mang tính đại khái làm cho toàn bộ phần lễ mất đi tính linh thiêng, trang trọng. Theo khảo sát, người dân địa phương hầu như không biết đối tượng mình tôn thờ là ai, không hiểu hết giá trị của phần tế lễ. Sự mất cân đối giữa phần lễ và phần hội dẫn đến lễ hội chỉ phục vụ cho nhu cầu vui chơi, giải trí hơn là nhu cầu giáo dục, gắn kết cộng đồng.
+ Thứ tư, lễ hội truyền thống phải có các thành tố đi kèm. Tuy nhiên, việc bảo vệ các thành tố này trước thời gian và con người chưa được tốt (sắc phong chưa được phổ biến để đông đảo quần chúng biết và hiểu về đối tượng được thờ c ng, các nghi trượng chưa được bảo vệ tốt). Các tr chơi dân gian trong lễ hội không được đánh giá cao và bị lấn át bởi những tr chơi đời mới.
Nghề thủ công truyền thống
quận Sơn Trà hiện chỉ còn lại một nghề truyền thống: Nghề đan thuyền thúng ở phường Thọ Quang, quận Sơn Trà. Nghề đan thuyền thúng có nhiều ở các tỉnh ven biển, nhưng cũng như các nghề thủ công khác, nghề này đang dần dần bị mai một. Trước đây có rất nhiều hộ gia đình theo nghề, có đến 5 hộ, mỗi hộ có đến hơn chục người làm nghề, về sau gặp rất nhiều khó khăn nên người dân đã bỏ nghề theo nghề khác. Hiện nay, do nguồn nguyên liệu để làm thúng tại địa phương khan hiếm, người làm th ng phải tìm mua nguyên liệu ở những nơi khác, vì vậy sản phẩm làm ra bán ít có lời. ơn nữa, ngoài thuyền thúng truyền thống, hiện nay ngư dân c n dùng thuyền thúng nhựa composite. So với thuyền thúng truyền thống, thuyền thúng bằng vật liệu composite có ưu điểm nhẹ hơn, giá thành rẻ hơn, độ bền khoảng 2 năm và hằng năm không phải bảo dưỡng.
Tri thức dân gian
Tri thức dân gian được khảo sát chủ yếu thuộc các loại sau: tri thức biển (những kinh nghiệm đánh bắt cá, kinh nghiệm xem trời đất dự báo thời tiết…), tri thức y, dược học cổ truyền (đó là những bài thuốc dân gian chữa những bệnh thông thường). Tri thức ấy được trao truyền qua các thế hệ kế tiếp thông qua trí nhớ, truyền miệng và thực hành xã hội. Nó gi p cho con người có được những ứng xử thích hợp với môi trường tự nhiên, điều hòa các quan hệ xã hội, những hiểu biết cần thiết trong sản xuất, trong trị bệnh.
42
Nói về tri thức dân gian biển, chủ thể di sản là các cư dân biển đã và đang làm nghề đánh bắt thủy hải sản. Qua thực tế lao động, ngư dân Đà Nẵng đã đ c rút kinh nghiệm để việc lao động đạt năng suất cao. Cho đến nay, mặc dù kinh tế
đã có nhiều bước phát triển, đời sống người dân đã có nhiều phần đổi khác nhưng những kinh nghiệm này vẫn luôn được người dân sử dụng.
Còn về y học cổ truyền, hiện nay, người dân vẫn c n lưu truyền nhiều bài thuốc dân gian chữa các bệnh như cảm, sốt, kiết lỵ, băng huyết, đau bụng, đau răng, ngứa da, cầm máu …Những bài thuốc này vừa hiệu quả, lại ít tốn kém đến của cải, thời gian, sức lực. Nhưng thực trạng hiện nay, diện tích đất trồng cây thuốc rất ít, một số loài cây thuốc đã không c n. Không những thế, người dân hiện nay đã hình thành thói uen sử dụng thuốc tây. Việc truyền những bài thuốc này lại cho thế hệ trẻ cũng ít có hiệu quả, cho nên nhiều bài thuốc đã bị thất truyền, một số không c n được sử dụng nữa.
Đây là một loại hình di sản văn hóa phi vật thể rất dễ bị mai một trong
quá trình phát triển xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Giá trị ủa di sản văn hóa phi vật thể
a) Giá trị lịch sử
Với tư cách là vốn văn hóa truyền thống, di sản văn hóa phi vật thể là nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử - xã hội và văn hóa của cư dân Đà Nẵng.
Qua việc tìm hiểu về các di sản văn hóa phi vật thể, giúp chúng ta hiểu rõ về lịch sử phát triển của người Việt trong quá trình tiến về phương Nam, cách thức tổ chức làng xã của cư dân. Ngoài ra, các loại hình di sản văn hóa này c n là nguồn “tài liệu thư tịch”, phản ánh lịch sử “cộng cư” và giao lưu văn hóa của người Việt với các cư dân khác ở Đà Nẵng.
b) Giá trị tâm linh
Từ nhận thức về điều kiện tự nhiên và xã hội, cộng động cư dân ở Đà Nẵng luôn mong muốn về một cuộc sống bình an, ấm no và hạnh phúc, khắc phục những rủi ro trong lao động sản xuất, trong đời sống thường nhật. Các di sản văn hóa phi vật thể tồn tại được đến ngày hôm nay đã chứng tỏ bản thân nó có khả năng đáp ứng nhu cầu tâm linh và tâm lý cầu an cũng như nhu cầu cân bằng đời sống hiện thực với đời sống tâm linh, tinh thần của họ.
Đứng trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên: dịch bệnh, lũ lụt, mưa bão… con người cảm thấy bất lực, họ cầu mong một sự che chở, hộ trì của các vị thần linh. Điều này thể hiện rõ ở các loại hình: lễ hội truyền thống, tập quán xã hội. Thông qua di sản văn hóa, cộng đồng dân cư gửi gắm niềm tin và cầu mong một cuộc sống bình an, khỏe mạnh và sung túc.
c) Giá trị văn hóa nghệ thuật
Các hình thức diễn xướng, tr chơi dân gian được tổ chức trong lễ hội, mục đích cũng để truyền tải nguyện vọng, mong ước đối với các vị thần linh. Hát bả trạo là một ví dụ tiêu biểu, hát bả trạo được thực hành trong phần nghi lễ Cầu ngư của cộng đồng ngư dân ven biển, không chỉ phản ánh tình cảm tâm 43
linh, phong tục, lối sống, mà còn thể hiện ý thức dùng nghệ thuật lời ca tiếng hát để bày tỏ tình cảm tâm linh, đạo lý và triết lý sống của cộng đồng. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lễ và ca đã cho thấy chính môi trường tín ngưỡng là nơi các hiện tượng văn hóa nghệ thuật nảy sinh, tích hợp rồi từ đó trở lại phục vụ đời sống và sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa cộng đồng, đồng thời cũng trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Trên thực tế, các loại hình di sản văn hóa phi vật thể là những hình thái tựa nghệ thuật, từ bài văn tế (vốn chưa phải là một áng văn chương thật sự), giọng xướng tế (chưa phải là một giai điệu âm nhạc) đến những loại hình văn hóa phi vật thể có tính nghệ thuật cao hơn như hát bả trạo, âm nhạc trong nghi lễ truyền thống hay các tr chơi dân gian.
Ngày nay, một số di sản văn hóa phi vật thể, ngoài giá trị về văn hóa nghệ thuật, còn có giá trị về văn hóa du lịch, cũng là một dạng hoạt động văn hóa của con người, mà thông ua đó, các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống cộng đồng được khơi nguồn và phát triển sống động trong cuộc sống thời hiện đại. Dạng hoạt động văn hóa này, một mặt, cũng nhằm thực hiện chức năng cao cả của văn hóa là là chức năng giải trí, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ góp phần hoàn thiện con người, mặt khác cũng là một cách thức giữ gìn các giá trị, di sản văn hóa.
Không những thế, các di sản văn hóa phi vật thể trở thành những sản phẩm du lịch văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi để giới thiệu và truyền bá nét văn hóa đặc sắc của địa phương, mang lại nhiều cơ hội để phát triển kinh tế cho chính địa phương đó. Tất nhiên, để thu h t được khách du lịch, bản thân các sản phẩm du lịch văn hóa phải mang tính biểu trưng cao, thể hiện được bản sắc riêng, đặc trưng của môi trường xã hội mà nó đang tồn tại.
d) Giá trị ạo ức và thẩm mỹ
Việc thờ cúng, suy tôn các vị thần cai quản đất đai, phù trợ nghề nghệp… như là một biểu hiện của ý thức đề cao việc ứng xử đạo đức với tự nhiên. Với tín ngưỡng thờ cúng cá Voi cùng với những kiêng kị xung quanh nó, thể hiện sự tôn trọng của con người đối với thế giới tự nhiên nhưng mặt khác cũng phản ánh tâm trạng bất lực, sợ hãi của chủ thể vùng đất trước sức mạnh tàn phá của nó. Vô hình chung, việc thờ cúng các vị thần thiên nhiên cũng như nhân thần có giá trị xây dựng, giáo dục ý thức tôn trọng các dạng khác nhau của sự sống, mặt khác còn hạn chế giết chóc không cần thiết để bảo vệ tính đa dạng của môi trường sinh thái cũng như sự suy giảm một số loài động vật.
44
Ứng xử đạo đức với môi trường tự nhiên c n được thể hiện qua việc gìn giữ môi trường của thiết chế tín ngưỡng. Các không gian thờ phụng của cộng đồng dân cư, dù uy mô lớn hay nhỏ thì mọi thứ liên uan đến không gian ấy đều được gìn giữ để đảm bảo tính thiêng, mà suy cho cùng là để mưu cầu một cuộc sống bình an cho cộng đồng người đang sống.
Nét nổi trội của giá trị đạo đức trong hệ thống các di sản văn hóa phi vật thể chính là tình cảm, tinh thần nhân văn trong ứng xử với môi trường xã hội. Những bài học đạo đức vẫn luôn là giá trị cần đ c r t mà các thế hệ hôm nay vẫn đã và đang chuẩn bị cho các thế hệ sau. Những câu ca dao, tục ngữ, bài ca thấm đượm bản sắc uê hương, những món ăn đơn giản, mộc mạc mang đậm dấu ấn quê nhà. Các tập quán xã hội như tục dẫy mả, tục cúng giỗ tổ tiên, âm linh…vẫn luôn được nhân dân duy trì và gìn giữ đến ngày hôm nay, chứa đựng những bài học quý báu về đạo lý làm người: Tình cảm yêu thương, tinh thần nhân ái nhân văn với những kiếp người khốn khổ, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Các hành vi tín ngưỡng, dẫu biết có mang tâm lý thực dụng, thì ý nghĩa chủ đạo vẫn là thấm đẫm tinh thần nhân ái, bình đẳng, sự tôn quý sinh mạng con người, thể hiện cái nghĩa của người sống đối với người chết. Triết lý về đạo làm người không được vô ơn hàm ẩn trong việc thờ phụng người có công khai khẩn, đặt nền móng để con cháu định cư, yên tâm nối nghiệp cha ông. Tôn vinh Thành hoàng làng, tiền hiền, hậu hiền …đã thể hiện tình cảm tri ân công đức tiền nhân, khẳng định thái độ trân trọng quá khứ và ý thức gìn giữ di sản.
Bên cạnh giá trị đạo đức, các di sản văn hóa phi vật thể còn thể hiện giá trị thẩm mỹ. Cái đẹp đó được thể hiện ở không gian văn hóa liên uan. Ngoài vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên xung quanh, bản thân các công trình kiến trúc được làm đẹp từ hình thức bên ngoài đến nội dung bên trong. Một biểu hiện khác của cái đẹp được thể hiện trong tín ngưỡng, lễ hội là những con người tham gia, từ vị chủ tế đến các vị trong ban nghi lễ đều thật trang nghiêm trong những nghi thức dâng lên thần linh.
45
Giá trị thẩm mỹ của di sản văn hóa phi vật thể còn thể hiện ở nhiều đức tính tốt đẹp của cộng đồng cư dân được bộc lộ, thể hiện trong quá trình thực hành di sản. Đó là tình cảm yêu thương con người, yêu uê hương đất nước, tinh thần nhân văn trong thế ứng xử với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường tâm linh.
CHƯƠNG IV
GIẢI PHÁP ẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1. Định hư ng trong ông tá bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trên
ịa bàn thành phố Đà Nẵng.
Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể đều bị mai một, hủy hoại theo thời gian. Nhưng sự xuống cấp, hư hỏng của văn hóa vật thể hàng ngày hàng giờ hiện ra trước mắt mọi người, có thể thấy được, định lượng được. Nhưng đối với văn hóa phi vật thể thì không hề dễ thấy như vậy, chưa nói đến những nhận thức không đầy đủ, thậm chí sai lệch về giá trị của nó.
Đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, theo Gregory J.Ashworth, tồn tại hai uan điểm: bảo tồn nguyên vẹn tính xác thực và bảo tồn trên cơ sở kế thừa. Cả hai uan điểm đều có ưu và nhược điểm riêng. Nếu bảo tồn nguyên vẹn giúp các thế hệ sau dễ dàng trong việc xác định rõ các giá trị gốc của di sản thì điểm khó khăn nằm ở chỗ cần xác định cụ thể yếu tố nguyên gốc, yếu tốc phát sinh. Trong khi đó, bảo tồn kế thừa đề cao việc lựa chọn những giá trị phù hợp với thời đại để phát huy. Vấn đề đặt ra, không có một tiêu chí cụ thể trong việc xác định giá trị nào phù hợp và giá trị nào chưa phù hợp, dễ dẫn đến trường hợp loại bỏ những giá trị chưa có sự hiểu biết và nghiên cứu thấu đáo. Theo đó, Gregory J. shworth đã đưa ra một giải pháp thứ ba: bảo tồn kế thừa và phát triển. Giải pháp này đặt trọng tâm vào việc làm như thế nào để di sản sống và phát huy được tác dụng trong đời sống đương đại.1 Chính vì lẽ đó, việc tìm ra được những giải pháp thích hợp, giải quyết một cách khoa học, biện chứng mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị của di sản văn hóa phi vật thể trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay có một ý nghĩa hết sức to lớn và cần thiết.
Trên cơ sở tìm hiểu về hiện trạng di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, bước đầu xin đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng chung đối với việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của người dân Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay như sau:
1 Lê Thị Kim Oanh, Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn h a phi vật thể Lể hội truyền thống trong đời sống hiện đại, tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng số 54/2014
46
- Thứ nhất: Di sản văn hóa phi vật thể không “nhất thành bất biến”, ch ng nhất định phải hàm chứa những nhân tố mang tính lịch sử, đồng thời lại phải mang hơi thở của thời đại mà chủ thể văn hóa cũng như chủ sở hữu di sản văn hóa phi vật thể đang sống, làm việc và sáng tạo. Điều này đồng nghĩa là di sản văn hóa phi vật thể được sáng tạo ra, được bảo lưu và chuyển giao qua nhiều thế
hệ là cả một quá trình sàng lọc và sáng tạo không ngừng nghỉ. Tuy nhiên, sáng tạo phải đi cùng với việc bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền thống của địa phương, phải xuất phát từ lợi ích của người dân, phù hợp với tâm tư nguyện vọng và phải tôn trọng ý kiến của người dân. Bảo tồn nghĩa là phải “gạn đục khơi trong”, giữ gìn, bảo lưu những vốn uý mà ông cha ta đã tích lũy được qua cuộc sống, lao động, chiến đấu của hàng ngàn năm trước đó, là phải bảo vệ cho được những giá trị văn hóa tích cực, cốt lõi, đưa những giá trị văn hóa đó sống trở lại với mỗi người dân, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của mỗi vùng đất. Bảo tồn cũng không có nghĩa cố chấp, trung thành tuyệt đối với cái cũ. ảo tồn còn là việc đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa khác, làm phong phú cho bản thân và tạo ra những điều kiện phát triển cao hơn.
- Thứ hai: Mỗi một loại hình di sản văn hóa phi vật thể đều là sản phẩm của một môi trường nhất định, nếu tách ra khỏi môi trường cụ thể, di sản văn hóa sẽ mất cội nguồn và mất sức sống. Do đó, bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cần lấy bảo vệ chỉnh thể làm nguyên tắc, trong đó cần chú ý đến bảo vệ chỉnh thể đối với không gian văn hóa liên quan. Nếu ch ng ta làm thay đổi môi trường nhân văn theo ý muốn chủ quan hoặc đưa những người kế thừa ra khỏi nơi họ đang sinh sống, chắc chắn sẽ mang lại ảnh hưởng tiêu cực đối với các nghệ nhân, những người truyền thừa di sản văn hóa phi vật thể. Việc này đồng nghĩa là bảo tồn các hiện tượng văn hóa phi vật thể ngay chính trong đời sống cộng đồng. Một loại hình di sản văn hóa phi vật thể được coi là thành công trong việc lưu giữ khi nó vẫn tồn tại sống động trong môi trường nơi nó sinh ra, tức là đưa di sản văn hóa trở lại với chủ thể văn hóa và tạo điều kiện tốt nhất để cho nó tồn tại. Đây là uan điểm được N SC và nhiều uốc gia trên thế giới đề xuất. Tuy nhiên, trong thực tế có một số hiện tượng văn hoá phi vật thể đã bị biến mất hoặc chỉ tồn tại trên sách vở. Bởi vậy, để bảo tồn ch ng trong đời sống, chúng ta phải đưa ch ng trở lại với người dân, trở lại nơi đã sản sinh ra chúng.
2. Cá giải pháp thể trong ông tá bảo tồn và phát h giá trị di
sản văn hóa phi vật thể ượ kiểm kê
Qua những nghiên cứu, điều tra điền dã và từ thực trạng của vốn di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn quận Sơn Trà. Ch ng tôi đề xuất một vài phương án cho việc bảo tồn, khai thác các giá trị văn hóa này nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. Những hướng bảo tồn này mới chỉ là bước đầu và có thể chưa toàn diện. Việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể thực sự cần có những nghiên cứu sâu hơn, rộng lớn hơn, cũng như cần có những đóng góp của các chuyên gia và các nhà quản lý văn hóa.
- Vật thể hóa di sản văn h a phi vật thể
47
Đây là cách để chúng ta tiến hành điều tra, sưu tầm, thu thập, ghi chép lại các dạng thức văn hóa phi vật thể, những kĩ năng, kĩ thuật, nghệ thuật, những tri thức do nghệ nhân sử dụng trong trình diễn các loại hình nghệ thuật hay chế tác sản phẩm bằng việc ghi chép, ghi âm, ghi hình. Sử dụng các loại máy móc, thiết
bị, phương tiện kĩ thuật nghe - nhìn hiện đại trong việc lưu giữ di sản văn hóa phi vật thể là một ưu thế và là một bước tiến so với trước đây chỉ dùng giấy bút để ghi chép quá trình này. Việc sử dụng máy ghi âm, máy ảnh, máy quay phim gi p ch ng ta lưu giữ và tái hiện lịch sử một cách tốt hơn. Toàn bộ mọi loại hình văn hóa phi vật thể có thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các ngân hàng dữ liệu, các bảo tàng, các viện nghiên cứu ở Trung ương và địa phương. Đó là cơ sở gi p ch ng ta sau này có căn cứ để nghiên cứu, phục dựng lại các hiện tượng văn hóa phi vật thể đã bị mai một.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác c a người dân
trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn h a
Việc giáo dục để nâng cao ý thức tự giác của người dân, khơi dậy ở họ lòng tự hào đối với di sản văn hóa của cộng đồng mình là công việc có ý nghĩa quan trọng để hướng người dân chủ động tìm t i, sưu tầm và bảo tồn các loại hình di sản văn hóa phi vật thể. Ngoài việc phổ biến các uy định, cần thiết phải giải thích và cụ thể hóa, thể chế hóa các uy định chung, các văn bản hướng dẫn phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để mọi người dân dễ dàng tiếp thu và tự giác chấp hành. Cần gắn quyền lợi kinh tế và quyền lợi xã hội của chính người dân trong công việc bảo tồn. Đây cũng là cách thức thu h t đông đảo người dân tham gia lưu giữ di sản văn hóa truyền thống của mình.
Tuyên truyền, vận động phải làm một cách đồng bộ với nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh đa dạng hóa các chương trình tuyên truyền (hội nghị, triển lãm, ấn phẩm, chương trình văn hóa, văn nghệ…), cần đưa vào nội dung chương trình những thông tin cụ thể, sát thực và gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân nhằm mang lại hiệu quả cao.
- Bảo tồn nghệ nhân dân gian
Ngày nay, với những phương tiện máy móc hiện đại như: máy ảnh, máy quay phim… ch ng ta đều có điều kiện tư liệu hóa những nguồn di sản quý báu. Nhưng vẫn không có gì thay thế được con người trong việc truyền dạy, thực hành và lưu giữ vốn văn hóa này. Như vậy, đối tượng chính để bảo tồn chính là con người, những nghệ nhân dân gian.
48
Để “bảo tồn” các nghệ nhân dân gian, bên cạnh sự công nhận của công chúng, chúng ta cần có những chương trình bảo vệ họ bằng cách cung cấp những trợ cấp đặc biệt cho những “báu vật nhân văn sống” đã được lựa chọn để họ có trách nhiệm đối với việc bảo vệ di sản như: duy trì, phát triển những kỹ năng và tri thức của họ về di sản cho các thế hệ trẻ thông ua các chương trình đào tạo, các buổi trình diễn, những hoạt động thực hành tín ngưỡng…; sẵn sàng cung cấp thông tin, thực hành trình diễn những hiểu biết của mình về tín ngưỡng phục vụ cho công việc sưu tầm, lưu giữ làm tư liệu và ghi thu (băng hình, băng tiếng và các xuất bản phẩm); khuyến khích các tổ chức và cá nhân có các hoạt động tìm hiểu về văn hóa địa phương…
Ngoài ra, việc nhà nước tôn vinh và phong tặng danh hiệu “nghệ nhân ưu tú”, “nghệ nhân nhân dân” cho các nghệ nhân dân gian không chỉ góp phần động viên đối với từng nghệ nhân, mà còn là sự cổ vũ, niềm vinh dự, tự hào đối với người thân, gia đình, d ng họ, uê hương của nghệ nhân. Bên cạnh đó, cần có những tuyên truyền trên báo chí, truyền hình để đề cao vị thế xã hội của họ. Đây cũng là sự khuyến khích cho thế hệ trẻ tiếp nối sự nghiệp của những nghệ nhân cao tuổi.
Cần coi những nghệ nhân dân gian như tài sản quốc gia, thường xuyên tiến hành kiểm kê các “báu vật nhân văn sống” để nắm được số lượng các nghệ nhân dân gian, từ đó có được những biện pháp bảo tồn hợp lý, kịp thời; có chính sách hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động chuyển giao như đào tạo, phổ biến, làm tư liệu các tri thức và kỹ năng của nghệ nhân dân gian, góp phần khuyến khích và đảm bảo các nghệ nhân dân gian thực hiện các công việc này thường xuyên.
- Quy hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn h a phi vật thể gắn với
phát triển du lịch
Phát huy di sản văn hóa gắn với xây dựng hệ thống du lịch ở địa phương một cách đồng bộ và khoa học để các loại hình di sản nhanh chóng trở thành những sản phẩm du lịch đặc thù và hấp dẫn, làm cho đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú. Thực tế đã chứng minh rằng, việc phát triển du lịch dựa trên các giá trị văn hóa truyền thống đã nâng cao đời sống vật chất cũng như văn hóa tinh thần của người dân, từ đó tạo ra những cơ sở thiết chế vững chắc có thể thay đổi diện mạo và cơ cấu kinh tế của nhiều địa phương. Đồng thời, việc phát triển du lịch đ ng hướng cũng tạo điều kiện để gìn giữ và phát triển những giá trị văn hóa của địa phương thông ua việc tạo nguồn thu cho công tác bảo tồn, cũng như tạo động lực vật chất khuyến khích người dân duy trì và phát huy các giá trị truyền thống này.
Chính nguồn thu từ du lịch và việc nâng cao nhận thức của người dân qua hoạt động du lịch sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa độc đáo. Và như vậy, bảo tồn cũng có nghĩa là phát triển, đi đôi với phát triển. Làm tốt điều này chính là nhắm đến một mục tiêu lâu dài, đó là sự bảo tồn và phát triển bền vững.
- Đào tạo và nâng cao trình độ c a đội ngũ cán bộ văn h a
49
Để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng và nhà nước đã có những đường lối, chủ trương đ ng đắn. Tuy nhiên, do hệ thống chính sách văn hóa chưa hoàn thiện, việc hiện thực hóa các chủ trương, chính sách đó lại hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực nhận thức của cán bộ địa phương, đặc biệt là cán bộ cơ sở. Vì thế, giải pháp nhằm khắc phục tình trạng suy giảm của văn hóa phi vật thể là nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở.
Không chỉ nâng cao nhận thức về phương diện lý thuyết, mà còn phải từng bước nâng cao nhận thức của cán bộ về phương pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể (ví dụ như vấn đề về tính nguyên bản, tính dân gian của các hình thái văn hóa phi vật thể). Cần phải làm cho cán bộ cơ sở hiểu rõ: Đời sống văn hóa ở cơ sở được cấu thành từ hai yếu tố chính là văn hóa dân gian cổ truyền và văn hóa đương đại.
- Nâng cao vai trò quản lý c a nhà nước đối với công tác bảo tồn và phát
huy giá trị di sản
Ban hành và thực hiện các chính sách, chế độ phù hợp với từng loại hình di sản văn hóa phi vật thể. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hóa, lễ hội, tín ngưỡng. Mặc dù, hiện nay chính quyền địa phương các cấp đang có các chính sách hỗ trợ nhằm bảo tồn và duy trì các loại hình di sản, đặc biệt là lễ hội truyền thống, nhưng sự can thiệp không đ ng hướng của chính quyền vô tình tạo nên sự lệ thuộc của nhân dân, các chủ thể văn hóa vào chính quyền, làm mất đi tính đặc trưng vốn có của di sản. Chính quyền địa phương chỉ nên đề xuất các chính sách hỗ trợ góp phần quản lý và phát huy loại hình di sản văn hóa, mặt khác để cộng đồng tự chủ trong việc tổ chức các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội..
- Huy động nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước đi đôi với nguồn lực
xã hội h a để bảo vệ và phát huy di sản
Kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế, những người tâm huyết với di sản có những hành động thiết thực góp phần tôn vinh, phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch văn hóa bền vững.
PHÓ GIÁM ĐỐC SỞ VH, TT&DL
TRƯỞNG BAN KIỂM KÊ
(Đ ký)
50
Trần Quang Thanh