BỘ CÔNG THƯƠNG DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN EU – VIỆT NAM

HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020”.

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020

Viện Nghiên cứu thương mại -

CN. Vương Đức Toản Bộ Công Thương

Hà Nội, 11 - 2010

LỜI MỞ ĐẦU

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (dự thảo - sửa đổi, bổ sung 2001) đã xác định: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp nông nghiệp và dịch vụ. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Kết hợp chặt giữa ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển “năng lượng sạch”, “sản phẩm sạch” và “tiêu dùng sạch”. Thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu. Bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia. Mục tiêu tổng quát là phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng đất nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.

Đại hội Đảng lần thứ XI sẽ quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020, dự thảo lần cuối là chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo định hướng XHCN. Trong đó, đã xác định mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7 – 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần năm 2010. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 300 – 3.200 USD. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng GTSX công nghiệp. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng ít nhất đạt 35%. Giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 – 3%/năm; thực hành tiết kiệm sử dụng mọi nguồn lực. Tốc độ tăng dân số ổn định ở mức 1,1%.

Báo cáo Chính trị Đại hội XI của Đảng (Dự thảo) đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm đầu của thời kỳ chiến lược (2011 - 2015), đề ra các mục tiêu phấn đấu chủ yếu : Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2011 – 2015: 7,5 – 8%/năm; năm 2015 GDP bình quân đầu người 2.100 USD, gấp 1,7 lần năm 2010, năng suất lao động gấpo 1,5 lần năm 2010; kim

1

ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu; tốc độ tăng dân số dưới 1%.

Phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 0- 2020 phải góp phần quan trọng th các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã được xác định trong (dự thảo) các văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu trên. Đồng thời, việc xác định các mục tiêu phát triển xnka phải phù hợp với bối cảnh quốc tế và trong nước thời kỳ tới, phù hợp với năng lực phát triển hoạt động xuất nhập khẩu. Do vậy, việc nghiên cứu chuyên đề khoa học nàynhằm cung cấp cơ sở khoa học cho viẹc xác định các mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020 là rất cần thiết.

Nội dung chuyên đề được trình bày trong 3 phần:

I.- Triển vọng phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ đến năm 2020

II.- Các mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ đến năm 2020

III.- Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu chiến

lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020.

Dưới đây là nội dung chuyên đề.

2

I.- TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT

NAM THỜI KỲ ĐẾN NĂM 2020

1. Bối cảnh thế giới và khu vực trong 5 – 10 năm tới tác động đến xuất

nhập khẩu của Việt Nam.

- Quốc tế hoá mọi mặt của đời sống quốc tế sẽ tiếp tục tiến triển nhưng sẽ có những điều chỉnh về hướng và lĩnh vực qui mô hoạt động kinh tế toàn cầu bị giảm sút do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, sẽ phục hồi. Lộ trình thúc đẩy tự do hoá thương mại có thể bị chậm lại một cách tương đối. Chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy, các rào cản thương mại mới ngày càng tinh vi; nhưng ít có khả năng đảo ngược được qui trình tự do hoá thương mại.

- Trên thế giới, bên cạnh xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác cùng có lợi tiếp tục chiếm ưu thế là là tiền đề để phát triển xuất nhập khẩu của quốc gia thì nguy cơ xảy ra chiến tranh năng lượng, chạy đua hạt nhân, các xung đột sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, tranh giành về tài nguyên, khủng bố quốc tế… có thể gia tăng. Biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường trở thành thách thức ngày càng lớn.

Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển về qui mô, mức độ và hình thức biểu hiện. Các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy toái kinh tế toàn cầu vừa qua, các nước đang đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng gắn chặt phát triển kinh tế tri thức với phát triển “kinh tế xanh”, chú trọng chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững, thương mại dịch vụ sẽ được chú trọng phát triển hơn thương mại hàng hóa. Song song với toàn cầu hoá chủ nghĩa khu vực sẽ phát triển mạnh h ơn nhiều khả năng trào lưu các nước đẩy mạnh liên kết khu vực v à song phương, đặc biệt l à b ùng nổ các thoả thuận tự do hoá thương mại song phương CBFFTA.

Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi nhanh với sự xuất hiện của các liên kết mới, độ rủi ro và bất định của nền kinh tế thế giới còn rất lớn. Cấu hình của nền kinh tế và thương mại thế giới đang khác trước, sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu đang làm cho quan hệ trao đổi thương mại quốc tế ngày càng khác với truyền thống.

- Trung Quốc sẽ tiếp tục lớn mạnh rất nhanh, thế lực ảnh hưởng ngày càng lớn, đang sử dụng công cụ tiền tệ để gia tăng áp lực đối với các nền kinh tế khác…

3

sẽ tác động mạnh đến kinh tế và thương mại toàn cầu. Tình hình đó sẽ làm tăng áp lực về nhiều mặt đối với Việt Nam về kinh tế, thương mại, chủ quyền ở Biển Đông, an ninh quốc gia, an toàn sức khỏe…

- Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn, hội nhập khu vực sâu hơn. Các nước ASEAN đang nỗ lực thúc đẩy liên kết nội khối để hoàn thành xây dựng cộng đồng kinh tế (ACE) vào năm 2015, tiến tới xây dựng Cộng đồng chung theo Hiến chương ASEAN. Mặt khác, ASEAN đang nỗ lực đóng vai trò chủ động tăng cường liên kết khu vực Đông Á mở rộng. Đang định hình cấu trúc liên kết mới tại khu vực, với vai trò trung tâm của ASEAN. Cục diện liên kết quốc tế mới tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang hình thành, với phạm vi và hình thức đa dạng: TPP, FTA Đông Á, FTA Đông Á mở rộng, AEFTA… phản ánh động thái và mức độ tranh giành ảnh hưởng, tranh giành thị trường của các nước lớn tại khu vực này sẽ ngày càng quyết liệt trong thời kỳ tới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đối với nước ta trong phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ tới.

- Kinh tế thế giới sau kỳ suy thoái hiện nay1, sẽ phục hồi và bước vào kỳ tăng trưởng mới sau năm 2012, có thể sẽ đạt mức tăng trưởng cao nhất trong các năm 2016 – 2017 để chuyển sang kỳ suy thoái mới vào những năm tiếp theo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới bình quân năm của giai đoạn 2011 – 2015 rất có thể sẽ thấp hơn giai đoạn 2016 – 2020. Theo đa số các dự báo, kinh tế thế giới sẽ phục hồi từ sau năm 2010 và sẽ cần 4 – 5 năm để đạt được tốc độ tăng trưởng 3 – 4%/năm. Các nền kinh tế mới nổi, các nền kinh tế ASEAN và Châu Á nói chung sẽ phục hồi nhanh hơn, bước vào thời kỳ tăng trưởng sớm hơn các khu vực khác. Nền kinh tế Hoa Kỳ chỉ có thể phục hồi rõ nét từ năm 2012 để bước vào thời kỳ tăng trưởng mới, nhưng tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng mức trung bình của thế giới. Các nền kinh tế EU và Nhật Bản sẽ phục hồi rất chậm, tốc độ tăng trưởng GDP trong kỳ tăng trưởng sẽ thấp hơn rất nhiều khu vực khác. Khu vực động lực của tăng trưởng kinh tế thế giới thời kỳ đến năm 2020 sẽ là các nền kinh tế mới nổi Châu Á và ASEAN, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ.

1 Do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế thế giới bước vào thời kỳ suy thoái từ năm 2008, tụt đáy trong anwm 2009 (tăng trưởng -5,3%), vượt đáy trong năm 2010 (theo Báo cáo của Liên Hợp Quốc về tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2010 thì tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2010 chỉ 2,4%. Theo IMF thì tỉ lệ tăng trưởng dưới 2,5% thì được định nghĩa là suy thoái kinh tế thế giới.

4

- Thị trường hàng hóa thế giới đang có dấu hiệu tăng giá trở lại, rất có thể sẽ hình thành mặt bằng giá mới trong các năm 2012 – 2014. Giá cả hàng hóa thế giới co nhiều khả năng sẽ tăng bình quân 2-3%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020. Xu hướng phát triển “năng lượng sạch” và “tiêu dùng sạch” tiếp tục gia tăng, sẽ tác động mạnh đến thương mại thế giới.

- Tăng trưởng thương mại thế giới sẽ tiếp tục có quan hệ đồng biến với tốc độ phục hồi và gắn liền với kỳ tăng trưởng của kinh tế thế giới, có thể sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các năm 2015 – 2017. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực động lực chính của tăng trưởng thương mại toàn cầu thời kỳ tới 2020.. Vai trò động lực của Trung Quốc trong tăng trưởng thương mại toàn cầu có thể sẽ giảm xuống tương đối trong thời kỳ tới, do nước này sẽ phải giảm nhịp độ xuất khẩu để tăng nhịp độ nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu và đang điều chính Chiến lược thị trường hướng mạnh vào khai thác thị trường Trung Quốc mở rộng (bao gồm cả Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao). Hoa Kỳ đang nỗ lực tăng cường xuất khẩu hàng hóa để đạt mục tiêu kỳ vọng đến năm 2015 tăng kim ngạch xuất khẩu gấp 2 lần năm 2010, đồng thời phải giảm nhịp độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa để giải quyết sự thâm hụt của cán cân vãng lai, sẽ là nhân tố quan trọng tác động mạnh đến thương mại toàn cầu. Các nước Đông Bắc Á và LB Nga tiếp tục thực hiện chính sách hướng Nam mạnh mẽ, sẽ tác động mạnh đến dòng hàng hóa trao đổi giữa khu vực này với ASEAN. EU sẽ chú trọng tăng cường xuất khẩu dịch vụ, tăng cường trao đổi thương mại với các nước ASEAN và Ấn Độ, là nhân tố quan trọng tác động đến cán cân thanh toán vãng lai của các nước này. Trung Quốc tiếp tục là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến thương mại khu vực, nhất là khu vực ASEAN. Từ thành công trong cuộc điều chỉnh Chiến lược thị trường lần thứ ba từ Tây sang Đông (sau khi Trung Quốc gia nhập WTO) nhằm thu hút nguồn tài nguyên phong phú của các nước Phương Đông cho tăng trưởng “nóng” và đảm bảo an ninh năng lượng2, hiện nay Trung Quốc đang thực hiện cuộc điều chỉnh Chiến lược thị trường lần thứ tư, với trọng tâm là hướng vào kích cầu tiêu dùng trong nước, phát triển thị trường trong nước. Sau 30 năm cải cách và mở cửa (1978 – 2009), tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chủ yếu do 2 Tỉ trọng của thị trường Châu Á trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc đã tăng từ 55,5% trong năm 2001 lên 63,3% trong năm 2006 và 57,5% trong năm 2009; tỉ trọng của thị trường Châu Phi tăng từ 2% lên 3,9% và 7,1% trong thời gian tương ứng.

5

hai động lực chính là đầu tư và xuất siêu; trong thời kỳ tới, tăng trưởng c ủa Trung Quốc sẽ chủ yếu dựa vào khoa học công nghệ và tiêu dùng.

2. Vị thế những thách thức đối với Việt Nam trong phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ tới năm 2020

1. Tình hình chính trị - xã hội mang tính ổn định cao, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đang ngày càng được nâng lên cùng với tiến trình hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển xuất nhập khẩu trong thời kỳ tới

Diện mạo của đất nước đang có nhiều thay đổi, thế là lực của đất nước đang ngày càng vững mạnh thêm; độc lập dân tộc, chủ quyền và quyền lợi quốc gia trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế được đảm bảo. Việt Nam đang hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng trong Liên Hợp Quốc, trong ASEAN và các tổ chức quốc tế khác, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã ký kết, tham gia gần 12 nghìn điều ước quốc tế song phương và đa phương, đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với trên 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký kết 88 Hiệp định thương mại song phương , 54 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, 52 Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 800 công ty từ trên 70 nước và vùng lãnh thổ; tranh thủ ODA của trên 45 nước và tổ chức tài chính quốc tế, của trên 350 tổ chức phi Chính phủ… Hiện Việt Nam đang đảm nhận chức trách chủ tịch ASEAN và chủ tích HĐBALHQ.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011 – đang dự thảo) đã đề ra mục tiêu: “từ nay đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN”. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu này là tiếp tục: “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; trong quá trình đó, phải giải quyết tốt “mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế…”

2. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm đang phát triển có thu nhập trung bình nhưng năng lực cạnh tranh còn thấp trên cả

6

cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, tiếp tục là điểm bất lợi trong tham gia FTA thời kỳ tới

Đến năm 2010 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1200 USD. Hệ số co dãn giảm nghèo đang tiếp tục có xu hướng giảm xuống (từ 0,28 trong các năm 2000 – 2004 xuống 0,14 trong các năm 2007-2008 và khoảng 0,12 năm 2010). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 (dự thảo) đã đề ra mục tiêu: phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 3000 – 3200 USD, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP, giá rị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong GDP, giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% giá trị sản xuất công nghiệp, chỉ số phát triển con người (HID) đạt nhóm trung bình cao của thế giới, lao động qua đào tạo chiếm 70% tổng số lao động, thu nhập thực tế của dân cư gấp 3,5 lần so với năm 2010, với tốc độ tăng dân số cố định 1,1%.

3. Qui mô và vị trí, vai trò của nền kinh tế Việt Nam trong kinh tế toàn cầu đang ngày càng nâng lên, nhưng khả năng giành lợi thế cạnh tranh theo qui mô kinh tế khi mở rộng xuất nhập khẩu trong thời kỳ tới vẫn còn nhiều hạn chế

Đến năm 2010, GDP của Việt Nam đã đạt khoảng 108 tỉ USD, với tốc độ tăng trưởng bình quân 7-8%/năm, đến năm 2020, GDP của nền kinh tế sẽ đạt khoảng 225 – 230 tỉ USD, nâng tỉ lệ đóng góp của Việt Nam trong GDP toàn cầu từ mức 0,25% trong giai đoạn 1996 – 2000 và 0,32% trong thời kỳ 2001 – 2010 lên khoảng 0,38 – 0,40% vào năm 2020. Điều đó phản ánh qui mô và đóng góp của Việt Nam vào qui mô kinh tế toàn cầu có xu hướng ngày càng tăng. Mặt khác, Việt Nam có vị trí ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu khi thứ hạng về tăng trưởng GDP của ta trong Bảng xếp hạng tăng trưởng GDP toàn cầu có xu hướng ngày càng cao (theo WB và UNIDO, trong bảng xếp hạng các nền kinh tế thế giới, trong thời kỳ 1986-2006, Việt Nam đã thay đổi được 17 bậc, từ vị trí thứ 95 lên vị trí thứ 78).

Việt Nam có vai trò đóng góp ngày càng tăng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (tỉ

7

trọng giá trị tăng toàn ngành công nghiệp (MVA) của Việt Nam trong tổng MVA của toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã tăng từ 0,4% năm 1995 lên 0,7% năm 2005 và ước khoảng 0,9% năm 2010). Tuy thu nhập của người dân Việt Nam từ tăng trưởng công nghiệp còn khá thấp so với mức trung bình của các nước đang phát triển nhưng đang dần được nâng lên. Năm 2006, chỉ số MVA/ đầu người của Việt Nam đã đạt 113 USD, bằng 24,7% mức trung bình của các nước đang phát triển (456 USD), dự ước, đến năm 2020, chỉ số MVA/ đầu người của Việt Nam sẽ đạt khoảng 135 USD (công nghiệp chiếm khoảng 55% GDP, dân số khoảng gần 97 triệu người).

Việt Nam có vị thế ngày càng cao trong việc cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho thị trường thế giới, đóng góp ngày càng lớn vào đảm bảo an ninh lương thực và an ninh năng lượng toàn cầu. Đến nay, nhóm hàng chế biến XK của ta đã chiếm 0,28% thị phần toàn cầu, các nhóm hàng thô và sơ chế chiếm 0,72% (riêng điều nhân chiếm khoảng 50%, hồ tiêu chiếm 45%, cà phê chiếm 16-18%, cao su thiên nhiên chiếm 8-10%, chè chiếm 5-6%, thuỷ sản chiếm 4-5%, đồ gỗ chiếm 2- 3%). Cùng với việc đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thị phần của ta trong tổng khối lượng XK lương thực (gạo) toàn cầu có xu hướng ngày càng cao, thời kỳ 2001 – 2010 chiếm khoảng 16-18%, phản ánh mức độ đóng góp của Việt Nam vào việc đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu rất lớn (chỉ sau Thái Lan). An ninh năng lượng được đảm bảo và mức độ đóng góp của Việt Nam vào việc đảm bảo an ninh năng lượng toàn cầu đang ngày một nâng lên (thời kỳ 1996 – 2005 ta chiếm tỉ trọng 0,19% giá trị tổng sản lượng điện toàn cầu, giai đoạn 2006 – 2010 chỉ số này là khoảng 0,30%). Thị phần của hãng hàng không quốc gia Việt Nam trên thị trường vận tải hàng không toàn cầu cũng ngày càng tăng, từ 0,67% năm 2007 lên chiếm khoảng 0,85% năm 2010 và dự báo sẽ chiếm trên 1% sau năm 2015 (đến nay, so với mức bình quân trong khu vực, năng suất lao động bằng 42%, qui mô đội bay bằng 46%, thị phần chiếm 3,6% các nước đang phát triển). Tỉ trọng kim ngạch XK dịch vụ du lịch của ta trong tổng kim ngạch XK dịch vụ du lịch toàn cầu tăng dần từ 0,21% năm 2006 lên 0,27% năm 2010 và dự ước sẽ đạt khoảng 0,60% vào năm 2020.

Qui mô thị trường bán lẻ Việt Nam đang tăng nhanh từ khoảng 20 tỉ USD năm 2001 lên 37 tỉ USD năm 2006 và khoảng 49 tỉ USD năm 2009. Dự ước, qui

8

mô thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ đạt khoảng 55 – 56 tỉ USD trong năm 2010 và sẽ đạt trên 110 tỉ USD vào năm 2020 (tăng trưởng khoảng 20%/năm). Qui mô thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ tiếp tục tăng nhanh do nhiều yếu tố, trước hết là do qui mô dân số (đến nay tổng dân số đạt 87 triệu người, xếp thứ 13 trong 208 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, dự thảo chiến lược phát triển KT-XH thời kỳ 2011 – 2020 đề ra mục tiêu tăng dân số bình quân 1,1%/năm, đến năm 2020 qui mô dân số của Việt Nam sẽ ở mức 97 triệu người). Thu nhập của dân cư đang tăng lên và tỉ lệ quĩ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam thuộc loại cao so với các nước trong khu vực (trên 70% của Việt Nam so với 55,9% của Singapore , 58,2% của Maylayxia, 67,7% của Thái Lan…), tốc độ tiêu dùng tăng cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng dân số (tỉ lệ này thời kỳ 2001 – 2009 là 7,7% so với 1,4%; dự ước thời kỳ 2011 – 2020 là 7,4% so với 1,1%), tốc độ tiêu dùng của dân cư tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP (thời kỳ 2001 – 2009 là 7,7% so với 7,4%, dự ước thời kỳ 2011 – 2020 là 7,4% so với 7,0%)… cũng là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thị trường bán lẻ Việt Nam tăng trưởng nhanh. Mức độ hấp dẫn và nhu cầu đầu tư về phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại ở Việt Nam đang đứng hàng đầu thế giới.

4. Mức độ thâm dụng tài nguyên thiên nhiên và tác động đến môi trường sinh thái của kinh tế còn cao, tiếp tục đặt ra những thách thức lớn đối với phát triển xuất khẩu bền vững của Việt Nam trong dài hạn.

Tỉ lệ khai thác năng lượng/GNP của Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh từ 4-8% trong giai đoạn 1990-1998 lên 9-12% trong giai đoạn 2000 -2004 và 15-22% trong giai đoạn 2005 - 20103 (chỉ số này của Ấn Độ trong thời kỳ 1990 – 2008 chỉ dao động ở mức 3-4%). Tỉ lệ mức tiết kiệm năng lượng của Việt Nam4 thấp hơn mức tiết kiệm điện trung bình của thế giới, của khu vực (thời kỳ 1990 – 2005 mức tiết kiệm điện bình quân của Việt Nam là -3,4%, của Trung Quốc là +3,3%). Tuy tỉ trọng lượng khí thải công nghiệp của Việt Nam trong tổng lượng khí thải công nghiệp toàn cầu còn rất nhỏ (do qui mô ngành công nghiệp còn nhỏ

3 Khai thác năng lượng bằng sản lượng khai thác thực tế (gồm dầu thô, khí đốt và than) x đơn giá khai thác – Nguồn: WDI 4 Mức tiết kiệm năng lượng là mức chênh lệch giữa tốc độ tăng giá trị gia tăng công nghiệp so với tốc độ tăng về tiêu thụ điện của toàn ngành công nghiệp

9

bé) nhưng tỉ lệ giữa lượng khí thải so với giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp đang rất cao, phản ánh tác động đến môi trường sinh thái của tăng trưởng công nghiệp đang rất lớn. Tình trạng yếu kém đó chưa thể khắc phục và cải thiện được nhiều trong ngắn và trung hạn, làm hạn chế sự đóng góp của Việt Nam vào mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.

5. Qui mô, mức độ tham gia trao đổi và phân công lao động quốc tế của nền kinh tế nước ta ngày càng sâu rộng, độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn nhưng mức độ phụ thuộc vào thị trường thế giới ngày càng nhiều, độ co giãn về cung thấp nên rủi ro ngày càng tăng khi mở rộng xuất nhập khẩu trong điều kiện tự do hoá ngày càng cao. Đóng góp của Việt Nam vào tăng trưởng thương mại toàn cầu tuy còn nhỏ nhưng đang có xu hướng tăng lên. Tỉ trọng giá trị thương mại quốc tế của Việt Nam trong tổng giá trị thương mại toàn cầu ngày càng tăng (đến năm 2008 thương mại hàng hóa đã chiếm 0,45%, thương mại dịch vụ chiếm 0,28%, riêng XK hàng hóa chiếm 0,39%, XK dịch vụ chiếm 0,2% trong tổng XK toàn cầu). Tỉ lệ khối lượng tiền tệ chuyển dịch giữa Việt Nam với thế giới không liên quan đến thương mại so với GDP có xu hướng tăng nhanh (năm 2008 đạt 24,8%), qui mô kinh tế tượng trưng ngày càng lớn (năm 2008 bằng 0,25 lần qui mô kinh tế thực so với chỉ số này của toàn cầu là trên 3,5 lần). Độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn, các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu vươn ra đầu tư phát triển kinh doanh ngoài biên giới quốc gia (thời kỳ 1989-2008, tổng vốn danh nghĩa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bằng 0,68% GDP, vốn thực hiện bằng 0,19% GDP). Đóng góp của khu vực FDI đối với nền kinh tế quốc dân có xu hướng ngày càng lớn (đến năm 2008, khu vực FDI chiếm 41% vốn đầu tư xã hội, gần 20% GDP, 45% GTSX công nghiệp, 57% tổng kim ngạch XK, 31% tổng kim ngạch nhập khẩu, 20% tổng số doanh nghiệp tham gia XK và 15,5% tổng số doanh nghiệp tham gia nhập khẩu), phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài.

Xuất, nhập khẩu hàng hóa có vai trò ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh tế, tỉ lệ giữa tổng giá trị thương mại quốc tế so với GDP ngày càng tăng (giai đoạn 2008 – 2010 bằng khoảng 155%, riêng XK bằng 75-76%) phản ánh mức độ phụ thuộc và tác động của thị trường thế giới đối với nền kinh tế có xu hướng ngày càng tăng, mức độ rủi ro ngày càng lớn.

10

Tình hình dự trữ quốc tế đang dần được cải thiện (năm 2008 – 2010 dự trữ quốc tế ở mức bằng 20% GDP), nợ nước ngoài vẫn đang trong tầm kiểm soát nhưng tỉ lệ tổng dư nợ nước ngoài so với GDP đang có xu hướng tăng cao (năm 2007 đã là 27%) để lại gánh nặng cho nền kinh tế - xã hội trong dài hạn. Do phần lớn vay nợ nước ngoài là ODA, được đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, mà việc sử dụng nguồn vốn này đang bị thất thoát, tham nhũng… nên sẽ ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển dài hạn khác, gây bất bình trong dư luận xã hội. Tình hình cán cân vãng lai chưa có dấu hiệu được cải thiện rõ rệt, tỉ lệ thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai so với GDP vẫn đang ở mức cao (thời kỳ 2000 – 2010 là 10,8%, riêng năm 2008 là 11,8%), khả năng tài trợ của nền kinh tế cho thâm hụt cán cân thương mại ngày càng trở nên mong manh hơn, đe dạo đến cán cân thanh toán tổng thể của nền kinh tế. Tình hình đó phản ánh nền kinh tế vẫn đang có xu hướng tiêu dùng ngày càng nhiều hơn tài sản của nước ngoài.

6. Sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đối với nền kinh tế ngày càng lớn, trong khi mức độ phụ thuộc vào các nguồn lực nước ngoài của nền kinh tế có xu hướng ngày càng cao, có quan hệ đồng biến với một số thách thức kinh tế vĩ mô trong ngắn và trung hạn nhất là đối với cán cân thương mại Việt Nam tự do hoá sâu hơn theo các cam kết hội nhập quốc tế.

Các TNCs đang tác động ngày càng tăng đến thị trường trong nước qua kênh FDI. Đặc biệt hệ thống bán lẻ hiện đại (khâu có giá trị gia tăng cao, thị trường bán lẻ Việt Nam có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới) ở các đô thị lớn Việt Nam đang có nguy cơ bị các tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài thao túng, chi phối. Trong giai đoạn 2006 – 2010, tốc độ tăng trưởng bán lẻ của khu vực FDI tăng khoảng 46%/năm, thị phần bán lẻ của khu vực này tăng từ 4%/năm 2006 lên chiếm 10% trong năm 2010, các tập đoàn phân phối nước ngoài tuy chỉ chiếm 10% số siêu thị, trung tâm thương mại nhưng đang chiếm khoảng 50% khối lượng hàng hóa lưu thông qua hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại ở Việt Nam.

Các TNCs đang tác động mạnh đến cả thị trường đàu vào và thị trường đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước. Các TNCs cũng tác động và chi phối ngày càng nhiều đến xuất nhập khẩu và tình trạng nhập siêu của Việt Nam. Đối với xuất khẩu, các doanh nghiệp của ta với tiềm lực hạn chế chưa thể cạnh tranh trực diện với các TNCs ở các thị trường XK có sức mua

11

lớn, ổn định (EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản…) nên khoảng 80% hàng XK của ta phải xuất giá FOB, hiệu quả và doanh thu XK thấp so với hàng hóa cùng loại của các nước khác. Với chiến lược “khoá” thị trường thế giới và tăng cướng thương mại nội bộ, các TNCs đang chi phối thị trường toàn cầu, khiến một số mặt hàng XK chủ lực của ta chiếm tới 20-50% thị phần nguồn cung toàn cầu (điều nhân, hồ tiêu, cà phê, gạo…) nhưng chưa có tác động đáng kể nào đến cung – cầu, giá cả trên thị trường thế giới để tăng hiệu quả XK. Đối với nhập khẩu, phần lớn các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (FDI) là các công ty chi nhánh con, cháu, chắt của các TNCs lớn trên thế giới. Do xu hướng của các TNCs là chuyển mạnh đầu tư vào các ngành kỹ thuật cao, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao (tài chính, bảo hiểm, logistics, dịch vụ phân phối…), nên tác động chuyển dịch có tính “dây chuyền” qua các công ty con, cháu qua con đường FDI chuyển giao các thiết bị công nghệ lạc hậu vào Việt Nam. Điều đó, một mặt làm tăng kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ kiện, phụ tùng thay thế vào Việt Nam; mặt khác, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế, khả năng cạnh tranh của hàng XK chậm được nâng lên (các doanh nghiệp FDI đang chiếm gần 60% kim ngạch XK)

Do các TNCs ngày càng sử dụng các phương pháp kinh doanh quốc tế của đầu tư không có quyền sở hữu cổ phần, như: uỷ thác, gia công, hợp đồng tiêu thụ, chuyển nhượng kỹ thuật, nhượng quyền thương mại… cũng đã phần nào tác động có tính dẫn dắt nhu cầu của thị trường Việt Nam hướng đến tiêu thụ sản phẩm của các TNCs ở các công ty chi nhánh nước ngoài sản xuất thông qua con đường nhập khẩu vào Việt Nam (kể cả dưới hình thức tài trợ cho nhập khẩu). Điều đó làm tăng nhập khẩu hàng ngoại, tăng nhập siêu và gây bất lợi cho cán cân vãng lai của ta.

Sự hình thành và phát triển các mạng sản xuất khu vực, mạng sản xuất toàn cầu dưới sự chi phối của các TNCs đang và sẽ tác động mang tính điều chỉnh cơ cấu một số ngành công nghiệp và cán cân thương mại của Việt Nam theo kênh FDI. Các TNCs khi đầu tư vào Việt Nam thì các cơ sở sản xuất của họ ở một số nước trong khu vực (Thái Lan. Maylayxia, Trung Quốc…) là nguồn cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện để thực hiện các công đoạn chế tạo, gia công, lắp ráp tiếp theo tại Việt Nam. Vì thế, khi FDI vài Việt Nam ngày càng tăng thì nhập khẩu các mặt hàng chất dẻo nguyên liệu, linh kiện ô tô, xe máy, máy móc, thiết bị, dụng

12

cụ, phụ tùng, vải sợi, nguyên phụ liệu dệt may và da giày… từ các nước kể trên cũng sẽ tăng theo để làm đầu vào cho các nhà máy sản xuất có vốn FDI tại Việt Nam. Khi nước ta chưa phát triển được các ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ các ngành sản xuất chính thì nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng này vẫn tăng cao. Đặc biệt, khi thương mại khu vực ngày càng tự do hơn, Việt Nam cắt giảm thuế quan sâu hơn từ sau năm 2010 theo các cam kết FTA…, các dòng chảy thương mại gặp ít rào cản hơn, việc nhập khẩu các mặt hàng nêu trên thuận lợi hơn thì tính bức thiết phải mở thêm các cơ sở công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam của các tập đoàn đa quốc gia cũng giảm xuống. Điều đó sẽ là một nguyên nhân quan trọng của sự tiếp tục chậm trễ trong phát triển công nghiệp hỗ trợ của ta thời kỳ tới.

Là chủ thể chính xây dựng và lãnh đạo các chuỗi giá trị toàn cầu, các TNCs sẽ có tác động bất lợi đến việc nâng cấp trình độ sản xuất, gia công và tái cấu trúc các ngành sản xuất công nghiệp ở Việt Nam khi điều kiện thương mại ngày càng tự do hoá sâu hơn theo các cam kết FTA. Xu hướng chung là các TNCs tập trung vào các khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong các chuỗi giá trị toàn cầu như: nghiên cứu, thiết kế sáng tạo (công nghiệp), tạo ra giống mới và qui trình sản xuất tiên tiến (nông nghiệp), marketing và phân phối (thương mại)… sau đó chuyển giao cho các doanh nghiệp ở các nước có trình độ thấp hơn (theo con đường FDI hoặc chuyển giao kỹ thuật) thực hiện các khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp hơn, như: sản xuất, chế biến, gia công lắp ráp… Theo cách thức đó, các TNCs vừa giữ được vai trò lãnh đạo, chi phối các chuỗi giá trị toàn cầu, vừa tạo ra mạng lưới sản xuất rộng khắp toàn cầu để bòn rút tài nguyên, sức lao động rẻ của các nước có trình độ phát triển thấp. Vì thế, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không nỗ lực tận dụng các điều kiện thuận lợi của các FTA mang lại để tham gia sâu hơn vào các nấc thang cao hơn trong các chuỗ+i giá trị toàn cầu, vào các khâu tạo ra giá rị gia tăng cao hơn nêu trên, thay vì chỉ sản xuất, gia công lắp ráp như hiện nay, thì nguy cơ rơi vào “bẫy chi phí lao động thấp” và đứng ở vịtrí thấp trong bậc thang chuỗi giá trị toàn cầu là khó tránh khỏi, nguy cơ Việt Nam có thể tụt hậu xa hơn khi tham gia ngày càng nhiều các FTA khu vực và song phương.

Các cách thức nêu trên sẽ tăng lên cùng với tình trạng nếu nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục phụ thuộc năng nề vào bên ngoài về công nghệ sản xuất, về máy móc thiết bị và các nguyên liệu cơ bản. Thực tế cho thấy, mức độ phụ thuộc của

13

nền kinh tế vào bên ngoài về nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ ngày càng lớn, nhất là sau khi gia nhập WTO và thực hiện các FTA đã ký kết (trong cả giai đoạn 2006 – 2008, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này chiếm 70% tổng KNNK và bằng 57% GDP, riêng năm 2006, các chỉ số này là 56,4% KNNK và bằng 48,8% GDP, năm 2008 tăng lên 74,7% và bằng 65,1% GDP). Mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào bên ngoài nặng nế nhất trong thời kỳ tới vẫn là nhiên liệu (giảm dần từ 95% trong năm 2010 xuống khoảng 70-80% trong thời kỳ sau năm 2015), công nghệ (khoảng 90%), máy móc thiết bị (70-80%), nguyên phụ liệu một số ngành công nghiệp (sản phẩm điện tử khoảng 90%, sản phẩm gỗ khoảng 70 -80%, sản phẩm dệt may và giày da khoảng 65 – 75%, sản phẩm nhựa 50 – 60%, hoá chất khoảng 80%, sản phẩm thép khoảng 40 – 50%, thức ăn chăn nuôi khoảng 60 -70%, nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh khoảng 70 – 80%). Đây cũng là những ngành sản phẩm bị tác động nhiều nhất khi tự do hoá sâu hơn vào theo các cam kết WTO và cam kết FTA, và cũng rất nhạy cảm với những biến động của tình hình thị trường thế giới.

7. Chất lượng tăng trưởng thấp, công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics chậm phát triển, chi phí đầu vào và đầu ra của nền kinh tế cao làm hạn chế khả năng tận dụng những cơ hội phát hiện mới do hội nhập quốc tế mở ra, tiếp tục là một bất lợi lớn đối với phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam khi tự do hoá ngày càng sâu hơn theo các cam kết hội nhập quốc tế.

Chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả kinh tế và nội năng của nền kinh tế chậm được nâng lên sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế trong cạnh tranh với các đối tác trong các FTA mà Việt Nam tham gia thời kỳ tới. Trong các động năng tăng trưởng của nền kinh tế thời kỳ 1990 – 2010, yếu tố năng suất lao động5 mới chỉ đóng góp khoảng 30% còn yếu tố vốn đóng góp 50% và yếu tố lao động đóng góp khoảng 20% (các chỉ số tương ứng của Ấn Độ là 36%, 40% và 324%). Chỉ số tăng năng suất lao động tổng hợp (TFP) của nền kinh tế vẫn đang có xu hướng giảm xuống (từ 4,31%/năm trong giai đoạn 1991- 1995 xuống 2,56%/năm trong giai đoạn 1996 – 2000 và còn 1,7% giai đoạn 2001 – 2008). Chỉ số MVA/GO của ngành công nghiệp và VA/doanh thu của thương mại trong nước cũng đang có xu hướng giảm (chỉ số MVA/GO giảm từ 38,4% năm 5 Năng suất lao động: GDP thực tế chia cho tổng số lao động đang làm việc – Nguồn số liệu: EIU

14

2000 xuống 24,8% năm 2008 và 21% năm 2009, chỉ số VA/doanh thu của thương mại trong nước thời kỳ 2001 – 2010 không có xu hướng tăng mà chỉ dao động ở mức 24-29%)6

Mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn đang chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu tư, nhưng hiệu quả đầu tư rất thấp. Hệ số ICOR tăng nhanh từ mức 4,4 trong giai đoạn 2001 – 2006 lên 5,3 trong năm 2007, 6,55 trong năm 2008 và xấp xỉ 7,0 trong năm 2009, cao hơn gấp hai lần các nước trong khu vực khi ở giai đoạn công nghiệp hoá tương tự như Việt Nam hiện nay7

XK đang là một trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế, nhưng mô hình tăng trưởng XK của Việt Nam vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu thô và các ngành gia công, chế biến có chi phí cao, lệ thuộc vào đầu nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp, dễ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn ngoại tệ và nhìn chung là hiệu quả thấp. Do kết cấu hạ tầng phát triển thương mại và dịch vụ logistics chưa phát triển nên hàng XK của Việt Nam phần lớn chưa thể xuất trực tiếp sang thị trường Bắc Mỹ, Châu Âu mà vẫn phải quá cảng sang Hông Kông, Singapore. Chi phí XK cao gấp 1,7 lần mức trung bình của khu vực (năm 2007, chi phí XK của Việt Nam là 701 USD/container 20ft, mức trung bình của khu vực là 500 USD, của Thái Lan 848 USD, của Trung Quốc là 335 USD, Maylayxia là 481 USD, Hồng Kông là 435 USD…)8. Do dịch vụ vận tải biển chưa phát triển nên các doanh nghiệp vận tải biển của Việt Nam mới chiếm khoảng 22 – 24% thị phần vận tải hàng hóa XK và khoảng 18 – 20% thị phần vận tải hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam. Dịch vụ bảo hiểm hàng hóa xuất, nhập khẩu và các dịch vụ hỗ trợ khác mới hình thành nên chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển (trong 3 năm 2005 – 2007, Việt Nam phải chi trả 6 tỉ USD cho nước ngoài về chi phí bảo hiểm và vận tải hàng hóa XNK, chiếm 35,7% tổng chi dịch vụ cùng giai đoạn và là yếu tố chính làm thâm hụt cán cân dịch vụ của ta). Cơ cấu XK chậm chuyển dịch theo hướng hiện đại, đến giai đoạn 2008 – 2010, nhóm hàng chế biến XK mới chiếm 6 - MVA/GO: Tỉ lệ giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp so với giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. - VA/Doanh thu của thương mại trong nước: Tỉ lệ giá trị gia tăng so với tổng mức LCHHBLXH. 7 Hệ số ICOR của Hàn Quốc thời kỳ 1961-1980 là 3,0, của Đài Loan cùng thời kỳ là 2,7; của Indonexia, Maylayxia và Thái Lan trong giai đoạn 1981- 1985 lần lượt là: 3,7 , 4,4 và 4,1; của Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2006 là 4,0 8 Chi phí XK bao gồm: chi phí giấy tờ, hành chính, bỗ dỡ, lưu kho, vận chuyển đường bộ cho 1 container 20 ft – Nguồn: Doiry Business 2007, WB.

15

58-59% (Trung Quốc năm 2000 đã đạt 92%, Hàn Quốc năm 1986 đã đạt 96%), nhóm hàng thô và sơ chế vẫn chiếm 41 – 42%, nên độ co giãn về cung với thị trường thế giới rất nhỏ, sản xuất trong nước chậm thích ứng với những biến động của thị trường thế giới. Trong điều kiện tự do hoá ngày càng cao thì mức độ rủi ro và tổn thương của ta sẽ càng lớn (XK sang ASEAN + 6 trong năm 2009 là một minh chứng). Một số ngành hàng nông thuỷ sản và công nghiệp chế biến tuy đã có sự tham gia và các mạng sản xuất và các chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng mô hình tổng quát vẫn là: qui mô lớn, mức độ thấp và hiệu quả thấp. Nhóm hàng công nghiệp chế biến tuy đang có lợi thế cạnh tranh về giá nhân công rẻ, phát triển theo định hướng XK, chiếm tới 43% - 45% giá trị tổng sản lượng công nghiệp nhưng chỉ chiếm dưới 30% tổng MVA toàn ngành công nghiệp và đang có xu hướng giảm xuống (năm 2000 là 30%, năm 2007 chỉ còn chiếm 23%, năm 2009 còn khoảng 21%), hoạt động gia công lắp ráp là chủ yếu, phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu nước ngoài và chậm thích ứng với những biến động của thị trường thế giới.

8. Năng lực cạnh tranh tổng thể của quốc gia trong cạnh tranh toàn cầu thời kỳ tới năm 2020 đang có những trở ngại lớn từ nội bộ nền kinh tế hiện nay, tiềm ẩn những thách thức đối với sự phát triển dài hạn xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Trước hết, đó là tình trạng, trình độ công nghệ thấp, lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài, mất cân đối cung – cầu và cơ cấu công nghệ ngày càng tăng. Máy móc thiết bị và công nghệ là yếu tố chính tạo ra năng suất lao động và hình thành sức cạnh tranh của sản phẩm, nhưng đang trong điều kiện 90% công nghệ đáp ứng nhu cầu trong nước phải nhập khẩu thì tỉ trọng của nhóm hàng này trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa là đang có xu hướng giảm mạnh (từ 31,4% năm 2000 xuống 14,7% năm 2006, 17% năm 2008 và 2009). Tốc độ đổi mới máy móc thiết bị chưa đạt yêu cầu phát triển (ước đạt dưới 10%), tỉ lệ đầu tư cho R&D trong doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1% - 0,2%, các ngành công nghệ cao và công nghệ mũi nhọn tỉ lệ này cũng chỉ đạt 0,2 – 0,25% (tỉ lệ này của Ấn Độ năm 2002 đã đạt5%, của Hàn Quốc năm 2000 là 10%). Trong cấu trúc nhập khẩu, tỉ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm 15,0 - 16,0% (chỉ số tương ứng của Trung Quốc là 37 – 39%), công nghệ trung-cao

16

chiếm 21%, còn lại là công nghệ thấp và trung-thấp chiếm 63%. Trong cấu trúc XK, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8% (chỉ số tương ứng của Trung Quốc là 42 – 43%), công nghệ trung-cao chiếm khoảng 4%, công nghệ trung-thấp chiếm 30% và công nghệ thấp 57%9.

Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (vốn bình quân của các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế chỉ khoảng 6 tỉ đồng/DN), hiện đang thiếu những doanh nghiệp có thương hiệu mạnh, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Hiện đã có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp với trên 44 nghìn doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế, nhưng chỉ có trên 70 tập đoàn kinh tế và tổng công ty, công ty Nhà nước (100% vốn Nhà nước hoặc vốn Nhà nước chiếm cổ phẩn trên 50%) cùng khoảng 200 doanh nghiệp FDI có qui mô lớn, có phạm vi hoạt động rộng ở trong và ngoài nước, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Còn lại, tuyệt đại đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, khả năng cạnh tranh quốc tế còn rất yếu. Phần lớn là các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam mới tham gia được vào phân khúc sản xuất, gia công lắp ráp – tức là các khâu mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Có rất ít doanh nghiệp tham gia được vào khâu thiết kế, nghiên cứu và phát triển, tiêu thụ… là những khâu mang lại giá trị gia tăng cao. Tham gia vào các mạng sản xuất , các chuỗi giá trị toàn cầu chưa phải là phương thức chủ yếu để tìm kiếm giá trị gia tăng cao của các doanh nghiệp Việt Nam. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam để phát triển kinh doanh ngoài biên giới quốc gia mới ở giai đoạn khởi đầu, khả năng tận dụng những cơ hội phát triển mới do toàn cầu hóa, hội nhập mở ra của doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế.

9. Lợi thế cạnh tranh “động” của nền kinh tế trong cạnh tranh xuất khẩu toàn cầu thời kỳ tới tiếp tục phải vượt qua những trở ngại về chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ, về môi trường cạnh tranh quốc gia và một số vấn đề an sinh xã hội v.v…

9 Trong giai đoạn 2000 – 2005, chúng ta đã có bước thụt lùi về công nghệ: giảm nhập khẩu công nghệ trung – cao (- 6,5% để tăng nhập khẩu công nghệ trung – thấp (+7,4%). Từ năm 1997 đến năm 2003, tỉ lệ XK hàng côn nghệ cao của Việt Nam chỉ nâng được từ 3% lên 6%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực (các chỉ số tương ứng của Indonexia là 10,5% và 14%, của Trung Quốc là 12,8% và 27,6%, của Thái Lan là 31% và 30%, của Hàn Quốc là 27% và 32%, của Singapore là 58% và 57%, của Maylayxia là 49% và 59%.

17

Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là một phương hướng cơ bản đã được xác định trong các văn kiện Đại hội IX, X và dự thảo văn kiện Đại hội XI của Đảng. Thế nhưng, đến nay, chất lượng đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực rất thấp, chậm được cải thiện; mất cân đối cung – cầu lao động, cơ cấu lao động theo trình độ kỹ thuật và theo vùng; thiếu lao động có tay nghề, có tính chuyên nghiệp cao. Đến nay, lao động có tay nghề chỉ chiếm khoảng gần 30% tổng số lao động làm việc, trong đó, lực lượng lao động được đào tạo từ trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm gần 6%. Chất lượng đào tạo ở các trường Đại học chưa đạt chuẩn quốc tế, giảng viên các trường Đại học của Việt Nam có rất ít bài đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế10. Gần 50% sinh viên ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào tạo. Trong khi đó, tỉ lệ ngân sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam tăng liên tục và cao hơn hầu hết các nước trong khu vực. Đến giữa năm 2009, của nước có 2,6 triệu người có trình độ đại học (chiếm 4,5% lao động cả nước), trong đó có 18 nghìn tiến sĩ, hơn 6 nghìn phó giáo sư và giáo sư nhưng số bản quyền sáng chế và số chuyên gia kỹ thuật của Việt Nam tăng rất chậm11. Tình trạng kém ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh) của số đông người lao động, kể cả giảng viên các trường đại học, các Viện nghiên cứu , các cơ quan hành chính sự nghiệp… chậm được nâng lên, tiếp tục là trở lực lớn đối với phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ tới.

Về mặt thể chế, hiệu năng của Nhà nước tuy đã được nâng lên, nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý, điều tiết nền kinh tế - xã hội trong bối cảnh có nhiều biến động của tình hình trong nước và quốc tế khi nước ta hội nhập quốc tế và tự do hoá ngày càng sâu rộng hơn. Chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ nhìn chung còn thấp hơn so với các nước trong khu vực12.

10 Trong năm 2006, với 2.830 giảng viên của trường Đại học Chulalongkom của Thái Lan đăng được 744 công trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế. Trong khi đó, với 3,360 giảng viên của hai trường Đại học Quốc gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đăng được tổng cộng 36 công trình – Nguồn: Chỉ số trích dẫn khoa học mở rộng – Web of Scienoe, Thompson Corp. 11 - Năm 2002, Việt Nam chỉ đăng ký được 2 bản quyền với tổ chức WIPO

- Trong thời kỳ 1987 – 1997, tỉ lệ số chuyên gia kỹ thuật/100.000 dân của Việt Nam là 61 người so với 2.318 người của Singapore, 454 người của Trung Quốc; năm 1988 số bằng sáng chế/1triệu dân của Việt Nam 0,1 so với 8,0 của Singapore, 1,0 của Trung Quốc. 12 Một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (năm 2007) đã đánh giá chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ 212 nước và vùng lãnh thổ, trên 6 tiêu chí: Hiệu năng của Chính phủ, chất lượng chính sách và hoạt động điều tiết, thượng tôn pháp luật, tham nhũng, tiếng nói và trách nhiệm giải trình, ổn định chính trị. Ngoại trừ tiêu chí về ổn định chính trị, điểm của Việt Nam về 5 tiêu chí còn lại đều thấp hơn so với các nước Đông Á và ASEAN 6, trừ

18

Trong hai năm vừa qua, Chính phủ đã có sự nỗ lực vượt bậc trong nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, chống đỡ có hiệu quả những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế nước ta (đảm bảo tốc độ tăng trưởng 5,1%, là mức tăng trưởng cao so với nhiều nước trong khu vực và thế giới). Tuy thế, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ còn tác động bất lợi đến sự phát triển của đất nước trong ngắn và trung hạn,tiếp tục là thách thức lớn đối với khả năng quản trị quốc gia của Chính phủ, nhất là trong điều kiện nước ta tiếp tục tự do hoá sâu hơn theo các cam kết FTA. Một trong những khó khăn, thách thức lớn đối với năng lực quản trị quốc gia của Chính phủ trong điều kiện có sự mở rộng tham gia các FTA và thực hiện tự do hoá sâu hơn theo các cam kết FTA đã ký kết thời kỳ tới là việc xây dựng và nâng cao hiệu quả sử dụng các hàng rào trong thương mại. Trong đó, cấp bách nhất là xây dựng và sử dụng các hàng rào kỹ thuật (TBT), và các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS), các biện pháp tự vệ trong thương mại, biện pháp chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào thị trường nước ta… nhằm nâng cao hiệu năng của Chính phủ trong quản lý nhập khẩu khi tự do hoá ngày càng sâu hơn thao các điều kiện WTO và các FTA13 đã và sẽ tham gia.

Môi trường cạnh tranh quốc gia tuy đã được từng bước hoàn thiện, nhưng vẫn còn những yếu tố bất cập, chậm được khắc phục14. Các yếu tố nền tảng của tăng trưởng kinh tế dựa vào hiệu quả và sáng tạo của năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được tạo lập, ảnh hưởng đến tiến tính dài hạn của sự phát triển. Cùng với chất lượng giáo dục đào tạo chậm được nâng lên, thị trường khoa học công nghệ chậm hình thành và phát triển, hiệu quả thị trường lao động và thị trường hàng hóa chưa cao, độ sâu của thị trường tiền tệ và trình độ phát triển của thị trường tài chính chậm được nâng lên. Mặt khác, mức độ sẵn sàng về mặt công nghệ chưa

Indonexia – Nguồn: Tầm quan trọng của quản trị quốc gia 1996 – 2006” tư liệu nghiên cứu số 4280 của WB, tháng 7/2007. 13 Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết Chính phủ các nước khi đẩy mạnh sự tham gia các FTA đều đã cơ bản xây dựng được các hàng rào kỹ thuật trong thương mại và các rào cản thương mại khác một cách khá đòng bộ, có chiều sâu. Trong khi,đối với nước ta, mặc dù đã gia nhập WTO và tham gia 6 FTA khu vực, nhưng cho đến nay, mới bước đầu xây dựng các hàng rào kỹ thuật trong thương mại, kết quả còn rất khiêm tốn, hiệu năng sử dụng chưa cao. 14 Sau khi gia nhập WTO, chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam theo đánh giá của WEF trong: “Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2009” chưa có sự cải thiện trong Bảng xếp hạng: năm 2007 xếp hạng 68/131 nền kinh tế, năm 2008 xếp hạng 70/134, và năm 2009 xếp hạng 75/133 nền kinh tế.

19

cao, trình độ quản lý doanh nghiệp tiến tiến và khả năng sáng tạo chậm được nâng cao, chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp… tiếp tục là những yếu tố làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh “động” của quốc gia trong phát triển xuất khẩu thời kỳ tới.

3. Dự báo triển vọng thị trường và thương mại thế giới thời kỳ tới 2020

3.1 Dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới:

Năm 2010, theo dự ước của một số trung tâm dự báo, tăng trưởng GDP toàn cầu có thể đạt 2,7 – 2,8%15 (đạt khoảng 59.560 tỷ USD), giá cả hàng hoá đã chững lại và một số mặt hàng nguyên nhiên liệu đã có dấu hiệu tăng giá trở lại. Trong đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ đạt khoảng 2,0 – 2,5%; kinh tế EU tăng trưởng khoảng 0,8 – 0,9%; kinh tế Nhật Bản tăng trưởng khoảng 1,4%; tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của châu Á (trừ Nhật Bản) có thể đạt 7,0 – 7,1%; châu Mỹ La tinh, Trung Đông và châu Phi tăng trưởng 3 – 4%; các nền kinh tế mới nổi châu Âu tăng trưởng khoảng 1,7 – 1,8%. Tuy nhiên, theo báo cáo “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2010” do Liên Hợp quốc công bố thì dự tính năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới chỉ là 2,4%.

Trong 5 năm tới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước châu Á nhanh nhất thế giới, bình quân 7 – 8%/năm, gấp 3 lần tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu. Với vai trò là “trung tâm của thế giới mới nổi” châu Á sẽ là động lực tăng trưởng kinh tế thế giới trong thapạ kỷ tới, dự tính đến năm 2020 tổng lượng kinh tế của nhóm các nền kinh tế mới nổi đang phát triển sẽ chiếm 50% GDP toàn cầu. Trong 20 năm tới, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ sẽ vượt mức bình quân 9%/năm, các nước châu Á khác ước khoảng 7,5%/năm, đến năm 2030, châu Á sẽ chiếm khoảng 505 GDP toàn cầu16

3.2. Triển vọng thị trường và thương mại thế giới

- Thương mại thế giới sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của thương mại dịch vụ, tỷ trọng của thương mại hàng hoá sẽ giảm tương đối. Sẽ có sự chuyển dịch dần theo hướng tăng tỷ trọng của các nền kinh tế mới nổi và đang

15 Theo ÍH Global Insinght 16 Theo Tạp chí “Forbes” của Nhật Bản soó tháng 5/2008 dẫn tới dự báo của Lý Quang Diệu (tác giả của “Trung tâm kinh tế thế giới châu Á”)

20

phát triển trong cả hoạt động sản xuất, đầu tư và tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ trong khi thị trường các nền kinh tế phát triển như Mỹ, EU và Nhật Bản đang trở nên bão hoà. Mặc dù các nền kinh tế phát triển vẫn có khả năng tiêu thụ một lượng hàng hoá lớn nhưng xu hướng tiêu dùng, đầu tư, sản xuất sẽ chuyển dần sang các thị trường mới nổi và đang phát triển có khả năng sinh lời cao.

- Các nước phát triển sẽ đẩy mạnh xuất khẩu để tái cân bằng các cân đối vĩ mô và sẽ hạn chế nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng không cần thiết. Chính quyền của Tổng thống Obama đã đề ra mục tiêu đến năm 2015 tăng gấp đôi kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và đang thúc đẩy đàm phán ký kết Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương với ý đồ sử dụng công cụ này để điều chỉnh chiến lược thị trường thực hiện mục tiêu đó. EC đang thúc đẩy chiến lược FTA hướng Đông để đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ sang khu vực châu Á, nhất là Ấn Độ, ASEAN và Trung Quốc.

Các nền kinh tế mới nổi sẽ nhập khẩu nhiều hơn đeer đáp ứng nhu cầu trong nước. Đặc biệt, Trung Quốc sẽ gia tăng sức hút các luông nguyên nhiên vật liệu, tài nguyên khoáng sản để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng cao ở mức bình quân 9%/năm, tạo hiệu ứng mạnh đối với giá cả hàng nguyên nhiên vật liệu thế giới.

- Về cơ cấu hàng hoá XNK.

+ Nhóm hàng cơ khí, chế biến, chế tạo công nghệ cao, hàng hoá thông minh sẽ lfa những mặt hàng xuất khẩu chủ chố của các nước phát triển. Đây cũng chính là nhóm hàng mà các nước đang phát triển, các nền kinh tế mới nổi có nhu cầu nhập khẩu để đẩy nhanh CNH, HĐH. Nhóm dòng sản phẩm công nghệ cao khác, với mức giá giảm tương đối sẽ được kích thích xuất khẩu. Một số nước đang phát triển, thị trường mới nổi (Trung Quốc, Ấn Độ, LB Nga ...) cũng sẽ có các dòng sản phẩm thông minh xuất khẩu sang các nước cùng nhóm, thậm chí cả các nước phát triển. Đặc biệt, thị trường hàng điện tử sẽ có tốc độ phát triển nhanh nhất cả về sản phẩm và nâng cấp nhu cầu tiêu dùng.

+ Nhóm hàng nông lâm thủy sản vẫn là thế mạnh xuất khẩu của các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi; nhu cầu nhập khẩu của các nước phát triển sẽ không giảm, nhất là đối với các mặt hàng họ kong sản xuất được, nhưng nhập khẩu hoa và một số lâm sản không thiết yếu sẽ giảm sút, bù vào đó, các nền

21

kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển sẽ gia tăng nhu cầu nha nhóm hàng này.

+ Nhóm hàng công nghiệp nhẹ có hàm lượng lao động cao như dệt may, giày dép ... xuất khẩu của các nước đang phát triển sẽ không tăng trưởng mạnh, nhưng nhu cầu nhập khẩu của một số thị trường mới nổi (Nga, Braxin, một số nước Đông Âu ...) có thể sẽ có nhu cầu nhập khẩu nhiều hơn. Hãng thời trang cao cấp sẽ tăng nhanh nhu cầu nhập khẩu vào Trung Quốc, Ấn Độ để phục vụ tầng lớp trung - thượng lưu đang tăng nhanh.

+ Nhóm hàng khoáng sản và năng lượng không thể tái tạo sẽ được nhiều nước hạn chế xuất khẩu để tiết kiệm tài nguyên, nhu cầu nhập khẩu tăng cao (nhất là Trung Quốc), giá cả các loại khoáng sản sẽ tăng cao.

+ Nhóm hàng năng lượng mới có thể tái tạo sẽ xuất hiện nhiều hơn trong thương mại quốc tế, nhu cầu sử dụng năng lượng mới cũng sẽ tăng cao. Tỷt của sản phẩm sạch, năng lượng sạch và tiêu dùng sạch sẽ tăng nhanh trên cả phương diện nguồn hàng, thị hiếu tiêu dùng và lưu lượng hàng hoá.

4. Triển vọng nhu cầu thế giới đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt

Nam.

- Nhu cầu thế giới đối với nhóm hàng nông lầm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở mức cao, đặc biệt là nhóm hàng lương thực, thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, thân thiện với môi trường (như nhóm thực phẩm đồ uống chế biến thực phẩm chức năng. Đặc điểm chủ yếu là nhu cầu thị trường nhập khẩu có tính phân tán cao, các nước phát triển như Nhật, EU sẽ gia tăng nhập khẩu lương thực thực phẩm phục vụ công nghiệp chế biến thực phẩm chức năng có giá trị gia tăng cao, áp dụng công nghệ cao.

- Nhu cầu nhập khẩu của các thị trường mới nổi (đặc biệt là Trung Quốc, Nga, Braxin ...) đối với nhóm hàng có hàm lượng lao động cao, công nghệ trung bình kết hợp với lao động thủ công như: dệt may, giày dép, đồ gỗ ... sẽ gia tăng, tạo lực hút mạnh đối với xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam. Sản phẩm dệt may, giầy da, đồ gỗ cao cấp sẽ có nhu cầu tăng mạnh ỏư Nga, Trung Quốc, Đông Âu, Úc, Braxin và các nền kinh tế mới nổi khác. Trong khi nhu cầu nhập khẩu đáp

22

ứng nhu cầu của nhóm người có thu nhập thấp ở Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc vẫn ở mức cao do các mặt hàng này có hệ số co giãn tiêu dùng theo thu nhập thấp.

- Nhu cầu nhập khẩu nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng cao (như hàng điện tử, hàng chế tạo áp dụng công nghệ cao), chủ yếu là sản phẩm của khu vực FDI, sẽ tăng mạnh ở các thị trường mới nổi.

- Nhu cầu nhập khẩu của thế giới, đặc biệt là Trung Quốc dvongl thô, khoáng sản thô và sơ chế của Việt Nam vẫn tăng cao, giá cả có xu hướng tăng, nhưng ta đang hạn chế xuất khẩu. Cần tận dụng tốt cơ hội thị trường và giá cả để nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhóm hàng này, bù đắp cho phần khối lượng xuất khẩu sụt giảm.

5. Triển vọng xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ

đến năm 2015, có tính đén năm 2020

5.1. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2011 – 2015, tầm nhìn

2020

* Dự báo xu hướng tăng trưởng XK một số mặt hàng:

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu sẽ có xu hướng giảm dần do tác động của sự sụt giảm lượng xuất khẩu dầu thô và than đá theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tới; đặc biệt là kể từ năm 2009, khi nhà máy lọc dầu Dung Quất dự kiến bắt đầu đi vào hoạt động và sẽ sử dụng nguồn dầu thô trong nước.

Thứ hai, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản sẽ có xu hướng giảm dần do gặp phải nhiều hạn chế về khả năng mở rộng qui mô nuôi, tròng và chủ yếu phải dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu.

Thứ ba, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng mạnh do có nhiều điều kiện để mở rộng qui mô sản xuất (đặc biệt là thông qua hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bắt đầu đi vào hoạt động trong giai đoạn này), phát triển thị trường mới, mặt hàng mới, đồng thời nâng cao giá trị tăng nhờ đổi mới công nghệ.

23

Thứ tư, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng khác sẽ có xu hướng tăng do nhiều mặt hàng mới được phát hiện, có tiềm năng phát triển, chưa bị hạn chế về sản xuất và thị trường.

+ Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu:

Nhóm hàng nông, lâm thủy sản giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam từ 22,5% năm 1010 xuống còn 19,0% năm 2015 và xuống 14% vào năm 2020. Nhóm hàng khoáng sản với hai mặt hàng chủ yếu là dầu thô và than đá giảm mạnh từ 20,8% năm 2008 xuống còn 11,0% năm 2010 và xuống dưới 10% giai đoạn 2011 – 2015. Riêng nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng mạnh từ 58,6% năm 2008 lên 68% năm 2010 và trên 70% giai đoạn 2011 – 2015.

* Triển vọng xuất khẩu mặt hàng:

- Nhóm nhiên liệu và khoáng sản:

+ Dầu thô: Theo dự báo, nhu cầu dầu thô thế giới thời kỳ 2011- 2020 tiếp tục tăng, tuy nhiên giai đoạn 2011 – 2015 sẽ tăng mạnh với tốc độ khoảng 3%/năm, tương đương khoảng 2,5 triệu thùng/ngày mỗi năm; nhu cầu gia tăng mạnh nhất ở những cường quốc công nghiệp mới như Trung Quốc, Ấn Độ, ngoài ra nhu cầu cũng tăng mạnh ở Đông Âu, Hoa Kỳ và Tây Á. Đến năm 2015 sản lượng dầu thô nước ta sẽ đạt khoảng 22 triệu tấn, chế biến trong nước chiếm khoảng 70% sản lượng, xuất khẩu khoảng 6 triệu tấn.

+ Than đá: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cũng sẽ giảm dần do chủ trương kiểm soát chặt xuất khẩu tài nguyên. Theo kế hoạch dự kiến, sản lượng than khai thác than sẽ đạt khoảng 60 – 65 triệu tấn vào năm 2015, sử dụng trong nước khoảng 56 triệu tấn, còn khoảng 5 triệu tấn dành cho xuất khẩu.

+ Các loại khoáng sản khác: Xuất khẩu một số loại khoáng sản khác như quặng apatit, quặng sắt, boxit nhôm, quặng titan ... là rất hạn chế và cũng không được khuyến khích, vì trữ lượng ở nước ta không nhiều, nên dành để phục vụ nhu cầu sản xuất và phát triển kinh tế trong nước những năm tới.

Nhìn chung việc xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản có nhiều thuận lợi về thị trường và giá cả. Tuy nhiên, sản lượng xuất khẩu sẽ ngày càng

24

giảm đi. Việc tăng trị giá xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào giá. Do đó, công tác nghiên cứu dự báo thị trường là hết sức cần thiết, quan trọng để đảm bảo xuất khẩu có hiệu quả cao.

- Nhóm nông, lâm, thủy sản :

+ Thủy sản: Tổng sản lượng thủy sản sẽ tăng từ 4,84 triệu tấn năm 2009 lên khoảng 7,2 triệu tấn vào năm 2015. Giai đoạn 2011 – 2015 vfa giai đoạn tiếp theo cần tăng cường hàm lượng chế biến trong thủy sản xuất khẩu của nước ta để nâng cao giá trị gia tăng, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu để phân tán rủi ro. Phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 7 tỷ USD sau năm 2015. Về thị trường xuất khẩu, trong giai đoạn tới vẫn tiếp tục khai thác thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN. Cơ hội đa dạng hoá thị trường còn lại ở các thị trường Trung Quốc, các nước Đông Âu cũ và Úc. Để đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường này, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần phải chú trọng những yếu tố: Đầu tư xây dựng hệ thống kho bãi hiện đại; chú trọng xây dựng thương hiệu; tăng cường sử dụng Internet tỏng công tác tiếp thị. Chú trọng sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao.

+ Gạo: Để duy trì nguồn hàng dvõku mặt hàng này cần chú trọng khai thác khâu chuyển đổi cơ cấu giống với việc thâm canh các giống lúa cho năng suất vàchl cao. Chú trọng khai thác các giống lúa đặc sản được thị trường nhập khẩu ưa thích. Dự kiến, xuất khẩu gạo sẽ dao động ở mức khoảng 5 6 triệu tấn/năm trong giai đoạn 2011 – 2015 với kim ngạch xuất khẩu khoảng 4 tỷ USD/năm. Thị trường xuất khẩu gạo trong giai đoạn tới vẫn chủ yếu hướng tới các nước châu Á, châu Phi. Ngoài ra, để đa dạng hoá thị trường có thể hướng tới khai thác thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Australia và New Zealand.

+ Cà phê: Chủ trương của ta trong thời gian tới là tập trung vào ba mục tiêu quay vòng của ngành: Tăng diện tích cà phê Arabica, nâng cao chất lượng xuất khẩu và đa dạng hoá các kênh phân phối. Các nhà sản xuất dự định tăng diện tích cà phê Arabica mà họ hy vọng sẽ đạt được giá xuất khẩu cao hơn. Nếu được như vậy, xuất khẩu cà phê thời kỳ tới có thể tăng trưởng bình quân 5%/năm. khối lượng cà phê xuất khẩu dao động ở mức 1,1 – 1,2 triệu tấn/năm trong 5 năm tới,

25

trong đó phấn đấu tỷ lệ cà phê rang xay và chế biến hoà tan chiếm khoảng 20% vào năm 2015 so với mức 75 hiện nay.

+ Rau quả: Nước ta có tiềm năng lớn về sản xuất và xuất khẩu rau quả. Đến nay, diện tích rau quả trên 1,4 triệu ha, sản lượng trên 16 triệu tấn. Hiện cả nước có khoảng 60 nhà máy chế biến đóng hộp, nước hoa quảe với công suất 290 nghìn tấn/năm. Rau quả củavn được xuất khẩu tới trên 50 nước vùng lãnh thổ trên toàn thế giới trong đó thị trường châu Á chiếm tới gần 70% tổng kim ngạch xuất khẩu với thị trường nhập khẩu lớn nhất là Trung Quốc (chiếm 44,3%), Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Mỹ và châu Âu tuy nhiên thị phần xuất khẩu rau qủa Việt Nam mới chỉ chiếm 1% thị phần thế giới. Trong những năm tới cần đặc biệt chú ý tới việc mở rộng sản xuất đẩy mạnh xuất khẩu các loại rau quả đóng hộp, rau quả đông lạnh vì đây là thế mạnh của ta cũng như nhu cầu ổn định theo hướng tăng của thị trường thế giới. Kim ngạch xkumh này còn rất nhỏ svo tiềm năng, năm 2010 đạt 420 triệu USD, đến năm 2015 có thể đạt 600 triệu USD.

+ Cao su: Tỷ trọng cao su xuất khẩu dạng thô, sơ chế hiện còn cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Trong khi đó, giá cáou và sản phẩm cao su đã qua chế biến thường cao hơn gấp nhiều lần so với cao sũku thô. Nếu trong thời gian tới có thể giảm tỷ trọng cao su này thì việc tăng kim ngạch lên khoảng 2,4 tỷ USD vào năm 2015 là khả thi. Thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam cylà Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Đức, Hoa Kỳ và Nhật Bản.

+ Hạt tiêu: Hiện nay, Việt Nam đứng đầu thế giới cả về sản lượng và xuất khẩu hạt tiêu; chủng loại khá phong phú, đặc biệt hạt tiêu trắng của Việt Nam được bạn hàng rất ưa chuộng. Xuất khẩu bình quân khoảng 130.000 tấn/năm với kim ngạch khoảng 380 – 400 triệu USD. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu hạt tiêu đen có chất lượng thấp, giá trị không cao. Diện tích trồng hạt tiêu đến năm 2010 sẽ duy trì ở mức trên 50 nghìn ha, cơ cấu giống sẽ từng bước được thay đổi để tăng tỷ trọng sản lượng hạt tiêu trắng phục vụ xuất khẩu với qui mô khoảng 150 nghìn tấn/năm vào năm 2015. Tiêu Việt Nam đã được xuất khẩu tới 40 nước trên thế giới. Trong thời gian tới cần hướng tới các thị trường thuộc Eu, Nhật Bản, Australia, Malaysia, Iran và Nam Phi.

26

+ Nhân điều: Việt Nam hiện là một trong những nước có sản lượng điều lớn nhát thế giới với sản lượng nhân điều chế biến hàng năm lên tới hơn 150 nghìn tấn (tương đương 600 nghìn tấn điều thô). Sản lượng điều trong nước hàng năm chỉ đáp ứng được 350 nghìn tấn điều thô, còn lại khoảng 250 nghìn tấn phải nhập khẩu. Dự báo, nhu cầu tiêu thụ điều thế giới sẽ tiếp tục tăng (trung bình 4%/năm). Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu điều nhân đạt 1,2 tỷ USD. Phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1,5 tỷ USD sau năm 2015. Thị trường xuất khẩu có thể tiếp tục khai thác trong giai đoạn tới là Mỹ, Hà Lan, Australia, Anh và Canađa.

Nhìn chung, hầu hết các mặt hàng thuộc nhóm nông, lâm, thủy sản tuy gặp phải giới hạn về khả năng mở rộng nuôi, trồng song vẫn có nhiều khả năng để có thể nâng cao giá trị gia tăng trong xuất khẩu thông qua việc đổi mới giống cay trồng, nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua hoạt động đầu tư vào công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch.

- Nhóm hàng chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ

+ Dệt may: Đối với mặt hàng này, bên cạnh yếu tố nâng cao giá trị tăng thêm của sản phẩm, việc mở rộng qui mô sản xuất và tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu là yếu tố cơ bản để có thể tăng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian tới. Trung Quốc, nhà cung cấp hàng hoá xuất khẩu lớn nhất cho thị trường hàng dệt may thế giới. Do kinh tế Mỹ suy giảm, Trung Quốc chuyển hướng xuất khẩu sàng châu Âu. Vì vậy, các ctoy Mỹ đang muốn tìm ngồn cung cấp mới, trong đó có Việt Nam. Điều này giúp ngành dệt may cókhn tăng trưởng hơn nữa trong giai đoạn 2011 – 2015. Các thị trường trọng điểm vẫn là các thị trường có sức mua lớn như Mỹ, EU, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và các thị trường nhỏ lẻ nhưng đóng vai trò là trung tâm mua sắm của các khu vực như Hồng Kông, Singapore, Thuỵ Sỹ, Anh. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may có thể tăng nhanh từ khoảng 10,2 tỷ USD năm 2010 lên hơn 15 tỷ USD vào năm 2015.

+ Giày dép: Đây cũng là mặt hàng có nhiều khả năng để gia tăng kim ngạch xuất khẩu thông qua việc mở rộng sản xuất, đa dạng hoá thông tin xuất khẩu và tăng cường hàm lượng giá trị tạo mới của sản phẩm xuất khẩu bằng cách tập trung vào khâu thiết kế kiểu dáng, tạo mẫu sản phẩm ... Dự kiến, xuất khẩu hàng giày dép đạt kim ngạch 4,5 tỷ USD năm 2010 và sẽ đạt khoảng 7 tỷ USD vào năm

27

2015. Thị trường xuất khẩu của mặt hàng này vẫn là các nước phát triển có sức mua lớn như Mỹ, EU, Canađa, Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc, Australia. Bên cạnh đó, còn có thể khai thác các thị trường có sức mua không lớn nhưng chấp nhận hàng hoá phù hợp với năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam như Indonesia, Malaysia, Trung Đông, châu Phi, Nam Á, Nga và các nước Đông Âu cũ.

+ Điện tử và linh kiện máy tính: Theo đánh giá , đây là mặt hàng có nhiều khả năng tạo ra sự tăng trưởng đột biến trong thời gian tới và rất có thể với những định hướng phát triển phù hợp thì đây sẽ là mặt hàng tạo kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam vì những lý do cơ bản sau: Thứ nhất, trong những năm gần đây, làn sóng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực điện, điện tử và sản xuất linh kiện máy tính ở Việt Nam đã tăng rất mạnh với nhiều dự án đầu tư rất lớn như dự án đầu tư sản xuất máy in của Tập đoàn Canon, dự án đầu tư sản xuất chíp điện tử, linh kiện máy tính của Tập đoàn Intel (1 tỷ USD), dự án của Tập đoàn Nidec, Nhật Bản sản xuất đầu đọc quang học và môtơ siêu nhỏ (1 tỷ USD), dự án của Tập đoàn Foxconn (Đài Loan) đầu tư sản xuất linh kiện điện tử (1 tỷ USD), dự án của tập đoàn Meikom (Nhật Bản) sản xuất linh kiện điện tử tại Hà Tây (300 triệu USD), Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) đầu tư sản xuất linh kiện điện tử tại Bắc Ninh (650 triệu USD) và nhiều dự án đầu tư khác của các công ty vệ tinh của các tập đoàn lớn đã có hoạt động tại Việt Nam.

Thứ hai, đối với mặt hàng điện tử và linh kiện máy tính, đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Malaysia, Thái Lan và Trung Quốc. Tuy nhiên, lợi thế về nhân công đã và đang có sự dịch chuyển từ Malaysia và Thái Lan sang Việt Nam.

Thứ ba, về nhu cầu của thị trường thế giới đối với mặt hàng điện tử và linh kiện máy tính có thể coi là khổng lồ và đầy tiềm năng. Theo đánh giá của chuyên gia từ Trung tâm thương mại quốc tế thì thị trường nhập khẩu các sản phẩm điện tử trên thế giới là rất rộng lớn và có mức tăng trưởng vững chắc. Năm 2007, nhk các mặt hàng điện tử của thế giới đạt mức 500 tỷ USD và tăng khá đều đặn khoảng 10% năm trong vòng 5 năm qua.

28

Như vậy, có thể nối xu thế và khả năng tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm điện tử và linh kiện máy tính của Việt Nam trong vòng 5 năm tới là khsa rõ. Vấn đề cần đặt ra ở đây là Việt Nam cần có những định hướng rõ ràng cũng như biện pháp cụ thể đẩy nhanh sự tăng trưởng xuất khẩu của các mặt hàng này. Năm 2010 (kim ngạch XK mặt hàng này đạt khoảng 3,4 – 3,5 tỷ USD). Dự báo, đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đạt trên 7 tỷ USD. Về các thị trường xuất khẩu, hiện nay ta đang xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu sang các nước ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc, Mỹ. Trong thời gian tới có thể nhằm tới Trung Quốc, Hồng Kông, EU (nhất là Đức) và đặc biệt là các nước thành viên mới của EU như Hungary, Ba Lan, Cộng hoà Séc và Slovakia.

+ Thủ công mỹ nghệ: Đây là các mặt hàng mà ta còn nhiều tiềm năng, nhu cầu thị trường thế giới hầu như chưa bị giới hạn do tuổi thọ và vòng đời sản phẩm ngắn. Bên cạnh đó, xuất khẩu mặt hàng này mang lại giá trị tăng lớn, có thể coi là ngành hàng mũi nhọn để tập trung phát triển xuất khẩu trong giai đoạn 2011 – 2015 và giai đoạn tiếp theo. Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt trên 3m9 tỷ USD, đến năm 2015 có thể đạt trên 8 tỷ USD.

Về thị trường xuất khẩu, hiện nay xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 1,5% kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của Mỹ, 1,7% của Nhật Bản và 5,4% của EU. Bên cạnh đó có thể khai thác thị trường Canada, Hồng Kông, Trung Đông, Nga và các thành viên mới của EU.

+ Sản phẩm gỗ: Mặt hàng đồ gỗ đã khẳng định vị trí vững chắc trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong những năm gần đây. Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 3 triệu USD. Dự kiến đến năm 2015 xuất khẩu sản phẩm gỗ sẽ đạt kim ngạch trên 6,5 tỷ USD, tăng bình quân 19,5%. Về thị trường xuất khẩu, ngoài các thị trường tiềm năng như Nhật Bản, EU (Pháp, Đức), xuất khẩu vào thị trường Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu tiềm năng trung và dài hạn do Việt Nam có nhiều lợi thế về giá nhân công rẻ và thuế xuất nhập khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào Mỹ thấp.

+ Sản phẩm nhựa: Dự kiến đến năm 2015 xuất khẩu có thể đạt mức trên 4,0 tỷ USD. Mặc dù hiện tại, qui mô xuất khẩu cùa mặt hàng này ở mức trung bình

29

nhưng đã và đang cho thấy những yếu tố tiềm năng để có thể gia tăng được qui mô trong thời gian tới, đó là:

Thứ nhất, đây là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhất của Việt Nam trong thời gian qua (tăng trưởng 37% năm 2006 và 33% năm 2007) với thị trường còn hết sức rộng lớn và không quá khó để thâm nhập.

Thứ hai, mặt hàng nhựa của Việt Nam hiện đang được đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao, tiếp cận được với công nghệ sản xuất hiện đại của thế giới và được thị trường chấp nhận.

+ Dây điện và cáp điện: Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1,35 tỷ

USD. Dự kiến đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu có thể đạt trên 3,0 tỷ USD.

Nhu cầu thị trường thế giới đối với mặt hàng dây điện, cáp điện chỉ tăng ở mức khoảng 3 – 4%/năm, song không cản trở nhiều đến triển vọng xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam do tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn nhỏ bé, lại tập trung vào một số thị trường ngách với những sản phẩm có chất lượng cao.

+ Túi xách, vali, mũ, ô dù: Năm 2010 đạt kim ngạch 0,9 tỷ USD. Phấn đấu

đến năm 2015 đạt kim ngạch khoảng trên 2,5 tỷ USD.

Khả năng gia tăng qui mô sản xuất và xuất khẩu của nhóm hàng này là khá rõ do có nhiều thuận lợi về sức sản xuất trong nước, có thế mạnh về nhân lực, nguyên liệu; hơn thế, sản phẩm dễ đi vào các thị trường “ngách” ít chịu tranh chấp thương mại, phù hợp với năng lực doanh nghiệp Việt Nam. Mặt hàng này có thể xuất khẩu vào hầu hết các thị trường trên thế giới do không phải chịu rào cản thương mại nào trong khi nhu cầu thế giới không ngừng tăng.

+ Các sản phẩm cơ khí: Các sản phẩm cơ khí gồm nhiều mặt hàng như: các sản phẩm từ gang thép, sản phẩm công nghiệp đóng tàu, máy biến thế điện, động cơ điện, dụng cụ cầm tay, xe đạp. Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5,5 tỷ USD. Phấn đấu đến năm 2015 kim ngạch đạt trên 12 tỷ USD.

5.2. Triển vọng nhập khẩu hàng hoá giai đoạn 2011 – 2015 tầm nhìn

2020

- Nhóm 1 – nhóm mặt hàng cần thiết nhập khẩu

30

+ Thép và phôi thép: Trong giai đoạn 2009 – 2010, tổng nhu cầu phôi cho sản xuất thép vào khoảng 3,5 – 4,5 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, hiện nay nguồn phôi trong nước mới chỉ đáp ứng được 2 triệu tấn, còn lại hơn 2 triệu tấn vẫn phải nhập khẩu. Nhu cầu thép thành phẩm của Việt Nam dự kiến giai đoạn 2009 – 2010 cũng đạt khoảng9 – 11 triệu tấn/năm. Năm 2010, lượng sắt thép các loại nhập khẩu đạt khoảng 8,2 triệu tấn, riêng phôi thép 2,2 triệu tấn, kim ngạch nhập khẩu gần 6 tỷ USD. Theo qui hoạch phát triển ngành thép Việt Nam thì đến 2010 sản xuất phôi thép đạt 3,5 – 4,5 triệu tấn và sản xuất thép thành phẩm đạt 6,3 – 6,5 triệu tấn. Về cơ bản, năm 2010, sản xuất phôi trong nước sẽ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu; sản xuất thép thành phẩm sẽ đáp ứng 50% nhu cầu trong nước. Đến năm 2015 nhu cầu thép các loại trên 15 triệu tấn, sản xuất trong nước đáp ứng được 65 – 70% còn lại phải nhập khẩu khoảng 6 – 7 triệu tấn.

+ Phân bón: Hiện nay, nhu cầu phân bón sản xuất nông nghiệp trong cả nước khoảng 9 – 10 triệu tấn mỗi năm, trong khi nguồn cung cấp trong nước mới chỉ đáp ứng được 5 triệu tấn phân bón các loại (phân đạm: nhu cầu 1,7 triệu tấn, đáp ứng 860 nghìn tấn; phân DAP nhu cầu 750 nghìn tấn, đáp ứng 100 nghìn tấn; phân NPK 2,5 triệu tấn, đáp ứng 2,4 triệu tấn; phân lân 1,43 triệu tấn, đáp ứng 1,43 triệu tấn; ngoài ra phân đạm SA nhu cầu 750 nghìn tấn và phân Kali 800 nghìn tấn chủ yếu phải nhập khẩu. Theo qui hoạch phát triển ngành công nghiệp hoá chất Việt Nam thì năm 2010 cung ứng được 7 triệu tấn phân bón các loại/năm., đáp ứng được 70 – 80% nhu cầu trong nước. Mục tiêu năm 2011 giảm lượng phân bón nhập khẩu xuống còn 3 triệu tấn, tương đương kim ngạch 1,2 tỷ USD.

+ Xăng dầu: Nhu cầu xăng dầu trong nước và các năm tới sẽ tiếp tục tăng từ 15 triệu tấn vào năm 2010 lên khoảng 19 – 20 triệu tấn vào năm 2015. Từ năm 2010 trở đi, kim ngạch nhập khẩu xăng dầu sẽ giảm mạnh do nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động (đến thời điểm hiện nay đã sản xuất được 7 triệu tấn xăng dầu các loại). Năm đầu tiên 2009, nhà máy sản xuất khoảng 4 triệu tấn vào năm 2010 sẽ sản xuất 8 triệu tấn. Lượng xăng dầu nhập khẩu 9,0 triệu tấn vào năm 2010, sau đó sẽ giảm dần. Dự ước tổng kim ngạch nhập khẩu xăng dầu các loại giai đoạn 2011 – 2015 khoảng 33 tỷ USD.

31

+ Chất dẻo nguyên liệu: Lượng nhập khẩu chất dẻo đạt 1,5 tỷ USD. Bắt đầu từ năm 2011, nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu sẽ giảm 1 phần đáng kể do các nhà máy sản xuất chất dẻo nguyên liệu bắt đầu đi vào hoạt động. Theo chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đã được phê duyệt, đến hết năm 2010, đáp ứng nguyên liệu cho sản xuất các loại nhựa polyethlen (PE), polypropylene (PP), polystyrene (PS), polychlorvinyl (PVC), đảm bảo 50% nhu cầu chất dẻo của cả nước. Nhìn chung, với việc thực hiện qui hoạch đúng tiến độ thì bắt đầu năm 2010, ngành công nghiệp sản xuất chất dẻo nguyên liệu sẽ đáp ứng được một phần nhu cầu chất dẻo nguyên liệu và sang năm 2011 sẽ đáp ứng được 40 – 50% nhu cầu. Để giảm nhập khẩu nguyên liệu chất dẻo, Tập đoàn Dầu khí cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án. Điều này sẽ giúp giảm phần lớn kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này từ năm 2010. Năm 210 nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu 2,3 triệu tấn, kim ngạch đạt 13,6 tỷ USD.

+ Hoá chất nguyên liệu và sản phẩm hoá chất: 2010 nhập khẩu hoá chất nguyên liệu đạt 2,0 tỷ USD. Nhìn chung, nhu cầu hoá chất nguyên liệu và sản phẩm hoá chất tăng mạnh trong thời gian qua và tiếp tục tăng trong thời gian tới. Với việc thực hiện qui hoạch đúng tiến độ thì bắt đầu từ năm 2011, ngành công nghiệp sản xuất hoá chất trong nước sẽ đáp ứng được phần lớn nhu cầu nguyên liệu hoá chất và sản phẩm hoá chất. Điều này giúp giảm phần lớn kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này từ năm 2011.

+ Máy móc, thiết bị, phụ tùng: Kim ngạch nkacả năm 2010 khoảng 12,1 tỷ USD. Đây là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 14,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Giai đoạn 2010 – 2015, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu mặt hàng này sẽ có xu hướng tăng do đầu tư nước ngoài tăng mạnh, tuy nhiên, do Chính phủ thực hiện nhiều biện pháp như kiềm chế lạm phát, thắt chặt chính sách tiền tệ, ổn định tỷ giá theo hướng hạn chế nhập khẩu, giảm các khoản chi tiêu, đình, giãn các dự án đầu tư công không có hiệu quả ... nên cũng phần nào ảnh hưởng đến đầu tư của các doanh nghiệp trong nước.

- Nhóm II – nhóm mặt hàng cần kiểm soát nhập khẩu

Nhóm này gồm các mặt hàng: Thuốc tân dược, sản phẩm chế tạo từ gang thép, sản phẩm dầu gốc, gas, đá quí, kim loại quí ... chiếm tỷ trọng gần 16% trên

32

tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm 2010, kim ngạch nhập khẩu nhóm này ước đạt khoảng 13 tỷ USD. Trong nhóm hàng hoá này thì mặt hàng vàng sẽ được kiểm soát chặt việc nhập khẩu nhằm giảm nhập siêu.

- Nhóm III – Nhóm mặt hàng hạn chế nhập khẩu

Nhóm mặt hàng hạn chế nhập khẩu gồm: nguyên phụ liệu thuốc lá, hàng tiêu dùng, ô tô nguyên chiếc dưới 12 chỗ, linh kiện ô tô dưới 12 chỗ, linh kiện và phụ tùng xe gắn máy. Năm 2010 nhóm hàng này có kim ngạch khoảng 10,5 tỷ USD, tỷ trọng chiếm 12% trên tổng kim ngạch nhập khẩu.

Qua triển khai một số giải pháp như tăng thuế nhập khẩu, hạn chế tiếp cận nge, kim ngạch nhóm này dự kiến sẽ giảm sau năm 2010. Hai mặt hàng có tốc độ giảm nhiều nhất là ô tô nguyên chiếc và linh kiện dưới 12 chỗ ngồi, phụ tùng ô tô. Dự kiến, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này giảm còn 7 – 8 tỷ USD/năm trong ngắn hạn.

* Tổng hợp chung:

- Trong cơ cấu hàng xuất khẩu năm 2015, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm tỷ trọng khoảng 10 – 11% (kim ngạch khoảng 13 – 14 tỷ USD); nhóm hàng nông lâm thủy sản (không tính cao su công nghiệp) chiếm khoảng 18 – 18,5% (kim ngạch khoảng 23 – 24 tỷ USD; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 32% (kim ngạch khoảng 40 tổng số; nhóm hàng có khí chế tạo và hàng công nghiệp áp dụng công nghệ cao chiếm khoảng 395 (kim ngạch khoảng 48 – 49 tỷ USD). Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2015 có thể đạt trên 125 tỷ USD.

- Trogn cơ cấu hàng nhập khẩu, nhóm mặt hàng cần thiết nhập khẩu chiếm khoảng 80% (kim ngạch khoảng 118 – 120 tỷ USD), nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu chiếm tỷ trọng 11 – 12% (kim ngạch khoảng 16 – 17 tỷ USD), nhóm hàng hạn chế nhập khẩu chiếm khoảng 6% (kim ngạch khoảng 7 – 8 tỷ USD. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2015 khoảng 145 – 147 tỷ USD.

6. Dự báo triển vọng phát triển sản phẩm dịch vụ xuất khẩu

Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang dự thảo lần cuối) đã đề ra định hướng chiến lược

33

phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn và nhanh hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP. Tập trung đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, các ngành có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ mang lại giá trị gia tăng cao, làm cơ sở cho sự phát triển chung của khu vực dịch vụ và toàn nền kinh tế, tạo tiền đề đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ trong thời kỳ tới. Chiến lược này cũng đề ra định hướng : Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch, tài chính – ngân hàng, thu kiều hối và bán hàng tại chỗ, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không và đường biển; giảm thâm hụt cán cân dịch vụ. Phát triển hệ thống phân phối các sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm dịch vụ Việt Nam.

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ bình quân 8,5 – 9,5%/năm trong giai đoạn 2011 – 2015 và bình quân 8,0 – 9,5%/năm trong giai đoạn 2016 – 2020. Trong cơ cấu GDP, tỷ trọng của dịch vụ chiếm khoảng 41 – 42% vào năm 2015 và 42 – 43% vào năm 2020.

Theo kết quả của một số công trình nghiên cứu17, tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam ở mức thấp nhất là bình quân 16 – 17%/năm, mức cao nhất có thể đạt 19 – 20%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020. Giá trị xuất khẩu dịch vụ có thể tăng từ khoảng 7,5 – 8 tỷ USD năm 2010 lên 20 tỷ USD vào năm 2015 và khoảng 40 – 45 tỷ USD vào năm 2020. Trong đó:

- Giá trị xuất khẩu dịch vụ vận tải biển có thể đạt 4,8 tỷ USD vào năm 2015 và 14 – 15 tỷ USD vào năm 2020; chiếm tỷ lệ 23% và 32% trong tổng giá trị xuất khẩu dịch vụ ở thời gian tương ứng (đầu những năm 1990 tỷ lệ này của Nhật Bản là 25%, Hồng Kông là 305, singapore là 20%. Nâng thị phần của ngành dịch vụ vận tải biển trong vận tải hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam lên 35% vào năm 2015 và 45% vào năm 2020, thị phần vận tải hàng nhập khẩu của Việt Nam tăng lên 30% và 40% trog thời gian tương ứng. Tăng dần tỷ trọng của dịch vụ vận tải

17 1) Tham khảo : Đề tài NCKH cấp BộL: “Một số chính sách khuyế n khích phát triển xuất khẩu sản phẩm dịch vụ có lợi thế của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, mã số 2007-78-010, Hà nội 2008 (chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Trần Công Sách) 2) Tham khảo : Luận án TS kinh tế của Dương Văn Hùng “Định hướng phát triển xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam thời kỳ đến năm 2020” Hà nội 2010.

34

biển Việt Nam trong tổng giá trị dịch vụ vận tải biển toàn cầu từ khoảng 42% năm 2010 lên khoảng 3% sau năm 2015.

- Dvu vận tải hàng không có thể tăng trưởng trên 15%/năm trong giai đoạn 2011 – 2015, tăng thị phần vận tải trên các chuyến bay quốc tế của Việt Nam lên khoảng 55 – 60% sau năm 2015. Giá trị xuất khẩu dịch vụ vận tải đường không có thể đạt trên 3,5 tỷ USD vào năm 2015 và khoảng 7,5 – 8 tỷ USD vào năm 2020, chiếm tỷ trọng 17,5 – 18% thị phần của Việt Nam trong tổng giá trị xuất khẩu dịch vụ vận tải đường không lên 1,1% sau năm 2015.

- Đối với du lịch, theo định hướng phát triển của ngành du lịch, đến năm 2020 có thể thu hút khoảng 8 triệu khách du lịch quốc tế, doanh thu khoảng 13 tỷ USD, trong đó doanh thu từ bán hàng (xuất khẩu tại chỗ) chiếm khoảng 27%, giá trị đạt khoảng 3,24 tỷ USD.

- Đối với xuất khẩu lao động: Theo Cục quản lý lao động nước ngoài (Bộ LĐTB&XH), đến năm 2008, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 70 – 80 nghìn lao động, kim ngạch xuất khẩu lao động đạt 1,2 – 1,6 tỷ USD. Đến tháng 12/2008 có trên 50 nghìn người Việt Nam làm việc ở trên 50 nước và vùng lãnh thổ. Qui mô lao động xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 6,5% số lao động xuất khẩu của Philippin (nước này có 8 triệu đang làm việc ở 56 nước, giá trị ngoại tệ thu về hàng năm đạt 7,5 tỷ USD. Hiện nay Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,85 sóo lao động và khoảng 1,2% giá trị xuất khẩu lao động toàn cầu (chỉ số tương ứng của Philippin là 10% và 6%, Ấn Độ chiếm 19% giá trị xuất khẩu lao động toàn cầu, Pakistan chiếm 6%). Theo dự báo của ILO, nhu cầu nhập khẩu lao động của thế giới thời kỳ tới tiếp tục tăng cao, nhất là khu vực Trung Đông (hiện tại châu Âu đang sử dụng 27,5 triệu lao động nước ngoài, Bắc Mỹ 20,5 triệu, châu Á 22,1 triệu lao động nước ngoài. Nếu ta đuổi kịp Philippin thì đến năm 2020 ta có thể đạt 7 – 8 tỷ USD.

II.- MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 -

2010

1. Mục tiêu chiến lược

Phấn đấu đến năm 2020 nước ta đạt qui mô vfa trình độ phát triển xuất nhập khẩu ở mức trung bình của thế giới, vì thế trong thương mại toàn cầu được nâng

35

lên; cơ cấu xuất nhập khẩu đã mang tính hiện đại, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu được nâng lên rõ rệt; cân bằng được cán cân thương mại để chuyển sang thế xuất siêu vững chắc, xuất khẩu ròng đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế.

Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu chủ yếu vào năm 2020:

- Tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đạt trên 300 tỷ USD, gấp 3,9 lần năm 2010. Việt Nam được xếp vào nhóm 20 nền kinh tế xuất khẩu hàng đầu thế giới (năm 2009 ở vị trí thứ 31).

- Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người đạt khoảng 3.100 USD, gấp khoảng 3,8 lần năm 2010 (820 USD), tương đương GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2020 (3000 – 3200 USD) và gấp khoảng 1,3 lần giá trị xuất khẩu bình quân đầu người toàn thế giới năm 2009 (khoảng 2.340 USD). Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân đầu người đạt khoảng 2.700 USD, gấp 3,6 lần năm 2010 và gấp 1,5 lần mức bình quân của thế giới năm 2009 (1840 USD). Giá trị của xuất khẩu dịch vụ bình quân đầu người đạt khoảng 410 USD vào năm 2020, gấp 5,8 lần năm 2010 (70 USD), và bằng 0,8 lần mức bình quân toàn thế giới năm 2009.

- Cân bằng được cán cân thương mại. Tỷ lệ đóng góp của xuất khẩu ròng (hàng hoá và dịch vụ) vào tăng trưởng GDP là một số dương (chỉ số này của năm 2008 là âm 68,8%).

2. Mục tiêu chủ yếu về phát triển xuất nhập khẩu

a) Về xuất khẩu

Xuất khẩu hàng hoá

Phát triển xuất khẩu hàng hoá với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP, đạt hiệu quả ngày càng cao và bền vững để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo việc làm và thu nhập, cải thiện cán cân thanh toán. Gắn phát triển xuất khẩu với bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng và tài nguyên, bảo vệ các di sản văn hoá, phát triển thương hiệu. Gắn kết chặt chẽ phát triển xuất khẩu hàng hoá với phát triển xuất khẩu dịch vụ, phát triển xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng

36

xuất khẩu để bảo đảm sự phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng qui mô xuất khẩu, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, các sản phẩm kinh tế xanh, thân thiện môi trường. Cơ cấu thị trường xuất khẩu được điều chỉnh vừa có trọng điểm vừa phân tán đề phòng tránh được rủi ro, vừa mở rộng và đa dạng hóa thị trường vừa phát triển được thị trường theo chiều sâu trên các đảm bảo chiến lược. Đa dạng hoá phương thức xuất khẩu, phương thức kinh doanh, chú trọng xuất khẩu trực tiếp gắn với phát triển dịch vụ logistics, nhất là dịch vụ vận tải và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Nâng cao sức cạnh tranh và tham gia ngày càng sâu vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong các chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển các hệ thống phân phối trực tiếp hàng Việt Nam trên các thị trường trọng điểm để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Hội nhập quốc tế, hội nhập các FTA ngày càng sâu rộng, tận dụng hiệu quả các cơ hội thị trường và các ưu đãi theo các cam kết quốc tế để gia tăng xuất khẩu, bảo đảm hội nhập thắng lợi.

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá bình quân 13,5 – 145/năm trong thời kỳ 2011 – 2020, nhanh hơn 1,7 – 1,9 lần tốc độ tăng trưởng GDP; trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng bình quân 12 – 13%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 tăng bình quân 15,5 – 16%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ khoảng 71 tỷ USD năm 2010 lên 125 – 131 tỷ USD vào đầu năm 2015 và 253 – 263 tỷ USD vào năm 2020.

Xuất khẩu dịch vụ (không bao gồm phần giá trị xuất khẩu hàng hoá tại chỗ

thông qua du lịch)

Phát triển nhanh xuất khẩu dịch vụ gắn với phát triển xuất khẩu hàng hoá, góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, cải thiện cán cân thanh toán vãng lai. Tạo ra sự đột phá trong tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ giai đoạn 2016 – 2020. Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ xuất khẩu và phương thức xuất khẩu, tăng dần tỷ trọng xuất khẩu dịch vụ theo phương thức hiện diện thương mại và di chuyển thế nhân để mở rộng kinh doanh ngoài biên giới quốc gia. Chú trọng phát triển xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ mà ta đang có lợi thế để tăng nhanh qui mô xuất khẩu dịch vụ trong ngắn hạn và trung hạn. Nâng dần được tỷ lệ nhóm sản phẩm dịch vụ giá trị gia tăng cao, dịch vụ có

37

hàm lượng trí tuệ cao trong cơ cấu dịch vụ xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ nhanh hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dịch vụ, tiến tới cân bằng được cán cân xuất – nhập khẩu dịch vụ ở những năm cuối thời kỳ chiến lược.

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ bình quân 18 – 19%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020, nhanh gấp 1,8 lần so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010; trong đó, giai đoạn 2011 – 2015 tăng trưởng bình quân 16 – 17%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 tăng trưởng bình quân 21 – 22%/năm. Giá trị xuất khẩu dịch vụ tăng từ khoảng 7 tỷ USD năm 2010 lên 15 – 15,5 tỷ USD vào năm 2015 và 40 – 42 tỷ USD vào năm 2020.

Xuất khẩu tại chỗ:

Phát triển xuất khẩu tại chỗ thông qua phát triển du lịch, gắn với phát triển thị trường trong nước, trở thành một mũi nhọn phát triển xuất khẩu của nước ta thời kỳ tới. Phát triển nhanh loại hình dịch vụ mua sắm gắn với hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá trên thị trường trong nước, gắn với các ngành nghề thủ công và các làng nghề truyền thống. Khai thác các giá trị văn hoá truyền thống để phát triển sản phẩm thủ công đa dạng, độc đáo, đặc sắc đáp ứng nhu cầu mua sắm của khách du lịch quốc tế. Phát triển thương hiệu, quảng bá sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ bán hàng cho khách du lịch quốc tế. Kết nối các chuỗi điểm du lịch quốc gia và khu vực với chuỗi mua sắm, ăn uống, nghỉ ngơi của khách du lịch quốc tế. Tăng thực thu từ du lịch thông qua tăng nhanh tỷ lệ chỉ tiêu cho mua sắm và ăn uống trong tổng chi tiêu bình quân của khách du lịch quốc tế đến Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ, tăng thu ngoại tệ. Cùng với việc kích thích tăng mức chi tiêu bình quân của một khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, cần nâng tỷ lệ chi tiêu cho mua sắm từ khoảng 16% hiện nay lên 27% (bằng Thái Lan năm 2008), tỷ lệ chi tiêu cho ăn uống từ 7% hiện nay lên 12% trong tổng chi tiêu bình quân của khách quốc tế đến Việt Nam. Giá trị xuất khẩu hàng hoá tại chỗ thông qua mua sắm và ăn uống chiếm khoảng 39% tổng chi tiêu của khách du lịch quốc tế đến Việt Nam sẽ nâng nhanh giá trị thực thu ngoại tệ của đất nước trong cơ cấu tổng doanh thu của ngành du lịch, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng và hiệu quả của ngành du lịch. Đây phải là khâu đột phá trong phát triển xuất khẩu tại chỗ thời kỳ tới để đạt giá trị xuất khẩu tại chỗ khoảng 3,5 – 4 tỷ USD vào năm 2020.

38

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tại chỗ bình quân 22 – 23%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020, nhanh gấp 1,7 lần so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tại chỗ thời kỳ 2001 – 2010; trong đó, giai đoạn 2011 – 2015 tăng trưởng bình quân 20 – 21%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 tăng bình quân 26 – 27%/năm. Giá trị xuất khẩu tại chỗ tăng từ khoảng 0,5 tỷ USD năm 2010 lên 1,2 – 1,3 tỷ USD vào năm 2015 và 3,5 – 4 tỷ USD vào năm 2020, chiếm khoảng 35 – 365 tổng doanh thu từ du lịch quốc tế đến Việt Nam.

Tổng xuất khẩu:

Tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu hàng hoá (bao gồm cả xuất khẩu tại chỗ) và dịch vụ đạt bình quân khoảng 14,5%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020; trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng bình quân 12,5 – 13,5%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 tăng bình quân 16 – 17%/năm. Tổng giá trị xuất khẩu tăng từ 78,5 tỷ USD năm 2010 lên 141 – 148 tỷ USD vào năm 2015 và 297 – 309 tỷ USD vào năm 2020, gấp khoảng 3,9 lần so với năm 2010.

b) Về nhập khẩu

Nhập khẩu hàng hoá

Giảm dần nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hoá so với tăng trưởng xuất khẩu, bảo đảm cán cân thương mại hợp lý, hạn chế nhập siêu, tạo tiền đêf chuyển sang xuất siêu vững chắc ở thời kỳ tiếp theo. Chú trọng nhập khẩu nguyên vật liệu, phụ liệu, máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng nhanh tỷ lệ nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị và công nghệ trong tổng kim ngạch nhập khẩu để tăng cường phần cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiền đề cho sự phát triển dài hạn của nền kinh tế. Giảm nhanh tỷ lệ nhập khẩu công nghệ thấp, công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường và tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên liệu. Tập trung ngoại tệ nhập khẩu công nghệ cao, tạo cơ sở cho tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Tiết kiệm, ngoại tệ trong nhập khẩu phải gắn với hạn chế tiêu dùng hàng ngoại, chỉ nhập khẩu những hàng hoá thật cần thiết mà sức sản xuất trong nước chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Giảm nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu phải đồng thời với tăng nhanh tỷ lệ nội địa hoá, phát triển nhanh công nghiệp phụ trợ, phát triển các

39

ngành sản phẩm thay thế nhập khẩu. Phải giữ được thế chủ động trong nhập khẩu, hạn chế được những tác động bất lợi của việc tham gia các FTA, thực hiện đúng các cam kết hội nhập quốc tế đối với nhập khẩu.

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hoá bình quân 11,5 – 12,5%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020, giảm 5,7 – 6,7 điểm phần trăm so với thời kỳ 2001 – 2010; trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng bình quân 12 – 13%/năm. Giai đoạn 2016 – 2020 tăng bình quân khoảng 11,5 – 12,5%/năm. Kim ngạch nhập khẩu tăng từ 83 tỷ USD năm 2010 lên 145 – 151 tỷ USD vào năm 2015 và 250 – 260 tỷ USD vào năm 2020.

Nhập khẩu dịch vụ:

Trong thời kỳ tới, thị trường dịch vụ nước ta sẽ hội nhập quốc tế sâu hơn, mở cửa nhiều hơn theo cam kết WTO và các FTA, sẽ gia tăng áp lực đối với nhập khẩu dịch vụ. Vì thế, tạo lập cán cân thu – chi dịch vụ hợp lý là chủ yếu bằng các giải pháp tăng nhanh giá trị xuất khẩu dịch vụ, hướng tới cân bằng cán cân dịch vụ vào cuối thời kỳ chiến lược. Phát triển nhanh dịch vụ Logistics, tăng thị phần của các doanh nghiệp vận tải vào bảo hiểm Việt Nam đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, tăng cường xuất khẩu theo phương thức CIF ... để tạo điều kiện giảm tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dịch vụ. Phấn đấu giảm tỷ lệ ngoại tệ chi trả nước ngoài phí vận tải và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trong tổng giá trị nhập khẩu dịch vụ từ khoảng 35 – 36% năm 2010 xuống dưới 305 vào năm 2015 và dưới 25% vào năm 2020.

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dịch vụ bình quân 16 – 17%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020, chậm hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ trong cùng thời kỳ khoảng 2 – 3%; trong đó, giai đoạn 2011 – 2015 tăng bình quân 15 – 16%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 tăng bình quân 17 – 18%/năm. Giá trị nhập khẩu tăng từ khoảng 7,5 tỷ USD năm 2010 lên 15 – 15,5 tỷ USD vào năm 2015 và 33 – 35 tỷ USD vào năm 2020.

Tổng nhập khẩu:

Tốc độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu hàng hoá và dvu đạt bình quân 12 – 12,5%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020; trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng bình quân 13,1 – 13,7%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 tăng bình quân 12,3 – 13%/năm.

40

Tổng giá trị nhập khẩu tăng từ 90,5 tỷ USD năm 2010 lên 160 – 167 tỷ USD vào năm 2015 và 283 – 295 tỷ USD vào năm 2020, gấp khoảng 3,2 lần so với năm 2010.

c) Tổng xuất nhập khẩu và cân đối xuất - nhập:

- Tốc độ tăng trưởng tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ đạt bình quân 13,1 – 13,6%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020, nhanh gấp 1,8 lần tốc độ tăng GDP; trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng bình quân 12,2 – 13,2%/năm; giai đoạn 2016 – 2020 tăng bình quân 13,9 – 14,9%/năm. Tổng giá trị xuất nhập khẩu tăng từ 169 tỷ USD năm 2010 lên 301 – 315 tỷ USD vào năm 2015 và 580 – 604 tỷ USD vào năm 2020, gấp khoảng 3,5 lần năm 2010.

- Giảm dần thâm hụt cán cân thương mại, đến năm 2015 nhập siêu bằng 155 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và đến năm 2020 đã cân bằng được xuất – nhập khẩu và có thể xuất siêu khoảng 3 tỷ USD. Đến năm 2015 cân bằng được cán cân thu – chi dịch vụ và bắt đầu có thặng dư, phấn đấu đạt giá trị thặng dư khoảng 7 tỷ USD vào năm 2020. Tổng thâm hụt thương mại giảm dần, đến năm 2015 còn khoảng 19 tỷ USD, bằng 13% tổng giá trị xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất – nhập khẩu để bắt đầu có thặng dư khoảng 14 tỷ USD, bằng khoảng 6,3% GDP.

(Đơn vị tính: Giá trị: tỷ USD; tỷ lệ: %

Chỉ tiêu TH 2010 (ước) 2015 2020

154 270 – 286 503 – 523

1. Tổng kim ngạch XNK hàng hoá

71 125 – 131 253 – 263 - KNXK (FOB)

83 145 – 151 250 – 260 - KNNK (CIF)

- 12 - 20 + 3 - Cân đối xuất - nhập

16,9% 16% xuất siêu

- Tỷ lệ nhập siêu so với KNXK

14,5 30 – 31 73 – 77

2. Tổng giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ

41

- Giá trị xuất khẩu dịch vụ 7,0 15 – 15,% 40 – 42

- Giá trị nk dịch vụ 7,5 0 33 – 35

- Cấn đối xuất - nhập - 0,5 1,2 - 1,3 + 7

0,5 301 - 315 3,5 – 4

3. Giá trị xuất nhập khẩu tại chỗ

169 580 – 604

4. Tổng xuất nhập khẩu (1+2+3)

- Tổng xuất khẩu 78,5 141 – 148 297 – 309

- Tổng nhập khẩu 90,5 160 – 167 283 – 295

- Cân đối xuất - nhập - 12 - 19 + 14

III.- MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN CHUNG ĐỂ THỰC HIỆN MỤC TIÊU

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020

- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại : Giữ vững ổn định kinh tế

vĩ mô.

- Kiềm chế lạm phát ở mức 1 con số. Bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, an ninh năng lượng và an toàn tchi quốc gia. Giảm thiểu rủi ro hối đoái. Đảm bảo tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu.

- Phát triển nàhn nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Xây dựng kết cấu hat đồng bộ và từng bước hiện đại phát triển nhanh dịch

vụ logistics với dịch vụ bảo hiểm hàng hoá XNK

- Có chính sách đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ. Thu hút dòng vốn FDI quay

trở lại đầu tư vào công nghiệp chế biến chế tạo hàng xuất khẩu.

- Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nâng cao sức cạnh tranh ở cả 3 cấp độ:

Sản phẩm , doanh nghiệp và toàn nền kinh tế.

- Cải cách hành chính để giảm chi phí xuất khẩu.

42

- Đàm phán ký kết được một số FTA với các đối tác lớn, có công nghệ cao để làm điểm tựa xoay chuyển tương quan lợi ích của ta với các đối tác khác (ví dụ như ký TPP, FTA song phương với Hoa Kỳ, EU, LB Nga ...).

- Cấu trúc lại nền kinh tế một cách nhanh chóng, hiệu quả. Chống độc

quyền để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng.

- Thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc tăng cường khả năng tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu ở các khâu có giá trị gia tăng cao. Tham gia sâu vào các mạng sản xuất và phân phối khu vực, toàn cầu.

- Tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ phải cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP

để tạo nguồn sản phẩm xuất khẩu.

- Nâng cao được hiệu quả đầu tư, giảm tỷ lệ tiêu dùng nhất là tiêu dùng

hàng ngoại. Kiểm soát được luồng ngoại tệ vào và ra.

43