NHỮNG BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG

HÀNH TRÌNH THƠ HÀN MẶC TỬ

Đặng Thị Ngọc Phượng

Trường THCS Nguyễn Tri Phương,Huế

"Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi

xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình"

(Chế Lan Viên)

Có thể nói rằng từ năm 1932 đến năm 1945 là thời kỳ hoàng kim, thời kỳ

ánh sáng của văn học Việt Nam nhất là trong lĩnh vực thi ca. Với một thời gian

ngắn ngủi hơn 10 năm, thi ca Việt Nam đã làm trọn một chuyến đi kéo dài 100

năm của thi ca Pháp. Mặc dù ai cũng biết Thơ Mới đã chịu ảnh hưởng của

phương Tây, nhất là nước Pháp rất nhiều.

Các nhà thơ Việt Nam ở thời kỳ này mỗi người một phong cách đều tìm

cho mình một mảnh vườn sáng tạo để gieo trồng và gặt lấy những hoa trái riêng.

Song chỉ một mình Hàn Mặc Tử là hiện tượng duy nhất. Ở giai đoạn cổ điển, ông

có Lệ Thanh thi tập, sang giai đoạn lãng mạn ông có Gái quê, đến tượng trưng

và siêu thực ông có Đau thương và một phần Xuân như ý. Giai đoạn sau cùng,

ông lại quay về cổ điển nhưng là tân cổ điển, ông có Thượng Thanh khí và

Cẩm châu duyên. Có thể nói, thơ ông là một hành trình nghệ thuật khép kín

49

giống như một vòng tròn. Cuối vòng tròn lại gặp điểm xuất phát nhưng nghệ

thuật của ông ở giai đoạn tân cổ điển này có các chiều kích cao hơn, xa hơn, rộng

hơn và sâu hơn.

Cuộc sống của nhà thơ là một cuộc vật lộn suốt đời với bệnh tật hiểm

nghèo, dai dẳng, bất phân thắng bại. Sự đau thương về bệnh tật đã đày đọa nhà

thơ lên đến tột đỉnh, tưởng như tất cả nỗi khổ của thế gian hội tụ đầy đủ để trút

ngập lên một thi mệnh thiên tài mỏng manh yếu ớt và yểu mệnh, nhưng cũng để

từ đó chói sáng những vần thơ quằn quại đớn đau mà biểu tượng rực rỡ nhất là:

Trăng, Hồn và Máu.

Thơ của Hàn Mặc Tử đã và sẽ còn mãi mãi là nỗi ám ảnh sâu sắc đến

người đọc nhiều thế hệ, bởi ma lực của "nghệ thuật ẩn dụ". Hình ảnh thơ độc

đáo, ngôn từ vắt ra từ xương thịt máu huyết và tim óc đưa công chúng chiêm

ngưỡng từ một ngôi đền huyền bí đến một tòa thánh chói lòa siêu thực đầy những

cảm giác đê mê và rùng rợn. Đây là một thế giới tâm linh ngổn ngang giống như

một bản "Đại hợp xướng" có đủ các âm sắc cung bậc tạo nên một phong cách

độc đáo. Đường nét kiến trúc trong thơ ông, tòa bảo tháp của thơ ông xây dựng

bằng những khát vọng từ thân xác, trái tim, trí tuệ. Từ những cảm xúc vô thức

sâu thẳm, tâm linh ông đã đạt đến đỉnh cao nhất của tự do sáng tạo, để lại cho đời

những kiệt tác bất hủ. Người chưa hiểu ông, chưa hiểu thơ ông tưởng là ông điên.

Nếu là ông điên thật thì đây là Người Điên phải được kính trọng. Một- Người-

Điên- Phi- Thường.

Biểu tượng Trăng, Hồn và Máu thường xuyên xuất hiện trong các tập thơ

của ông nhất là Trăng mà ta luôn bắt gặp sự phóng chiếu của nó ở nhiều góc độ.

Ông đã độc chiếm nàng Trăng của thế giới thi ca làm chất liệu không gì thay thế

cho những cảm xúc sáng tạo nghệ thuật ở cấp độ cao nhất.

50

Tất cả các nhà thơ từ cổ chí kim kể cả các nhà Thơ Mới ai chẳng dùng

hình ảnh trăng là đối tượng miêu tả, biến nó thành thi hứng nhưng có lẽ nhiều

nhất là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử. Có điều trăng trong thơ Xuân Diệu chỉ là:

"Trăng vừa đủ sáng để gây mơ", để mời gọi: "Hương đêm say dậy với trăng

rằm" và trong những đêm "Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời", gợi cho thi nhân

những hoài niệm "Tầm Dương" có "một vừng trăng trong vắt lòng sông", "lạnh

lẽo suốt xương da". Ngay cả trong bài thơ Trăng mà đương thời Xuân Diệu rất

tự hào coi đó là đỉnh cao của nghệ thuật tu từ mở đầu bằng hai câu:

Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá

Ánh sáng tuôn đầy các lối đi

Hoặc: Bâng khuâng chân tiếc dậm lên vàng

Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang

cũng chỉ gây được một cảm giác bâng khuâng nhẹ nhàng cho người đọc. Hai câu

thơ hay nhất của bài thơ này: "Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá! Hai người

nhưng chẳng bớt bơ vơ" thì hiệu quả được đẩy lên cao hơn. Đúng là trăng trong

thơ Xuân Diệu chỉ là "vừa đủ sáng" để sương gió "nương theo". Dù nó có "lạnh

buốt", dù nó có "nhập vào dây cung nguyệt lạn" hoặc "Sao vàng lẻ một trăng

riêng chiếc" để thi nhân có thể "Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh" nó

cũng không gây được ngạc nhiên hoặc cảm giác mãnh liệt cho người đọc. Biểu

tượng nàng Trăng của Xuân Diệu nặng về phong cách lãng mạn, trực tiếp miêu

tả đối tượng để bày tỏ ý nghĩ nội tâm mang nhiều cảm xúc hơn là cảm giác.

Ngược lại, vị giáo chủ của Thánh đường thơ Trăng Hàn Mặc Tử đưa

chúng ta vào bầu trời đầy ấn tượng bằng "gợi cảm chứ không phải truyền cảm"

[1, 215] với một trường liên tưởng kỳ diệu: lúc sợ sệt, lúc kinh ngạc và choáng 51

ngợp mê man trước những hình ảnh dị thường. Ngay từ giai đoạn đầu tiên mới

làm thơ ở Lệ Thanh thi tập, Hàn Mặc Tử đã loé lên những tia sáng khác lạ

khiến mọi người phải ngỡ ngàng:"Hé cửa nhìn trăng, trăng tái mặt" hay "Bóng

nguyệt leo song sờ sẫm gối" và:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi

Hoa lá ngây tình không muốn động

Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.

(Bẽn lẽn)

Ở đây, thi sĩ đã đưa bản năng rạo rực khát khao của mình ra ngoài vũ trụ

và đã nhận thức mình là một bộ phận của nó. Hàn Mặc Tử đã xây dựng cho ông

một thế giới thơ riêng khi ông hòa tan vào thiên nhiên vui buồn, đau khổ, cuồng

nộ và bạo liệt như tính chất thất thường dữ dội của nó. "Ánh trăng mỏng quá che

không nổi/ Những vẻ xanh xao của mặt hồ" (Huyền ảo), dường như vũ trụ bao la

vẫn còn chật không đủ chỗ cho tiềm thức của ông du ngoạn, không che chở nổi

những trống trải cô đơn ghê sợ của tâm linh. Sau này khi tiến xa hơn thì thơ ông

hoàn toàn là một thế giới siêu thực mênh mông huyền ảo: "Sao bông phượng nở

trong màu huyết /Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu" (Mật đắng) để đến nỗi

"Tiếng hú hồn tôi xô vỡ sóng". Trong các nhà Thơ Mới chỉ mình ông đi liền một

mạch từ lãng mạn đến siêu thực. Sống trong nghèo khổ bệnh tật, ông luôn phân

thân, hoang tưởng mà tư duy nghệ thuật là một trường mộng mị dài dằng dặc đến

cuối cuộc đời. Thơ ông là một thứ Kinh thánh thấm đẫm tinh thần tôn giáo, thăm

thẳm lời cầu nguyện đến vĩnh hằng và thượng đế.

52

Cuộc sống của ông là cuộc sống của Trăng: "Ngả nghiêng đồi cao bọc

trăng ngủ /Đầy mình lốm đốm những hào quang" (Ngủ với trăng) với màu sắc

Liêu trai lúc nào cũng "Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm" để bay lên "Nguyệt

thềm" cùng tôn giáo của riêng ông. Ông chứng kiến "Trăng nằm sóng soãi trên

cành liễu", chứng kiến sự hồi hộp khát khao của chị Hằng hay của chính mình:

"Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe"(Bẽn lẽn)

rồi cùng "Trăng xuân tràn trề say chới với" để lại cái ánh sáng ma quái ghê rợn

"lờn lợt" như kim đâm nhoi nhói vào trái tim người đọc. Mối quan hệ đặc biệt

giữa trăng và nhà thơ nhất là một người mang bệnh phong ác hiểm mà thời bấy

giờ vô phương cứu chữa do trình độ y học hay đó là định mệnh đã đóng đinh lên

số phận nghiệt ngã để chúng ta có một nhà thơ quái kiệt đau thương. "Người

trăng ăn vận toàn trăng cả" dù đói nghèo, dù rách rưới, dù "Gió trăng sẵn có

làm sao ăn?" kể cả nỗi khổ của sinh nhai tưởng chừng đã lên tới đỉnh điểm

nhưng sự nghèo đói của ông không phải là nghèo đói bình thường, nó là một thứ

cao sang thanh khiết ở cõi tinh thần.

"Trăng, ánh trăng đã để lại những cảm giác vật chất lên thân xác Hàn

Mặc Tử" [1, 229]. Đúng vậy,cảm giác vật chất hữu cơ của ánh trăng đè nặng lên

thân xác ông, cuộc đời ông, khác với Xuân Diệu khi nhà thơ này thi vị hóa nó thì

ông trần tục hóa nó vì nó biết "Leo song sờ sẫm gối" nó"sóng soãi "lơi lả mơn

trớn vuốt ve, nó trần truồng để "Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe", dù "mới lớn

lên" nó đã biết "thẹn thò" và "thơm như tình ái". Vầng trăng của thơ ông mang

tính hai mặt: vừa vật chất, vừa tinh thần, vừa trần tục lại vừa thiêng liêng."Hàn

Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra,

và rú lên những tiếng ghê người"[2, 204]. Ông không thể thoát ra khỏi sự ám ảnh

ghê gớm của nó, lúc nó tối tăm, lúc nó chói lòa như hai mặt đối lập của Thiên

đường và Địa ngục. Trong một "Không gian dầy đặc toàn trăng cả/Tôi cũng

trăng mà nàng cũng trăng" (Huyền ảo), ông mặc quần áo bằng một thứ vải

53

trăng, ông ăn trăng, ông uống trăng, ông nuốt trăng, ngậm trăng rồi giao hoan

cùng nó, hóa thân vào nó:

Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa

Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

(Say trăng)

Trăng ở đây cũng chính là Hồn và Máu của thi nhân. Hàn Mặc Tử sống

với những cơn đau triền miên khủng khiếp "sượng sần tê điếng", ''Tôi đau vì

rùng rợn đến vô biên", không ai chia sẻ một nỗi đau bệnh hoạn và cô độc kể cả

Thượng đế. Nhiều lúc nhà thơ muốn: "Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng

êm/Cho trăng ngập đần lên tới ngực" (Hồn là ai). Thơ ông là những dòng đầy

máu lệ, đầy tiếng thác gào của một cơn thác nước mắt trong suốt tuôn vào gió

bụi. Bệnh tật đã khiến cơ thể ông hao mòn suy nhược nhưng ngược lại nó cũng

khơi ngòi cho ông một nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên. Ở ông, đau thương

đồng nghĩa với sáng tạo. Ông dùng nó làm một phương tiện cứu rỗi, ông đưa nó

lên cung bậc cao nhất của nghệ thuật:

Cứ để ta ngất ngư trên vũng huyết

Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh

Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết

Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh.

54

(Rướm máu)

Ngôn từ ông sử dụng nằm cạnh nhau đã đẩy giá trị của chúng thành châu

ngọc vô giá. Hồn và Máu trong thơ ông đã thăng hoa thành hương thơm nghi

ngút linh thiêng kết tụ ở tập Đau thương như là một tập thơ hay nhất trong sự

nghiệp của ông. Cái ước nguyện sáng tạo của ông dữ dội và mãnh liệt: "Ta muốn

hồn trào ra đầu ngọn bút/Mỗi lời thơ đều dính não cân ta/ Bao nét chữ quay

cuồng như máu vọt/Như mê man tê điếng cả làn da" (Rướm máu). Có vẻ như

bệnh hoạn, có vẻ như điên rồ, nhà thơ tràn đầy khoái cảm đến cực độ khi thấy

máu mình chảy, tim óc mình vỡ văng ra khỏi cơ thể để đau thương được tan vào

vũ trụ và tinh tú nhật nguyệt đều chiếu lên không trung cái màu đỏ ghê sợ ấy:

"Bao giờ mặt nhật tan thành máu" để "khối lòng", "niềm yêu", "ý nhớ" cũng

"Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn" giữa một vùng không gian bao la toàn

máu!

Càng về cuối đời, thơ ông càng tha thiết, thanh thoát, an nhiên, chấp nhận,

không còn chất gào thét điên cuồng dữ dội như đã trút hết cơn "lâm lụy" nơi trần

thế, dọn sạch mình để chuẩn bị đi vào cõi vĩnh hằng viên mãn một vườn Xuân

như ý, Cầu nguyện để lại "ra đời" làm một Á Thánh cưỡi "Phượng hoàng bay

trong một tối trăng sao" (Đêm xuân cầu nguyện), tận hưởng phúc lạc của Mùa

xuân hôn phối:

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả

Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng

Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng

(Thánh nữ đồng trinh Maria)

55

rồi "cảm động rưng rưng hai hàng lệ" vì biết ơn đấng tối cao, Đức mẹ và "các vị

rất thánh" đã "giàu đức, giàu muôn hộc từ bi" để nhà thơ vui vẻ "hớp bao nhiêu

khí vị" bởi "Trong miệng ngậm câu ca thần bí /Và trong tay nắm một nạm hào

quang/Tôi no rồi, ơn võ lộ hòa chan" (Thánh nữ đồng trinh Maria). Thi nhân

đã coi mình là một "Thánh thể kết tinh" đã tìm thấy nơi mình đến nên ông đã

thành kính "Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp/Khói nghiêm trang sẽ dâng lên

tràn ngập/Cả hàn gian, cả màu sắc thiên không" rồi "đê mê nguyền ước":

Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước

Cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm

Thơ trong trắng như một khối băng tâm

Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu

(Thánh nữ đồng trinh Maria)

Như vậy, Trăng, Hồn và Máu đã trở thành biểu tượng nghệ thuật bất

biến, thường trực và xuyên suốt trong thơ Hàn Mặc Tử. Từ lúc bắt đầu làm thơ

cho đến những ngày cuối đời ông, biểu tượng này đã theo ông bay lên "Trên

thiên triều ngời chói vạn hào quang".

Trong cuộc đời 28 năm ngắn ngủi, chỉ 12 năm đi với nàng thơ nhưng Hàn

Mặc Tử đã đưa được nàng thơ lên đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật. So với những

thi sĩ cùng thời, ông đã trở thành ngọn núi khổng lồ cao sừng sững trên bầu trời

rực rỡ của thi ca và để lại cho đời những kiệt tác rung động lòng người. Tiếc

thay! Tài cao không sống lâu! Nhưng sống như ông, sáng tạo như ông thì chỉ có

ông mới có một sự nghiệp phi thường để hậu thế muôn đời sau luôn kinh ngạc,

ngưỡng mộ và kính phục. Hàn Mặc Tử chính là niềm tự hào của nền văn học

56

Việt Nam - một Thánh Thi với cái tên là Bất Tử chói sáng hào quang trên bảng

Phong Trần.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Lai Thúy. Mắt thơ, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội (2000).

2. Hoài Thanh, Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội (TB

2000).

3. Lại Nguyên Ân (tập hợp và biên soạn). Thơ Mới 1932 - 1945 tác giả và

tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội (1998).

THE ARTISTIC SYMBOLS IN THE JOURNEY

OF POEMS OF HAN MAC TU

Dang Thi Ngoc Phuong

The Secondary School of Nguyen Tri Phuong, Hue

SUMMARY

While fighting against the serious disease which caused painful impacts

upon his short but talented poetic fate,Han Mac Tu wrote dazzling painful poems 57

with the most glorious artistic symbols: Moon, Soul and Blood that profoundly

obsess the readers. The disease eroded his body but at the same time created

endless inspiration for him. To him, pain meant creativity.

Moon, Soul and Blood were the permanent and unchangeable artistic

symbols of Han Mac Tu's poems. From the day, he wrote the first poems till the

end of his life, the symbols flew with him up to the peak of art.

58