TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 53, 2009
VỀ SỰ PHÂN BỐ CÁC PHỨC HỆ ĐÁ MAGMA KHU VỰC THỪA THIÊN HUẾ VÀ KHOÁNG SẢN LIÊN QUAN
Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thị Thuỷ, Trần Thanh Nhàn Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
TÓM TẮT
Các thành tạo đá magma xâm nhập khu vực Thừa Thiên Huế phong phú và đa dạng về thành phần thạch học, từ siêu mafic cho đến axit, chúng phân bố thành từng khu vực riêng biệt với tổng diện tích khoảng 400km2, bao gồm các phức hệ Núi Ngọc, Điệng Bông, Đại Lộc, Quế Sơn, Chà Vằn, Hải Vân và Bà Nà. Các thành tạo này không chỉ có ý nghĩa về địa chất, mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà. Bài báo mô tả sự phân bố các phức hệ đá magma xâm nhập khu vực Thừa Thiên Huế trên cơ sở tổng hợp bản đồ địa chất 1:200.000 kết hợp với các mô tả của bản đồ địa chất 1:50.000 và các tài liệu khảo sát thực địa bổ sung.
I. Mở đầu
Nghiên cứu các thành tạo đá magma xâm nhập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế không chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu địa chất, mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà như nguồn tài nguyên để sản xuất đá ốp lát, vật liệu xây dựng,... Các hoạt động nghiên cứu tìm kiếm hiện nay chủ yếu dựa vào bản đồ địa chất tỷ lệ 1:200.000, trong đó một số thành tạo đá magma với kích thước nhỏ không được thể hiện. Chính vì vậy, để có cơ sở cho việc nghiên cứu về sự phân bố các thành tạo đá magma trên địa bàn Thừa Thiên Huế một cách đầy đủ, bài báo này đã kết hợp cả hai tỷ lệ bản đồ 1:200.000 và 1:50.000 để mô tả sự phân bố các đá magma, phục vụ công tác tìm kiếm tài nguyên cũng như đáp ứng nhu cầu về sự phát triển kinh tế trên địa bàn.
89
Các thành tạo đá magma xâm nhập khu vực Thừa Thiên Huế rất phong phú và đa dạng, chiếm tổng diện tích khoảng 400 km2, bao gồm các phức hệ Núi Ngọc, Điệng Bông, Đại Lộc, Quế Sơn, Chà Văn, Hải Vân, Bà Nà và các thành tạo đá mạch khác. Các thành tạo này phân bố rải rác trên khu vực nghiên cứu với diện lộ khác nhau. Để có cách nhìn toàn diện về đặc điểm địa chất, khoáng sản của khu vực, đặc biệt là đối với các thành tạo đá magma này cần phải khái quát đặc điểm phân bố của các phức hệ đá magma trên địa bàn để đảm bảo cho việc khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên này một cách hiệu quả.
II. Đặc điểm sự phân bố và thạch học của các phức hệ đá magma khu vực Thừa Thiên Huế
2.1. Phức hệ Núi Ngọc (Gb PZ1 nn) 2.1.1. Đặc điểm phân bố: Phức hệ Núi Ngọc do Nguyễn Đức Thắng và nnk (1992) xác lập để mô tả các đá gabro, gabrodiabas bị lục hóa có liên quan chặt chẽ với các đá metabazan hệ tầng Núi Vú, phân bố rộng rãi ở Đức Phú, Sông Tranh, Núi Ngọc, Đaksa thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam. Trong phạm vi nghiên cứu, các thành tạo này gồm các thể nhỏ đá gabro, gabrodiabas, diabas lộ ra ở khu vực A Pey, A Dang, Nhâm thuộc đới A Vương ở phía Tây Nam khu vực Thừa Thiên Huế. Các thể xâm nhập này đều có dạng thấu kính, với chiều rộng khoảng 2 m đến hơn 100 m, chúng có dạng kéo dài theo phương TB-ĐN khoảng 100-200 m, trùng với phương cấu trúc của đá vây quanh và có quan hệ chặt chẽ về nguồn gốc với các đá metabasalt thuộc hệ tầng Núi Vú [1], [4] (Hình 1).
2.1.2. Đặc điểm thạch học: Phức hệ Núi Ngọc bao gồm các đá gabro,
gabrodiabas và đá diabas.
* Gabro: Các đá gabro chiếm tỷ lệ nhỏ, có màu xanh lục, xanh sẫm, xanh đen, hầu hết bị biến đổi mạnh, ngoài ra còn quan sát thấy các hạt khoáng vật màu có dạng kim, que màu xanh đen sắp xếp định hướng theo một phương, tạo nên đá có cấu tạo phiến.
* Gabrodiabas: Đá gabrodiabas chiếm tỷ lệ nhỏ, có màu xanh, xanh đen, hạt
nhỏ đến mịn và chúng có cấu tạo phiến, ít khi gặp cấu tạo khối.
* Diabas: Diabas là thành phần chính của phức hệ, đá có màu xám sẫm, xanh đen, hạt mịn. Diabas thường tạo thành những thân xâm nhập có kích thước nhỏ khoảng một vài mét đến vài chục mét. Đá có cấu tạo phiến, hiếm khi có cấu tạo khối và phần lớn chúng bị biến đổi mạnh.
Hình 1. Sơ đồ phân bố các khối đá magma thuộc phức hệ Núi Ngọc (Gb PZ1 nn) và phức hệ Đại Lộc (G/aD1 đl) 90
2.2. Phức hệ Điệng Bông (G PZ1 đb)
2.2.1. Đặc điểm phân bố
Thành tạo magma phức hệ Điệng Bông trong khu vực nghiên cứu chỉ phân bố trên đới A Vương, là phần nối tiếp thân xâm nhập kéo dài từ tây TB–ĐN, xuất hiện trong các trầm tích phun trào bị biến chất hệ tầng Núi Vú ở khu vực A Lưới. Đặc trưng cho phức hệ là tập hợp các thể xâm nhập nhỏ kéo dài theo phương cấu trúc TB-ĐN, chiều rộng 1–2 m đến 20 m, đôi khi đến 200 m, chiều dài quan sát được từ 100–200 đến hơn 1 km. Các đá của phức hệ này xuyên khá chỉnh hợp với các trầm tích phun trào hệ tầng Núi Vú tạo nên đới biến đổi hẹp ở ranh giới tiếp xúc [1] (Hình 2).
Hình 2. Sơ đồ phân bố các khối đá magma thuộc phức hệ Điệng Bông (G PZ1 đb)
2.2.2. Đặc điểm thạch học
Phức hệ Điệng Bông gồm các đá plagiogranit, plagiogranit biotit, diorit thạch anh– biotit, granit.
* Plagiogranit, plagiogranit biotit: Các đá này là thành phần chủ yếu của phức
hệ. Đá sáng màu, thường bị ép yếu, cấu tạo định hướng hoặc khối.
* Diorit thạch anh–biotit: chiếm tỷ lệ nhỏ, các đá này thường bị ép yếu tạo nên
cấu tạo định hướng hoặc cấu tạo khối.
91
* Granit: Granit chiếm khối lượng không đáng kể trong phức hệ, có khi gặp những khối nhỏ riêng biệt dạng kéo dài. Đá rất sáng màu và bị ép yếu, cấu tạo định hướng.
2.3. Phức hệ Đại Lộc (G/aD1 đl)
2.3.1. Đặc điểm phân bố
Phức hệ Đại Lộc do Nguyễn Văn Trang và nnk (1985) xác lập, chúng phân bố ở phía nam đứt gãy Đakrong–A Lưới, kéo dài không đều theo phương TB–ĐN, trùng với phương cấu trúc của đới A Vương, chiều rộng khối thay đổi từ 2–3 km, kéo dài khoảng 15 km (Hình 1). Các đá xuyên cắt khá chỉnh hợp lên các trầm tích lục nguyên hệ tầng A Vương, đới biến chất tiếp xúc rộng vài trăm mét, có khi hàng kilomet và có tính phân đới.
Cấu thành nên khối đá này gồm có pha 1 là đá granit biotit dạng gneis hạt vừa đến lớn, granit–biotit hạt nhỏ, granit biotit có muscovit bị cà ép có dạng dải, tonalit và pha đá mạch (pha 2): gồm đá pegmatit và granit aplit [1], [4], [5].
2.3.2. Đặc điểm thạch học
Thành tạo magma phức hệ Đại Lộc bao gồm các đá: Granit biotit, granit biotit có muscovit, granit hai mica, tonalit, aplit.
* Granit biotit: là thành phần chủ yếu của khối, đá sáng màu, phần trung tâm khối bị cà nát, milonit hóa mạnh, do vậy các khoáng vật thạch anh, fenspat bị biến dạng, nghiền nát, vỡ vụn thành tập hợp hạt nhỏ, vi hạt. Đá có cấu tạo gneis hoặc cấu tạo định hướng, có chỗ có cấu tạo phân dải (hình 3a).
* Granit biotit có muscovit, Granit hai mica: chiếm tỷ lệ nhỏ, thường gặp ở phần rìa khối, chúng cũng bị cà nát, milonit hóa mạnh mẽ làm cho đá có cấu tạo phân dải, uốn lượn, tuy nhiên vẫn còn sót lại những thể nhỏ ít bị cà nát hơn nên vẫn giữ được kiến trúc porphyr.
* Tonalit: thường phân bố ở phần rìa khối gần sát ranh giới tiếp xúc với các đá trầm tích. Đá có màu xám nhạt bị cà nát, milonit hóa dạng phân dải bởi sự xen kẽ giữa những khoáng vật màu và sáng màu.
* Aplit: thường tạo thành đai mạch có kích thước một vài mét, đôi khi đến hàng
chục mét, đá hạt nhỏ đều (Hình 3b).
a.
b. Hình 3. Các đá magma phức hệ Đại Lộc: a. Đá granit biotit; b. Đá mạch aplit 92
2.4. Phức hệ Quế Sơn (Di–GDi–G PZ3 bg-qs)
2.4.1. Đặc điểm phân bố
Phức hệ Quế Sơn do Nguyễn Văn Trang và nnk (1985) xác lập khi đo vẽ bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 nhóm tờ Huế - Quảng Ngãi. Theo Phạm Huy Thông và nnk (1997) (Bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Huế) ở khu vực Thừa Thiên Huế phức hệ này có các khối Ca Puy, Khe Điền, khối La Sam, Khe Thai… Chúng gồm 3 pha xâm nhập và pha đá mạch, với thành phần thay đổi từ diorit thạch anh (pha 1), granodiorit (pha 2), granit (pha 3) đến các đai mạch aplit (pha đá mạch).
Các thành tạo này phân bố ở tây nam thành phố Huế, là phần kéo dài lên phía bắc của động Cù Mông ở Nam Đông. Khối có dạng kéo dài theo phương bắc–nam dọc đứt gãy Khe Điền. Chiều rộng khoảng 4–6 km, chiều dài khoảng 15 km. Khối Khe Điền được cấu thành từ diorit hocblend–biotit (pha 1), granodiorit (pha 2) và granit biotit, granit biotit có hocblend (pha 3)…[1], [4], [5] (Hình 4).
Hình 4. Sơ đồ phân bố các khối đá magma thuộc phức hệ Quế Sơn (Di–Gdi–G PZ3 bg-qs)
2.4.2. Đặc điểm thạch học
* Diorit hocblend –biotit thuộc pha 1 của phức hệ, gặp lộ rải rác trong khối, ranh giới khó phân biệt với - granodiorit. Đá hạt nhỏ dạng porphyr, màu xám, xám xanh, ở các đới cà nát dọc đứt gãy chúng thường bị clorit hóa, antinolit hóa có màu xanh lục.
93
* Granodiorit: chiếm khối lượng lớn của phức hệ bao gồm granodiorit biotit và granodiorit hocblend–biotit. Đá có màu xám đến xám sáng, hạt nhỏ –vừa, ít khi có hạt lớn, phần rìa khối gặp kiến trúc dạng porphyr, hầu hết các đá có cấu tạo khối, tuy nhiên có các đá phát triển dọc theo các đứt gãy thì bị cà ép có dạng gneis (Hình 5b).
a. b.
Hình 5. Các đá magma phức hệ Quế Sơn: a. Điểm lộ mỏ; b. Granodiorit (pha 2)
* Granit biotit, granit biotit hocblend (pha 3): phân bố dưới dạng những chỏm nhỏ có kích thước từ 100 đến 1000–2000m. Tại Thượng Hùng, granit biotit, granit biotit gocblend chứa các bon tinh fenspat màu hồng lộ thành khối độc lập chạy dọc theo đứt gãy Tà Lao–Huế khoảng 6 km. Đá hạt nhỏ, nhỏ đến vừa, màu xám sáng, xám phớt hồng.
2.5. Phức hệ Chà Vằn (Gb/aT3 cv)
2.5.1. Đặc điểm phân bố
Phức hệ Chà Vằn phân bố thành một vòng cung bao quanh khối granit Bạch Mã thuộc phức hệ Hải Vân, ngoài ra chúng còn lộ một vài nơi khác với diện tích nhỏ như ở Lộc Điền, dọc sông Tả Trạch và bắc Nam Đông (khu vực xã Hường Hữu) (Hình 6). Trong đó, khối Chà Vằn (Phú Lộc) được xem là khối chuẩn của phức hệ. Tại mỏ Lộc Điền (Phú Lộc) thường gặp các tàng lăn gabro pyroxenit bị phủ bởi các thành tạo cuội, cát sét, các sản phẩm phong hóa… Dưới lớp phủ là đá gốc màu xanh đen đến đen tuyền, cấu tạo khối rắn chắc, hạt lớn.
Hình 6. Sơ đồ phân bố các khối đá magma gabro phức hệ Chà Vằn (Gb/aT3 cv) và khối đá magma granit phức hệ Hải Vân (G/aT3 hv)
94
2.5.2. Đặc điểm thạch học
Thành phần thạch học của phức hệ Chà Vằn gồm đá gabro, gabro-pyroxenit (Hình 7a).
a. Phức hệ Chà Vằn
b. Granit biotit Phức hệ Hải Vân
Hình 7. Các thành tạo đá magma
* Gabro: chiếm phần lớn trong khối, cấu tạo khối, hạt vừa đến thô, đá có màu
xanh đen đến đen.
* Gabro pyroxenit: chiếm tỷ lệ nhỏ trong khối, đá có màu xanh đen đến xám tro,
đá có cấu tạo khối, dạng hạt vừa đến lớn, các tinh thể pyroxen sắp xếp rất rõ ràng.
2.6. Phức hệ Hải Vân (G/aT3 hv) 2.6.1. Đặc điểm phân bố
Các thành tạo đá magma xâm nhập phức hệ Hải Vân trong khu vực nghiên cứu xuất hiện ở các khối Sông Trăng, Tion, Bình Điền và khu vực ven biển Phú Lộc, trong đó khối ở khu vực Phú Lộc là đặc trưng nhất, với tổng diện tích khoảng 120 km2. Cấu thành nên phức hệ có pha xâm nhập chính bao gồm đá granit biotit, granit hai mica, granodiorit và pha đá mạch aplit sáng màu hạt nhỏ [3] (Hình 6).
2.6.2. Đặc điểm thạch học
Phức hệ Hải vân bao gồm các đá sau: Granit biotit, granit hai mica, granodiorit... * Granit biotit: là thành phần chính của phức hệ có mặt trong hầu hết các khối, đá hạt vừa - nhỏ, hạt vừa - lớn thì ít gặp hơn. Các đá magma phân bố ở các khối Bình Điền, Tion, Sông Trăng thì sáng màu hơn đá ở khối Phú Lộc. Trong các khối này phần lớn các đá bị cà nát mạnh mẽ trạo nên đá có cấu tạo gneis, hầu hết các khoáng vật thạch anh, fenspat bị cà nát vỡ vụn, biotit bị xé nhỏ thành từng sợi kéo dài (Hình 7b).
* Granit hai mica: chiếm khối lượng không nhiều trong các khối, đá sáng màu,
thường có cấu tạo khối, hạt nhỏ.
95
* Granodiorit: chỉ gặp ở phần rìa thuộc đới đá bị hỗn nhiễm trong khối Phú Lộc. Đá hạt nhỏ đến vừa, màu xám sẫm có hàm lượng plagioclas và biotit cao hơn hẳn so với các đá khác, nhưng hàm lượng khoáng vật fenspat kali lại giảm một cách đáng kể.
2.7. Phức hệ Bà Nà (G/K2-E bn)
2.7.1. Đặc điểm phân bố
Trong phạm vi khu vực nghiên cứu, phức hệ Bà Nà xuất hiện ở các khối Bến Tuần, Sông Bồ, Corperlai và một vài khối nhỏ ở khu vực Sông Trăng, trong đó khối đá ở khu vực Bến Tuần là đặc trưng nhất cho phức hệ nó nằm ở bờ trái sông Hương, khu vực gần ngã ba sông Tả Trạch - Hữu Trạch với diện tích khoảng 17 km2 (Hình 8). Các khối đều có dạng đẳng thước, kích thước từ <1 km2 đến 25 - 30 km2. Phức hệ bao gồm một pha xâm nhập và một pha đá mạch. Pha xâm nhập gồm chủ yếu là đá granit biotit, granit biotit có muscovit, granit hai mica, granodiorit, tonalit. Pha đá mạch chủ yếu là các đá mạch aplit hạt nhỏ sáng màu, pecmatit thạch anh turmalin…
Hình 8. Sơ đồ phân bố các khối đá magma thuộc phức hệ Bà Nà (G/K2-E bn)
2.7.2. Đặc điểm thạch học
* Granit biotit: bao gồm granit biotit hạt nhỏ - vừa và granit biotit hạt vừa - lớn, dạng porphyr. Trong các khối ở Bến Tuần và Sông Bồ, granit hạt nhỏ - vừa chiếm ưu thế. Đá có màu xám sáng, thường có dạng porphyr hoặc porphyr yếu với ban tinh là fenspat kali trắng đục, thạch anh màu ám khói.
* Granit biotit có muscovit, granit hai mica: chiếm khối lượng không nhiều, gặp chủ yếu ở phần vòm khối Corperlai, rìa khối Bến Tuần, Sông Bồ. Đá chủ yếu là hạt nhỏ đôi chỗ gặp kiến trúc granophyr.
96
* Granodiorit: chiếm khối lượng không đáng kể, thường phân bố ở phần rìa khối hoặc nằm gần tiếp xúc với các đá trầm tích. Đá có màu xám trắng, phớt xanh, hạt nhỏ đến vừa.
* Tonalit: chỉ gặp rất ít ở khối Sông Bồ, Corperlai tiếp xúc trực tiếp với đá trầm
tích. Đá hạt nhỏ màu xám, xám xanh.
* Aplit: tạo thành những đai mạch nhỏ, kích thước vài chục xentimet đến vài
chục mét. Đá có màu trắng hạt mịn.
a. Granit biotit
b. Granit aplit
Hình 9. Các thành tạo đá magma phức hệ Bà Nà
III. Các loại hình khoáng sản liên quan
Khu vực Thừa Thiên Huế rất đa dạng về nguồn tài nguyên khoáng sản, từ khoáng sản quý cho đến vật liệu xây dựng phân bố rải khắp trên địa bàn với các ý nghĩa khác nhau.
* Đối với phức hệ Núi Ngọc (Gb PZ1 nn): thuộc diện lộ các đá metagabro– mertabazan nói trên đã phát hiện được các dấu hiệu về vàng nằm trong các đới biến đổi thạch anh hóa, canxit hóa. Tại khu vực A Pey, A Dang thuộc diện lộ phức hệ đã tiến hành tìm kiếm và đánh giá khoáng sản vàng–bạc là điểm quặng có triển vọng.
* Phức hệ Đại Lộc (G/aD1 đl): đã gặp các vành phân tán trọng sa casiterit, các vành phân tán kim lượng thiếc. Trong đó có một vài điểm đột biến về hàm lượng casiterit. Ngoài ra, các đá mạch aplit phong hóa cho kaolin là nguyên liệu rất tốt để sản xuất gốm sứ.
* Phức hệ Bến Giằng–Quế Sơn (Di–Gdi–G PZ3 bg-qs): đã gặp các vành phân tán kim lượng chì, kẽm, các biểu hiện khoáng hóa Pb, Zn phân bố ở rìa các khối, đặc biệt là điểm khoáng hóa chì - kẽm ở thượng nguồn sông Bồ liên quan với các đá granodiorit. Ngoài ra, còn phát hiện vàng nằm trong các đá diorit bị cà nát dọc theo đứt gãy ở khu vực Khe Thai, La Sam.
97
* Phức hệ Bà Nà (G/K2-E bn): thuộc diện lộ của khối Bến Tuần, Sông Bồ đã phát hiện các vành phân tán trọng sa casiterit, vành phân tán kim lượng Sn. Ngoài ra, trong các khối này còn xuất hiện các đới, mạch greizen, các mạch thạch anh–turmalin chứa Sn, W, Mo.
Ngoài các loại hình khoáng sản nêu trên, các thành tạo đá magma trong khu vực nghiên cứu còn được sử dụng để sản xuất các nguồn vật liệu xây dựng như: khối đá granit phức hệ Hải Vân, phức hệ Bà Nà, phức hệ Đại Lộc, phức hệ Quế Sơn. Các khối đá này chủ yếu sản xuất cung cấp đá xây dựng cho các công trình dân dụng và giao thông. Bên cạnh sản xuất vật liệu xây dựng, trên địa bàn còn sản xuất đá ốp lát như phức hệ Chà Vằn ở khu vực Phú Lộc và Nam Đông.
IV. Kết luận
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu chúng tôi thấy rằng: các thành tạo đá magma xâm nhập khu vực Thừa Thiên Huế rất phong phú và đa dạng, thành phần từ siêu mafic cho đến axit. Các khối magma này phân bố rải khắp trên toàn diện tích khu vực Thừa Thiên Huế với diện lộ khác nhau và có nhiều khối đặc trưng cho phức hệ đó như phức hệ Hải Vân, phức hệ Chà Vằn…
Đi kèm với các thành tạo đá magma xâm nhập này đã hình thành nên các đới, các đai, các vành phân tán khoáng sản rất có ý nghĩa như vàng A Pey, A Dang trong phức hệ Núi Ngọc, chì – kẽm trong khối Bến Giằng – Quế Sơn, thiếc trong khối Đại Lộc, wonfram, molipden... trong khối Bà Nà. Ngoài các khoáng sản kim loại nêu trên, các khối đá magma này còn có ý nghĩa tạo ra nguồn vật liệu xây dựng và nguồn vật liệu đá ốp lát rất lớn trên địa bàn như mỏ Ga Lôi, Bình Điền, Hải Vân, Quế Sơn và mỏ Gabro ở Phú Lộc và Nam Đông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Huy Thông (chủ biên), Báo cáo địa chất và khoáng sản nhóm tờ Huế, tỷ lệ: 1/50.000, Tập II: Địa chất, magma, kiến tạo, vỏ phong hóa, địa mạo thủy văn. Cục địa chất và Khoáng sản Hà Nội, Hà Nội, 1997.
2. Đào Đình Thục, Huỳnh Trung (đồng chủ biên), Địa chất Việt Nam, Tập II. Các thành
tạo magma. Tổng cục Mỏ và Địa chất xuất bản, Hà Nội, 1995.
3. Bùi Thắng, Đánh giá tiềm năng đá magma làm vật liệu xây dựng tại khu vực mỏ đá Lộc Điền, Huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, Luận Văn thạc sĩ khoa học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, 2004.
4. Nguyễn Văn Trang (chủ biên), Bản đồ địa chất và khoáng sản Việt Nam, tỷ lệ 1/200.000. Loạt tờ Huế - Quảng Ngãi, kèm theo thuyết minh. Cục địa chất Việt Nam, Hà Nội, 1989.
5. Huỳnh Trung và nnk, Các thành tạo xâm nhập granitoit khối Đại Lộc, Sa Huỳnh,Chu
Lai, ĐCKSVN, Tập I, Liên đoàn BĐĐC, Hà Nội, (1979), 159–169.
6. Huỳnh Trung và nnk, Các thành tạo xâm nhập granitoit khối Bến Giằng – Quế Sơn,
ĐCKSVN, Tập I, Liên đoàn BĐĐC, Hà Nội, (1979), 159–169.
98
DISTRIBUTION CHARACTERISTICS OF INTRUSIVE COMPLEXES IN THUA THIEN HUE PROVINCE AND RELATED MINERALS
Hoang Hoa Tham, Nguyen Thi Thuy, Tran Thanh Nhan College of Sciences, Hue University
SUMMARY
Intrusive magma complexes in Thua Thien Hue province area are abundant ranging from ultra-mafic to acidic in petrological composition and are exposed, distributed in secluded in secluded zones with total outcrop-area of about 400km2. These complexes include the Nui Ngoc, Dien Bong, Dai Loc, Cha Van, Hai Van and the Ba Na complex. The magma complexes have important significance not only in geology but also in economic development of Thua Thien Hue province. There fore, this paper describes detiled characteristics of distribution and petrology for intrusive magma bodies in Thua Thien Hue, and provides a potential of related mineral resources.
99