Báo cáo Lịch sử báo chí thế giới

MỤC LỤC

Trang

1 ĐỊNH HƯỚNG KHAI THÁC ĐỀ TÀI

4 MỞ ĐẦU

7 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BÁO CHÍ TBCN

1. Đôi nét về CNTB 9

2. Các thời kì truyền thông chính trị ở các nước TBCN 12

3. Báo chí ở xã hội TBCN qua 1 số giai đoạn tiểu biểu 24

26 CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN SỰ CAN THIỆP CỦA TBCN

ĐỐI VỚI BÁO CHÍ

1. Báo chí là công cụ trong lĩnh vực chính trị 36

2. Báo chí là công cụ quản lý xã hội 38

3. Báo chí là công cụ tăng trưởng lợi nhuận 40

45 CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI

VỚI BÁO CHÍ

79 I. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP GIÁN TIẾP TỚI BÁO CHÍ

1. Nhà nước TBCN xây dựng cơ quan báo chí 67

2. Sự liên minh, tập trung hóa trong hoạt động truyền thông 45

3. Can thiệp thông qua đạo đức báo chi 80

49 II. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP TRỰC TIẾP TỚI BÁO CHÍ

1. Can thiệp bằng luật báo chí 69

2. Can thiệp bằng các hình thức ngoài luật 59

80 CHƯƠNG IV: HỆ QUẢ CỦA SỰ CAN THIỆP CỦA TBCN

ĐỐI VỚI BÁO CHÍ

1. Báo chí TBCN sụt giảm đáng kể về tính chân thực và tiarage 82

- 2 -

2. Độc giả mất lòng tin 88

46 CHƯƠNG V: LIÊN HỆ VỚI BÁO CHÍ VIỆT NAM

1. Báo chí Việt Nam có thời kì bị kiểm duyệt 90

2. Sau 1954, báo chí Việt Nam hoàn toàn tự do 91

3. Báo chí Việt nam hiện nay

4. Nhìn thẳng về báo chí Việt Nam và báo chí TBCN (Mỹ làm VD) 35

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH LÀM VIỆC CẢ NHÓM

STT Họ và tên Tài liệu nộp Đạt yêu cầu Đánh giá

1 Lã Thị Hương Dịu

2 Lê Thị Thu Hồng

3 Nguyễn Thị Thùy Ngân

4 Trần Thị Liễu

5 Nguyễn Thị Hồng Nhung

6 Nguyễn Thị Tuyết Nhung

7 Nguyễn Thu Phương

8 Hứa Mạnh Thái

9 Nguyễn Phương Thảo

10 Nguyễn Thị Thúy

- 3 -

11 Nguyễn Thị Phương Thúy

12 Phùng Thu Thủy

- 4 -

13 Phan Thị Huyền Trang

ĐỊNH HƯỚNG KHAI THÁC ĐỀ TÀI

Hiện nay, rất nhiều quan niệm cho rằng chỉ có báo chí ở các nước TBCN

mới có tự do. Còn báo chí ở các nước XHCN hoàn toàn nằm trong sự bó buộc,

giám sát của chính quyền. Cũng không ít luận điệu của phe phản động cho

rằng Việt Nam cần phải thay đổi thể chế chính trị thì mới có thể có nền báo

chí tự do. Trên đài BBC tiếng Việt, có rất nhiều người Việt Nam phản đối

những luận điệu không đúng thực tế này. Tuy nhiên, họ mới chỉ đưa ra lời

phản đối mà không đưa ra được minh chứng và cũng không làm được điều

ngược lại đó là đưa ra các dẫn chứng về sự “không tự do” của báo chí TBCN.

Lấy một ví dụ về những luận điệu không đúng thực tế:

“Dưới thể chế độc tài, tại sao chính quyền lại luôn chủ trương kiểm soát

gần như tuyệt đối các phương tiện truyền thông? Tại sao không có đến thậm

chí một phương tiện truyền thông đại chúng nào được hoạt động độc lập dưới

các nhà nước cộng sản như Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam và Bắc Hàn?

Dưới thể chế dân chủ phóng khoáng (liberal democracy), tại sao các hệ

thống chính trị thường phải dồn tối đa nỗ lực, trí tuệ để khai dụng, bằng một

phương cách khôn ngoan, khéo léo nhưng không kém phần gay gắt, các

phương tiện truyền thông tự do, để thuyết phục và gây ảnh hưởng lên dân

chúng về chính sách của họ?

Hay phải chăng mọi thể chế chính trị đều nỗ lực tác động lên tư tưởng,

bằng cách thuyết phục và quảng cáo trong thể chế dân chủ, hay bằng cách

kiểm soát và tuyên truyền trong thể chế độc tài, với mục tiêu tối hậu là giành

lấy sự ủng hộ ngắn hạn và sự hậu thuẫn lâu dài của dân chúng? Nói cách khác,

trong thể chế độc tài, quan hệ giữa chính trị và truyền thông, ngoại trừ

truyền thông mật (ngoài luồng), phần lớn mang tính một chiều, mà chủ yếu

là chính trị điều khiển truyền thông. Ngược lại, trong thể chế dân chủ

phóng khoáng, tự do thông tin ngôn luận, đặc biệt từ khi xuất hiện tràn

- 5 -

ngập các phương tiện truyền thông đại chúng, không những là quan hệ hai

chiều giữa chính trị và truyền thông, mà nhiều khi truyền thông đã chủ

động, cả tích cực lẫn tiêu cực, uốn nắn cunError! No table of contents

chính trị” của Phạm Phú Đức, ngày 17/1/2007)

entries found.g cách hoạt động của giới chính trị” (Trích từ “Truyền thông và

Thế nào là tự do báo chí? Ở các nước TBCN, tự do báo chí đạt tới ngưỡng

nào? Có phải báo chí ở các nước TBCN muốn viết gì, nói gì cũng được, chỉ

cần đó là sự thực?

Chúng tôi lấy quan điểm tự do báo chí của Karl Marx làm kim chỉ nam cho

công cuộc vạch ra những điểm không tự của báo chí TBCN:

"Báo chí tự do – đó là con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân, là hiện

thân sự tin cậy của nhân dân đối với bản thân mình, là những dây liên hệ biết

nói gắn liền các cá nhân với nhà nước và với toàn thế giới. Nó là hiện thân

của nền văn hóa đang biến cuộc đấu tranh vật chất thành cuộc đấu tranh tinh

thần và lý tưởng hóa hình thức vật chất thô bạo của cuộc đấu tranh đó. Báo

chí tự do – đó là sự sám hối công khai của nhân dân trước bản thân mình, mà

lời thú nhận thật tâm như mọi người đều biết thì có cơ cứu rỗi. Báo chí tự do

– đó là tấm gương tinh thần trong đó nhân dân nhìn thấy bản thân mình mà

sự tự nhận thức là điều kiện đầu tiên của sự sáng suốt..."

"Báo chí nói chung là sự thực hiện tự do của con người. Do đó ở đâu có

báo chí ở đó có tự do báo chí".

"Bản chất" của báo chí tự do – đó là bản chất dũng cảm, có lý tính, có đạo

đức của tự do".

"Báo chí tự do là toàn diện, nơi nào cũng có mặt, cái gì cũng biết. Báo chí

tự do là cái thế giới ý tưởng không ngừng trào ra từ thực tế hiện thực và lại

chảy trở về hiện thực như một dòng thác đầy sinh khí dưới hình thức của cái

tinh thần ngày càng dồi dào".

"Báo chí quan hệ với điều kiện sinh sống của nhân dân với tư cách là lý

tính, nhưng cũng không kém phần với tư cách là tình cảm. Vì vậy báo chí

- 6 -

không chỉ nói bằng tiếng nói lý tính của sự phê phán đang nhìn những mối

quan hệ hiện tồn từ đỉnh cao của mình, mà còn nói bằng tiếng nói đầy nhiệt

tình của bản thân cuộc sống"...

"Báo chí tự do đem tình trạng (bần cùng) của nhân dân dưới hình thái trực

tiếp của nó, không bị khúc xạ qua bất kỳ giới quan liêu nào tới ngưỡng cửa

của quyền uy (nhà vua), đưa nó tới trước quyền lực của nhà nước... Báo chí

chẳng qua chỉ là và phải là "biểu hiện" vang dội của những tư tưởng và tình

cảm hàng ngày của nhân dân đang suy nghĩ thật sự theo cách của nhân dân –

biểu hiện thật ra đôi khi nồng nhiệt, phóng đại và sai lầm".

"Trong hy vọng và lo lắng có điều gì báo chí nghe được ở cuộc sống, báo

chí sẽ lớn tiếng loan tin, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những

tin tức đó một cách gay gắt, hăng say, phiến diện như những tư tưởng và tình

cảm bị xúc động thầm bảo nó vào lúc đó".

Chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề này bằng phương pháp chứng minh phản

chứng, với vấn đề “sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí”, để từ

đó thấy rằng, báo chí ở các nước TBCN không phải lúc nào cũng tự do, thậm

chí còn bị xâm hại về quyền lợi.

Bài tiểu luận gồm có 5 chương:

- Chương I: Khái quát chung về báo chí TBCN. Qua đó thấy rõ bức tranh

- 7 -

tổng thể của báo chí TBCN.

Mô hình xã hội phương Tây

- Chương II: Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của sự can thiệp của các nước

TBCN đối với báo chí.

- Chương III: Đưa ra các hình thức can thiệp của nhà nước TBCN đối với

báo chí

- Chương IV: Hệ quả của quá trình có bàn tay can thiệp của nhà nước

TBCN đối với báo chí

- Chương V: Liên hệ với báo chí Việt Nam để thấy rõ nền báo chí dân chủ

hoạt động tự do trong khuôn khổ cho phép và được bảo vệ quyền lợi.

Hy vọng rằng, cuốn tiểu luận này sẽ củng cố thêm cho người đọc lòng tin

vào tự do báo chí ở Việt Nam trong giai đoạn có nhiều biến động này. Tiểu

luận còn nhiều thiếu sót về dẫn chứng và nhiều chỗ phân tích, bình luận còn

chưa chặt chẽ. Vì vậy rất mong sự góp ý của Thầy và các bạn. Xin chân thành

- 8 -

cảm ơn!

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BÁO CHÍ TBCN

Báo chí ở các nước TBCN có gì khác so với báo chí ở các nước khác? Báo

chí TBCN hình thành, phát triển như thế nào? Và trong suốt quá trình đó, có

thực sự báo chí TBCN luôn mang trên mình “cây quyền trượng tự do ngôn

luận”? Trong chương này, chúng tôi sẽ giải quyết những vấn đề đó.

1. Đôi nét về CNTB

Nền văn hóa, quan điểm văn minh ảnh hưởng rất lớn tới phong cách,

đường lối của báo chí. Đặc biệt dưới hình thái xã hội tư bản, báo chí có

những nét riêng biệt nhất định. Tìm hiểu về cơ sở xã hội để thấy rõ hơn về bản

chất của báo chí tại đây.

Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội phát triển cao của xã hội

loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng

xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã

hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 18. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18

hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn

toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý

tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra

khắp châu Âu và thế giới.

Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là quyền sở hữu tư nhân đối

với phương tiện sản xuất và quyền tự do kinh doanh được xã hội bảo vệ về

mặt luật pháp và được coi như một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của

con người. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở

hữu nhà nước và sở hữu toàn dân và đôi khi ở một số nước tại một số thời

điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ, nhưng điều cơ

bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội

cộng sản là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện

- 9 -

sản xuất là thiêng liêng được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền

sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định.

Còn chủ nghĩa cộng sản loại trừ quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất.

Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân

để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận

thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân

chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào

quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân là

thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các

yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh

tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động,

định hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái

niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

2. Các thời kì truyền thông chính trị

Chúng tôi tạm chia truyền thông trong chính trị ra làm 4 thời kì, đánh dấu

những bước phát triển quan trọng sứ mệnh chính trị của truyền thông. Từ đó

thấy rằng, ở nhà nước TBCN, truyền thông không thể tách rời chính trị và

không thể chối bỏ nhiệm vụ là công cụ của chính quyền.

2.1 Thời kỳ ‘0’

Có thể được xem là thời kỳ khai sinh nền truyền thông. Truyền thông vào

lúc này chủ yếu là báo chí, mà báo chí lại đi đôi với chính trị (chính quyền)

ngay từ ban đầu.

Thí dụ, đối với Úc, báo chí là một chi nhánh của chính quyền, điển hình

như tờ Sydney Gazette xuất bản năm 1803, chủ yếu là để đưa thông tin của

chính quyền đến người dân, và mãi cho đến năm 1826, chính quyền Úc gần

như nắm hoàn toàn quyền hành đối với báo chí (Theo Schultz, Julianne,

Reviving the Fourth Estate. Democracy, Accountability and them media,

Cambridge University Press, Cambridge, 1998 - Trang 81). Tuy nhiên, vào

năm 1824, một số tờ báo bắt đầu được xuất bản tại tiểu bang NSW mà không

- 10 -

có sự đỡ đầu nào từ chính quyền, từ đó khai mào cho sự hoạt động độc lập sau

này. Tuy nhiên, cả một thế kỷ tiếp theo đó, quan hệ giữa truyền thông và

chính trị là một sự chồng chéo phức tạp giữa kinh tế cũng như quyền lực và

ảnh hưởng. Ngay cả đến cuối thập niên 1930, truyền thông vẫn chủ yếu thiên

đảng (tức nghiên về một đảng nào đó), chứ vẫn chưa đứng khách quan, độc

lập... Ông Keith Murdoch, bố của Rupert Murdoch (là một trong những chủ

nhân sở hữu nhiều phương tiện truyền thông đại chúng nhất trong nhiều thập

niên qua), lúc đó chỉ sở hữu vài tờ báo trên nước Úc, nhưng từng tuyên bố về

cựu Thủ Tướng Úc, Joseph Lyons (1932-1939), rằng "Tôi đã đưa ông ấy vào

ghế đó và tôi sẽ đưa ông ra khỏi ghế đó" (ông Murdoch đã thực sự làm được

việc đó). Cho nên, nói tóm lại, quan hệ giữa truyền thông và chính trị là một

mối phức tạp, luôn thay đổi nhưng vẫn luôn chặt chẽ không thể tách rời, dù

trên lý thuyết (như hiến pháp) nó phải được tách rời hẳn hoi.

2.2. Thời kỳ 1

Đó là hai thập niên sau Thế chiến thứ hai, được xem là thời kỳ hoàng kim

của các đảng phái chính trị. Trong thời gian này, hệ thống đảng là nơi chủ

chốt đề xướng các cuộc tranh luận để cải tổ xã hội, và là nơi chủ yếu quyết

định chính sách. Cử tri thì thường có một sự liên hệ (cảm tình viên, ủng hộ

viên...), với các đảng phái vững mạnh và hiện hữu lâu dài. Sự tin tưởng và

đồng thuận của quần chúng đối với các định chế chính trị rất cao, do đó truyền

thông chính trị chủ yếu phụ thuộc vào niềm tin cũng như các định chế chính

trị vững mạnh và ổn định. Vào lúc này, các nhà lãnh đạo chính trị thường nói

về những vấn đề họ quan tâm, đặc biệt là những thay đổi họ muốn thấy từ

chính quyền cũng như các chính sách và nguyên tắc mà phân biệt họ với các

phiá đối lập. Nói chung, vào lúc này, các thông điệp chính trị đúng đắn thường

dễ được các phương tiện truyền thông loan tải, phổ biến.

2.3. Thời kỳ 2

Đó là thời điểm mà truyền hình xuất hiện, với một số đài giới hạn phát

hình toàn quốc, và sau đó trở thành phương tiện truyền thông chính trị chính.

- 11 -

Sự xuất hiện của truyền hình, thể hiện rõ nhất qua cuộc tranh cử tổng thống

Hoa Kỳ năm 1960 giữa John Kennedy và Richard Nixon, đã thay đổi bộ mặt

truyền thông chính trị. Lúc này, phần lớn các cơ quan truyền thông bắt đầu

đứng độc lập, không nghiêng hẳn về đảng nào, đề cao tính cách công bằng,

không thiên vị, khách quan và trung lập. Các giá trị này dần dần được xem là

tiêu chuẩn mẫu mực để đánh giá sản phẩm truyền thông. Do các yếu tố nêu

trên, các đảng chính trị không còn nhiều ảnh hưởng như trước đối với truyền

thông, và ngay cả các cơ quan truyền thông do các đảng chính trị nuôi dưỡng

cũng không thể hoạt động hiệu quả trong thời kỳ cạnh tranh này, bởi cảm

nhận của đa số người dân là không còn xem nó là khách quan và trung thực

nữa. Do đó, các đảng chính trị phải đưa ra những sáng kiến và chiến thuật mới

để thu hút giới truyền thông, để được truyền thông loan tải tin tức theo chiều

hướng có lợi cho mình, và để ảnh hưởng lên chương trình nghị sự của giới

truyền thông, ví dụ như họp báo là hình thức có thể chủ động để đưa ra các

quan điểm đã chuẩn bị sẵn. Cũng vào lúc này, các chủ đề vận động tranh cử

phải được thử nghiệm trước, và các chính trị gia không được khuyến khích nói

ra những gì mình suy nghĩ như trước kia mà thường phải tham khảo ý kiến

của giới chuyên gia để lượng định kết quả (tích cực hay tiêu cực) trước khi sự

việc xảy ra, để rồi đi đến kết luận và lấy quyết định nên hay không nên nói

những gì qua truyền thông.

2.4. Thời kỳ 3 (đã, đang và vẫn còn tiếp diễn)

Giai đoạn này được đánh dấu bởi sự tràn ngập của các phương tiện truyền

thông đại chúng, từ báo chí, truyền thanh, truyền hình, đến truyền thông mới

(Internet). Hai giáo sư của lĩnh vực truyền thông Blumler và Kavanagh cho

rằng có 5 chiều hướng bao gồm các đặc điểm truyền thông chính trị như sau:

1- Sự gia tăng chuyên nghiệp trong cung cách vận động chính trị

2- Sự gia tăng áp lực cạnh tranh

3- Đại chúng hoá và chủ nghĩa quần chúng phản trí thức (hay phản ưu tú,

tức Anti-elitist)

- 12 -

4- Sự đa dạng hoá ly tâm (Centrifugal diversification)

5- Sự tiếp nhận của khán - thính - độc giả về chính trị

Để dễ phân tích và nhận định, xin tóm tắt 5 đặc điểm lại như sau:

Gia tăng sự cạnh tranh và vận động chính trị: Trong thời đại này, các

nguồn gây ra áp lực trên chính trị và truyền thông là nhiều hơn bội phần so với

hai thời kỳ trước. Trong môi trường mới như thế, để thông tin, thuyết phục

hay đặt để vấn đề gì, chính trị phải có khả năng thu hút các nhà báo, chủ báo

và khán - thính - độc giả. Sự tràn ngập thông tin đã làm cho khán thính độc

giả tự nhiên thấy cần phải chọn cái gì thích hợp với mình nhất, từ đó văn hoá

“lựa và chọn” nảy sinh, cho nên truyền thông không còn mang nặng tính thiên

đảng nữa. Những chương trình chính trị hoàn toàn nghiêm chỉnh không còn

được xem là thu hút đối với đại đa số quần chúng hỗn hợp (thay vào đó là

phương cách nửa thông tin nửa giải trí - infotainment). Giới chính trị (đảng

phái và chính trị gia) đã phải tìm phương cách mới để ảnh hưởng lên truyền

thông, và do đó phải lệ thuộc khá nhiều vào sự giúp đỡ của giới chuyên môn

trong lãnh vực truyền thông để trau dồi, gia tăng khả năng thuyết phục. Kể từ

đó, đại đa số các chính quyền và đảng phái ở Hoa Kỳ, Anh, Úc đều bắt đầu

hình thành các bộ phận truyền thông (tuy trước đây đã có nhưng không mang

tầm quan trọng, chuyên môn và chiến lược như lúc này) để quản lý thông tin

và quan hệ quần chúng.

Đại chúng hoá, chủ nghĩa quần chúng và đa dạng hoá theo chiều hướng

phản trí thức: Đầu thập niên 1990 xuất hiện các làn sóng đại chúng hoá và chủ

nghĩa quần chúng mang tính cách phản trí thức trong lĩnh vực chính trị và

truyền thông. Trong các thời kỳ trước, thí dụ như thời kỳ 2, khán thính độc giả

nói chung rất giống nhau, và nội dung các chương trình của truyền thông đại

chúng thật ra không khác nhau nhiều lắm. Phần lớn, truyền thông chính trị là

từ trên đi xuống, và đa số các vấn đề (chính sách, chiến lược v.v...) được

hoạch định và thảo luận trong đảng, nhưng cũng chủ yếu do giới ưu tú/ trí

thức cầm đầu. Những thông điệp chính trị thì nhắm vào đại đa số cử tri. Tuy

- 13 -

nhiên, trong thời kỳ 3, khi có quá nhiều chọn lựa thì số lượng khán thính độc

giả cho bất cứ một chương trình nào đó đều bị giảm đi, và họ có thể chọn

nghe hoặc không nghe, do đó các chương trình tin tức mang tính cách nặng nề

và áp đặt rất khó được chấp nhận như trước. Các chương trình truyền thông về

chính trị phải được thực hiện một cách hấp dẫn và lôi cuốn hơn. Giới chính trị

phải nói theo ngôn ngữ bình dân hơn, và phải tỏ ra quan tâm đến phúc lợi của

người dân thường, điển hình qua các chương trình hội luận (talk-shows, hay

talk-back radios). Sự xuất hiện của phương tiện truyền thông mới Internet, và

chính trị trên Internet, đã ngày càng gây nhiều ảnh hưởng và trở thành một

phương tiện có thể dùng để vận động chính trị cho các nhóm có chung quyền

lợi, sở thích ở trong hay ngoài lục địa quốc gia.

Khả năng tiếp thu của dân chúng về chính trị: Khi văn hoá “lựa và chọn”

xuất hiện, và khi thông tin bị tràn ngập và do ảnh hưởng của các quan điểm

chính trị khác nhau tác động, cách thu nhận các luồng thông tin của khán thính

độc giả cũng bị ảnh hưởng sâu rộng. Người dân được tiếp cận với các loại

chương trình chính trị mang tính cách ngoạn mục, gây cảm xúc mạnh, và lắm

khi tiêu cực. Ngoài ra, họ cũng tiếp thu luồng thông tin chỗ này và chỗ kia nên

cũng không biết hư thực ra sao, và không thể đan kết lại với nhau để hệ thống

hoá và không thể tiêu hoá nổi lượng thông tin đó. Cho nên nhiều khi mức độ

hiểu biết/ kiến thức của dân chúng có thể kết luận là phát triển bề rộng nhiều

hơn là bề sâu.

Nói chung, truyền thông chính trị đóng vai trò vô cùng quan trọng, nếu

không muốn nói hàng đầu, đối với mọi hoạt động chính trị và mọi giới chính

trị trong thời đại này. Cho nên, mọi quyết định chính trị hiện nay, không nhiều

- 14 -

thì ít, đều bao gồm yếu tố truyền thông trong đó.

3. Báo chí ở xã hội TBCN qua một số giai đoạn tiêu biểu

Chúng tôi tổng hợp 2 giai đoạn theo cách phân loại của Pierre Albert

trong bộ sách Que sais je?: giai đoạn thế kỉ 17, 18- báo chí có sự tiến bộ và

đa dạng hóa và giai đoạn đầu thế kỉ 19 đến năm 1871- thời kì công nghiệp

hóa và dân chủ hóa báo chí. Qua nền báo chí ở nhiều nước TBCN trong hai

giai đoạn này, chúng tôi làm rõ được phần nào bức tranh mang tên Tự Do

của báo chí TBCN. Từ khi ra đời đến khi bắt đầu có những bước phát triển,

báo chí TBCN chưa từng có khoảng thời gian “tự do” theo đúng nghĩa mà

TBCN vẫn rêu rao.

Kiểm soát truyền thông - Những thành tích ngoạn mục của tuyên truyền

(Media control - The spectacular achievements of propaganda) của Noam

Chomsky là một cuốn sách viết về vấn đề và tư tưởng trong các xã hội dân

chủ đương đại. Rất nhiều người lầm tưởng rằng vấn đề kiểm soát truyền thông

và tư tưởng chỉ có trong các xã hội toàn trị, nhưng thực chất nó tồn tại trong

tất cả các quốc gia hiện nay, kể cả Mỹ và Tây Âu, tuy ở các hình thức khác

nhau thô thiển hay tinh vi, đơn giản hay phức hợp, công khai hay che giấu.

Chomsky viết rằng: "Tuyên truyền của nhà nước, khi được các tầng lớp có

học ủng hộ và khi không có sự trệch hướng được cho phép, có thể có hiệu quả

lớn. Đó là bài học được Hitler và nhiều người khác học thuộc và nó vẫn còn

được tiếp tục cho đến tận hôm nay." Nền dân chủ khán giả và quan hệ công

chúng chính là các hình thức kiểm soát truyền thông và tư tưởng hữu hiệu.

Mục đích của quan hệ công chúng (public relations) chính là "kiểm soát nhận

thức của công chúng" (Chomsky sử dụng từ public mind). Nhiều người lầm

tưởng rằng quan hệ công chúng chỉ là một hình thức quảng cáo hay kinh

doanh thuần túy. Nhưng đó chỉ là bề nổi, là bộ mặt bên ngoải, còn bản chất

bên trong chính là kiểm soát tư tưởng thông qua truyền thông. Khi hệ thống

chính trị áp dụng một cách nhuần nhuyễn quan hệ công chúng đó là lúc tuyên

truyền nhà nước thu được các kết quả ngoạn mục. Chomsky còn có nhận xét

- 15 -

thế này: "Lý thuyết dân chủ tự do và chủ nghĩa Marx - Lenin rất gần nhau

trong những giả định tư tưởng chung của chúng."

Chomsky nêu ví dụ rất hay về tuyên truyền qua hình thức quan hệ công

chúng. Đó là trận đình công ngành thép vào năm 1937 ở Tây Pennsyvalnia.

Các phương thức cũ chống đình công không hiệu quả. Và thế là người ta nghĩ

ra cách mới chống đình công: quan hệ công chúng. Mục đích của quan hệ

công chúng là làm sao để tất cả mọi người phản đối những người đình công,

và cho mọi người thấy những người đình công như là những kẻ phá hoại và

gây hại đối với những lợi ích chung và công cộng. Và thế là các giá trị Mỹ

(Chomsky dùng từ Americanism, chúng tôi tạm dịch là các giá trị Mỹ) được

đề cao cổ vũ mọi người trong một tinh thần hòa hợp. Truyền thông được huy

động làm việc này. Ai có thể chống lại giá trị Mỹ? Ai có thể chống lại sự hòa

hợp? Không ai cả. Nhận thức của công chúng được điều chỉnh theo tuyên

truyền. Mọi người cứ tưởng rằng tư tưởng và nhận thức của mình rất được tự

do, rất được dân chủ, nhưng thực chất đều đã bị điều chỉnh, đã bị kiểm soát

một cách rất tinh vi. Và kết quả đình công bị dập tắt. Những khẩu hiệu được

đưa ra, những khẩu hiệu không ai cảm thấy không thể đồng ý hay phản đối,

nhưng thực ra rỗng tuếch, không chứa bất cứ một nội dung thực tế nào, làm

cho công chúng không còn nhận ra bản chất thực sự của vấn đề.

Ví dụ gần đây, không phải do Chomsky viết trong sách, là chiến dịch tuyên

truyền Iraq có vũ khí hủy diệt hàng loạt. Cực kỳ hiệu quả, không chỉ trong

nước Mỹ, mà gần như trên toàn thế giới. Điều kỳ lạ là khi không ai có thể tìm

ra vũ khí hủy diệt ở Iraq, công chúng vẫn không cảm thấy mình bị lừa, hay bị

tuyên truyền. Sự kiểm soát truyền thông và tư tưởng có thể nói đạt tới cảnh

giới rất cao, cấp độ mà giới truyền thông ở một số nước còn lâu mới đạt tới.

Sự thành công của tuyên truyền nhà nước không khỏi không có sự ủng hộ của

tầng lớp có học. Nhưng có một điều lạ nữa là những tầng lớp có học ủng hộ

tuyên truyền này không bị (hay tự) dán mác "phò". (Tài liệu dịch).

Trích tiểu sử tác giả: Avram Noam Chomsky, Ph.D (sinh 7 tháng 12, 1928

- 16 -

tại East Oak Lane thuộc vùng ngoại ô của Philadelphia, Pennsylvania) là

Giáo sư về hưu (Emeritus) về ngôn ngữ học tại Massachusetts Institute of

Technology. Chomsky nhận bằng Ph.D về ngôn ngữ học từ Đại học

Pennsylvania vào năm 1955. Ông tiến hành các nghiên cứu cho luận án của

mình trong suốt 4 năm ở Đại học Harvard như là Harvard Junior Fellow.

Trong luận án tiến sỹ, ông bắt đầu phát triển một số ý tưởng về ngôn ngữ của

mình, phát triển thêm trong cuốn sách xuất bản năm 1957 Syntactic

Structures (Các cấu trúc ngữ pháp), có lẽ là công trình được nhiều người biết

nhất trong ngành ngôn ngữ học. Chomsky gia nhập như là giảng viên của

Massachusetts Institute of Technology vào năm 1955 và vào 1961 được phong

hàm giáo sư trong Khoa Ngôn ngữ hiện đại và ngôn ngữ học (nay là Khoa

ngôn ngữ học và Triết học). Từ 1966 đến 1976 ông nắm Ferrari P. Ward

Professorship of Modern Languages and Linguistics. Vào 1976 ông được

phong Institute Professor. Chomsky giảng dạy tại MIT một cách liên tục trong

50 năm qua.

Và 2 giai đoạn phát triển của lịch sử báo chí sau đây sẽ chứng minh nhận

định kiểm soát truyền thông của Noam Chomsky:

3.1. Thế kỉ XVII và XVIII

Đây là thời kì báo chí có sự tiến bộ và đa dạng. Tuy nhiên, để có được

thành quả này, báo chí đã phải vượt qua chế độ kiểm duyệt khắt khe kìm hãm,

bất chấp chế độ đặc quyền và bất chấp mọi sự kiểm duyệt.

3.1.1. Báo chí Anh: đấu tranh giành quyền lực (1621 – 1791)

Từ 1621 đến 1662, thực ra báo chí Anh sống dưới chế độ độc quyền, mà

tình hình chính trị bất an (do nội chiến) làm cho rắc rối thêm. Những tờ báo

hợp pháp có đời sống vất vả và ngắn ngủi. Dưới triều Tudor và đầu triều

Stuart, báo chí được đăng những tin chính thức của triều đình, thậm chí từ

1632 đến 1641 còn bị cấm không đăng các tin tức nước ngoài. Nghị viện thiết

lập chế độ kiểm duyệt chặt chẽ báo chí, do đó năm 1644 mới ra đời cuốn

Aeropagitica của Milton đấu tranh kịch liệt đòi tự do báo chí, tuy nhiên nói về

- 17 -

sách nhiều hơn báo.

Nền quân chủ được khôi phục năm 1660 càng làm chế độ đối với báo chí

thêm khắc nghiệt. Năm 1662, các báo bị cấm không được tường thuật các

phiên họp của Nghị viện, và pháp lệnh licensing act củng cố thêm việc ra báo

phải xin phép trước và bị kiểm duyệt. Chỉ đến 1695, sáu năm sau cuộc Cách

mạng 1688, pháp lệnh này mới hết hiệu lực. Trong vòng một thế kỷ, báo chí

Anh được hưởng tự do tương đối và đóng vai trò quyết định trong cuộc đấu

tranh giữa phái whigs (cấp tiến) và tories (bảo thủ). Tuy nhiên tính độc lập của

các báo là có giới hạn: báo chí luôn luôn bị truy tố ra tòa, và các chính phủ

thường dùng tiền bạc để khống chế báo chí. Từ 1712, Nghị viện hoảng sợ

trước thanh thế của báo chí, ra lệnh đánh tem thuế rất nặng vào từng số báo

xuất bản và vào quảng cáo; tuy nhiên biện pháp ấy không ngăn nổi số bản in

của báo chí tăng tới 8 lần từ 1712 đến 1757. Sau hơn một nửa thế kỷ chống

đối và cấm đoán, đến năm 1771, Nghị viện mới cho phép các báo tường thuật

các phiên họp. Pháp lệnh libel act được thông qua năm 1792 quy định cụ thể

các trường hợp nhà báo phải chịu truy tố trước pháp luật. Nghe có vẻ tự do,

thực ra đây là một sự cứng rắn thêm trong thái độ của chính phủ với báo chí.

3.1.2. Báo chí Đức bị kiểm duyệt đè nặng (1610 – 1792)

Các cuộc chiến tranh trong nửa đầu thế kỷ XVII không tạo thuận lợi cho

việc xuất bản tờ Gazette. Ở một đất nước có rất nhiều xưởng in, các đảng phái

đấu tranh lẫn nhau dùng các tờ bút chiến, tờ bướm khác nhau để tuyên truyền

cho mình, hơn là dùng báo. Hòa bình lập lại năm 1648 tạo điều kiện cho rất

nhiều báo định kỳ ra đời ở khắp các xứ lớn, nhỏ trong Đế chế: năm 1701 có

57 đầu báo, năm 1780 có 138, năm 1788 có 182, năm 1800 có 193. Chúng

được đặt dưới chế độ phép tắc và kiểm duyệt rất nghiêm ngặt - đặc biệt ở

nước phổ dưới thời Frédéric II - và chịu những phán quyết rất độc đoán của

chính quyền. Do đó những báo đó tồn tại không lâu và nội dung không có gì

đáng chú ý.

Tuy nhiên, một số tờ báo cũng sống lâu, như tờ Magdeburgische Zeitung

- 18 -

(Báo Magdeburg) (1644) hoặc tờ Berlisichen... Zeitung (Báo Berlin), còn gọi

là Vossische Zeitung, theo tên của người xuất bản, ra đời năm 1722, mà

Lessing công tác từ năm 1751 đến 1755, hoặc tờ cạnh tranh với nó là Berliner

Nachrichten (Tin tức Berlin) (còn gọi là Spenersche Zeitung), thành lập năm

1740, tờ Kolnische Zeitung (Báo Koln) ra đời năm 1763; hoặc có một số tờ

được tương đối hoan nghênh như FrankFurter Journal năm 1680 ra tới 1.500

bản. Tờ nhật báo đầu tiên xuất bản năm 1660 tại Leipzing dưới cái tên

Neuienlauffende Nachricht von Kriegs - und Welthandeln (Tin tức nóng sốt

về chiến tranh và thế giới).

Những tờ báo có tính toàn quốc sống rất chật vật do bị kiểm duyệt, phát

hành khó khăn do bị sự chia rẽ về chính trị cản trở. Theo gương tờ Journal des

Savants, năm 1682 tại leipzing ra đời các tờ Act eruditorum bằng tiếng Laitnh;

tập thử nghiệm Monatsgesprsche (Đàm thoại tháng) của Christian Thomasius

năm 1688 có cuộc sống ngắn ngủi, nhưng tờ tạp chí văn học và triết học này

sẽ sản sinh ra nhiều tờ kế tiếp. Ở thế kỷ XVIII, nhiều tạp chí loại này, thường

xuất bản ở Hambourg, lăm le ra mắt nhưng không thu nhiều kết quả. Những

Intelligenz blattern (Báo trí thức) là những tờ quảng cáo đơn thuần, mọc ra

như nấm: tờ đầu tiên tung ra năm 1722 tại Francfort.

Trong đế chế của triều Habsbourg, sự kiểm soát đối với báo chí còn rất

ngặt nghèo hơn, nên các báo hiếm hơn, ra đời chậm hơn ở Đức. Năm 1781,

Joseph II nới lỏng kiểm duyệt nên báo chí nở rộ, nhưng đến 1789 lại tăng

thuế, rồi 1791 lập lại chế độ kiểm duyệt làm nhiều báo buộc phải đóng cửa,

nếu không thì cũng sống vật vờ.

3.1.3. Báo chí Pháp thời kì Cách Mạng và Đế Chế (1789 – 1815)

Cuộc cách mạng Pháp đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử báo chí. Với

báo chí các nước khác, nếu nó chỉ gây những hậu quả gián tiếp – mà phải nói

là cơn chấn động cách mạng và chính sách chống lại của các nền quân chủ đã

làm đảo lộn làng báo Tây Âu, trừ nước Anh – thì Cách Mạng, lần đầu tiên đã

xác định, và có lúc đã thực thi, những nguyên tắc lớn của tự do báo chí. Và

- 19 -

suốt thế kỉ XIX, những nguyên tắc ấy sẽ trở thành nội dung yêu sách của các

nhà báo trên toàn thế giới. Cho đến nay, điều XI của bản Tuyên ngôn Nhân

quyền ngày 26-8-1789: “sự tự do giao lưu tư tưởng và chính kiến là một trong

những quyền quý nhất của con người: mọi công dân đều có thể tự do nói, viết,

in, trừ khi lạm dụng tự do ấy thì phải chịu trách nhiệm trong những trường

hợp do luật pháp quy định” vẫn là lời tuyên bố nổi bật nhất của nguyên tắc tự

do báo chí. Đồng thời, việc bãi bỏ hệ thống hội đoàn cũng gỡ bỏ mọi cản trở

cho hoạt động của các xí nghiệp và cho việc hành nghề.

Thời kì cách mạng làm cho báo chí có bước bột phát đặc biệt tương xứng

với mối quan tâm sít sao của công chúng đối với biết bao sự kiện long trời lở

đất: từ 1789 – 1800, ra đời tới hơn 1.500 đầu báo mới, nghĩa là trong 11 năm,

tăng gấp đôi so với cả 150 năm cộng lại. Thời kì này đã phát hiện ra sức mạnh

của chính trị của báo chí, mà trước đó chỉ đóng vai trò thứ yếu. Sau ngày 10-

8-1972, các báo bị đàn áp dữ dội; và dưới thời Đế Chế, báo chí bị kiểm soát

găt gao là những bằng chứng cho thấy từ nay báo chí trở thành nguy cơ đáng

gườm đối với những chính quyền chuyên chế. Song song với những sự kiện

thời sự, đời sống báo chí vô cùng sục sôi.

3.2. Từ đầu XIX đến 1871

Đây là thời kì công nghiệp hóa và dân chủ hóa báo chí. Tuy nhiên, ngay

trong thời kì này, sự tự do của báo chí lại bị kiểm duyệt gắt gao.

Ở tất cả các nước, các chính phủ đều muốn kìm chế sự phát triển của báo

chí, vì nó gây khó dễ cho thực thi quyền lực : các nhà lập pháp tài tình tạo ra

một lô những luật, quy chế, biện pháp để hạn chế tự do báo chí ngăn trở việc

phát hành. Song kìm kẹp và đàn áp chỉ mang lại hiệu quả nhất thời do sự tiến

hóa về chính trị nói chung (mở rộng quyền bầu cử, tiến bộ của chế độ đại

nghị...) làm tăng mối quan tâm của tầng lớp xã hội ngày càng rộng rãi đối với

các vấn đề chính trị. Giáo dục được phổ cập nhanh tuần tự mở rộng số người

đọc báo. Công cuộc đô thị hóa cũng là một nhân tố quan trọng của phát triển

báo chí. Nhìn chung sự nâng cao trình độ văn hóa của các tầng lớp khá giả

- 20 -

cũng như của quần chúng bình dân làm tăng tính ham tìm hiểu và làm cho thị

hiếu của quần chúng rất đa dạng : vậy báo chí là công cụ duy nhất đáp ứng

những nhu cầu ấy.

3.2.1. Báo chí Pháp từ 1814 đến 1870

Từ 1800 đến 1870, số phát hành các nhật báo tăng lên tới 30 lần: sự phát

triển mạnh mẽ ấy đánh dấu sự đột biến thật sự cảu báo chí Pháp, khiến chính

quyền phải ngỡ ngàng. Các chính phủ nối tiếp nhau đều nhạy cảm trước nguy

cơ mà báo chí mang lại cho chế độ, cản trở việc thi hành quyền lực, vì vậy tìm

đủ mọi cách kìm hãm sự phát triển, kiểm soát tiếng nói của báo chí. Ngược

lại, chính sức mạnh bành trướng của mình lại thúc đẩy báo chí đòi tự do hơn

nữa, và vượt qua mọi chướng ngại do chính quyền giương ra trên đường đi.

Báo chí có ảnh hưởng chính trị và tác động trực tiếp đến dư luận quần chúng,

là một trong những nhân tố chủ yếu truyền bá các tư tưởng tự do, đưa quần

chúng tiếp nhận những kiến thức, những tư duy phù hợp với tư tưởng và thực

tế mới của đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa.

3.2.2. Báo chí Anh từ 1791 đến 1870

Do không sửa đổi luật libel act nên các chính phủ đều để mắt kĩ đến báo

chí. Rất nhiều nhà báo bị truy tố và tòa xử nghiêm khắc. Những mối lo lớn

của nhà cầm quyền là sợ nó phát triển thành một nền báo chí đại chúng và cấp

tiến về chính trị. Vì vậy năm 1819, các báo phải đóng tăng lên nhiều thứ thuế,

nhất là báo chính trị ra định kì.

3.2.3. Báo chí Đức từ 1792 đến 1871

Ở Trung Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Đức, các luật lệ khắt khe đối

với báo chí tỏ ra rất hữu hiệu so với nước Pháp. Các chế độ quân chủ nối tiếp

nhau đều có thái độ cứng rắn với báo chí ; chỉ ở Bavière và các thành phố tự

do như Francfort, Cologne hoặc Hambourg, báo chí mới được nói về chính trị

với chút ít độc lập. Sự ganh đua giữa Phổ và Áo cũng làm cho tình hình báo

chí viết tiếng Đức có những nét riêng.

Ở Berlin, tờ nhật báo đầu tiên Berliner Abenblattern (Báo Berlin buổi tối)

- 21 -

của Kleist (1810 – 1811) bị đình chỉ vì sợ bị Napoleon quở trách.

Chính quyền Đức liên tục có những hạn chế báo chí. Hội nghị chính trị

năm 1819 mở rộng hiệu lực các luật kiềm chế ra toàn bộ các quốc gia Đức, rồi

liên tiếp các năm 1824, 1831, 1832 lại bổ sung, ngày càng cứng rắn hơn.

Ngoài chế độ kiểm duyệt thì quy định chỉ những báo nào được chính quyền ưu

ái mới được đăng quảng cáo, đó cũng là một vũ khí đáng kể.

=> Qua hai giai đoạn lịch sử báo chí ở các nước TBCN trên, phần nào ta

- 22 -

thấy được tổng quan bức tranh báo chí ở nhà nước TBCN.

CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN SỰ CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI

VỚI BÁO CHÍ

Suy cho cùng, báo chí ở nước nào cũng là công cụ phục vụ cho lợi ích của

chính quyền. Chính vì vậy nhà nước nào cũng phải can thiệp tới báo chí. Tất

cả mọi nguyên nhân can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí đều quy tụ

về một nguyên nhân chính đó là nhà nước TBCN muốn sử dụng báo chí như

một công cụ để phục vụ cho lợi ích của mình.

1. Báo chí là công cụ trong lĩnh vực chính trị

Không phải ngẫu nhiên mà báo chí được coi là “quyền lực thứ tư”. Với

phạm vi rộng, sức tác động tới công chúng lớn của báo chí, nhà nước TBCN

không thể bỏ qua công cụ hữu hiệu này để tác động đến đời sống chính trị của

người dân.

Trên phạm vi thế giới, do phạm vi ảnh hưởng và sức mạnh tác động to lớn

của mình, các tập đoàn báo chí đã trở hành một thế lực hay một thứ quyền lực

toàn cầu. Nó tác động vào dư luận xã hội một cách tự nhiên, vạch ra hướng đi

cho nhận thức, thúc đẩy việc hình thành thái độ, quan điểm chính trị - xã hôi.

Bằng cách ấy, nó đã tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc bất lợi cho những

hành động chính trị kinh tế cụ thể nào đó.

Nói như nhà báo Mỹ Giô-dép Phít-chơ khi nhận xét về kênh truyền hình

toàn cầu CNN "người ta nhận thấy rõ ràng CNN và cùng với nó là việc đưa tin

dồn dập của toàn thế giới báo chí mà CNN đã kích thích - bắt đầu ảnh hưởng

đến chiều hướng diễn biến của các sự kiện "(người đưa tin UNESCO tháng 9-

1990). Điều ấy cũng có nghĩa cái gọi là khách quan vô tư, phi chính trị trong

hoạt động của các tập đoàn báo chí phương Tây tự nó vẫn chỉ là cái bánh vẽ

giả dối không hơn, không kém. Chính các chính phủ ở phương Tây đóng vai

trò ngày càng to lớn trong định hướng và thao túng các phương tiện truyền

thông đại chúng nhằm những mục đích chính trị bởi các lý do sau:

Thứ nhất, trong chính trị, truyền thông đóng vai trò then chốt, quyết định

- 23 -

sự nghiệp của giới chính trị. Muốn vận động quần chúng cho một chính sách

hay một quan điểm (chính trị hay xã hội) nào đó thì phải thông qua truyền

thông, bởi chỉ qua truyền thông mới đến được quảng đại quần chúng. Cho nên

các hoạt động chính trị nào không được truyền thông loan tải thì thường được

xem như không đáng quan trọng hay thậm chí không hiện hữu. Thành phần

nào có khả năng thu hút và thuyết phục quần chúng, nhất là trước những

những sự chọn lựa (chính sách) khó khăn hay phức tạp, thì sẽ thành công.

Thiếu khả năng truyền thông thì thường dẫn đến tình trạng bị động, nhất là khi

gặp thử thách lớn, và dễ đưa đến những phản ứng cho xong hơn là nắm lấy cơ

hội hướng dẫn dư luận một cách chủ động về một hay nhiều vấn đề nào đó.

Thứ hai, truyền thông chính trị của giới chính trị Tây phương tuy đã tiến

rất xa, biết vận dụng mọi kỹ thuật tân tiến nhất để hiểu biết rất rõ và rất chi tiết

về khả năng của mình và đối phương như thế nào, và qua đó làm cách nào để

vận động cử tri, nhưng mục tiêu sau cùng cũng không khác gì các đảng chính

trị khác từ xưa đến nay. Tức là, mục tiêu vẫn luôn luôn là làm thế nào để vận

động, thuyết phục quần chúng ủng hộ, chấp nhận các thông điệp chính trị, và

bỏ phiếu cho mình.

Ngay tại một quốc gia nào đó không thống nhất về chính trị như Trung

quốc, Malaixia, .. thì đảng chính trị cầm quyền và nhà nước vẫn chủ động tạo

ra các nguồn lực và điều kiện kinh tế, xã hội kỹ thuật, công nghệ để xây dựng

các tập đoàn báo chí nhằm mục đích tạo ra sức mạnh truyền thông chi phối sự

luận xã hội, phục vụ cho các yêu cầu , nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên khi đã

trưởng thành các tập đoàn báo chí không chỉ trở thành thế lực truyền thông

chính trị, mà còn trở thành thế lực kinh tế và chịu ảnh hưởng mạng mẽ bởi các

quy luật kinh tế trong quá trình tồn tại. Cho nên mối quan hệ giữa chính trị và

truyền thông có thể nói rất là mật thiết. Ở đây, cũng cần phải hiểu chính trị ở

khía cạnh sâu rộng của nó (tức ngoài yếu tố quyền lực), bao gồm các tương

quan ảnh hưởng trên địa hạt tư tưởng, văn hoá, lịch sử, kinh tế, giáo dục,

- 24 -

thông tin..., nói chung là toàn xã hội.

Báo chí là tiếng nói ủng hộ chính phủ nhà nước TBCN trong các cuộc

chiến tranh:

VD1: CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Lúc cuộc chiến mới nổ ra, rất nhiều tờ báo lên tiếng ủng hộ những nỗ lực

của chính phủ. Họ không bao giờ đặt câu hỏi: “Quân đội Mỹ có quyền gì để

đặt chân đến Việt Nam?”. Công việc của họ là khiến các độc giả, thính giả

cảm thấy lạc quan và tự hào về quân đội mình. Điều này cũng giống như cuộc

chiến tranh tại Triều Tiên, các phóng viên chiến trường luôn vẽ ra một khung

cảnh “màu hồng” gửi về công chúng nước nhà.

Trong cuộc chiến ở Việt Nam, đã có lúc giới truyền thông cũng ủng hộ

chính sách tàn bạo của Mĩ ở Việt Nam.

Tạp chí Journal of Broadcasting có đăng một bài khá tường tận của nhà xã

hội học George Baylay nghiên cứu về phương thức của ba hệ thống ti- vi Mỹ

ABC, CBS và NBC trình bày cuộc chiến này từ 1965 cho đến 1970. Theo

ông, gần phân nửa tài liệu chiến tranh liên hệ đến hoạt động của bộ binh và

không lực trên chiến trường; lối 12% gồm có các bản văn tuyên bố của chính

quyền Hoa Thịnh Đốn và Sàigòn; và sau hết, 3% dành cho tin tức lấy từ đối

phương Bắc Việt. Ảnh hưởng của chiến tranh đối với quần chúng Mỹ và

những vụ đi bộ cổ võ cho hòa bình, dân chúng xuống đường, sinh viên biểu

tình..v..v.. của phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ được trình bày giới hạn.

VD2: CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH (NĂM 1991)

Chiến tranh vùng Vịnh là cuộc chiến được truyền hình ở mức độ rất cao.

Lần đầu tiên tất cả mọi người trên thế giới đều có thể theo dõi trực tiếp hình

ảnh các tên lửa lao vào các mục tiêu và các máy bay chiến đấu cất cánh từ các

tàu sân bay. Các lực lượng liên quân rất nhiệt tình thể hiện mức độ chính xác

các vũ khí của họ.

Tại Hoa Kỳ, nhóm "bộ ba lớn" điều hành mạng lưới tin tức đưa tin về cuộc

- 25 -

chiến: Peter Jennings của ABC, Dan Rather của CBS và Tom Brokaw của

NBC dẫn các chương trình thông tin buổi tối của họ khi các cuộc tấn công đã

bắt đầu ngày 16 tháng 1, 1991.

Nói chung, giới truyền thông Mỹ có xu hướng ủng hộ chính phủ. Cách đưa

tin của họ cho thấy điều đó.

VD3: CHIẾN TRANH IRAG (NĂM 2003)

Có thể nói, kể từ khi Tổng thống Mỹ có ý định đánh Iraq, một tập đoàn báo

chí khổng lồ của ông trùm truyền thông Rupert Murdoch cũng đã thở cùng

nhịp với ông Bush bằng cách reo hò cổ vũ cho một cuộc chiến mà sau này

theo đánh giá của báo chí phương Tây là, dễ mở đầu, khó kết thúc. Trên các

ấn phẩm của mình, trong khi lên tiếng công kích các nước Pháp, Đức là

“những kẻ vô ơn, hèn nhát”, tư tưởng bài xích, phỉ báng những cuộc biểu tình

cũng được ông trùm này cho đăng tải công khai và ồ ạt. Không dừng lại ở đó,

trong suốt mấy tháng qua báo chí Mỹ còn liên tục cho đăng tải những thông

tin không có lợi cho nền hòa bình thế giới như khẳng định “Irac vẫn tiếp tục

theo đuổi chương trình phổ biến vũ khí hạt nhân” (dù cho sau này khi chiến

tranh đã nổ ra được 2 tuần nhưng nhà cầm quyền Mỹ vẫn không tài nào đưa ra

được những chứng cứ để hợp thức hóa cuộc chiến của họ) mà bỏ qua những

hậu quả có thể đến với người dân Irac (và cả người dân Mỹ) một khi cuộc

chiến đã xảy ra. Hay như việc đăng công khai danh sách những nguyên thủ

thế giới ủng hộ Mỹ trong cuộc hạ bệ Tổng thống Irac Saddam Hussein như

thủ tướng Anh, thủ tướng Tây Ban Nha…

Báo chí là công cụ để đưa tin có lợi cho chính phủ và bóp méo sự thật.

Đọc những ví dụ sau đây để thấy rõ điều đó

VD1: BỘ MÁY TRUYỀN THÔNG VÀ BỘ MÁY CHIẾN TRANH

Ở Liên Xô trước đây, ai cũng biết hay nghe đến tờ nhật báo Pravda (Sự

thật). Dưới sự chỉ đạo và điều khiển của Nhà nước Xô-viết và Đảng Cộng sản

Liên Xô, Pravda đã từng sản suất ra biết bao câu chuyện không tưởng mà

chúng ta có thể gọi là huyền thoại. Ở Mĩ, ông George W. Bush và Đảng Cộng

- 26 -

hòa không thể khoe rằng họ làm chủ một cơ quan truyền thông như Pravda,

và cũng không thể nói rằng họ làm chủ hệ thống báo chí, đài truyền thanh, đài

truyền hình ở Mĩ, nhưng họ vẫn có thể tin tưởng vào hệ thống truyền thông Mĩ

vì hệ thống này cũng vâng dạ như tờ Pravda của Liên Xô cũ.

Bất kể bao nhiêu lời nói dối mà ông Bush và đồng nghiệp của ông nói về

mối đe dọa của Iraq đến nền an ninh nước Mĩ, giới truyền thông Mĩ chẳng bao

giờ chất vấn, chẳng bao giờ đặt những câu hỏi khó cho giới cầm quyền ở

Washington. Bush và chính phủ của ông biết rằng họ có thể dựa và tin tưởng

vào lòng ái quốc của giới truyền thông Mĩ, những người chỉ tường trình cuộc

chiến ở Iraq như là báo cáo trận đấu thể thao của đội nhà. Và, ông Bush,

không như các nhà lãnh đạo của Liên Xô, không cần phải hạ lệnh, ra chỉ thị,

hay bổ nhiệm một cơ quan kiểm duyệt nào cả, bởi vì trong hệ thống truyền

thông ở Mĩ đã có sẵn một cơ chế tự kiểm duyệt.

Tháng 2 năm 2003, tờ Observer ở London tiết lộ rằng chính phủ ông Bush

đã và đang dọ thám các thành viên của Liên hiệp quốc để theo dõi thái độ của

họ trước ý đồ xâm lược Iraq của Mĩ. Đó là một hành động, lén đã đành,

nhưng còn mang tính bẩn thỉu, hèn mọn. Nhưng ở Mĩ, không một tờ báo nào

loan tin này.

Tờ Newsweek, một tờ tuần san lớn có qui mô phát hành trên toàn thế giới,

cho chúng ta biết cựu tướng lãnh Iraq là Hussein Kamel, người ra đầu thú với

Washington, vào năm 1995 cho biết Iraq đã giải giới vũ khí rất nhiều. Rất ít

báo chí Mĩ đưa tin này. Nhưng trong các tuyên bố trước công chúng Mĩ và

thế giới, ông Bush lại trích và sửa lời khai của Kamel để nói rằng Iraq vẫn còn

duy trì vũ khí tàn sát hàng loạt!

Thực tế hiện nay cho thấy giới truyền thông Mĩ nói chung có khuynh

hướng ủng hộ cuộc xâm lăng Iraq, cho dù chính phủ Mĩ cố tình hạn chế sự tự

do của họ trong việc tường trình sự kiện, và bóp méo cũng như cung cấp

thông tin giả. Do đó, hiện nay tất cả các hình ảnh về cuộc chiến ở Iraq đều

hoàn toàn bị “vệ sinh hóa”. Giới truyền thông chỉ tường trình những gì mà

- 27 -

quân đội Mĩ và chính phủ Mĩ muốn nói.

Hiện tượng này không phải mới. Trong cuộc chiến ở A Phú Hãn, Walter

Isaacson, tổng giám đốc hệ thống CNN, khuyên các phóng viên không nên

chú trọng vào những khía cạnh tiêu cực như tử vong, thương vong, phá hủy

môi trường … vì những hình ảnh này có thể gây khó khăn cho cuộc chiến.

Trong cuộc chiến vùng Vịnh vào đầu thập niên 1990s cũng thế: giới truyền

thông Mĩ chôn vùi những hình ảnh hãi hùng, dã man của cuộc tàn sát trên xa

lộ tử thần (còn gọi là cuộc thảm sát trên “Highway of Death”) khi quân đội

Iraq rút khỏi Kuwait.

Giới truyền thông còn đứng về phía chính phủ trong những vấn đề quan

trọng khác, không phải vì những âm mưu đen tối, hay những cuộc điều đình

phía sau hậu trường, nhưng bởi vì hệ thống truyền thông ở Mĩ tự nó là những

công ti thương mại khủng lồ, những công ti có cùng lợi ích kinh tế và chính trị

với giới điều hành quốc gia. Trong nhiều trường hợp, họ tuy hai nhưng chỉ là

một thực thể.

Ngày nay, việc các công ti truyền thông sử dụng hay trưng dụng những

cựu tướng lãnh, quan chức cao cấp, chính trị gia … đã trở thành một truyền

thống. Như Edward Said nhận xét, hệ thống truyền thông của Mĩ đã trở thành

một bộ phận trong guồng máy quân sự, guồng máy chiến tranh của Mĩ. Thành

ra, không ai ngạc nhiên khi thấy những tiếng nói chủ chốt trong các cuộc gọi

là “debate” hay “tranh luận” về chiến tranh và chính sách ngoại giao trên các

hệ thống truyền hình và truyền thanh thường là những cựu quan chức trong

chính phủ Mĩ. Điều này cũng giái thích tại sao những cái gọi là “nguồn tin

đáng tin cậy”, nhân viên báo chí, nhân viên Ngũ giác đài, phát ngôn viên Tòa

bạch ốc, hay những nhân vật thân cận với chính quyền Mĩ thường chiếm đại

đa số trong đội quân “chuyên gia” (experts) mà chúng ta nghe và thấy hàng

ngày.

Những đại công ty thống trị thế giới truyền thông càng ngày càng tập

trung. Ben Bagdikian, tác giả cuốn sách nổi tiếng Media Monopoly (Độc

- 28 -

quyền truyền thông), ước tính rằng chỉ có 6 đại công ti đang nắm hầu hết hệ

thống truyền thông tại Mĩ. Chủ hãng NBC là General Electric, một công ti

sản xuất vũ khí cho quân đội Mĩ. Ngay cả các công ti truyền thông nhỏ, tuy

không có liên hệ với quân đội, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của chính phủ Mĩ.

Giới truyền thông Mĩ có mục tiêu chính là làm lợi qua việc buôn bán thông

tin và quảng cáo. Truyền thông, dù là báo chí, radio, hay truyền hình, đều

kiếm tiền bằng cách buôn bán khán giả đến các công ti đặt quảng cáo và họ

biết rằng cái business của họ sẽ lỗ lãi nếu họ chạy theo những loại thông tin có

khả năng làm tổn hại đến các nhà cầm quyền. Ảnh hưởng kinh tế trong việc

tường trình và cung cấp thông tin chi phối đến những gì khán giả nhìn và thấy.

Chẳng hạn như thay vì chi ra một số tiền gửi kí giả đi thu thập thông tin về

việc vi phạm nhân quyền đối với các tù nhân đang bị giam giữ và hành hạ tại

căn cứ không quân Bagram (A Phú Hãn), các công ti truyền thông chỉ việc gõ

cửa Tòa bạch ốc và họ sẽ có ngay một “Thông cáo báo chí” phủ nhận những

vi phạm nhân quyền ở đó. Vừa rẻ tiền, lại vừa làm hài lòng giới cầm quyền.

Điều này có nghĩa là các cơ sở truyền thông độc lập đóng một vai trò quan

trọng. Nhưng tiếc thay, các cơ sở này hiện còn quá yếu kém về tài chính và

cơ sở vật chất để có thể thách thức các công ti truyền thông lớn, hay để làm áp

lực họ phải đề cập đến những vấn đề thiết thực mà đại đa số quần chúng quan

tâm đến. Nhưng thỉnh thoảng một áp lực cũng có hiệu quả khi qui mô của vấn

đề trở nên nghiêm trọng. Chẳng hạn như sau nhiều tháng cố tình xem thường

những cuộc biểu tình chống chiến tranh Iraq, một số tờ báo lớn như New York

Times và Washington Post bắt buộc phải đưa lên trang đầu những hình ảnh và

câu chuyện về cuộc biểu tình vĩ đại chống chiến tranh xảy ra trên toàn cầu vào

hôm 15/2/2003.

Trong cuộc chiến ở Việt Nam, giới truyền thông cũng ủng hộ chính sách

tàn bạo của Mĩ ở Việt Nam, nhưng áp lực của phong trào chống chiến tranh đã

buộc giới truyền thông ghi nhận những thực tế bi thảm và mở màn cho một

cuộc tranh luận trong mọi thành phần trong xã hội. Giới kí giả từ đó có khả

- 29 -

năng và bản lĩnh phơi bày những tội ác chiến tranh,, những hình ảnh dã man

của cuộc chiến, và thách thức những tuyên bố láo của chính phủ. Hậu quả là

nhiều cuộc biểu tình với hàng triệu người ở Mĩ và trên khắp thế giới, dẫn đến

chấm dứt cuộc chiến ở Việt Nam.

Không có gì phơi bày sự bất lực của giới truyền thông ở Washington bằng

thái độ hèn hạ trước những tuyên bố sai lạc của ông Bush về mối quan hệ giữa

Iraq và al Qaeda, giữa Iraq và biến cố 9/11/2001. Trong một lần họp báo ông

Bush đề cập đến mối quan hệ này 8 lần, và ngay cả cho đến nay – khi cuộc

chiến Iraq đang diễn ra – vẫn chưa một ai chất vấn lời tuyên bố này của Bush.

Không một ai trong giới “truyền thông chính thống” đòi ông Bush trưng bày

bằng chứng cho hai tuyên bố quan trọng này của ông. Thay vào đó, giới

truyền thông đã cho ông Bush một cái vé miễn phí để ông dùng biến cố 9/11

làm cái cớ gây chiến và xâm lăng Iraq.

Theo một cuộc thăm dò ý kiến do công ti New York Times / CBS News tổ

chức, có đến 42% người Mĩ tin rằng Saddam Hussein trực tiếp dính dáng và

có trách nhiệm trong cuộc tấn công vào tòa nhà thương mại quốc tế hôm

9/11/2001. Cũng theo một cuộc thăm dò khác, 55% dân Mĩ tin rằng Saddam

Hussein trực tiếp yểm trợ Al Qaeda!

Cho đến nay, không ai có bằng chứng về hai mối quan hệ đó. Thực ra, đại

đa số các học giả Mĩ và giới ngoại giao quốc tế đều cho rằng cả hai tuyên bố

của ông Bush là sai. Nhưng đây là một câu hỏi mà quần chúng không bao giờ

nghe giới kí giả chất vấn: làm sao xã hội Mĩ có thể truyền bá những huyền

thoại như thế, và xem đó là những bằng chứng về sự ủng hộ của công chúng

Mĩ cho cuộc chiến?

Chính phủ ông Bush, qua các phát ngôn viên của Tòa bạch ốc và Ngũ giác

đài, đưa ra nhiều lí do để gây chiến, và giới truyền thông ngoan ngoãn trình

bày những lí do đó cho quần chúng như là những tín lí của chính phủ. Thành

ra, trong trường hợp này, giới truyền thông đã tự họ biến thành những người

- 30 -

trong guồng máy chính phủ, thay vì theo đuổi truy tìm sự thật

Trong những huyền thoại về truyền thông ở Mĩ, có một huyền thoại rất phổ

biến: đó là tự do báo chí. Nhưng trong thực tế, hệ thống truyền thông Mĩ

không bao giờ tự do, hay chỉ tự do đối với những người làm chủ các công ti

sản xuất vũ khí, các công ti thương mại khổng lồ, tức là những nhân vật và cơ

quan nắm quyền điều hành nước Mĩ. Giới truyền thông Mĩ có những quan

điểm hẹp về thế giới bên ngoài, những quan điểm mà trong đó chấp nhận cái

“quyền” của giới quân sự Mĩ và tự do thị trường để chi phối đến cuộc sống

của người dân trên thế giới. Do đó, những cái gọi là “tranh luận” trên hệ

thống truyền thông mà công chúng thấy là những người đồng ý với nhau về cơ

bản, nhưng thỉnh thoảng bất đồng ý kiến về cách thức buôn bán các hương

trình nghị sự của nhà nước.

VD2: CHIẾN TRANH IRAG (NĂM 2003)

Đây là cuộc chiến thể hiện rõ nhất sự can thiệp của Nhà Trắng đối với

truyền thông Mỹ.

1. Chuẩn bị ra sao?

Trước khi tới chiến trường, các nhà báo Mỹ được tham dự một khóa huấn

luyện đặc biệt cho phù hợp với phong cách đưa tin của một nhà báo chiến

tranh. Và, khác với cuộc chiến vùng vịnh năm 1991, lần này các nhà báo được

hứa cho là đưa tin từ chiến trường thay vì từ nóc một khách sạn nào đó từ

Jordan hay Saudi Arabia. Thân thế của họ sẽ được thông báo trong trường hợp

bị chết hay bị thương. Theo quy định, các nhà báo không được mang, sử dụng

vũ khí, không được sức nước hoa và mặc quần áo sặc sỡ. Mỗi nhà báo còn

phải đánh số như binh lính trên ngực và gài trên giày những thông tin cần thiết

về nhóm máu, số hộ chiếu, số thẻ bảo hiểm. Được biết tổng số những gì mà

một nhà báo chiến tranh của Mỹ phải có lên tới 44 thứ, trong đó có các đồ

dùng cần thiết như xẻng, túi đựng rác, viên lọc nước… Bù lại, trên chiến

trường họ sẽ được sử dụng miễn phí các phương tiện đi lại, các khẩu phần ăn

của các đơn vị mà họ đăng kí tham gia nơi trận địa. Một điểm đáng lưu ý khác

- 31 -

đối với các nhà báo là, dù được tường thuật trực tiếp tình hình chiến sự song

họ không được phép tiết lộ những thông tin được coi là bí mật. Vì thế, cách tốt

nhất là không nên phỏng vấn không chính thức các binh lính Mỹ về việc con

em họ bị thương hay chết ngoài mặt trận. Việc tiết lộ chi tiết các thông tin về

các cuộc hành quân càng là vấn đề nên tránh. Chưa hết, các nhà báo còn

không được tự rời khỏi hàng ngũ nếu không được binh lính “hộ tống” cũng

như là phải được bộ chỉ huy liên quân cho phép mới được phát đi các câu

chuyện bên lề, những bài phóng sự nhạy cảm… Tất nhiên, sự rào đón cẩn thận

này nhằm mục đích ràng buộc báo giới với các nhà cầm quyền Mỹ để họ đưa

ra những thông tin phiến diện nhưng có lợi cho Mỹ. Mà theo cách nói của các

nhà bình luận quốc tế thì đó là nhằm cho các “tin tức về chiến sự không gây ra

những tác động tâm lý tiêu cực”.

2.Bám trụ để săn tin và… bịa đặt!

Ngày 20/3, ngay sau khi chiến tranh nổ ra, nhà báo Nick Robertson của

kênh truyền hình CNN đã có báo cáo trực tiếp phát từ tòa nhà Bộ Iraq và hôm

sau anh lại khẳng định được vị trí của mình thông qua những thông tin nóng

hổi từ đất nước Iraq. Theo các nhà quan sát, tòa nhà Bộ thông tin Iraq ở

Baghdad vốn là nơi duy nhất cho phép các nhà báo nước ngoài truyền tin trực

tiếp thì hiện giờ rất dễ trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công song không vì

thế mà các phóng viên di tản khỏi địa điểm này. Có thể vì điều này mà ngay

trong những ngày đầu của cuộc chiến đã có không ít những nhà báo thuộc

hãng truyền thông lớn của Mỹ như ABC, CBS, NBC, CNN tác nghiệp tại đây.

Tuy nhiên, ngày 21/3, chính phủ Irac đã ra lệnh buộc các phóng viên CNN

phải rời khỏi Baghdad vì đã tham gia vào một chiến dịch tung tin đồn thất

thiệt của Mỹ. CNN, một hãng truyền hình vốn rất nổi tiếng với các cuộc

truyền hình trực tiếp từ chiến trường đã lên tiếng thừa nhận thông tin này là

đúng và cho biết họ đã chuyển nhóm phóng viên này sang tác nghiệp tại

Jordani, một quốc gia láng giềng phía tây nam Iraq. Tuy nhiên, điều lạ là sau

khi bị trục xuất khỏi Baghdad, CNN đã phải nhờ đến sự giúp đỡ của các

- 32 -

phóng viên Thời báo New York đang có mặt tại Iraq lên truyền hình đưa tin

trong khi hình ảnh chạy phía sau lưng thì vẫn do họ tự dàn dựng bằng cách

cho phát lại những cuốn băng ghi hình ảnh cuộc tấn công từ trước đó, mặc cho

dòng chữ quen thuộc “tường thuật trực tiếp” vẫn được chạy lên trên màn hình

TV.

Bị lừa dối, ngay sau đó, tổ chức Đoàn kết vì hòa bình đã kêu gọi một cuộc

biểu tình đông đảo bắt đầu từ trưa 26/3 tại San Francissco Mỹ nhằm phản đối

các phương tiện truyền thông Mỹ bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh Iraq.

Andrea Buffa, Người phát ngôn của tổ chức nói: “Chúng ta đang thấy gì trên

CNN? Họ phát đi những hình ảnh về cuộc chiến tranh với những lời bình luận

của các cựu chiến binh hoặc các nhà báo chiến trường. Tuy nhiên, đó không

phải là sự thật”. Những người tham gia cuộc biểu tình cũng đã lên tiếng kêu

gọi các tập đoàn truyền thông phải tôn trọng sự thật, phải có trách nhiệm với

những gì họ cho đăng, phát chứ không phải những gì mà họ thích thêu dệt lên

theo sự chỉ đạo của những người đứng đầu. đất nước.

Trong cuốn sách có tựa: Cuộc chiến tốt nhất từ trước đến nay: Dối trá, vô

cùng dối trá, và mớ hỗn độn ở Iraq (Tarcher/Penguin, 2006), đồng tác giả

John Stauber và Sheldon Rampton đã khẳng định, các phóng viên truyền hình

thực sự đã xem nhẹ chứ không phải đưa quá đậm những tin tiêu cực về Iraq,

trong khi đó thông tin đăng tải trên các ấn phẩm cũng đã bị ''làm vệ sinh''.

Stauber và Rampton đã trích dẫn kết quả nghiên cứu của các chuyên gia

thuộc ĐH George Washington phân tích 1.820 câu chuyện tin tức từ 5 kênh

truyền hình lớn của Mỹ và kênh truyền hình vệ tinh Ảrập Al-Jazeera. Kết quả

cho thấy, ''tất cả các phương tiện truyền thông Mỹ hầu như rụt rè trong việc

đưa những cảnh thương vong của lính Mỹ, đồng minh, quân đội và thường

dân Iraq lên màn hình. Các báo in cũng không khá hơn. Tháng 5/2005, khi

phóng viên Los Angeles Times James Rainey viết bài đánh giá khoảng thời

gian 6 tháng của cuộc chiến - 559 lính Mỹ và phương Tây thiệt mạng tại Iraq -

- 33 -

độc giả của 6 tờ báo lớn và 2 tạp chí nổi tiếng là Atlanta Journal-Constitution,

Los Angeles Times, New York Times, St Louis Post-Dispatch, và Washington

Post không được nhìn thấy một tấm ảnh đơn nào về cảnh binh sĩ chết.

"Những phàn nàn của ông Rumsfeld chính là một sự méo mó thú vị về sự

thật, bởi thực tế chính quyền Mỹ đã chi hàng trăm triệu đô la cho chiến dịch

truyền thông vốn bị cho là thiếu hiệu quả'', Rampton trả lời trong một cuộc

phỏng vấn qua điện thoại.

Tờ Washington Post đưa tin: ''Giới chỉ huy quân đội Mỹ tại Baghdad đã

đưa ra đấu thầu trong thời hạn 2 năm một hợp đồng về quan hệ công trị giá

20 triệu USD nhằm kêu gọi các phương tiện truyền thông Mỹ và Trung Đông

nỗ lực thúc đẩy việc đưa tin tích cực hơn về Iraq''.

3. Ai là người nắm quyền chế biến thông tin về Iraq

Đó chính là người đứng đầu Lầu năm góc. Trước khi chiến tranh xảy ra,

Bộ quốc phòng Mỹ đã không ngừng gây sức ép đối với Cục tình báo Trung

ương Mỹ (CIA) để họ cung cấp các thông tin tình báo thuận lợi nhất cho cuộc

chiến tranh Iraq. Không chỉ dừng lại đó, Lầu năm góc còn tự “đẻ” thêm các

báo cáo với những thông tin chưa hề được kiểm chứng đề bào chữa cho hành

động xâm lược của mình. Tất nhiên, để có được những thông tin này, Lầu năm

góc cũng đã phải bỏ tiền ra mua từ những người Iraq lưu vong hay di tản

thuộc Đại hội Quốc dân Iraq mà cả CIA và Bộ ngoại giao Mỹ vốn chẳng mấy

tin tưởng. Một cựu thành viên của CIA cho hay, những thông tin từ Đạo hội

quốc dân Iraq rất không đáng tin cậy nhưng nó là điều mà bộ quốc phòng cần.

Điều đáng buồn là những thông tin này, sau đó lại được “xào nấu” lại cho

Tổng thống Mỹ “thưởng thức” cũng như được hợp thức hóa thông qua những

diễn văn của ống. Đến khi chiến tranh xảy ra, Lầu năm góc lại luôn là tâm

điểm của các cuộc chỉ trích vì đã điều khiển báo giới cho dù họ luôn rao giảng

rằng, khoảng 600 nhà báo có mặt cùng các đơn vị quân đội Mỹ chính là một

“lực lượng của sự thật” để đối chọi lại với tất cả những gì Mỹ cho là “dối trá”

- 34 -

của tổng thống Hussein.

Thực tế hiện nay cho thấy giới truyền thông Mĩ nói chung có khuynh

hướng ủng hộ cuộc xâm lăng Iraq, cho dù chính phủ Mĩ cố tình hạn chế sự tự

do của họ trong việc tường trình sự kiện, và bóp méo cũng như cung cấp

thông tin giả. Do đó, hiện nay tất cả các hình ảnh về cuộc chiến ở Iraq đều

hoàn toàn bị “vệ sinh hóa”. Giới truyền thông chỉ tường trình những gì mà

quân đội Mĩ và chính phủ Mĩ muốn nói.

Vì giới truyền thông Mỹ không thể tách rời khỏi sự ủng hộ của chính

quyền, đi ngược lại phương hướng chính trị đã định, giới truyền thông sẽ mất

chỗ dựa để tồn tại. Có thể nói, nếu giới truyền thông không làm theo ý nguyện

của chính quyền, sẽ không thể nào có được cái gọi là tin tức. Ví dụ: muốn cho

các phóng viên mặt trận nói theo chính quyền Mỹ, Bộ Quốc phòng Mỹ đã có

quyết định, đối với các phóng viên viết bài có lợi cho chính sách của Mỹ, sẽ

được chính quyền Mỹ trả một khoản nhuận bút không tồi.

VD3: SỰ THỜ Ơ CỦA BÁO CHÍ MỸ ĐỐI VỚI NGHI NGỜ VỀ

“MỐI ĐE DOẠ IRAG” – Theo Washington Post

Những tuyên bố của Tổng thống Mỹ Bush, Phó tổng thống Cheney và các

quan chức Nhà Trắng khác thường xuyên chiếm những phần diện tích quý báu

trên tờ Washington Post, thậm chí khi những lời cảnh báo đó lặp đi lặp lại.

"Chúng ta chẳng khác nào cái loa phát thanh của chính phủ. Nếu tổng

thống đứng dậy và nói điều gì đó, chúng ta tường thuật lại những gì ông ấy đã

nói", DeYoung nói. "Và nếu những ý kiến trái ngược được đặt ở đoạn thứ tám

và cũng không phải trên trang nhất thì nhiều người chẳng đọc đến đó".

Nhận xét trên được minh hoạ ngày 6/2/2003, một ngày sau khi Ngoại

trưởng Mỹ Colin Powell phát biểu trước Liên Hợp Quốc. Ông đã minh hoạ

bằng những bức ảnh chụp qua vệ tinh và những cuộc điện thoại nghe trộm để

thuyết phục thế giới rằng Hussein đang che giấu vũ khí huỷ diệt hàng loạt.

Một bài báo của DeYoung và Pincus nói về những thông tin tình báo chưa

từng được tiết lộ mà Powell đưa ra. "Đến tận trang 9 họ mới dùng một câu có

- 35 -

từ "tuy nhiên" và nói rằng "một số quan chức châu Âu và chuyên gia chống

khủng bố Mỹ tin rằng tuyên bố của Powell về mối liên hệ giữa Iraq và Al-

Qaeda đã được chuẩn bị kỹ lưỡng để tạo ra ẩn ý".

Hôm đó, Warrick tập trung vào đánh giá của vị ngoại trưởng, dựa chủ yếu

vào các nguồn tin sống, rằng Iraq có các nhà máy sản xuất vũ khí sinh học.

"Một số điểm trong bài phát biểu của Powell khiến người ta nghi ngờ",

Warrick viết. Bài báo của ông được đăng ở trang 28.

Downie nói rằng Washington Post đã có nhiều bài phân tích phát biểu của

Powell ở những trang trong. "Chúng tôi không có đủ bằng chứng để nói rằng

ông ấy đã sai", Downie nói về Powell. "Lôi một trong số những bài đó ra

trang nhất chẳng khác nào tuyên bố rằng ông ấy đã sai về những thanh

aluminum".

Những quyết định như vậy trùng với trang xã luận của tờ báo này, vốn ủng

hộ cuộc chiến, ví dụ như tuyên bố sau bài phát biểu của Powell rằng "thật khó

tưởng tượng có người nào đó lại nghi ngờ việc Iraq sở hữu vũ khí huỷ diệt

hàng loạt". Những bài phân tích này khiến một số độc giả kết luận rằng tờ báo

này chủ trương như vậy, mặc dù trang tin và xã luận không liên quan đến

nhau.

Hồi giữa tháng 3, khi Nhà Trắng chuẩn bị cuộc xâm lược Iraq, Woodward

đã can thiệp để bài viết của Pincus về việc chính quyền thiếu bằng chứng về

vũ khí huỷ diệt của Iraq được đăng ở vị trí nổi bật hơn.

"Chúng tôi không giữ nó vì bất kỳ lý do chính trị nào hay vì bị chính quyền

gây áp lực", Spayd nói. "Nhưng bởi những bài báo đó rất khó biên tập khi trên

bàn của ban biêp tập có quá nhiều các bản copy. Người ta đã quên rằng bài

báo này đang đề cập đến những vấn đề nào, các phái chính trị, sự sẵn sàng về

quân sự, các vấn đề xung quanh Iraq thời hậu chiến và việc chính quyền đã

chuẩn bị như thế nào, các mặt ngoại giao và Mỹ đang sở hữu vũ khí huỷ diệt

- 36 -

hàng loạt. Tất cả các bài đó đều cạnh tranh để được đặt ở vị trí nổi bật".

Woodward, ngôi sao của vụ Watergate, đã có nhiều thời gian để theo đuổi

những cuốn sách thuộc hàng best-selling. Woodward, một trợ lý chủ bút, đã

có những yếu tố mấu chốt của một môi trường báo chí mà Pincus không có.

Đánh giá của hai người đàn ông này là khác nhau. Woodward nói rằng sau

khi so sánh với những thông tin của Pincus, ông đã đưa bản nháp trong đó có

5 đoạn chính nói rằng theo giới thạo tin, những bằng chứng của Nhà Trắng về

vũ khí huỷ diệt của Iraq "có vẻ gián tiếp và thậm chí không chắc chắn". Pincus

cho rằng lời lẽ như vậy là quá nặng.

Pincus cho biết ông đã viết xong bài khi Woodward can thiệp và ông cho

rằng những thông tin mà người đồng nghiệp đưa ra chỉ là sự gợi ý vì thế ông

cũng không thay đổi gì nhiều. "Điều ông ấy làm chỉ là nói chuyện với các biên

tập viên và thuyết phục họ đăng bài đó".

Bất chấp những tuyên bố của chính quyền Bush về vũ khí huỷ diệt hàng

loạt của Iraq, hôm 16/3, Pincus bắt đầu bài báo của ông bằng dòng chữ "theo

các quan chức chính quyền và Quốc hội, các cơ quan tình báo Mỹ không thể

cung cấp cho Quốc hội hay Lầu Năm Góc những thông tin cụ thể về lượng vũ

khí cấm hoặc nơi cất giữ", khiến người ta nghi ngờ về việc liệu Nhà Trắng có

phóng đại thông tin tình báo hay không.

Woodward nói rằng ông ước là đã xin Dowie cho đăng bài báo đó lên trang

nhất chứ không phải đứng nhìn nó xuất hiện tận trang 17.

Còn Downie bình luận: "Khi nhìn nhận lại mọi việc, tôi thấy lẽ ra bài báo

đó phải được đăng ở trang nhất chứ không phải trang 17, thậm chí dù nó

không chắc chắn và chủ yếu dựa vào những nguồn tin giấu tên".

Những ngày trước chiến tranh, Priest và DeYoung đã nộp một bài nói rằng

các quan chức CIA "đã bày tỏ sự nghi ngờ với chính quyền" về những bằng

chứng nói rằng Iraq tìm cách mua uranium để sản xuất vũ khí nguyên tử. Bài

báo đó bị giữ lại cho đến tận ngày 22/3, ba ngày sau khi cuộc chiến mở màn.

Nếu báo giới Mỹ đã mạnh tay hơn thì có thể làm chậm tiến trình chiến

- 37 -

tranh hay không, điều đó vẫn chỉ là phỏng đoán. Song Downie cho rằng

những người phản đối chiến tranh và chỉ trích cách đưa tin của báo giới trước

cuộc chiến tin điều đó. "Họ có những ấn tượng sai lầm rằng nếu báo chí đã

đưa tin khác đi thì cuộc chiến đã không xảy ra", ông nói.

2. Báo chí là công cụ quản lý xã hội

Số lượng báo chí phát hành, nội dung tờ báo… cho biết trình độ dân trí

của một khu vực mà tờ báo đó phát hành. Vì vậy, TBCN can thiệp tới báo chí

để nắm bắt trình độ dân trí, phục vụ cho quyền lực của mình.

Dưới xã hội CNTB, các hệ thống chính trị thường phải dồn tối đa nỗ lực,

trí tuệ để khai dụng, bằng một phương cách khôn ngoan, khéo léo nhưng

không kém phần gay gắt, các phương tiện truyền thông tự do, để thuyết phục

và gây ảnh hưởng lên dân chúng về chính sách của họ. Quyền lực có được từ

vai trò chủ yếu là tự nhận này đã mang đến cho báo chí một danh hiệu đáng

kính là “quyền lực thứ tư”, sau ba nhánh quyền lực chính thức của nhà nước

(lập pháp, tư pháp và hành pháp). Đây cũng chính là vai trò đã truyền cảm

hứng cho Thomas Jefferson, một trong những người sáng lập ra nền dân chủ

Hoa Kỳ, khi tuyên bố cách đây khoảng 200 năm rằng: nếu ông phải chọn giữa

một bên là một chính phủ không có báo chí và một bên là báo chí không có

chính phủ, ông sẽ “không do dự một giây mà chọn cái thứ hai”.

Báo chí Hoa Kỳ ra đời vào thế kỷ XVIII, là một công cụ nhỏ của giới trí

thức tinh hoa và là một đại biểu trong đời sống chính trị của các đảng phái.

Được bảo vệ bởi sự can thiệp của chính phủ bằng một điều luật đã tồn tại 200

năm trong Hiến pháp Hoa Kỳ, báo chí đã tự mình trở thành một người giám

sát đối với đời sống chính quyền, người ghi lại các sự kiện công cộng và thậm

chí là người phân xử không chính thức các hành động của công chúng. Tại

Hoa Kỳ, các tạp chí, với hơn 11.000 loại, cũng phát hành với số lượng nhiều

hơn cả số người Mỹ đọc chúng. Mỗi hộ gia đình có ít nhất là ba chiếc đài thu

thanh và hơn 95% số hộ có tivi. Và có đến 65% dân số Mỹ thừa nhận rằng họ

không thể sống thiếu các phương tiện truyền thông. Như vậy, tác động của các

- 38 -

phương tiện này lên nhận thức của công chúng là rất lớn.

Truyền thông ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp lên chính trị, kinh tế và hầu

như mọi mặt xã hội, cho nên rất nhiều thành phần muốn sở hữu truyền thông

vì quyền và lợi, một cách tích cực lẫn tiêu cực. Truyền thông có thực quyền để

thương lượng với chính quyền và các thành phần khác và các chủ nhân truyền

thông có ưu thế chính trị để sẵn sàng trao đổi quyền lợi với giới chính trị trong

các chính sách có lợi cho hai bên. Thí dụ như trường hợp nhà đại truyền thông

Rupert Murdoch nổi tiếng sử dụng quyền lực và ảnh hưởng của mình lên chủ

nhiệm, chủ bút và nội dung các tờ báo ông sở hữu để qua đó ảnh hưởng lên

suy nghĩ của giới cử tri và các việc làm của chính quyền. Thí dụ, ông từng chỉ

thị các phóng viên của báo Chicago Sun-Times là không được chỉ trích Tổng

thống Ronald Reagan thời thập niên 1980

Khi báo chí, các đài phát thanh và truyền hình và báo chí trong nước được

hoạt động tự do thì họ sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho chế độ dân chủ.

Ngoài việc đóng vai trò là cơ quan giám sát các thể chế địa phương và cảnh

báo cho công chúng những vấn đề liên quan đến sự an toàn của cá nhân họ,

báo chí còn giúp người dân hiểu và tiếp cận với chính phủ ở nơi rất xa họ.

Cách đây nhiều năm, khi bốn ngân hàng lớn nhất ở Uruguay phải đóng cửa

trong cuộc khủng hoảng kinh tế, một ông cụ ở thị trấn Tucuarembo đã gọi

điện đến đài phát thanh ở địa phương nhờ giúp đỡ. Vợ ông bị ốm còn ông thì

không thể tiếp cận tài khoản để lấy tiền để trả cho bác sỹ. Những người làm

chương trình tại đài Zorilla đã liên hệ với đại biểu quốc hội trong khu vực của

ông, và chính người này đã giúp ông cụ liên hệ với Bộ Tài chính. Ông cụ sau

đó đã biết có một đạo luật khẩn cấp đang được thông qua để giúp những người

như ông có thể tiếp cận với tài khoản của mình.

Đối với những người làm chương trình ở đài phát thanh Tucuarembo, việc

giúp người dân trong thị trấn tiếp xúc với các cơ quan chính quyền và liên lạc

với nhau đã trở nên quen thuộc. Thính giả gọi điện để tìm những cuốn sách

khó tìm, tìm những con chó đã bị lạc, tìm việc làm và thuê nhân công. Maria

- 39 -

Martin, một đạo diễn chương trình phát thanh người Mỹ đã làm việc tại đài

Zorilla và rất ấn tượng trước sự thành công của nó, cho biết đài cũng phát bản

tin, thảo luận thông qua điện thoại và các cuộc phỏng vấn.

Người dân ở Angren, Uzbekistan, cũng có nguồn tin tương tự từ một đài

truyền hình. Họ gọi điện đến đài truyền hình TV-Orbita để trình bày những

bức xúc của họ cũng như những khó khăn khác của thị trấn trên bản tin của

đài. Cả giới chức lẫn người dân địa phương đều xem bản tin này. Khi chính

quyền cố gắng đóng cửa đài truyền hình đó để giữ ảnh hưởng chính trị của

mình thì người dân và những người tài trợ cho chương trình đã biểu tình và

chính quyền đã buộc phải để đài truyền hình này hoạt động trở lại.

Truyền thông, từ thời đơn sơ như báo chí cho đến truyền thanh, truyền hình

và bây giờ là Internet, luôn đóng vai trò giáo dục và uốn nắn suy nghĩ, quan

điểm con người trong tất cả các địa hạt nói trên.

3. Báo chí là công cụ tăng doanh thu cho nhà nước TBCN

Bản chất của TBCN là tạo ra lợi nhuận cho chính mình. Vì vậy, một miếng

mồi béo bở như báo chí chắc chắn không nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà

nước TBCN.

Trong nền kinh tế thị trường và trong bối cảnh thương mại hóa toàn cầu,

hầu như mọi lĩnh vực nghề nghiệp đều chịu ảnh hưởng của lợi ích về quảng

cáo và thương mại. Báo chí cũng không là ngoại lệ. Năm 1842, Mác viết:

“Điều tự do đầu tiên của báo chí là tính không thương mại” (Trích theo

Chibnall. Law and order of news: An analysis of crime reporting in the British

press. Nxb. Tavistock Publications, London, 1997, tr. 206). Tuy thế khi báo

chí chứng minh tính hiệu quả của nó như là một người đưa tin cho xã hội, các

mục tiêu thương mại đã được quan tâm nhiều hơn bao giờ hết.

Nguồn lợi mà các tập đoàn báo chí mang lại cho giới chủ thông qua hai

dạng thức chủ yếu : trực tiếp và gián tiếp. Nguồn lực trực tiếp thu được qua

việc bán các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ báo chí truyền thông và hoạt động

quảng cáo. Ở các nước công nghiệp phát triển, nguồn thu từ quảng cáo ngày

- 40 -

càng lớn, chiếm phần chủ yếu tổng doanh thu của các tờ báo, các đài phát

thanh truyền hình, còn những tờ báo phát không, có nghĩa là các hợp đồng

quảng cáo trở thành nguồn thu duy nhất. Nguồn lợi gián tiếp mà các tập đoàn

báo chí, truyền thông thu được qua việc tạo ra những ảnh hưởng chính trị, làm

thay đổi các chính sách của nhà nước, hình thành những điều kiện đầu tư

thuận lợi, những đơn đặt hàng béo bở. Về sâu xa thì đây mới là nguồn lợi to

lớn hơn mà các nhà tư bản hướng tới. Và là lý do quan trọng nhất để dẫn tới

sự liên kết báo chí với giới truyền thông với công nghiệp, tài chính, dịch vụ để

hình thành những tập đoàn độc quyền khổng lồ. Điều ấy cũng giải thích tại

sao các tập đoàn công nghiệp, tài chính khổng lồ ở mỹ và các nước phương

tây luôn đóng vai trò to lớn và tích cực trong bầu cử.

Các tập đoàn tư bản thông qua báo chí để quảng bá, quảng cáo, giữ gìn,

đánh bóng thương hiệu của mình, dùng báo chí làm cầu nối giữa sản phẩm của

mình với công chúng. Hơn nữa, báo chí lại là ngành kinh doanh ra tiền. Các

tài phiệt truyền thông như Rupert Murdoch cho chúng ta thấy kinh doanh các

loại hình media cho lợi nhuận khổng lồ, chủ tòa báo hoặc nhà in thường là

một doanh nhân nhiều hơn là một nhà báo.

Từ khi khai sinh, mục đích thương mại của báo in đã rất rõ ràng. Tờ

Anzeiger (nghĩa là người quảng cáo) xuất bản ở Dresden (Đức) năm 1730,

theo nhà nghiên cứu Anthony Smith, đã tự cho mình là phục vụ tất cả những

ai trong hay ngoài thành phố muốn mua hay bán, cho thuê hay đi thuê, cho

vay hay đi vay. Ở Mỹ, trong thời gian thuộc địa, thương mại đã là một yếu tố

tiên quyết của báo chí ( theo M, Emery và E, Emery, The Press and America:

An Interpretive History of the Mass Media, xuất bản lần thứ 6, Nxb. Prentice-

Hall, 1988, tr. 19, 20). Nhu cầu về buôn bán hàng hoá tiêu dùng, đặc biệt

thông tin về những chuyến tàu chở hàng từ bên kia đại dương để lại kết quả là

các tờ báo ban đầu hầu hết đều gắn với từ “người quảng cáo” (advertiser)

trên vi-nhét.

Vai trò của nhà báo đã thay đổi sâu sắc nếu chúng ta đồng ý với ý tưởng

- 41 -

của Simon Canning trên tờ The Australian: “Mọi thứ có thể sẽ thay đổi và

nhà báo sẽ sớm thấy công việc của họ không chỉ là phản ánh sự kiện, mà

chính là phương tiện mà các nhà quảng cáo phát tán thông điệp của mình”.

Thậm chí báo chí và thương mại đã luôn sát cánh kề vai, Canning cũng chỉ ra

rằng quảng cáo đã kiếm được rất nhiều lợi nhuận bằng cách đặt các thông điệp

quảng cáo của họ cạnh tin tức. Như thế, các nhà báo đã “bị ép để cho những

thông tin thương mại giống như thế trở thành tin tức”.

Internet cung cấp một môi trường tuyệt vời cho ngành quảng cáo và do đó

báo chí điện tử dù muốn dù không cũng bị ảnh hưởng. Một ví dụ mà Canning

đưa ra là phần mềm quảng cáo gọi là IntelliTXT của công ty quảng cáo trực

tuyến Vibrant Media ở Mỹ. Khi các nhà quảng cáo sử dụng hệ thống này, họ

có thể biến hàng trăm từ trong bài báo có tiềm năng gây thu hút về sản phẩm

của họ mà bạn đọc có thể đọc, sang dạng có kết nối đến quảng cáo. Và chỉ cần

di con chuột đến vị trí từ đó, một màn hình nhỏ sẽ hiện ngay ra mời gọi người

đọc nhấn chuột vào trang quảng cáo chính thức. Ứng dụng này khiến các

chuyên gia báo chí Mỹ lo ngại về việc nhà báo chọn từ khi viết, bởi họ sẽ

Riêng ngành công nghiệp báo in Mỹ: thu nhập tăng từ 12.2 tỉ USD vào

hướng tới những từ dễ được chuyến sang kết nối đến trang quảng cáo.

năm 1975 lên 54.9 tỉ USD năm 2000. Nói cách khác, báo in đã thu nhập tăng

gấp 2.5 lần từ quảng cáo ở năm 2000 so với năm 1950. (Robert G. Picard.

Commercialism and newspaper quality. Tạp chí Newspaper Research

Journal, Quyển 25, số 1, Mùa Đông 2004, tr. 54)

Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác dẫn tới sự can thiệp của nhà nước

TBCN đối với báo chí như: nguyên nhân về văn hoá, nguyên nhân về khoa

- 42 -

học kỹ thuật… Tuy nhiên, chúng tôi chưa có điều kiện tổng hợp hết.

CHƯƠNG III: QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI VỚI

BÁO CHÍ

I. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP GIÁN TIẾP TỚI BÁO CHÍ

Trong nhiều trường hợp, nhà nước TBCN không trực tiếp nhúng tay vào

dòng chảy của báo chí mà thông qua các ông chủ tập đoàn, từ đó tạo áp lực

lên các cơ quan báo chí bằng nhiều hình thức: thao túng cơ quan báo chí

hoặc xây dựng các cơ quan báo chí…

1. Nhà nước TBCN xây dựng cơ quan báo chí

Khi nhà nước TBCN đứng ra xây dựng hoặc mua cổ phần các cơ quan báo

chí, tức các cơ quan báo chí đó thuộc về chính quyền, phục vụ cho lợi ích của

chính quyền, và chịu sự giám sát chặt chẽ.

VD1: Vào năm 1998, chính phủ Tony Blair của Anh Quốc đã thành lập

một Bộ Phận Truyền Thông Chiến Lược (the Strategic Communications

Unit), bao gồm các ký giả và nhân viên thông tin, để giúp điều hợp thông tin

liên lạc cũng như để viết bài cho các vị Bộ Trưởng. Thêm vào đó, trong thời

đại thế giới thay đổi nhanh chóng hàng ngày, giới chính trị ngày càng lệ thuộc

vào những chuyên gia truyền thông để hoạch định chiến lược hầu ảnh hưởng

lên chương trình nghị sự (của các cơ quan truyền thông chính mạch mỗi ngày)

cũng như tác động và xoay chuyển (spin) giới ký giả để cho các bài tường

trình trên báo, truyền thanh hay truyền hình đi theo chiều hướng thuận lợi nhất

cho họ. Cũng trong thời đại này, thiếu khả năng để chủ động quản lý truyền

thông sẽ làm cho đảng phái đó mất thế thượng phong, và có thể mất cả vị trí

ảnh hưởng, dù trước đây có mạnh lớn cỡ nào. Nói tóm lại, truyền thông chính

trị trở thành một thành tố quan yếu trong các hệ thống chính trị dân chủ hiện

nay.

VD2: HÃNG THÔNG TẤN AFP

Charles Louis Havas đã sáng lập ra Agence Havas vào năm 1835 nhằm

- 43 -

cung cấp thông tin cho báo chí, tạp chí định kỳ vào các tạp chí khác ở Pháp.

Tuy nhiên cũng chính quyền lực về thị trường truyền thông và tin tức đã dẫn

đến sự sụp đổ của Agence Havas ngay đầu thế chiến thứ hai. Khi đó, Agence

Havas đã bị tước bỏ những dịch vụ phân phối truyền thông của nó và bị chính

quyền Pháp tiến hành quản lý, kiểm duyệt. Nó được đổi tên thành Office

Fancs d’information (French Information Office - FIO) vào 1940. Tiếp theo,

hãng thông tấn mới này nhanh chóng bị thâu tóm bởi Bazis sau khi Pháp đầu

hàng phát xít Đức. Mạng lưới phân phối trước đây của Agence Havas được sử

dụng lại phục vụ cho Nazi và chính quyền Vichy.

Năm 1944 việc hoạt động của hãng FIO được điều khiển bởi một nhóm

cựu thành viên của Fench Resistance và FIO được đổi tên thành Agence

France-Press (AFP). Những người này lấy lại quyền điều hành và nhanh

chóng lấy lại được cơ cấu cũng như danh tiếng toàn cầu của Agence Havas

trước đây. Tuy nhiên việc trợ vốn sâu sắc của chính quyền đã làm cho AFP

không lâu sau đó chịu sự kiểm soát của chính quyền.

AFP vẫn còn là một cánh tay đắc lực của

chính phủ cho đến 1950. Khi đó hãng đối mặt

với sự cạnh tranh mới trong nước với hãng

Agece Centrade Presse hoạt động từ 1951 cũng

như các hãng thông tấn quốc tế là AP, Reuters…

Trong khi các hãng thông tấn khác hoạt động độc

lập và có khuynh hướng về thương mại thì AFP

bị giới hạn như là một hãng thông tấn chính phủ.

Tuy nhiên dưới sự dẫn dắt của Jean Marin là CEO từ 1954 đến 1975, AFP bắt

đầu có cải cách nhằm thay đổi trong hoạt động của nó.

Năm 1957, AFP được một số tự do không những cho việc phát triển

thương mại mà còn cho cả chính sách biên tập của nó. Tuy nhiên, chính quyền

pháp vẫn còn giữ sự kiểm soát mạnh mẽ trong mọi hoạt động của hãng. Trong

khi luật mới ban hành vào tháng 10-1957, AFP được hoạt động độc lập với

- 44 -

những quyền dân sự, luật còn ngăn cấm hãng tích góp vốn thông qua việc bán

cổ phần cho các nhà đầu tư tư nhân. Trong cùng thời gian đó thì luật cũng yêu

cầu hãng báo cáo ngân sách cân đối cho mỗi năm. Một gánh nặng cho hãng là

phải cung cấp cho các khách hàng thiết yếu bao gồm tám nhà đại diện từ các

tờ báo ngày trong nước và năm nhà đại diện của chính phủ nằm trong ban điều

giám đốc của AFP.

Trong khi các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều do tư nhân nắm

quyền thì AFP lại được điều khiển bởi nhà nước Pháp. Tuy thế, AFP vẫn là

một hãng thông tấn lớn không chỉ vì nó tồn tại lâu đời nhất mà còn bởi uy

tính cung cấp sản phầm, dịch vụ có chất lượng.

2. Sự liên minh, tập trung hóa trong hoạt động truyền thông

Báo chí ở các nước tư bản ngày càng có xu hướng thu hẹp diện tích sở

hữu. Các tập đoàn lớn thao túng, nuốt các tập đoàn nhỏ hoặc sát nhập lại với

nhau khiến cho sự phong phú về tiếng nói bị giảm thiểu. Cho dù không có sự

can thiệp trực tiếp của các ông chủ tư bản đến báo chí thì sự sở hữu tập trung

này cũng gây ra ảnh hưởng rất lớn, bởi các tờ báo cũng một hệ thống thì

không thể có quan điểm trái ngược nhau hay khác nhau được.

Về cơ bản, các tập đoàn báo chí ở các nước tư bản hình thành trên cơ sở

cạnh tranh, tích tụ tư bản, cá lớn nuốt các bé hoặc các công ty báo chí truyền

thông tự nguyện liên kết lại bằng hình thức mua bán hay sát nhập với nhau

nhằm tăng nguồn lực, tạo ra sức mạnh đủ khả năng cạnh tranh để tồn tại và

phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Cũng có thể, các quá trình

diễn ra giữa các tập đoàn kinh tế công nghiệp thương mại, dịch vụ với các

công ty báo chí truyền thông nhằm mở rộng lĩnh vực kinh doanh, tạo ra lợi thế

xã hội trong phát triển.

Trong xu hướng tích tụ và tập trung tư bản như ngày nay, các công ty báo

chí truyền thông ngày càng bành trướng mạnh mẽ bằng cách mua lại, sát nhập,

thôn tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh. Với việc bỏ ra hàng tỷ

đôla, các ông chủ này đã đẩy nhanh những sự tập hợp mới trong lĩnh vực báo

- 45 -

chí, truyền thông địa chúng, tạo ra quy mô hoạt động, sức mạnh ảnh hưởng

vượt ra ngoài biên giới quốc gia, phạm vi khu vực. Theo số liệu của công ty

nghiên cứu thị trường Dialogic, trong 5 tháng đầu năm 2007 trên toàn thế giới

đã ghi nhận 372 bản hợp đồng sát nhập mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo

chí truyền thông với tổng giá trị lến đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp

đồng sáp nhập giữa Google với Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-

2007, hợp đồng sát nhập giữa Yahoo với Right Media trị giá 680 triệu USD.

Có thể thấy báo chí ngày nay phát triển theo 2 xu hướng sau:

Xu hướng thứ nhất là phát triển theo chiều dọc. Đó là sự phát triển nhằm

đảm bảo sự bao quát đầy đủ các công đoạn sản xuất một loại hình sản phẩm

truyền thông (lập chương trình, sản xuất, phát hành hoặc phân phối), hoặc sự

bành trướng, liên kết trong nội bộ các loại hình báo chí truyền thông nhằm

tăng cường ưu thế, sức mạnh trong cạnh tranh. Ví dụ như báo chí chỉ tập trung

vào phát triển tất cả các công đoạn của 3 loại hình dịch vụ chính của mình là

phát thanh, truyền hình và trang web trên khắp toàn cầu. Ở Mỹ, có thể nói

Gannett là tập đoàn báo chí truyền thông có số lượng đầu báo lớn nhất. Tập

đoàn này đang sở hữu 90 tờ nhật báo (trong đó có USA Today - một trong 2 tờ

có quy mô toàn quốc và Wall street Jourmal - tờ báo hàng đầu về tài chính,

kinh tế ở mỹ), 36 tờ báo định kỳ khác, kiểm soát 10 đài truyền hình, 16 dài

phát thanh và một công ty quảng cáo lớn nhất nước Mỹ.

Hãng Turmer Broadcastinh System do Robert Edward Turner sáng lập năm

1963 lại thành công và nổi tiếng chủ yếu do sự nổi tiếng và phát đạt của kênh

truyền hình CNN. Được thành lập và đi vào hoạt động từ 1/6/1960 đến nay

CNN đã phủ sóng toàn cầu thông qua vệ tinh, cung cấp dịch vụ tin tức truyền

hình cho hơn 55 triệu gia đình ở Mỹ và hàng tỷ dân của 92 nước trên thế giới.

Năm 1995, CNN đã sát nhập vào tập đoàn Time Warner - một đế chế truyền

thông có tài sản trị giá 18 tỷ USD.

Xu hướng thứ hai là liên kết và bành trướng theo hàng ngang, đầu tư vào

những ngành khác như tạo sự liên kết những ngành báo chí truyền thông, công

- 46 -

nghiệp, tài chính, dịch vụ rất xa nhau để hỗ trợ lẫn nhau, hạn chế rủi ro, tăng

cường sức mạnh. Theo xu hướng đó, năm 1986, công ty General Electric đã

mua mạng truyền hình mỹ NBC, công ty viễn thông khổng lồ mỹ AT&T năm

1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ thống truyền hình cáp TCI, rồi đến năm

2004 thôn tính tiếp mạng Mediaone. Từ năm 1999, tập đoàn Viacom đã thôn

tính công ty điện ảnh Pamount và hãng truyền hình CBS. Năm 2000, tập đoàn

AOL tuyên bố hợp nhất với Time Warner. Còn Vivendi và Canal Plus, một

tập đoàn tư bản pháp đã hợp nhất với Seagram, hay việc Rupert Murdoch đã

len chân vào ngành truyền hình phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia, Đức và

đang chuẩn bị thực hiện đồng sáp nhập với tập đoàn Newscorp có trị giá vài tỷ

USD.

Một nghiên cứu của giáo sư Piter Philips, trường đại học Sonoma cho thấy

118 người là thành viên hội đồng quản trị của 10 tập đoàn báo chí lớn nhất

nước Mỹ đồng thời có mặt ở hội đồng quản trị của 288 tập đoàn kinh tế khác,

trong khi các tập đoàn Tribune, New York Times và Gannettt đều có thành

viên ở hội đồng quản trị của tập đoàn Pepsi, thì Cocacola và J.P.Morgan lại có

đại diện ở ghế hội đồng quản trị của cả NBC và Washington Post. Thực tế này

cho thấy sự liên kết chặt chẽ giữa các tập đoàn báo chí với các tập đoàn kinh

tế.

Cả hai xu hướng phát triển theo chiều dọc và liên kết, bành trướng theo

chiều ngang của các tập đoàn báo chí đều dẫn tới một kết cục chung là tình

trạng tập trung, độc quyền ngày càng gia tăng. Nếu như vào năm 1892, chuỗi

mắt xích đầu tiên ở Mỹ với sự góp nhặt của 5 tờ báo, thì ngày nay 50 tập đoàn

lớn đang kiểm soát hầu hết các phương tiện truyền thông đại chúng của nước

Mỹ, theo một nghiên cứu của tờ The Washington Post, trong những năm tới,

chắc chắn toàn bộ báo chí Mỹ sẽ tập trung trong 12 tập đoàn lớn, ở các nước

châu âu, tình trạng này cũng diễn ra tương tự, nhiều tờ báo lớn nhỏ hoặc là

đóng cửa, hoặc là trở thành bộ phận của các công ty lớn, nhiều tờ báo nổi

tiếng cũng không thể tồn tại độc lập mà đã phải bán lại cho các tập đoàn

- 47 -

xuyên quốc gia.

Theo kết quả một cuộc thăm dò dư luận do BBC tiến hành cho thấy rằng

có sự lo ngại tại một số quốc gia về sự tập trung sở hữu báo chí tư nhân trong

tay của một số ít các công ty lớn.

Tại Brazil, Mexico, Mỹ và Anh, hơn 70% số người được hỏi đã đồng ý với

quan điểm là sự tập trung sở hữu là một vấn đề đáng lo ngại bởi vì những

quan điểm chính trị của những người sở hữu sẽ được lồng vào các tin tức.

Những người được hỏi tại Đức đánh giá rất thấp các hãng báo chí tư nhân

với chỉ 18% số người được hỏi cho rằng các hãng này đưa tin chính xác.

Nhưng tỷ lệ này đối với các hãng báo chí của nhà nước thậm chí còn thấp hơn.

Chỉ tại Ai Cập, Đức, Nga và Singapore, những người được hỏi đánh giá

báo chí nhà nước cao hơn so với các hãng truyền thông tư nhân.

Cuộc thăm dò này do hai hãng nghiên cứu quốc tế GlobeScan và Synovate

tiến hành.

Một số công ty truyền thông Mỹ đang xây dựng chiến lược cổ phần hóa.

Đây tưởng chừng như một giải pháp kinh tế khá hữu hiệu đối với các công ty

truyền thống nhưng khi nhà đầu tư là các phe phái chính trị thì tính hiệu quả

của chiến lược này còn nhiều điều phải bàn.

Thực tế cho thấy, trong cơ cấu các công ty truyền thông đã tiến hành cổ

- 48 -

phần hóa ở Mỹ, ban lãnh đạo hầu hết là thuộc một đảng phái chính trị.

Chẳng hạn như ở Clear Channel, đài phát thanh lớn nhất nước Mỹ, người

nắm giữ cổ phần chi phối là Mitt Romney, một ứng cử viên tranh chức tổng

thống Mỹ. Điều này đã ảnh hưởng thế nào đối với hoạt động của Clear

Channel?

Thử đơn cử ra đây một ví dụ, đó là việc phát sóng album nhạc Magic của

ca sỹ Springsteen. Đây là album bán chạy nhất nước Mỹ tháng 10/2007. Hàng

triệu thính giả hồi hộp chờ nghe đài phát thanh lớn nhất nước Mỹ phát sóng

những ca khúc bất hủ trong album này.

Tuy nhiên, Clear Channel được lệnh từ ban lãnh đạo không phát sóng bất

cứ một bài hát nào trong album Magic, đơn giản bởi vì nội dung các bài hát

trong album đi ngược lại với đường lối chính trị mà ngài Mitt Romney theo

đuổi. Đài phát thanh này biện hộ bằng lý do hết sức ngớ ngẩn rằng: “Vì

Springsteen đã quá già”. Nhưng sự thật thì người ta vấn thấy nó phát sóng

nhiều bài hát ở các album khác của Springsteen. Giờ đây Clear Channel đã trở

thành cánh tay chính trị trung thành của Romney Mitt. Và dường như những

mục tiêu kinh tế khi vạch ra chiến lược cổ phần hóa của công ty đã bị bỏ quên

Một ví dụ khác minh chứng thêm cho ảnh hưởng tiêu cực khi cổ phần chi phối

của các công ty truyền thông Mỹ được bán cho các thế lực chính trị là tin tức

về một vụ không kích vào khu căn cứ của Syria hồi tháng 9/2007. Vấn đề

xoay quanh tổ chức nào đã thực hiện vụ tấn công: Mỹ hay Israel?

Đây thực sự là một tin tức rất quan trọng và cần phải được đăng tải để

người dân được biết. Tuy vậy, một số hãng truyền thông đã lờ đi tin tức này,

bởi vì ban lãnh đạo của công ty - các nhà chính trị có ảnh hưởng không muốn

phanh phui sự việc khi nó không có lợi cho chính sách của họ. Ở đây, vấn đề

không chỉ là sự thay đổi định hướng của công ty đã đi ngược lại với những lợi

ích kinh tế mà còn là nguy cơ mai một bản chất khách quan khi đăng tải thông

tin của các công ty truyền thông. Khi các thông tin về những sự kiện chính trị

- xã hội diễn ra trong đời sống thường ngày không được đăng tải một cách đầy

- 49 -

đủ và khách quan thì liệu còn ai muốn theo dõi chúng? Nếu cứ tiếp tục duy trì

tình trạng để cổ phần chi phối rơi vào tay một số thế lực chính trị trong cuộc

đua gây ảnh hưởng đối với công chúng, thì cổ phần hóa không phải là một giải

pháp lâu dài. Đó là điều cần tâm niệm của các công ty truyền thông truyền

thống đang muốn tái cơ cấu và hiện đại hóa trước sức cạnh tranh khốc liệt của

truyền thông trực tuyến.

VD: ẢNH HƯỞNG TỪ ÔNG CHỦ TẬP ĐOÀN MURDOCH

Hiện nay, Murdoch đang sở hữu kênh truyền hình Fox, American Idol và

kênh phim truyện giải trí The 20th Century Fox; Myspace - một mạng cộng

đồng phổ biến nhất trên thế giới. Ngoài ra, Murdoch cũng chính là chủ sở hữu

của những tờ báo lớn nhất nước Anh như The Sun, The Times và The

Sunday. BSkyB của nước Anh, một vài trung tâm xử lý vệ tinh ở Châu Âu,

tờ nhật báo hàng đầu tại Australia, nhà xuất bản HarperCollins đều là

những “thành viên” trong “đại gia đình truyền thông” News Corp của

Murdoch. Tại Châu Á, Murdoch có Star TV, kênh truyền hình vệ tinh hàng

Sơ đồ “đế chế truyền thông” của Murdoch trên toàn thế giới (Điểm màu trắng)

- 50 -

năm mang lại cho News Corp hơn 30 tỉ đô la Mỹ.

Chỉ cần nhìn vào danh mục tài sản truyền thông mà Murdoch sở hữu tại

nước Anh là người ta đã có thể hình dung về những ảnh hưởng của Murdoch

trong lĩnh vực chính trị và kinh doanh.

Murdoch là ông chủ có tư tưởng thân chính phủ. Murdoch có một đường

dây nóng với cựu thủ tướng Tony Blair. Trong những thời điểm “nhạy cảm”

như bầu cử, đường dây này hoạt động không hề ít (theo nguồn tin tự do của tờ

Independent). Ví dụ như trong vòng 9 ngày trước khi cuộc chiến giữa Mỹ và

Iraq nổ ra, đường dây này đã 3 lần kết nối Murdoch với Tony Blair!

Trường hợp thứ 2, khi chiến tranh Mỹ - Iraq nổ ra, tờ The Sun của

Murdoch đã làm một cuộc điều tra về lí do không tham chiến của Tổng thống

Jacques Chirac. Đây như một cách “chọc ngoáy” cay nghiệt vào phe phái

những người Mỹ ủng hộ chiến tranh Iraq. Bởi rất có thể, sự thực về cuộc chiến

nếu được “phanh phui trần trụi” thì hậu quả khó mà tưởng tượng được. Và rất

nhiều vụ chế biến thông tin từ cuộc chiến tranh Iraq nhằm mục đích có lợi cho

chính phủ Mỹ cũng đã đồng loạt diễn ra trên các tờ báo dưới quyền của

Murdoch.

Sự kiện nóng bỏng nhất, đang được quan tâm nhất chính là cuộc chạy đua

vào Nhà Trắng giữa Hillary Clinton và Barack Obama. Đảng Dân Chủ lo

ngại, điều gì sẽ xảy ra nếu Murdoch công khai ủng hộ ứng cử viên nào là

người có đủ kinh nghiệm và năng lực để trở thành Tổng thống?

Từ sự chi phối về quyền lực trong chính trị, người ta tất yếu có nỗi lo lắng

tương tự về sự chi phối của Murdoch trong lĩnh vực kinh doanh.

Cứ tưởng tượng, trong một thành phố lớn của nước Mỹ, không ai được sở

hữu đồng thời hơn 1 tờ báo và một kênh truyền hình. Nhưng với Murdoch thì

khác. Việc sở hữu thêm Newsday sẽ càng củng cố vị trí “ngoại lệ” của

Murdoch. Liệu còn sự cạnh tranh thông tin hay không khi tất cả báo chí đều

- 51 -

thuộc tay một ông chủ?

3. Can thiệp thông qua đạo đức báo chí

Ở phương Tây, đạo đức rất được coi trọng. Chính vì vậy, ở tất cả các nước

TBCN đều có quy định về đạo đức báo chí. Những quy định này có thể do hiệp

hội những người làm báo đặt ra, cũng có thể là đạo đức báo chí áp dụng

riêng cho một tờ báo mà ông chủ của tờ báo đó chịu trách nhiệm. Như vậy,

nhà nước TBCN cũng gián tiếp can thiệp tới báo chí thông qua những quy

định về đạo đức báo chí này.

Trong bất kì cuốn sách báo chí nào của các nước TBCN, không bao giờ

thiếu một chương rất quan trọng, đó là Đạo đức báo chí. Vấn đề đạo đức báo

chí ở các nước TBCN lại phụ thuộc vào nền tảng văn hóa và quan điểm của

văn minh phương Tây.

Chính quyền không thể xử lý báo chí vi phạm đạo đức báo chí nhưng sẽ

lên án, phê bình và cảnh báo nó. Và những áp lực về đạo đức báo chí không

khác gì những bản án xử phạt của Luật pháp.

VD: VỤ ÁN TRANH BIẾM HỌA MOHAMMAD

Diễn Biến Câu Chuyện

Ngày 30/9/2005: 12 bức tranh biếm hoạ mô phỏng hình ảnh Nhà tiên tri

Mohamed được tờ Jyllands-Posten của Đan mạch đăng tải.

Ngày 20/10: Thủ tướng Đan Mạch nhận được phàn nàn từ 11 nước song từ

chối can thiệp.

Ngày 10/1/2006: Tờ Magazinet của Na Uy lại đăng tải những bức tranh

này.

28/1/2006: Sau một đợt tẩy chay, công ty Arla của Đan Mạch và Thuỵ

Điên đã xoa dịu người Hồi giáo bằng những mẩu quảng cáo đăng trên các báo

ở khu vực Trung Đông.

29/1: Ảrập Xêút kêu gọi tẩy chay thực phẩm Đan Mạch và triệu hồi phái

viên từ Copenhagen về nước. Libya cũng tuyên bố sẽ đóng cửa Sứ quán nước

- 52 -

này tại Đan Mạch.

30/1: Biên tập tờ Jyllands-Posten xin lỗi. Các tay súng bao vây văn phòng

của EU tại Dải Gaza.

31/1: Đan Mạch yêu cầu công dân không nên tới Ảrập Xêút

1/2: 7 tờ báo tại châu Âu đồng loạt tái đăng các bức tranh để bày tỏ tinh

thần đoàn kết với tờ Jyllands-Posten

2/2: Tờ Shihan tại Jordan tái đăng tải những bức tranh. Các tay súng Gaza

tái chiếm văn phòng EU.

3/2: Nhóm biểu tình ở Indonesia vượt qua hàng rào cảnh sát, xông vào đập

phá sảnh chính của Đại sứ quán Đan Mạch tại thủ đô Jakarta

Nổi bật trên các bản tin của các hãng truyền thông quốc tế kể từ giữa tháng

Giêng năm 2006 là thông tin xoay quanh việc một tờ báo Đan Mạch và sau đó

là một số tờ báo Tây Âu đăng tải chuỗi hình biếm hoạ Đấng Tiên Tri

Muhammad, trong đó có hình vẽ Đấng Tiên Tri Muhammad như một tên

khủng bố.

Những cuộc tranh luận lớn trong

giới phân tích về nguyên nhân của

cuộc khủng hoảng này tập trung vào

hai hướng chính: hoặc đưa ra vấn đề

“quyền tự do ngôn luận” và trách

nhiệm của báo chí trong việc tôn

trọng các giá trị tôn giáo, đặc biệt là

các giá trị tôn giáo nhạy cảm; hoặc

lên án các lực lượng Hồi giáo quá

khích trong việc kích động làn sóng

chống phương Tây.

Về hoàn cảnh nước Đan Mạch, chỉ

có hai bài báo, tờ Le Figaro ngày

- 53 -

4/2/06 và tờ Libération ngày 13/2/06,

cho một số chi tiết về bầu khí chính trị Một phần chuỗi hình biếm họa

của xứ này. Đây là một quốc gia nhỏ (5,4 triệu dân số) cộng tác tích cực với

Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq (chuyên chở khí giới, gửi quân tham chiến).

Đạo Tin Lành (truyền thống Luther) là quốc giáo (Giáo sĩ ăn lương Nhà

Nước, có đặc quyền về đăng ký ngày sinh, và giáo lý thuộc môn học bắt

buộc). Đan Mạch không cho phép người Hồi Giáo xây Mosquées và minarets.

Tờ Jyllands - Posten là tờ nhật báo phổ biến nhất, với 700 000 độc giả, đã cho

in 12 bức tranh, trong đó có hình Muhammad đội khăn và quả bom có mồi

lửa. Tờ Politiken, cũng là một nhật báo quan trọng, đứng ngoài cuộc và còn tố

cáo đồng nghiệp đã muốn sỉ nhục người Hồi Giáo. Thủ tướng Fogh

Rasmussen rất hãnh diện là chính phủ của ông đã giảm 80% số người di dân

và 65% số người đoàn tụ gia đình nhờ vào chính sách khắt khe về tài chính và

pháp luật. Người dân Đan Mạch rất ít giao thiệp với người Hồi Giáo và những

diễn biễn vừa đây không giúp họ thay đổi thái độ. Vậy các bức tranh chỉ là

mặt nổi của hiện tượng tranh đấu chính trị và tâm lý bài ngoại của người bản

xứ. Thêm vào đó thủ tướng có lẽ không ý thức được tầm quan trọng của vấn

đề khi lúc đầu ông không chịu nói chuyện với 12 đại sứ Hồi Giáo, với lý do là

có gì bất bình với một tờ báo thì cứ kêu gọi đến các toà án, chính phủ không

có chịu trách nhiệm về đường lối của báo chí.

Tờ Jyllands - Posten đã xin lỗi cộng đồng Hồi Giáo, với lý do: tờ báo

không thể ngờ là đã gây ra những phản ứng mãnh liệt và có nguy cơ cho

người Đan Mạch như vậy: “Chúng tôi xin lỗi” - dòng chữ in trên tấm vải ở

Cô-pen-ha-gen được báo chí phổ biến để diễn tả nguyện vọng của người bản

xứ. Nhưng đó chỉ là chuyện của báo chí hay dân chúng. Chính phủ ở hoàn

cảnh khác. Chính phủ Đan Mạch không có gì phải xin lỗi cả. Lập trường này

được Toà Thánh La Mã ủng hộ.

Nhưng người Hồi Giáo nhìn về tương lai. Họ muốn là Liên Hiệp Quốc cấm

đoán báo chí đùa giỡn với Muhammad. Nhiều thỉnh nguyện thư được gởi tới

- 54 -

tống thống Pháp nhằm mục đích này. Ta có thể đoán là các cuộc thương lượng

của các nước Châu Âu , chứ không phải riêng nước Đan Mạch, là tìm một giải

pháp nào đó, trong cái logic juridique của người phương Tây.

Giới hạn của tự do

Tự do là một trong những giá trị phổ quát của dân chủ, là nền tảng quan

trọng bậc nhất cho sự tồn tại và phát triển của con người. Tuyên ngôn Nhân

quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 từng đưa ra một định nghĩa kinh điển

về tự do không chỉ cho phương Tây mà cho toàn nhân loại: tự do là được làm

tất cả những gì không gây hại cho người khác. Nói như vậy để thấy rằng, tự

do luôn gắn liền với trách nhiệm và tự do cũng có những giới hạn mà người ta

không thể vượt qua.

Sự kiện tranh biếm họa đấng tiên tri Mohammad đã đặt ra không ít câu hỏi

“đau đầu” cho giới nghệ sĩ và giới truyền thông về giới hạn của tự do. Chính

họ, chứ không ai khác, phải tự tìm cho mình cách xử lý tối ưu mối quan hệ

giữa tự do và đạo đức nghề nghiệp khi đối diện với đề tài có tính nhạy cảm

cao độ: tôn giáo.

Tự do sáng tạo là bản năng của người nghệ sĩ và mức độ sáng tạo là tiêu

chí đánh giá tài năng của họ. Khi người nghệ sĩ “sáng tạo” theo đơn đặt hàng

để phục vụ cho một mưu đồ chính trị nhằm chống lại một tôn giáo hoặc một

cộng đồng người, họ phải nhận thức được tầm quan trọng và hậu quả của

những việc mình làm. Từ chối “sáng tạo” trong trường hợp đó là cách để thể

hiện trách nhiệm xã hội và cả quyền tự do của người nghệ sĩ.

Ranh giới giữa kiểm soát xã hội và sự độc lập của cá nhân trong lĩnh vực

nghệ thuật rất mong manh. Người nghệ sĩ phải có đủ bản lĩnh để biết cách

kiểm soát bản thân và luôn ý thức được rằng, sáng tạo nghệ thuật đồng nghĩa

với tôn vinh văn hóa nhân loại. Và bất cứ một tác phẩm nào mang danh nghệ

thuật để chuyển tải những âm mưu kích động thù hằn, xung đột tất yếu sẽ bị

lên án và tẩy chay.

Bên cạnh đó, quyền tự do ngôn luận vốn được báo giới phương Tây sử

- 55 -

dụng như một lời biện hộ cho mọi hành xử của mình cũng cần phải được nhìn

nhận lại. Khi tự do ngôn luận được coi là giá trị nền tảng của nền dân chủ

phương Tây thì sự khoan dung và tôn trọng mọi niềm tin tôn giáo, mọi sự tồn

tại khác biệt cũng phải có vị trí quan trọng tương đương trong khái niệm dân

chủ đó. Thực hiện cho kỳ được quyền tự do ngôn luận của mình mà phớt lờ

mọi tác hại của nó đối với xã hội phải được xem là hành động đi ngược lại

quy tắc của nền dân chủ và vi phạm đạo đức của giới truyền thông. Truyền

thông cũng có những “vùng cấm” mà bất cứ ai muốn sử dụng quyền lực này

cũng cần phải thận trọng. Sự tiếp xúc và xâm phạm “vùng cấm” rất có thể sẽ

là ngòi nổ cho những bạo loạn xã hội trên quy mô lớn và với những thiệt hại

khôn lường. Sự kiện tranh biếm họa đã là bài học phải trả bằng máu.

Nhằm “hạ nhiệt” tình hình đang có nguy cơ bùng thêm, văn phòng thủ

tướng Palestine Mahmoud Abbas công bố một thông báo vào tối thứ sáu giờ

địa phương với nội dung rằng văn phòng đã nhận được điện thoại của ngài bộ

trưởng ngoại giao Đan Mạch Per Stig Moeller bày tỏ rằng “chính phủ nước

này không chấp nhận những hành động chống lại Hồi Giáo và bản thân ngài

bộ trưởng rất kính trọng Hồi Giáo và luôn tôn trọng sự đối thoại giữa các tôn

giáo.”

Trong khi đó, thủ tướng Đan Mạch là ông Anders Fogh Rasmussen, trong

cuộc hội kiến với đại sứ Ai Cập, đã tái khẳng định rằng chính phủ nước này

không thể can thiệp vào chuyện báo chí truyền thông được. Ngài thủ tướng

nói hôm thứ hai rằng chính phủ ông không thể lên tiếng xin lỗi chỉ vì chuyện

của một tờ báo.

Tuy nhiên bản thân ông “sẽ không bao giờ cho phép vẽ ngài Muhammad,

đức Jesus hoặc bất cứ nhân vật tôn giáo nào theo cách thức có thể gây xúc

phạm đến những người khác.”

Về phía Hoa Kỳ, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Janelle Hironimus hôm

thứ sáu đã lên tiếng chỉ trích các bức biếm hoạ nói trên và gọi đó “là sự xúc

phạm đến niềm tin Hồi Giáo” Phát ngôn viên Hironimus nói thêm rằng tự do

- 56 -

báo chí cần thiết phải đi đôi với trách nhiệm. Bà nói: “Khích động hiền thù tôn

giáo hoặc chủng tộc là điều không thể chấp nhận được. Chúng tôi kêu gọi cần

có sự thông cảm và tôn trọng đối với mọi cộng đồng cũng như niềm tin và

quyền phượng tự của mọi người.”

Bộ trưởng Ngoại Giao Anh Jack Straw hôm thứ sáu cũng lên tiếng chỉ

trích giới truyền thông Châu Âu đã cho đăng lại các bức biếm họa trên. Ông

nói tự do báo chí phải được tôn trọng nhưng “điều này không có nghĩa là thoá

mạ hay gây kích động”

Cần nhắc lại là những bức biếm hoạ trên đã được đăng trước tiên trên tờ

Jillands - Posten của Đan Mạch. Tuy nhiên sự việc chỉ bùng lớn sau khi một

số giáo sĩ Hồi Giáo lên tiếng chỉ trích, cho đó là sự xúc phạm nghiêm trọng

đến tín ngưỡng Hồi Giáo và chính quyền Saudi Arabia phản ứng trong tuần

qua bằng cách cho triệu hồi đại sứ của họ tại Đan Mạch về. Dầu lại được đổ

thêm vào lửa trong tuần này sau khi một số tờ báo tại Na-Uy, Pháp, Đức và

thậm chí cả tại Jordan đồng loạt cho đăng lại những bức biếm hoạ hết sức

thách thức và xúc phạm dưới con mắt của các tín hữu Hồi Giáo.

Thông qua vụ tranh biếm hoạ Mohammed, tính tự kiểm duyệt trong đạo

đức báo chí được làm rõ. Theo dõi cuộc phỏng vấn của tờ báo SPIEGEL với

ông Shujaat Ali, 35 tuổi, là một trong số ít nhà biếm hoạ chính trị trên thế giới

sử dụng công nghệ Flash để phác hoạ hình ảnh. Sinh ra tại Pakistan, ông

thường vẽ tranh biếm hoạ cho nhật báo News International, có trụ sở tại

Islamabad.

2.1. Tự kiểm duyệt và kiểm duyệt chuyên nghiệp

SPIEGEL: Với tư cách là người vẽ tranh biếm hoạ cho hãng tin Al-

Jazeera, ông phản ứng thế nào khi lần đầu tiên thấy các bức biếm hoạ về

Đấng tiên tri Muhammad của Đan Mạch?

Shujaat Ali: Trách nhiệm của nhà báo là phải giữ đạo đức. Tôn giáo là

một vấn đề rất nhạy cảm và tôi nghĩ không một người vẽ tranh biếm hoạ

- 57 -

chuyên nghiệp thực sự nào trên thế giới lại chọn tôn giáo làm chủ đề như vậy.

Có một nguyên tắc không chính thức về đạo đức của các nhà vẽ tranh biếm

hoạ trong lĩnh vực truyền thông, nó bao gồm 2 kiểu kiểm duyệt: thứ nhất là tự

kiểm duyệt, và thứ hai là kiểm duyệt chuyên nghiệp. Tôn giáo rất quan trọng,

chúng ta nên tôn trọng và không nên chỉ trích. Tôi ngày càng thích các bức

biếm hoạ của Herbert Herblock và chúng thực sự gây ấn tượng đối với tôi. Có

nhiều nhà biếm hoạ rất chuyên nghiệp, ở Mỹ và châu Âu. Họ không bao giờ

đối xử với một tôn giáo kiểu này.

Ông nói về ''kiểm duyệt'' như một điều tốt tựa nguyên tắc bản thân vậy?

Vâng, đúng. Trách nhiệm của nhà báo là phải tuân thủ quy tắc đạo đức này -

điều đó rất quan trọng.

Liệu ''nguyên tắc đạo đức'' vẫn nên áp dụng cả khi người Hồi giáo chỉ

trích ngay tôn giáo của mình?

Hãy để tôi kể cho anh nghe một tình huống vui. Khi tôi bắt đầu vẽ cho tờ

News International của Pakistan ở Islamabad, tôi đã lấy quyền tự do của mình

để tấn công một đảng Hồi giáo trong cuộc bầu cử ở đó. Tôi là người đầu tiên

làm công việc đó. Tôi hoàn toàn đồng ý với Tổng thống Pervez Musharraf khi

ông nói về những con người cụ thể nào đó nắm tôn giáo trong tay. Do đó, tôi

bắt đầu chỉ trích các đảng chính trị Hồi giáo ở Pakistan -- và chỉ trích họ vì tội

lái tôn giáo sang một hướng sai lầm. Tờ báo của tôi đã từ chối đăng một trong

số bức tôi vẽ, do đó tôi chuyển chúng cho một tờ báo khác. Kết quả, nó đã gây

ra sự phản ứng kinh khủng và đảng Hồi giáo đó đã tấn công toà soạn báo đó

bằng súng.

Ông nói rằng, các nhà vẽ tranh biếm hoạ nên thể hiện tính nhạy cảm trong

các bức vẽ của mình, nhưng Bộ Ngoại giao Mỹ đã buộc tội ông thiếu điều đó

trong các bức vẽ của chính ông. Sau khi ông vẽ bức biếm hoạ miêu tả các lính

Mỹ thiệt mạng và một bức khác vẽ két xăng đặt trên Toà tháp đôi bị sụp đổ ở

New York, Washington đã phản ứng và Al-Jazeera buộc phải bỏ những bức vẽ

đó khỏi trang web của mình. Liệu ông có nghĩ tới tính nhạy cảm của khán giả

- 58 -

Mỹ khi ông vẽ chúng?

Mục tiêu thực sự của tôi khi vẽ những bức biếm hoạ đặc biệt đó là nhằm

vào Chính phủ Mỹ, chứ không phải người dân Mỹ. Tôi thấy quyết định của

ông chủ của tôi - Tổng biên tập - là không thể chấp nhận được - và ông bị chỉ

trích nhiều vì điều này.

Xét về tính chuyên nghiệp, đó không phải là một bước đúng đắn bởi vì một

tổ chức chuyên nghiệp phải bảo vệ các phóng viên của mình. Chúng tôi phân

tích tình cảm của người Mỹ trong các bức biếm hoạ này. Đó là lý do Chính

phủ Mỹ phàn nàn về điều đó, nhưng chúng tôi chẳng nghe thấy một người Mỹ

bình thường nào ca cẩm cả

2.2. Tự do ngôn luận vẫn phải tôn trọng tôn giáo!

Ở phương Tây, có nhiều lời chỉ trích về tính đạo đức giả trong các cuộc

biểu tình ở thế giới Ảrập. Người Ảrập giờ đang phàn nàn về tính rập khuôn

cứng nhắc của Hồi giáo. Tuy nhiên, các tổ chức Do Thái lên án những bức

chân dung bài chủ nghĩa Xê mít trong tôn giáo họ ở các bức biếm hoạ thường

xuất hiện trên các tờ báo Ảrập. Rất nhiều nhà biếm hoạ ở thế giới Ảrập rõ

ràng là những người bài chủ nghĩa xê-mít.

Tôi đồng ý về điều này, và tôi cảm thấy hối tiếc. Chúng ta nên tôn trọng

mọi người thuộc các tôn giáo khác, bất kể họ là Do Thái, Cơ đốc giáo...Chúng

ta có những nguyên tắc đạo đức dành cho các nhà biếm hoạ, và chúng ta cần

tự hỏi nên đi xa đến mức nào có thể chấp nhận được, đó là loại giới hạn mà

chúng ta cần đặt ra. Các nhà biếm hoạ tấn công các chính trị gia hoặc chính

phủ thì không sao, nhưng họ nên để tôn giáo yên. Các nhà biếm hoạ thực sự

cần tôn trọng lĩnh vực này.

Tuy nhiên, ở phương Tây, các nhà biếm hoạ có quyền pháp lý được châm

biếm, bất kể chủ đề là gì. Và, nhiệm vụ của chính phủ là bảo vệ quyền tự do

ngôn luận. Vậy làm sao chính phủ và người dân Đan Mạch lại phải chịu trách

nhiệm về những bức biếm hoạ mà một tờ báo quyết định xuất bản?

Nếu chính phủ không tiến hành các bước cần thiết để ngăn chặn cơ quan

- 59 -

truyền thông tấn công một tôn giáo - một hành động gây ra một cuộc xung đột

lớn giữa các dân tộc, điều đó sẽ huỷ hoại danh tiếng của chính phủ đó trên

trường quốc tế.

Phương Tây đã phải đấu tranh hàng trăm năm để bảo vệ quyền tự do thể

hiện quan điểm, tự do ngôn luận - những quyền giờ đây đã trở thành nền tảng

của nền văn minh chúng tôi. Trên khắp châu Âu hiện nay, nhiều người coi các

cuộc biểu tình ở thế giới Ảrập là một cuộc tấn công vào các giá trị dân chủ

của chúng tôi?

Tự do là rất quan trọng. Và tôi cũng đang chiến đấu vì nó ở đây.

Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ chúng ta phải đặt ra những giới hạn. Nếu anh

muốn chỉ trích một người, nếu anh muốn chỉ trích một chính phủ , nếu anh

muốn chỉ trích những thứ cụ thể nào đó bằng tranh biếm hoạ, anh không thể

vượt qua những giới hạn cụ thể. Quá một cái gì đó đều không tốt. Nếu anh cứ

đẩy mà không có giới hạn gì, điều đó sẽ rất có hại.

Khi người nghệ sĩ lấy vấn đề tôn giáo làm chủ đề cho các bức biếm hoạ

của mình và anh ta biết điều đó sẽ làm tổn thương tới những người thuộc tôn

giáo khác, như vậy anh ta đã vượt quá ranh giới và điều này đã được đẩy lên

cơ quan thẩm quyền cao hơn phải chịu trách nhiệm.

Trong phản ứng của mình, người Ảrập đã đốt hình nộm của Thủ tướng

Đan Mạch Anders Fogh Rasmussen, tẩy chay hàng hoá Đan Mạch, đe doạ

người dân và đốt quốc kỳ nước họ. Sự phản ứng của thế giới Hồi giáo khiến

nhiều người ở phương Tây bị sốc. Những kẻ cực đoan đã tấn công các văn

phòng EU ở Dải Gaza, người Hồi giáo ở Indonesia đã tấn công vào đại sứ

quán Đan Mạch ở Jakarta. Ông có cảm thấy phản ứng như vậy là quá

không?

Tôi nghĩ rằng chỉnh lại những nhà biếm hoạ Đan Mạch và cố gắng chỉ cho họ

cảm giác của quảng đại quần chúng là điều nên làm. Chúng tôi không thể tha

thứ cho bất kỳ hành động phỉ báng Đấng tiên tri - người chúng tôi tôn trọng

nhất. Ở mọi tôn giáo, ngay cả Cơ Đốc giáo, có nhiều người rất nhạy cảm về

- 60 -

tôn giáo của mình.

Trong cộng đồng của tôi, tôi chỉ trích những ai vượt quá giới hạn. Tất

nhiên, họ cần phải bị chỉ trích. Hồi giáo cực đoan là tồi tệ. Chúng ta không

phải là những thiên thần, nhưng chúng ta là con người. Mà đã là con người,

chúng ta phải tôn trọng nhau. Và tôn trọng tôn giáo của tôi.

=> Kết luận: Lẽ tự nhiên: người vẽ bức tranh này và người quyết định cho

đăng nghĩ rằng: đây là một hành động hết sức bình thường thực thi quyền tự

do báo chí được pháp luật bảo vệ và xã hội thừa nhận. Báo chí có quyền pháp

lý đăng tranh biếm hoạ tất cả mọi chủ đề, mọi lĩnh vực, mọi đối tượng kể cả

tôn giáo và chính phủ phải tôn trọng quyền này. Để tỏ lòng đoàn kết và bày tỏ

quan điểm ủng hộ quyền tự do ngôn luận, một số tờ báo lớn của Pháp và Nauy

đã cho đăng lại bức hình này. Và sự việc như “đổ thêm dầu vào lửa”.

Ngược lại, ở phía bên kia, đối với các tín đồ hồi giáo đấng tiên tri Mohammed

là biểu tượng tinh thần vĩ đại trong lòng họ, là niềm tin soi sáng thế giới tâm

linh họ. Nếu người phương Tây tôn thờ chúa Jêsu nhường nào thì người Hồi

Giáo cũng sùng bái đấng tiên tri Mohammed như vậy. Họ không thể tha thứ

cho hành động ”biếm hoạ” vị thánh của như một trò giải trí dù động cơ người

vẽ hoàn toàn trong sáng.

Cuộc tranh cãi về xung đột giữa tôn giáo và tự do ngôn luận sẽ còn tiếp

diễn dù sự việc có lắng dịu. Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của cơn thịnh

nộ này xuất phát từ sự khác biệt về quan niệm, suy nghĩ, đức tin của những

con người được nuôi dưỡng trong 2 nền văn hoá, môi trường xã hội khác

nhau.

Một bài học đau đớn nhưng cần thiết được rút ra từ sự kiện này: Nhà báo

cần thận trọng trọng đa tin, đặc biệt trong những lĩnh vực nhạy cảm như tôn

giáo. Sự cẩn trọng này không chỉ đến từ bản lĩnh, hiểu biết, kinh nghiệm mà

một phần rất quan trọng từ đạo đức nghê nghiệp của mỗi người làm báo. Đó là

một cái tâm trong sáng, luôn tôn trọng sự thật và đứng về lợi ích sối động. Bất

cứ một động cơ đa tin không trong sáng với tinh thần không xây dựng, xuyên

- 61 -

tạc sự thật sẽ bị trả giá. Xin kết thúc chương về đạo đức báo chí bằng ý kiến

của bà Karen Amstrong- nhà nghiên cứu đạo Hồi trên BBC: “ Mỗi bên cần

đánh giá quan điểm của bên kia. Tôi nghĩ thật vô trách nhiệm khi đăng những

bức biếm hoạ như vậy. Chúng ta luôn tự hào văn hoá của chúng ta có tình

thương, có sự thông cảm nhưng việc đăng bức biếm hoạ đấng tiên tri

Mohamed là kẻ khủng bố như vậy là không chính xác, có tính bài Hồi giáo.

Chúng ta chiến đấu để Châu Âu có quyền tự do ngôn luận như một giá trị

thiêng liêng nhưng cần phải nhớ: tự do ngôn luận phải đi kèm với các trách

nhiệm” .

II. NHÀ NƯỚC TBCN CAN THIỆP TRỰC TIẾP TỚI BÁO CHÍ

Những cách thức ảnh hưởng lên truyền thông, đặc biệt từ giới chính trị, là

rất đa dạng và phức tạp. Nhưng ngoài giới chính trị ra, ảnh hưởng trong giới

truyền thông bao gồm các thành phần: chủ nhân (sở hữu các phương tiện

truyền thông), chủ nhiệm hay chủ bút, thương gia (bảo trợ hay quảng cáo),

phóng viên - ký giả, và “khán - thính - độc” giả. Phân tích ảnh hưởng của

từng thành phần lên nội dung truyền thông không phải hiển nhiên và dễ dàng,

vì phần lớn tuỳ thuộc vào môi trường (dân chủ hay độc tài) và mối tương

quan (truyền thống, văn hoá...) giữa các thành phần này với nhau. Nhưng

trước hết, chúng tôi xin tổng hợp và đưa ra một số khía cạnh can thiệp sau:

1. Can thiệp bằng luật báo chí

Ở các nước TBCN, báo chí không do nhà nước trực tiếp quản lý, không có

Ban tư tưởng văn hóa Trung Ương hay Bộ văn hóa truyền thông hoặc các hội

báo chí duyệt tin bài trước khi đăng tải. Tuy nhiên, báo chí ở các nước TBCN

chịu sự giám sát lớn nhất bởi Pháp luật. Đặc biệt, ở những đất nước tưởng

chừng như báo chí luôn hoạt động tự do này lại vẫn còn tồn tại luật kiểm

duyệt báo chí.

1.1. Tại Mỹ

Giới truyền thông Mỹ cũng áp dụng nghiêm khắc chính sách tự kiểm

duyệt. Nếu không tuân thủ nhà báo lập tức bị sa thải như NBC đã làm với nhà

- 62 -

báo Peter Arnett.

Peter Arnett, cựu phóng viên chiến trường của

Hãng tin AP và CNN, giành giải thưởng báo chí

Pulitzer 1966 cho những tác phẩm báo chí về

chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1962-1975, với tư

cách phóng viên Hãng AP, Peter Arnett đã có hơn

Trong chiến tranh Iraq, ông đã gây chấn động thế giới bởi những phóng sự

Peter Arnett (trái)gặp pv 3.000 bài báo viết từ chiến trường Việt Nam.

nóng hổi, được truyền hình trực tiếp trên kênh CNN từ chiến trường Baghdad,

đồng thời cũng là phóng viên phương Tây đầu tiên và duy nhất phỏng vấn

trùm khủng bố Osama Bin Laden. Với hơn 57 giải thưởng báo chí quốc tế,

Peter Arnett được xem như một huyền thoại sống của báo chí thế giới.

Ông bị hãng NBC sa thải vào cuối tháng 3/2003 sau khi cung cấp cho

truyền hình quốc gia Iraq một bài phỏng vấn trong đó cho rằng kế hoạch

chiến tranh của Mỹ tại Iraq sẽ thất bại.

Nói đến vấn đề kiểm duyệt báo chí ở Mỹ, ta phải nhắc đến tác phẩm

“Danh sách đen” (Black List) (Hồ Lê dịch– theo Lepoint và Voltaire). Tác

phẩm nói về 115 nhà báo Mỹ đã từng nhận giải thưởng cao quý (Emmy và

Peabody Awards) trong lĩnh vực báo chí vậy mà họ đã là những nạn nhân của

nền báo chí không dân chủ, một kiểu ngôn luận dưới sức ép. Họ lên tiếng tố

cáo hệ thống báo chí Mỹ và cả những mưu đồ chính trị nhằm kiểm duyệt và

tạo sức ép. Những sự kiểm duyệt thô bạo và phía sau là những trò hèn hạ và bỉ

ổi nhất – đe dọa lấy mạng, vu khống, quấy rối tinh thần, kiện tụng, mất việc

như Kristina bị cho là “Hỏi han nhiều đồng nghiệp ở tòa soạn khác về hệ

thống kiểm duyệt” khi được giao trách nhiệm thu thập tin tức trong vụ máy

bay TWA phát nổ khi đi Paris, rơi xuống Đại Tây Dương.

Chị tin rằng chiếc máy bay bị nổ do một cú bắn đầy ác ý. Chị muốn

phơi ra công luận hai điều: sức ép của công lý và của cả những thế lực ngầm

buộc chị bẻ cong ngòi bút hoặc chấm dứt điều tra. Kết cục: cốp xe của chị bị

- 63 -

đập vỡ, tất cả tài liệu bị đánh cắp. Kristina tổng kết rằng: có hai lỗ đen trong

vũ trụ báo chí Mỹ mà nếu động đến bạn sẽ gặp phải phiền toái: quân sự - kinh

tế và thậm chí là cơ quan đầu não an ninh tình báo. Trong nền báo chí Mỹ sự

thật đã được bịt kín nhường chỗ cho trò bịp bợm, những uẩn khúc nhưng

không bao giờ được nói. Có người cho rằng “ báo chí Mỹ đang no nê với

những lời nói rối và những thông tin không thật. Đáng buồn thay là họ vẫn

đang thống trị dòng chảy thông tin toàn cầu. Chúng ta dễ dàng nhận thấy báo

chí Mỹ phụ thuộc vào chính phủ.

Không chỉ riêng Kristina, hơn 40 nhà báo khác trên đất Mỹ đều chịu

những kết cục chẳng mấy êm đẹp gì.

1.2. Tại Pháp

Chế độ kiểm duyệt ra đời cùng với sự ra đời của báo chí.

Theo đó, báo chí không được phép in bất cứ cái gì nếu chưa được phép của

cơ quan kiểm duyệt hay cảnh sát. Nội dung sách báo không được chống lại

tôn giáo, nhà vua, nhà nước, hình phạt cao nhất cho tội này là tử hình.

Năm 1640-1775 có 8700 người làm báo ở Pháp bị tử hình do vi phạm điều

luật này.

Năm 1789, cách mạng vô sản Pháp nổ ra, điều luật này được bãi bỏ.

1.3. T ại Singapo

Ngày 8/6/2002 Bộ trưởng Thông tin và Nghệ thuật David Lim cho biết

Singapore đã tiến hành đánh giá lại toàn diện luật kiểm duyệt trong lĩnh vực

báo chí và nghệ thuật sao cho phù hợp với kỷ nguyên Internet và toàn cầu hoá.

Singapore cấm đăng tải nội dung về bất đồng chính trị và tình dục nhưng

lại đang tự coi mình là một trung tâm báo chí và nghệ thuật của châu á, do đó

làm dấy lên những yêu cầu đòi nới lỏng các vòng kiểm soát, đặc biệt là với

những người dân đã sử dụng Internet. Lim cho biết chúng tôi không thể bác

bỏ sự thay đổi đã xảy ra trong xã hội, và thừa nhận Singapore sẽ phải mở cửa

không gian trong khi bảo vệ những giá trị quan trọng và tính đến những vấn

- 64 -

đề nhạy cảm trong xã hội.

Uỷ ban Xem xét lại Luật Kiểm duyệt (CRC) đã được thành lập để tiến

hành cuộc nghiên cứu về vấn đề kiểm duyệt và đưa ra những kiến nghị với

chính phủ. Uỷ ban bao gồm các nhà báo, giáo sư, học giả và thành viên của

hội đồng nghệ thuật. Lim cho biết ông yêu cầu uỷ ban này xem xét 3 điều

trong việc khi thực hiện nhiệm vụ của họ: toàn cầu hoá, thay đổi kỹ thuật, di

sản văn hoá và xã hội đa sắc tộc của Singapore.

1.4. Tại Thái Lan

Theo thông báo phát trên truyền hình quốc gia Thái Lan, các kênh

thông tin trong nước và quốc tế sẽ được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ

của Bộ thông tin liên lạc.

Ngày 20/9/2006 các tướng chỉ huy cuộc đảo chính đã ra lệnh kiểm duyệt

các phương tiện thông tin đại chúng và cấm người dân tại Thái Lan tụ tập,

nhằm đảm bảo an ninh trật tự.

Bộ thông tin liên lạc được giao nhiệm vụ ngăn chặn những nguồn tin sai

lệch gây tổn hại đến hình ảnh của Hội đồng quân sự lâm thời hiện đang tạm

thời lãnh đạo đất nước.

Các lực lượng an ninh hiện đang ráo riết cho kiểm soát các phương tiện

truyền tin của các hãng thông tấn báo chí.

Đồng thời các tướng chỉ huy cũng ra lệnh cấm dân chúng Thái Lan tụ tập

trên 5 người tại các địa điểm công cộng. Bất cứ ai vi phạm luật lệ nói trên sẽ

bị phạt tù trong vòng 6 tháng.

Hội đồng quân sự lâm thời cũng đã cấm việc đầu cơ tích trữ hàng hoá và

thông báo bất cứ ai bị báo cáo đã tăng giá các sản phẩm của họ sẽ bị phạt tù

hai năm.

1.5. Tại Anh

- Báo chí Anh ra đời từ 1583 đã gặp phải rào chắn pháp luật rằng họ không

được phép đăng tải tin tức quốc nội. Nhà nước Anh không muốn báo chí chọc

gậy bánh xe, hay can thiệp đến những vấn đề trong nước. Bởi vì họ cho rằng

- 65 -

báo chí sẽ phơi bày, vạch trần những vụ việc không mấy liêm khiết. Ngược

lại, báo chí được quyền đăng tải các thông tin mà nhà nước cho phép. Có thể

xem đây là thời kỳ trói buộc nhất của báo chí Anh.

- Chính phủ Anh lợi dụng báo chí để bóc lột tài chính một cách trắng trợn

đối với công chúng. Họ đặt ra các thuế báo chí, đặt ra các thuế tem đánh vào

báo chí.

2. Can thiệp bằng các hình thức ngoài luật

Khi có các biến cố lớn xảy ra, nhà nước TBCN luôn kịp thời có những văn

bản, quy định cho phù hợp với tình hình, nhằm ngăn chặn những tin tức

không có lợi cho chính phủ. Những luật này chỉ áp dụng trong một thời gian

nhất định khi xảy ra biến cố.

VD1: CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH (NĂM 1991)

Đa số những thông tin báo chí có được đều từ những cuộc họp báo ngắn

của quân đội. Chỉ những nhà báo được lựa chọn mới được phép tới mặt trận

hay tiến hành các cuộc phỏng vấn binh sĩ. Những cuộc viếng thăm đó luôn

được tiến hành với sự hiện diện của các sĩ quan, và sau đó đều phải được sự

cho phép của quân đội và bộ phận kiểm duyệt. Điều này bề ngoài là để bảo vệ

các thông tin nhạy cảm khỏi bị tiết lộ cho Iraq nhưng trên thực tế là để ngăn

chặn tiết lộ các thông tin gây rắc rối về chính trị. Chính sách này bị ảnh hưởng

nhiều từ những kinh nghiệm sau Chiến tranh Việt Nam, được cho rằng đã gây

ra nhiều rò rỉ dẫn tới sự chống đối từ bên trong nước Mỹ.

Trong cuộc chiến vùng Vịnh: giới truyền thông Mĩ chôn vùi những hình

ảnh hãi hùng, dã man của cuộc tàn sát trên xa lộ tử thần (còn gọi là cuộc thảm

sát trên “Highway of Death”) khi quân đội Iraq rút khỏi Kuwait.

VD2: TẠI ANH, ĐÀI BBC BỊ CẤM ĐƯA TIN VỀ VỤ MUA BÁN

QUAN CHỨC

Ngày 4/3/2007, Đài BBC đã được lệnh của tòa án, cấm đăng tin về vụ mua

quan bán chức ở nước này.

Tờ Người bảo vệ cho biết, nếu vi phạm, Ban lãnh đạo BBC có thể bị kỷ

- 66 -

luật, thậm chí bị cấm phát sóng trong một thời gian.

Được biết, vụ mua quan bán chức ở Anh bắt đầu bị điều tra từ tháng

3/2006 và đến nay đã có rất nhiều quan chức cấp cao bị liên quan; 4 người đã

bị bắt, trong đó có trợ lý vận động bầu cử của Thủ tướng Lord Levy, trợ lý

văn phòng Thủ tướng Ruth Turner... Thậm chí, Thủ tướng Anh Tony Blair

cũng đã bị cảnh sát thẩm vấn tới 2 lần.

VD3: MỸ CẤM TRUYỀN HÌNH ĐƯA TIN VỀ PHIÊN TÒA XỬ VỤ

KIỆN CHẤT ĐỘC DA CAM

Ngày 28/2/2008, Tòa án liên bang Mỹ xử vụ án các nạn nhân chất độc da

cam Việt Nam kiện 37 công ty hoá chất Mỹ. Trong phiên toà lần này chính là

việc truyền hình bị cấm đưa tin, trong khi báo chí và các phương tiện truyền

thông khác lại được phép tham dự. Điều đó phải chăng Mỹ không dám nhìn

thẳng vào sự thật của cuộc chiến mà họ gây ra, và phải chăng họ lo sợ những

người Mỹ có lương tri sẽ đòi công lý cho chính những nạn nhân của quốc gia

họ? Hay lo ngại vụ kiện này sẽ mở đường cho các vụ kiện tương tự từ công

dân các quốc gia mà Mỹ đã gây chiến? Hay phải chăng vụ kiện này sẽ đe dọa

nghiêm trọng đến quyền phát động chiến tranh của Tổng thống (do Quốc hội

- 67 -

trao cho) và như vậy sẽ mở rộng quá mức quyền của Tòa án liên bang?

CHƯƠNG IV: HỆ QUẢ CỦA SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC

TBCN ĐỐI VỚI BÁO CHÍ

Các phương tiện thông tin đại chúng trên thế giới, đặc biệt là báo chí

phương Tây đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt: từ các nhật

báo, tuần báo, tạp chí...tên tuổi trên thế giới đến các hãng thông tấn “gạo

cội” vì lý do công chúng của báo chí ngày càng giảm sút do sự mất lòng tin.

1. Báo chí TBCN sụt giảm đáng kể

Trước hết phải kể đến hiện tượng giảm sút đáng kể số lượng phát hành.

Theo thống kê của AP năm 2005:

- Nhật báo Mỹ International Herald Tribune năm qua giảm 4,16%

- Tờ Financial Times của Anh giảm 6,6%

- Ở Đức, trong vòng năm năm qua, số lượng phát hành giảm 7,7%

- Ở Đan Mạch giảm 9,5%

- Ở Áo giảm 9,9%

- Ở Bỉ giảm 6%

- Nhiều tên báo đang biến mất dần, ví như tờ Magyar Hirlap ở Hunggari

vừa đóng cửa ngày 5/11/2004, hay tờ ''''Far Eastern Ecconomic Review'''' ở

Hồng Kông cũng đình bản từ ngày 4/11. Ở Pháp, nguyệt san Nova Magazine

cũng đã ngừng hoạt động từ ngày 7/12/2004...

Trong khoảng những năm 2000 đến 2004, hơn hai ngàn chỗ làm việc của

báo viết đã ''''xóa sổ'''', tức là khoảng 4% tổng số nhân công. Không những thế,

các hãng thông tấn lớn cung cấp thông tin cho các báo cũng khốn đốn. Chẳng

hạn như hãng Reuters vừa thông báo sa thải 4500 nhân viên. Nhiều người

đang tự hỏi liệu có phải báo viết sẽ ½ chỉ còn là một phương tiện thông tin đại

chúng của kỷ nguyên công nghiệp đang bị diệt vong hay không?

Nguyên nhân của hiện tượng này có nhiều, song phải kể trước hết đến sự

công phá của các nhật báo miễn phí, kèm theo quảng cáo, thông báo... Thậm

chí, nhiều báo còn lôi kéo độc giả vào cuộc cạnh tranh bằng nhiều hình ảnh

- 68 -

''hấp dẫn''. Chẳng hạn như ở Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, mỗi ngày

chỉ cần trả thêm một chút xíu là độc giả có thể nhận thêm đĩa CD, DVD, băng

hoạt hình, sách, bản đồ, từ điển bách khoa, thậm chí cả bộ sưu tập tem hay

tiền cổ, hoặc các bộ cốc chén, bộ cờ...

Một nguyên nhân khác nữa là sự phát triển bùng nổ của Internet. Chỉ riêng

trong quý I năm 2004, hơn 4,7 triệu trang Web đã được lập ra. Hiện trên thế

giới có tới 70 triệu trang Web và có 700 triệu người đang sử dụng Internet.

Trong các nước phát triển, nhiều người bỏ rơi báo chí, thậm chí cả TiVi để say

sưa với màn hình vi tính. Chỉ phải chi từ 10 đến 30 euro mỗi tháng, người ta

đã có thể sử dụng mạng Internet nhanh. Ở Pháp, hơn 5,5 triệu gia đình đang

sử dụng báo điện tử với đủ loại tin tức, ảnh, âm nhạc, các chương trình của

truyền hình hay phát thanh, xem phim hay trò chơi video, với dung lượng rất

cao. Hiện trên thế giới 79% các báo cáo đã được phát lên mạng. Thậm chí còn

phải kể đến một nguy cơ mới nữa là điện thoại di dộng (ĐTDĐ) ''''toàn năng'''',

với công cụ này, người ta có thể biết tất cả mọi thứ diễn ra trên thế giới vào

bất cứ lúc nào. Ở Ấn Độ, tờ Times of India mỗi ngày phát cho mạng ĐTDĐ

30 triệu thông tin dưới dạng tin vắn (SMS - Short Message Service), rất

nhanh, vắn tắt và không đắt chút nào. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, số người sử

dụng thông tin qua ĐTDĐ ngày càng tăng,. Họ có thể nhận các buổi phát của

đài phát thanh, hoặc các kênh TiVi liên tục.

2. Độc giả mất lòng tin

Có một nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc giảm sút số lượng độc giả của

báo chí là là sự mất lòng tin. Càng ngày các báo có tên tuổi càng thuộc về tay

các tập đoàn công nghiệp đang kiểm soát kinh tế và thông đồng với quyền lực

chính trị, và cả cách nhìn nhận thiếu khách quan, dối trá, bị giật dây ... ngày

càng tăng. Chẳng hạn như vụ nhà báo Mỹ Jayson Blair do đưa tin xuyên tạc

đã gây cho tờ New York Times một thiệt hại tai tiếng, dẫn đến việc hai giám

đốc tòa soạn phải từ chức.

Chỉ vài tháng sau đó, một vụ "xì-căng-đan" còn nổi hơn: đó là việc phóng

- 69 -

viên nổi tiếng Jack Kelley - ngôi sao quốc tế đã "cày xới" cả hành tinh, người

đã từng phỏng vấn 36 nguyên thủ quốc gia và đưa tin về hàng chục cuộc

chiến, với cả trăm bài báo giật gân - ngày 10/3/2000 đã viết một phóng sự về

một phụ nữ Cuba trốn chạy và chết đuối thê thảm ở vịnh Floride. Vụ việc đã

bị nhà báo Blake Morrisson của tờ USA Today phanh phui vì ông này đã gặp

người phụ nữ đó, và xác minh sự thật là người phụ nữ đó còn sống và không

hề chạy trốn. Đây bị coi là một trong những vụ tai tiếng lớn nhất của ngành

báo chí Mỹ.

Gần đây nhất, giữa chiến dịch bầu cử Tổng thống Mỹ, một cuộc chấn động

về đạo đức đã làm rung chuyển giới báo chí Mỹ. Dan Rather, ngôi sao của

truyền hình CBS và chương trình đầy uy tín "Sixty Minutes" thừa nhận đã

phát đi mà không xác minh những tài liệu giả chứng tỏ rằng Tổng thống Bush

đã được hưởng mọi ủng hộ để khỏi phải tham chiến ở Việt Nam. Dan Rather

đã tuyên bố xin thôi việc.

Tệ hơn nữa, nhiều phương tiện thông tin đại chúng có tên tuổi còn bị biến

thành những cơ quan tuyên truyền những tin tức dối trá của Nhà Trắng về

Irắc, đặc biệt là kênh Fox News, hoặc Washington Post, New York Times còn

tham gia vào các chiến dịch "nhồi sọ"...

Tất cả những vụ việc trên cũng như liên minh ngày càng chặt chẽ với

quyền lực kinh tế và chính trị đã gây nên sự mất lòng tin nghiêm trọng của

báo chí phương Tây, đồng thời cho thấy sự suy giảm dân chủ đáng lo ngại.

Người ta có thể hỏi phải chăng khái niệm báo chí tự do ở phương Tây đang

biến mất.

=> Và còn rất nhiều hệ quả khác nữa khiến công chúng phải đặt ra 1 câu

hỏi: Phải chăng đã đến ngày “tận thế” của báo chí phương Tây? (Câu hỏi này

- 70 -

trích từ Vietnamnet ngày 14/1/2005)

CHƯƠNG V: LIÊN HỆ VỚI BÁO CHÍ VIỆT NAM

Từ những đặc tính của truyền thông chính trị trong nền dân chủ phóng

khoáng nêu trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận định cốt lõi liên quan đến

tự do báo chí tại Việt Nam và công cuộc thúc đẩy sự tiến triển của các phương

tiện truyền thông. Muốn đẩy mạnh tiến trình pháp triển và hội nhập của Việt

Nam trong thời gian tới, Đảng, Nhà nước và nhân dân phải dồn hết mọi nỗ lực

cần thiết để sớm hình thành một chính sách (chiến lược và chiến thuật) về

thông tin và giáo dục vì cả hai lĩnh vực này là quan trọng nhất.

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch lại tung ra những quan điểm sai

trái, bịa đặt, vu cáo nhằm phủ nhận, xuyên tạc những thành tựu của công cuộc

đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận vai trò lãnh

đạo của Đảng. Chúng cho rằng báo chí Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi sự kiểm

duyệt. Vậy thế nào là “kiểm duyệt” theo đúng nghĩa?

Theo quan điểm của Karl Makx:

"Kiểm duyệt chân chính bắt rễ từ chính bản chất của tự do báo chí là sự

phê bình. Phê bình là một sự xét xử mà tự do báo chí sản sinh ra từ bản thân

mình".

"Kiểm duyệt là sự phê bình với tư cách là độc quyền của chính phủ".

"Khi sự phê bình không phải công khai mà là bí mật, không phải về mặt lý

luận mà là về mặt thực tiễn, khi sự phê bình không đứng trên các đảng phái

mà bản thân trở thành đảng phái, khi sự phê bình tác động không phải bằng

lưỡi dao sắc bén của lý tính mà bằng cái kéo cùn của sự tùy tiện, khi sự phê

bình chỉ muốn lên tiếng phê bình mà không muốn chịu sự phê bình..., cuối

cùng khi sự phê bình không có tính chất phê bình đến mức coi một cách sai

lầm cá nhân riêng lẻ là hiện thân của trí tuệ phổ biến, coi mệnh lệnh của bạo

lực là mệnh lệnh của lý tính, coi những vết mực là những vết trên mặt trời, coi

những nét gạch xoá của người kiểm duyệt là những cấu tạo toán học, coi việc

dùng sức mạnh thô bạo là luận cứ mạnh mẽ – khi đó lẽ nào sự phê bình lại

- 71 -

không mất tính chất hợp lý của mình".

"Tính cách của báo chí bị kiểm duyệt đó là sự quái dị không có tính cách

của thiếu tự do, đó là con quái vật được văn minh hóa, cái quái thai được tắm

nước hoa".

"Luật báo chí là luật thật sự, bởi vì nó biểu hiện sự tồn tại của tự do. Nó

coi tự do là tình trạng bình thường của báo chí, coi báo chí là tồn tại của tự

do. Vì thế luật này chỉ xung đột với những tội lỗi của báo chí với tư cách là

một ngoại lệ đang chống lại tiêu chuẩn của chính mình".

"Luật kiểm duyệt không phải là luật mà là biện pháp cảnh sát, và thậm chí

còn là biện pháp cảnh sát tồi, bởi vì nó không đạt được điều nó muốn và nó

không muốn điều nó đạt được".

"Chế độ kiểm duyệt làm cho mỗi tác phẩm bị cấm dù hay hoặc dở đều trở

thành tác phẩm không bình thường, còn tự do báo chí thì tước mất của tác

phẩm cái vẻ oai nghiêm bề ngoài đó".

"Tệ lớn nhất – tệ giả dối gắn liền với báo chí bị kiểm duyệt. Tệ xấu căn

bản này của nó là nguồn gốc của tất cả những thiếu sót khác trong đó cả mầm

mống mỹ đức cũng không có".

"Làm cho nhân dân quen coi cái phạm pháp là tự do, coi tự do là phi pháp,

coi cái hợp pháp là cái không tự do. Chế độ kiểm duyệt bóp chết tinh thần

quốc gia như thế đấy".

"Trong lĩnh vực báo chí, những người cai trị và những người bị cai trị có

khả năng như nhau để phê bình những nguyên tắc và yêu cầu của nhau,

nhưng không phải trong khuôn khổ những quan hệ lệ thuộc mà trên cơ sở

ngang quyền với nhau, với tư cách là những công dân của nhà nước – không

phải với tư cách là những cá nhân riêng lẻ mà với tư cách là những sức mạnh

của trí tuệ, với tư cách là những người thể hiện những quan điểm hợp lý".

Cũng từ những quan điểm đúng đắn trên, có thể khẳng định rằng nền báo

chí Việt Nam đã hoàn toàn tự do cũng với thời điểm đất nước giành được độc

lập.

- 72 -

1. Báo chí Việt Nam có thời kì bị kiểm duyệt

Năm 1946 nhà nước thành lập hội đồng kiểm duyệt báo chí, dể ngăn chặn

tin bài có hại cho đất nước, nhân dân.

SẮC LỆNH

CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

SỐ 41 NGÀY 29 THÁNG 3 NĂM 1946

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Chiểu theo thể lệ báo chí hiện hành;

Chiểu theo lời đề nghị của Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp;

Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp;

RA SẮC LỆNH:

MỤC THỨ II - KIỂM DUYỆT

Điều thứ V: Các bài báo chí sẽ được ấn hành sau khi ty Kiểm duyệt cấp kỳ đã

duyệt.

Điều thứ VI: Nếu có bài báo bị kiểm duyệt và chủ nhiệm hoặc quản lý cho là

quá đáng thì chủ nhiệm hoặc quản lý có thể gửi đơn khiếu nại kèm cả bài báo

bị tự kiểm duyệt bỏ, lên Hội đồng kiểm duyệt.

Điều thứ VII: Hội đồng Kiểm duyệt đặt tại Bộ Nội vụ, gồm có năm hội viên,

do nghị định Bộ trưởng Bộ Nội vụ cử ra:

1 nhân viên Bộ Nội vụ

1 nhân viên do Bộ Ngoại giao đề cử

1 nhân viên do Bộ Quốc phòng đề cử

1 nhân viên do Quốc hội đề cử

1 đại biểu của Quốc hội đề cử

1 đại biểu của báo giới đề cử

Điều thứ VIII: Hội đồng Kiểm duyệt có nhiệm vụ:

a) Đề nghị lên Bộ trưởng Nội vụ những chỉ thị về việc kiểm duyệt để các ty

kiểm duyệt tuân hành;

- 73 -

b) Xét đơn khiếu nại của các nhà báo.

Những quyết nghị của Hội đồng trong việc xét khiếu nại sẽ thi hành nếu trong

hạn 48 giờ sau khi nhận được quyết nghị, Bộ trưởng Bộ Nội vụ không trả lời.

Quyết nghị của Hội đồng kiểm duyệt chỉ có thể là cho hoặc không cho đăng

bài bị ty kiểm duyệt xoá bỏ.

Đến năm 1947

SẮC LỆNH

CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

SỐ 12 NGÀY 3 THÁNG 2 NĂM 1947

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ

Chiểu sắc lệnh số 1 ngày 20-12-1946 tổ chức các uỷ ban bảo vệ,

Chiểu sắc lệnh số 41 ngày 29-3-1946 ấn định chế độ báo chí,

Chiểu sắc lệnh số 159 ngày 20-8-1946 ấn định chế độ ấn loát phẩm,

Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp,

RA SẮC LỆNH:

Điều thứ 1

Các báo chí và sách chỉ được in và phát hành sau khi được Sở Kiểm duyệt Kỳ

cho phép.

Song đối với các báo chí Sở Kiểm duyệt Kỳ sẽ cử ở các tỉnh nơi phát hành,

nhân viên phụ trách việc kiểm duyệt.

Điều thứ 2

Các ấn loát phẩm khác theo định nghĩa của sắc lệnh số 159 ngày 20 tháng 8

năm 1946 kể trên, sẽ do Uỷ ban kháng chiến khu kiểm duyệt.

Uỷ ban kháng chiến khu sẽ cử nhân viên phụ trách việc kiểm duyệt ở các tỉnh

nơi phát hành.

Điều thứ 3

Những ấn loát phẩm đã được Uỷ ban kháng chiến khu cho phép in, có thể lưu

hành ở các khu khác.

Điều thứ 4

- 74 -

Nếu Uỷ ban kháng chiến khu không cho phép in, tác giả hoặc người in có thể

đệ đơn kháng cáo lên Sở Kiểm duyệt Kỳ. Sở Kiểm duyệt Kỳ sẽ quyết định

chung thẩm.

Điều thứ 5

Uỷ ban kháng chiến khu có quyền ra lệnh tịch thu các ấn loát phẩm phát hành

tuy không được phép.

Điều thứ 6

Các điều khoản trái với sắc lệnh này đều tạm hoãn thi hành.

Điều thứ 7

Bộ trưởng Bộ Nội vụ chiểu sắc lệnh thi hành.

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ

(Đã ký)

Hồ Chí Minh

2. Sau năm 1954, báo chí Việt Nam hoàn toàn tự do

Năm 1954, chính phủ tuyên bố bãi bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí. Từ đó

đến nay, nước ta không còn chế độ kiểm duyệt nữa.

SẮC LỆNH

CHỦ TỊCH PHỦ SỐ 282/SL

HÀ NỘI, NGÀY 14 THÁNG 12 NĂM 1956

CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Chiểu sắc lệnh số 41 ngày 29 tháng 3 năm 1946 quy định chế độ báo chí;

Theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp;

Theo nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban thường trực Quốc

hội thoả thuận,

RA SẮC LỆNH:

CHƯƠNG I

TÍNH CHẤT VÀ NGHĨA VỤ CỦA BÁO CHÍ

- 75 -

Điều 1

Sắc lệnh này nhằm đảm quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí

và ngăn cấm những kẻ lợi dụng quyền ấy để làm phương hại đến công cuộc

đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà.

Điều 2

Báo chí dưới chế độ ta, bất kỳ là của một cơ quan chính quyền, đảng phái

chính trị, đoàn thể nhân dân hoặc của tư nhân cũng đều là công cụ đấu tranh

của nhân dân, phải phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, bảo vệ chế

độ dân chủ nhân dân, ủng hộ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Điều 3

Báo chí dưới chế độ ta có nghĩa vụ:

a) Tuyên truyền giáo dục nhân dân, động viên tinh thần đoàn kết phấn đấu

thực hiện mọi đường lối chính sách của Chính phủ, đấu tranh bảo vệ những

thành quả của cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát triển tình

hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước bạn và nhân dân yêu chuộng

hoà bình thế giới, phục vụ cuộc đấu tranh thực hiện một nước Việt Nam hoà

bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.

b) Đấu tranh chống mọi âm mưu, hành động và luận điệu phá hoại công

cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh, phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất

Tổ quốc, phá hoại hoà bình.

CHƯƠNG II

QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN LỢI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ

MỤC I - QUYỀN LỢI CỦA BÁO CHÍ

Điều 4

Quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí được đảm bảo.

Tất cả các báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận. Không phải

kiểm duyệt trước khi in; trong trường hợp khẩn cấp, xét cần phải tạm thời đặt

kiểm duyệt, Hội đồng Chính phủ sẽ quyết định.

- 76 -

Điều 5

Báo chí có thể phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân đối với các cơ

quan Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, góp ý kiến vào việc xây dựng và thực

hiện đường lối, chính sách của Chính phủ.

Điều 6

Quyền lợi của những người viết báo chuyên nghiệp sẽ do nghị định của

Thủ tướng Chính phủ quy định.

MỤC II- ĐIỀU KIỆN HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ.

Điều 7

Để có một cơ sở cần thiết đảm bảo làm tròn trách nhiệm của báo chí và

đảm bảo cho việc hoạt động nghiệp vụ, muốn xuất bản một tờ báo, cần phải

có những điều kiện sau đây:

a) Tờ báo phải có những người chịu trách nhiệm chính thức, chủ bút (hoặc

là tổng biên tập viên, hoặc là thư ký toà soạn), quản lý. Những người này phải

là những người có quyền công dân và không bị pháp luật đương truy tố.

b) Tôn chỉ, mục đích của tờ báo phải rõ ràng, phù hợp với tính chất và

nghĩa vụ đã quy định ở chương I.

c) Có trụ sở chính thức.

Điều 8

Muốn xuất bản một tờ báo phải xin phép trước, phải làm đầy đủ những thủ

tục về khai báo. Sau khi được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp

giấy phép, tờ báo mới bắt đầu được hoạt động.

Báo chí nào đã được phép xuất bản mà sau đó có một sự thay đổi nào về

tôn chỉ, mục đích, tên báo, kỳ hạn phát hành hoặc về những người chịu trách

nhiệm chính thức của tờ báo, đều phải xin phép và khai báo lại.

Điều 9

Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng một cách đúng đắn,

báo chí phải tuân theo những những điều sau đây:

a) Không được tuyên truyền chống pháp luật của Nhà nước. Không được

- 77 -

cổ động nhân dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những

đường lối, chính sách của Nhà nước. Không được viết bài có tính chất chống

lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại chính quyền nhân dân, chia rẽ nhân dân

và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc

những hành động có hại cho an ninh trật tự của xã hội.

b) Không được tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực

hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm

sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội.

c) Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các

nước, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước

bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được

tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc, không được tuyên truyền chiến tranh.

d) Không được tiết lộ bí mật quốc gia: Những bí mật quốc phòng, những

hội nghị cơ mật chưa được công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm,

những vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà toà án không cho

phép công bố, những tài liệu, số liệu và những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài

chính mà Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa

công bố.

e) Không được tuyên truyền dâm ô, truỵ lạc, đồi bại.

Điều 10

Báo nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hay

một cá nhân, thì đương sự có quyền yêu cầu báo ấy cải chính hoặc đăng bài

cải chính của đương sự; ngoài ra, đương sự có quyền yêu cầu toà án xét xử.

Điều 11

Trước khi phát hành, các báo chí phải thi hành thể lệ nộp lưu chiểu.

Điều 12

Không được phát hành và in lại những báo chí mà cơ quan chính quyền đã

có quyết định thu hồi.

CHƯƠNG III

- 78 -

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

MỤC I- QUY ĐỊNH VỀ KỶ LUẬT.

Điều 13

Báo chí nào vi phạm điều 8, sẽ bị trừng phạt:

Tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễn và truy tố trước toà án, sẽ bị phạt tiền

từ mười vạn đồng (100.000 đồng) đến năm mươi vạn đồng (500.000 đồng),

hoặc người có trách nhiệm bị phạt tù từ 1 tháng đến 1 năm, hoặc cả hai hình

phạt đó.

Báo chí nào vi phạm điều 9 hoặc điều 12 sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng

nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn,

hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ)

đến một triệu đồng (1.000.000đ), hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt tù từ

một tháng đến hai năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Nếu xét đương sự phạm vào

những luật lệ khác, toà án sẽ chiếu theo những luật ấy mà trừng phạt thêm.

Báo chí nào vi phạm điều 10, sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà

cảnh cáo, đình bản tạm thời, hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ

năm vạn đồng (50.000đ) đến hai chục vạn đồng (200.000đ).

Báo chí nào vi phạm điều 11, sẽ bị cảnh cáo hoặc tịch thu ấn phẩm.

Điều 14

Trong mỗi trường hợp vi phạm, chủ nhiệm và chủ bút của tờ báo chịu trách

nhiệm chính; quản lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về

phần mình.

Nếu in những báo chí đã có lệnh tịch thu, đình bản và những báo chí chưa

có giấy phép thì chủ nhà in cũng phải liên đới chịu trách nhiệm.

MỤC II- ĐIỀU KHOẢN CHUNG

Điều 15

Các điều khoản trong sắc lệnh này áp dụng cho tất cả các ấn phẩm có tính

chất báo chí, tập san viết bằng tiếng Việt; hoặc bằng tiếng nước ngoài, kể cả

các hoạ báo, xuất bản đều kỳ và không đều kỳ, trên lãnh thổ nước Việt nam

- 79 -

dân chủ cộng hoà, ra từng tờ hoặc đóng thành từng tập, từng quyển, in bằng

máy, bằng rô-nê-ô, in đá, in thạch, bán hoặc phát không, lưu hành ngoài nhân

dân hoặc trong từng ngành, từng tổ chức.

Điều 16

Tất cả các báo chí đã xuất bản trước ngày ban sắc lệnh này thì không phải

xin phép nữa. Những báo nào chưa làm đúng thủ tục khai báo thì nay phải

khai báo lại cho đúng.

Điều 17

Những luật lệ và báo chí đã ban hành từ trước đến nay trái với các điều

khoản ghi trong sắc lệnh này đều bãi bỏ.

Điều 18

Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định những tiết thi hành sắc lệnh này.

Điều 19

Thủ tướng Chính phủ, các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ tư

pháp, Bộ trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm thi hành sắc lệnh này.

CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

CHỦ TỊCH NƯỚC

(Đã ký)

Hồ Chí Minh

3. Báo chí Việt Nam hiện nay

Và từ đó đến nay, báo chí Việt Nam luôn được tôn trọng quyền tự do.

Quyền đó được quy định trong điều 2, luật báo chí Việt Nam (được công bố

theo Lệnh số 05 L/CTN ngày 26/6/1999 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam) có quy định rõ:

- 80 -

“Điều 2. Bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí:

Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo

chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò

của mình.

Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước

bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà

báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do

ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công

dân.

Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng”.

Các nhà khoa học đã viết bài phê phán những quan điểm sai trái của các

thế lực thù địch. Hội đồng Lý luận Trung ương đã tập hợp những bài viết đó

và phối hợp với Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách "Lẽ phải

của chúng ta". Báo Sài Gòn Giải Phóng trích đăng bài của Tiến sĩ Hồng Vinh.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đặc biệt từ khi nước ta

tiến hành sự nghiệp đổi mới, báo chí Việt Nam đã có bước phát triển nhanh

chóng về số lượng và chất lượng. Hiện nay, nước ta đã có tất cả các loại hình

báo chí (báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử). Cả nước hiện có hơn 550 cơ

quan báo chí, với 713 ấn phẩm báo chí, bình quân 7,5 bản báo đầu người/năm.

Đài Tiếng nói Việt Nam đã có 6 hệ chương trình, 452 chương trình, thời

lượng phát sóng 172 giờ trong ngày. Sóng phát thanh không chỉ đã phủ trong

toàn quốc, mà còn tỏa khắp năm châu, đáp ứng nhu cầu tinh thần của hàng

triệu đồng bào sống ở nước ngoài và bầu bạn thế giới. Cùng với 11 trạm phát

sóng và phát qua vệ tinh của Đài Tiếng nói Việt Nam, còn có 64 đài tỉnh,

thành phố, 606 đài phát thanh truyền hình cấp huyện, trong đó có 288 đài phát

sóng FM.

Đài Truyền hình Việt Nam có 5 kênh, phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt

Nam, có 4 đài khu vực và 61 đài phát thanh, truyền hình tỉnh và thành phố.

- 81 -

Trong những năm gần đây, đài đã có chương trình VTV4 phủ sóng đến nhiều

vùng trên thế giới, được cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bầu bạn

năm châu đón nhận và hoan nghênh.

Mặc dù mới được phát triển trong mấy năm gần đây, báo điện tử đã có

bước phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng 32,5%/năm. Hiện nay ở nước ta

đã có hơn 70 tờ báo điện tử và hàng ngàn trang thông tin điện tử; 6 nhà cung

cấp dịch vụ và kết nối Internet; 20 nhà cung cấp dịch vụ Internet và hơn 50

nhà cung cấp thông tin và báo điện tử trên Internet… Báo chí nước ta đã là

món ăn tinh thần không thể thiếu được của các tầng lớp nhân dân; thực sự đến

với nhiều đối tượng trở thành người bạn thân thiết hằng ngày của họ. Đó là vì

báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội,

nghề nghiệp, tiếng nói của nhân dân,…; đồng thời là bầu bạn tin cậy của các

tầng lớp nhân dân, đã và đang đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của

đông đảo cán bộ, nhân dân. Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn

đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động

bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc.

Đây là điều cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây

dựng một xã hội hòa bình, ổn định, vì hạnh phúc của nhân dân.

Báo chí Việt Nam đã tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng,

quan liêu, phát hiện những việc làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của

nhân dân. Báo chí tham gia xây dựng đời sống mới, đấu tranh với những hủ

tục, những tệ nạn xã hội. Báo chí ngày càng tham gia rộng rãi vào việc xây

dựng Đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Tại Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ta đã coi báo chí là công cụ giám

sát các hoạt động của tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước, phát hiện và phê

phán cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng,

quan liêu… Có thể đi đến kết luận là, báo chí và hoạt động báo chí ở Việt

Nam, ngay từ khi mới ra đời, đã hoạt động vì mục tiêu độc lập dân tộc và

hạnh phúc của nhân dân. Đó chính là nội dung cốt lõi của tự do báo chí ở

- 82 -

nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Luật Báo chí Việt Nam khẳng định báo chí không chỉ là cơ quan của Đảng,

Nhà nước, đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,... mà còn là diễn

đàn tin cậy của người dân. Nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình qua các

phương tiện báo chí. Hàng triệu bài, tin gửi cho các báo về nhiều chủ đề liên

quan đến các mặt thiết thực của đời sống nhân dân; thông qua chuyên mục “Ý

kiến bạn đọc”, nhiều ý kiến rất phong phú của các tầng lớp nhân dân được

phản ánh trên nhiều tờ báo, là sự thể hiện sinh động quyền tự do ngôn luận

của mỗi người dân.

Luật Báo chí của Việt Nam ghi rõ hai điều rất quan trọng:

Điều 4: Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công

dân. Công dân có quyền:

1- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế

giới;

2- Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin,

bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ

chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin;

3- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;

4- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

5- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với

các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các

tổ chức đó.

Điều 5: Trách nhiệm của báo chí đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do

ngôn luận trên báo chí của công dân.

Cơ quan báo chí có trách nhiệm:

l) Đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân; trong trường hợp không

đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do;

2) Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc

- 83 -

trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến.

Như vậy, dù với động cơ nào, người ta không thể bưng tai, nhắm mắt phủ

nhận pháp luật Việt Nam về tự do hoạt động báo chí; phủ nhận tính dân chủ,

văn minh của báo chí Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Thực tế quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam đã thể hiện

tự do báo chí của Việt Nam. Trong một xã hội dân chủ, tự do của người này

không thể làm mất tự do của người khác. Những hành động liên kết với nhau

để vụ lợi, trái với quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí, đều bị xử lý, dù

người đó đang giữ trọng trách cao trong cơ quan của Đảng, Nhà nước. Những

tờ báo hoạt động xâm hại tôn chỉ, mục đích, gây tác động xấu đối với xã hội

đều bị xử phạt theo các quy định của pháp luật.

Để nâng cao chất lượng hoạt động báo chí của các nhà báo, Nhà nước Việt

Nam đã lập ra các trường đại học báo chí, đào tạo nhà báo với trình độ đại học

và cao học. Hàng năm có hàng trăm nhà báo ra trường, có trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ cao, có năng lực và ý thức trách nhiệm xã hội. Các trường đào

tạo nhà báo ở Việt Nam đã có sự hợp tác, liên kết với các trường đại học báo

chí của Pháp và một số nước phương Tây để bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm

làm báo. Việt Nam đã cử hàng trăm nhà báo đi bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí

tại các trường đại học ở Mỹ, Pháp, Đức, Thụy Điển, Nga,... Báo chí Việt Nam

không đóng cửa, biệt lập với thế giới, mà luôn luôn mở rộng quan hệ với các

đồng nghiệp ở nhiều nước. Để bảo vệ quyền lợi của các nhà báo, giúp nhau

bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, Việt Nam đã có Hội Nhà báo toàn quốc và các

hội địa phương, thu hút hơn 12.000 nhà báo là hội viên. Hội Nhà báo Việt

Nam là thành viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ) và Liên đoàn Báo chí

ASEAN (CAJ) trong nhiều năm qua, tham gia tích cực và đóng góp xứng

đáng vào sự phát triển của báo chí khu vực và thế giới, vì mục tiêu hòa bình,

ổn định, tiến bộ và thịnh vượng. Vậy là, sự quản lý báo chí bằng pháp luật ở

Việt Nam không phải là sự cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng

như những hoạt động báo chí của các nhà báo. Việt Nam đã mở cửa trong hoạt

- 84 -

động báo chí với bên ngoài để góp phần nâng cao trình độ báo chí của mình,

đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa,

hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hóa với bầu bạn bốn phương.

Có ý kiến cho rằng, có báo tư nhân mới là biểu hiện cụ thể của tự do báo

chí. Phải khẳng định rằng không có báo chí tư nhân thì không thể quy chụp là

không có “tự do báo chí”. Những người làm báo Việt Nam đã và đang phấn

đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Những tờ

báo hiện nay của các cơ quan Đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, tổ

chức nghề nghiệp đã phản ánh đầy đủ những ý kiến, nguyện vọng chính đáng

của các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, vấn đề ra báo tư nhân hiện nay là không

cần thiết. Những kiến nghị của họ đã được công luận phản ánh đầy đủ và được

Đảng, Nhà nước tiếp thu, trả lời qua báo, đài. Đó là sự thể hiện quyền được

thông tin cũng như quyền ngôn luận của nhân dân. Mặt khác, thực tiễn việc ra

đời báo tư nhân ở nhiều nước gây nhiễu thông tin, thậm chí làm vô hiệu hóa

sự lãnh đạo của chính quyền, dẫn đến sự rối loạn chính trị-xã hội ở nhiều nước

vốn quảng cáo rầm rộ cho cái gọi là “tự do báo chí” đã là bài học thấm thía

cho nhân dân ta. Có lẽ nào, chúng ta lại trượt theo vết xe đổ ấy.

Sở dĩ có đòi hỏi vô lý trên, có nguyên nhân từ nhận thức mơ hồ về quyền

tự do báo chí và nhiệm vụ của báo chí Việt Nam. Do hiểu phiến diện hoặc cố

tình hiểu sai về tự do báo chí, họ đã ra công cổ súy, đấu tranh đòi “tự do báo

chí” theo kiểu phương Tây, coi đó là biểu hiện của "tinh thần dân chủ”, tự

phong cho mình là “người hăng hái đấu tranh cho dân chủ”. Song, họ không

hiểu rằng dân chủ là một thể chế, trong đó quyền tự do báo chí của người này

không được làm tổn hại đến quyền tự do của người khác, đến lợi ích của toàn

dân tộc. Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu

có sự góp phần của những tờ báo theo khuynh hướng "tự do báo chí” kiểu

phương Tây đó. Mặt khác, trong một số ít người, tư tưởng nêu trên xuất phát

từ những toan tính liên quan đến lợi ích, quyền lực, động cơ cá nhân; từ sự bất

- 85 -

mãn của họ với Đảng và Nhà nước. Họ luôn luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên

lợi ích của đất nước; chính vì thế, họ có những ý kiến lạc lõng, cực đoan, phản

lại quyền lợi của dân tộc.

Trong số những người cơ hội chính trị, có người đã thực sự đối lập với lợi

ích Tổ quốc, liên kết những phần tử bất mãn ở bên trong cùng với thế lực xấu

ở bên ngoài để dùng báo chí chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

của nhân dân ta. Họ quay lưng lại với quá khứ vẻ vang, hào hùng của toàn dân

tộc, trong đó có sự đóng góp nào đó của gia đình và bản thân họ.

Những bài báo, những hồi ký của họ đầy rẫy sự xuyên tạc, vu cáo hèn hạ,

bêu riếu những người dân nước Việt đang ngày đêm cần cù lao động sáng tạo,

chắt chiu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất cả vì mục tiêu "dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Thật trớ trêu khi họ cho rằng,

nếu chúng ta không có tự do báo chí như họ mong muốn, thì "đất nước này

vẫn không thể cất đầu lên được", vẫn "sống trong vòng lạc hậu tối tăm" (!).

Những người nuôi dã tâm xấu xa đó không có quyền nói đến “tự do báo chí”,

theo nghĩa chân chính nhất của từ này.

Tự do báo chí cho ai, vì ai? Câu hỏi lớn đó đã được thực tiễn đổi mới đất

nước nói chung và thực tiễn đổi mới báo chí nói riêng trong gần 20 năm qua

cùng thực tiễn trên thế giới ngày nay cho ta câu trả lời rành rọt. Thực tiễn luôn

luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Nhận thức đúng xu thế tiến lên của dân tộc,

trong đó có hoạt động rất sôi động và hiệu quả của báo chí cách mạng Việt

Nam, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng đắn về Việt Nam trong tiến trình đổi mới.

4. Nhìn thẳng về báo chí Việt Nam và báo chí TBCN (Mỹ làm đại diện)

Bàn về vấn đề tự do báo chí trong khi bom đạn đang giết chết nhiều người

dân vô tội ở Iraq, ông Đỗ Phượng - nguyên Uỷ viên Trung ương đảng, nguyên

Tổng giám đốc TTXVN cho rằng, khái niệm tự do kiểu phương Tây mới chỉ

được cắt nghĩa ở cái ngọn, mà không giải thích được quyền tự do lớn nhất của

một quốc gia, dân tộc là quyền sống trong độc lập đang bị vùi dập bằng sự

- 86 -

hủy diệt của bom đạn cường quyền.

Có tới hai nghìn nhà báo được Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ cấp thẻ phóng viên

chiến trường. 500 người được "tập huấn" như những chiến binh thực thụ. Họ

được tập trung tại căn cứ tiền phương ở Kuwait và Qatar. Giới báo chí được

chuẩn bị dài ngày như một cuộc biểu dương lực lượng cho "tự do thông tin- tự

do báo chí" trong chiến tranh tổng lực của đội quân viễn chinh có sức tiến

công và kỹ thuật cao ở đầu thế kỷ 21. Cùng với văn phòng báo chí tại Qatar,

một trung tâm báo chí tạm thời thành lập ở Kuwait có nhiều sĩ quan cấp tá

thường xuyên liên hệ và tạo điều kiện cho các nhà báo hoạt động. Mọi sự

chuẩn bị làm cho dư luận hiểu rằng: Sẽ không có độc quyền và bưng bít thông

tin như chiến tranh vùng Vịnh hơn 10 năm trước!

Người ta chờ đợi sự bùng nổ tự do thông tin ngay khi cuộc chiến tranh

chống nhân dân Iraq bắt đầu.

Sáng 20-3, nhận hai thông tin chính thức: chiến tranh đã bắt đầu bằng cuộc

tiến công trúng mục tiêu của máy bay và tên lửa xuống Baghdad. Nhiều nhà

lãnh đạo Iraq đã bị tử thương, S.Hussein cũng nằm trong số đó. Tổng thống

Iraq đã không chạy thoát những trái bom và cả tên lửa "siêu thông minh"

trúng nơi ông đang ngủ. Các nhà báo có mặt ở Bagdad và đài truyền hình Iraq

đã phát đi những thông tin ngược lại.

Vài ngày liền, thông tin chính thức được phát đi theo đúng kịch bản "cuộc

chiến tranh 72 giờ". Cùng với những "cú sốc kinh hoàng" và chiến dịch "Iraq

tự do", dường như các thành phố, cảng biển, căn cứ chỉ huy và các đơn vị

mạnh của lực lượng Vệ binh cộng hòa của Iraq đã bị chiếm đóng và tiêu diệt

đúng theo bản đồ quân sự đã được ghi chú sẵn theo kế hoạch (!)

Chưa tới 72 giờ, chỉ sang ngày thứ ba của cuộc chiến, các tư lệnh chiến

trường, kể cả Tổng chỉ huy quân Mỹ, ngay tại trung tâm báo chí ở Qatar và

Kuwait đã không ít lần phải bổ sung thông tin, thông tin lại và nói với các nhà

báo: "Xin hãy chờ xem". Có nhà báo bị mắc kẹt tại chiến tuyến, liên hệ với

các sĩ quan liên lạc của trung tâm báo chí mong được giúp đỡ nhưng chỉ nhận

- 87 -

được những hứa hẹn mơ hồ: "Xin chờ đợi, tình hình sẽ sớm sáng sủa". Một

màn kịch vụng về của chiến tranh thông tin là hình ảnh hàng đoàn binh lính

Iraq đầu hàng được chiếu trên màn ảnh máy thu hình. Một cựu binh Mỹ trong

chiến tranh Việt Nam vừa xem đã nói ngay: Ðúng là một vở diễn, không có

bối cảnh chiến tranh, mọi thứ như sắp đặt sẵn! Một nhân vật gần gũi với sở

chỉ huy Mỹ ở Qatar tiết lộ: Băng hình đã có sẵn từ trước khi phát lệnh nổ

súng.

Ấy vậy mà khi đài truyền hình Iraq và một số đài nước ngoài truyền đi

hình ảnh những tù binh Mỹ đang trả lời phỏng vấn và các phi công Mỹ bị dân

quân Iraq bắt, thì ngay lập tức người Iraq bị kết tội "vi phạm Công ước quốc

tế đối với tù binh". Và, có lẽ "vận dụng" Công ước quốc tế không mấy hiệu

quả, cho nên ngày 25-3, đài truyền hình Iraq đã bị dội bom không dưới ba lần!

Thực tế của cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Mỹ, Anh phát động đã bị

sự phê phán mạnh mẽ của cả thế giới. Phân nửa số người Mỹ không tán thành

chiến tranh, tới 70% người dân Anh cũng không ủng hộ chính sách tham chiến

của chính phủ nước họ. Ðiều rõ ràng là hãng CNN, đài tiếng nói Hoa Kỳ và

đài BBC đã theo sát các nguồn tin của cơ quan chỉ huy liên quân Anh-Mỹ.

Vậy mà, người ta đã không tiếc lời thuyết minh về tự do báo chí, tự do

ngôn luận như biểu tượng văn hóa Mỹ!

Ở nước tự cho mình cái quyền hướng dẫn các quốc gia, dân tộc về quyền

con người, về tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, lại cho mình

quyền tự ý kết tội, trừng phạt các quốc gia, dân tộc theo chuẩn mực của riêng

họ. Các ông Hans Blix và Baradei với một đội ngũ chuyên gia quốc tế thanh

sát Iraq một thời gian dài chỉ có thể kết luận: Iraq hợp tác chặt chẽ, chưa có

điều gì chứng minh họ đang sản xuất, nhập khẩu và tàng trữ vũ khí giết người

hàng loạt, cần có thêm thời gian cho công việc thanh sát. Ðại đa số thành viên

Hội đồng Bảo an LHQ tán thành đề nghị của hai ông. Nhưng nhà cầm quyền

Mỹ, Anh đã bất chấp tất cả, đơn phương quyết định dùng vũ lực tiến công

Iraq. Phải chăng họ đang nhân danh những giá trị dân chủ, nhân quyền kiểu

- 88 -

Mỹ, đem các loại vũ khí siêu hiện đại, có sức tàn phá, khả năng hủy diệt rất

lớn để gây tang tóc đến cho nhân dân của một đất nước chịu đựng 12 năm cấm

vận, với một đội quân mà tổng hỏa lực, trang bị thua xa dù chỉ so với một

hàng không mẫu hạm của Mỹ. Những kế hoạch "cú sốc khủng khiếp" đến

"diệt gọn mọi ổ đề kháng cuối cùng", "chính phủ không có Saddam được quân

đội quốc tế (Mỹ, Anh) làm chỗ dựa", "dự án 5 năm khôi phục và xây dựng lại

Iraq tự do bởi chính hơn 10 tập đoàn, công ty Mỹ đã bỏ thầu", "số tiền cứu hộ

nhân đạo đầu tiên sẽ là mấy tỷ USD của Iraq đang giữ ở các ngân hàng nước

ngoài", v.v. Quả thật, khó ai có thể nghĩ ra nổi những bước đi được tính tới

từng chi tiết đến như vậy.

Từ những gì đang diễn ra ở Iraq, người ta càng nhận rõ tính chất phi lý của

những cái gọi là bản tổng kết, bản báo cáo, đôi khi cả nghị quyết hằng năm

được phát đi từ Washington bình phẩm, lên án, tính điểm việc này, việc nọ ở

các quốc gia trên khắp các lục địa, trong đó có Việt Nam, khi thì về "nhân

quyền", khi thì về "tự do tôn giáo", "tự do báo chí", "tự do ngôn luận"... Mấy

năm gần đây, lời lẽ của họ cũng có cung bậc cao thấp khác nhau, bởi vì họ

không thể phủ nhận được thực tế ở Việt Nam quyền con người chẳng những

được Hiến pháp, pháp luật khẳng định, bảo vệ mà còn được thực thi ngày

càng tốt hơn trên thực tế. Tuy nhiên, những kẻ ăn theo, bảo hoàng hơn chủ,

tiếp tục la lối về cái gọi là tự do ngôn luận, tự do báo chí, đòi hỏi chỉ có tư

nhân hóa báo chí mới có báo chí tự do.

Thật ra, đó là những người cố tình không hiểu gì về những phát triển vượt

bậc của báo chí Việt Nam mà bất cứ ai quan tâm hoặc đã đến Việt Nam đều

thừa nhận. Không chỉ là sự phát triển về số lượng, về kỹ thuật mà quan trọng

hơn là những tiến bộ không ngừng về nội dung, chất lượng, về đội ngũ những

người làm báo, về sự đóng góp to lớn của họ trong tổng hợp tiếng nói từ thực

tiễn, của mọi tầng lớp nhân dân đề xuất và hoàn thiện chính sách, pháp luật,

cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phục vụ

chính sách đối ngoại và gần nhất chính là đường lối phát huy sức mạnh của

- 89 -

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo... Ai

mà chẳng biết rằng, ở Việt Nam, hàng chục hiệp hội có báo, tạp chí, tập san

hoặc bản tin định kỳ của mình. Ðường dây nóng trực tiếp ghi nhận các ý kiến

của người dân được công khai ghi trên trang nhất của hàng chục tờ báo. Loại

hình báo chí, chủ đề trên báo ngày càng rộng mở vì sự nghiệp đổi mới, vì xóa

đói, giảm nghèo, vì làm giàu cho mỗi người và đất nước, vì sự công bằng và

dân chủ.

Hơn 90% báo chí Việt Nam không nhận trợ cấp của Nhà nước. Ðoàn thể,

hiệp hội cử ra tổng biên tập và tổng biên tập chịu trách nhiệm trước pháp luật

và trước những người bổ nhiệm họ về hoạt động của mình. Không ai can thiệp

và có quyền duyệt nội dung bài viết và hình ảnh báo chí sử dụng. Ðương

nhiên, mỗi tờ báo đều thể hiện tôn chỉ, điều lệ và quyền lợi của tổ chức của

họ.

Cũng khó mà so sánh với bất cứ ai. Mỗi đất nước đều có pháp luật riêng,

mỗi cơ quan báo chí đều có truyền thống, văn hóa, quy chế của riêng mình. Ta

có nhiều dịp tiếp xúc, tìm hiểu và học tập được nhiều điều hay của các loại

hình báo chí thế giới. Ta từng biết một cơ quan báo chí tư nhân có thâm niên

hàng đầu thế giới, có khối lượng thông tin đồ sộ và sinh ra ở một đất nước

khai sinh ra nền dân chủ tư sản. Vậy mà cơ quan báo chí đó đã trải qua những

tháng ngày không có chủ tịch, tổng giám đốc. Một hãng báo chí tư nhân ở một

nước lớn mà khi Tổng thống và Thủ tướng nước đó có đường lối chính trị trái

ngược nhau, người ta không thể cử được người đứng đầu của hãng. Thì ra,

ngân sách "mua tin" từ Phủ Tổng thống và Phủ Thủ tướng ngang nhau. Và

cộng cả hai lại lớn hơn các nguồn thu khác. Thế là đã rõ.

Lại nhớ trong những năm chiến tranh cứu nước ác liệt, ta đối chiếu từng

bài viết của các tờ báo Mỹ, nhất là giữa hai tờ Newsweek và Time để so sánh

những cái đồng nhất và không đồng nhất giữa hai thế lực dân chủ và cộng hòa

trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ðương nhiên, ta trân trọng thái độ khách

quan trung thực và sự khôn ngoan trong bút pháp của không ít nhà báo Mỹ,

- 90 -

song ta rất hiểu thế lực chính trị, tài chính nào đang chi phối từng tờ báo.

Vả lại, tại sao khái niệm tự do lại chỉ được cắt nghĩa ở cái ngọn không

nhằm nhò gì so với việc quyền tự do lớn nhất của một quốc gia, dân tộc là

quyền sống trong độc lập đang bị vùi dập bằng sự hủy diệt của bom đạn

- 91 -

cường quyền?

KẾT LUẬN

Như vậy, những dẫn chứng về sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với

báo chí khá phong phú. Vẫn còn tồn tại sự can thiệp có nghĩa là sự tự do báo

chí ở các nước TBCN vẫn chưa hoàn toàn.

Khi đúc kết báo chí xã hội TBCN, Lê Nin đã nói rằng: “ Tự do báo chí

trong xã hội TBCN là tự do mua bán, trao đổi, chế biến thông tin phục vụ cho

lợi ích của nhà cầm quyền”. Tự do báo chí trong xã hội TBCN chỉ là “ huyền

thoại” mà thôi.

Tóm lại, chúng ta cần hiểu thật rõ rằng truyền thông có thể là công cụ để

bảo vệ chế độ (độc tài lẫn dân chủ), và ngược lại, nó cũng là phương tiện để

thay đổi chế độ đó.

Hầu hết chúng ta, không loại trừ ai, đều ít hay nhiều chịu ảnh hưởng của

truyền thông. Đối với mỗi một cá nhân, chọn một hay nhiều phương tiện

truyền thông “thích hợp” với mình để theo dõi, thu nhận thông tin và từ đó

nghe theo hay tự đi đến kết luận cho chính mình về các vấn đề khác nhau. Khi

có những thông tin sai lệch, hay vì thiếu dữ kiện, hay vì có thói quen dựa vào

quan điểm của người khác thì cái nhìn của ta về các vấn đề đó cũng sẽ bị thiên

lệch, sai sót. Ngoài ra, một khi truyền thông, hay nói đúng hơn, một khi các

chủ nhân sở hữu các phương tiện truyền thông, đồng loã với chính quyền hay

một số thành phần chính trị nào đó, vì quyền lợi hay vì ý thức hệ, thì sự thông

tin sai lệch từ các cơ quan truyền thông này cũng sẽ dẫn chúng ta đi lầm

đường lạc lối.

Truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong việc rút

ngắn thời gian cần thiết để giáo dục đại chúng một cách nhanh chóng, thay đổi

nhận thức và ý thức mới. Trong khi đó giáo dục phải cần một hay nhiều thế hệ

mới đào tạo được những con người mới.

Trong truyền thông, tiêu chuẩn tối ưu là chính xác, trung thực, khách quan

và nhanh chóng, và để làm được việc đó thì chúng ta cần những người có tài

- 92 -

lẫn tâm (lương thiện trong nghiệp vụ). Nói tóm lại, không thể có một nền

chính trị dân chủ đích thực nếu không có một nền truyền thông tự do và giá trị

- 93 -

đích thực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Blumler, Jay G., and Kavanagh, Dennis, The Third Age of Political

communication: Influences and Features, Political Communication, Vol. 16,

1999. Trang 209-230.

2. Schultz, Julianne, Reviving the Fourth Estate. Democracy, Accountability

and them media, Cambridge University Press, Cambridge, 1998. Trang 81.

3. Karol Jakubowicz, From party propaganda to corporate speech? Polish

journalism in search of a new identity. Journal of Communication, Vol. 42,

N3 (Summer 1992). Trang 64-73.

4. Street, John, Mass Media, Politics and Democracy, Palgrave, 2001. Trang

236.

5. Ward, Ian, Politics of the Media, Macmillan, South Yarra, 1995. Trang 82

6. John Steven, "Tự do ngôn luận: thước đo mới" phương tiện thông tin đại

chúng và kinh nghiệm quốc gia, NewYork, 1971. Trang 14-37 (tự dịch)

7. Noam Chomsky, Media control - The spectacular achievements of

propaganda, Pennsylvania, 1957 (tự dịch)

8. Fredrick Seaton Siebert, Freedom of the Press in England, 1476-1776: The

Rise and Decline of Government Control.

9. E. Malcolm Hause, The Western Political Quarterly, Vol. 19, No. 1 (Mar.,

1966), Trang 201-202.

10. Zhanna Seitzhanov, TYPOLOGY OF MODERN PRESS, bài giảng của

Hội đồng truyền thông của Kazakhstan.

11. Pierre Albert, Lịch sử báo chí, NXB Thế giới, 2003, Hà Nội

12. Bogdanov N. G., Viazemskii B. А. Leninizdat, Directory of the journalist,

1971.

13. Sibert F., Shram U., Piterson Т. М, Four theories of press, 1998.

14. Theory and practice of the Soviet periodic press, Pelta V. D. М, 1980.

- 94 -

15. Shkondin М. V, Press: bases of organisation and management, 1982

16. X.A.Mikhailốp, Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc và nghịch lý,

NXB Thông tấn, 2004, Hà Nội.

17. Website: vietmedia.com

18. Website: Tuanvietnam.net

19. Website: BBC.co.uk

20. Website: nghebao.com

- 95 -

21. Các văn bản luật báo chí, đạo đức báo chí.