Bé tµi nguyªn vµ m«i tr−êng
ViÖn KHOA HỌC ®Þa chÊt vµ kho¸ng s¶n
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI: nghiªn cøu x¸c lËp c¬ së khoa häc phôc vô
c«ng t¸c ®¸nh gi¸ t¸c ®éng m«i tr−êng chuyªn ngµnh
®èi víi c¸c dù ¸n khai th¸c lé thiªn
Chủ nhiệm đề tài: MAI THẾ TOẢN
6598
08/10/2007
Hµ néi - n¨m 2007
Bé tµi nguyªn vµ m«i tr−êng
ViÖn KHOA HỌC ®Þa chÊt vµ kho¸ng s¶n
-------------------(cid:203)-------------------
Nghiªn cøu x¸c lËp c¬ së khoa häc phôc vô
c«ng t¸c ®¸nh gi¸ t¸c ®éng m«i tr−êng
chuyªn ngµnh ®èi víi c¸c dù ¸n khai th¸c
lé thiªn
Cơ quan thực hiện đề tài Chủ nhiệm đề tài
Ths. Mai Thế Toản Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản
hµ Néi - n¨m 2007
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA
1. ThS Mai Thế Toản, Bộ Tài nguyên và Môi trường - Chủ nhiệm Đề tài.
2. PGS.TS Hồ Sĩ Giao, Hội Khoa học - Công nghệ mỏ Việt Nam.
3. TS Mai Trọng Tú, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác Quốc
tế, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản - Phó chủ nhiệm Đề tài.
4. KS Vũ Đình Hiếu, Trường Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội
5. KS Nguyễn Thanh Liêm, Phó giám đốc Công ty tư vấn đầu tư Mỏ và
Công nghiệp (Tổng công ty than Việt Nam).
6. TS Lại Hồng Thanh, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
7. TS Nguyễn Quốc Khánh - PGĐ Trung tâm Môi trường công nghiệp -
Viện Nghiên cứu mỏ và công nghiệp.
8. TS Bùi Xuân Nam, Trường đại học Mỏ-Địa chất Hà Nội.
1
Diễn giải
BẢNG THỐNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT
ký hiệu
ANFO
BOD5
Ammonium NitrateFuel Oil (Hỗn hợp thuốc nổ amonit + dầu mỏ)
Biochemical Oxygen Demand (Yêu cầu oxy cho quá trình
sinh hoá trong 5 ngày)
Bãi thải cố định
Bãi thải tạm
Bảo vệ môi trường
Công nghiệp hoá
Cộng hoà Liên bang
BTC
BTT
BVMT
CNH
CHLB
CHXHCN Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
COD
DO
ĐTM
GDP
HĐH
HTKT
KTLT
KSCI
LKM
MXTL
NPV
SS
TLGN
TLGT
TCCP
TCVN
TKV
TVĐT
TNKS
TP
UBND
VLXD Chemical Oxygen Demand (Yêu cầu oxy cho phản ứng hoá)
Dissolved oxygen (Oxy hoà tan)
Đánh giá tác động môi trường
Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)
Hiện đại hoá
Hệ thống khai thác
Khai thác lộ thiên
Khoáng sản có ích
Luyện kim màu
Máy xúc thuỷ lực
Net Present Value (Giá trị hiện tại ròng)
Chất rắn lơ lửng
Thuỷ lực gàu ngược
Thuỷ lực gàu thuận
Tiêu chuẩn cho phép
Tiêu chuẩn Việt Nam
Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam
Tư vấn đầu tư
Tài nguyên khoáng sản
Thành phố
Uỷ ban Nhân Dân
Vật liệu xây dựng
2
MôC LôC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 5
CHƯƠNG I: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VIỆT NAM.............. 10
I.1 Khái quát chung ...........................................................................................10
I.2 Tình hình khai thác một số tài nguyên khoáng sản chính.........................11
I.3 Hiện trạng môi trường trên các mỏ lộ thiên ...............................................19
I.4. Công tác bảo vệ môi trường trên ba mỏ khảo sát ......................................36
CHƯƠNG II: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN...................................... 64
II.1: Luật Khoáng sản (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2005)....64
II.2. Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005) .......................................................65
II.3 Các văn bản dưới luật có liên quan đến bảo vệ môi trường trong hoạt
động khai thác khoáng sản...............................................................................67
II.4. Tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và Luật Khoáng sản. ......68
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA KHAI
THÁC LỘ THIÊN TỚI CÁC THÀNH PHẦN CỦA MÔI TRƯỜNG. ................ 74
III.1. Phân loại tác hại của khai thác lộ thiên..................................................74
III.2. Các hoạt động gây ô nhiễm từ các mỏ lộ thiên.......................................76
III.3. Các tác động chính của khai thác lộ thiên tới môi trường.....................77
CHƯƠNG IV: NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT
TRONG KHAI THÁC LỘ THIÊN NHẰM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG................ 90
IV.1 Hạn chế sự chiếm dụng đất đai của khai thác lộ thiên. .........................90
IV.2. Tiết kiệm tài nguyên lòng đất ...................................................................95
IV.3. Hạn chế sự suy giảm môi trường đất.......................................................95
IV.4. Phục hồi chức năng trồng trọt cho đất..................................................101
IV.5. Hạn chế việc xả bụi, khí độc và tiếng ồn vào không khí. .....................104
IV.6. Xử lý nước thải trên mỏ lộ thiên. ...........................................................114
IV.7. Xử lý quặng đuôi tuyển nổi và bùn tại hồ thải ......................................121
IV.8. Tận dụng công trình mỏ cũ vào mục đích dân sinh khác. ...................123
CHƯƠNG V: PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG SAU KHAI THÁC ............................ 124
V.1.Công tác chuẩn bị......................................................................................124
V.2.Khôi phục cải tạo khai trường ..................................................................128
V.3.Chương trình phục hồi môi trường..........................................................135
V.4.Dự toán chi phí phục hồi môi trường.......................................................140
V.5. Ký quỹ môi trường ....................................................................................146
CHƯƠNG VI: LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI
TRƯỜNG CHO CÁC DỰ ÁN KHAI THÁC MỎ............................................... 155
VI.1. Các phương pháp được khuyến cáo áp dụng........................................155
VI.2. Phương pháp liệt kê danh mục (checklist methodologies) ...................155
3
VI.3. Xây dựng ma trận môi trường dùng trong ĐTM các dự án khai thác
lộ thiên. .............................................................................................................157
CHƯƠNG VII: NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ TIÊU TRONG HOẠT ĐỘNG
KHAI THÁC LỘ THIÊN CÓ ẢNH HƯỞNG TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG............................................................................................... 162
KẾT LUẬN................................................................................................................. 172
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 176
4
MỞ ĐẦU
Đất nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú và đa dạng
với khoáng sản hơn 5000 khoáng sàng và điểm quặng chứa 70 khoáng sản các
loại đã được tìm thấy, bao gồm các quặng kim loại (sắt, đồng, chì, kẽm, thiếc,
bauxit, titan, …), phi kim loại (apatit, pyrit, cát, sỏi, sét,…) vật liệu xây dựng (đá
granit, đá vôi, bazan, cát, sỏi, sét,..) và than (than antraxit, than nâu, than bùn)
phân bố khắp toàn lãnh thổ đất nước, tạo điều kiện cho ngành khai thác khoáng
sản phát triển, đặc biệt là ngành khai thác khoáng sản bằng phương pháp lộ thiên
(KTLT).
Hiện nay, 60 ÷ 65% than và 100% quặng các loại và vật liệu xây dựng
cung cấp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu đều được khai thác bằng phương
pháp lộ thiên. Ngành KTLT hàng năm đóng góp vào GĐP hàng chục ngàn tỷ
đồng, tạo nên một khối lượng lớn về nguyên, nhiên vật liệu cho sự phát triển của
các ngành công nghiệp khác; góp phần củng cố và phát huy vị thế kinh tế,…
chính trị của nước nhà đối với khu vực và thế giới; tham gia vào việc phát triển
và hoàn thiện môi trường kỹ thuật, môi trường xã hội (tạo dựng các tụ điểm dân
cư mới, nâng cao dân trí cho các cộng đồng dân cư vùng sâu, vùng xa); tạo công
ăn việc làm cho hàng chục vạn lao động... Bên cạnh sự đóng góp không nhỏ của
ngành KTLT đối với sự phát triển của xã hội nói chung, thì những tác động xấu
của nó tới môi trường cũng khá trầm trọng.
Sự đào bới bề mặt đất đai của KTLT đã phá vỡ các cảnh quan và địa mạo
nguyên thủy của khu vực, gây những xáo trộn về dòng chảy và chế độ thủy văn
đầu nguồn, tổn hại đến rừng phòng hộ, thay đổi cảnh quan khu vực,…
Khai trường, bãi thải, các công trình phụ trợ (mặt bằng công nghiệp, kho
tàng và nhà xưởng, đường giao thông,…) của mỏ lộ thiên chiếm dụng một diện
tích khá lớn (chỉ riêng các khai trường lộ thiên vùng Cẩm Phả chiếm 45.106 m2).
Sự chiếm dụng đó đã làm thu hẹp thảm thực vật, diện tích cây trồng - điều đó
không chỉ gây ảnh hưởng làm thay đổi vi khí hậu toàn vùng mà còn làm ảnh
hưởng đến tính đa dạng sinh học của môi trường. (Một số thực vật bị biến mất,
một số động vật bị tiêu diệt hoặc phải di cư do bị tước mất điều kiện sinh sống
hoặc bị chết).
Đặc điểm của KTLT là khối lượng đất đá thải rất lớn gấp hàng chục lần
khối lượng khoáng sản thu hồi (hệ số bóc của than hiện là 8-10m3/t hay là 11-
14m3/m3). Khối lượng đất đá thải này đã gây hậu quả làm bồi lấp sông suối, sa
mạc hóa đất đai canh tác vùng hạ lưu, phá hủy các công trình đường xá, cầu
cống lân cận (điển hình là các bãi thải đông nam Đèo Nai, tây nam Cọc Sáu-
Quảng Ninh).
Nước ngầm từ mỏ thoát ra kết hợp với nước mặt hòa tan hoặc kéo theo
các chất độc hại, các kim loại nặng,…trong đát đá mỏ, xả xuống hạ nguồn làm
xấu chất lượng môi trường nước (mỏ pyrít Giáp Lai là một ví dụ), ảnh hưởng tới
năng suất cây trồng và vật nuôi. Đối với các mỏ lộ thiên sâu thì sự bơm thoát
5
nước ngầm ra khỏi đáy mỏ còn làm hạ thấp mực nước, thay đổi chế độ thủy văn
của hệ nước ngầm khu vực.
Hoạt động của các khâu sản xuất trên mỏ lộ thiên như khoan, nổ mìn, xúc
bóc, vận tải, đổ thải, …đều gây bụi, ồn và phát thải các khí độc hay khí nhà kính
vào môi trường không khí, làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người lao
động và cộng đồng dân cư vùng lân cận và tác động (dù là rất nhỏ) gây sự biến
đổi khí hậu toàn cầu …
Trước tình trạng nêu trên, đồng thời để hòa nhập vào xu thế chung của thế
giới trong trách nhiệm bảo vệ môi trường, năm1993, Quốc Hội đã thông qua luật
bảo vệ môi trường (BVMT)và sau đó, ngày 12/12/2005 Chủ tịch nước đã công
bố Luật BVMT mới có sửa chữa bổ sung, nhằm thể chế hóa những chính sách
của nhà nước về công tác bảo vệ môi trường đối với tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân, trong đó có lĩnh vực hoạt động khoáng sản. Theo đó, Nghị
định số 80/2006/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ký ngày 9/8/2006 đã hướng
dẫn chi tiết, cụ thể hơn về các chính sách nói trên; nêu rõ, các tổ chức sản xuất
kinh doanh có trách nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật
về đánh giá tác động môi trường, đảm bảo thực hiện đúng các tiêu chuẩn môi
trường; phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường; đóng góp tài chính bảo
vệ môi trường, bồi thường thiệt hại do có hành vi gây tổn hại môi trường theo
quy định của pháp luật; tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản phải tuân theo
tiêu chuẩn môi trường Việt Nam, bao gồm tiêu chuẩn môi trường trong khai thác
các mỏ lộ thiên và khai thác các mỏ hầm lò, Tiêu chuẩn khác về chất lượng
nước, không khí, độ rung, tiếng ồn,…
Các quy định về đánh giá tác động môi trường (ĐTM), thẩm định, phê
duyệt các báo cáo ĐTM hoặc cam kết bảo vệ môi trường trong hoạt động
khoáng sản được quy định cụ thể trong Luật BVMT năm 2005, Nghị định
80/2006/NĐ-CP và Thông tư số 08/2006/TT-BTNMT ngày 08/9/2006 về việc
hướng dẫn và lập báo cáo ĐTM.
Trong quá trình thực thi Luật BVMT đã nảy sinh nhu cầu về việc cần có
những hướng dẫn chi tiết về lập báo cáo ĐTM riêng cho từng ngành, từng lĩnh
vực hoạt động kinh tế, năm 1999 Cục Môi trường thuộc Bộ KHCN và MT đã
ban hành “hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án khai thác
chế biến đá và sét”-là một trong 8 lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau có bản
hướng dẫn lập báo cáo ĐTM. Bản hướng dẫn đã trình bày một cách chi tiết và
đầy đủ nội dung cũng như phương pháp ĐTM cho một dự án khai thác chế biến
đá và sét như mô tả sơ lược dự án; khảo sát đánh giá hiện trạng môi trường nền;
dự án và đánh giá tác động của dự án tới môi trường, cuối cùng là chương trình
quản lý và quan trắc giám sát môi trường. Nhờ có bản hướng dẫn này mà những
báo cáo ĐTM của các dự án khai thác đá và sét trong thời gian qua đã được trình
bày thống nhất về hình thức kết cấu, đầy đủ chi tiết về nội dung, giúp cho việc
thẩm định, phê duyệt của các cơ quan chức năng được thuận lợi và nhanh chóng
hơn, giúp cho các chủ đầu tư cũng như cơ quan tư vấn có cơ sở pháp lý để xây
6
dựng các báo cáo ĐTM, đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo các luật
định Nhà nước ban hành.
Tuy nhiên, khai thác chế biến đá và sét thuộc lĩnh vực khai thác lộ thiên
(KTLT) nhưng chưa đặc trưng đầy đủ cho KTLT các mỏ lộ thiên khai thác đá và
sét có những đặc điểm khác với các mỏ lộ thiên khai thác quặng kim loại, phi
kim loại, than,...
Về mặt cấu tạo các khoáng sàng đá, sét thường có cấu tạo dạng khối,
dạng ổ, phân bố sát bề mặt đất hoặc nổi trên mặt đất, không có (hoặc có không
đáng kể) lớp đất phủ; Trong khi các khoáng sàng quặng và than thường có cấu
taọ phức tạp, vùi lấp sâu, đất phủ dày,…Đặc điểm này dẫn đến cần coi trọng các
giải pháp môi trường khi khai thác xuống sâu, khi đổ thải, trong bơm thoát nước
mỏ,…
Các khoáng sàng đá, sét thường phân bố tập trung, chiếm ít diện tích, ít
pha tạp chất độc hại. Còn các khoáng sàng quặng, than thường phâm bố rải rác,
phân tán, trải rộng, đòi hỏi phải có diện tích lớn để bố trí khai trường bãi thải và
các công trình công nghiêp phụ trợ và thường tác động tiêu cực đến môi trường
nhiều hơn. Nhất là một số khoáng sàng có chứa chất độc hại, các kim loại quặng
hoặc trong quá trình hoạt động khai thác chế biến có sử dụng các hóa chất độc
hại.
Tài nguyên khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo được, trữ lượng có
hạn và ngày càng cạn kiệt, cho nên vấn đề tiết kiệm và khai thác, sử dụng hợp
lý chúng hiện đang là quốc sách hàng đầu nằm trong chiến lược BVMT của
nhiều quốc gia trên thế giới. Đây cũng là vấn đề nhạy cảm đối với quá trình khai
thác các khoáng sàng chứa quặng các loại và than, do vậy, vấn đề tận dụng tối
đa tài nguyên lòng đất, giảm thiểu tới mức có thể sự tổn thất và làm nghèo (chất
lượng) khoáng sản trong quá trình khai thác cần được xem xét nghiêm túc hơn
so với các khoáng sàng đá văng bằng cách xem vấn đề tổn thất và sử dụng hợp
lý tài nguyên khoáng sản trong khai thác mỏ nói chung, khai thác lộ thiên nói
riêng là một tiêu chí môi trường khi đánh giá phê duyệt dự án. Mạnh dạn đình
chỉ những dự án áp dụng công nghệ gây tổn thất tài nguyên nhiều. Bởi lẽ dành
dụm tài nguyên để lại cho các thế hệ mai sau cũng là một nội dung của chiến
lược phát triển bền vững mà các nước phát triển đang thực hiện.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, báo cáo ĐTM đối với ngành KTLT
cũng cần đề cập tới hiệu quả sử dụng đất của dự án, bởi vì không phải bào giờ
việc sử dụng đất vào việc khai thác khoáng sản cũng mang lại lợi ích lớn hơn so
với việc sử dụng chúng vào mục đích kinh tế khác (trồng trọt, du lịch,…).Sự
quan tâm này còn có tác dụng thúc đẩy các chủ dự án tiết kiệm diện tích đất đai
sử dụng, tìm tòi giải pháp thu hẹp diện tích đất đai chiếm dụng của dự án.
Tóm lại, trong hoạt động khoáng sản thì ngành KTLT là đối tượng chủ
yếu, có quy mô, số lượng lớn và ngày càng phát triển về phạm vi hoạt động,
thiết bị sử dụng, nhân lực tham gia và cũng là đối tượng chính gây ra nhiều tác
động xấu đến môi trường. Để hạn chế và ngăn chặn tới mức có thể những tác
7
nhân suy giảm môi trường từ hoạt động KTLT, bên cạnh những giải pháp kỹ
thuật, công nghệ là các giải pháp về quản lý, giáo dục thông qua các luật và văn
bản pháp quy dưới luật. Để các báo cáo ĐTM của các dự án KTLT không mang
tính hình thức, đối phó, mà thực sự trở thành một bộ phận của dự án đầu tư, trở
thành một công cụ giúp cho chủ đầu tư cũng như nhà quản lý thực thi nghĩa vụ
và chức năng của mình trong trách nhiệm bảo vệ môi trường thì cần xây dựng
một văn bản pháp quy hướng dẫn chi tiết việc lập báo cáo ĐTM cho ngành
KTLT (hiện chưa có trong hệ thống văn bản nhà nước), trong đó đặc biệt quan
tâm đến nội dung ĐTM của những đối tượng có mức độ ảnh hưởng với tầm
quan trọng tương đối với môi trường. Mặt khác cần thể chế hóa giải pháp sao
cho báo cáo ĐTM thực sự khả thi, các công trình phòng chống suy giảm, bảo vệ
môi trường của báo cáo ĐTM trở thành một bộ phận của dự án, được chủ đầu tư
thực hiện một cách nghiêm túc.
Từ đó, việc tiến hành đề tài “Nghiªn cøu x¸c lËp c¬ së khoa häc phôc vô
c«ng t¸c ®¸nh gi¸ t¸c ®éng m«i tr−êng chuyªn ngµnh ®èi víi c¸c dù ¸n khai th¸c
lé thiªn” là thực sự cần thiết và bức bách đối với nhu cầu phát triển hiện tại
cũng như lâu dài của ngành KTLT.
Mục đích của đề tài:
1. Tạo lập cơ sở khoa học để phục vụ công tác đánh giá tác động môi
trường chuyên ngành đối với các dự án khai thác mỏ lộ thiên.
2. Đưa ra Bản hướng dẫn kỹ thuật lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường đối với dự án khai thác mỏ lộ thiên.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
- Thu thập, phân tích và đánh giá chung về công tác lập và thẩm định báo
cáo ĐTM với các dự án khai thác lộ thiên.
- Khảo sát thực tế: thu thập các số liệu quan trắc và phân tích các thông số
môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường nước, tiếng ồn và chất
thải rắn tại một số mỏ khai thác lộ thiên.
- Phương pháp so sánh: Đối chiếu và so sánh kết quả điều tra và phân tích
với Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường;
- Phương pháp chuyên gia: Nghiên cứu độc lập về các vấn đề liên quan
đến khai thác mỏ, bảo vệ môi trường trong khai thác mỏ, các chính sách pháp
luật, tổ chức lấy ý kiến chuyên gia thông qua tham vấn, hội thảo,…
Trong khuân khổ của bản báo cáo này, các vấn đề được trình bày là:
1. Hiện trạng khai thác lộ thiên đối với các khoáng sàng quặng kim loại và
phi kim loại, vật liệu xây dựng và than.
2. Các văn bản pháp quy về môi trường có liên quan đến ngành khai thác
khoáng sản.
8
3. Hiện trạng ĐTM trong ngành KTLT: triển khai thực hiện giải pháp
BVMT trên các mỏ lộ thiên, công tác quản lý môi trường trên các mỏ lộ thiên.
4. Những giải pháp công nghệ kỹ thuật trong KTLT nhằm bảo vệ môi
trường.
Báo cáo không đi sâu vào vấn đề ô nhiễm môi trường trên các mỏ lộ thiên
mà chỉ lồng ghép vấn đề này để làm sáng tỏ các mục tiêu trình bày trong các
phần thích ứng.
9
CHƯƠNG I:
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VIỆT NAM
I.1 Khái quát chung
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, công nghiệp
mỏ giữ vị trí quan trọng để phát triển các ngành kinh tế như năng lượng, xi
măng và vật liệu xây dựng, luyện kim đen và luyện kim màu, phục vụ xuất khẩu
với nguồn thu ngoại tệ lớn cũng như đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân.
Công nghiệp mỏ Việt Nam bao gồm: ngành than (khai thác chế biến than
antraxit, than nâu, than mỡ, diệp thạch cháy); ngành quặng (khai thác chế biến
quặng kim loại: kim loại đen, kim loại màu, phi kim loại như sắt, mangan, titan,
crôm, bauxit, pyrit, đồng, chì, kẽm, thiếc, nikel, antimoan, moliđen, uranium,
vàng, bạc, đá quý, apatit, graphit, đất hiếm, thuỷ ngân); ngành vật liệu xây
dựng (khai thác chế biến các loại khoáng sản để làm vật liệu xây dựng như đá
vôi làm xi măng, sành sứ, vật liệu chịu lửa, cao lanh, thạch anh, amiăng, cát xây
dựng, cát làm thuỷ tinh, cát cuội, sỏi…)
Các khoáng sàng được khai thác chủ yếu là than antraxit, than mỡ, than
nâu, quặng sắt, và kim loại màu; đá cát sỏi làm vật liệu xây dựng; hoá chất công
nghiệp như apatit, pyrit,… Số lượng mỏ đang được khai thác một số khoáng sản
chủ yếu bao gồm: Than (53), than bùn (21), sắt (22), thiếc (12), vàng (11),
mangan (10), chì kẽm (8), inmênít (17), đá vật liệu xây dựng thông thường
(433), đá xi măng (37), đá ốp lát (27), đá phụ gia xi măng (5), sét gạch ngói
(88), cát, sỏi xây dựng (81), sét xi măng (13), đôlômít (8), cao lanh (14), nước
khoáng (50).
Về quy mô khai thác khoáng sản, các mỏ có công suất lớn tập trung trong
ngành công nghiệp than, năm 2004 có 15 mỏ than đạt sản lượng > 1 triệu tấn
nguyên khai/năm; đá vôi phục vụ sản xuất xi măng (sản lượng > 1 triệu tấn
/năm, cát sỏi (>1 triệu m3/năm); apatít (> 500 nghìn tấn quặng/năm). Còn lại các
mỏ khoáng sản có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ (5.000 ÷ 10.000 tấn/năm). Từ góc
độ quy mô sản lượng có thể phân ra các doanh nghiệp như sau:
- Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản quy mô lớn (> 1 triệu tấn /năm
sản phẩm) có thể kể tới một số công ty khai thác than trong thành phần Tổng
công ty than Việt Nam, một số công ty khai thác đá vôi cho xi măng và khai
thác vật liệu xây dựng trong thành phần Tổng công ty xây dựng Việt Nam, xí
nghiệp liên doanh hoặc đầu tư nước ngoài 100%, công ty khai thác apatit trong
thành phần Tổng công ty hoá chất Việt Nam.
- Các doanh nghiệp khai thác khoáng sản quy mô nhỏ và vừa bao gồm
phần lớn các công ty khai thác khoáng sản kim loại và phi kim loại trong thành
phần Tổng công ty thép Việt Nam, Tổng công ty khoáng sản Việt Nam, các
công ty khoáng sản địa phương.
10
- Khai thác quy mô cá thể, tự phát và thủ công tại những vùng có quặng là
hiện trạng rất phổ biến và mang tính hai mặt trong hoạt động khai thác khoáng
sản ở Việt Nam.
Giá trị tổng sản phẩm của các ngành công nghiệp mỏ trong tổng sản phẩm
toàn quốc (GDP) và giá trị sản xuất khoáng sản công nghiệp mỏ được trình bày
trong bảng 1.4 và 1.5
Bảng 1.1: Giá trị tổng sản phẩm của các ngành công nghiệp mỏ trong
tổng sản phẩm toàn quốc (Đơn vị GDP: 109đồng)
GDP cả nước
(theo giá hiện GDP công
nghiệp và xây Tỷ lệ GDP công
nghiệp mỏ so Năm GDP của công
nghiệp mỏ với cả nước (%) hành) dựng
1 5 = 4/2 2 3 4
1995 228.892 65.820 11.009 4,8
1996 272.037 80.876 15.282 5,62
1997 313.623 100.594 19.768 6,30
1998 316.016 117.299 24.196 6,70
1999 399.942 137.959 33.703 8,43
2000 441.646 162.220 42.606 9,64
2001 481.295 183.291 44.544 9,25
Bảng 1.2: Giá trị sản xuất khoáng sản công nghiệp mỏ
(Theo giá cố định 1994 - Đơn vị: 109đồng)
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Giá trị
sx
Dầu khí 10.845
1677
236
1162
13.920 Than
Quặng
VLXD
Cộng 12.467
1930
283
1288
15.968 14.329
2229
172
1674
18.404 16.869
2138
200
1911
21.118 20.582
2048
191
1759
24.580 22.746
2366
209
2015
27.336 23.701
2695
230
2322
28.948
I.2 Tình hình khai thác một số tài nguyên khoáng sản chính.
+ Quặng sắt: Số lượng quặng sắt khai thác và chế biến của Việt Nam giai
đoạn từ 1995 ÷ 2002 rất ít, chỉ khoảng 300.000 ÷ 450.000 tấn/năm, trong đó các
doanh nghiệp của Nhà nước chiếm khoảng 80%, doanh nghiệp tư nhân và các
địa phương là 20%.
11
Công suất thiết kế khai thác mỏ ở quy mô công nghiệp không lớn, cao
nhất chỉ 350.000 tấn/năm. Thực tế sản lượng khai thác lớn nhất một mỏ đạt
250.000 tấn/năm. Chất lượng quặng sắt sau khi khai thác, chế biến không ổn
định, có xu hướng giảm dần theo chiều sâu khai thác.
Các mỏ khai thác tận thu thường không có thiết kế hoặc có nhưng khai thác
không tuân theo thiết kế. Nhiều doanh nghiệp khai thác tận thu đã khai thác bừa bãi
làm tổn thất tài nguyên (không thu được quặng cám có cỡ hạt từ 0 ÷ 20 mm) và làm
suy giảm môi trường.
+ Quặng Crômit: Cho tới thời điểm hiện nay, công nghiệp khai thác, chế
biến quặng crômit tại mỏ Cổ Định tồn tại ở 2 dạng: khai thác quy mô công
nghiệp (sức nước, tàu cuốc) và khai thác thủ công (sức nước). Theo kết quả
thống kê, sản lượng quặng khai thác quy mô công nghiệp đạt cao nhất trong giai
đoạn những năm 1960 ÷ 1964. Trong những năm từ 1995 trở lại đây, sản lượng
quặng khai thác quy mô công nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 20% trong tổng
sản lượng tinh quặng crômit hàng năm.
Mặc dù khai thác thủ công đem lại sản lượng đáng kể nhưng hậu quả để
lại cho môi trường, môi sinh là đáng kể và đã gây tổn thất tài nguyên khoáng sản
(không khai thác hết tầng quặng lớp dưới, hệ số thu hồi khi tuyển thủ công
thấp…).
+ Quặng Bauxit: Công nghiệp khai thác bauxit và luyện nhôm ở nước ta
hiện nay chưa phát triển. Hiện chỉ có mỏ bauxit Bảo Lộc đang khai thác lộ thiên
bằng ôtô, máy xúc kết hợp với máy gạt và máy xúc tải, tuyển trọng lực rửa bằng
nước với quy mô vài chục nghìn tấn bauxit mỗi năm để cấp cho Công ty hoá
chất Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh làm phèn chua. Dự kiến trong thời gian
tới, tổ hợp này sẽ tăng công suất lên gấp đôi.
Dự án khả thi xây dựng tổ hợp khai thác bauxit, sản xuất alumin và nhôm
Tân Rai Lâm Đồng với công suất 300.000 tấn/năm alumin và 72.000 tấn/năm
nhôm kim loại đã hoàn thành và đang trong giai đoạn phê duyệt. Dự án tiền khả thi
liên doanh với nước ngoài khai thác bauxit và sản xuất alumin Daknông Daklắc với
công suất 1.000.000 ÷ 2.000.000 tấn/năm alumin đang được triển khai.
+ Quặng kẽm chì: Hiện nay việc khai thác quặng và luyện kẽm chì ở quy
mô công nghiệp tập trung ở Công ty LKM Thái Nguyên. Quặng ôxyt kẽm chủ yếu
được khai thác bằng phương pháp lộ thiên để sản xuất bột ôxyt kẽm với sản lượng
4.000 ÷ 5.000 tấn/năm. Quặng sunphua kẽm chì khai thác chủ yếu bằng phương
pháp hầm lò, quy mô nhỏ với sản lượng 10.000 tấn/năm quặng nguyên khai và
được làm giàu bằng công nghệ tuyển nổi cho tinh quặng tinh kẽm đạt 50 ÷ 52 % Zn
và tinh quặng chì đạt 60% Pb. Sản lượng tinh quặng kẽm chì hiện nay đạt 2.000
tấn/năm. Thực thu tuyển nổi kẽm chì hiện nay đạt khoảng 75% với tinh quặng kẽm,
chì cao. Hàm lượng kẽm chì quặng vào là 10 ÷ 12%, nếu hàm lượng vào < 10%, thì
thực thu sẽ giảm.
12
+ Quặng Titan: Giai đoạn đầu quặng titan được tận thu từ các xí nghiệp
sản xuất thiếc như là một sản phẩm phụ cộng sinh, tập trung ở các xí nghiệp
thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang). Những năm 1978 ÷
1984 sản lượng quặng tinh inmenhit tận thu đạt ~ 500 ÷ 600 tấn/năm với hàm
lượng 46 ÷ 48% TiO2.
Vào cuối những năm 80, hình thành xí nghiệp khai thác - tuyển quặng
titan ở Xương Lý - Bình Định, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Bình Thuận chế biến
quặng titan cung cấp quặng tinh cho sản xuất que hàn ở trong nước và xuất
khẩu. Hiện nay có hàng chục công ty suốt dọc bờ biển từ Thanh Hoá tới Thuận
Hải đang khai thác, chế biến và xuất khẩu quặng tinh titan. Các Công ty lớn là
MITRACO Hà Tĩnh, HUMEXCO Huế, BIMAL Bình Định. Sản phẩm chính
hiện nay là tinh quặng inmenhit trên 52% TiO2, tinh quặng zircon trên 57%
ZrO2, tinh quặng rutin trên 82%. Gần đây Công ty MITRACO Hà Tĩnh và
HUMEXCO Huế đã nhập công nghệ và thiết bị để sản xuất sản phẩm zircon
siêu mịn chứa trên 65% ZrO2. Tổng sản lượng các sản phẩm từ khai thác quặng
titan hiện nay đã vượt trên chục vạn tấn/năm.
Công nghệ khai thác sa khoáng titan ven biển phát triển theo các giai
đoạn như sau:
- Giai đoạn trước năm 1990: Chưa hình thành ngành khai thác - chế biến
sa khoáng titan, trừ một số địa phương khai thác thủ công quặng giàu > 85%
khoáng vật nặng cung cấp cho sản xuất que hàn ở trong nước.
- Giai đoạn 1990 ÷ 1995: Hình thành nhiều xí nghiệp, công ty khai thác
chế biến quặng titan. Tốc độ phát triển nhanh. Chủ yếu là khai thác, tuyển
thu hồi quặng tinh inmenhit, zircon và rutin, đáp ứng nhu cầu sản xuất que
hàn trong nước. Công nghệ khai thác chủ yếu bằng thủ công chọn lọc những
lớp quặng giàu 80÷85% khoáng vật nặng. Một số cơ sở khai thác thủ công
đưa về tuyển bằng bãi đãi, máng thủ công tách cát và thu hồi khoáng vật
nặng. Tiếp đó tuyển tinh bằng máy tuyển từ, tuyển điện - bàn đãi thu các loại
quặng tinh inmenhit > 52% TiO2, zircon 55 ÷ 60% ZrO2, rutin đạt > 85%
TiO2.
- Giai đoạn 1995 đến nay: Đối với các mỏ lớn như Cẩm Hoà, Kỳ Khang,
Đề Di, Bàu Dòi, Chùm Găng đã áp dụng công nghệ khai thác cơ giới bằng máy
xúc - máy gạt, máy bốc, tập trung quặng về các cụm tuyển thô. Công nghệ tuyển
thô sử dụng phân li côn, vít đứng, v.v. tuyển tinh bằng tuyển từ, tuyển điện, bàn
đãi khí. Đã hình thành bãi thải trong, có quy trình hoàn thổ và sử dụng lại nước
tuần hoàn. Đối với những mỏ nhỏ nằm phân tán thì được khai thác bằng cơ giới
kết hợp thủ công. Công nghệ tuyển thô sử dụng các cụm vít đứng di động hoặc
máng đãi di động.
+ Quặng thiếc: Việt Nam đã từng bước tiếp thu công nghệ của Liên Xô
(cũ) để khai thác và luyện quặng thiếc ở quy mô công nghiệp như hiện nay. Về
quy mô khai thác kết hợp hình thức khai thác tập trung và phân tán, kết hợp quy
13
mô lớn, vừa và nhỏ, kết hợp với cơ giới, bán cơ giới và thủ công trong cả các
công đoạn khai thác - tuyển khoáng và luyện kim. Cho tới nay quặng thiếc ở
Việt Nam được khai thác chủ yếu bằng phương pháp lộ thiên ở các mỏ sa
khoáng và luyện thiếc bằng công nghệ lò phản xạ và lò điện hồ quang.
Khai thác, tuyển quặng thiếc tự phát thủ công là một đặc điểm nổi bật của
ngành thiếc Việt Nam. Nhược điểm lớn của loại hình khai thác này là hủy hoại
môi trường, lãng phí tài nguyên, không an toàn.
Hiện nay ngành thiếc đang đứng trước khó khăn lớn là tình hình cạn kiệt
tài nguyên. Quặng sa khoáng, quặng giàu và chất lượng quặng nói chung đang ở
xu thế giảm. Do vậy cần đầu tư tìm kiếm phát hiện bổ sung tài nguyên, khai thác
và xử lý quặng gốc, quặng nghèo, quặng kém chất lượng, tăng thực thu kim loại,
tăng mức xử lý tổng hợp tài nguyên, tăng các biện pháp bảo vệ môi trường.
+ Quặng đồng: Mỏ đồng Sin Quyền đang khai thác quy mô nhỏ, cho sản
phẩm cuối cùng là tinh quặng đồng với sản lượng 2.500 ÷ 3.000 tấn/năm. Dự án đầu
tư xây dựng liên hợp mỏ tuyển luyện đồng Sin Quyền quy mô lớn đang được thực
hiện công nghệ khai thác là kết hợp khai thác lộ thiên và khai thác hầm lò, áp dụng
công nghệ tuyển nổi để cho tinh quặng đồng, tinh quặng đất hiếm và tinh quặng
inmenhit.
+ Quặng vàng: Hiện nay một số xí nghiệp khai thác vàng trong nước và
liên doanh với nước ngoài quy mô nhỏ đang hoạt động, sản lượng khoảng 70
kg/năm. Công nghệ khai thác chủ yếu là thủ công kết hợp với cơ khí. Các xí
nghiệp khai thác vàng quốc doanh thường bị lỗ vì công nghệ lạc hậu, thiếu vốn,
thiết bị không đồng bộ, công tác quản lý kém. Hiện nay khai thác thủ công là
chủ yếu, chỉ khai thác quặng giàu, không có khả năng thu hồi được các nguyên
tố đi kèm và gây ô nhiễm môi trường.
+ Quặng antimon: Được khai thác ở mỏ Làng Vài - Tuyên Quang từ năm
1969. Sản lượng khai thác 50 ÷ 200 tấn/năm để sản xuất Sb kim loại. Tổng số
quặng đã khai thác khoảng 8000 tấn. Đến năm 1990 các thân quặng giàu đã khai
thác hết. Trữ lượng còn lại có hàm lượng dưới 5% Sb, nên sản xuất không có lãi
phải tạm ngừng. Hiện tại xí nghiệp khai thác, tuyển, luyện antimon Hà Giang
của Công ty khoáng sản Hà Giang đã đi vào hoạt động vào đầu năm 2003. Công
suất thiết kế là 1000 tấn/năm antimon kim loại.
Nhu cầu antimon ở nước ta hiện nay khoảng 1000 tấn/năm chủ yếu dùng
làm hợp kim chì - antimon, dùng trong công nghiệp sản xuất ắc quy, hợp kim
chữ in, hợp kim chịu mài mòn và một phần nhỏ sunphát atimon dùng trong công
nghiệp thuốc nổ.
+ Quặng mangan: Được sử dụng chủ yếu cho sản xuất feromangan trong
ngành luyện kim và sản xuất pin. Mỏ mangan Tốc Tác, Trà Lĩnh - Cao Bằng hiện
đang khai thác lộ thiên thân quặng deluvi, công nghệ thủ công, khai thác tận thu với
công suất 12.000 ÷ 15.000 tấn/năm dùng cho sản xuất feromangan. Ngoài ra mỏ
14
Làng Bài - Tuyên Quang cũng được khai thác với sản lượng 2000 ÷ 2500 tấn
quặng tinh năm để phục vụ cho sản xuất pin.
+ Quặng đất hiếm: Công tác nghiên cứu khoa học công nghệ xử lý quặng
đất hiếm ở trong nước đã được triển khai từ cuối những năm 60. Ở quy mô
phòng thí nghiệm và pilot, đã có công nghệ xử lý quặng đất hiếm để cho các sản
phẩm như tinh quặng đất hiếm trên 30% ReO, tổng oxyt đất hiếm trên 90% tổng
ReO, các oxyt đất hiếm riêng rẽ trên 90% ReO, hợp kim trung gian đất hiếm,
fero đất hiếm và một số kim loại đất hiếm. Tuy nhiên do chưa có thị trường nên
các sản phẩm nêu trên chưa có điều kiện trở thành thương phẩm. Đất hiếm là
một thế mạnh về tài nguyên khoáng sản của Việt Nam. Tuy nhiên tiềm năng này
còn chưa được khai thác ở mức cần thiết, thực chất, ở Việt Nam chưa có khai
thác và chế biến đất hiếm ở quy mô công nghiệp.
+ Quặng Apatit: Mỏ Apatit Lào Cai bắt đầu khai thác từ 1957 theo đề án
thiết kế của Liên Xô với công suất 500.000 tấn/năm quặng loại I, Quặng III thu
hồi nhân thể trong biên giới khai thác chưa có điều kiện sử dụng được về lưu
kho ở các bãi chứa. Năm 1981, để đáp ứng yêu cầu quặng apatit cho sản xuất
phân bón ngày càng lớn, đã tiến hành thiết kế mở rộng mỏ và xây dựng nhà máy
tuyển để làm giàu quặng III.
Tổng sản lượng apatit trong một số năm lại đây ổn định ở mức 580.000
tấn/năm, trong đó 260.000 tấn/năm là quặng tinh, chủ yếu cho nhu cầu nội địa.
Hiện tại, các khu vực khai thác thuận lợi đã dần hết quặng, số còn lại điều kiện
khai thác khó khăn hơn.
+ Quặng cao lanh: Ở Việt Nam, do chưa có công nghệ chế biến cao lanh,
nên chỉ xuất khẩu cao lanh loại tốt, được lựa chọn ra từ cao lanh nguyên khai.
Loại kém chất lượng phải thải bỏ, gây lãng phí tài nguyên. Trong khi đó, phải
nhập cao lanh đã chế biến với giá cao hơn 3 ÷ 4 lần so với giá xuất.
Khai thác cao lanh phát triển ở vùng Đông Nam Bộ và Lâm Đồng. Năm
1999, có gần chục cơ sở khai thác cao lanh ở các mỏ Đất Quốc, Chành Lưu, Lái
Thiêu thuộc Sông Bé, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, sản lượng của các mỏ này
đạt 375 ngàn tấn/năm.
Ngoài hai vùng trên, cao lanh còn được khai thác ở Lào Cai, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Khánh Hoà, Lâm Đồng. Tổng sản lượng
khoảng trên 100 ngàn tấn/năm.
Sản lượng khai thác tự do trong dân chúng hàng năm cũng vào khoảng
500 ngàn tấn, tập trung ở Đồng Nai, Sông Bé, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phú, Yên
Bái, Quảng Nam.
Riêng quặng kaolin - pyrophilit khai thác ở mỏ Tấn Mài - Quảng Ninh.
Đến năm 1994 đạt 27 ngàn tấn/năm. Từ năm 1997 trở lại đây, sản lượng tăng lên
tới 35 ÷ 50 ngàn tấn/năm, chủ yếu khai thác chọn lọc lấy quặng tốt để xuất khẩu
hoặc bán trong nước.
15
+ Quặng graphit: Nhu cầu sử dụng graphit ở nước ta còn nhỏ, chủ yếu
chỉ để sản xuất pin và điện cực. Dự báo năm 2005, nhu cầu graphit trong nước
sẽ có thể vượt trên 5.000 tấn/năm.
Các mỏ đang khai thác - chế biến graphit là Mậu A - Yên Bái, Nậm Thi
(Lào Cai), Hưng Nhượng - Quảng Ngãi. Công nghệ khai thác lộ thiên, được cơ
giới hoá bằng ôtô - máy xúc kết hợp thủ công chọn lựa trong khai thác để bóc
đất đá vách và đá kẹp như ở Mậu A. Làm giàu quặng graphit bằng tuyển nổi.
Sản lượng graphit các năm gần đây (1995 ÷ 1998) đạt từ 1.450 ÷ 1.850 tấn. Mỏ
Nậm Thi (Lào Cai) từ trước năm 1996 đã liên doanh với Công ty Paslsa
(Australia). Trong nước hiện chưa có công nghệ tuyển để đưa hàm lượng cacbon
lên > 95%. Việc khai thác graphit cần tính đến công nghệ tận thu các khoáng sản
có ích đi kèm để tăng thêm giá trị kinh tế.
+ Quặng Barit: Barit được khai thác từ năm 1939 ÷ 1942 ở khu núi chùa
Hà Bắc với 3.000 ÷ 4.000 tấn, năm 1965 ÷ 1978 xí nghiệp barium thuộc sở
Công nghiệp Bắc Giang khai thác barit được 9588 tấn, trung bình 685 tấn/năm.
Từ năm 1939 đến năm 1982, sản lượng nâng lên trung bình 2000 tấn/năm. Năm
1983 chuyển sang khai thác ở khu Làng Cao với sản lượng 2000 tấn/năm. Mỏ
Sơn Thành khai thác từ năm 1980 - 1981 với sản lượng 2.400 ÷ 2.600 tấn/năm,
tổng cộng đến năm 1996 đã khai thác 14.500 tấn.
Ngoài ra, từ năm 1989 đã tiến hành khai thác barit tại các mỏ Đại Từ (Bắc
Thái), Tân Trào (Tuyên Quang), sản lượng trung bình vài nghìn tấn/năm. Tính
tổng cộng từ thời Pháp thuộc đến nay đã khai thác khoảng 200.000 ngàn tấn
quặng barit, trong đó lượng khai thác năm 1954 được khoảng 100.000 ngàn tấn.
+ Quặng Pyrit: Hiện tại giá lưu huỳnh nguyên tố ngày càng giảm, vì vậy
từ nay đến 2010, không có kế hoạch đầu tư khai thác, chế biến quặng pyrit. Các
nhà máy hoá chất - supe phốt phát Lâm Thao, Long Thành, Thủ Đức đã và sẽ
không sử dụng pyrit để sản xuất axit sunfuric. Mỏ pyrit Giáp Lai đã đóng cửa.
Khi tổ hợp Đồng Sin Quyền Lào Cai đi vào sản xuất thì sản lượng axit sunfuric
của tổ hợp theo sẽ đạt trên 40 ngàn tấn/năm. Sản lượng tinh quặng lưu huỳnh có
S > 38% đạt khoảng 18 ngàn tấn/năm sẽ đủ đáp ứng nhu cầu trong nước.
+ Quặng Bentonit: Bentonit được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp
của nền kinh tế quốc dân. Tuy vây, hiện tại sản lượng khai thác - chế biến còn rất
thấp. Theo niên giám thống kê 1998, sản lượng các năm chỉ đạt dưới 5.000 tấn.
Trong tương lai, việc sử dụng bentonit sẽ được mở rộng do nhu cầu làm
dung dịch khoan dầu khí, chất tẩy lọc trong công nghiệp và công nghệ lọc dầu.
Hiện tại, các lĩnh vực sản xuất chế biến thực phẩm (như làm bia, nước chấm,…)
còn phải nhập ngoại bentonit chất lượng cao.
Công nghệ chế biến bentonit của Việt Nam chưa đạt được sản phẩm cao
cấp đáp ứng mọi yêu cầu của nền kinh tế quốc dân.
+ Khoáng sản làm vật liệu xây dựng: Ngành công nghiệpVLXD gồm hai
mảng: khai thác và chế biến trực tiếp tạo ra VLXD như đá xây dựng, cát vàng,
16
cát đen xây dựng, sỏi cuội xây dựng; khai thác, chế biến và nung luyện tạo ra
sản phẩm VLXD như đá làm xi măng, đá làm kính xây dựng.
Trước thời kỳ đổi mới, khai thác và chế biến TNKS làm VLXD đều có
trang bị kỹ thuật kém, chủ yếu làm thủ công, tỷ trọng thiết bị máy móc trong các
mỏ vật liệu chỉ đạt < 50% và phần lớn là không đồng bộ.
Từ năm 1986 việc khai thác và chế biến tài nguyên làm VLXD bắt đầu
phát triển mạnh: từ chỗ khai thác TNKS làm VLXD thông dụng như xi măng,
gạch, ngói, đá, cát sỏi, vôi xây dựng,… đến nay chúng ta đã sản xuất được cả
các chủng loại VLXD cao cấp như gạch ceramic, gạch granit nhân tạo, sứ vệ
sinh, kính xây dụng, đá ốp lát,… Một số loại nguyên liệu và sản phẩm VLXD đã
được xuất khẩu ra nước ngoài như cát trắng, cát vàng, đá ốp lát, gạch ngói nung,
kính xây dựng, sứ vệ sinh, gạch ceramic và một số loại vật liệu trang trí hoàn
thiện khác.
- Đá vôi làm xi măng: Xi măng là chủng loại VLXD quan trọng nhất của
ngành xây dựng, do vậy việc khai thác và chế biến đá làm xi măng được quan
tâm số một của lĩnh vực xi măng.
- Đá vôi làm xi măng đòi hỏi hàm lượng: CaCO3 ≥ 96%; MgCO3 ≤ 1,5%.
Hiện nay, cả nước có 63 mỏ đá vôi với khả năng khai thác 16 ÷ 17 triệu
m3/năm để đảm bảo cho năng lực sản xuất 15,73 triệu tấn xi măng/năm. Trong
đó có 9 mỏ đá lớn với năng lực khai thác và chế biến 14 triệu m3/năm, phục vụ
cho 9 nhà máy xi măng lò quay (năng lực sản xuất 12,73 triệu tấn/năm) và 55
mỏ nhỏ năng lực khai thác 3 triệu m3 đá/năm, phục vụ cho 55 nhà máy xi măng
lò đứng của địa phương là chủ yếu (năng lực sản xuất 30 triệu tấn/năm).
- Đá xây dựng và làm đường giao thông: Cho tới thời điểm 1997 cả nước
có khoảng 100 cơ sở khai thác, chế biến đá làm đường do cấp Trung ương và
tỉnh quản lý, nhưng chỉ có 28 xí nghiệp được đầu tư thiết bị hiện đại, trong đó có
5 xí nghiệp liên doanh với nước ngoài và chiếm 1/3 sản lượng (52 triệu tấn), số
lượng còn lại do 70 xí nghiệp với thiết bị đã cũ của Liên Xô (cũ), Ba Lan và
khoảng 200 cơ sở khai thác của tư nhân (hoặc địa phương cấp huyện quản lý) sử
dụng máy nghiền loại nhỏ đảm nhận.
- Cát sỏi xây dựng: Trong tự nhiên cát và sỏi thường tồn tại xem lẫn
nhau. Những mỏ có nhiều sỏi, lắng đọng thành lớp ở dưới tầng cát, thì có
thể khai thác cát riêng, khai thác sỏi riêng. Hiện nay, khai thác cát tự
nhiên là chính vì có trữ lượng rất lớn. Còn sỏi thì đã có đá thay thế, nên
khai thác sỏi riêng chỉ khi có đủ điều kiện, còn lại chỉ là sàng lọc tận
dụng các loại sỏi ở trong cát.
Khai thác sỏi ở miền Bắc đã được tiến hành ở Sông Lô bằng tàu cuốc sỏi,
mỗi năm vài chục ngàn khối, còn lại chủ yếu là lượng sỏi do tư nhân xúc chọn ở
các lòng suối cạn. Cả nước ước tính một vài triệu m3/năm.
17
Cát xây dựng, đặc biệt là cát đen, phân bố tương đối rộng dọc các triền
sông suối. Năm 2001 cả nước đã khai thác 24,8 triệu m3 cát vàng cho xây dựng
(chưa kể lượng cát cho ngành giao thông làm đường). Cát đen làm vữa xây và
để san lấp có số lượng lớn gấp 2 ÷ 4 lần số lượng cát vàng.
- Cát trắng (cát thủy tinh): Cát trắng ở Việt Nam dùng để sản xuất thủy
tinh có trữ lượng lớn, song loại có thành phần hóa học tốt nhất (không phải điều
chỉnh lại thành phần hóa học) có thể sản xuất được thủy tinh cao cấp là mỏ cát
trắng Vân Hải ở Miền Bắc và mỏ cát trắng ở Cam Ranh, Miền Trung.
- Đất sét phục vụ sản xuất xi măng: Đất sét là nguyên liệu cho sản xuất xi
măng chiếm khoảng 24% tổng số các nguyên liệu. Hiện nay có 64 mỏ sét được
khai thác phục vụ sản xuất xi măng. Các mỏ này có năng lực khai thác trên 7,65
triệu tấn/năm. Trong đó có 9 mỏ sét lớn phục vụ các nhà máy xi măng lò quay
với tổng năng lực khai thác trên 5,76 triệu tấn/năm và 55 mỏ sét nhỏ phục vụ các
nhà máy xi măng lò đứng có tổng năng lực khai thác trên 1,35 triệu tấn/năm.
Theo nhu cầu sản xuất xi măng, các mỏ sét năm 2002 đã cung cấp đủ với khối
lượng đạt 9,313 triệu tấn sét.
- Đất sét làm gạch ngói nung: Gạch ngói nung là loại VLXD thông dụng
từ lâu đời và nhu cầu cho xây dựng các công trình công cộng và cho nhân dân
ngày càng phát triển, chỉ tính năm 2001 cả nước sản xuất được 8,471 tỷ viên
gạch và 467 triệu viên ngói và đã phải khai thác tổng cộng là 17,123 triệu m3 đất
gạch ngói.
- Cao lanh: Ở Việt Nam có tới 203 mỏ cao lanh lớn, nhỏ nhưng theo
thống kê hiện mới có 17 mỏ được cấp giấy phép hoạt động. Sản phẩm cao lanh
dùng làm sứ vệ sinh, gạch men sứ, sứ cách điện cung cấp cho ngành y tế và các
ngành khác.
- Sét chịu lửa: Chủ yếu được khai thác tại mỏ sét trắng Tuyên Quang và
mỏ sét trắng Trúc Thôn.
Mỏ sét trắng Tuyên Quang được khai thác từ năm 1931 và liên tục cho
đến nay. Tính đến năm 1996 mỏ đã bóc được 203.353 m3 đất phủ và lấy được
385.897 tấn sét. Sản lượng sét hàng năm khai thác dao động từ 1217 tấn (1969)
đến 18.379 tấn (1988) đến 20.000 tấn (2000). Hệ số bóc đất dao động từ 0 ÷ 1,8
m3/tấn sản phẩm, trung bình 0,61 m3/tấn. Hiện tại, đã khai thác hết sét ở các khu
Tân Phủ, Gốc Si, Đầm Chàng, Ao Ấn, Núi Đá, Đường Hiên. Đầm Sen, Hưng
Kiều, Bắc Đầm Thắm. Trong những năm tới sẽ khai thác ở Bắc Đầm Sen, và
Nghiêm Sơn. Trữ lượng sét còn lại khoảng 730.000 tấn chất lượng có thể xấu
hơn.
Mỏ sét trắng Trúc Thôn được khai thác từ những năm 1965 đến nay để
cung cấp sét cho nhà máy gạch chịu lửa Cầu Đuống và khu gang thép Thái
Nguyên. Sản lượng của mỏ lên xuống thất thường: 1965 ÷ 1966 là 3.500
tấn/năm, năm 1973 chỉ đạt hơn 1.000 tấn, đến năm 1975 tăng lên 10.750 tấn sau
đó giảm dần đạt trung bình 3.200 ÷ 5.600 tấn/năm. Những năm sau này sản
18
lượng tăng nhanh 1.700 tấn (1993) và 16.000 tấn (1997). Tính đến 1992 mỏ đã
khai thác tổng cộng 132.445 tấn, bóc đất 373.356 m3. Hệ số bóc đất ở công
trường đất chịu lửa và công trường sét trắng của mỏ tương tự như nhau, trung
bình là 2,82 m3/tấn. Trữ lượng còn lại hiện nay 8.338.890 tấn. Hệ số tổn thất tài
nguyên của mỏ là 5%.
- Đá ốp lát: Hiện nay, sản xuất đá ốp lát của nước ta được tiến hành trên
15 tỉnh, thành phố, gồm 35 cơ sở với năng lực sản xuất đạt 1.260 ngàn m2.
Trong giai đoạn vừa qua, đã xuất khẩu đá ốp lát ra một số nước như: Nhật
Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Ả Rập Xêút, Canađa…, song với khối
lượng chưa nhiều do thiết bị sản xuất thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu
kỹ thuật của khách hàng.
+ Tình hình khai thác than: Ở Việt Nam khai thác than là ngành sản xuất
có quy mô công nghiệp lớn nhất trong lĩnh vực khai thác khoáng sản và tập
trung chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh, ngoài ra khai thác than còn được tiến hành ở
một số tỉnh miền Bắc và miền Trung.
Trong giai đoạn 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng sản lượng khai
thác than dao động từ 7,1% đến 37%, trung bình 15% năm. Năm 2004, toàn
ngành Than đã khai thác 27,3 triệu tấn than nguyên khai. Trong khai thác than
sử dụng hai công nghệ là hầm lò và lộ thiên.
Đối với công nghệ khai thác lộ thiên, các thiết bị công nghệ tương đối
đồng bộ và hiện đại, đạt được sản lượng cao. Hiện nay sản lượng than lộ thiên
chiếm khoảng 64% tổng sản lượng khai thác than.
Theo dự báo hiện nay, nhu cầu than thương phẩm cho nội địa và xuất
khẩu đến năm 2010 khoảng 39 ÷ 42 triệu tấn, 2015: 48 ÷ 51 triệu tấn và 2020:
53 ÷ 56 triệu tấn. Để đạt được mục tiêu và đáp ứng nhu cầu trên, ngành than
đang tiếp tực quy hoạch mở rộng các mỏ hiện đang khai thác và xây dựng các
mỏ mới theo hướng mở rộng tối đa biên giới các mỏ lộ thiên (cả chiều rộng lẫn
chiều sâu).
I.3 Hiện trạng môi trường trên các mỏ lộ thiên
Quá trình khai thác lộ thiên xảy ra hầu hết ở mọi loại khoáng sản từ nhiều
năm nay, trước khi xuất hiện các Luật và văn bản pháp quy dưới luật về môi
trường. Những hậu quả để lại của khai thác lộ thiên đối với môi trường nhìn
chung là nặng nề và khá trầm trọng. Dưới đây trình bày một số tình trạng cụ thể
về ô nhiễm môi trường gây ra do một số hoạt động khai thác lộ thiên.
I.3.1 Hiện trạng môi trường trên các mỏ than
* Môi trường không khí
a) Bụi: ở tất cả các công đoạn sản xuất mỏ đều sinh ra bụi.
- Khoan nổ mìn ở các mỏ lộ thiên và hầm lò: Khi phá nổ 1m3 đất đá tạo ra
từ 0,027 ÷ 0,17kg bụi, mỗi mỏ lộ thiên lớn phá nổ từ 5 ÷ 10 triệu m3 đất đá /năm,
19
lượng bụi sinh ra vô cùng lớn. Trong một đợt nổ mìn ở các mỏ lộ thiên tạo ra
đám bụi cao 150 ÷ 200m, ở khoảng cách xa bãi nổ khoảng 30-40m có hàm lượng
bụi từ 800 ÷ 5000mg/m3, trong khi nếu máy xúc không làm việc nồng độ bụi chỉ
có 18,5 mg/m3.
- Các bãi thải, nhất là bãi thải nam mỏ Hà Tu, bãi thải mỏ Đèo Nai- Cọc
Sáu, cao hàng trăm mét, nằm sát khu vực dân cư khi bị xói mòn do gió thổi và
đổ thải tao ra lượng bụi rất lớn, phạm vi tác động rộng. Trong khi đó khu vực
đệm giữa bãi thải và khu vực dân cư chỉ hẹp khoảng 100 ÷ 200m chưa đủ để
ngăn chặn bụi lan toả.
- Việc tồn tại nhiều mỏ nhỏ, lộ vỉa (hợp pháp và không hợp pháp), vận tải
than bằng ô tô qua khu vực dân cư đã gây ô nhiễm thêm về bụi. Bụi sinh ra từ cá
hoạt động quy mô nhỏ tuy ít, nhưng do nhiều cơ sở nên tổng lượng bụi và nồng
độ bụi đủ để gây tác hại và tàn phá môi trường. Theo các số liệu thống kê khai
thác 1000 tấn than khai thác ở các mỏ hầm lò tạo 11 ÷ 12 kg bụi, khai thác lộ
thiên lượng bụi sinh ra lớn gấp hai lần.
Tổng lượng bụi sinh ra trong các công đoạn sản xuất chính (khai thác, vận
chuyển, sàng tuyển) năm 1995 với sản lượng than 7,5 triệu tấn, ước tính khoảng
340 tấn bụi, năm 1995 là 400tấn, năm 1998 là 484 tấn với tốc độ gia tăng sản
lượng than hàng năm trên 10%, tổng lượng bụi và nồng độ bụi chung của vùng
than Quảng Ninh cũng sẽ tăng nhanh theo thời gian và làm suy giảm chất lượng
khô khí toàn vùng.
Nồng độ bụi
Khí độc
Tổng
mg/m3
Hạt/
cm3
CO
Mg/m3
Hô hấp
mg/m
NO2
mg/m3
%hạt
< µm
%
SiO2
%
CO2
Địa điểm
đo và khảo
sát
88
12
4 ÷ 10
14 ÷ 30
0,8 ÷ 0,2
13 ÷ 2
2800 ÷
1500
85
25
130 ÷ 90
2,5 ÷ 0,5
12 ÷ 16
2,5 ÷ 1
16 ÷ 2
4200 ÷
2000
140 ÷ 50
90
30
2,5 ÷ 0,5
10 ÷ 24
2,8 ÷ 1,5
18 ÷ 2,2
4550 ÷
2000
85
28
145 ÷ 50
4 ÷ 1
16 ÷ 22
3,8 ÷ 4,2
25 ÷ 2
4600 ÷
2000
Ngoài khu
vực khai
thác than
Khu vực
trung tâm
khai thác
đáy moong
Khu vực
sườn
moong (lân
cận)
Nơi đặt
thiết bị máy
móc
Bảng 1.3: Tổng hợp chất lượng không khí tại các mỏ than lộ thiên
20
Bảng 1.3 là số liệu đo đạc chất lượng không khí. Cho đến nay chúng ta
chưa có sơ sở dữ liệu về môi trường nên không có số liệu để so sánh đánh giá
qua từng thời kỳ, từng năm. Chúng ta cũng chỉ mới xác định lượng bụi lơ lửng,
chưa có số liệu về lượng bụi lắng đọng.
Những tác hại do bụi gây ra đối với môi trường vùng Quảng Ninh gồm:
- Tác hại về sức khoẻ: gây ra bệnh phổi và bệnh về đường hô hấp. Theo số
liệu thống kê, tỉnh Quảng Ninh hiện nay có khoảng 4000 người mắc bệnh phổi,
chiếm gần 50% con số toàn quốc. Tỷ lệ thợ lò bị bệnh silicosis chiếm tới 80%
tổng số công nhân ngành than bị bệnh này.
- Tác hại đến các công trình, máy móc và vật liệu: Do bụi có chứa các chất
hoá học, ăn mòn kim loại, làm xuống cấp chất lượng các công trình, máy móc,
nhất là trong điều kiện nước ta độ ẩm cao.
- Tác hại đến hệ thực vật: sự tích tụ bụi trên các lá cây làm giảm khả năng
quang hợp, trong đó bụi có chứa các chất độc tố làm ảnh hưởng đến sự phát
triển của cây cối.
Trong thời gian qua đã áp dụng nhiều giải pháp để hạn chế bụi. Phương
pháp tưới nước dập bụi là phương pháp chủ yếu được áp dụng với các quy mô
khác nhau tại các mỏ lộ thiên, hầm lò cũng đã thử nghiệm nâng cấp đường mỏ,
áo đường bằng bê tông hay bê tông asphan và trồng cây xanh hai bên đường vận
tải chính để ngăn ngừa bụi lan toả. Hiệu quả của công tác tưới nước chống bụi bị
giảm xuống trong mùa hè và mùa khô vì tốc độ bay hơi của nước cao, đòi hỏi
lượng nước tưới lớn, số lần tưới tăng lên. Hệ thống phun nước áp suất cao, tạo ra
sương mù được lắp đặt tại một số địa điểm trên đường giao thông, khu vực nhà
máy tuyển than, trạm trung chuyển than. Nói chung các giải pháp trên đã làm
giảm được lượng bụi bay lơ lửng, cần phải mở rộng áp dụng và lựa chọn hệ
thống ít phải sửa chữa, dễ bảo quản.
Khi so sánh với các thành phố công nghiệp và ven biển khác ở Việt Nam,
vấn đề chống bụi ở thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và các mỏ than vùng
Quảng Ninh được xem xét là trầm trọng do các hoạt động khai thác than quy mô
ngày càng lớn, khu vực bị ảnh hưởng rộng. Những giải pháp chống bụi đang
được áp dụng trong nhiều trường hợp chưa đáp ứng được tiêu chuẩn về sức khoẻ
và môi trường hiện có.
Những số liệu về bụi, nhất là bụi lắng đọng chưa đủ cả về số lượng và chất
lượng để có thể xây dựng một chiến lược giảm thiểu bụi cho các mỏ cũng như
việc đánh giá mức độ ô nhiễm bụi do hoạt động khai thác mỏ so với các hoạt
động khác xảy ra trong khu vực.
b) Khí độc: Bao gồm hai dạng: Độ chứa khí tự nhiên và phát sinh trong quá
trình sản xuất. Khí Mêtan (CH4) là khí đi kèm, chứa trong các vỉa than, trong
quá trình khai thác than, lượng khí này thoát ra và la toả vào không khí.
21
- Ở các mỏ lộ thiên, ngoài CH4 có chứa trong tự nhiên còn có các loại khí
độc sinh ra do nổ mìn, đốt cháy xăng dầu của xe máy, than tự cháy vv...nên
lượng khí độc ở mỏ lộ thiên lớn gấp nhiều lần so với các mỏ hầm lò.
Trong một năm mỗi xe ô tô loại tải trọng 30 ÷ 35 tấn, thải ra khoảng
100 ÷ 150kg các chất khí hydrô cácbon, mỗi mỏ sử dụng hàng trăm xe ô tô như
vậy lượng khí độc thải ra sẽ rất lớn.
Khí độc thải ra do nổ mìn cũng rất lớn: sau vụ nổ 38 giây, ở khoảng cách
50m hàm lượng CO có trong không khí là 0,1%, khí NO2 là 0,2%, khí CO còn
lưu lại trong đống đất đá nổ mìn cũng như vùng than lân cận trong khoảng cách
100 ÷ 200m. ở độ sâu 1,5 ÷ 10m của đống đá nổ mìn hàm lượng CO đạt tới 4,5%,
khí NO2 là 0,025%.
Khảo sát ở moong mỏ Cọc Sáu ở độ sâu -50 nồng độ khí CO là 90mg/m3,
trong khi tiêu chuẩn cho phép chỉ có 5mg/m3.
Ở các mỏ lộ thiên, các khí độc tuy có nồng độ cao nhưng chỉ tập trung tức
thời ở khu vực khai trường, sau đó khuếch tán nhanh vào không khí, nên số liệu
nồng độ khí độc quan trắc trung bình ngày đều thấp hơn giới hạn cho phép.
c) Vi khí hậu: Trong điều kiện mỏ lộ thiên khi xuống sâu và mỏ hầm lò cần
nghiên cứu điều kiện vi khí hậu mỏ, trong đó lưu ý đến nhiệt độ và khí độc.
- Các mỏ lộ thiên ngày càng xuống sâu. Hiện nay mỏ Cọc Sáu đang khai
thác ở mức -75, độ sâu đáy mỏ so với địa hình bao quanh là 200m, khi kết thúc
sẽ lên đến 300m, diện tích khai trường hẹp thông gió mỏ khó khăn. Mỏ ngày
càng sử dụng thiết bị cỡ lớn: máy xúc, ô tô, máy gạt, máy khoan, máy bơm nước
vv... Các loại thiết bị này làm việc ở đáy mỏ thoát nhiệt vào môi trường rất lớn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chế độ nhiệt mỏ lộ thiên:
+ Năng lực bức xạ là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất do nước ta vùng nhiệt đới.
Bảng 2.4 giới thiệu kết quả đo đạc thời gian chiếu sáng trong ngày và lượng bức
xạ thực tế ở vùng Quảng Ninh.
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Cả
năm
Các
Chỉ tiêu
10,52 11,2
11,52 12,3
13
13,16 15,18 12,44 12,1
11,34 11,02 10,44
Thời
gian
chiếu
sáng
ngày, giờ
7,3
5,8
7,3
9,8
13,4
11,5
13,1
13
11,1
11,3
8,6
6,2
620,1
Lượng
bức
xạ
Kcal/cm3
Bảng 1.4: Kết quả đo đạc thời gian chiếu sáng:
22
Trong những ngày mặt trời chiếu sáng, bề mặt lớp đất đá hấp phụ một phần
năng lượng làm tăng nhiệt độ đất đá, một phần phản xạ lại không gian, một phần
truyền cho các lớp không khí nằm gần đó.
+ Áp suất cũng có ảnh hưởng lớn đến trạng thái của khí quyên trên công
trường nhất là trong những ngày lặng gió hay tốc độ gió dưới 2m/giây.
Do các yếu tố đó tạo nên sự chênh lệch nhiệt độ ở đáy mỏ bao giờ cũng cao
hơn bề mặt từ 3-8oC. Lượng khí độc thường tích tụ ở đáy mỏ, đã xảy ra một số
trường hợp khi nổ mìn bị nổ và cháy khí.
Do nghiên cứu về khi hậu và tìm biện pháp cải thiện môi trường là một nội
dung quan trọng khí các mỏ lộ thiên xuống sâu. Vấn đề này đã được đề cập đến
từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20, nhưng chưa được quan tâm đúng mức và chưa
thu được các kết quả khả thi.
d) Tiếng ồn và độ rung: Trong sản xuất than, tiếng ồn và độ rung do hoạt
động của máy móc và thiết bị là không thể chánh khỏi.
- Tiếng ồn: ở các mỏ lộ thiên, tiếng ồn do các thiết bị khoan, xúc, các loại
xe ôtô vận chuyển đất đá, do các máy nén khí, hệ thống sàng tại mỏ, các phân
xưởng cơ khí, bảo dưỡng xe máy mỏ vv... Nhìn chung các thiết bị mỏ hoạt động
sinh ra tiếng ồn đều cao hơn mức tiêu chuẩn: máy xúc là 92dB, ôtô là 97-
104dB, sàng mỏ là 85- 95dB.
Tiếng ồn có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ công nhân, đặc biệt là đối với
những người thường xuyên tiếp xúc với tiếng ồn có cường độ cao, ảnh hưởng
đến thính giác và các cơ quan khác, gây buồn nôn, chóng mặt, căng thẳng thần
kinh, mệt mỏi toan thân, tâm lý khó chịu, bực bội, mất tập trung vào công việc.
- Độ rung: Chủ yếu do thiết bị làm việc, đều vượt quá mức tiêu chuẩn cho
phép: Đường ôtô (cách 50m) 1,4; đường tàu hoả (cách 50m) 1,4; trạm quạt gió
1,3- 1,6.
- Độ rung là một trong những yếu tố có tác động đến máy móc và sức khoẻ
của người lao động. Máy càng rung càng nhanh chóng hỏng. Độ rung cũng gây
ra các loại bệnh cho con người như bệnh tiêu hoá, đau ngực, đau lưng, rối loạn
thần kinh, mất phản xạ, mất thăng bằng, thị lực giảm sút, triệu trứng về tim
mạch, suy nhược cơ thể, vv...
* Môi trường nước
Hoạt động của sản xuất than có tác động mạnh mẽ đến chất lượng và lưu
lượng của nước mặt, nước ngầm và nước biển.
a) Suy giảm lưu lượng nước
b) Hệ thống thuỷ văn ở các khu vực có sản xuất than ở các khu vực có hoạt
động sản xuất than đã bị biến dạng mạnh mẽ về mọi phương diện: hình dáng,
độc lực dòng chảy, hệ thống bồn thu nước, mức độ liên tục của dòng chảy vv...
23
Có thể dẫn chứng qua thực tế khảo sát toàn bộ bồn thu nước của hệ thống
sông Mông Dương bị thay đổi và thu hẹp diện tích, đặc biệt là khu vực suối Vũ
Môn, Khe Tam, Khe Sim. Nhiều nhánh sông suối của hệ thống sông ngày càng
bị lấp chặn ở phía Đông mỏ Cao Sơn, phía Bắc Bàng Nâu, phía Tây Cọc Sáu,
trên các nhánh Vũ Môn, Khe Tam, Khe Sim. Nhiều đoạn sông trở thành suối
cạn, có nhiều nơi chỉ còn sâu 0,5- 0,6m, về mùa lũ nước tràn lên cả mặt đường,
thị trấn. Lưu lượng sông Diễn Vọng cũng giảm từ 25.000 m3/ngày xuống còn
6.000 m3/ngày về mùa khô. Hồ Bara Đèo Nai, nguồn cung cấp nước sinh hoạt
chủ yếu cho thị xã Cẩm Phả ở độ cao +340, diện tích 50ha có sức chứa
250.000m3, nhưng trong những năm gần đây xảy ra hiện tượng rò rỉ, bồi lắng, có
lúc xuống dưới mức tự chảy, phải dùng bơm nước.
Đập chứa nước Yên Lập xây dựng năm 1980 với sức chứa 118 triệu m3,
cung cấp nước tưới cho 10.050ha đất nông nghiệp. Sau 10 năm công suất giảm
xuống còn 60%, chỉ còn đủ khả năng cung cấp nước tưới cho 5.500ha. Hồ chứa
Diễn Vọng cung cấp 25.000m3 nước/ngày đêm nước sinh hoạt cho thành phố Hạ
Long và thị xã Cẩm Phả, nay chỉ còn 15.000m3/ngày đêm. Thành phố Hạ Long
với số dân 150.000 người hiện đang chịu tình trạng thiếu nước.
- Về lưu lượng nước ngầm cũng bị suy giảm trầm trọng do thường xuyên
bơm hút từ các moong mỏ lộ thiên, cũng như tàn phá thảm thực vật làm cho lưu
lượng nước giảm, mực nước bị hạ thấp, chế độ nước ngầm bị phá vỡ.
Tài nguyên nguồn nước ngầm ở Quảng Ninh rất hạn chế do tầng chứa nước
hoặc nước gần mặt đất hoặc có quan hệ thuỷ lực trực tiếp với nước biển. Nếu
thiếu nước mặt, phải khai thác nước ngầm quá mức sẽ rất nguy hiểm. Trong 10
lỗ khoan khai thác nước ngầm ở Hòn Gai đã có 4 lỗ bị nhiễm mặn.
b) Suy giảm chất thải chất lượng nước mặt, nước ngầm ở Quảng Ninh do
nhiều nguyên nhân như nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt mà hầu hết
không được xử lý.
Nước thải do khai thác than cũng đã góp phần làm ô nhiễm môi trường
nước. Lượng nước thải tính toán bình quân: Mỏ hầm lò là 3- 10m3/tấn than khai
thác; Mỏ lộ thiên là 2- 51m3/tấn than khai thác.
TT Các chỉ tiêu
Đơn vị Moong
Núi Béo
3,6
255,56
3,75
0,00
3,75
39,6
0,99
1,8
0,8
180
Mg/l
mgdl/l
“
“
Mg/l
”
“
“
“
Moong
Hà Tu
3,24
412,11
5,75
0,00
5,75
37,4
0,9
1,5
0,4
300
Moong
Cọc Sáu
5,72
563,96
7,5
0,25
7,25
2,2
0,6
0,8
0,6
400
pH
1
Tổng khoáng hoá
2
3
Tổng độ cứng
4 Độ cứng tạm thời
5 Độ cứng vĩnh cửu
CO2 tự do
6
Fe2+
7
Fe3+
8
+
9 NH4
2-
10 SO4
Bảng 1.5: Chất lượng nước thải tại một số mỏ lộ thiên (10/1996)
* Nguồn: Viện KHCN Mỏ
24
TT Các chỉ tiêu
Đơn vị
1 pH
2 BOD5 (20o C)
3 COD
4 Cặn lơ lửng
5 Chì
6 Kẽm
7 Cadimi
8 Đồng
9 Mangan
10 Sắt
11 Nitrat
12 Nitrit
13 Amoni
14 Coliorm
mg/l
mg/l
“
“
“
“
“
“
“
“
“
“
“
Moong
Núi Béo
2,25
119,2
192
260
0,0008
0,940
0,012
1,445
1,445
1,27
3,78
0
1,5
2700
Moong
Hà Tu
3,60
4,58
11,2
99
0,0019
0,391
0,0029
0,005
0,005
2,12
3,67
0
0,52
1800
Moong
Cọc Sáu
4,28
62
144
319
0,0025
0,031
0,00004
0,002
0,002
0,67
2,7
0
0,08
3600
Bảng 1.6: Chất lượng nước thải tại một số mỏ lộ thiên (10/1997)
(Nguồn: Viện KHCN Mỏ)
Qua các số liệu đo đạc, có thể thấy khai thác than đã tác động đến chất
lượng nước mặt vùng Quảng Ninh và biểu hiện ở sự gia tăng chất rắn lơ lửng
đặc biệt là huyền phù than.
Thay đổi pH của nước làm gia tăng nồng độ kim loại nặng và lượng ion
sunfat trong nước: hàm lượng các chất lơ lửng trong các sông, suối, ao, hồ bị
ảnh hưởng của khai thác than giao động từ 500- 2500 mg/l cao hơn tiêu chuẩn
cho phép 6- 20 lần, hàm lượng các ion kim loại nặng trong nước cao hơn các
vùng lân cận.
Dự báo chất lượng nước mặt của vùng than Quảng Ninh trong tương lai sẽ
nhanh chóng suy giảm do gia tăng số lượng nước thải mỏ, diện tích các bãi thải,
diện tích rừng bị thu hẹp, gia tăng mật độ dân cư, các ngành công nghiệp khác
và hạ tầng cơ sở.
* Môi trường đất đai và rừng
a) Hiện trạng sử dụng đất: tổng diện tích đất tự nhiên của Quảng Ninh là
594.858ha, đất đã sử dụng 251.301ha chiếm khoảng 42,3%. Trong đó đất nông
nghiệp là 41.465ha chiếm 6,65%, đất rừng 153.032ha chiếm 25,77%, đất cho
công nghiệp ngành than theo bản đồ duyệt năm 1993 của tỉnh Quảng Ninh là
17.220,7ha trong đó đất cho khai trường là 11.537,5ha, đất làm bãi thải 1.868ha,
đất làm mặt bằng và vùng đệm là 3.380,8ha, chi tiết cho khu vực xem bảng 1.7
Riêng ở vùng Quảng Ninh ngành than khá tập trung, tuy diện tích đất dùng
cho ngành than chỉ chiếm 2,9% diện tích đất toàn tỉnh. Nhưng nó lại nằm gần
thành phố, thị xã, thị trấn, ven biển, nơi có mật độ dân số cao, đất nông nghiệp rất
hiếm. Việc khai thác than cũng ảnh hưởng đến thảm thực vật rừng. Khai thác than
25
trực tiếp làm mất 705ha rừng, còn khai thác gỗ khống đúng kỹ thuật làm mất
34.135ha rừng.
Vùng
Diện tích, ha
1
2
3
4
Uông Bí
Hòn Gai
Cẩm Phả
Cộng
Toàn bộ Khai trường Bãi thải
6.649,5
9.017,4
1.537
2.454
3.351
5.749,3
11.537,5
17.220,7
219
750
899
1.868
Mặt bằng và vùng đệm
2.147,8
167
1.066
3.380,8
Bảng 1.7: Hiện trạng sử dụng đất
STT
b) Đất đá mỏ và bãi thải
- Hoạt động khai thác than đặc biệt là khai thác than lộ thiên đã thải ra một
khối lượng đất đá lớn. Các bãi thải hình thành xung quanh các mỏ đã ảnh hưởng
xấu đến môi trường khu vực nhất là các bãi thải nằm tiếp giáp với khu vực dân
cư, đường giao thông. Quá trình khai thác than hàng trăm năm đã để lại hậu quả
nặng nề về đổ thải, trôi lấp đất đá thải.
- Khối lượng đất đá thải. Nếu tính trung bình cho thấy để khai thác 1 tấn
than mỏ lộ thiên phải bóc 6- 8m3 đất đá. Hiện nay mỗi năm vùng than Quảng
Ninh lượng đất đá thải khoảng trên 100 triệu m3.
- Trôi lấp đất đá thải: Việc hình thành các bãi than cao như bãi thải Nam
Đèo Nai- Cọc Sáu cao hơn 200m đã làm cho nguy cơ trôi lấp đất đá thải càng
mạnh mẽ. Dưới tác động bào mòn, xói lở và cuốn trôi của nước mưa, gió bão,
các bãi thải luôn bị biến động.
Khu vực gần mép trên sườn bãi thải chủ yếu là đất đá có cỡ hạt nhỏ hơn
15mm chiếm khoảng 50%, lúc đầu thường xuyên bị xói mòn nhẹ và sau một
thời gian bị sạt lở từng mảng lớn cho đến khi đạt góc nghiêng ổn định. Khu vực
giữa của sườn bãi thải do dòng nước tập trung thành dòng chảy lớn cuốn trôi đất
đá, tạo thành các rãnh sâu 2- 3m, rộng 5- 7m, tạo tiền đề hình thành vùng lũ bùn
phá hoại sườn bãi thải, bồi lấp sông suối, đồng ruộng, đường sá, khu vực dân cư
quanh bãi thải. Hiện tượng bồi lấp xảy ra trầm trọng đối với sông Mông Dương,
Nam Đèo Nai- Cọc Sáu, suối Lộ Phong ở Hà Tu, Sông Uông ở vùng Vàng Danh
vv...
Trước năm 1966 các lòng sông có dạng chữ V thì nay đáy phẳng, cửa biển
Cọc Sáu hình thành các gò bồi lắng lớn, đường kính tới 60- 70m, tốc độ phát
triển 20- 25m/năm. Năm 1972 đã di chuyển đường 18 đoạn Cẩm Phả- Cọc Sáu
ra sát biển, nay lại chuẩn bị phải dời tiếp. Đất đá thải khu vực Vàng Danh Lộ
Phong đã bồi lấp làm cạn toàn bộ suối Lộ Phong và hàng trăm ha đất canh tác ở
vùng hạ lưu. Việc phát triển khai thác lộ vỉa tuy khối lượng đất đá thải không
lớn nhưng di phạm vi kỹ thuật đã thay đổi địa hình, trôi lấp trên diện rộng, gây
tác hại nghiêm trọng.
Phương pháp đổ thải cao tuy có lợi về cung độ vận tải, nhưng có nhiều tác
hại về môi trường, là không thích hợp phải hạn chế. Hiện nay các bãi thải không
26
có nhiều hệ thống kênh mương để lái dòng nước, khi mưa bão nước đổ thẳng
dọc theo sườn gây xói mòn và sụt lở lớn. Những giải pháp như hạ thấp góc dốc
tự nhiên của sườn bãi thải, đổ thải theo nhiều cấp, xây dựng hệ thống mương
rãnh lái dòng mước và thoát nước, trồng nhiều cây trên bãi thải đều chưa thực
hiện được.
Việt Nam đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về ổn định bờ mỏ ở các
mỏ lộ thiên, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về ổn định bãi thải, nhất
là trong điều kiện bão hoà nước của mùa mưa bão. Trong tương lai, cần ưu tiên
xem xét vấn đề quy hoạch đất cho việc đổ thải và xử lý sử dụng bãi thải.
I.3.2 Hiện trạng trên các mỏ thiếc ở Việt Nam
Hoạt động khai thác thiếc, ngoài những yếu tố ảnh hưởng xấu đến môi
trường giống như các hoạt động khai thác khoáng sản khác như gây nên bụi,
tiếng ồn, vùi lấp diện tích đất canh tác nó còn có những ảnh hưởng khác làm tổn
hại môi trường nước, thảm thực vật và sức khoẻ con người do trong quặng đa
kim có chứa các yếu tố độc hại như asen, chì, molipden vv... Đặc biệt đối với
hoạt động khai thác thiếc sa khoáng thì công đoạn tuyển rửa quặng thô và khâu
luyện kim có ảnh hưởng xấu tới môi trường xung quanh. Khối lượng đất đá thải
chiếm tỷ lệ lớn, bao gồm: đất phủ phải bóc trong quá trình khai thác và đất
quặng thải sau tuyển (chiếm khoảng 90% khối lượng đất quặng đưa và tuyển
rửa). Mặt khác, các thân quặng thiếc sa khoáng phần nhiều nằm trên các khu vực
đất ruộng lúa của dân hoặc nằm gần các khu vực đất canh tác, gây bồi lấp và làm
ô nhiễm nguồn nước do hoạt động khai thác, chế biến thiếc là đáng kể. Có thể
nêu một sô tác động chính tới môi trường tỏng quá trình hoạt động khai thác của
các mỏ thiếc ơ Việt Nam như sau:
* Tác động tới môi trường đất
Các mỏ thiếc ở Việt Nam hiện nay chủ yếu khai thác bằng phương pháp lộ
thiên (mỏ sa khoáng) nên có tác động trực tiếp tới môi trường đất trong và sau
khi khai thác. Ngoài việc chiếm dụng đất để mở moong khai thác thì các mỏ
thiếc sa khoáng đều chiếm dụng một diện tích đáng kể sử dụng làm bãi thải
ngoài, bãi thải bùn quặng sau khi tuyển trong quá trình khai thác.
Mỏ thiếc Tĩnh Túc sử dụng gần 50ha đất làm khai trường và hàng chục ha
cho bãi thải ngoài. Hiện nay, mỏ đang khai thác nạo vét nên sử dụng bãi thải
trong là chủ yếu. Tuy nhiên, với khối lượng gần 15 triệu m3 đất bóc trong suốt
hơn 40 năm hoạt động đang là vấn đề nan giải đối với mỏ khi tiên hành làm thủ
tục đóng cửa mỏ trong thời gian tới.
Tương tự, các mỏ Bắc Lũng, Sơn Dương với hàng chục ha đã sử dụng làm
khai trường khai thác, bãi thải từ khi khai thác đến nay nhưng hầu hết chưa được
hoàn thổ cũng đang là thách thức lớn đối với các mỏ trong thời gian tới. Gần
đây, các mỏ nói trên đã tiến hành hoàn phục môi trường đất tại diện tích chiếm
dụng làm bãi thải sau tuyển rửa để trả lại cho nhân dân địa phương trồng lúa
nước nhưng diện tích đã hoàn phục chưa nhiều.
27
Khu vực moong đã khai thác (kết thúc từ những năm thập kỷ 90 thế kỷ 20
của mỏ Châu Hồng) trước đây là ruộng lúa của nhân dân nhưng đến nay vẫn
chưa hoàn phục môi trường. Bãi thải đất sau tuyển của xưởng tuyển Bản Poòng
(đã ngừng hoạt động năm 2001) được thải trực tiếp ra khu vực suối, sườn đồi
gần khu xưởng tuyển nhưng đến nay vẫn chưa được xử lý triệt để. Tình trạng
môi trường đất tại các khu vực Châu Cường, Bản Poòng, Thung Lũng I, Khê
Đổ, Châu Tiến, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An đã gây ra sự xáo trộn, làm ô
nhiễm đáng kể tới môi trường đất. Do không có người tổ chức quản lý hợp pháp
nên công tác phục hồi môi trường sau khai thác các khu vực này không được
thực hiện. Hậu quả đã làm thu hẹp diện tích đất canh tác, làm giảm chất lượng
đất thì nhân dân địa phương phải gánh chịu.
* Tác động tới môi trường nước
Không chỉ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường đất, trong quá trình khai thác,
chế biến thiếc còn tác động trực tiếp và đáng kể tới môi trường nước. Theo số
liệu khảo sát gần đây của Viện khoa học Vật liệu- Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam tại mỏ thiếc Sơn Dương cho thấy, các ảnh hưởng chính lên môi
trường nước là: làm thay đổi diện tích nước mặt dòng chảy sông suối, làm thay
đổi cân bằng nước khu vực, làm thay đổi mực nước ngầm địa phương, tăng độ
sử dụng làm khai trường khai thác, bãi thải trong quá trình khai thác, dẫn tới một
bộ phận người dân phải tìm nghề khác để kiếm sống đã ảnh hưởng nhất định tới
đời sống hàng ngày của họ. Những tác động này cần thiết phải được đánh giá
một cách cụ thể để có những hướng giải quyết thích hợp.
* Làm suy giảm nhanh chóng nguồn tài nguyên thiếc
Không chỉ có tác động xấu tới môi trường đất, nước cũng như kinh tế, xã
hội, tác động đến môi trường thiên nhiên cần phải kể tới trong khai thác thiếc,
đó là làm suy giảm, cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên thiếc. Một trong
những nguyên nhân chính là hoạt động khai thác chưa có quy hoạch, kế hoạch
cụ thể của các tổ chức, các nhân khai thác hợp pháp cũng như hoạt động khai
thác trái phép một cách bừa bãi, lộn xộn.
Khi giá thiếc giảm mạnh trong giai đoạn những năm thập kỷ 90 thế kỷ 20
đã buộc các doanh nghiệp tìm mọi cách giảm giá thành kr, chế biến. Điều này
dẫn tới tình trạng khai thác theo kiểu “dễ làm, khó bỏ”, tập trung khai thác
quặng ở khu vực có hàm lượng giàu, không quan tâm nhiều đến công tác trung
hoà quặng trong khai thác và tuyển rửa. Đến nay, khi biết giá thiếc có xu hướng
tăng, trữ lượng thiếc đã cạn kiệt tại một số mỏ như Bắc Lũng, Tĩnh Túc đã phải
khai thác lại tại các khu vực là bãi thải sau tuyển trước đây.
Ví dụ một số trường hợp cụ thể sau:
Mỏ thiếc Sơn Dương- Tuyên Quang:
Quặng đuôi chứa arsenopyrit (1-2%), calcopyrit (1%) và pyrit (10- 15%).
Khoáng vật sulfua này ôxy hoá tạo ra dòng thải axit mỏ và dung dịch giàu kim
loại. Đá vôi ở nền có thể sẽ trung hoà lượng axit này. Sự ôxy hoá này có thể thấy
28
rõ ở ngay nước thải từ ngay hố thải của một điểm đang khai thác. (mẫu số SEA-
35w, và từ một dòng chảy nhỏ sau đó mẫu SEA- 36w, Bảng 26); các mẫu nước
thải này có độ pH thấp, có lượng kim loại hoà tan lớn. Một điều chú ý là các kim
loại độc hại như Cu và Cd có hàm lượng rất cao. Một mẫu nước dùng cho tuyển
lấy ở một sông không bị ô nhiễm gần đó (mẫu SEA- 33w) có thành phần tương
tự như nước sạch trên thế giới. Sau khi qua tuyển, (nhưng chưa bị ôxy hoá) nó
đã thể hiện chứa nhiều kim loại đặc biệt là As (xem mẫu SEA- 32), nước này
được thải trực tiếp ra cánh đồng lúa với hàm lượng As gấp 30 lần nước bình
thường.
Tại mỏ cũng không hề có một dự định hồi phục môi trường nào. Đất đai ở
đây đang trong tình trạng bị đào xới, vùng trồng lúa ở đây không canh tác được.
Ví dụ một trong những thung lũng được trả lại cho địa phương để canh tác
nhưng tại đây có đầy những hố nước và hàng đống sỏi đá thải nên không thể
trồng trọt được. Sự lan toả của As và sự ôxy hoá các kim loại độc hại như Cu,
Cd từ các dòng rỉ từ dòng thải axit mỏ qua các đống thải cũng không hề được
chú ý. Do sự nguy hiểm của As đến đời sống con người và của sinh vật, cần có
những nghiên cứu nhằm kiểm soát được các đập thải quặng đuôi và có chiến
lược phù hợp để phục hồi môi trường cho các vùng đã khai thác.
Mỏ thiếc Bắc Lũng- Tuyên Quang
Khi khai thác người ta đã không tính đến việc bảo vệ môi trường hoặc việc
phục hồi môi trường nên phục hồi môi trường các diện tích đã khai thác ngày
nay sẽ rất tốn kém và khó khăn. Vì một vùng rộng lớn đã bị đào bới, không thể
canh tác. Hơn nữa, hơn nữa khả năng phát tán Cu, Cd và As khi nước tiếp xúc
với đất đá thải sẽ hoà tan và đưa các kim loại này vào dòng chảy cũng không hề
được tính đến. Rất may là tại đây lượng nước rất dồi dào, nó có thể ngăn cản bớt
việc tạo thành dòng thải axit mỏ do ngăn không cho đất đá thải tiếp xúc với
không khí. Tuy thế, tại nhiều điểm của cả vùng thì khả năng tạo thành dòng thải
axit mỏ và hoà tan các kim loại nặng vẫn xảy ra. Do sự nguy hiểm của As đến
đời sống con người và của sinh vật, cần có những nghiên cứu nhằm kiểm soát
được các đập thải quặng đuôi và có chiến lược phù hợp để phục hồi môi trường
cho các vùng đã khai thác. Các mỏ khai thác thủ công còn hoạt động ở nhiều
điểm có khi còn liên kết với các công ty mỏ, cũng có một lượng quặng được
khai thác từ ngay các ruộng lúa (sau khi thoả thuận với chủ đất). Không hề có sự
tính toán đến sự phục hồi của các điểm khai thác này và dường như tất cả các
điểm đó đều bị bỏ hoang sau khi khai thác. Tuy thế ảnh hưởng của các điểm
khai thác nay không lớn và có thể đề phòng vấn đề này bằng biện pháp hành
chính.
Mỏ thiếc Quỳ Hợp- Nghệ An
Khi khảo sát thì rất ít quặng được tuyển tại nhà máy, do đó dòng thải của
nhà máy được thải trực tiếp ra một con suối nhỏ gần đó. Thành phần As trong
chất thải rắn rất cao: 355 mg/kg so với thành phần tràm tích được coi là không ô
29
nhiễm trên thế giới chỉ là 5- 20mg/kg. Tuy nhiên, so với chất thải rắn ở Sơn
Dương có hàm lượng 0,6- 0,9% (60000- 90000 mg/kg) thì còn thấp hơn nhiều.
Tại mỏ cũng không hề có một dự định hồi phục môi trường nào. Đất đai tại
đây ở trong tình trạng bị đào xới và vùng trồng lúa ở đây không canh tác được.
Đối với mỏ Bản Cô sẽ được đưa vào khai thác cần phải tính đến việc khai thác
sao cho có thể trả lại đất trồng cho việc canh tác nông nghiệp sau khi khai thác
xong.
I.3.3. Hiện trạng môi trường trên các mỏ Sa khoáng và Titan
Công nghệ khai thác thủ công chủ yếu sử dụng thiết bị thô sơ, một tổ sản
xuất chỉ gồm 2-3 người, thiết bị gồm có:1 máy bơm nước cao áp; 1súng bắn
nước cỡ nhỏ do một người sử dụng bắn tia nước vào gương tầng tạo thành bùn
quặng dưới hố bơm;dùng một bơm bùn bơm bùn quặng nên mặt hố bơm, sử
dụng 1 hay 2 bàn đãi do 1 hay 2 người phụ trách trên hố đãi quặng, quặng tinh
được trập trung một chỗ, còn bùn quặng đỏ vào một chỗ nào đó thuận tiện cạnh
khu vực khai thác. Với phương thưc khai thác này do nguồn cung cấp nước
không chủ động nên thuận lợi thì khai thác thể bỏ,thêm vào đó do thiết bị thô sơ
nên kích thước của hố bơm khai thác bị hạn chế, thời gian tồn tại một hố khai
thác không lâu, dẫn đến lãng phí tài nguyên... Bởi vậy, việc khai thác thủ công
tại mỏ Cổ Định gây ra các tác hại sau:
Mỏ sa khoáng cromit Cổ Định Thanh Hoá là mỏ quặng Cromit duy nhất ở
nước ta được phát hiện và đưa vào khai thác từ năm 1927. Theo thống kê chưa
đầy đủ từ năm 1956 đến 1998 tại mỏ đã khai thác và tiêu thụ khoảng 600.000
tấn tinh quặng hàm lượng Cr2O3 46%. Giai đoạn 56 - 87 sản lượng cao nhất đạt
37.552 tấn trong đó khai thác thủ công chiếm 20.462 tấn, đạt 53% lượng khai
thác toàn mỏ.Việc khai thác thủ thải tại chỗ chiếm diện tích gần 600ha, chiều
dày lớp đất thải trung bình 0,53m.Giai đoạn 97-98,ngoài cơ sở nhà nước còn có
cơ sở cấp giấy phép khai thác, một số khác khai thác tự do, có năm đến 8000
người tham gia vaò công việc đãi quặng. Sản lượng năm cao nhất lên tới 75000
tấn quặng tinh, trong đó sản xuất thủ công chiếm 63,08% chủ yếu thải tại
chỗ.Khối lượng quặng khai thác được trong giai đoạn này là 218.936 tấn. Để
khai thác được khối lượng này phải đào bới khoảng 8 triệu m3 đát quặng.Kết quả
là có ít nhất có khoảng 400 triệu tấn bùn nước được thải ra các sông, suối,hồ ao
đồng ruộng vùng lân cận và trải lên lớp bề mặt địa hình dày trung bình 0,58m
trên diện tích sấp xỉ 11km2. Với phương thức khai thác trên đây, tổn thất trung
bình quặng nguyên khai lên đến trên 30%. Theo số liệu cập nhật riêng 1973 ở
khu vực I khi khai thác tầng quặng I và tầng quặng II cũng như tầng cát đãlàm
tổn thất 46%Cr2O3.
- Lãng phí tài nguyên.
- Gây khó khăn cho việc khai thác tầng quặng dưới.
- Thải tại chỗ với khối lượng lớn làm ảnh hưởng lớn đến môi trường xung
quanh.
30
Việc khai thác và quản lý mỏ sa khoáng Cromit chưa được tốt, chưa mang
lại hiệu quả cao cho nền kinh tế đất nước. Khai thác sa khoáng ven biển inmenit
mặc dù phát triển chưa lâu nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Quặng titan sa khoáng ven biển được khai thác ở nhiều khu vực dọc theo
bờ biển các tỉnh từ Bắc Bộ đến Trunh Bộ (Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Quảng Trị,
Quảng Bình, Thừa Thien Huế, Bình Định, Phú Yên...).
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
10
21
30
33
56
31
41
79
107
137
174
Các cơ sở khai thác và chế biến quặng sa khoáng ven biển chủ yếu thuộc
các công ty khoáng sản do sở công nghiệp tỉnh quản lý. Đặc điểm nổi bật nhất
trong khai thác quặng sa khoáng ven biển là thiết bị chế biến tinh quặng đều
được sản xuất trong nước đảm nhiệm. Sản lượng tinh quặng inmenit các cơ sở
thuộc hiệp hội Titan Việt Nam từ 1990-2000 như sau:
Năm
Sản
lượng
103t/n
Công ty khai thác và chế biến xuất khẩu Titan Hà Tĩnh là một trong
những công ty lớn khai thác và chế biến quặng sa khoáng ở nước ta, sản lượng
trong giai đoạn 1997-2000 sản xuất 100.000 tấn sản phẩm phụ khác. Từ năm
1990 đến 6 tháng đầu năm 2000 sản lượng các loại của công ty như sau:
inmenit- 352.876 tấn; Zicon- 13.631 tấn; Rutin- 3.524 tấn. Doanh thu hàng năm
(tỷ đồng): 1997 là 28,94; năm 1998 là 60,49; năm 1999 là 91,5; sáu tháng đầu
năm 2000 là 69,8.
Điểm quan trọng cần lưu ý là các khai trường quặng inmenit Cẩm Long,
Kỳ Khang, Kỳ Anh Hà Tĩnh đều được phục hồi môi trường song song với quá
trình khai thác với phương thức khai thác “cuốn chiếu”; khoảng trống đã khai
thác xong dùng bùn thải tuyển lấp lại, san bằng rồi sau đó trồng cây.
Tại Thừa Thiên Huế trữ lượng sa khoáng ở 3 mỏ Quảng Ngạn, Kế Sung
và Vinh Mỹ là: inmenit 4.150.000 tấn; Zicon 881.000 tấn. Sản lượng khai thác
từ năm 1990 đến năm 1999 là 44.464 tấn doanh thu tương ứng là 51,181 tỷ
đồng. Theo kế hoạch năm 2000 đến năm 2005 qui mô sản xuất quặng sa khoáng
ven biển của tỉnh thì trữ lượng mỏ là 90.000 tấn, trong đó Zicon 22.550 tấn,
rutile là 2.600 tấn, Monazite là 900 tấn.
Xí nghiệp thanh niên Cửa Hội một thành viên của hiệp hội Titan Việt
Nam mặc dù lượng khai thác hàng năm không lớn nhưng đã lưu ý đến việc bảo
vệ môi trường.
I.3.4. Hiện trạng môi trường trong hoạt động khai thác cát
Hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông gây ảnh hưởng đến môi trường
như: làm đục dòng nước, gây tiếng ồn, cản trở mất an toàn đôí với giao thông
đường thuỷ, đặc biệt nếu khai thác gần bờ hoặc quá độ sâu vượt giới hạn cho
31
phép sẽ làm thay đổi địa hình đáy sông, mất cân bằng trắc diện lòng sông, gây
biến đổi dòng chảy và gây sạt lở bờ sông, nhất là bờ sông ở khu vực miền nam
đều được cấu tạo bởi trầm tích bở rời: bột- sét- cát (đất yếu) dễ bị sạt lở.Thực
trạng môi trường trong hoạt động khai thác cát ở từng tuyến sông của một số địa
điểm cụ thể như sau:
Hệ thống sông Đồng Nai- Nhà Bè: Hoạt động khai thác cát trên sông
Đồng Nai chủ yếu ở đoạn sông Đồng Nai từ đập thuỷ điện Trị An về phía hạ
nguồn đến sông nhà bè (từ đập thuỷ điện Trị an về phía thượng nguồn sông nhỏ
khai thác với qui mô nhỏ lẻ). Theo tài liệu thăm dò đoạn sông dài 56 km này có
trữ lượng cát hơn 40 triệu m3 .
Từ năm 1990 đến nay, đoạn sông này đã khai thác được hơn 40 triệu m3
cát (diễn ra mạnh nhất từ năm 1993 đến năm 2002 mỗi năm từ 3-6 triệu m3 ), đến
nay nguồn cát đã cạn kiệt, chỉ còn khai thác ở hai khu vực nhỏ ở phía hạ nguồn,
sản lượng 500.000 đến 600.000 m3 /năm và sẽ ngừng vào năm 2006.
Do khai thác với qui mô lớn (cả ngày lẫn đêm) trên cả đoạn sông trong
cùng một thời gian, nhiều nơi đã khai thác gần bờ, quá độ sâu cho phép, hậu quả
là gây tiếng ồn, ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân sinh sống ở hai bên bờ
sông (nhất là ban đêm), gây cản trở giao thông đường thuỷ, đặc biệt là đã gây sạt
lở bờ sông ở nhiều nơi mất hàng chục hécta đất vườn của dân bị lở xuống sông,
nghiêm trọng nhất là sạt lở bờ sông ở một số nơi như khu vực Cù lao rùa, huyện
Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, khu vực bờ sông gần cù lao Ba Sang, Ba Xe,huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai, khu vực cù lao Long Phước thuộc phường Long
Phước, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh bị sạt lở dài gần 2 km, sâu vào bờ hàng
chục mét, mất hơn 10 ha đất; nhân dân các khu vực này đã thường xuyên khiếu
kiện tập thể đến các cơ quan nhà nước đề nghị cấm khai thác vì cho rằng khai
thác cát làm sạt lở bờ sông, gây tiếng ồn, ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân.
Về khai thác quá độ sâu cho phép làm thay đổi địa hình đáy sông, điển
hình nhất là đoạn sông từ cầu Đồng Nai đến phà cát lái, theo qui định trong báo
cáo đánh giá tác động môi trường độ sâu khai thác tối đa là - 16 m nhưng thực tế
nhiều nơi đã khai thác vượt quá độ sâu-20m đến - 42m gây biến đổi mạnh địa
hình đáy sông, mất cân bằng trắc diện lòng sông, gây biến đổi dòng chảy và dẫn
tới dòng sông bị sạt lở mạnh.
Đến năm 2004, do nhân dân sinh sống ở hai bên bờ sông nhiều nơi khiếu
kiện tập thể, được các cơ quan thông tin đại chúng phản ánh và kết quả kiểm tra
của đoàn kiểm tra liên ngành, thủ tướng chính phủ đã phải đề nghị dừng hoạt
động khai thác trên đoạn sông Đồng Nai từ đập thuỷ điện Trị An về phía hạ
nguồn sông Sài Gòn, Đồng Tranh.... từ đó đến nay, hoạt động khai thác được
chuyển mạnh về hệ thống sông Tiền, sông Hậu.
Sông Sài Gòn: Đây là con sông không lớn,phía hạ nguồn chảy qua trung
tâm thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động khai thác cát chỉ diễn ra ở phần trung và
thượng nguồn với qui mô nhỏ, đã khai thác được khoảng 2 triệu m3 cát hiện nay
chỉ có khai thác ở phía thượng nguồn (từ km 36 đến km 5), giáp ranh giưa 2 tỉnh
32
Tây Ninh và Binh Dương với sản lượng gần 200.000 m3 /năm. Vì vậy, không
có sạt lở bờ sông lơn do khai thác cát gây ra. Riêng khu vưc Thanh Đa, sạt lở bờ
sông gây sập nhà, chết người là do hình thái đường bờ, cấu trúc địa chất bờ
sông, sự lấn chiếm bờ sông của nhân dân gần như hoàn toàn không phải sạt lở
do khai thác cát vì hai phia thượng và hạ nguồn hàng chục km không có hoạt
động khai thác cát.
Sông Vàm Cỏ Đông: Đây cũng là một sông nhỏ, hoạt động khai thác cát
có diễn ra với qui mô không lớn, khối lượng cát đã khai thác được từ năm 1995
đến nay khoảng 2 triệu m3, hiện nay chỉ còn khai thác ở phần thượng lưu thuộc
địa phận tỉnh Tây Ninh, với sản lượng khoảng 200.000m3 /năm nên không có
hiện tượng sạt lở bờ sông lớn, nghiêm trọng xảy ra.
Hệ thống sông Tiền- sông Hậu: Là hai hệ thống sông lớn ở đồng bằng
Nam bộ, từ năm 1997 đến nay, do nguồn cát ở sông Đồng Nai đã cạn kiệt, hoạt
động khai thác cát ở đây mạnh dần lên và đã khai thác được hơn 60 triệu m3
cát, sản lượng khai thác hiện nay tới hơn 20 triệu m3 /năm.
Những năm gần đây (khoảng từ năm 2000 đến nay) hiện tượng sạt lở bờ
sông thuộc hệ thống sông Tiền, sông Hậu xảy ra ngày càng mạnh mẽ và nguy
hiểm, mất hàng trăm hecta đất, làm sập nhiều nhà dân và chết người.
Theo các nhà khoa học, nguyên nhân gây sạt lở bờ sông do nhiều nguyên
nhân trong đó có nguyên nhân do hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông, góp
phần thúc đẩy sạt lở nhanh hơn. Hiện trạng môi trường có liên quan đến hoạt
động khai thác cát, sỏi lòng sông ở hai hệ thống sông như sau:
a. Hệ thống sông Tiền (gồm sông Tiền, sông Vàm Nao, sông Cổ Chiên, Sông
Hàm Luông).
Từ giáp biên giới Việt Nam- Cam Pu Chia về phía hạ nguồn ra đến biển
đông, theo số liệu thu thập được hiên nay, có tới hơn 41 điểm sạt lở cả hai bên
bờ sông với mức dộ khác nhau do nhiều nguyên nhân.ở đây chỉ nêu một số nơi
sạt lở mạnh, chiều dài lớn, nghiêm trọng mà ở đó có hoạt động khai thác cát, sỏi
lòng sông.
- Khu vực bờ phải sôngTiền thuộc thị trấn Tân Châu, tỉnh An Giang bị sạt
lở nhiều năm nay, chiều dài khoảng 2km vơi tốc độ 5-10 m/năm đã sập nhiều
nhà dân xuống sông, gần đây nhà nước phải chi hơn 100 tỷ đồng để xây dựng bờ
kè và Thủ tướng Chính phủ đề nghị dừng khai thác cát trên đoạn sông này với
chiều dài 5 km; ở lòng sông có những hố sâu 30 m.
- Khu vực trái sông Tiền thuộc xã Thượng Phước, huyện Hồng Ngự, tỉnh
Đồng Tháp, bờ sông bị sạt lở dài 3km từ nhiều năm nay, tốc độ sạt lở nhanh(>
20m/năm).
- Khu vực bờ trái sông Vàm Nao thuộc xã Kiến An và Mỹ Hội, huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang, bờ sông bị sạt lở dài 4 km, tốc độ sạt lở 5-10 m/ năm.
33
- Khu vực bờ phải thuộc thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, bờ sông bị sạt lở
dài 5 km từ nhiều năm nay, tốc đọ sạt lở 5-10 m/ năm.
- Khu vực bờ Nam cầu Mỹ Thuận, ngã ba sông Tiền, sông Cổ Chiên, tỉnh
Vĩnh Long do khai thác cát tập trung, đào lòng làm cho dòng chảy có xu hướng
đổ về hướng Vĩnh Long, gây sạt lở dài 2 km với tốc độ trung bình.
- Khu vực bờ phải sông Cổ Chiêm thuộc thị xã Vĩnh Long bị sạt lở dài 3
km từ nhiều năm nay, tốc độ 1-2 m/ năm, bờ sông hiện nay đã bị kẻ, nhưng lòng
sông ở gần bờ có chỗ sâu tới -40m và đang bị khoét hàm ếch nguy hiểm.
b. Hệ thống sông Hậu
Từ biên giới Việt Nam - Cam Pu Chia về hạ nguồn ra đến biển Đông có
trên 24 điểm sạt lở với mức độ khác nhau, ở đây hiện có một số khu vực bị sạt lở
lớn, nghiêm trọng và có hoạt động khai thác cát như sau:
- Khu vực Mỹ Hoà, Mỹ Thạnh, tỉnh An Giang, bờ sông bị sạt lở cả hai
bên gần 10 km, tốc độ sạt lở 5-8 m/ năm từ nhiều năm nay.
- Khu vực đầu Cù lao ông Hổ, tỉnh An Giang sạt lở dài 5 km, tốc độ sạt lở
10m/năm từ nhiều năm nay.
- Khu vực Cù lao Phó Ba, tỉnh An Giang bị sạt lở dài 3 km, tốc độ sạt lở
10m/năm và đang mạnh dần lên.
- Khu vực phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, bờ sông bị sạt lở
dài 2 km, tốc độ sạt lở 2-5 m/năm, đầu năm 2005, tỉnh đã phải cấm khai thác cát
ở khu vực này.
- Khu vực bờ phải sông thuộc Ô môn, thành phố Cần Thơ dài 2 km bị sạt
lở với tốc độ sạt lở 5-10 m/ năm, do dân thường xuyên có khiếu kiện tập thể, cho
rằng sạt lở do khai thác cát, đầu năm 2005, thành phố Cần Thơ đã tạm cấm khai
thác cát tại khu vực này.
- Khu vực bờ phải sông thuộc quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ, bờ
sông bị sạt lở dài 1-2 km, tốc độ sạt lở 5-10 m/ năm.
- Khu vực bờ trái sông phía trên và dưới Bến phà Cần Thơ thuộc huyện
Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, bờ sông bị sạt lở dài hơn 4 km, tốc độ sạt lở mạnh
(> 10 m/năm) từ nhiều năm nay, nhân dân địa phương thường xuyên khiếu kiện
tập thể đến các cơ quan Nhà nước cho rằng sạt lở do khai thác cát và gây tiếng
ồn gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân sinh sống ven bờ. Đầu năm 2005,
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã phải tạm cấm khai thác đoạn sông từ
phà Cần Thơ đến cầu Cần Thơ đang xây dựng.
I.3.5. Hiện trạng môi trường tại các mỏ vàng khai thác tận thu
Hoạt động khai thác vàng tại một số khu vực thuộc miền Trung đã bắt đầu
rất sớm thời Pháp thuộc. Sau một thời gian, hoạt động khai thác mới được mở
rộng trở lại từ năm 1985. đặc biệt từ sau năm 1995 khi có chính sách giao khai
thác tận thu cho các tỉnh thì hoạt đọng khai thác trở lên rầm rộ chưa từng có.
34
Thực tế hiện nay, còn lại rất ít các điểm mỏ thuộc diện cấp phép của Bộ Công
Nghiệp, phần lớn còn đã được phê duyệt bàn giao cho các tỉnh quản lý và cấp
phép khai thác tận thu.
Các đơn vị được tỉnh cấp phép khai thác tận thu phần lớn là các doanh
nghiệp tư nhân. các đơn vị này với năng lực hoạt động và khả năng tài chính hạn
chế đã sử dụng phương thức khai thác và chế biến thủ công và bán thủ công là
chính.
Đối với các mỏ vàng gốc, các mỏ này nằm trên địa hình núi cao, có độ
phân cắt lớn. Phương thức khai thác duy nhất được sử dụng ở đây là đào giếng
tìm bắt các vỉa quặng và sau đó khoan, nổ mìn tạo hầm. Các hầm lò thường có
độ sâu tới vài trăm mét chạy theo các vỉa quặng trong lòng núi. Công nghệ khai
thác được sử dụng tại các mỏ này phần lớn là bán thủ công, sử dụng sức người
bóc tách các vỉa nẹp chứa quặng ở sâu trong lòng núi đưa lên miệng giếng bằng
tời thủ công. Tiếp theo, quăng được đưa vào nghiền nhỏ và tuyển trọng sa.
Quặng vàng qua sơ tuyển được đưa vào máng phân kim loại bằng chất độc
cyanure.
Đối với các mỏ sa khoáng, hầu hết các sa khoáng đều có nguồn gốc aluvi,
aluvi - proluvi. Phương thức khai thác chủ yếu là đào hầm hố lấy đất, cát tại các
quả đồi, bãi bồi ven sông suốt và sử dụng nước sông, suốt tuyển trong sa và sau
đó cô lập vàng bằng thủy ngân. Điều kiện môi trường lao động và nguy cơ tai
biến có thể xảy ra do hoạt động khai thác tận thu và chế biến vàng.
- Điều kiện an toàn lao động.
Qua khảo sát thực tế tại từng vị trí khai thác, chế biến, tập thể tác giả của
đề tai nhận thấy điều kiện an toàn lao động trong hoạt động khai thác vàng tại
các mỏ này luôn ở tình trạng báo động. Các hầm lò, giếng được đào thủ công và
không tuân theo bất cứ tiêu chuẩn an toàn nào. Với hệ thống sâu hàng chục mét,
dài hàng trăm mét dọc ngang trong lòng núi, các hầm lò hoàn toàn không sử
dụng các vì chống (trừ miệng hầm) và không có hệ thống thông gió. Đây là
nguyên nhân chính gây ra các vụ sập hầm lò thường xuyên.
- Nguy cơ tai biến địa chất.
Một đặc điểm chung là các mỏ vàng thường được bố trí dọc theo sườn dốc
của khe nước để tiện lợi dụng độ dốc địa hình trong các công đoạn tuyển quặng
cũng như đổ bỏ chất thải. Đối với vàng gốc, các cửa hầm nằm dọc theo sườn dốc
tuỳ thuộc vào vị trí vỉa quặng. Đặc biệt chất thải rắn thường đổ ngay tại cửa hầm
làm mặt bằng đặt máy móc, làm tăng độ dốc và mất tính ổn định của sườn dốc
rất dễ gây trượt lở.
- Nguy cơ ô nhiễm môi trường
Khu vực nghiền và tuyển quặng thô được bố trí ngay sát cửa hầm. Hoạt
động ở đây được cơ giới hoá kết hợp với lao động thủ công. Các máy nghiền,
tuyển quặng phần lớn sử dụng động cơ diezen tạo ra tiếng ồn và một lượng lớn
khói dầu và khí CO. Một ví dụ điển hình là tại mỏ G18 Phước Sơn Quảng Nam,
35
được khai thác với quy mô lớn. 100% thiết bị máy móc sử dụng động cơ diezen.
Bằng cảm quan ban đầu, tất cả các khu vực chế biến quặng và cây cối xung
quanh đã bị phủ đen bởi khói dầu. Qua đo đạc tại chỗ, hàm lượng khí độc tại
khu vực này đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép tới 8 lần. Khói bụi và khí thải có
khả năng gây nguy hiểm trực tiếp tới sức khỏe của công nhân.
Ngoài khói bụi và khí thải, chất độc thủy ngân và cyanure vẫn được tất cả
các mỏ sử dụng trong công đoạn phân kim vàng. Nước có chứa dung dịch
cyanure hoặc thủy ngân được xả thẳng ra các dòng chảy tự nhiên vào các sông
suối. Các điểm khai thác vàng miền Trung phần lớn nằm tại thượng nguồn các
con sông lớn cung cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu cho toàn bộ khu dân cư đồng
bằng thấp ven biển. Vì vậy, nguy cơ nhiễm bẩn, nhiễm độc cho con người và hệ
động thực vật do hoạt động khai thác vàng tại miền Trung là rất cao và có khả
năng ảnh hưởng trên diện rộng.
I.4. Công tác bảo vệ môi trường trên ba mỏ khảo sát
I.4.1 Bảo vệ môi trường không khí:
Các mỏ đã có ý thức rõ rệt trong việc bảo vệ môi trường không khí các
mỏ đã tiến hành rải nhựa toàn bộ hệ thống đường ngoài mỏ. Đường trong mỏ
được rải cấp phối và lu lèn, hàng ngày được tưới phun nước từ 2 ÷ 3 lần. Ôtô
chở đá hoặc khoáng sản chạy qua khu dân cư đều có che bạt kín.
Đã có ý thức giảm thiểu các chất độc hại do thiết bị chạy xăng dầu gây ra
như thay đổi nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh cao bằng nhiên liệu có hàm
lượng lưu huỳnh thấp, thay nhiên liệu có chỉ số octane, cetane thấp bằng nhiên
liệu có chỉ số octane, cetane cao phù hợp với tính năng của xe. Ở mỏ có sử dụng
thuốc tuyển như Sin Quyền đã có tiến hành xây dựng nhà xưởng thoáng, nhiều
cửa sổ, dùng quạt gió công nghiệp để đẩy mùi ra ngoài, hệ thống thùng khuấy,
bể chứa thuốc tuyển được đậy kín, công nhân trực tiếp xúc với thuốc tuyển ở
khu vực tuyển nổi được trang bị khẩu trang, gang tay, ủng cao su,…
Để giảm các khi CO, CO2, NO, NO2, SO2, … gây ra khi nổ mìn, 2 mỏ
Hà Tu và Hoàng Mai đã hạn chế tối đa việc sử dụng các loại thuốc Zecnô, AD1
mà chủ yếu dùng ANFO và nhũ tương(là các loại thuốc có cân bằng ôxy xấp xỉ
bằng 0). Riêng mỏ Sin Quyền, do quặng khá cứng nên ở các tầng khoan bằng
máy khoan đập xoay, đường kính 105 mm vẫn phải dùng thuốc nổ AD1.
Nhược điểm chính ở các mỏ là chưa sử dụng đồng bộ các giải pháp giảm
bụi tận gốc trong các khâu khoan nổ, xúc bóc, nghiền đập như dùng búa nước,
tưới nước trước khi nổ mìn, phun nước trước và trong khi xúc, các giải pháp dập
bụi ở trạm nghiền đá chưa có, một số máy khoan đập xoay ở mỏ Sin Quyền
không có hệ thống hút bụi, một số máy khoan XBS cũ của mỏ Hà Tu hệ thống
hút bụi ít tác dụng.
I.4.2 Giảm ồn và rung: Một số không nhỏ thiết bị của mỏ Hà Tu thuộc thế
hệ cũ nên độ phát ồn còn lớn và rung nhiều. Các thiết bị mới đầu tư của 3 mỏ
phần lớn khá hiện đại, cabin kín, nên ít ồn và rung hơn, tuy nhiên các máy khoan
đập xoay thủy lực, các máy xúc thủy lực gầu thuận và gầu ngược đều chạy bằng
năng lượng điêzen nên ồn lớn hơn so với các máy chạy điện.
36
Ở một số thiết bị nghiền sàng nhỏ của mỏ Hà Tu được lắp thêm các cơ
cấu giảm chấn và lò so chống rung. Việc hạ độ dốc dọc của đường nâng cao chất
lượng mặt đường, chở đúng tải trọng của các mỏ cùng có hiệu quả tốt trong việc
giảm ồn.
I.4.3 Giảm thiểu tác động tới môi trường nước:
Để hạn chế nước mưa chảy tràn qua khu vực xưởng tuyển bãi thải gây
cuốn trôi bùn đất và hòa tan các chất độc hại, làm bồi lấp các dòng chảy và đất
đai trồng trọt hạ nguồn, làm giảm chất lượng nước mặt, nước ngầm, … các mỏ
đều có xây dựng hệ thống mương rãnh ngăn nước. Hệ thống thoát nước mặt đều
được xây dựng và củng cố thường xuyên, đảm bảo thoát nước kịp thời. Riêng
mỏ Sin Quyền, do nhu cầu nước cho nhà máy tuyển lớn nên nước được sử dụng
tuần hoàn, kể cả phần nước mặt thoát từ mỏ ra cũng được đưa vào bể lắng đọng
để bơm lên bể cấp nước của nhà máy.
Nước thải sinh hoạt của cán bộ công nhân viên tại mỏ được thu gom và
dẫn đến bể xử lý trước khi thải ra ngoài theo phương pháp tự loại. Tuy nhiên
khối lượng này không lớn.
Nước rửa xe máy cũng được thu gom lại theo mương thoát nước chảy vào
các bể lắng để tiến hành xử lý. Tuy nhiên ở khâu này, việc xử lý của các mỏ
chưa triệt để, phần lớn chỉ lắng đọng được các cặn cứng và bùn đất, còn các sản
phẩm thừa của dầu mỏ thì chưa thu hồi được.
I.4.4. Các biện pháp bảo vệ môi trường đất và quản lý chất thải rắn:
Để bảo vệ môi trường đất, năm 2005 mỏ Hà Tu thải tới 17 triệu m3 vào 3
vị trí: Bãi thải Tây, bãi thải Nam của vỉa 16 và bãi thải Bắc vỉa 7+8. Các bãi thải
này là các thung lũng, chung quanh có sườn núi bao bọc, phía địa hình thấp nhất
là suối cạn, mỏ đã tiến hành kè đắp để chống trôi lấp hạ nguồn. Khu vực thải cũ
là bãi thải Lộ Phong đã ngừng thải và mỏ đã tiến hành kè chắn chân bãi thải,
trồng cây phủ sườn bãi thải, bề mặt bãi thải được san gạt, phẳng và tiến hành
trồng bạch đàn và keo ba lá, tới nay một số cây đã xanh tốt. Mặc dù bãi thải đều
có hệ thống thoát nước tốt và kè chắn phía chân nhưng những trận mưa lớn nước
lũ vẫn cuốn theo đất đá từ nhiều nguồn khác lấp cạn suối Lộ Phong, do vậy hàng
năm mỏ phải tiến hành nạo vét suối.
Các chất thải rắn khác như rác thải, giấy bao vỏ mìn, giẻ lau máy được
thu gòm hàng ngày để phân loại. Các chất thải vô cơ thì đào hố chôn lấp, các
chất thải hữu cơ thì đốt.
Đối với mỏ đá Hoàng Mai, do khối lượng phế thải rắn của khâu khai thác
có khối lượng nhỏ và chủ yếu là đất sét do vậy được tận dụng (xúc đồng thời với
đá) để làm nguyên liệu xi măng mà không cần đổ thải ra ngoài. Đối với các chất
thải rắn khác, Công ty có một đội vệ sinh công nghiệp, hàng ngày đi thu gom
đưa về khu vực mỏ sét để xử lý; Các chất thải vô cơ thì đào hố chôn lấp, các
chất thải hữu cơ thì đốt. Do mỏ nằm sâu trong phần núi đá và các công tác vệ
sinh công nghiệp tốt nên các hiện tượng trôi lấp đất canh tác quanh vùng hầu
như không xẩy ra.
37
Đối với mỏ đồng Sin Quyền, nguy cơ làm ô nhiễm đất xung quanh xẩy ra
do 2 khâu chính là đổ thải (đất đá thải của phân xưởng mỏ và quặng đuôi bã
sàng của phân xưởng tuyển) và thoát nước. Khối lượng đất đá thải hàng năm
trung bình là 3 triệu m3 và khối lượng bùn thải hàng năm trung bình 480 ngm3.
Đất đá thải từ khai trường khu Đồng được đổ vào bãi thải ở phía nam khai
trường ở cách 0,5 km (dung lượng bãi thải này là 2,25 triệu m3) và bãi thải phía
Đông cách khai trường hơn 2km (dung lượng bãi thải này là 45 triệu m3). Nhìn
chung các bãi thải này đều nằm trong thung lũng khô, lưu vực lượng nước nhỏ,
ít có nguy cơ sạt lở đất.
Bãi thải quặng đuôi được bố trí gần khu vực nhà máy tuyển, có dung
lượng lớn tới 45 triệu m3. Bãi thải đồng thời là hố lắng nước thải để sử dụng
tuần hoàn. Để chắn được cần đắp cao dần theo nhu cầu thải. Đê được thi công
bằng đất đá chứa sét và gia cố chắc chắn đảm bảo chống rò, chống thấm hoặc bị
vỡ khi mưa to. Qua thực tế, nước thải của hệ thống sàng tuyển quặng được sử
dụng tuần hoàn triệt để, nên không có khả năng chảy ra ngoài. Qua kết quả thử
nghiêm. nước thải qua quá trình lắng bùn của quá trình tuyển quặng đồng cho
thấy nước có độ hoà tan kim loại thấp (dưới mức cho phép) và hóa chất dùng
trong tuyển quặng đồng (xantas) tự phân hủy trong một thời gian ngắn sau khi
tuyển, lượng tồn tại nước thải không đáng kể. Nước mưa, nước lũ được chảy
theo hệ thống mương rãnh khác thoát ra cống ngầm để đổ ra suối lớn mà không
chảy tràn qua bãi thải. Qua khảo sát thực tế, đất đá nền của các bãi thải đều là sét
có chiều dày 0,5 ÷ 1m, đảm bảo chống thấm tốt, do vậy chưa thấy có hiện tượng
hình thành dòng chảy axít do sự phân hủy các thành phần chứa sunfua trong đất
đá thải. Các chất thải rắn khác (rác thải sinh hoạt, giẻ lau, túi đựng thuốc nổ,…)
được thu gom và chôn giữ (rác thải vô cơ) hoặc đốt (rác thải hữu cơ) như các mỏ
khác.
I.4.5 Kết quả quan trắc thực trạng môi trường.
Các bảng 4.1 và 4.2 giới thiệu mạng quan trắc môi trường không khí và
1 điểm
4 điểm
*Phương pháp quan trắc
Các mỏ đều thiết lập mạng lưới quan trắc theo nguyên tắc lựa chọn các
điểm quan trắc và thành lập hệ thống các điểm cố định. Các điểm quan trắc là
những điểm tác động của vùng khai thác, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm.
Riêng mỏ Hà Tu, các điểm quan trắc được xác định bằng các thiết bị định vị vệ
tinh để ghi lại chính xác vị trí điểm khảo sát lấy mẫu.
môi trường nước của mỏ Hà Tu. Vị trí quan trắc của mỏ Hoàng Mai như sau:
Quan trắc chất lượng không khí: - Khu vực văn phòng nhà máy:
- Khu vực nghiền liệu, đóng bao:
- Khu vực dân cư phía Tây Bắc: 3điểm (cách 500m,1000m, 1500m)
- Khu vực dân cư về phía Đông Nam Nhà máy: 1điểm (gần dân cư 1500m)
- Khu vực dân cư về phía Đông Bắc: 3điểm (cách 500m,1000m, 1500m)
- Khu vực mỏ đá vôi: 3 điểm (1 điểm trong mỏ, 2 điểm cách mỏ 300 m, 900m)
- Khu vực mỏ đá sét: 3 điểm (1 điểm trong mỏ, 3 điểm cách mỏ 300m, 900m)
38
Điểm quan trắc môi trường không khí của mỏ đồng Sin Quyền là xưởng
Tần suất quan trắc của các mỏ là: Hà Tu - 4 lần/năm, Hoàng Mai - 4
Quan trắc chất lượng nước thải: Khu vực Nhà máy: 2 điểm ; Khu vực mỏ đá vôi:
1 điểm; Khu ở công nhân: 1 điểm.
tuyển, trạm nghiền đập quặng, ngoài cổng xưởng tuyển và tại khu văn phòng.
Thực hiện công tác quan trắc của mỏ Hà Tu là Công ty Phát triển tin học, công
nghệ và Môi trường của TVN, của mỏ đá Hoàng Mai là Sở Tài nguyên và Môi trường
Nghệ An và của đồng Sin Quyền là Sở Tài nguyên và Môi trường Lào Cai.
lần/năm và Sin Quyền - 2 lần/năm.
Bảng 1.8: Mạng lưới các điểm quan trắc môi trường không khí
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Tổng
Điểm quan trắc
Khu vực xưởng 2
Khu máng rót than
Moong vỉa 16
Moong vỉa 10
Mặt bằng bến xe
Bãi thải Nam Lộ Phong
Xưởng điện
Công trường vỉa 7 + 8
Công trường đá
9 điểm
B¶ng 1.9: M¹ng l−íi c¸c ®iÓm quan tr¾c m«i tr−êng n−íc
Điểm quan trắc
Công trường vỉa 7 + 8
Moong vỉa 16
Moong vỉa 10
Cống 3 phi
Cầu đường sắt Tân Lởp
TT
Nước thải
1
2
3
4
5
Nước sinh hoạt, nước mặt
Khu vực xưởng 2
6
Khu văn phòng công trường than
7
Mương nước trụ đông
8
8 điểm
Tổng
* Kết quả quan trắc
* Kết quả quan trắc mỏ Hà Tu (của đợt I / 2005)
a. Môi trường không khí
+ Hàm lượng bụi lơ lửng:
Quan kết quả đo đạc cho thấy: Tùy thuộc hoạt động của mỗi khu vực, mỗi
vị trí có số liệu đo đạc là khác nhau. Nhìn chung do đặc thù của mọi hoạt động
39
khai thác và phụ thuộc vào điều kiện thời tiết khi tiến hành quan trắc nên vào
thời điểm này hầu hết các vị trí đều có nồng độ bụi đo được cao, vượt tiêu chuẩn
Việt Nam 5937-1995.
Khu vực xưởng 2 vượt tiêu chuẩn 1,3 lần.
Khu sàng máng 4, 5 vượt TCVN 2,37 lần. Vào thời điểm quan trắc, khu
vực này đang hoạt động mạnh và tốc độ gió lên tới 1,12 m/s thổi bay bụi than
vào không khí.
Moong vỉa 16 vượt tiêu chuẩn cho phép 1,93 lần, khu vực này đang có xe
chở than, đất đá thải lưu hành, tuy nhiên tốc độ gió lúc này chỉ đạt được 0,8 m/s
nên bụi phát tán nhỏ hơn so với khu sàng máng.
Moong vỉa 10 vượt tiêu chuẩn gần 1,7 lần.
Mặt bằng bến xe công nhân: Đây là khu vực có nhiều xe ôtô hoạt động,
tuy nhiên do nằm ngoài khai trường nên bụi ở đây chủ yếu là bụi đường. Kết quả
đo cho thấy hàm lượng bụi tại đây vẫn cao hơn tiêu chuẩn cho phép 1,6 lần.
Bãi thải Nam Lộ Phong: Điểm tại chân bãi thải, trong khu vực trước đây
là khu dân cư quanh Công ty nay đã được di dời để đảm bảo an toàn trong quá
trình đổ thải và thực hiện các công trình bảo vệ môi trường của Công ty Hà Tu.
Đây là điểm chịu tác động của bãi thải nên có hàm lượng bụi đo đạc được cũng
vượt tiêu chuẩn 2 lần.
Xưởng cơ điện: nằm trong khu vực khai thác của Công ty có nồng độ bụi
đo được cao hơn TCVN 1,43 lần.
Công trường vỉa 7 + 8: Hàm lượng bụi đo đạc cho thấy vượt tiêu chuẩn 2 lần.
Công trường đá: Nồng độ bụi đo được cho thấy vượt tiêu chuẩn cho phép
xấp xỉ 2,17 lần. Nồng độ bụi ở đây cao do vào thời điểm quan trắc công trường
đang hoạt động và tốc độ gió lên tới 1,7 m/s, do đó làm phát tán bụi vào không
khí mạnh.
+ Tiếng ồn:
Theo nghị định 175/NĐ-CP (hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường)
phụ lục V.2 quy định tiêu chuẩn tiếng ồn trong khu vực hoạt động công nghiệp
nặng là 85 dBA.. Kết quả quan trắc tiếng ồn của Công ty than Hà Tu được thể
hiện qua biểu đồ 4.1
40
dBA
BiÓu ®å 4.1: TiÕng ån t¹i c¸c ®iÓm quan tr¾c
C«ng ty than Hµ Tu
90
83
83
82
78
80
77
75
67
70
59
58
60
50
40
30
20
10
0
Moong vØa 16 Moong vØa 10 MÆtb»ng BÕn
X−ëng ®iÖn
CT vØa 7+8
Khu vùc
x−ëng 2
Khu vùc sµng
m¸ng
xe
BT Nam Lé
Phong
C«ng tr−êng
®¸
Quý I/2005
ND 175/ND-CP
- Khu sàng máng: Độ ồn đo được vượt tiêu chuẩn rất ít (1,03 lần), không
- Moong vỉa 16: Độ ồn đo tại đây là 83 dB và chỉ vượt tiêu chuẩn cho
Qua số liệu thống kê và biểu đồ 4.1 cho thấy hầu như tất cả các điểm tiến hành
đo tiếng ồn đều có độ ồn nhỏ, đạt tiêu chuẩn quy định. Chỉ duy có một số điểm
nằm trong khai trường và khu sản xuất chính có độ ồn vượt tiêu chuẩn cho phép
như:
gây tác động tới sản xuất.
phép không nhiều (1,04 lần).
- Công trường đá: Tại đây độ ồn là 83dB, vượt tiêu chuẩn 1,04 lần.
+ Các chất khí độc hại trong không khí:
Các hơi khí độc tồn tại trong môi trường không khí là những chất thường
tác động trực tiếp, gây hậu quả nhanh và trầm trọng có thể dẫn đến tử vong. Sự
có mặt của chúng trong môi trường không khí ở nồng độ lớn thường là kết quả
của những sự cố môi trường. Tiến hành đo đạc nồng độ các chất khi này nhằm
đánh giá chất lượng không khí và giám sát tình trạng ô nhiễm không khí.
Kết quả quan trắc chất lượng không khí của Công ty than Hà Tu cho thấy hàm
lượng các chất khí này đều có biểu hiện trong không khí nhưng hàm lượng rất
thấp. So với tiêu chuẩn môi trường quy định trong TCVN 5937 - 1995 (trung
bình 1h), tất cả chất khí này đều đạt Tiêu chuẩn cho phép. Như vậy hoạt động
41
Mẫu Điểm quan trắc
CO2
(%)
Xưởng 2
Khu máng rót than
Khu bãi thải Nam Lộ Phong
Xưởng cơ điện
Công trường vỉa 7+8
Công trường đá
Các thông số quan trắc
NO2
H2S
SO2
(mg/m3
(mg/m3
(mg/m3
)
)
)
0,007
0,051
0,17
0,003
0,035
0,054
0,006
0,083
0,059
0,004
0,05
0,061
0,006
0,038
0,057
0,007
0,035
0,049
0,003
0,047
0,035
0,005
0,062
0,040
0,006
0,051
0,050
0,015
0,033
0,047
0,023
0,011
0,025
0,033
0,014
0,028
CO
(mg/m3
)
2,06
1,81
1,35
1,73
1,85
1,36
1,53
1,83
Bụi
(mg/m3
)
0,39
0,71
0,58
0,50
0,48
0,60
0,43
0,60
0,65
0,1
0,4
0,3
0,5
0,008
0,008
-
-
5
40
0,30
sản xuất khai thác than cũng như các hoạt động khác có liên quan tạo các chất
khí CO, NO2, SO2, NH3, H2S trong môi trường không khí xung quanh là thấp và
không ảnh hưởng đến chất lượng môi trường không khí xung quanh khu vực
Công ty của Công ty than Hà Tu.
Bảng 1.10. Kết quả quan trắc các hơi khí độc
K1
K2
K3 Moong vỉa 16
K4 Moong vỉa 10
K5 Mặt bằng bến xe
K6
K7
K8
K9
TCVN 5937 - 1995
Giá trị giới hạn CP (TB 24h)
Giá trị giới hạn CP (TB 1h)
b. Môi trường nước
* Nước thải:
- Độ pH: Giá trị nước là chỉ tiêu quan trọng đối với mỗi giai đoạn trong
đánh giá chất lượng nước. Theo tiêu chuẩn TCVN 5945 - 1995 (giới hạn B) quy
định nước thải có giá trị pH = 5,5 ÷ 9 được đổ vào các vực nước dùng cho các
mục đích giao thông thủy, tưới tiêu, bơi lội, nuôi thủy sản, trồng trọt,…
Độ pH là yếu tố môi trường ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và giới hạn
sự phát triển của sinh vật trong nước. Do đó, để nước thải được phép đổ vào
nguồn nước dành cho nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu thì nước thải phải có độ pH
trong khoảng giới hạn mà sinh vật trong nước có thể tồn tại và phát triển.
42
mg/l
BiÓu ®å 4.2: §é pH trong c¸c mÉu n−íc th¶i
C«ng ty than Hµ Tu - quý I n¨m 2005
10
9
8
7
6
5.4
5.26
5.2
4.8
5
4.5
4
3
2
1
0
Moong vØa 16
Moong vØa 10
Cèng 3 phi
C«ng tr−êng vØa 7+8
C©u ®−êng s¾t T©n LËp
Gia tri do
TCVN 5945-1995
- Độ cứng tổng số (tính theo hàm lượng Ca2+)
Theo kết quả phân tích đo đạc thí nghiệm có thể phân loại nước thải Công
Theo kết quả trong biểu đồ 42 cho thấy pH trong nước thải của Công ty
than Hà Tu đều có tính axít, dao động trong khoảng từ 4,5 ÷ 5,4. Kết quả đo trên
cho thấy, nước thải Công ty Hà Tu chưa đạt tiêu chuẩn (TCVN 5945-1995 giới
hạn B) để thải ra môi trường sử dụng cho nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu,…
ty than Hà Tu:
Phân loại
Nước cứng trung bình
Nước cứng
Nước cứng trung bình
Nước cứng trung bình
Nước mềm
Điểm quan trắc
Moong vỉa 16
Moong vỉa 10
Cống 3 phi
Công trường vỉa 7+8
Cầu đường sắt Tân Lập
Bảng 1.11: Độ cứng trong nước thải Công ty than Hà Tu
(độ cứng tính theo hàm lượng CaCO3)
Ca2+(mg/l)
110
280
125
95
45
Mẫu
M1
M2
M3
M4
M5
tâm khi tiến hành xử lý nước thải.
Hàm lượng Ca2+ trong nước thải Công ty than Hà Tu là yếu tố cần quan
43
- Hàm lượng cặn lơ lửng: Theo tiêu chuẩn TCVN 5945-1995 (giới hạn B)
quy định giới hạn hàm lượng cặn có trong nước thải là 100 mg/l.
BiÓu ®å 4.3: Hµm l−îng cÆn l¬ löng trong c¸c mÉu n−íc th¶i
C«ng ty than Hµ Tu - quý I n¨m 2005
mg/l
120
100
80
61
60
47
40
28
26
16
20
0
Moong vØa 16
Moong vØa 10
Cèng 3 phi
C«ng tr−êng vØa 7+8 C©u ®−êng s¾t T©n
LËp
Gia tri do
TCVN 5945-1995
Nhìn vào kết quả phân tích được thể hiện trong biểu đồ 4.3 ở trên cho
thấy trong nước thải của Công ty than Hà Tu có hàm lượng cặn lơ lửng đạt tiêu
chuẩn cho phép.
* Các chỉ tiêu hóa sinh
- Hàm lượng sắt: Sắt có trong nước thải khai thác than là do quá trình ôxi
hóa của các quặng pirit có trong đất đá của vỉa khai thác.
BiÓu ®å 4.4: Hµm l−îng s¾t trong c¸c mÉu n−íc th¶i
C«ng ty than Hµ Tu
mg/l
6
5
4
3
2
26
61
47
28
1
16
0
Moong vØa 16
Moong vØa 10
Cèng 3 phi
C«ng tr−êng vØa 7+8 C©u ®−êng s¾t T©n
LËp
Gia tri do
TCVN 5945-1995
Theo kết quả phân tích và biểu đồ 4.4 cho thấy hàm lượng Fe có trong
nước thải của Công ty than Hà Tu tại mọi vị trí quan trắc đều thấp và đạt tiêu
chuẩn cho phép, TCVN 5945-1995.
- Hàm lượng Mangan: mangan về tính chất hóa học có nhiều điểm tường
đồng với sắt. Sự có mặt của Mn trong nước với hàm lượng lớn gây ra màu và
44
mùi khó chịu hơn sắt, có thể cảm nhận được ở mức nồng độ 0,1 mg/l. Trong kết
quả phân tích nước thải của Công ty than Hà Tu cho thấy hầu hết đều có hàm
lượng Mn vượt tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5945-1995 giới hạn B).
BiÓu ®å 4.5: Hµm l−îng Mn trong c¸c mÉu n−íc th¶i
C«ng ty than Hµ Tu
mg/l
2.5
2.3
2.15
2.05
1.95
2
1.62
1.5
1
0.5
0
Moong vØa 16
Moong vØa 10
Cèng 3 phi
C«ng tr−êng vØa 7+8 C©u ®−êng s¾t T©n
LËp
Gia tri do
TCVN 5945-1995
Nhìn vào biểu đồ 4.5: Các điểm lấy mẫu đều có kết quả hàm lượng Mn
vượt tiêu chuẩn như sau:
Moong vỉa 16: Hàm lượng Mn đo được là 2,30 mg/l và cao hơn tiêu
chuẩn cho phép là 2,3 lần. Đây cũng là điểm có hàm lượng Mn trong nước thải
cao nhất so với các điểm quan trắc khác của Công ty than Hà Tu.
Moong vỉa 10: Hàm lượng Mn tại đây cao hơn tiêu chuẩn là 2,15 lần.
Cống Ba Phi: Tại đây có hàm lượng Mn cao vượt tiêu chuẩn 1,62 lần.
Công trường vỉa7+8: Hàm lượng Mn đo được cao hơn tiêu chuẩn là 1,95
lần.
Cầu đường sắt Tân Lập: Trong nước của điểm quan trắc này có hàm
lượng Mn là 2,05 mg/l và vượt chỉ tiêu 2,05 lần.
Sự có mặt Mn trong nước thải Công ty than hà Tu cũng góp phần làm
thay đổi màu của nước thải.
- Hàm lượng Crôm: Crôm là nguyên tố phân bố rộng trong vỏ trái đất và tồn
tại chủ yếu ở hai dạng Cr3+, Cr6+ trong nước. Cr (III) là nguyên tố vi lượng cần
thiết cho cơ thể trong quá trình trao đổi chất, còn Cr(VI) lại gây độc cho cơ thể
(với nồng độ 0,1 mg/l đã có tác động lên các vi sinh vật trong nước; nồng độ
0,03 - 0,32 mg/l chúng kìm hãm sự phát triển của tảo). Trong phân tích nước
thải Công ty than Hà Tu hàm lượng Cr6+ có tồn tại, tuy nhiên không có mẫu
nước nào có hàm lượng Cr6+ vượt tiêu chuẩn 5945-1995 giới hạn B đề ra.
- Nhu cầu oxi sinh hoá (BOD5): BOD5 là lượng oxy cần thiết phải cung cấp
để vi sinh vật phân huỷ các chất hữu cơ, và nó phản ánh được hàm lượng chất
45
hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học có trong nước mẫu. Do đó nhu cầu này thường
cao trong các mẫu nước chứa nhiều chất hữu cơ dễ phân huỷ sinh học, nước thải
sinh hoạt và một số ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ. Mặt khác,
BOD5 là một trong những thông số dùng để kiểm soát ô nhiễm, khả năng tự làm
sạch của thuỷ vực.
Qua kết quả phân tích hàm lượng BOD5 (biểu đồ 4.6) cho thấy các mẫu
nước thải trong đợt quan trắc năm 2005 của Công ty than Hà Tu đạt tiêu chuẩn
cho phép. (TCVN 5945-1995 Giới hạn B là 50 mg/l)
BiÓu ®å 4.6: Hµm l−îng BOD5 trong c¸c mÉu n−íc th¶i
C«ng ty than Hµ Tu- quý I/2005
mg/l
60
50
40
30
20
7
10
4
4
3
3
0
Moong vØa 16
Moong vØa 10
Cèng 3 phi
C«ng tr−êng vØa 7+8 C©u ®−êng s¾t T©n
LËp
Gia tri do
TCVN 5945-1995
- Nhu cầu oxi hoá học (COD): COD là lượng oxi cần thiết cho quá trình
oxi hoá hoá học các chất hữu cơ trong mẫu nước thành CO2 và nước. Lượng oxy
này tương đương với hàm lượng chất hữu cơ có thể bị oxi hoá, là đặc trưng cho
lượng chất hữu cơ trong nước thải và sự ô nhiễm nước tự nhiên.
Trong TCVN 5945-1995 Giớiv hạn B quy định giá trị cho phép COD
trong nước thải là 100 mg/l.
Qua biểu đồ 4.7 cho thấy các mẫu nước thải Công ty than Hà Tu có giá trị
COD (nhu cầu oxi hoá học) đều đạt tiêu chuẩn TCVN 5945-1995 (giới hạn B).
46
BiÓu ®å 4.7: Hµm l−îng COD trong c¸c mÉu n−íc th¶i
C«ng ty than Hµ Tu- Quý I/2005
mg/l
120
100
80
60
37
40
18
19
13
13
20
0
Moong vØa 16
Moong vØa 10
Cèng 3 phi
C«ng tr−êng vØa 7+8 C©u ®−êng s¾t T©n
LËp
Gia tri do
TCVN 5945-1995
Mẫu Điểm quan trắc
Các chỉ tiêu phân tích
Cd
(mg/l)
0.0007
0.0018
0.0005
0.0015
0.0004
0.02
Pb
(mg/l)
0.002
0.003
0.001
0.005
0.001
0.5
Hg
(mg/l)
0.0002
0.0003
0.0002
0.0004
0.0002
0.005
As
(mg/l)
0.001
0.002
0.001
0.005
0.004
0.1
Dầu mỡ
(mg/l)
0.13
0.12
0.12
0.11
0.16
1
M1 Moong vỉa 16
M2 Moong vỉa 10
M3 Cống 3 phi
M4 Công trường vỉa 7+8
M5 Cầu đường sắt Tân Lập
TCVN 5945-1995 (giới hạn B)
Bảng 1.12: Hàm lượng Dầu mỡ, các kim loại năng trong nước thải
Hàm lượng các kim loại nặng và Dầu mỡ trong nước thải
- Các kim loại nặng:
Qua kết quả phân tích hàm lượng các kim loại nặng ở bảng 4.4, nhìn
chung, các mẫu nước thải phân tích của Công ty than Hà Tu đều có xuất hiện
kim loại nặng. Tuy nhiên các kết quả đo các mẫu nước thải đều có hàm lượng
kim loại nặng nằm trong giới hạn cho phép của tiêu chuẩn TCVN 5945-1995
(giới hạn B qui định.
- Dầu mỡ khoáng:
Kết quả phân tích hàm lượng dầu mỡ, khoáng trong các mẫu nước thải
của Công ty than Hà Tu - năm 2005 đều đạt tiêu chuẩn môi trường TCVN 5945-
1995 giới hạn B.
* Nước sinh hoạt
+ Các chỉ tiêu vật lý
47
- Độ pH: Để đảm bảo chất lượng nước dùng cho sinh hoạt, giá trị pH của
nước phải nằm trong khoảng 6,5 ÷8,5 (theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế 1329/ 2002/
TCBYT).
Kết quả đo độ pH của hai mẫu nước sinh hoạt của Công ty than Hà Tu
đều đật tiêu chuẩn cho phép.
BiÓu ®å 4.8: Gi¸ trÞ ®é pH trong c¸c mÉu n−íc th¶i
C«ng ty than Hµ Tu- Quý I/2005
mg/l
9
8
7.0
6.7
7
6
5
4
3
2
1
0
Khu vùc x−ëng 2
Khu VP c«ng tr−êng b¬m
Gia tri do
TCBYT 1329/2002-QD-Gh
- Độ đục: Trong tiêu chuẩn nước dùng cho ăn uống của Bộ Y tế TCBYT
1329-/2002- QĐ, độ đục của nước được quy định là 2 NTU
Theo số liệu quan trắc ở biểu đồ 4.9 cho thấy có các mẫu nước sinh hoạt
ở khu vực xưởng 2 và văn phòng Công trường than taị tại đợt quan trắc năm
2005 có độ đục đạt TCBYT 1329/2002-QĐ.
- Độ cứng tổng số (tính theo hàm lượng Ca2+): Độ cứng của nước thường
không coi là chất độc hại vì không gây hại tới sức khoẻ con người nhưng độ
cứng lại tạo ra những hậu quả kinh tế. Khi sử dụng nước cứng cho tắm giặt thì
làm tiêu tốn xà phòng, khi đun nấu tạo ra các màng cứng ảnh hưởng tới sự
truyền nhiệt.
48
BiÓu ®å 4.9: §é ®ôc trong c¸c mÉu n−íc sinh ho¹t
C«ng ty than Hµ Tu- Quý I/2005
NTU
2.5
2
2
1.5
1
1
0.5
0
Khu vùc x−ëng 2
Khu VP c«ng tr−êng b¬m
Gia tri do
TCBYT 1329/2002-QD-Gh
Do đó đối với nước sinh hoạt, tiệu chuẩn Bộ Y tế có một giới hạn xác
định về độ cứng trong nước sinh hoạt là 300 mg/l. Khi phân tích nước sinh hoạt
của Công ty than Hà Tu cho thấy độ cứng tổng số trong cả hai mẫu đạt tiêu
chuẩn cho phép (biểu đồ hình 4.10).
BiÓu ®å 4.10: §é cøng tæng hîp trong c¸c mÉu n−íc sinh ho¹t
C«ng ty than Hµ Tu- Quý I/2005
mg/l
350
300
250
200
150
1052
95
100
50
0
Khu vùc x−ëng 2
Khu VP c«ng tr−êng b¬m
Gia tri do
TCBYT 1329/2002-QD-Gh
Theo số liệu quan trắc ở biểu đồ 4.9 cho thấy có các mẫu nước sinh hoạt
ở khu vực xưởng 2 và văn phòng Công trường than taị tại đợt quan trắc năm
2005 có độ đục đạt TCBYT 1329/2002-QĐ.
- Độ cứng tổng số (tính theo hàm lượng Ca2+): Độ cứng của nước thường
không coi là chất độc hại vì không gây hại tới sức khoẻ con người nhưng độ
cứng lại tạo ra những hậu quả kinh tế. Khi sử dụng nước cứng cho tắm giặt thì
làm tiêu tốn xà phòng, khi đun nấu tạo ra các màng cứng ảnh hưởng tới sự
truyền nhiệt.+ Các chỉ tiêu hoá, sinh.
49
- Hàm lượng các kim loại và phi kim
Bảng 1.13: Hàm lượng một số kim loại và phi kim trong nước sinh hoạt
- (mg/l) Cr 6+ (mg/l)
Mẫu Điểm quan trắc
M1 Khu vực xưởng 2
Mn (mg/l)
0.30
Fe (mg/l)
0.02
NO3
0.15
0.01
M2
0.38
0.001
0.19
0.012
Khu VP công trường
bơm
TCBYT 1329/2002 QĐ
0.5
0.05
50
0.05
- Hàm lượng sắt: Hàm lượng sắt có nhiều trong nước sẽ gây ảnh hưởng
tới mùi vị và màu sắc của nước. Theo tiêu chuẩn 1329/2002- Bộ Y Tế qui định
hàm lượng sắt có trong nước ăn uống là 0,5 mg/l.
Qua phân tích cho thấy cả hai mẫu nước dùng cho sinh hoạt cho công
nhân Công ty đều có hàm lượng sắt nằm trong giới hạn của tiêu chuẩn (bảng
4.5).
- Hàm lượng Mn: Những kết quả nghiên cứu về độc tính của Mn trên cơ
thể động vật trong phòng thí nghiệm chỉ ra rằng với giới hạn nồng độ nhỏ hơn
0,5 mg/l sẽ gây tác hại về thần kinh hay độc tính nào khác. Tuy nhiên sự có mặt
của Mn trong nước với hàm lượng dáng kể gây ra màu mùi khó chịu. Để an
toàn về mùi vị, màu giá trị nồng độ quy định cho nước sinh hoạt của Việt Nam
là 0,5 mg/l (TCBYT 1329/2002 - QĐ). Kết quả phân tích Mn trong hai mẫu
nước sinh hoạt của Công ty than Hà Tu đều có hàm lượng Mn đạt tiêu chuẩn cho
cho phép.
- Hàm lượng Cr6+: Trong nước sinh hoạt của Công ty than Hà Tu hàm
lượng của Cr (VI) là nhỏ và đạt tiểu chuẩn cho phép (TCBYT 1329/2002 cho
phép trong nước sinh hoạt có hàm lượng tối đa là 0,5 mg/l). kết quả phân tích
được trích dẫn trong bảng 4.5 ở trên.
-: Kết quả phân tích hàm lượng của NO3
- trong nước
sinh hoạt Công ty than Hà Tu thu được là rất nhỏ, luôn đạt tiêu chuẩn cho phép
của Bộ Y Tế (bảng 4.5).
- Hàm lượng NO3
+ Các chỉ tiêu kim loại nặng
Mộu Điểm quan trắc
M1
M2
công
As (mg/l) Pb (mg/l)
0.001
0.002
0.001
0.001
Cd (mg/l)
0.0014
0.0004
Hg (mg/l)
0.0002
0.0002
Khu vực xưởng 2
Khu VP
trường bơm
TCBYT 1329/2002 QĐ
0.5
0.01
0.01
0.003
Bảng 1.14: Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong nước sinh hoạt
Các kim loại nặng như chì, áen, cadimi, thuỷ ngân là các nguyên tố rất có
hại cho sức khoẻ của ngưòi sử dụng, nên đối với nước dùng cho sinh hoạt ăn
uống Bộ Y Tế đã có quy định rất nghiêm ngặt về nồng độ các chất này trong
nước. Nhìn vào kết quả phân tích ở bảng 4.6 cho thấy nước sinh hoạt Công ty
50
than Hà Tu có hàm lượng các kim loại nặng trên rất nhỏ và đạt tiêu chuẩn cho
phép của Bộ Y Tế (TCBYT 1329/2002-QĐ).
- Vi sinh vật
BiÓu ®å 4.11: Hµm l−îng Coliform trong c¸c mÉu n−íc sinh ho¹t
C«ng ty than Hµ Tu- n¨m2005
MPN/100ml
12
10
10
8
6
4
4
2
0
Khu vùc x−ëng 2
Khu VP c«ng tr−êng b¬m
Gia tri do
TCBYT 1329/2002-QD-Gh
Theo tiêu chuẩn 1329/2002 - BYT quy định trong nước dùng cho ăn
uống không có Coliform. Tuy nhiên qua kết quả phân tích và qua biểu đồ 4.11
cho thấy: cả hai mẫu nước sinh hoạt đều xuất hiện Coliform.
- Khu vực xưởng 2 là 4 MPN/100ml
- Văn phòng công trường Bơm là 10 MPN/100ml
* Nước mặt
+ Các chỉ tiêu hoá học
- Hàm lượng các kim loại và phi kim trong nước mặt
Mộu Điểm quan trắc
Mn (mg/l)
Fe (mg/l) NO3
Mương nước Trụ Đông
-
(mg/l)
0,22
15
Cr6+
(mg/l)
0,032
0,05
1
TCVN 5942-1995 (Gh B)
2,35
0,8
0,03
2
Bảng 1.15: Hàm lượng một số kim loại và phi kim trong nước mương Trụ Đông
- Hàm lượng sắt: Trong nước mặt của Công ty than Hà Tu qua phân tích
thấy có một hàm lượng nhỏ sắt, kết quả đo là 0,03 mg/l (trích dẫn số liệu quan
trắc bảng 4.7). Tuy nhiên theo TCVN 5942-1995 hàm lượng sắt được phép có
mặt trong nước mặt là 2 mg/l, do đó nước tại Mương Trụ Đông có hàm lượng Fe
đạt tiêu chuẩn cho phép.
- Hàm lượng mangan: Hàm lượng lớn Mn trong nước sẽ làm thay đổi
màu sắc, mùi của nước. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào cho thấy có ảnh
hưởng của Mn tới sự sống của sinh vật thuỷ sinh với hàm lượng Mn bằng 2
51
mg/l. Tiêu chuẩn Việt Nam 5942-1995 quy định hàm lượng Mn có trong nước
mặt 0,8 mg/l. kết quả phân tích nước mặt tại Mương Trụ Đông là 2,35 mg/l vượt
tiêu chuẩn xấp xỉ 2,95 lần
-, Cr6+: Trong nước của Mương Trụ Đông có tồn tại
-, Cr6+ tuy nhiên hàm lượng nhỏ, đạt tiêu chuẩn nước mặt nhỏ 9 TCVN
- Hàm lượng NO3
NO3
5942-1995).
* Hàm lượng các kim loại năng trong nước mặt
- (mg/l) Cr 6+ (mg/l)
Mộu Điểm quan trắc
1
Mn (mg/l) Fe (mg/l)
0.001
0.001
NO3
0.0006
0.0002
Mương nước Trụ
Đông
TCVN 5942-1995 (Gh B)
0.1
0.1
0.02
0.002
Bảng 1.16: Hàm lượng các kim loại nặng trong nước Mương Trụ Đông
Theo theo các kết quả phân tích nước mặt của Công ty than Hà Tu không
có mẫu nước nào có hàm lượng các kim loại nặng Pb, Cd, As, Hg vượt tiêu
chuẩn Việt Nam 5942-1995 quy định.
+ Chỉ tiêu vi sinh trong nước mặt Công ty than Hà Tu
Trong nước mặt chỉ tiêu vi sinh là chỉ thị đánh giá độ nhiễm bẩn chất thải
sinh hoạt và nước thải của một số ngành công nghiệp có nguyên liệu sản xuất
động, thực vật. Coliform là nhóm vi khuẩn đặc trưng cho chỉ tiêu vi sinh vật.
Nếu có sự tồn tại của Coliform dù ở mức độ nhỏ trong nước mặt cũng thể hiện
nước bị nhiễm bẩn, mặc dù số lượng chưa vượt tiêu chuẩn cho phép. Theo kết
quả phân tích trong nước Mương Trụ Đông có số lượng Coliform là 14
MPN/100l cho thấy nước mặt của Công ty than Hà Tu đã bị bẩn bởi vi sinh vật.
Tuy nhiên, khi so sánh với TCVN5942-1995 nước mương Trụ Đông vẫn đạt tiêu
chuẩn của nước mặt, có nghĩa là nước mương Trụ Đông có khả năng tự làm
sạch.
* Kết quả phân tích môi trường mỏ đá Hoàng Mai.
a. Chất lượng môi trường không khí
* Khu vực trong nhà máy (bảng 4.9)
Kết quả
tiêu
Bảng 1.17: Kết quả khảo sát đo đạc không khí khu vực trong nhà máy
TT
Chỉ
phân tích
Đơn vị
đo
TCVN
5937-1995
Bụi lơ lửng mg/m3 0,3
1
mg/m3 0,5
2
SO2
mg/m3 0,4
3 NO2
mg/m3 40
CO
4
90
dBA
Tiếng ồn
5
Mẫu 1 Mẫu 2 Mẫu 3 Mẫu 4 Mẫu 5
0,18
0,12
0,15
8
68
0,48
0,34
0,18
11
80,5
0,22
0,17
0,17
10
70
0,51
0,39
0,21
15
95
0,33
0,33
0,19
13
84
52
Mẫu 1: Tại văn phòng nhà máy;
Mẫu 2: Tại khu vực lò nung cách ống khói chính 100m về phía Đông;
Mẫu 3: Tại cổng đi ra khu mỏ sét cách ống khói 300m về phía Bắc;
Mẫu 4: Tại khu vực trung tâm sản xuất (gần xưởng nghiền than và nghiền xi măng)
Mẫu 5: Tại khu vực nhà đóng bao xi măng (cách kho đóng bao 50m);
- Tại văn phòng nhà máy (Mẫu 1), cổng đi mỏ sét (Mẫu 3) các chỉ tiêu
phản ánh chất lượng mối trường không khí: bụi, độ ồn SO2, NO2, CO đều ở mức
đạt TCVN 5937-1995
- Với các điểm quan trắc khác, 3 chỉ tiêu khí SO2, NO2, CO đều nằm
trong ngưỡng cho phép nhưng bụi và tiếng ồn tại một số điểm cao hơn TCCP, cụ
thể như sau:
Bụi: Khu vực trung tâm nhà máy gần xưởng nghiền than và xưởng nghiền
xi măng (Mẫu 4) có nồng độ bụi lơ lửng vượt TCVN 5937-1995 1,7 lần, khu
vực đóng bao xi măng (Mẫu 5) vượt 1,6 lần, khu vực gần nhà điều khiển cách
ống khói chính 100m về phía đông (Mẫu 2) vượt 1,1 lần.
Tiếng ồn: Khu vực trung tâm sản xuất (gần xưởng nghiền than và xưởng
nghiền xi măng) tại thời điểm lấy mẫu bộ phận nghiền xi măng tận thu đang
hoạt động nên tiếng ồn rất cao (95 dBa) vượt TCCP trong khu vực sản xuất là 5
dBa. Ngoài ra, nồng độ bụi lơ lửng trong khu vực sản xuất của nhà máy cũng
vượt tiêu chuẩn cho phép nhưng phạm vi ô nhiễm cục bộ nên không gây ảnh
hưởng lớn đến môi trường xung quanh.
* Khu vực mỏ (bảng 4.10).
TT
tiêu
Khu vực mỏ đá vôi
Chỉ
phân tích
Đơn vị
đo
Kết quả
Khu vực mỏ sét
Mẫu 6 Mẫu 7 Mẫu 8 Mẫu 9 Mẫu10 Mẫu 11
TCV
N
5937-
1995
0,54
0,26
0,21
17
82
0,29
0,17
0,14
12
78
0,24
0,15
0,11
10
72
0,22
0,18
0,12
9
63
0,28
0,18
0,12
8
68
0,34
0,24
0,17
12
72,5
Bụi lơ lửng mg/m3 0,3
mg/m3 0,5
SO2
mg/m3 0,4
NO2
mg/m3 40
CO
75
dBA
Tiếng ồn
Mẫu 7: Điểm cách trung tâm mỏ sét 300m về phía Đông nam.
Mẫu 8: Điểm cách trung tâm mỏ sét 900m về phía Đông Nam.
Mẫu 9: Tại trung tâm mỏ đá vôi.
Bảng 1.18: Kết quả phân tích các chỉ tiêu tại khu vực mỏ
1
2
3
4
5
Mẫu 6: Tại trung tâm mỏ sét.
Mẫu 10: Điểm cách trung tâm mỏ đá vôi 300m về phía Đông.
Mẫu 11: Điểm cách trung tâm mỏ đá vôi 900m về phía Đông.
53
Nhận xét: Từ kết quả trên cho thấy nồng độ chỉ tiêu khí độc: CO, SO2, NO2 tại
các điểm quan trắc xung quanh trung tâm mỏ đều có giá trị đạt tiêu chuẩn cho
phép quy định trong TCVN 5937-1995; riêng hàm lượng bụi lơ lửng tại trung
tâm 2 khai trường là mỏ sét và mỏ đá vôi vượt 1,13 lần và 1,8 lần, tiếng ồn tại
trung tâm mỏ đá vôi và cách mỏ 300m vượt TCVN 5949-1998 1,1 lần và 1,04
lần.
* Khu vực dân cư (bảng 4.11 và bảng 4.12)
TT
Chỉ tiêu
phân tích
Đơn vị
đo
TCVN
5937-1995
Kết quả
Phía Tây Bắc nhà máy
Mẫu 13
0,16
0,11
0,09
8
63
0,3
0,5
0,4
40
75
1 Bụi lơ lửng mg/m3
mg/m3
2
mg/m3
3
mg/m3
4
dBA
5
Mẫu 12
0,26
0,14
0,15
14
65
Mẫu 14
0,11
SO2
0,10
NO2
0,08
CO
5
62
Tiếng ồn
- Đặc điểm thời tiết: nắng; t0Ckk = 31,20C; W = 67,5%; Vgió = 1,4 m/s
Mẫu 12: Cách ống khói nhà máy 500m về phía Tây Bắc (gần nhà trẻ mần non
đội 14 Quỳnh Vinh). Toạ độ 190 16’ 815’’ độ vĩ Bắc - 1050 42’ 262’’ độ kinh
Đông.
Bảng 1.19: Kết quả phân tích các chỉ tiêu tại khu vực Giáp dân cư phía tây Bắc
nhà máy.
Mẫu 13: Cách ống khói nhà máy 1000m về phía Tây Bắc
Toạ độ 190 16’ 889’’ độ vĩ Bắc - 1050 42’ 161’’ độ kinh Đông
Mẫu 14: Cách ống khói nhà máy 1500m về phía Tây Bắc (đội 7 - Quỳnh Vinh).
Toạ độ 190 16’ 889’’ độ vĩ Bắc - 1050 42’ 161’’ độ kinh Đông.
Nhận xét: Chất lượng môi trường không khí khu vực dân cư xung quanh nhà
máy đều đạt tiêu chuẩn cho phép TCVN 5937-1995, riêng chỉ tiêu tiếng ồn áp
dụng tiêu chuẩn 5949-1998 đối với khu vực công cộng và dân cư.
Bảng 1.20: Kết quả phân tích các chỉ tiêu khu vực phía
Đông Bắc và Đông Nam Nhà máy
Kết quả
tiêu
Phía Đông Bắc nhà máy
TT
Phía Đ.Nam
nhà máy
Chỉ
phân tích
Đơn vị
đo
TCVN
5937-
1995
1
2
3
4
5
Bụi lơ lửng mg/m3 0,3
mg/m3 0,5
SO2
mg/m3 0,4
NO2
mg/m3 40
CO
70
dBA
Tiếng ồn
Mẫu 15 Mẫu 16 Mẫu 17 Mẫu 18
0,26
0,15
0,12
10
72
0,18
0,12
0,11
8
71
0,22
0,19
0,14
12
74
,015
0,11
0,08
8
72
54
Mẫu 16: Cách ống khói 1000m về phía Đông Bắc nhà máy.
Mẫu 15: Cách ống khói 1500m về phía Đông nhà máy.
Mẫu 15: Cách ống khói 1500m về phía Đông Nam nhà máy (gần cầu bưu điện Hoàng
- Đặc điểm thời tiết ngày lấy mẫu thứ 4: Trời nắng; t0Ckk = 29,0C; W = 66,5%;
Mẫu 15: Cách ống khói 500m về phía Đông Bắc nhà máy.
Mai).
Nhận xét:
Qua kết quả quan trắc tại các hướng Tây Bắc, Đông Bắc, Đông Nam của
nhà máy là các khu vực dân cư xung quanh nhà máy cho thấy chất lượng không
khí tại thời điểm quan trắc tại các vị trí trên đều đạt tiêu chuẩn cho phép quy
định trong tiêu chuẩn TCVN 5937-1995.
* Về môi trường nước thải (bảng 4.13)
Bảng 1.21: Kết quả phân tích mẫu nước
Kết quả
TT
Chỉ tiêu
phân tích
PH
DO
SS
Dầu
COD
BOD
Đơn vị
đo
-
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
M1
7,6
3,5
54
0,45
42
20
M2
6,79
4,8
15
0,1
21
14
M3
7,3
5,5
18
KPHT
26
15
M4
6,9
2,8
142
KPHT
110
60
TCVN
5945-1994
5,5 ÷ 9
-
100
1
100
50
1
2
3
4
5
6
Ghi chú:
- M1: Mẫu tại cống thải về phía Tây nhà máy (cuối mương thải).
- M2: Mẫu tại mương thải phía Đông nhà máy.
- M3: Mẫu nước thải sinh hoạt tại khu tập thể công nhân mỏ đá vôi.
- M4: Mẫu nước thải sinh hoạt tại khu B khu nhà tập thể của công nhân nhà máy.
Nhận xét: Kết quả các chỉ tiêu đo được: DO, pH, SS, Dầu đều có giá trị ở
mức thấp so với tiêu chuẩn cho phép TCVN 5945-1995 (cột B). Riêng mẫu
nước thải sinh hoạt của công nhân khu tập thể nhà máy (khu B) hàm lượng
BOD5 vượt TCCP là 1,2 lần và COD vượt tiêu chuẩn cho phép là 1,1 lần.
* Kết quả quan trắc môi trường mỏ đồng Sin Quyền
Mẫu đo và lấy tại các vị trí giữa hai dây truyền tuyển trong xưởng tuyển;
tại máy đập sàng phân xưởng đập sàng; phía trước xưởng; nhà hành chính khu
xưởng tuyển được so sánh với TCVN 3985-1999. Tiêu chuẩn này quy định mức
tiếng ồn cho phép tại các vị trí làm việc trong môi trường lao động của các xí
nghiệp, cơ sở sản xuất và cơ quan chịu ảnh hưởng của tiếng ồn; TCVN
505/BYT so sánh tiêu chuẩn nồng độ bụi (bảng 4.14).
- TCVN 5945-1995: tiêu chuẩn nước thải công nghiệp- cột B được lấy so
sánh với mẫu MN1 (bảng 4.15).
55
- TCVN 5942-1995: tiêu chuẩn nước mặt-cột B được so sánh với mẫu MN2
và
MN3 (bảng 4.16 và 4.17).
Nhận xét:
1. Chất lượng nước:
Mẫu M2 (lấy tại cửa xả) so sánh với TCVN 5945-1995 và 5942-1995 cho
thấy hầu hết các chỉ tiêu đều thấp hơn và nằm trong tiêu chuẩn môi trường cho
phép.
Tại vị trí mẫu M1, M3 (đầu nguồn và cuối nguồn) các chỉ tiêu đều đạt tiêu
chuẩn nước mặt loại B (TCVN 5942).
2. Chất lượng không khí
Các chỉ tiêu tiếng ồn, so sánh với TCVN 3985-1999 và 505/BYT có một
số vị trí vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Các chỉ tiêu đo bụi tại một số điểm (nồng độ TB) đều đạt tiêu chuẩn cho
phép TCVN TC 505/BYT.
Đánh giá quá trình hoạt động của xí nghiệp và các biện pháp giảm thiểu ô
nhiễm môi trường
Năm 2003 qua kiểm tra phân tích cho thấy một số chỉ tiêu kim loại nặng.
Chất rắn lơ lửng vượt chỉ tiêu cho phép. Năm 2004 do đầu tư áp dụng nhiều giải
pháp nên đã khắc phục những chỉ tiêu vượt quá giới hạn cho phép (nâng cấp cải
tạo hồ thải, kết tủa các ion kim loại và lắng đọng nhanh dưới dạng cacbonat khó
tan trong nước, hoá chất sử dụng để kết tủa là vôi). Qua kết quả giám sát đối
chiếu với tiêu chuẩn Việt Nam cho thấy hầu hết các chỉ tiêu đều nằm trong giới
hạn, có một vài chỉ tiêu vượt nhưng không đáng kể.
Trên cơ sở kết quả phân tích các mẫu chỉ tiêu giám sát, xí nghiệp tiếp tục
duy trì các biện pháp đã và đang thực hiện, đồng thời không ngừng tìm thêm
các giải pháp có hiệu quả cao nhằm ổn định và bảo vệ môi trường ngày càng bền
vững.
Riêng về môi trường đất và chất thải rắn. Các mỏ đều không có quan trắc.
Tuy nhiên các số liệu giới thiệu ở bảng là kết quả phân tích môi trường đất ở các
địa điểm đặc trưng của khu mỏ đồng Sin Quyền sau 10 năm có hoạt động khai
thác và chế biến (được thực hiện trong dự án mở rộng cải tạo mỏ) là đặc trưng
cho chất lượng môi trường đất của một mỏ lộ thiên thuộc loại nhậy cảm với các
ô nhiễm môi trường.
Thực hiện nghiêm túc giám sát định kỳ về môi trường theo quyết định phê
chuẩn báo cáo ĐTM.
56
Bảng 1.22: Kết quả quan trắc môi trường không khí
Mẫu MK1 MK2 MK3 MK4
Chỉ tiêu
89,1 76,5 70,9 56,8
Ghi chú: (Thời gian đo: 10h30 ÷ 11h30, nắng đẹp-20/11/2004)
MK1- giữa hai dây truyền tuyển trong xưởng tuyển.
MK2- tại máy đập sàng phân xưởng đập sàng.
MK3- cách 7m trước nhà xưởng.
MK4- tại nhà hành chính khu xưởng tuyển.
Bảng 1.23: Phiếu kết quả phân tích mẫu nước M1
(Cửa xả của cống thải phân xưởng tuyển)
Tiếng ồn, dBA
Bụi, mg/m3 3,1 3,9 2,5 1,5
+
STT Chỉ tiêu phân tích Đơn vị Kết quả
1
PH
2
DO
3
Cặn lơ lửng
4
BOD5
5
COD
-
6
NO2
7
NH4
8
Hg
9
As
Pb
10
11 Cu
12 Cd
13
Zn
14 CN- PH
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l TCVN 5942
A
6-8.5
≥ 6
20
< 4
<10
0.01
1.0
0.001
0.05
0.05
0.1
0.01
1
0.01 B
5.5-9
≥ 2
80
< 25
< 35
0.05
1.0
0.002
0.1
0.1
1
0.02
2
0.05 6.7
7.4
78
38.7
46
0.055
0.984
0.01
0.01
0.016
0.0996
0.014
0.125
0.09
57
(Lấy tại suối Ngòi Phát)
Bảng 1.24: Phiếu kết quả phân tích mẫu nước M2
TCVN 5942 STT Chỉ tiêu phân tích Đơn vị Kết quả
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14 pH
DO
Cặn lơ lửng
BOD5
COD
-
NO2
+
NH4
Hg
As
Pb
Cu
Cd
Zn
CN- pH
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l 6.5
7.5
56
45.06
56.07
0.06
0.993
0.002
0.01
0.018
0.0974
0.018
0.12
0.008 A
6-8.5
≥ 6
20
< 4
<10
0.01
1.0
0.001
0.05
0.05
0.1
0.01
1
0.01 B
5.5-9
≥ 2
80
< 25
< 35
0.05
1.0
0.002
0.1
0.1
1
0.02
2
0.05
Bảng 1.25: Phiếu kết quả phân tích mẫu nước M3
(Lấy tại sau cửa thải phân xưởng tuyển)
STT Chỉ tiêu phân tích Đơn vị Kết quả
1
2
3
4 PH
mg/l
mg/l
mg/l 7.0
7.5
46.7
26.8 TCVN 5942
A
6-8.5
≥ 6
20
< 4 B
5.5-9
≥ 2
80
< 25 PH
DO
Cặn lơ lửng
BOD5
COD
5
-
NO2
6
+
NH4
7
Hg
8
As
9
10
Pb
11 Cu
12 Cd
13
Zn
14 CN- mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l 40
0.04
0.928
0.001
0.04
0.012
0.056
0.01
0.118
0.0072 <10
0.01
1.0
0.001
0.05
0.05
0.1
0.01
1
0.01 < 35
0.05
1.0
0.002
0.1
0.1
1
0.02
2
0.05
58
I.5. Tổng hợp đánh giá thực trạng trình độ công nghệ khai thác trong
mối quan hệ với nhiệm vụ bảo vệ môi trường của 3 mỏ.
I.5.1. Vấn đề chung
Xuất phát điểm từ một nền công nghiệp lạc hậu về phương tiện kỹ thuật,
khó khăn về điều kiện tự nhiên, trì trệ về tư duy quản lý và nghèo nàn về kinh tế,
sau gần 2 thập niên đổi mới, ngành khai thác lộ thiên đã có những bước phát
triển vững vàng trong cơ chế thị trường và đã có những đóng góp quan trọng
vào thu nhập của địa phương và trung ương. Ví dụ, doanh thu từ 1997 ÷ 2004
của tỉnh Kiên Giang từ khai thác khoáng sản là 7.300 tỷ đồng, của Đồng Nai là
2.700 tỷ đồng, của Nghệ An là 925 tỷ đồng. Năm 2003 Bắc Giang có doanh thu
từ khai thác khoáng sản là 29,5 tỷ đồng, Phú Thọ là 62 tỷ đồng, Lâm Đồng năm
2004 đạt 60 tỷ đồng, …Bên cạnh những tác động tích cực của ngành KTLT là
tăng thu nhập GĐP cho đất nước, tạo công ăn việc làm cho hơn 20 vạn người lao
động, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cũng như trình độ dân trí cho cộng
đồng dân cư, đặc biệt là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa (nơi mà phần lớn các mỏ
lộ thiên đều ở đó), …góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước, thì tác động xấu của khai thác lộ thiên đối với môi trường cũng rất
đáng kể và đang trở thành một trong những đối tượng xâm phạm sự ổn định môi
trường được quan tâm nhiều nhất.
Sự phát triển ồ ạt của khai thác lộ thiên (29 mỏ than, 22 mỏ sắt, 12 mỏ
thiếc, 10 mỏ mangan, 8 mỏ chì kẽm, 17 mỏ inmenhit, 37 mỏ đá xi măng, 433
mỏ đá vật liệu xây dựng,…), đặc biệt là một số mỏ tự nhiên, mỏ địa phương, mỏ
khai thác trái phép không chỉ gây những hậu quả xấu tới môi trường mà còn gây
tổn thất tài nguyên lớn, mất trật tự trị an xã hội, làm khó khăn cho công tác quản
lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động khoáng sản.
Tuy nhiên, đối với các mỏ lộ thiên lớn, do Bộ, ngành, Trung ương hoặc
liên doanh nước ngoài quản lý thì tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng
được cải thiện, các hoạt động quan trắc kiểm soát môi trường ngày càng được
cải thiện, các hoạt động quan trắc kiểm soát môi trường dần đi vào nề nếp, ý
thức bảo vệ môi trường của cộng đồng cao hơn và có trách nhiệm hơn. Đạt được
kết quả này một mặt do sự quan tâm đúng mực của các cấp quản lý, mặt khác do
trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ khai thác hiện đại hơn, trình độ chuyên môn,
nhận thức nghề nghiệp và xã hội của người lao động ở bộ phận này cao hơn hẳn
ở các mỏ nhỏ, mỏ địa phương, mỏ tư nhân. Kết quả khảo sát ở các mỏ than Hà
Tu, đá Hoàng Mai, đồng Sin Quyền đã xác nhận kết luận đó.
I.5.2. Đánh giá thực trạng công nghệ và mối quan hệ với bảo vệ môi
trường.
Tiêu chí để đánh giá mối quan hệ giữa công nghệ khai thác và vấn đề bảo
vệ môi trường là công nghệ vận hành phải phù hợp với điều kiện tự nhiên và kỹ
thuật mỏ để tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời tận dụng tối
đa tài nguyên lòng đất. Thiết bị sử dụng hiện đại, hoạt động chắc chắn, có năng
suất cao, ít tiềm ẩn các nguy cơ gây sự cố về an toàn lao động và ô nhiễm môi
59
trường; Công tác bảo vệ môi trường bằng các giải pháp đồng bộ và tiến hành
thường xuyên việc quan trắc giám sát môi trường.
A. Về công nghệ khai thác.
Nhìn chung công nghệ khai thác áp dụng trên các mỏ Hà Tu, Hoàng Mai
và Sin Quyền là phù hợp với điều kiện tự nhiên và kỹ thuật mỏ cụ thể của từng
khoáng sàng.
Với điều kiện của vỉa cắm dốc, cấu tạo phức tạp, nhiều đá kẹp thì HTKT
mà mỏ than Hà Tu đang áp dụng đã cải thiện được chất lượng than nguyên khai,
đơn giản trong việc tổ chức xúc bóc và vận tải trên các tầng than và đất đá, có
điều kiện để nâng cao sản lượng khi cần thiết. Trong những năm gần đây, nhờ
sử dụng đáy mỏ 2 cấp, đào sâu đáy mỏ bằng máy xúc thủy lực gầu ngược mà
mỏ đã tăng được tốc độ đào sâu thì 7 ÷ 8 m/năm lên 12 ÷ 15 m/năm.
Việc sử dụng HTKT có góc nghiêng bờ công tác lớn đã giúp mỏ chủ động
trong việc điều hòa chế độ bóc đất đá, đảm bảo chiều rộng mặt tầng cho thiết bị
xúc bóc và vận tải hoạt động bình thường. Nhờ vậy, hoạt động sản xuất kinh
doanh của mỏ trong những năm qua luôn đạt mức tăng trưởng năm sau cao hơn
năm trước.
Đối với mỏ đá Hoàng Mai, khoáng sàng có dạng núi cao, đủ điều kiện để
đưa thiết bị khai thác và vận tải lên núi thì việc sử dụng HTKT theo lớp bằng và
vận tải trực tiếp là duy nhất đúng. Ưu điểm của HTKT này là an toàn đối với
người và thiết bị, làm việc chắc chắn và có năng suất cao, có khả năng nâng cao
sản lượng khi có yêu cầu. Dễ dàng quản lý và áp dụng các giải pháp bảo vệ môi
trường. Cải thiện tốt điều kiện làm việc cho người lao động.
Mỏ đồng Sin Quyền có cấu tạo phức tạp, thân quặng phân tán thành dạng
mạch với nhiều vỉa có chiều dày khác nhau, sử dụng HTKT có tuyến công tác
dọc theo các mạch quặng sẽ thuận lợi trong việc bóc tách các lớp quặng, đảm
bảo được tỷ lệ làm nghèo và tổn thất quy định. Do mỏ nằm trên sườn núi, nên
việc chuẩn bị được tiến hành bằng hào trong, bán hoàn chỉnh là hợp lý, tuy
nhiên nếu khấu quặng theo phân tầng thì có thể giảm được tỷ lệ tổn thất và làm
nghèo quặng tốt hơn, vì chiều cao xúc chọn lọc của máy xúc thủy lực gầu thuận
nhỏ hơn chiều cao tầng đang sử dụng.
B. Về thiết bị sử dụng.
a. Nhìn chung các thiết bị sử dụng trên ba mỏ đều tương thích với thông
số làm việc của HTKT.
Khâu xúc bốc là khâu quan trọng, quyết định sự hoàn thành sản lượng xúc
bóc của các mỏ. Hiện 3 mỏ, ở mức độ khác nhau, đang sử dụng các thiết bị xúc
bóc tương đối hiện đại. Các máy xúc EKG của mỏ Hà Tu mặc dù đã sử dụng từ
những năm 1960 ÷ 1965, một số đã hết khấu hao, nhưng vẫn phát huy hiệu quả
trên các khai trường, năng suất trung bình hàng năm đạt 700 ÷ 750 ng m3, có
chiếc đạt 1000 ÷ 1100 ng m3/năm. Ưu điểm của các máy xúc EKG chạy điện là
60
có thông số làm việc lớn, lực xúc lớn, chi phí sản xuất thường xuyên nhỏ. Đặc
biệt về mặt môi trường, các máy xúc chạy điện ít phát thải khí độc hại vào
không khí. Các thiết bị xúc bốc khác còn lại của 3 mỏ như máy xúc thủy lực gầu
thuận, máy xúc thủy lực gầu ngược, máy bốc, đều thuộc thế hệ hiện đại, chế tạo
từ các hãng máy mỏ nổi tiếng thế giới như Caterpillar, Komatsu. Riêng các máy
xúc thủy lực của Sin Quyền do Trung Quốc chế tạo chưa được thử nghiệm nên
chưa có kết quả nên chưa có kết luận. Ưu điểm của các máy xúc này là có tính
cơ động cao, năng suất lớn, áp lực lên nền nhỏ, buồng máy kín, ít rung và ít ồn,
vận hành nhẹ nhàng, điều kiện làm việc của người công nhân được cải thiện rõ
rệt, phù hợp với các mỏ khai thác dưới mức thoát nước tự chảy trong việc đào
sâu đáy mỏ (đối với máy xúc thủy lực gầu ngược) và hiệu quả cao trong công
tác chọn lọc khi khấu quặng (đối với máy xúc thủy lực gầu thuận). Nhược điểm
của các thiết bị xúc bóc thủy lực là chi phí sản xuất thường xuyên lớn và về mặt
bảo vệ môi trường, do sử dụng năng lượng điêzen nên trong quá trình làm việc
phát thải nhiều khí độc hại vào không khí.
Tác độ xấu tới môi trường của khâu xúc bóc là phát sinh nhiều bụi trong
quá trình xúc, các máy xúc chạy dầu thì phát thải các chất CO, CO2, NO2, SO2,
HCCHO, CH2CHCHO, … Cả 2 vấn đề này đều chưa được các mỏ quan tâm
đúng mực, để có những giải pháp hạn chế.
b. Khâu chuẩn bị đất đá: bao gồm 2 công đoạn là khoan lỗ mìn và nổ
mìn. Quá trình khoan các lỗ mìn được tiến hành bằng máy khoan xoay cầu và
máy khoan đập xoay. Các máy khoan xoay cầu của mỏ Hà Tu thuộc thế hệ cũ,
năng xuất làm việc thấp, điều kiện lao động của nhân viên vận hành nặng nhọc,
hệ thống lọc bụi kém nên phát sinh nhiều bụi khi khoan, tuy nhiên có ưu điểm là
sử dụng năng lượng điện nên ít phát thải khí độc hại vào môi trường không khí.
Một số máy khoan đập xoay của của Sin Quyền do Trung Quốc phỏng tác theo
kiểu XBU-100G của Nga cũng có nhược điểm tương tự. Các máy khoan còn lại
do các hãng Tamrock, Ingersoll Rand, Atlas Copco chế tạo đều thuộc thế hệ
hiện đại, có năng suất làm việc cao, hệ thống hút bụi tốt, cabin đều khiển kín, ít
ồn và ít rung, các thao tác tháo lắp cần, tra dầu mỡ,… đều được cơ giới hóa và
tự động hóa, điều kiện làm việc của công nhân là khá tốt.
Trong công đoạn nổ mìn, phần lớn các mỏ đều dùng thuốc nổ ANFO và
nhũ tương là các loại thuốc nổ có cân bằng ôxy xấp xỉ không, nên lượng khí thải
độc hại xả vào không khí là ít nhất. Riêng mỏ đồng Sin Quyền vẫn còn dùng
thuốc nổ AD1 là loại thuốc nổ có cân bằng ôxy âm. Về phương tiện nổ, cả ba mỏ
đều tiến hành nổ bãi mìn bằng phương pháp vi sai với kíp điện vi sai, rơle vi sai
hoặc vi sai phi điện nên đã hạn chế được một cách đáng kể bụi, sóng va đập
không khí, sóng chấn động và đá văng. Tồn tại trong công đoạn này là các mỏ
chưa quan tâm đúng mực các giải pháp hỗ trợ nhằm giảm thiểu hơn nữa lượng
bụi xả vào môi trường như tưới nước trước và sau khi nổ mìn, dùng búa nước
hoặc túi nước dập bụi trên miệng lỗ khoan khi nổ mìn,…
c. Khâu vận tải.
61
Tác động gây ô nhiễm môi trường trong khâu vận tải là sự phát thải bụi và
các khí độc hại vào không khí, gây ồn và chấn động nền móng do thiết bị hoạt
động và do chất lượng đường xá.
Trên thực tế, đường xá của 3 mỏ đã được cải thiện rõ rệt. Đường ngoài
mỏ hầu hết đã được bêtông hóa (nhựa hoặc xi măng), đường trong mỏ được rải
cấp phối và lu lèn bằng cơ giới nên khá bằng phẳng. Việc tưới nước mặt đường
được tiến hành thường xuyên trong ca làm việc bằng ô tô chuyên dụng. Độ dốc
dọc của đường của các mỏ đều có giá trị i ≤ 0,06÷0,08. Các thiết bị vận tải của
ba mỏ đều mới, và do các hãng chế tạo máy mỏ truyền thống như BelAZ,
Komatsu, Caterpillar, Volvo, Terex,… sản xuất.
Hầu hết các thiết bị vận tải đều sử dụng năng lượng riêng, nên việc phát
thải các chất độc hại vào môi trường là không tránh khỏi. Đó là hiện tượng
chung không chỉ đối với ngành mỏ mà còn đối với mọi ngành kinh tế khác. Tuy
nhiên do đối tượng vận tải của các mỏ lộ thiên là đất đá, than và quặng, nguồn
phát thải bụi gần như là vô tận nếu không có những biện pháp ngăn ngừa hữu
hiệu. Vì vậy tình trạng phát thải bụi trên các mỏ lộ thiên hiện nay là khá trầm
trọng, nhất là vào mùa hanh khô. Đó cũng là nguyên nhân gây ra một số bệnh
nghề nghiệp cho công nhân mỏ và cộng đồng dân cư lân cận.
d. Khâu thải đá.
Công nghệ đổ thải trên các mỏ Hà Tu, Sin Quyền (mỏ Hoàng Mai không
có đá thải) chủ yếu vẫn là dùng ô tô đổ đất đá theo chu vi bãi thải, dùng máy ủi
để san gạt và đất đá xuống sườn bãi thải. Thiết bị thải trên 2 mỏ Hà Tu và Sin
Quyền là các máy ủi công suất 180 ÷ 250 CV như D85A (Nhật), CAT - D7R
(Mỹ), E 740L, E780L (Thụy Điển),… Bụi phát thải ở bãi thải do quá trình dỡ tải
của ôtô. Máy ủi làm việc gây ồn lớn (85 ÷ 89 dBA) và xả các khí độc hại từ dầu
điêzen. Ngoài ra, về mùa mưa đất đá và bùn thải có thể trôi lấp các sông suối,
dòng chảy, làm hoang hóa hay vùi lấp cây cối ở phần hạ lưu. Mỏ Hà Tu đã phải
thường xuyên nạo vét lòng suối Lộ Phong, đắp đê chắn chân bãi thải, trồng cây
trên sườn dốc bãi thải Nam Lộ Phong. Bải thải đất đá của mỏ Sin Quyền cũng
được đắp đê chắn và đào mương, rãnh thoát nước, đề phòng nước chảy tràn
sườn bãi thải. Đê chắn bãi thải quặng đuôi của nhà máy tuyển cũng đồng thời là
đê giữ nước để phục vụ cho nhà máy sử dụng nước tuần hoàn.
Ở khâu này, nếu các mỏ trang bị thêm hệ thống phun tưới nước cho ô tô
khi dỡ tải thì hiệu quả dập bụi sẽ tốt hơn.
e. Khâu thoát nước mỏ.
Thoát nước mỏ được thực hiện bằng hệ thống mương rãnh xây cố định
trên sườn núi và các tầng (ở phần thoát nước tự chảy) kết hợp với các máy bơm
công suất lớn đặt trên phà nổi ở đáy mỏ (đối với phần thoát nước cưỡng bức của
mỏ Hà Tu).
Thoát nước mỏ là nguyên nhân chủ yếu gây bồi lấp các dòng chảy làm ô
nhiễm đất và nước vùng hạ nguồn bằng sự phát tán các chất độc hại do nước thải
62
hòa tan từ đất đá mỏ. Là nguyên nhân tạo ra các dòng chảy axít đối với các mỏ
có chứa các ôxyt sunfua như mỏ đồng Sin Quyền.
Tuy nhiên, đặc điểm của mỏ Sin Quyền là đá nền chủ yếu là đá vôi và
nước của sông Ngòi Phát có hàm lượng kiềm cao do vậy đã trung hòa được axít
trong nước thải của mỏ, nhờ vậy không xuất hiện các dòng chảy axít trong quá
trình hoạt động.
g. Khâu nghiền đập và tuyển.
Ở mỏ Hoàng Mai, trạm nghiền đập đá được trang bị máy nghiền rotor do
hãng Kruff sản xuất có kích thước cửa vào là 1,2 m, công suất 720 t/h. Đá vào
có kích thước lớn nhất d = 1 m. Ở đây chỉ trang bị hệ thống quạt đẩy bụi mà
không có hệ thống hút bụi. Theo kết quả quan trắc tháng 12/2004 (mẫu K3) thì
chỉ có chỉ tiêu bụi (0,38 mg/m3) là vượt TCVN (0,3 mg/m3) còn các chỉ tiêu
khác thì đều thấp hơn TCVN.
Các thiết bị nghiền đập của nhà máy tuyển của mỏ Sin Quyền gồm 3 máy
nghiền bi MQY-3650, 1 máy nghiền bi MQY-2130 và 1 máy nghiền tĩnh φ
300_6. Nhà máy có hệ thống gió tốt và các thiết bị lọc bụi và hút bụi.
Các tác động môi trường do khâu nghiền sàng gây ra chủ yếu là ồn và bụi.
Tuy nhiên các thiết bị của 2 mỏ này đều mới và hiện đại nên các tác động trên
mặc dù vượt quá mức độ cho phép nhưng là bất khả kháng (không thể cải thiện
thêm).
Tóm lại, Công nghệ khai thác áp dụng trên các mỏ là phù hợp với điều
kiện tự nhiên và kỹ thuật mỏ, các hoạt động của 3 mỏ được vận hành một cách
thuần thục, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các biện pháp bảo vệ
môi trường và vệ sinh an toàn lao động.
Hầu hết các thiết bị sử dụng đều đồng bộ, hiện đại, có trình độ cơ giới hóa
và tự động hóa cao, làm việc chắc chắnvà có năng suất cao. Các ô nhiễm gây ra
do hoạt động của các thiết bị đối với môi trường không phải là bất bình thường
mà là phải chấp nhận.
Công tác bảo vệ môi trường đã được các mỏ quan tâm, đã thực hiện các
phương án bảo vệ môi trường theo đúng thiết kế và đề xuất của báo cáo ĐTM.
Việc giám sát quan trắc môi trường trên 3 mỏ đều được tiến hành đều đặn
và có báo cáo thường kỳ do cơ quan chuyên trách thành lập. Tuy nhiên, tồn tại
trên 3 mỏ là chưa quan tâm đúng mực đến các giải pháp phụ trợ, giải pháp đồng
bộ, để làm tăng hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường; một số giải pháp thực
hiện chưa triệt để, chưa có những cơ chế thưởng phạt rõ ràng để động viên,
khích lệ mọi người tham gia công tác bảo vệ môi trường.
63
CHƯƠNG II:
NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KHOÁNG SẢN
II.1: Luật Khoáng sản (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2005)
Các quy định cơ bản của Luật Khoáng sản [6] tập trung vào các điều
nhằm điều chỉnh các hành vi cụ thể trong hoạt động khoáng sản để đưa chúng
vào trật tự quản lý đồng thời bảo vệ được môi trường.
Về mặt chính sách, Nhà nước ưu đãi, khuyến khích đầu tư đối với các dự
án khai thác khoáng sản gắn liền với chế biến tại chỗ ở vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội khó khăn, các dự án áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, bảo đảm môi
trường, thu hồi tối đa tài nguyên… (khoản 3 - Điều 5). Điều 9, Điều 10 quy định
rõ trách nhiệm bảo vệ tài nguyên khoáng sản đối với các cấp chính quyền, nhân
dân ở địa phương có khoáng sản cũng như đối với các tổ chức, cá nhân được
phép tham gia hoạt động khoáng sản.
Bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản được quy định cụ thể
trong Điều 16:
1. Tổ chức cá nhân được phép hoạt động khoáng sản phải sử dụng công
nghệ, thiết bị, vật liệu và thực hiện các quy định khác của Luật Bảo vệ
môi trường để hạn chế tối đa các tác động xấu đến các thành phần môi
trường, môi sinh và đất đai sau khi kết thúc từng giai đoạn hoặc toàn bộ
hoạt động khoáng sản.
2. Tổ chức, cá nhân được phép hoạt động khoáng sản phải chịu mọi chi phí
bảo vệ, phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai. Chi phí bảo vệ, phục hồi
môi trường, môi sinh và đất đai phải được xác định trong báo cáo đánh
giá tác động môi trường, báo cáo nghiên cứu khả thi về khai thác, chế
biến khoáng sản hoặc đề án thăm dò khoáng sản. Tổ chức, cá nhân được
phép khai thác khoáng sản phải ký quỹ tại một Ngân hàng Việt nam hoặc
Ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam để đảm bảo cho
việc phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai.
Về vấn đề bồi thường thiệt hại do việc sử dụng đất để hoạt động khoáng
sản gây ra được quy định ở khoản 3 Điều 17.
Các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thăm dò khoáng sản có nghĩa vụ
bảo vệ tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn lao động và
vệ sinh lao động trong hoạt động thăm dò (khoản 4 Điều 17).
Về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản được
quy định trong Điều 33 có 2 nội dung liên quan đến trách nhiệm bảo vệ môi
trường (khoản 3 và khoản 9):
64
- Tận thu khoáng sản; bảo vệ tài nguyên khoáng sản; bảo đảm an toàn lao
động và vệ sinh lao động; thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường phù
hợp với báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được chấp thuận.
- Thực hiện việc đóng cửa mỏ, phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai khi
giấy phép khai thác khoáng sản chấm dứt hiệu lực (Quy định này cũng
được nhắc lại trong mục d - khoản 2 - Điều 40).
Trong công tác chế biến khoáng sản, phải áp dụng công nghệ và thực hiện
các biện pháp hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu đến môi trường, môi sinh theo quy
định của pháp luật về bảo vệ môi trường (khoản 3 - Điều 46). Trong khai thác
tận thu, Luật Khoáng sản quy định (Điều 52):
- Bồi thường thiệt hại do hoạt động khai thác gây ra.
- Hạn chế tổn thất tài nguyên khoáng sản và tài nguyên khác; bảo vệ môi
trường, môi sinh và các công trình cơ sở hạ tầng.
- Thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động trong
hoạt động khai thác.
- Thực hiện các quy định về quản lý hành chính, trật tự và an toàn xã hội.
Trong quá trình tham gia hoạt động khoáng sản, các tổ chức, cá nhân có
thể bị các cơ quan nhà nước (Thanh tra chuyên ngành về Khoáng sản) đình chỉ
hoạt động khi có nguy cơ gây ra tai nạn nguy hiểm cho người hoặc tổn thất
nghiêm trọng tài nguyên, môi trường (khoản 3 - Điều 60).
II.2. Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005) [7]
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có nhiều điểm mới so với Luật Bảo vệ
môi trường năm 1993. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có 15 chương (Luật
cũ có 7 chương), đặc biệt có hẳn một chương nói về đánh giá tác động môi
trường (ĐTM). Đó là chương III.
Chính sách bảo vệ môi trường của Nhà nước ta là (Điều 5):
1. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư,
hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường.
2. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, giáo dục kết hợp áp dụng các biện
pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự
giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường.
3. Sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, phát triển năng lượng
sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất
thải.
4. Ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý các cơ
sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu
vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, khu dân
cư.
65
5. Đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư phát triển; đa dạng hóa các nguồn vốn
đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi riêng cho sự nghiệp môi
trường trong ngân sách nhà nước hàng năm.
6. Ưu đãi về đất đai, thuê, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi
trường và các sản phẩm thân thiện với môi trường; kết hợp hài hòa giữa
bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho phát triển.
7. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích nghiên cứu, áp dụng
và chuyển giao các thành tựu khoa học và công nghệ về bảo vệ môi
trường; hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường.
8. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam
kết quốc tế về bảo vệ môi trường; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia
thực hiện hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.
9. Phát triển kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường; tăng cường, nâng cao năng
lực quốc gia về bảo vệ môi trường theo hướng chính quy, hiện đại.
Chương III của Luật Bảo vệ môi trường đề cập riêng tới các luật quy định
trong công tác ĐTM. Công tác ĐTM theo luật mới được chia làm 3 cấp:
- Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) được áp dụng cho các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia;
ngành hoặc lĩnh vực trên quy mô cả nước; cấp tỉnh và thành phố trực
thuộc trung ương, cấp vùng; cho quy hoạch sử dụng đất, bảo vệ và
phát triển rừng, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên
khác trên phạm vi liên tỉnh hay liên vùng; cho quy hoạch phát triển
vùng kinh tế trọng điểm; cho quy hoạch tổng hợp lưu vực sông quy mô
liên tỉnh (Điều 14).
- Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) được áp dụng cho các đối
tượng: Dự án công trình quan trọng quốc gia; dự án có sử dụng một
phần diện tích đất hoặc có ảnh hưởng xấu đến khu bảo tồn thiên nhiên,
vườn quốc gia, các khu di tích lịch sử - văn hóa, di sản tự nhiên, danh
lam thắng cảnh đã được xếp hạng; dự án có nguy cơ ảnh hưởng xấu
đến nguồn nước lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ sinh thái
được bảo vệ; dự án xây dựng mới đô thị, khu dân cư tập trung; dự án
khai thác, sử dụng nước dưới đất, tài nguyên thiên nhiên quy mô lớn;
dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao, khu chế xuất, cụm làng nghề; dự án khác có tiềm ẩn
nguy cơ lớn gây tác động xấu đối với môi trường (Điều 18).
- Cam kết bảo vệ môi trường (CBM) được áp dụng cho các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ quy mô hộ gia đình và các đối tượng khác
không thuộc quy định trong 2 điều: Điều 14 và Điều 18.
66
Bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản tại Điều 44 quy định chi
tiết như sau:
1. Tổ chức, cá nhân khi tiến hành thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản
phải có biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và thực hiện các
yêu cầu về bảo vệ, phục hồi môi trường sau đây:
a) Thu gom, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
b) Thu gom, xử lý chất thải rắn theo quy định về quản lý chất thải rắn
thông thường; trường hợp chất thải có yếu tố nguy hại thì quản lý
theo quy định về quản lý chất thải nguy hại.
c) Có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế việc phát tán bụi, khí thải độc hại
ra môi trường xung quanh.
d) Phục hồi môi trường sau khi kết thúc hoạt động thăm dò, khai thác,
chế biến khoáng sản.
2. Khoáng sản phải được lưu giữ, vận chuyển bằng các thiết bị chuyên dụng,
được che chắn, chống phát tán ra môi trường.
3. Việc sử dụng máy móc, thiết bị, hóa chất độc hại trong thăm dò, khảo sát,
khai thác, chế biến khoáng sản phải có chứng chỉ kỹ thuật và chịu sự kiểm
tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
4. Việc khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, khoáng sản có chứa
nguyên tố phóng xạ, chất độc hại phải tuân thủ các quy định về an toàn
hóa chất, an toàn hạt nhân, bức xạ và các quy định khác về bảo vệ môi
trường.
5. Bộ Công nghiệp chủ trì phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc chính phủ và UBND cấp tỉnh có liên quan chỉ đạo việc thống kê
nguồn thải, đánh giá mức độ gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở khai
thác, chế biến khoáng sản; tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về
bảo vệ môi trường của các cơ sở này.
II.3 Các văn bản dưới luật có liên quan đến bảo vệ môi trường trong hoạt
động khai thác khoáng sản
- Nghị định số 160/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính
phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn chi tiết Luật Khoáng sản và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản.
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ
về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo
vệ môi trường;
- Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài
nguyên và Môi trường;
67
- Nghị định số 137/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 06 năm 2003 của Chính
phủ về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản.
- Nghị định số 81/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng8 năm 2006 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường.
- Thông tư liên tịch 126/1999/TTLT-BTC-BCN-BKHCNMT ngày 22
tháng 10 năm 1999 của liên bộ Tài chính - Công nghiệp - Khoa học, Công
nghệ và Môi trường về hướng dẫn việc ký quỹ để phục hồi môi trường
trong khai thác khoáng sản.
- Thông tư 01/2006/TT-BTNMT ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung của
Nghị định số 160/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Khoáng sản
- Thông tư số 02/TT-MTG ngày 29 tháng 12 năm 1995 do Bộ KHCNMT
về khí xả và độ ồn của các phương tiện giao thông vận tải.
Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 25 tháng 6 năm 2002 của Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc ban hành 31 Tiêu chuẩn
II.4. Tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và Luật Khoáng sản.
II.4.1 Tình hình chung.
Các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi cả nước đều
có hoạt động khai thác khoáng sản với quy mô khác nhau. ở một số địa phương,
hoạt động khai thác khoáng sản đã góp phần tăng trưởng kinh tế như ở tỉnh Kiên
Giang, Đồng Nai, Nghệ An,…Từ năm 1997 đến năm 2004, sản phẩm từ ngành
khai khoáng tỉnh Kiên Giang đạt doanh thu khoảng 7.300 tỷ đồng, nộp ngân
sách khoảng 1.200 tỷ đồng (không kể Công ty liên doanh Xi măng Holcim Việt
Nam); tỉnh Đồng Nai đạt doanh thu khoảng 2.700 tỷ đồng, nộp ngân sách
khoảng 200 tỷ đồng; tỉnh Nghệ An đạt doanh thu khoảng 925 tỷ đồng, nộp ngân
sách khoảng 46 tỷ đồng; năm 2003, ngành khai khoáng của Bắc Giang đạt giá trị
sản lượng 29,5 tỷ đồng, tỉnh Phú Thọ đạt giá trị sản lượng 62 tỷ đồng; năm 2004
tỉnh Lâm Đồng đạt doanh thu hơn 60 tỷ đồng,… Tuy nhiên, qua kiểm tra thấy
rằng hoạt động khai thác khoáng sản ở địa phương còn chưa được quan tâm đầy
đủ theo quy định của pháp luật, trong đó có việc thực hiện pháp luật về bảo vệ
môi trường trong khai thác khoáng sản của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động khoáng sản.
Theo kết quả kiểm tra hoạt động khai thác khoáng sản từ tháng 4 năm
2004 đến tháng 7 năm 2005 đối với các tổ chức, cá nhân được cấp phép trên địa
bàn 9 tỉnh với 67 khu vực khai thác hoặc khai thác tận thu, trong đó số khu vực
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 09, Phú Thọ 06, Bắc Giang 02, Kiên Giang 05,
68
Đồng Nai 15, Bắc Kạn 10, Hà Giang 08, Lâm Đồng 04, Nghệ An 08 có thể khái
quát như sau:
- Theo quy định tại mục I.3 của Thông tư số 490/1998/TT-BKHCNMT
ngày 29 tháng 4 năm 1998 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc
hướng dẫn lập và thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các
dự án đầu tư quy định: Quyết định phê chuẩn Báo cáo đánh giá tác động môi
trường hoặc Phiếu xác nhận Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường là căn cứ
pháp lý về mặt môi trường để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và
cho phép dự án thực hiện các bước tiếp theo. Tuy nhiên, trong số 67 khu vực
được kiểm tra có:
+ 47 khu vực có báo cáo ĐTM hoặc Phiếu xác nhận Bản đăng ký đạt tiêu
chuẩn môi trường theo quy định, trong đó có 03 khu vực đã khai thác vượt sản
lượng quy định tại giấy phép nhưng không điều chỉnh báo cáo ĐTM.
+ 20 khu vực chưa có Bản đăng ký hoặc có nhưng chưa đúng quy định
(Thanh Hóa 06, Bắc Giang 01, Hà Giang 06, Lâm Đồng 01 và 06 khu vực thuộc
tỉnh Nghệ An có Bản kê khai các hoạt động ảnh hưởng đến môi trường, chưa
đúng quy định của Thông tư nêu trên).
+ Một số khu vực khoáng sản tập trung, có nhiều đơn vị tham gia khai
thác nhưng các báo cáo ĐTM hoặc Bản đăng ký lập riêng rẽ không gắn với tổng
thể khu vực chung (mỏ crômit Thanh Hóa, mỏ granit làm vật liệu xây dựng
thông thường tại Hòn Sóc, xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang).
- Việc thực hiện nội dung ĐTM hoặc Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi
trường trong khai thác khoáng sản:
Một số khu vực đang hoạt động khai thác, khai thác tận thu có ĐTM hoặc
Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường nhưng chưa thực hiện các nội dung đã
được phê duyệt hoặc đăng ký, như việc không thực hiện các biện pháp giảm
thiểu ảnh hưởng đến môi trường về nước thải, tiếng ồn, bụi, trồng cây xanh và
quan trắc giám sát môi trường hàng năm. Cụ thể là:
+ 15 khu vực có quan trắc giám sát đúng quy định 6 tháng/lần (Đồng Nai:
13, Kiên Giang: 01, Bắc Cạn: 01).
+ 09 khu vực được quan trắc giám sát chưa đúng quy định, thực hiện 01
năm/lần (Kiên Giang: 02, Bắc Kạn: 06, Nghệ An: 01).
+ 41 khu vực không thực hiện (Thanh Hóa: 09, Phú Thọ: 05, Bắc Giang:
01, Kiên Giang: 02, Đồng Nai: 02, Bắc Cạn: 03, Hà Giang: 08, Lâm Đồng: 04,
Nghệ An: 07).
+ 02 khu vực mới cấp giấy phép, chưa đến chu kỳ quan trắc (Bắc Giang
01, Phú Thọ 01).
69
+ Các đơn vị khai thác và tuyển quặng (thiếc - Nghệ An, mangan - Hà
Giang, tuyển quặng chì kẽm - Bắc Kạn) có nước thải ra môi trường đều chưa
nộp phí nước thải.
Hầu hết các diện tích đã tiến hành khai thác xong đều không được san ủi
hoàn toàn trả mặt bằng kịp thời, làm ảnh hưởng cảnh quan và an toàn cho khu
vực.
- Về việc ký quỹ phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản: ngày
22 tháng 10 năm 1999 Bộ Tài chính - Công nghiệp - Khoa học, công nghệ và
hướng dẫn việc ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản. Tuy
nhiên, qua kiểm tra mới chỉ có 02 tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng ban hành hướng
dẫn ký quỹ môi trường trong khai thác khoáng sản và yêu cầu các tổ chức, cá
nhân nghiêm túc thực hiện. Trong số 67 khu vực nêu trên có:
+ 13 khu vực chưa được ký quỹ phục hồi môi trường theo quy định (Đồng
Nai: 08, Lâm Đồng: 03, Nghệ An: 02).
+ 54 khu vực chưa được ký quỹ phục hồi môi trường trong khai thác
khoáng sản (Thanh Hóa: 09, Phú Thọ: 06, Bắc Giang: 02, Kiên Giang: 05, Đồng
Nai: 07, Bắc Kạn: 10, Hà Giang: 08, Lâm Đồng: 01, Nghệ An: 06).
+ Về công tác thanh tra, kiểm tra nội dung bảo vệ môi trường trong khai
thác khoáng sản đối với các tổ chức cá nhân được cấp phép mới chỉ có tỉnh
Đồng Nai thực hiện, tuy nhiên mức phạt còn nhẹ so với hành vi tái phạm về môi
trường.
Qua một số nội dung nêu trên, cho thấy trong thời gian qua việc thực hiện
các quy định của pháp luật về môi trường trong khai thác khoáng sản chưa được
các địa phương quan tâm đúng mức, nhiều địa phương chậm triển khai và hướng
dẫn thực hiện. Quá trình thẩm định và cấp phép khai thác chủ yếu quan tâm tới
báo cáo ĐTM; chưa quan tâm đến Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường dẫn
đến nhiều khu vực hoạt động khai thác, đặc biệt là khai thác tận thu còn thiếu
nội dung này. Một số tổ chức, cá nhân không thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật về khoáng sản và pháp luật về môi trường; công tác quản lý
nhà nước chưa có biện pháp đồng bộ, thống nhất; công tác thanh tra, kiểm tra
quan tâm phát hiện các vi phạm về bảo vệ môi trường và đề xuất kịp thời.
II.4.2. Tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và Luật Khoáng sản
trên 3 mỏ khảo sát điển hình.
Mỏ Hà Tu là một trong 5 mỏ than lớn của TKV. Sản lượng năm 2004 đạt
được: than nguyên khai 1700 ngàn tấn và đất đá là 13 triệu m3; Năm 2005 tương
ứng là 2000 ngàn tấn và đất là 17 triệu m3.
Hà Tu là một mỏ lộ thiên tồn tại từ lâu (1950), được đầu tư cải tạo lần thứ
nhất vào năm 1960 và đầu tư bổ sung hiện đại hóa từ năm 1990 tới nay. Công
nghệ khai thác của mỏ là khoan nổ - xúc bóc - vận tải - đổ thải và chất kho với
70
đồng bộ thiết bị là máy khoan XBS - 250MN, PENTERA 1100, máy xúc EKG -
5A máy ủi D85 - A và ô tô BelAZ - 7522, Volvo A35C, HD - 320,… Mỏ được
vận hành bởi một đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý cao và trình độ chuyên môn
giỏi, nhiều kinh nghiệm, theo quy hoạch phát triển do cơ quan thiết kế chuyên
ngành (Công ty TVĐT Mỏ và Công nghiệp) xây dựng. Vị trí của mỏ thuộc địa
bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh với diện tích quản lý khoáng sản rộng
7.106 m2.
Mỏ đá Hoàng Mai thuộc Công ty Xi măng Hoàng Mai có công suất thiết
kế 1,4 triệu tấn xi măng/năm với công nghệ lò quay liên tục, sản xuất theo
phương pháp khô, trình độ công nghệ hiện đại và tiên tiến do hãng FCB Cộng
hòa Pháp cung cấp và chuyển giao công nghệ. Đá vôi được khai thác bằng
phương pháp khoan nổ mìn (nổ mìn bằng phương pháp phi điện), xúc lên xe ô tô
chuyển về trạm đập, sau đó được chuyển về kho của nhà máy nhờ hệ thống băng
tải có chiều dài 2,6 km, có nắp đậy. Trữ lượng: 132.646.000 tấn dự kiến khai
thác trong 75 năm đến cốt +10. Công suất thiết kế: 1.587.600 tấn/năm. Vị trí và
diện tích mỏ: Mỏ đá Hoàng Mai (B) nằm cách nhà máy 2,6 km về phía Đông
Bắc, mỏ nằm theo hướng Bắc Nam có diện tích 120 ha, phía Nam thuộc địa bàn
xã Quỳnh Thiện - Quỳnh Lưu - Nghệ An, phía Bắc thuộc huyện Tĩnh Gia tỉnh
Thanh Hóa.
Mỏ đồng Sin Quyền nằm ở địa phận huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai, do Công
ty khoáng sản Việt Nam kết hợp với Viện Nghiên cứu thiết kế kim loại mầu Bắc
Kinh (TQ) lập dự án. Diện tích khai trường 739.200 m2. Diện tích toàn bộ của
Tổ hợp mỏ - tuyển là 2.834 ngm2. Trữ lượng 9.451.000 tấn quặng và 58.755.000
tấn đất đá. Hàm lượng trung bình của quặng 1,13% Cu. Sản lượng quặng hàng
năm 1.180 ÷ 1.200 ngt/năm với gần 8.200 ngt đất đá phải bóc. Công nghệ khai
thác là khoan nổ - xúc bóc - vận tải - thải và tuyển.
Nằm trong địa phận mỏ có xí nghiệp Liên doanh Đồng Lào Cai, hoạt
động với sản lượng 70.000 t/năm quặng giàu có hàm lượng tới 1,59% Cu, tồn tại
từ năm 1992 và đóng cửa mỏ vào tháng 12 năm 2005 với trữ lượng được giao là
630 ngtấn.
Thiết bị sử dụng của mỏ đồng Sin Quyền bao gồm máy khoan xoay cầu
d =160 ÷ 250 mm, máy khoan đập xoay d = 105 mm, máy xúc thủy lực gầu
thuận E = 4 m3, máy xúc thủy lực gầu ngược E = 1,5 m3, ôtô tải trọng 18 ÷ 32
tấn và nhà máy tuyển công suất 3.500 tấn/ngày với sản phẩm đầu ra (quặng tinh)
có hàm lượng 20÷ 25% Cu. Toàn bộ trang thiết bị mỏ và tuyển do Trung Quốc
sản xuất.
Nằm trong xu thế chung của ngành hoạt động khoáng sản, các mỏ Hà Tu,
Hoàng Mai, Sin Quyền đã và đang vận hành mọi hoạt động của mình một cách
ổn định, chắc chắn và tuân thủ theo đúng những Luật định liên quan.
Về mặt công nghệ, các mỏ đều tiến hành khai thác theo đúng thiết kế. Các
thông số cơ bản của hệ thống khai thác luôn được bảo đảm hướng phát triển
71
công trình mỏ được tuân thủ một cách nghiêm túc, thiết bị sử dụng được đầu tư
bổ sung và đổi mới để ngày một hiện đại. Việc thực hiện các khâu công nghệ về
cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu của các quy phạm, các nghị định,… và
các văn bản pháp quy khác dưới luật. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng
trưởng không ngừng về mọi mặt của các mỏ lộ thiên trong những năm qua.
Về công tác bảo vệ môi trường, các mỏ đều đã có tiến hành ĐTM (Hà Tu
- 1998. Hoàng Mai - 2002, Sin Quyền - 1999). Đã có những giải pháp ngăn
chặn, hạn chế các tác động xấu của hoạt động khai thác tới môi trường như sử
dụng chất nổ có cân bằng ôxy bằng không, sử dụng phương pháp nổ visai phi
điện, phun tưới nước cho đường vận tải, che chắn thùng xe khi chạy qua khu dân
cư, trồng cây xanh ngăn bụi, phủ xanh bề mặt và sườn dốc bãi thải ngừng hoạt
động, xây dựng bể lắng cặn cứng, xử lý trung hòa axít nước thải, xây kè chắn và
đập ngăn chống trôi lấp,…
Về công tác quản lý, quan trắc môi trường - cả 3 mỏ đều có cán bộ
chuyên trách theo dõi quản lý môi trường, việc quan trắc môi trường được tiến
hành đều đặn theo định kỳ: Hà Tu - 3 tháng/lần, Hoàng Mai - 4 tháng/lần và Sin
Quyền - 12 tháng/lần. Nội dung quan trắc đối với Hà Tu là nước thải, nước sinh
hoạt, nước mặt và không khí; đối với Hoàng Mai là nước thải, nước sinh hoạt,
không khí, ồn và an toàn - vệ sinh lao động; đối với Sin Quyền là chất lượng
nước.
Những tồn tại chung ở 3 mỏ là: Trong khâu khoan nổ mìn, chưa quan tâm
đúng mức tới các giải pháp hỗ trợ như sử dụng bua nước, hoặc dùng túi nước
dập bụi đặt trên miệng lỗ khoan, tưới nước trước và sau khi nổ mìn; Trong khâu
xúc bốc, việc sử dụng máy xúc chạy điêzen cũng đồng nghĩa với việc phát thải
thêm vào môi trường các chất CO, CO2, NO2, SO2, HCCHO, CH2CHCHO,…
việc dập bụi trong quá trình xúc cũng chưa được quan tâm; Trong khâu vận tải
việc giải quyết tận gốc các nguồn phát thải bụi chưa được thực hiện triệt để như
chưa che chắn kín và rửa sạch các phương tiện vận chuyển khi hòa mạng với
đường giao thông công cộng, đường vận tải chưa được trải thảm (bê tông atphan
hoặc xi măng) toàn bộ, chưa tiến hành vệ sinh và phun nước thường xuyên, chưa
quan tâm tới việc lựa chọn nhiên liệu sử dụng có chỉ số Octane và Cetane cao
hơn, …; Trong khâu đổ thải, nhìn chung các mỏ còn để xẩy ra hiện tượng trôi
dạt đất đá, bùn cát làm hoang hóa đất trồng, làm cạn dòng chảy các mương suối
hạ nguồn.
Về việc ký quỹ môi trường, mặc dù trong các báo cáo ĐTM xây dự trước
đây đều có cam kết ký quỹ môi trường khi đưa dự án vào thực hiện, nhưng cho
tới nay vẫn chưa có mỏ nào chấp hành nghiêm túc.
Công tác tập huấn, giáo dục truyền thông về môi trường và bảo vệ môi
trường nhìn chung chưa được coi trọng và chưa mỏ nào thực hiện được.
Tóm lại:
72
1. Các mỏ đã thực hiện đúng những yêu cầu cơ bản của Luật Bảo vệ môi
trường và Luật Khoáng sản trong quá trình hoạt động khoáng sản của mình,
mặc dù còn tồn tại không lớn trong từng khâu công nghệ như đã nêu trên.
2. Để tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường trong khai thác chế biến khoáng sản, kiến nghị:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường các bộ ngành có hoạt động khoáng sản và
UBND các tỉnh cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về tài nguyên khoáng sản tăng cường công tác đào tạo quản lý nhà nước,
nhất là công tác kiểm tra - thanh tra về môi trường trong hoạt động khoáng sản.
- Trên cơ sở các luật và văn bản pháp quy dưới luật, các bộ ngành có hoạt
động khoáng sản và UBND các tỉnh (thông qua Sở Tài nguyên và Môi trường)
cần có các quy định chi tiết về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong hoạt
động khoáng sản cho các đơn vị, cá nhân hoạt động khoáng sản thuộc mình
quản lý.
73
CHƯƠNG III:
ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA KHAI THÁC LỘ
THIÊN TỚI CÁC THÀNH PHẦN CỦA MÔI TRƯỜNG.
III.1. Phân loại tác hại của khai thác lộ thiên.
Suy giảm môi trường là hậu quả của tợp hợp nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân trực tiếp và cũng có nguyên nhân gián tiếp gây tác hại. Ví dụ
mở khai trường và đổ thải làm thay đổi địa mạo khu vực và xâm phạm thảm
thực vật hoặc diện tích canh tác, nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân gián tiếp
làm suy giảm môi trường thủy văn và môi trường không khí. Nước mưa và lũ sẽ
không gây tác hại lớn nếu không có sự công hưởng của sự biến đổi thủy lực
dòng chảy, sự thay đổi của địa mạo do khoảng trống khai thác, do đất đá đổ thải.
Những tác hại gây ra do khai thác lộ thiên làm suy giảm môi trường khu vực có
nhiều dạng khác nhau và mức độ ảnh hưởng cũng khác nhau. Theo bản chất lý
hóa của chúng có thể phân theo 5 dạng:
1. Các tại hại có tính địa cơ học như làm biến đổi địa hình mặt đất, biến
đổi cấu trúc địa chất mỏ, làm bùng nền, biến đổi nền móng, tạo nên vùng đất sa
mạc hóa, phá hủy cây cối và lớp phủ rừng,… Nguyên nhân là do xây dựng khai
trường, đổ đất đá thải và xây dựng các công trình mỏ khác, do tác động của các
thiết bị nặng khi hoạt động,…
2. Các tác hại có tính thủy văn như làm thay đổi mực nước ngầm và sự
vận động của nó, làm hỏng chất lượng nước ở tầng chứa nước tương đối nông
cũng như hệ số ổn định thủy văn của nền móng và chế độ nước trong nền; giảm
thiểu trữ lượng nước ngầm, gây hiện tượng rắn cơ học của đất, biến đổi hình thái
động lực của sông suối, thay đổi diện tích và dình dạng bồn thu nước đầu nguồn,
thay đổi lưu lượng nước trên các sông suối, gây nạn bồi cát ở sông,… Nguyên
nhân là do tháo và thoát nước mỏ, tháo khô khoáng sàng, di chuyển hồ chứa
nước và các công trình thủy khác, xây dựng các công trình khai thác, đổ thải đất
đá.
3. Các tác hại có tính hóa học như làm biến đổi các thành phần hóa học
và đặc tính của khí trời, của nước, của nền đất (gây chua, mặn, các thành phần
có hại cho thực vật,…). Nguyên nhân là do khí thải của nổ mìn, của các thiết bị
mỏ thải ra khi hoạt động, do xả bụi có hoạt tính hóa học, do thải nước bẩn từ mỏ
ra,…
4. Các tác hại có tính cơ lý như làm biến đổi các thành phần cơ học và
đặc tính lý học của nước và không khí, biến đổi đặc tính nền mòng, tính chất cơ
lý của đất đá, thay đổi lòng sông suối,… Nguyên nhân là do xả bụi, khói, tháo
nước và cặn bẩn từ mỏ ra, do các hoạt động của khai thác mỏ.
5. Các tác hại có tính nhiệt như làm biến đổi vi khí hậu, biến đổi quá trình
sinh hóa trong nước,… Nguyên nhân là do làm bẩn không khí trong quá trình nổ
mìn, do các thiết bị tỏa nhiệt khi hoạt động, do khoảng trống khai thác có độ sâu
lớn và thông gió không tốt,…
74
Theo cách phân loại trên thì khâu khoan nổ mìn gây ra tác hại tương đối
lớn về địa cơ học và hóa học. Khoan nổ mìn gây chấn động đối với độ ổn định
nền móng. Khối lượng một lần nổ cho một máy xúc 15 m3 làm việc trong 10
ngày là 12 tấn thuốc nổ thì sóng địa chất có thể lan truyền và làm chấn động nền
móng công trình trên khoảng cách 2 ÷ 3 km. Với khối lượng chất nổ mà ngành
mỏ nước ta phải dùng là 17.000 ÷ 20.000 t/năm thì hàng năm xả vào khí quyển
khoảng hơn 30 triệu m3 khí các loại.
Khâu xúc bốc trực tiếp tạo ra khoảng trống khai thác, gây mất ổn định các
bờ dốc, xâm phạm tới diện tích thảm thực vật và phần nào tạo tiền đề cho xói lở,
bồi lấp làm thay đổi địa mạo khu vực, do vậy có thể coi khâu này gây ra các tác
hại có tính địa cơ học. Ngoài ra khâu xúc bóc còn tạo nên các đáy moong sâu,
gây thất thoát nước ngầm, làm ảnh hường phần nào đến sự biến đổi dòng chảy
của hệ nước mặt,…Đó là tác hại có tính thủy văn.
Khâu đổ thải là khâu có ảnh hưởng mạnh nhất đối với tác hại có tính địa
cơ. Hơn nửa tỷ m3 đá thải từ các mỏ lộ thiên lớn của nước ta đã làm chèn lấp
hàng chục ngàn hecta diện tích đất đai trồng trọt và rừng cây. Đổ thải còn tạo
tiền đề cho sự gia tăng tác hại cộng hưởng của nước mưa, lũ, gây bồi lấp, xói lở
và sa mạc hóa khu vực hạ nguồn. Tác hại của khâu đổ thải còn mang tính thủy
văn - làm thay đổi diện tích bồn thu nước, thay đổi dòng chảy và động lực dòng
chảy.
Khâu thoát nước trên mỏ lộ thiên bao gồm thoát nước mặt, nước mưa,
nước ngầm. Các dòng chảy này là nguyên nhân bồi lấp sông suối, gây sự thay
đổi phần nào các đặc tính cơ lý và thành phần hóa học của nước hạ nguồn, là
nguyên nhân của hiện tượng hoang hóa đất đai hạ nguồn.
Tác hại có tính cơ lý xẩy ra không nghiêm trọng lắm, sự biến đổi thành
phần cơ học và đặc tính lý học của môi trường không khí và nước do xả bụi khi
khoan, khi xúc và khi vận tải, do khói và nước cặn bã từ mỏ tháo ra,… nhìn
chung không nhiều.
Về mặt ô nhiễm môi trường gây ra do các hoạt động khai thác lộ thiên
phân thành hai dạng chính là ô nhiễm hóa học và ô nhiễm cơ học.
Ô nhiễm hóa học là một trong những hiện tượng nguy hiểm, nó hủy hoại
môi trường âm ỉ và lâu dài. Ô nhiễm có thể gây ra cho nước mặt do chất bẩn thải
từ các mỏ lộ thiên, cho nước ngầm qua sự thẩm thấu, bay vào không khí hoặc
làm ô nhiễm đất đai. Hầu hết các thành phần ô nhiễm hóa học đều phát sinh ra
do ôxy hóa các khoáng vật và kim loại nằm trong nguyên khối hoặc ngập nước,
các phản ứng ôxy hóa các khoáng vật và kim loại nằm trong nguyên khối hoặc
ngập nước, các phản ứng ôxy hóa khó sảy ra hoặc sẩy ra rất chậm chạp. Sau khi
khai thác chúng được tiếp xúc với không khí, mưa, nắng, …tạo điều kiện cho
các phản ứng ôxy hóa diễn biến nhanh hơn. Một số các khoáng sản có chứa
sunphua như than, pyrit, chalcopyrit,… sau khi khai thác, gặp nước thì phát thải
75
axit sunphuric, rất độc hại. Ô nhiễm không khí do há học cũng có thể bắt nguồn
từ sự bay hơi của hóa chất, ví dụ như thủy ngân, xianua.
Ô nhiễm cơ học là dạng ô nhiễm dễ nhận biết như gây chất bẩn lơ lửng
trong nước, gây bụi, bào mòn đất đai, sụt lở hoặc trôi lấp,… dẫn đến làm nhiễm
bẩn nước, phá hủy hệ sinh thái, hư hại nền móng, ô nhiễm không khí,… Ô
nhiễm sinh học do khai thác lộ thiên gây ra có ở hầu hết các khâu trong dây
chuyền sản xuất trong mỏ: từ khoan, nổ mìn đến xúc, vận tải, đổ thải và thoát
nước mỏ.
Ngoài hai dạng ô nhiễm cơ bản trên, còn có một dạng ô nhiễm thứ ba - ô
nhiễm vật lý. Ô nhiễm vật lý không sẩy ra liên tục mà chỉ sẩy ra trong từng thời
đoạn và ít nguy hiểm như các chấn động địa chất, va đập không khí khi nổ mìn,
tiếng ồn, tiếng động lớn khi máy xúc cắt đất đá, khi ôtô dỡ tải, khi nổ mìn,…
III.2. Các hoạt động gây ô nhiễm từ các mỏ lộ thiên.
1. Khoan các lỗ mìn: gây ồn, phát thải bụi và khí độc hại (từ nhiên liệu
điezen) vào không khí.
2. Nổ chất nổ: gây bụi, phát thải khí độc, gây chấn động mặt đất, tạo các
sóng va đập không khí, gây tiếng động lớn.
3. Xúc bóc: gây ồn, phát thải bụi vào không khí, tạo các bề mặt thoáng để
đất đá và quặng tiếp tục với không khí, mưa, nắng, tạo điều kiện để các phản
ứng ôxy hóa xẩy ra nhanh chóng, dẫn đến sự phát thải các chất độc hại vào
nước, đất và không khí. Nếu là máy xúc chạy điêzen thì ho ạt động xúc bóc còn
phát thải vào không khí các chất độc hại như hydrocacbon, co, so2, muội khói,
…
4. Vận tải: gây ồn, phát thải các chất khí độc hại (tương tự như máy xúc
chạy dầu điêzen) và bụi vào không khí.
5. Thải đá: gây ồn, phát thải bụi vào không khí, đất đá thải trôi lấp lòng
sông suối làm biến đổi chế độ thủy văn, làm hoang hóa đất đai canh tác vùng hạ
lưu và đe dọa các công trình xây dựng xung quanh, làm ô nhiễm đât, làm hỏng
các nguồn nước.
6. Thoát nước: làm biến đổi chế độ thủy văn, ô nhiễm nguồn nước, trôi
lấp và hoang hóa các vùng đất hạ lưu.
7. Các hoạt động phụ trợ (trạm điện, trạm khí nén, xưởng cơ khí, trạm sửa
chữa, …): làm ô nhiễm đất và các nguồn nước bởi các chất thải rắn (các vật
không hòa tan như kim loại, cao su, thủy tinh, chất dẻo, …) dầu mỡ, axit và các
chất khác
76
III.3. Các tác động chính của khai thác lộ thiên tới môi trường.
III.3.1. Làm biến dạng địa mạo và cảnh quan khu vực.
Đặc điểm của khai thác lộ thiên là phải chiếm dụng một diện tích đất đai
khá lớn để mở khai trường, làm bãi thải và xây dựng các công trình phụ trợ phục
vụ cho khai thác mỏ.
III.3.2. Chiếm dụng nhiều diện tích đất trồng trọt và cây xanh.
Việc mở khai trường và đổ đất đá thải của khai thác lộ thiên đã trực tiếp
và gián tiếp làm biến dạng một cách đáng kể địa mạo và cảnh quan khu vực. Nơi
bị đào sâu nhất tới 450m, (bờ Đông Bắc Thắng Lợi - mỏ Cọc Sáu), nơi bị đắp
cao nhất tới hơn 200m, (bãi thải Đông Nam mỏ Đèo Nai). Hiện tượng sói lở địa
hình và bồi lấp các dòng chảy tự nhiên xẩy ra ở các khu mỏ đều có nguyên nhân
gián tiếp từ các hoạt động của khai thác lộ thiên(trôi lấp đất đá thải, thoát nước
mỏ, nổ mìn,…). Đi đôi với hiện tượng thay đổi địa mạo là hiện tượng làm biến
dạng cảnh quan khu vực, đặc biệt là đối với những khu du lịch có tầm cỡ quốc
gia và quốc tế. Việc khai thác đá cẩm thạch để sản xuất các mặt hàng mỹ nghệ
đang là mối đe dọa làm tổn thương đến vẻ đẹp của Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng).
Các lò vôi và xi măng địa phương ở Hà Tây đang gặm nhấm dần các hòn non bộ
xung quanh địa điểm du lịch Chùa Thầy. Các mỏ đá vôi lớn nhỏ ngày càng làm
mất đi vẻ đẹp của sự nguyên sơ hùng vỹ mà tạo hóa đã ban cho vùng đất Ninh
Bình với một quần thể hàng ngàn mỏm đá vôi cao thấp. Các mỏ than vùng
Quảng Ninh (chủ yếu là các mỏ lộ thiên) đang uy hiếp ngày một gia tăng vào vẻ
thơ mộng quyến rũ của Bái Tử Long và Hạ Long - nơi đã được UNESCO xếp
hạng.
Diện tích đất canh tác và thảm thực vật mà các mỏ lộ thiên chiếm dụng để
mở khai trường và đổ đất đá thải là khá lớn. Riêng vùng than Quảng Ninh, 29
mỏ than lộ thiên lớn nhỏ đã sử dụng gần 5.500 ha (trong đó, mỏ than Đèo Nai,
Cao Sơn, Cọc Sáu và Hà Tu là 3.200 ha). Diện tích 2 khai trường Đông và Tây
Sin Quyền là 73,9 ha, chưa kể diện tích các bãi thải và khu nhà máy thải. Diện
tích khai trường mỏ đá Hoàng Mai cũng tới 120 ha, của Hà Tu là 700 ha.
Trong điều kiện cuộc bùng nổ dân số thế giới ở những năm qua thì việc
thu hẹp diện tích canh tác có ảnh hưởng nhất định tới chiến lược lương thực toàn
cầu của Tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới FAO. Việc chiếm dụng đất
đai trồng trọt chủ yếu là do các mỏ than bùn, một số mỏ than nâu và một số khác
là do các mỏ quặng sa khoáng. Phần lớn các mỏ còn lại đều nằm trên miền núi,
trong rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh, do vậy bên cạnh việc chặt phá rừng bừa
bãi, thì khai thác mỏ cũng là một nguyên nhân làm thu hẹp diện tích thảm thực
vật, gây mưa lũ thất thường và thay đổi thời tiết khí hậu trái đất.
III.3.3. Làm bẩn nước và đất đai quanh mỏ.
Nước mỏ thấm qua xung quanh làm bẩn đất đai và nước ngầm. Phần lớn
++ tự do, thường là
nước bị nhiễm bẩn là do các hợp chất Clorua và các ion SO4
từ các muối, chủ yếu là các muối Sunfat, kim loại nặng (Fe, Cu, Zn, Mn, Ni…).
77
Loại nước chứa các muối Sunfat Clorua và có chứa Ca, Mg, Na, K thường có
nồng độ cao gấp 5-15 lần nồng độ cho phép, do đó trước khi đưa vào sử dụng
công nghiệp phải tiến hành lọc sọc và trung hòa.
Các mỏ quặng Sunfua, mỏ than có chứa S với hàm lượng trên 2-2,5% đều
có nguy cơ gây chua mặn cho các nguồn nước trong nguồn. Ảnh hưởng đến
nước dùng cho sinh hoạt, chăn nuôi và trồng trọt. Nước có chứa các nguyên tố
Cd, Ni, Mo, Zn, Be,… đều gây nguy hiểm cho người đặc biệt Hg, Pb, As gây
bệnh ung thư. Các kim loại nặng phân tán trong đất đai nhanh chóng biến thành
dạng oxit được cây cối hấp thụ. Ví dụ cà chua cách một nhà máy luyện kim màu
500-5000m nhưng vẫn chứa hàm lượng Pb cao gấp 5-110 lần hàm lượng cho
phép, tình trạng tương tự cũng xảy ra khi kiểm nghiệm các củ khoai tây.
78
Bảng 3.1: Kết quả quan trắc chất lượng nước thải mỏ than Hà Tu
(kết quả chỉ có giá trị với mẫu nước được lấy trong ngày)
Chỉ tiêu quan trắc
Mẫu
pH
Điểm
quan
trắc
Fe
(mg/l)
Mn2+
(mg/l)
Ca2+
(mg/l)
Cr6+
(mg/l)
NO3
(mg/l)
BOD5
(mg/l)
COD
(mg/l)
Cd
(mg/l)
Pb
(mg/l)
Hg
(mg/l)
As
(mg/l)
Dầu
mỡ
(mg/l)
Coliform
(MPN/10
0ml)
TSS
(mg/l
)
28
4,8
0,3
2,3
110
0,07
0,41
0,0007
0,002
0,0002
0,001
0,13
10
18
4
M1
26
4,5
1,9
2,15
280
0,06
0,42
0,0018
0,003
0,0003
0,002
0,12
20
13
3
M2
5,2
47
0,39
1,62
125
0,07
0,44
0,0005
0,001
0,0002
0,001
0,12
100
19
4
M3
5,26
16
0,5
1,95
95
0,06
0,15
13
0,0015
0,005
0,0004
0,005
0,11
50
3
M4
5,4
61
0,16
2,05
45
0,09
0,35
7
37
0,0004
0,001
0,0002
0,004
0,16
180
M5
6-9
5,5-9
5-9
50
100
200
1
5
10
0,2
1
5,0
0,05
0,1
0,5
20
50
100
50
100
400
0,01
0,02
0,5
0,1
0,5
1,0
0,005
0,005
0,01
0,05
0,1
0,5
KPHĐ
1
5
5000
10000
Moong
vỉa 16
Moong
vỉa 10
Cống 3
phi
Công
trường
vỉa 7+8
Cầu
đường
sắt Tân
Lập
TCVN 5945-
1995
Giới hạn A
Giới hạn B
Giới hạn C
79
Kết quả
Chỉ tiêu phân tích Đơn vị
M3
7,3
5,5
18
M4
6,9
2,8
142
KPHT KPHT
-
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
M1
7,6
3,5
54
0,45
42
20
M2
6,7
4,8
15
0,1
21
14
26
15
110
60
TCVN
5945-1994
5,5 ÷ 9
-
100
1
100
50
TT
1
pH
2 DO
3
SS
4 Dầu
5 COD
6 BOD5
M1- Mẫu tại cống thải về phía Tây nhà máy (cuối mương thải).
M2- Mẫu tại mương thải phía Đông nhà máy.
M3- Mẫu nước thải sinh hoạt tại khu tập thể công nhân mỏ đá vôi.
M4- Mẫu nước thải sinh hoạt tại khu B khu nhà tập thể của công nhân nhà máy.
Ghi chú:
Nhận xét: Kết quả các chỉ tiêu đo được: DO, pH, SS, Dầu, đều có giá trị ở mức
thấp so với tiêu chuẩn cho phép TCVN 5945-1995 (cột B). Riêng mẫu nước thải
sinh hoạt của công nhân khu tập thể nhà máy (khu B) hàm lượng BOD5 vượt
TCCP là 1,2 lần và COD vượt tiêu chuẩn cho phép là 1,1 lần.
Bảng 3.2: Kết quả phân tích mẫu nước thải mỏ đá Hoàng Mai
Kết quả
TCVN 5945-1994
Chỉ tiêu phân tích Đơn vị
TT
M1
6,5
7,5
56
45,06
56,07
0,06
0,993
0,002
0,01
0,018
0,097
0,014
0,125
0,009
M2
6,7
7,4
78
38,7
46
0,055
0,984
0,01
0,01
0,016
0,0996
0,018
0,12
0,008
M3
7,0
7,5
46,7
26,8
40,0
0,04
0,928
0,001
0,04
0,012
0,056
0,01
0,118
0,007
A
6 – 8,5
> 6
20
< 4
< 10
0,01
1
0,001
0,05
0,05
0,1
0,01
1
0,01
B
5,5 – 9
> 2
80
< 25
< 35
0,05
1
0,002
0,1
0,1
1
0,02
2
0,05
pH
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
pH
1
DO
2
Cặn lơ lửng
3
BOD5
4
COD
5
NO2
6
NH4
7
Hg
8
As
9
10
Pb
11 Cu
12 Cd
13 Zn
14 CN
Bảng 3.3: Kết quả phân tích mẫu nước mỏ Sin Quyền
80
Bảng 3.4 - Kết quả thí nghiệm chất lượng đất mỏ Sin Quyền
TT Chỉ tiêu phân
SQS1
SQS3
SQS.6
SQS7
SQS8
SQS10
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
tích
Độ ẩm
Tỷ trọng
pH
Mo
Co
Cr
Tổng Fe
As
Bi
Cu
15,7
1,72
5,8
0,001
0,0025
0,007
3,00
0,0001
0,0013
0,0110
16,0
1,73
5,7
0,001
0,0025
0,0080
3,10
0,0001
0,0013
0,0012
19,5
1,64
5,80
0,001
0,0025
0,0006
5,40
0,0002
0,005
0,0080
19,2
1,62
5,70
0,001
0,0025
0,0006
5,30
0,0002
0,005
0,008
6,6
1,91
5,75
0,001
0,0025
0,005
5,00
0,0001
0,003
0,007
17,1
1,65
6,00
0,0033
0,0035
0,0006
9,7
0,0004
0,008
0,0120
11
12
13
Cd
Pb
Zn
0,0004
0,0031
0,012
0,0004
0,0030
0,011
0,0005
0,045
0,015
0,0005
0,043
0,015
0,0004
0,004
0,012
0,0002
0,0071
0,012
14
Mn
0,017
0,017
0,017
0,016
0,013
0,035
1,06
1,06
1,84
1,81
1,50
1,43
15 Tổng hữu cơ
tính theo %C
TT Chỉ tiêu phân
SQS12
SQS15
SQS17
SQS.18
SQS19
SQS21
1
tích
Độ ẩm
16,8
17,0
7,0
18,7
19,5
25,6
Tỷ trọng
pH
Mo
Co
Cr
Tổng Fe
As
Bi
Cu
Cd
Pb
Zn
Mn
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15 Tổng hữu cơ,
1,63
5,90
0,0034
0,0038
0,0005
10,0
0,0039
0,0086
0,0140
0,0001
0,0072
0,014
0,034
1,45
1,70
6,20
0,0035
0,0039
0,0006
9,8
0,00037
0,0089
0,0140
0,0001
0,0073
0,014
0,036
1,45
2,1
5,6
0,006
0,005
0,0015
15,83
0,0002
0,005
0,520
0,0009
0,0056
0,013
0,070
0,85
1,50
5,55
0,006
0,0060
0,0013
16,25
0,0002
0,005
0,6750
0,0010
0,0070
0,011
0,070
1,31
1,48
5,8
0,002
0,0020
0,0021
3,50
0,0004
0,005
0,060
0,0003
0,0070
0,008
-
1,40
1,43
5,9
0,001
0,001
0,0024
3,10
0,0003
0,005
0,052
0,0003
0,0065
0,009
-
1,50
%C
81
TT
SQS22
SQS.23
SQS.24
SQS.25
SQS26
SQS.28
Chỉ tiêu phân
tích
Độ ẩm
Tỷ trọng
pH
Mo
Co
Cr
Tổng Fe
As
Bi
Cu
Cd
Pb
Zn
Mn
14,5
2,01
6,50
0,005
<0,001
0,0055
13,59
0,0005
0,009
0,4850
0,0017
0,0050
0,006
0,062
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15 Tổng hữu cơ tính
32,5
1,42
6,0
0,001
0,002
0,003
3,00
0,0004
0,005
0,056
0,0003
0,0068
0,008
-
1,56
41,0
1,47
6,15
0,001
0,0020
0,0026
3,20
0,0005
0,005
0,0550
0,0003
0,0065
0,007
-
1,60
0,86
16,0
2,26
7,10
0,0015
0,0025
0,0027
3,96
0,0002
0,016
0,0240
0,0007
0,0050
0,006
0,036
0,40
35,5
1,50
6,10
0,001
0,0021
0,0025
3,10
0,0005
0,004
0,050
0,0003
0,0063
0,008
-
1,56
1,0
4,18
6,20
0,008
0,0055
0,0005
24,6
0,0005
0,011
7,560
0,0025
0,0135
0,009
0,058
3,26
theo %C
- Vị trí mẫu:
SQS 1 - Đất nhà ông Lù, đội 3, xã Bản Vược
SQS 3 - Đất nhà ông Vương Văn Hồ, đội 3, xã Bản Vược
SQS 6 - Đất khu tập thể công nhân mỏ ở Dốc Kho Tầu
SQS 7 - Đất bên suối cạnh khu tập thể dốc Kho Tầu
SQS 8 - Đất đá cạnh khu tập thể dốc Kho Tầu
SQS 10 - Đất nhà ông Đanh, bản Chí
SQS 12 - Đất cạnh khe nước mặt tại Bản Chí
SQS 15 - Đất cạnh suối chảy qua bãI thải số 2 mới, bản Mường Đơ
SQS 17 - Đất tại vỉa quặng khu Đông
SQS 18 - Đất tại vỉa quặng khu Đông
SQS 19 - Đất ở khe cạn cạnh khu đồi tuyển mới
SQS 21 - Đất nhà chị Mai Xuân Oanh, đội 12, xã Cốc Mỳ
SQS 22 - Đất ao nhà chị Mai Xuân Oanh, đội 12, xã Cốc Mỳ
SQS 23 - Đất ruộng nhà chị Đảm, cạnh UBND xá Cốc Mỳ
SQS 24 - Mẫu quặng thải nhà máy tuyển
SQS 25 - Đất thân quặng khu Đông
SQS 26 - Đất sa lắng suối Nậm Chỏn
SQS 28 - Quặng khai trường khu Tây
Ghi chú: Ngày lấy mẫu 28/3/2005
Ở vùng đất và nước chua thì Pb, Cu, Ni, Zn, Hg có hoạt tính hóa học lớn
hơn ở vùng đất trung tính hay kiềm. Những mỏ lớn, nước thải có độ chua mặn
82
thì sẽ làm ảnh hưởng rõ rệt đến đất đai quanh vùng. Đặc biệt sự hình thành các
dòng thải axit có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường:
- Làm gia tăng sự hòa tan các chất độc hại(nhất là kim loại nặng) trong đất
và nước.
- Hủy hoại môi trường của động thực vật trên cạn và dưới nước.
- Ảnh hưởng đến sức khỏe con người (phát sinh bệnh và ngộ độc).
- Gây ô nhiễm các nguồn nước ngầm và nước mặt.
Dòng thải axit hình thành từ quá trình oxi hóa quặng có chứa sunfua khi
chúng bị đào bới và tiếp xúc với không khí, nước,… Đó là quá trình oxi hóa các
quặng sunfua như Pyrit(FeS2), Chancopyrit (CuFeS2), Sfalerit (ZnS),… Sự hình
thành dòng chảy axit trong quá trình khai thác mỏ xảy ra ở các khu vực đang
khai thác, bãi thải đất đá, khu vực chứa quặng đuôi của nhà máy tuyển, nước
thải của nhà máy tuyển.
Khả năng hình thành dòng thải axit phụ thuộc vào các yếu tố hóa - lý -
sinh học - môi trường như: nước, không khí, tính chất vật lý của khoáng vật,
nhiệt độ, độ pH, vi sinh vật trong môi trường, sự có mặt của các chất trung hòa
(cacbonat) trong quặng, cỡ hạt, mật độ của đất đá thải hay quặng,… Sự oxy hóa
Pyrit xảy ra ở điều kiện pH = 2,4÷3,6, khi pH lớn hơn giới hạn đó thì tốc độ oxi
hóa giảm mạnh, làm tăng khả năng oxi hóa đối với các sunfua khác. Cacbonat là
khoáng vật có khả năng trung hòa mạnh, do vậy sự có mặt của Cacbonat trong
quặng sẽ làm hạn chế sự hình thành dòng thải axit làm tăng độ pH (trên 3,6) dẫn
đến làm giảm khả năng oxy hóa của sunfua, thúc đẩy các ion Fe+++ tạo thành căn
Fe(OH)3 mất khả năng oxy hóa. Sự oxy hóa xảy ra trong không khí mạnh hơn
trong nước, nhưng nước mưa chảy trong bề mặt thấm qua đất đá thải lại làm cho
quá trình oxy hóa lan truyền nhanh hơn trong các sản phẩm mỏ và môi trường
xung quanh.
Thực tế khai thác mỏ nước ta có nhiều nơi có khả năng tiềm tàng của
dòng thải axit như than Na dương, Pyrit giáp lai, các mỏ đồng chì, antimon và
một số mỏ quặng sunfua khác.
Tuy nhiên kết quả khảo sát nước thải trên ba mỏ Hà tu, Hoàng mai, Sin
quyền, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng như Cd, Pb, As, độ pH, dầu mỡ: đều thấy
hơn chỉ tiêu cho phép. Chỉ riêng ở Hà Tu là nơi có tỷ lệ Mn trong nước thải cao
hơn TCVN từ 1,6 ÷ 2,3 lần, Hoàng Mai thì trong nước thải sinh hoạt khu tập thể
công nhân các chỉ tiêu COD vượt 10%, BOD5 vượt 20% và SS vượt 42%.
83
Kết quả
tiêu
Đơn vị
TCVN
5937-
1995
TT
Chỉ
phân tích
Khu vực mỏ sét
Khu vực mỏ đá vôi
M6 M7 M8 M9
M10 M11
lơ
0,3
0,22
0,34
0,28
0,54
0,29
0,24
1
mg/m3
mg/m3
mg/m3
mg/m3
0,24
0,17
12
0,18
0,12
8
0,26
0,21
17
0,17
0,14
12
0,15
0,11
10
Bụi
lửng
SO2
2
3 NO2
4 CO
0,5
0,4
40
75
0,18
0,12
9
63
dBA
72,5
68
82
78
72
5
Tiếng ồ
n TB
Ghi chú:
- Mẫu 6: Tại trung tâm mỏ sét
- Mẫu 7: Địa điểm cách trung tâm mỏ sét 300m về phía Đông Nam.
- Mẫu 8: Địa điểm cách trung tâm mỏ sét 900m về phía Đông Nam.
- Mẫu 9: Tại trung tâm mỏ đá
- Mẫu 10: Địa điểm cách trung tâm mỏ đá 300m về phía Đông.
- Mẫu 11: Địa điểm cách trung tâm mỏ đá 900m về phía Đông.
Bảng 3.6: Kết quả quan trắc các hơi khí độc và bụi mỏ than Hà Tu.
Các thông số quan trắc
quan
Mẫu
Điểm
trắc
K1
NO2
mg/m3
0,17
SO2
mg/m3
0,051
H2S
mg/m3
0,007
CO2
%
0,0015
CO
mg/m3
2,06
Bụi
mg/m3
0,39
0,054
0,035
0,003
0,033
1,81
0,71
K2
0,059
0,061
0,083
0,05
0,006
0,004
0,047
0,023
1,35
1,73
0,58
0,50
0,057
0,038
0,006
0,011
1,72
0,48
K5
K6
0,049
0,035
0,007
0,025
1,85
0,60
cơ
0,035
0,047
0,003
0,033
1,36
0,43
K7
trường
0,040
0,062
0,005
0,014
1,53
0,60
K8
trường
0,050
0,051
0,006
0,028
1,83
0,65
K9
0,1
0,3
0,008
-
5
0,4
0,5
0,008
-
40
0,30
Xưởng 2
Khu máng rót
than
K3 Moong vỉa 16
K4 Moong vỉa 10
Mặt bằng bến
xe
Khu bãi thải
Lộ
Nam
Phong
Xưởng
điện
Công
vỉa 7+8
Công
đá
TCVN 5937 - 1995
Giá trị giới hạn CP
(TB 24h)
Giá trị giới hạn CP
(TB 1h)
Bảng 3.5- Kết quả phân tích các chỉ tiêu chất lượng không khí mỏ HoàngMai.
84
Bảng 3.7: Kết quả quan trắc môi trường không khí
(thời gian đo 10h30-11h30, nắng đẹp ngày 20-11-2004)
Mẫu MK1 MK2 MK3 MK4
Chỉ tiêu
89,1 76,5 70,9 56,8
Tiếng ồn,
dBA
Bụi, mg/m3 3,1 3,9 2,5 1,5
MK1 - Giữa hai dây chuyền tuyển trong xưởng tuyển.
MK2 - tại máy đập sàng phân xưởng đập sàng.
MK3 - cách 7m trước nhà xưởng.
MK4 - tại nhà hành chính khu xưởng tuyển.
Ghi chú:
Bụi gây nguy hiểm cho con người và động vật qua đường hô hấp, qua
đường tiêu hóa (do không khí, nước và đất đai bị nhiễm bẩn). Bụi cũng làm ảnh
hưởng xấu đến sự sinh trưởng của cây cối và hoa màu. Đặc biệt là những mỏ
than có chứa lưu huỳnh, không khí thường bị ô nhiễm SO2 rất độc hại với sức
khỏe con người và làm hư hỏng các thiết bị, đồ dùng kim loại (do SO2 tác dụng
với hơi nước tạo thành H2SO4 ăn mòn kim loại), mà mỏ than Na Dương là một
ví dụ.
Người ta ước tính một lần nổ mìn tung vào không khí từ 150 ÷ 200 tấn bụi
và 6 ÷ 8 nghìn m3 khí độc hại. Đám mây bụi cao tới 150 ÷ 200m. Hàm lượng bụi
lên tới 680 ÷ 4250 mg/m3, lượng xuất bụi của thuốc nổ đạt tới 43 ÷ 250 g/kg,
hàm lượng SO2 trong không khí tăng lên 40 lần.
Quá trình hoạt động của các thiết bị dùng động cơ điezen cũng làm bẩn
không khí đáng kể. Khối lượng các sản phẩm độc hại thoát ra khi đốt 1 tấn dầu
điezen như sau: CO - 0,1 g; Hydrocacbon ~ 0,03g; NO2 ~ 0,04g; SO2 ~ 0,02 g;
mội khói - 15,5 kg…; tỷ lệ % các khí thải khi động cơ điezen gia tốc là CO -
18%; NO2 - 97%; muội khói - 0,3%.
Kết quả quan trắc chất lượng không khí trên 3 mỏ Hà Tu, Hoàng Mai, Sin
Quyền cho thấy hàm lượng các chất khí này đều có biểu hiện nhưng rất thấp so
với TCVN, không gây nguy hại tới sức khỏe người lao động. Ngay cả Sin
Quyền là một mỏ kim loại dạng sunfua nhưng hàm lượng lưu huỳnh trong nước
cũng như H2S trong không khí là rất nhỏ.
III.3.4 Tác động của khai thác lộ thiên tới sức khỏe con người do ô nhiễm
môi trường.
a. Các bệnh gây ra do ồn ở các mỏ lộ thiên.
Các thiết bị mỏ lộ thiên thường gây ồn lớn. Các số liệu đo thực tế ở mỏ
Sin Quyền Lào Cai thấy rằng, ô tô tải trọng 18 ÷ 27 tấn lúc chạy bình thường có
độ ồn trong cabin 67 ÷ 75db, lúc có tải lên tới 94 ÷ 96db. Độ ồn của máy ủi lúc
làm việc đạt tới 86 ÷ 96db, còn của máy xúc lúc bình thường là 83 ÷ 84db và lúc
85
cậy bẩy là 95 ÷ 97db, độ ồn của máy khoan chạy khí ép khi đứng cách 10m là
82 ÷ 83db, lúc cách 2m là 93 ÷ 94db, còn của máy khoan xoay - đập là 78 ÷
83db ngoài cabin và 84 ÷ 87db trong cabin,…
Ở Hà Tu, máng rót than là 82dBA, moong vỉa 16 là 83dBA, bãi thải Nam
Lộ Phong - 77dBA, xưởng cơ điện - 75dBA,….
Tiếng ồn ở mỏ đá Hoàng Mai, cạnh máy khoan làm việc là 84-85dB, cạnh
máy xúc khi xúc là 79-82dBA,…(bảng 1 và 2).
Các kết quả nghiên cứu cho thấy khi âm lượng vượt quá 80db thì bắt đầu
ảnh hưởng xấu tới sức khỏe.
Bảng 3.8: Kết quả phân tích chất lượng không khí mỏ than Hà Tu
Đơn vị
mg/m3
mg/m3
mg/m3
%
mg/m3
oC
%
m/s2
mg/m3
dBA
M2
0,054
0,035
0,003
0,033
1,81
20,1
71
1,12
0,71
82
M4
0,035
0,047
0,033
0,033
1,36
20,5
75
1,02
0,43
75
M3
0,049
0,035
0,025
0,025
1,85
20,9
71
1,05
0,60
77
Thiết bị được dùng: HAZDUST; testo 445; testo 815; OLDHAM
M1
TT Chỉ tiêu
0,059
NO2
1
0,083
SO2
2
0,006
H2S
3
0,047
CO2
4
1,35
CO
5
20,3
Nhiệt độ
6
81
Độ ẩm
7
0,8
Tốc độ gió
8
0,58
Bụi lơ long
9
10
83
Tiến ồn
Ghi chú: M1- moong vỉa 16; M2- máng rót than; M3-Bãi thải Nam Lộ Phong; M4-Xưởng cơ
điện. Thời gian đo: 10h-11h30; Ngày lấy mẫu 9/3/2005;Thời tiết đẹp.
Kết quả
STT Chỉ tiêu
phân tích
Đơn vị
đo
Khu vực mỏ xét
Khu vực mỏ đá vôi
Mẫu7 Mẫu8 Mẫu9 Mẫu10 Mẫu1
TCVN
5937-
1995 Mẫu
1
mg/m3
6
0,34
0,3
0,28
0,22
0,54
0,29
1
0,24
2
3
4
5
mg/m3
mg/m3
mg/m3
dBA
0,24
0,17
12
72,5
0,5
0,4
40
90
0,18
0,12
8
68
0,18
0,12
9
63
0,26
0,21
17
82
0,17
0,14
12
78
0,15
0,11
10
72
Bụi lơ
lửng
SO2
NO2
CO
Tiếng ồn
TB
Chú thích :1. Ngày lấy mẫu: 10-12/3/2004
2. Địa điểm quan trắc: Tại mỏ đá vôi và mỏ sét và khu vực gần mỏ.
Mẫu 6: Tại trung tâm (TT) mỏ sét;Mẫu 7: Cách TT mỏ sét 300m về phía Đông Nam; Mẫu 8:
Cách TT mỏ sét 900m về phía Đông Nam;Mẫu 9: Tại TT mỏ đá vôi; Mẫu 10: Cách TTmỏ đá
vôi 300m về phía Đông; Mẫu 11: Cách TT mỏ đá vôi 900m về phía Đông
3. Đặc điểm thời tiết: Trời nắng; toC KK=18-24oC; W=65-80%;
Bảng 3.9: Kết quả phân tích chất lượng không khí mỏ đá Hoàng Mai
86
- Trước hết là đối với các thính giác, khi con người tiếp xúc với tiếng ồn
có cường độ cao từ 80db trở lên nhiều lần sẽ làm cho tai mệt mỏi, thính giác dần
dần mất khả năng phục hồi trở lại trạng thái bình thường, dẫn tới thoái hoá thính
giác, gây chứng nặng tai, ù tai hay bệnh điếc.
Đối với hệ thần kinh: Khi tiếng ồn ở cường độ trung bình thì gây kích
thích, nhưng khi tiếp xúc với tiếng ồn ở cường độ cao, thì não sẽ bị ức chế, làm
thay đổi hoạt động phản xạ, giảm tập trung tư tưởng, giảm trí nhớ và giảm thông
minh.
Tác động liên tục của tiếng ồn có thể là một trong những nguyên nhân gây
ra bệnh toét dạ dầy, do chức năng bài tiết và nhu động của da dầy bị phá vỡ
(theo Kryter, Lang và Jarnsen-1970).
Đối với hệ tim mạnh thì tiếng ồn vượt quá 80db gây ảnh hưởng xấu đến
hệ tuần hoàn, tim đập nhanh, rối loạn nhịp tim, tăng huyết áp, tiếng ồn làm nhịp
tim không đều, làm giảm áp lực tâm thu, đồng thời làm tăng áp lực tâm trương,
gây ra các chuyển biến kéo dài của chu kỳ tim. Tiếng ồn làm thay đổi choc năng
của hệ mạnh, dẫn đến bệnh tim và làm cho cơn đau xảy ra thường xuyên hơn.
Đối với hệ hô hấp, tiếng ồn gây viêm phế quản mãn tính. Ngoài ra tiếng
ồn còn làm ảnh hưởng tới thị lực nữa.
Nhiều nước đã đưa ra một số định mức về sinh lý của tiếng ồn như sau:
- Bình thường: 52db (ban ngày)
30-50db (ban đêm
- Gây mệt mỏi: 70-90db
- Bắt đầu nguy hiểm: 95-110db
- Đe doạ gây chấn thương: 120-140db
b. Các bệnh gây ra do bụi mỏ
Các số liệu đo thực tế trên các mỏ lộ thiên cho thấy bụi mỏ xẩy ra trong
nổ mìn, trong vận tải,trong xúc bóc, trong đổ thải,…bao gồm bụi đá, bụi than,
bụi quặng kim loại và phi kim loại..có cỡ hạt từ 5 ÷ 10 phần ngàn milimét và
nhỏ hơn. Trung bình khi nổ mìn 1m3 đất đá phá vỡ tung ra 0,027 ÷ 0,17kg bụi.
Cách bãi mìn 30 ÷ 40m nồng độ bụi còn đạt tới 800 ÷ 5000 mg/m3. Khi xúc bóc
đất đá, nồng độ bụi trong không khí gần máy xúc dao động trong khoảng 205 ÷
793mg/m3. Trên đường ôtô vận tải của các mỏ lộ thiên, nồng độ bụi trong không
khí khi ôtô chạy qua đạt tới 120 mg/m3, khi tần suất ôtô chạy lớn, nồng độ bụi
có thể đạt tới 2.257 mg/m3. Còn ở bãi thải khi ôtô dỡ tải, nồng độ bụi đạt tới
1340 mg/m3. Các bệnh phổ biến do bụi mỏ là: phổi nhiễm bụi (silico,antraco…),
bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da, bệnh đường tiêu hoá.
87
Bệnh phổi nhiễm bụi là do hít thở phải bụi mỏ (bụi đá, bụi than, bụi
khoáng, bụi amiăng, bụi lim loại,…), trong một khoảng thời gian tương đối dài
dẫn đến phổi bị xơ, suy giảm chức năng hô hấp.
Bệnh đường hô hấp là do các bụi đá và bụi khoáng sản có góc cạnh sắc
làm rách viêm mạc, gây viêm mũi, tiết nhiều liêm dịch, hít thở khó, dẫn đến
viêm teo mũi, giảm chức năng lọc giữ bụi của mũi, gây ra bệnh phổi nhiễm bụi.
Bụi crôm, asen gây viêm loét, thủng vách mũi vùng trước sụn lá mía. Bụi
mangan, phôt phát, bicromat kali, sắt, gây bệnh viêm phổi, làm thay đổi tính
miễn díchinh hoá của phổi. Bụi uran, côban, crôm,.. có tính phóng xạ gây ung
thư phổi.
Bệnh ngoài da gây ra do một số loại bụi (như đồng,..) tác động vào các
tuyễn nhờn, làm da bị khô, gây ra các chứng nhiễm trùng da, trứng cá,.. dẫn đến
viêm da khó chữa.
Bệnh đường tiêu hoá do các bụi đá, bụi khoáng sắc nhọn, khi trôi xuống
dạ dày gây viêm loét, và làm rối loạn tiêu hoá.
c. Các bệnh gây ra do hit thở phải các khí mỏ độc hại
Khí mỏ độc hại phát sinh trong quá trình hoạt động của nổ mìn, của các
thiết bị mỏ và vận tải chạy bằng xăng dầu, do sự phát thải khí từ các vỉa quặng,
do quá trình phân huỷ hoá học các hợp chất có hoạt tính cao chứa trong đất đá,
trong khoáng sản hay trong các chất sử dụng cho quá trình sản xuất mỏ,…. Các
chất có thường là CO, CO2, NO, NO2, CH4, H2S, SO2,….
Các chất khí độc hại đi vào cơ thể qua đường hô hấp, xâm nhập qua phế
quản và các tế bào rồi đi vào máu, đây là con đường xâm nhập nguy hiểm
nhất.Ngoài ra các khí độc hại cũng có thể thấm qua da hoặc qua các tuyến mồ
hôi, lỗ chân lông để thâm nhập vào cơ thể, các loại thâm nhập này ít nguy hiểm
hơn.
Khi làm việc trong môi trường có nhiều khí độc hại thì có thể mắc các
chứng bệnh sau:
- Bỏng viêm mạc: bỏng rộp, sưng đỏ liêm mạc và đau đớn.
- Giảm thị lực hoặc có thể dẫn đến mù.
- Phù phổi cấp tính: khi hít thở nhiều các chất kích thích phế bào như
NO2, NO3, SO2, Cl, hơi fluo,… do các chất này hoà tan trong niêm dịch và tạo ra
các axit gây phù phổi cấp tính.
- Gây ngạt thở: bao gồm gây ngạt thở đơn thuần (khi hít CO2, CH4) và
ngạt hoá học (khi hít CO, CO2 tác dụng với các chất khác làm mất khả năng vận
chuyển ôxy của hồng cầu dẫn đến hệ hô hấp bị rối loạn).
- Tê liệt hệ thần kinh: một số hợp chất của hydro cacbua, H2S, CS2,..có
tác động làm tê liệt thần kinh trung ương, gây ngất, gây tê khi hít thở chúng
nhiều.
88
d. Các bệnh gây ra do nước thải từ mỏ.
Nguồn gây ô nhiễm nước do hoạt động khai thác lộ thiện bao gồm: nước
chảy từ moong khai thác ra, nước thẩm thấu từ các bãi thải và các tầng quặng
vào các dòng nước mặt hay nước ngầm, nước do các hoạt động tuyển khoáng tại
chỗ thải ra (nhất là ở các mỏ khai thác vàng, đá quý, crômit, thiếc,…ở dạng sa
khoáng).
Các chất gây ô nhiễm thường là các kim loại nặng, chất cứng không hoà
tan, các axit và ôxyt, xyanua, thuỷ ngân, dầu máy,…
Nước mỏ thường gây ra các bệnh ngoài da như ghẻ, lở và ngứa, nấm
ngoài da, viêm loét chân,…Đặc biệt thường gây một số bệnh đường ruột như
viêm dạ dầy, rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy,…do các muối kim loại nặng hoà tan
trong nước gây cản trở hoạt động lên men cũng như các quá trình sinh hoá khác
trong cơ thể.
Nước thải từ mỏ cũng là nguyên nhân ngây ra một số bệnh về mắt như
đau mắt hột, viêm giác mạc,…Nếu nước thải từ mỏ có chứa một số chất độc như
sianua, thuỷ ngân, asen, ôxyt đồng,…thì có thể gây ra ngộ độc thức ăn, ảnh
hưởng nguy hiểm tới sức khoẻ con người.
89
CHƯƠNG IV:
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT TRONG
KHAI THÁC LỘ THIÊN NHẰM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
IV.1 Hạn chế sự chiếm dụng đất đai của khai thác lộ thiên.
Một trong những tác hại đáng kể làm suy giảm môi trường của hoạt
động khai thác lộ thiên là chiếm dụng nhiều đất đai để mở khai trường, làm bãi
thải và xây dựng các công trình phụ trợ, làm ảnh hưởng đến diện tích cây
trồng, rừng tự nhiên hoặc đất đai canh tác, dẫn đến thu hẹp môi trường sống
của một số loài động vật hoang dã và cuối cùng là ảnh hưởng đến sự đa dạng
sinh học của khu vực.
Nhằm hạn chế sự chiếm dụng đất đai của khai thác lộ thiên có thể tiến
hành những giải pháp sau:
- Bố trí hợp lý tổng mặt bằng khu mỏ, tiết kiệm diện tích đất đai sử
dụng.
- Sử dụng bãi thải cao (tận dụng không gian thẳng đứng của bãi thải tới
mức có thể) để giảm diện tích chiếm dụng.
- Tận dụng tối đa chiều sâu khai thác lộ thiên nhằm thu hồi nhiều nhất
tài nguyên lòng đất làm tăng hiệu quả sử dụng các công trình hạ tầng có sẵn
trong khu mỏ.
- Sử dụng các khoảng trống đã khai thác làm bãi thải (bãi thải trong).
Việc sử dụng bãi thải trong không chỉ có ý nghĩa lớn về mặt bảo vệ môi
trường mà còn mang lại hiệu quả đáng kể do rút ngắn cung độ vận tải đất đá.
Bãi thải trong được áp dụng trong những trường hợp sau:
IV.1.1 Đối với vỉa nằm ngang
Đối với các mỏ có vỉa nằm ngang, chiều sâu vùi lấp vỉa không lớn, kích
thước mặt bằng rộng (hoặc kéo dài) thì áp dụng bãi thải trong là hợp lý và có
hiệu quả kinh tế - môi trường cao nhất.
Trình tự tiến hành như sau:
- Đầu tiên cần tìm một vị trí để đặt bãi thải (tạm thời hoặc cố định) đủ
chứa một khối lượng đất bóc của giai đoạn đầu mỏ vừa được đưa vào sản xuất,
nhằm tạo ra một khoảng không gian cần thiết giữa gương thải và các gương
bóc đất, khai thác quặng.
- Sau đó tiến hành vận chuyển khối lượng đất đá từ các gương xúc đổ
vào khoảng trống khai thác. Để đảm bảo khoảng cách Lo (Lo là khoảng cách
cần thiết từ chân tầng thải tới gương tầng quặng) được giữ không đổi trong
suốt quá trình phát triển của tuyến công tác và gương thải thì phải quan tâm
giữ đúng độ cao của mặt tầng thải trên cùng. Khi số tầng bóc đất không nhiều
thì có thể thải theo phân tầng, hoặc thải theo độ cao của tầng bóc đất. Nếu
không giữ đúng độ cao cần thiết của mặt tầng thải trên cùng thì có thể dẫn đến
90
việc kéo dài cung độ vận tải một cách không cần thiết hoặc đe doạ đến sự an
toàn trôi lấp của gương khái thác.
- Bước tiếp theo là san lấp khoảng trống khai thác cuối cùng bằng đất đá
thải tạm hoặc đất đá ở khu vực xung quanh và tiến hành phủ xanh bãi thải.
H×nh 4.1- Sö dông b·i th¶i trong khi vØa n»m ngang
Khối lượng bóc ban đầu Vo phụ thuộc vào chiều dày lớp đất phủ và
h
g
+
+α
)gcot
β
(
B.n
min
g
)gcot
=
+
+
+α
+β
chiều dài các tuyến công tác:
)
V
o
o
t
.(cot
2
⎡
(
.(cotmL.L.mh.n
⎢
⎣
)
⎤
⎥
⎦
,m (6.1)
trong đó: n- số tầng bóc đất, m; Bmin- chiều rộng tối thiểu mặt tầng công tác, m;
h - chiều cao tầng, m; m - chiều dày thẳng đứng của lớp quặng, m; Lo - khoảng
cách cần thiết từ chân tầng thải tới gương tầng quặng, m; Lt - chiều dài trung
bình của tuyến công tác, m; α, β- góc nghiêng sườn tầng và sườn bãi thải, độ.
(6.2) Chiều cao của bãi thải tính từ đáy khai trường:
Ht = n.h.Kt.Kl, m
trong đó: Kr - hệ số nở rời của đất đá; Kr = 1,1÷1,2; 1,3 ÷1,4; 1,5 ÷ 1,6 tương
ứng với đất đá mềm, cứng vừa và cứng; Kl- hệ số lèn chặt, phụ thuộc vào chiều
cao thải, Kl = 0,8÷0,95.
IV.1.2 Đối với vỉa có dạng lòng chảo và rộng
Trường hợp vỉa có dạng lòng chảo thì ở giai đoạn đầu sản xuất, mỏ
thường phải sử dụng bãi thải ngoài. Bãi thải trong thường chỉ áp dụng vào giai
đoạn giữa và giai đoạn cuối, khi khoảng trống khai thác đã phát triển gần hết
phần đáy của lòng chảo.
IV.1.3 Đối với mỏ có nhiều khai trường nằm gần nhau
Khi mỏ có một số khu vực khai thác nằm gần nhua thì có thể tổ chức
khai thác lần lượt, để lợi dụng khoảng trống khai thác của khai trường hoạt
động trước làm bãi thải cho khai trường hoạt động sau.
Trình tự khai thác của khu vực được nghiên cứu, lực chọn trên cơ sở cụ thể về
hệ thống hào mở vỉa, sản lượng và trữ lượng quặng các khu vực cũng như quy
hoạch đổ thải hợp lý cho phạm vi toàn mỏ.
91
IV.1.4 Đối với vỉa cắm dốc có chiều dài theo đường phương lớn
Với những vỉa cắm dốc, có chiều dài theo đường phương lớn thì thường
có chiều sâu kết thúc không lớn, nhất là khi chiều dày vỉa nhỏ. Trong trường
hợp đó có thể áp dụng bãi thải trong bằng cách phân khu vực, khai thác theo
hình thức cuốn chiế, dùng khoảng trống đã khai thác của khu vực trước làm bãi
thải cho khu vực sau. Bằng giải pháp này không chỉ sử dụng được bãi thải
trong mà còn giảm bớt khối lượng xây dựng cơ bản ban đầu, nhanh chóng đưa
mỏ vào sản xuất. Đất đá thải của khu vực khai thác đầu tiên được đưa ra bãi
thải cố định hoặc đổ vào bãi thải tạm để sau này lấp vào khu vực khai thác cuối
cùng.
Chiều dài khu vực khai thác (LK) cần chọn theo 2 điều kiện:
L
l
≥
K
X
- Không nhỏ hơn chiều dài một khu vực làm việc của máy xúc.
L
=
K
−
)
(6.3)
(
H
q
(
1..
ρ+ηγ
q
A.N
)
.M.H
c
o
- Trữ lượng trong mỗi khu vực bằng một lần hay một số lần sản lượng năm đã
chọn của mỏ.Tuỳ theo chiều dày của vỉa mà số năm khai thác một khu vực có
thể là 1÷3 năm.
⎧
⎪
⎨
⎪
⎩
trong đó: lX- chiều dài khu vực xúc, m; N- số năm để khai thác hết một khu
vực; Aq - sản lượng mỏ đã chọn theo điều kiện kinh tế và kỹ thuật, t/năm; Ho,
Hc- độ cao trung bình của lộ vỉa và của đáy mỏ, m; M - chiều dày nằm ngang
của vỉa, m; γq- khối lượng riêng của quặng, tấn/m3; η, ρ- hệ số thu hồi và làm
nghèo quặng trong khai thác, đvtp.
gcot
M
L
+
−
γ
Độ cao tầng thải trên cùng ở khu vực thứ nhất xác định theo điều kiện
)
(
.H.
gcot
c
+γ
v
K
o
t
⎡
⎢⎣
H
=
1
(6.4) , m
γ
chứa hết đất của khu vực thứ 2 và cách tầng quặng ở đáy mỏ một đoạn Lo:
⎤
) (
L.
⎥⎦
gcot
(
.K.K.L.
gcot
L
r
+γ
v
)t
K
1
2
1
2
gcot
M
+
γ
+γ
v
t
1
2
⎤
)
⎥⎦
⎡
⎢⎣
H
=
i
gcot
γ
Đối với các khu vực tiếp theo thì:
(
.H.
gcot
c , m (6.5)
(
.K.K.
gcot
r
L
+γ
v
)t
1
2
trong đó: M- chiều dày nằm ngang của vỉa, m; Hc - chiều sâu của mỏ, m; LK -
chiều dài khu vực khai thác, m; γv, γt- góc nghiêng bờ dừng ở phía vách và phía
trụ, độ; Kr- hệ số nở rời của đất đá; KL- hệ số lèn chặt khi thải.
92
IV.1.5 Sử dụng bãi thải tạm
Điều kiện tiên quyết để sử dụng bãi thải tạm (BTT) là mỏ phải có mặt
bằng đủ rộng, địa điểm thuận lợi để bố trí bãi thải BTT và hiệu quả kinh tế khi
xúc thải lại vào khoảng trống đã khai thác (sau khi kết thúc mỏ) phải lớn hơn
vào bãi thải cố định (BTC).
Với những mỏ lớn, thời gian tồn tại lâu thí khó có thể tìm được một vị trí BTT
đủ chứa toàn bộ khối lượng đất đá trong phạm vi biên giới mỏ. Trong trường
hợp đó thì BTT có thể chỉ áp dụng cho một phần đất đá thải của mỏ. Đối với
mỏ nhỏ thời gian tồn tại ngắn (3÷4 năm) thì BTT có thể dùng chứa toàn bộ đất
đá thải.
Trường hợp chung nhất, khi mỏ đồng thời phải dùng cả BTC và BTT thì
hiệu quả kinh tế khi sử dụng BTT để chứa một phần đất đá trước khi đổ vào
BTC là:
(6-6) L1 = S1 - S2, đồng
trong đó: St - hiệu quả kinh tế nhờ đưa đất đá vào BTT ở thời kỳ đầu, đồng; S2
- tổng chi phí để thải lại đất đá vào BTC ở thời kỳ sau quy về thời điểm đánh
giá, đồng.
(6.7) S1 = (LC.C1 - Lt.C2).Qd - Vt.Cd, đồng
1
C
S
=
+
+
+
với: Lc, Lt - cung độ vận tải trung bình từ khai trường đến BTC và BTT, km;
C1, C2- đơn giá vận tải tương ứng với các cung độ Lc và Lt, đồng/tấn; Vt - khối
lượng làm đường từ khai trường đến BTT, m3; Cd - đơn giá làm đường,
đồng/m3; Qd - khối lượng đất đá thải được đưa vào BTT, tấn.
, đồng (6-8)
(
C
2
[
C.V.
c
d
x
t
)
Q.C.L
3
o
]d
t
c
(
r1
+
)
với: r- hệ số chiết khấu vốn đầu tư, đvtp; tc- thời gian thải lại chậm sau trung
bình, năm; Vc- khối lượng làm đường từ BTT đến BTC, m3; Cd- đơn giá làm
đường, đồng/m3; Cx, Ct- chi phí xúc ở BTT và thải ở BTC, đồng/tấn; C3- đơn
gía vận tải (đồng/tấn-km) tương ứng với cung độ vận tải Lo (km); Qd - khối
lượng đất đá thải vào BTT, tấn.
Thời gian thải lại chậm sau được xác đinh theo biểu thức:
(6.9) tc = tt - 0,5.(t1+t2), năm
trong đó: tt- thời gian tính từ khi bắt đầu đổ đất đá vào BTT tới khi kết thúc
việc di chuyển đất đá từ BTT ra BTC, năm; t1- thời gian thải vào BTT, năm; t2-
thời gian chuyển đất đá từ BTT ra BTC, năm.
Điều kiện đủ để mỏ có thể thu được hiệu quả kinh tế là thời gian tiến
hành thải phải đủ lớn để thoả mãn điều kiện L1 > 0 tức là S1 > S2:
93
+
t
t
d
c
>
(
r1
+
)
C.V
+
c
d
(
C.L
1
c
, (6.10)
)
(
C
C
Q.C.L
+
x
3
o
)
C.VQ.C.L
−
−
d
2
d
t
t
Chúng ta xác định giá trị nhỏ nhất cho phép của tc bằng phương pháp đồ thị.
Nhằm giảm sự chiếm dụng đất đai của bãi thải, thay vì di chuyển đất đá
từ BTT ra BTC là chuyển ngược lại khoảng trống đã khai thác sau khi kết thúc
mỏ.
Điều kiện để di chuyển đất đá từ BTT về khoảng trống đã khai thác là:
(6.11) S1 < S3 ≤ S2
1
C
S
=
+
+
trong đó: S3 - chi phí thải lại vào khoảng trống đã khai thác quy chuyển về thời
điểm đánh giá, đồng.
, đồng (6.12)
(
C.
3
x
t
)
Q.C.L
4
m
d
T
c
(
r1
+
)
trong đó: Tc- thời gian thải lại sau trung bình vào bãi thải trong, năm; C4 - đơn
giá vận tải (đồng/tấn km) tương ứng với cung độ vận tải L4 (km) từ BTT tới
một vị trí nào đó trong mỏ.
Về vấn đề hạn chế chiếm dụng đất trên 3 mỏ khảo sát có thể áp dụng các
phương án sau: - Sử dụng bãi thải trong:
1- Đối với mỏ Hà Tu: Tổng khối lượng đất đá thải là 254,5.106 m3 được
đổ thải vào các bãi thải theo từng giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn 2005-2010: Đất đá thải được đổ thải vào các bãi thải ngoài
Nam Lộ Phong (11.106 m3), Bắc Núi Béo (9,5.106 m3), Tây Nam vỉa 16 Hà Tu
(15,05.106 m3), Đông Nam vỉa trụ Hà Tu (5,05.106 m3), Bắc vỉa 7&8 Hà Tu
(3,5.106 m3), Bắc vỉa 10B (1,8.106 m3) và bãi thải trong vỉa 16 Hà Tu (60,1.106
m3).
+ Giai đoạn năm 2011-2020: Đất đá thải được đổ thải vào bãi thải ngoài
Đông Nam vỉa trụ Hà Tu (5,35.106 m3) và bãi thải trong vỉa 16 Hà Tu
(135,65.106 m3).
+ Giai đoạn sau năm 2020: Đất đá thải được đổ thải vào bãi thải trong vỉa
16 Hà Tu (7,5.106 m3).
2- Đối với mỏ Sin Quyền: Sau khi kết thúc khu Động, sẽ dùng khai
trường khu Đông để làm bãi thải trong khu Tây. Dung lượng bãi thải trong khu
Đông là 23,8 triệu m3.
- Phát triển khai thác theo chiều sâu: Mỏ Hoàng Mai sau khi kết thúc tới
+10, cần tiến hành thăm dò bổ sung và nâng cấp để tận dụng phần tài nguyên
phía dưới.
94
IV.2. Tiết kiệm tài nguyên lòng đất
Các khoáng sản có ích là tài nguyên lòng đất không tái tạo được và có
trữ lượng là hữu hạn. Bởi vậy tiết kiệm và sử dụng hợp lý tài nguyên là lòng
đất là một vấn đề đang được các quốc gia quan tâm.
Trong khai thác lộ thiên, tiết kiệm tài nguyên lòng đất được thể hiện qua các
khâu tận thu quặng nghèo và vỉa mỏng, khai thác chọn lọc để giảm tổn thất và
làm nghèo quặng trong khai thác.
Khi khai thác các khoáng sàng dạng vỉa, các vỉa thường có cấu tạo phức
tạp, bị phân lớp nhiều, chiều dày các vỉa có thể thay đổi từ vài cm đến hàng
chục mét. Bên cạnh đó còn có những vỉa mỏng nằm gần vỉa chính đang khai
thác trong phạm vi biên giới mỏ. Nhìn chung có 2 dạng vỉa mong, các vỉa
mỏng được phép xúc xô (nằm trong trữ lượng cân đối) và các lớp quặng mỏng
nằm giữa các lớp đá kẹp dày hoặc nằm trong vách, trụ vỉa mà khi tính toán trữ
lượng công nghiệp không đưa vào cân đối. Với dạng vỉa mỏng thứ 2 này, để có
thể tận thu chúng cần phải xác định chiều dày tối thiểu của chúng trong điều
kiện kinh tế - kỹ thuật của mỏ, nhằm để sản phẩm khai thác mang lại hiệu quả
nhất định.
- Về mặt kinh tế: điều kiện để khai thác tận thu các lớp quặng mỏng này
là chúng phải nằm trong ranh giới đất đá phải bóc của vỉa chính, hoặc nếu nằm
ngoài ranh giới đất đá phải bóc thì khối lượng đất đá phải bóc thêm để tận thu
một tấn quặng không được vượt quá hệ số bóc giới hạn mà mỏ đang sử dụng.
- Về mặt kỹ thuật: chiều dày của lớp quặng phải đủ lớn để thiết bị xúc
bóc có thể thu hồi trong một công nghệ chọn lọc thích hợp và quặng khai thẩc
phải đảm bảo chất lượng tối thiểu theo yêu cầu của thương phẩm.
Ngày nay, với những công nghệ khai thác chọn lọc thích hợp và những
thiết bị có khả năng chọn lọc tốt người ta có thể tận thu tốt các vỉa lớp mỏng có
chiều dày 30 ÷ 40 cm. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác luôn xảy ra hiện
tượng tổn thất và làm bẩn quặng, có thể dẫn đến làm giảm chất lượng quặng
khai thác xuống dưới giá trị cho phép, do vậy chưa thể coi chiều dày 30 ÷ 40
cm là giới hạn của chiều dày các lớp quặng mỏng tận thu.
Vấn đề tận thu các vỉa mỏng hiện nay đang được mỏ Hà Tu áp dụng triệt
để với các sơ đồ khấu than chọn lọc. Chiều dày tận thu có chỗ tới 0,3 m. Công
nghệ chọn lọc được sử dụng là khấu than theo phân tầng bằng xúc thủy lực gàu
ngược cỡ nhỏ (E = 3,5 m3).
IV.3. Hạn chế sự suy giảm môi trường đất
IV.3.1 Chống trôi lấp, sa mạc hoá đất canh tác
Trôi lấp cây cối ở vùng hạ lưu, sa mạc hoá đất canh tác ở những vùng
nước thải từ mỏ chảy qua, bồi cạn lòng sông suối hạ nguồn, làm thay đổi và thu
hẹp bồn thu nước đầu nguồn là những tác hại nghiêm trọng trong quá trình đổ
95
thải trong khai thác lộ thiên gây ra. Những biện pháp chủ yếu để hạn chế các tác
hại này là:
1. Kết hợp đồng bộ quy hoạch đổ thải và quy hoặch thoát nước không chỉ
trong phạm vi một khai trường, một mỏ mà trong phạm vi toàn vùng.
2. Không đổ đất đá thải xuống sông, suối, các dòng chảy và đầu nguồn
của chúng.
3. Không để nước mưa tràn qua mặt bãi thải và sườn dốc bãi thải. Muốn
vậy, mặt bãi thải phải có độ dốc 2 ÷ 3 0/00 hướng vào phía trong, nơi có hệ thống
rãnh thoát nước (sát sườn núi), phía ngoài mép bãi thải phải có đê chắn cao 0,8 ÷
1,2 m, nhằm đảm bảo an toàn cho ôtô khi dỡ tải, đồng thời không cho nước mưa
từ mặt bãi thải tràn xuống sườn bãi thải.
4. Không xả nước từ hệ thống mương rãnh thoát nước của mỏ vào bãi thải
hoặc chân bãi thải.
5. Phía dưới chân bãi thải phải xây đê ngăn đất đá thải trôi xuống dưới hạ
lưu. Cần tiến hành thường xuyên việc thu dọn đất đá trôi lấp phía thượng lưu đê
chắn, nhất nhất là sau những đợt mưa lũ lớn.
6. Đối với bãi thải đã kết thúc, cần tiến hành kè chắn chân bãi thải bằng đá
hôc, phủ kín cây xanh hoặc thảm cỏ trên bề mặt và sườn dốc bãi thải.
7. Đối với bãi thải cao, cần tiến hành thải theo phân tầng 30 ÷ 50 m, nhằm
tăng cường hệ số ổn định và giảm nguy cơ lún sụt hay sạt lở bãi thải.
8. Tận dụng tối đa khoảng trống khai thác để làm bãi thải trong khi có
điều kiện: vỉa nằm ngang hay dốc thoải, vỉa kéo dài theo đường phương (phân
khu vực khai thác theo phương thức cuốn chiếu), mỏ bao gồm nhiều khai trường
phân tán nằm gần nhau, vỉa có dạng lòng chảo nông và kích thước mặt bằng
lớn...
9. Thường xuyên nạo vét lòng sông suối hạ nguồn, làm thông thoáng các
dòng chảy và bồn thu nước đầu nguồn.
IV.3.2. Chống xói lở và làm biến dạng mặt đất
Hiện tượng xói lở bề mặt đất thường gây ra bởi các dòng chảy tập trung
của nước mưa và nước thải thoát từ mỏ ra. Những vết xói lở đất đai, phá huỷ nền
móng công trình, đường sá, bồi lấp hoa màu... Ngoài hiện tượng xói lở, các hoạt
động của khai thác lộ thiên còn gây ra biến dạng về mặt khác như đào đắp làm
biến đổi bề mặt nguyên thuỷ, sạt lở các sườn dốc và bờ mỏ do trạng thái cân
bằng ổn định của đất đá trong bờ không được bảo đảm, do các chấn động của nổ
mìn hoặc do các thiết bị tải trọng lớn hoạt động trên bờ. Khác với khai thác hầm
lò, khai thác lộ thiên là hoạt động gây biến dạng về mặt đất lớn nhất. Những
biến dạng đó với mỏ lộ thiên có thể đạt tới 800 ÷ 1.200 hecta diện tích, 3 ÷ 4 km
chiều rộng, 500 ÷ 700 m chiều sâu nơi đào và 120 ÷ 150m chiều cao nơi đắp.
96
Những biện pháp chủ yếu để hạn chế các tác hại trên là:
1. Hệ thống thoát nước mỏ cần được quy hoạch chung cho toàn vùng,
được xây dựng kiên cố và đảm bảo thoát nước kịp thời cho trận mưa lớn nhất,
nước thoát ra từ mỏ phải được hoà mạng với hệ thống thuỷ văn tự nhiên của khu
vực.
2. Sử dụng bãi thải trong (theo những điều kiện đã nói trên) là giải pháp
kỹ thuật có hiệu quả lớn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về mặt bảo vệ môi
trường.
3. Quy hoặch đổ thải hợp lý. Dùng đất đá bãi thải vào thung lũng hoặc
vào vị trí không gây ảnh hưởng đối với mạng thuỷ văn khu vực, đổ bãi thải cao
để tiết kiệm diện tích, nếu mỏ gần bờ biển thì có thể dùng đất đá thải để lấn
biển...
4. Áp dụng các giải pháp nhằm ổn định các bờ dốc như chọn góc nghiêng
và kết cấu bờ hợp lý, gia cố bờ (bằng vì neo, cọc nhồi, phun vữa bê tông, phủ
xanh bề mặt...) khi bờ có điều kiện địa chất và địa chất thuỷ văn phức tạp, áp
dụng nổ vi sai, nổ mìn tạo biên để không gây chấn động và giữ ổn định cho bờ
mỏ; bố trí các đai bảo vệ và đai vận tải trên bờ hợp lý.
5. Tiến hành lấp mỏ sau khi kết thúc khai thác. Tuỳ theo vị trí địa hình cụ
thể của khu mỏ mà quyết định phương án lấp mỏ. Có thể lấp toàn phần hoặc một
phần (theo diện tích hoặc theo chiều sâu) tuỳ theo mục đích sử dụng. Có thể lấp
mỏ bằng đất đất thải cũ hoặc đất đá khác, tuỳ theo điều kiện thực tế về địa hình
bãi thải và khu mỏ, về kinh tế, kỹ thuật của mỏ.
6. Phủ xanh bãi thải và bờ mỏ bằng cây xanh hoặc thảm có.
IV.3.3. Giữ ổn định bờ mỏ, mái dốc và nền móng công trình.
Để đảm bảo sự ổn định các bờ dốc người ta tiến hành những giải pháp
phòng chống khác nhau, tuỳ theo điều kiện tự nhiên và kỹ thuật cụ thể.
Những giải pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa sự sụt lở bờ mỏ như:
1. Phải có đủ các đai bảo vệ trên bờ nhằm ngăn chặn hiện tượng trôi lở đất
đá từ các tầng xuống tầng dưới làm sạt lở bờ mỏ.
2. Hoàn thiện hệ thống thoát nước trên các tầng và xung quanh mỏ lộ
thiên nhằm mục đích ngăn chặn sự bào mòn, xói lở của các dòng nước mặt làm
phá vỡ bờ mỏ và làm yếu độ bền vững của đất đá.
3. Góc nghiêng của bờ mỏ phải chọn sao cho phù hợp với tính chất cơ lý
của đất đá trong bờ, cấu tạo địa chất, điều kiện địa chất thuỷ văn, chiều sâu khai
thác và thời gian phục vụ của bờ mỏ (Bảng 4.1).
Nếu bờ mỏ nằm trong khu vực có cấu tạo địa chất phức tạp (đứt gãy, vò,
nhàu) và bị ảnh hưởng nhiều của nước mặt, nước ngầm thì góc nghiêng của bờ
mỏ giảm đi 30 ÷ 40% so với các giá trị trong bảng 4.1.
97
Bảng 4.1: Góc nghiêng và chiều sâu mỏ phụ thuộc vào độ cứng của đất đá
Góc nghiêng của bờ (độ) khi chiều sâu
mỏ, m
Đặc tính của đất đá
Độ
cứng f
Góc
nghiêng
sườn tầng
90
180
240
300
Rất cứng
15÷20
75÷85
60÷68
57÷65
53÷60
48÷45
Cứng và hơi cứng
8÷14
65÷75
50÷60
48÷57
45÷53
42÷48
Cứng trung bình
3÷7
55÷65
43÷50
41÷48
39÷45
36÷43
Hơi mềm và mềm
1÷2
40÷55
30÷43
28÷41
26÷39
24÷36
4. Áp dụng bãi thải trong (khi có điều kiện) nhằm giảm chiều cao, tăng áp
lực chân đế và giảm thời gian xuất lộ của bờ mỏ. Trường hợp không cho phép
dùng bãi thải trong, thì có thể gia cường lực tựa chân đế của bờ bằng cách đổ đất
thải lên sườn dốc phần dưới chân bờ ở những đoạn đáy mỏ đạt chiều sâu cuối
cùng hoặc công trình mỏ tạm thời ngừng hoạt động ở khu vực đó trong một thời
gian dài. Trường hợp sau, thì phải tiến hành xúc bóc lại khối lượng, đất thải, khi
công trình mỏ hoạt động trở lại.
5. Giảm tải trọng khối đẩy (phần trên của bờ) và làm tăng trọng lượng
khối đỡ (phần dưới của bờ) bằng cách sử dụng bờ mỏ lồi. Làm tăng lực cản
hông từ hai phía bằng cách sử dụng bờ mỏ cong theo bình đồ (trường hợp cho
phép).
6. Sử dụng phương pháp nổ mìn vi sai, nổ tạo biên, nổ với lỗ khoan có
đường kính nhỏ nhằm giảm sóng chấn động, giảm hậu xung để tránh hiện tượng
làm nứt nẻ và mất ổn định của bờ mỏ, hoặc sử dụng thiết bị xúc bóc có lực cắt
lớn hay máy xới để loại bỏ khâu nổ mìn.
7. Khi bờ có nứt nẻ nhiều thì có thể dùng vữa xi măng hoặc các chất kết
dính khác để nhồi kín các khe nứt.
8. Dùng vì neo gia cố bờ nhằm tăng thêm các lực giữ giữa lăng trụ trượt
lở với phần đất đá ổn định phía dưới. Phương pháp này áp dụng khi chiều dày
lăng trụ trượt lở không lớn. Với những bờ mỏ cao, chiều dày lăng trụ trượt lở
lớn thì có thể dùng phương pháp khoan cọc nhồi. Đầu tiên, khoan các lỗ có
đường kính từ 100÷400mm, sau đó thả các cốt thép xuống tận đáy và phun vữa
bê tông đầy lỗ khoan. Chiều dài của cột nhồi phải ăn sâu vào tầng đá gốc ổn
định ít nhất là 1m.
9. Đối với những sườn dốc có đất đá mềm, chiều cao không lớn thì có thể
dùng phương pháp kè đá để bảo vệ sườn dốc khỏi bị phá huỷ bởi nước ngầm và
các tác động của ngoại lực khác, hoặc dùng phương pháp xây tường chắn ở chân
sườn dốc để hạn chế sự sụt lở của đất đá trong sườn dốc.
98
10. Phủ kín các sườn dốc, bờ mỏ bằng thảm thực vật như lau, sậy, cỏ, cây
cối, nhằm chống sự phong hoá bờ mỏ do tác động của không khí, nhiệt độ, xói
lở bờ mỏ do nước mưa, nước mặt.
Trong trường hợp khẩn cấp, bờ mỏ có nguy cơ trượt lở, cần nhanh chóng
xúc bóc phần đất đá của tầng trên cùng đổ xuống chân của các tầng dưới cùng
nhằm giảm lực đẩy và tăng lực giữ của bờ.
Để giữ ổn định bờ mỏ, người ta thường áp dụng đồng bộ một số giải pháp
phòng chống cần thiết. Đặc biệt đối với các mỏ lộ thiên có điều kiện phức tạp về
địa chất và địa chất thuỷ văn như ở nước ta thì khâu ngăn thoát nước là hết sức
quan trọng, sau đó là tính toán, chọn góc nghiêng hợp lý cho bờ. Khi có điều
kiện cho phép thì cần điều chỉnh trình tự khai thác sao cho thời gian xuất lộ của
bờ là ngắn nhất, biện pháp này có thể thực hiện được khi vỉa nằm ngang, dốc
thoải, có dạng uốn nếp lồi lõm nông và diện tích khoáng sàng rông, vỉa kéo dài
theo đường phương, thân quặng phân tán rời rạc và không cách xa nhau.
Hình 4.1 - Phương pháp trồng cây cải tạo bờ dốc
Đối với độ ổn định của nền móng công trình thì hoạt động nổ mìn trên mỏ
lộ thiên có ảnh hưởng khá lớn. Khi nổ mìn, phần lớn năng lượng chất nổ sinh ra
được dùng để sinh công phá vỡ đất đá vây quanh, một phần nhỏ truyền vào môi
trường xung quanh và tạo nên các sóng chấn động trong đất đá và trong không
khí. Các sóng này lan truyền rất xa và có khả năng làm hư hại các công trình,
nhà cửa xây dựng quanh vùng.
Nổ mìn vi sai là giải pháp kỹ thuật tối ưu để khắc phục tác hại này. Ngoài
những hiệu quả to lớn về hiệu quả đập vỡ đất đá nổ mìn vi sai giảm được một
cách đáng kể hậu xung, cường độ sóng chấn động và sóng va đập không khí
điều đó được thể hiện trong các biểu thức xác định khoảng cách an toàn chấn
động đối với nhà cửa, công trình và khoảng cách an toàn sóng va đập không khí.
R α=
QK
3.
.
c
t
c
R =
k
QK
3.
t
k
và
Trong đó: Ql - khối lượng thuốc nổ tập trung. Bởi vì khi nổ mìn vi sai thì
lượng thuốc nổ tập trung trong một lỗ mìn hoặc một số lỗ mìn (nổ đồng thời)
nhỏ hơn nhiều so với tổng số lượng thuốc nổ toàn bãi mìn.
99
Để thay thế cho dây nổ, trong những năm gần đây người ta đã chế tạo loại
dây dẫn sóng nổ. Dây dẫn sóng nổ có đặc điểm là lõi rỗng, trong chứa một loại
bột hoạt tính để dẫn sóng nổ, đường kính dài 3mm.
Để thuận lợi cho việc đấu nối mạng nổ, hãng DynWesfarmers đã chế tạo
sẵn các ngòi nổ bao gồm dây dẫn sóng lắp sẵn kíp nổ và kẹp nối ở hai đầu và gọi
là ngòi nổ phi điện. Bao gồm một số loại như:
- Ngòi nổ Noel super MS, chứa 860 mg PETN, đi với dây dẫn sóng màu
đỏ, với giãn cách thời gian 25; 50 và 100ms, chiều dài chuẩn của dây là 3,6; 4,8;
5; 7,2; 9; 12; 15 và 18m.
- Ngòi nổ Noel super snapline, chứa 90 mg PETN, đi với dây dẫn sóng
màu hồng, một đầu có kẹp nối plastic có thể nối với 4 dây dẫn sóng khác. Loại
này có 6 khoảng dãn cách thời gian: 17 ms (kẹp nối màu vàng); 25 ms (kẹp nối
màu đỏ); 35 ms (kẹp nối màu hồng); 42 ms (kẹp nối màu trắng); 67 ms (kẹp nối
màu xanh và 109 ms (kẹp nối màu đen). Chiều dài chuẩn của dây dẫn sóng là
2,4; 3,6; 4,8; 6; 7,2; 9; 12 và 15m.
- Ngòi nổ Nonel super LP, chứa 860 mg PETN, đi với dây dẫn sóng màu
vàng, với các giãn cách thời gian ∆t: 300; 400; 500; 600; 700; và 800 ms, mỗi
ngòi có một kẹp nối plastic có màu quy ước theo khoảng giãn cách thời gian để
tiện khi lắp kíp vi sai. Chiều dài chuẩn của loại ngòi này là 3,6; 4,8 và 6m.
- Ngòi nổ Nonel super snapdet gồm hai loại, loại mạnh nạp 860 mg PETN
và có ∆t = 500 ms dùng để kích nổ trong lỗ khoan; loại yếu nạp 90 ms PETN có
∆t = 17; 25; 35 và 42 ms dùng để kích nổ trên mặt đất. Dây dẫn sóng màu đỏ, có
kiẹp nối plastic cho 4 day dẫn sóng khác. Chiều dài chuẩn là 10,8 m.
Thông thường các dây rải mặt thường dùng loại ngòi có thời gian giãn
cách (∆t) nhỏ, 17 ÷ 100 ms, còn dây xuống lỗ dùng loại ngòi có thời gian giãn
cách lớn 300 ÷ 600 ms, nhằm đảm bảo tín hiệu nổ truyền khắp hết các lỗ mìn
trước khi lỗ mìn nổ sớm nhất hoạt động.
Nhờ phương tiện nổ phi điện mà các bãi mìn được điều khiển nổ vi sai
toàn phần (từng lỗ một), cường độ sóng chấn động và sóng va đập không khí
giảm tới 40 ÷ 60% và chất lượng đống đá nổ mìn tốt hơn, dẫn đến hạn chế một
cách đáng kể tác động nổ mìn đến độ ổn định của bờ mỏ cũng như nền móng và
nhà cửa xung quanh. Nhờ áp dụng công nghệ nổ mìn phi điện mà mỏ than Hà
Tu đã giảm được 8% giá thành khoan nổ, còn chất lượng nổ mìn trên mỏ Hoàng
Mai cũng được cải thiện rõ rệt: Kích thước đống đá gọn hơn, cỡ hạt đều và đảm
bảo kích thước yêu cầu, giảm một cách đáng kể đá văng sóng chấn động và sóng
va đập không khí.
Xu hướng chung của ngành khai thác lộ thiên thế giới trong những năm
gần đây là sử dụng các loại máy xúc có dung tích gầu lớn (12 ÷ 25 m3 hoặc hơn)
và kèm theo đó là mở rộng mạng lưới mìn với đường kính lỗ khoan lớn (300 ÷
350 mm), điều này dẫn đến làm mất ổn định bờ mỏ và nền móng công trình
100
xung quanh. Sự ra đời của các máy khoan xoay đập, có đầu đập thuỷ lực đặt ở
đáy lỗ khoan (đập đáy) đã làm tăng tốc độ khoan một cách đáng kể (có thể đạt
1m/phút trong đá cứng vừa), nhờ thế đã đáp ứng được yêu cầu đập vỡ đất đá về
chất lượng cũng như khối lượng cho công tác xúc bóc mà vẫn không làm tăng
chi phí khoan nổ, mặc dù các loại khoan này chỉ có đường kính 135 ÷ 175 mm.
IV.4. Phục hồi chức năng trồng trọt cho đất.
Phục hồi đất tròng trọt (còn gọi là hoàn thổ) nhằm khắc phục một phần
hay toàn bộ hậu quả do việc chiếm dụng thảm thực vật để mở khai trường, làm
bãi thải và xây dựng các công trình phụ trợ khác do khai thác lộ thiên gây ra,
công việc hoàn thổ có thể được tiến hành theo 3 hướng.
- Phủ lên bề mặt bãi thải (hoặc các công trình mỏ khác) một lớp thổ
nhưỡng (đất màu) dày 30 ÷ 120 cm kèm theo việc cải tạo bằng các loại phân
khoáng.
- Trực tiếp cải tạo đất bằng các biện pháp thuần hoá như bón thêm vôi,
phân khoáng, thâm canh cải tạo...
- Trực tiếp cải tạo đất bằng cách sử dụng chế phẩm có hoạt tính sinh học
như phân vi sinh sản xuất từ than, từ các rác hữu cơ, các hoạt tính vi sinh thổ
nhưỡng...
Hai hướng đầu được áp dụng rộng rãi trên khu hoàn thổ, hướng thứ ba
đang ở giai đoạn thử nghiệm công nghiệp và bắt đầu áp dụng. Quá trình hoàn
thổ gắn liền với việc phục hồi thảm thực vật được tiến hành theo hai giai đoạn.
a. Giai đoạn hoàn thổ
Giai đoạn hoàn thổ tiến hành trong quá trình khai thác khoáng sàng, mục
đích của giai đoạn này là xây dựng những điều kiện phù hợp với việc phục hồi
vùng bị phá hoại sau này. Công việc chuẩn bị được phối hợp chặt chẽ với công
tác bóc đất đá, khai thác KSCI và đổ thải đất đá. Nội dung công việc ở giai đoạn
chuẩn bị là:
- Phân tích các tính chất hoá nông của đất đá bóc.
- San gạt bề mặt bãi thải, bạt thoải sườn dốc.
- Thu hồi và rải lớp đất màu, trồng trọt lên bề mặt đã san gạt.
- Xây dựng các công trình tiêu thoát nước.
- Xây dựng các đường vận chuyển.
Việc xác định các tính chất hoá nông của đất đá thải là cơ sở để xác định
phương thức phục hồi giống cây trồng, từ đó quyết định trình tự bóc đất đá và
đổ thải thích hợp.
b. Giai đoạn phục hồi thực vật
Việc phụ hồi thực vật bao gồm phục hồi nông nghiệp và phục hồi lâm
nghiệp. Phục hồi nông nghiệp được tiến hành trên khu vực có điều kiện thuận
101
lợi về địa hình, chăm bón và tiêu tưới. Người ta tiến hành san gạt và làm phẳng
bề mặt diện tích cần phục hồi và sau đó rải đều lên trên một lớp đất màu và đất
trồng trọt đã được thu gom từ khi bắt đầu khai thác mỏ, phục hồi nông nghiệp
thường phải tiến hành trong 6 ÷ 8 năm theo hai bước:
* Bước một: Tiến hành các công việc làm tăng màu mỡ của đất đai cho
đến khi có đủ điều kiện để nuôi sống cây trồng, lựa chọn cách cải tạo đất có hiệu
quả và thành phần phân bón hợp lý.
* Bước hai: Bắt đầu từ khi đất đai được phát huy hiệu quả cho quá trình
gieo trồng cây cối.
Phục hồi lâm nghiệp áp dụng cho mọi loại bãi thải và bề mặt mỏ. Người
ta tiến hành san gạt phẳng các bề mặt, bạt thoải sườn dốc, xây dựng các công
trình thoát nước, đường giao thông và tiến hành trồng rừng. Trên các khu vực có
điều kiện nên thu gom đất màu và đất rễ cây ngay từ khi mở mỏ và trong quá
trình bóc đất đá, để sử dụng lại khi phục hồi lâm nghiệp, nhằm nâng cao hiệu
quả sinh sản của cây rừng.
Nhiệm vị chung của phương án phục hồi thảm thực vật, bảo vệ môi
3. Gây trồng các khu rừng cây lấy gỗ trên các bề mặt bãi thải đã ngừng
4. Xây dựng các công trình (đê chắn, mương rãnh tiêu thoát nước) xen kẽ,
5. Bảo vệ rừng cây sẵn có lân cận mỏ và bãi thải, nhất là các khu vực gần
Phục hồi rừng được xác định theo mục đích sử dụng rừng: rừng đơn thuần
và rừng kinh tế. Rừng đơn thuần có ý nghĩa cải tạo môi trường, cải tạo vi khí
hậu, thuỷ văn, phục hồi trạng thái tự nhiên trong khu vực bị mỏ chiếm phá.
Rừng kinh tế, ngoài mục đích trên còn nhằm mục đích khai thác gỗ.
Ở những khu vực khó khăn về điều kiện tròng trọt, đầu tiên nên trồng các
loại cây chuẩn bị (loài cây dễ mọc, dễ sống) nhằm cải thiện dần độ màu mỡ của
đất đai, đến khi đạt yêu cầu chất lượng thì tiến hành trồng các loại cây có hiệu
quả kinh tế.
trường sinh thái của vùng mỏ là:
1. Gây trồng các thảm cỏ, phủ kín các sườn bãi thải và bờ mỏ lộ thiên đã
ngừng hoạt động nhằm chống xói lở sườn dốc và dần dần phục hồi rừng cây gỗ
cũng như các điều kiện tự nhiên của khu vực.
2. Gây trồng các dải rừng cây ngăn giữ đất đá thải và vùng kế cận chân
các bãi thải đang hoạt động nhằm giảm lực phá hoại của các dòng chảy, ngăn
giữ đất đá, chống bồi lấp phá hoại ra các khu vực xung quanh.
hoạt động.
tạo điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển.
chân bãi thải.
Thực vật có nhiều đặc tính quý giá có ý nghĩa trong việc bảo vệ môi
trường, có thể ngăn cản, hạn chế các tác hại do hoạt động khai thác lộ thiên gây
ra. Kết quả khảo sát thực vật phát triển tự nhiên cũng như thực nghiệm cây trồng
ở một số khu mỏ đã chứng tỏ rằng điều kiện tự nhiên ở nước ta rất thuận lợi cho
102
1. Quy hoạch mỏ để khai thác lần lượt theo phương thức cuốn chiếu.
2. Thu gom lớp đất mặt màu mỡ của khu vực thứ nhất (I) vào vị trí có thể
3. Khai thác khu vực I.
4. Bóc lớp đất màu khu vực II rải lên mặt khu vực I, trong trường hợp cần
Hình 4.2 - Giải pháp khắc phục môi trường khi khai thác theo khu vực
việc phục hồi nhanh chóng thảm thực vật trên các bãi thải và các bờ mỏ đã
ngừng hoạt động, đặc biệt khi có tác động của bàn tay con người.
Việc hoàn thổ và phục hồi thảm thực vật đối với các mỏ khai thác vật liệu
xây dựng (như sét, cát) hoặc khai thác than bùn, thì thực hiện tương đối dễ dàng
theo quy trình sau:
cất giữ lâu dài, hoặc ít nhất cũng bằng thời gian khai thác hết khu vực I.
thiết thì đồng thời trả lại lớp đất mặt cũ của nó.
5. Tiếp tục như vậy, đối với các khu vực tiếp theo.
Nếu có điều kiện cất giữ thì lớp đất màu của khu vực I được dùng để rải
lên mặt khu vực cuối cùng. Nếu không thì khu vực cuối cùng được hoàn thổ
bằng phương pháp cải tạo như đã nêu trên.
Khi mỏ có địa hình gò đồi dốc thoải thì công trình mỏ nên phát triển theo
dạng vành khuyên hướng tâm, từ dưới lên, để thuận lợi cho việc hoán vị đất màu
trên các độ cao khai thác, địa hình khu mỏ sau khi hoàn thổ có dạng bậc thang
để giữ nước và chống trôi dạt đất màu. Việc trồng cây trên các vành đai được
tiến hành đồng thời trong quá trình khai thác theo trình tự từ dưới lên. Phương
thức này được áp dụng cho mỏ sét Trường Lâm của Công ty xi măng Nghi Sơn
(Thanh Hoá).
103
Hình 4.3 - Quá trình tiến hành khai thác đồng thời và cải tạo mỏ
1- bóc tầng phủ; 2- thải lớp đất phủ; 3- xúc đất đá thải; 4- vận tải đất đá thải; 5- thải đất đá
thải; 6- xúc khoáng sản; 7- vận tải khoáng sản; 8- cải tạo đất.
IV.5. Hạn chế việc xả bụi, khí độc và tiếng ồn vào không khí.
Quá trình hoạt động của các khâu công nghệ trên mỏ lộ thiên thường xả
nhiều bụi và khí độc hại vào môi trường xung quanh. Khâu khoan nổ tạo ra các
khí CO, CO2, NO2... và bụi khí nổ, khâu xúc bóc và vận tải xả nhiều bụi vào môi
trường khi chất tải và khi dỡ tải, ngoài ra các sản phẩm khí thừa do động cơ ôtô
và máy xúc khi hoạt động thải ra như ôxyt các bon, ôxyt nitơ, acrolein... cũng
làm nhiễm bẩn không khí đáng kể. Ở khâu gia công chế biến khoáng sản
(nghiền, sàng, đập...) thì tác hại làm suy giảm môi trường không khí chủ yếu là
do bụi.
Để hạn chế việc xả bụi mỏ vào không khí người ta áp dụng nhiều phương
pháp khác nhau. Đối với khâu khoan nổ mìn, người ta áp dụng các bịên pháp
sau:
- Sử dụng máy khoan có thiết bị lấy phoi bằng nước hoặc hỗn hợp khí ép
và nước. Nếu lấy phoi bằng khí ép thì phải có thiết bị hút bụi.
- Sử dụng các loại thuốc nổ có cân bằng ôxy bằng không hoặc xấp xỉ
không như thuốc nổ ANFO, thuốc nổ nhũ tương,...
- Phun nước trước và sau khi nổ mìn.
- Dùng bua nước hoặc túi nước dập bụi đặt trên miệng lỗ khoan khi nổ
mìn.
Đối với vận tải:
104
- Bê tông hoá (nhựa atphan hoặc ximăng) mặt đường mỏ, nhất là những
đoạn đường cố định, có mật độ xe qua lại lớn.
- Dùng bạt che kín các thùng xe khi vận tải đất đá ra bãi thải cũng như khi
- Phun nước thường xuyên các tuyến đường vận tải, nhất là đường ra bãi
thải. Bằng cách này có thể giảm lượng bụi và trung hoà khí độc hại đạt hiệu quả
70 ÷ 80%. Có ba phương pháp phun nước: phun nước thông thường, phun
sương và phun nước có chứa NaCl hoặc CaCl2.
vận tải quặng về kho chứa.
- Lắp các bộ lọc vào động cơ ôtô để khử các khí độc như CO2, HCCHO,
CH2CHCHO,... - Lựa chọn các nhiên liệu có chỉ số octane và cctane thấp.
Đối với một số thiết bị hoạt động cố định và gây nhiều bụi như ở phân
xưởng nghiền đập, sàng tuyển, các bun ke dỡ tải của băng tải... người ta còn
dùng phương pháp hút bụi tĩnh điện, hiệu quả chống bụi của phương pháp này
phụ thuộc vào tính chất tích điện của bụi. Có ba nguyên lý làm việc: dùng
trường tĩnh điện (các hệ thống lọc tĩnh điện), dùng cực tĩnh điện (kết hợp với
thông gió), tích điện cho các hạt nước (kết hợp với phun tưới). Ngoài ra phục
hồi thảm thực vật, xây dựng hàng rào cây xanh chắn bụi, quy hoạch mặt bằng
công nghiệp hợp lý, sử dụng các thiết bị hiện đại... cũng là những biện pháp
đồng bộ nhằm hạn chế sự suy giảm môi trường không khí do bụi và khí độc hại
từ hoạt động khai thác mỏ gây nên.
IV.5.1 Khử bụi b»ng phương pháp ướt
Khử bụi ướt được áp dụng rộng rãi để khử bụi có đường kính lớn hơn 0,3
mm và nhất là để khử các bụi nóng có các khí dễ cháy nổ. Bản chất của phương
pháp này là làm các hạt bụi trong không khí chứa bụi bám vào các giọt nước
hoặc màng nước và như vậy được tách ra khỏi pha khí. Các hạt bụi thô có thể
lắng đọng lên bề mặt chất lỏng dưới tác dụng của lực quán tính còn những hạt
bụi mịn nhất - do chuyển động nhiệt Brownian.
Lực quán tính tác dụng lên hạt bụi và giọt nước phụ thuộc vào khối lượng
hạt bụi và tốc độ chuyển động của chúng. Khi tốc độ của luồng khí - bụi lớn hơn
50m/s thì do hiện tượng khuếch tán chảy rối nên số lượng va chạm giữa các hạt
bụi và hạt nước tăng vọt. Chuyển động Brownian đặc trưng cho những hạt có
đường kính nhỏ hơn 1mm. Những hạt bụi mịn do có động năng nhỏ nên xác suất
bám dính lên các hạt nước thấp. Chính vì vậy để nâng cao hiệu suất khử các hạt
bụi mịn thì tốc độ khí trong thiết bị khử bụi ướt cần giảm đến mức độ phù hợp.
Các hạt nước và màng nước cùng với các hạt bụi bám lên, được tách ra
khỏi dòng khí bởi trọng lực. Như vậy quá trình khử bụi ướt luôn gồm hai giai
đoạn: giai đoạn I - bụi chuyển động và bám dính kết hợp với nước trong luồng
khí bụi; giai đoạn II - tách các hạt nước chứa bụi khỏi luồng khí.
Quá trình khử bụi ướt được thực hiện trong các thiết bị theo các cách thức sau:
105
• Cho dòng khí chứa bụi đi qua vùng nước phun sương, các hạt bụi bị
dính ướt, kết tụ lại, lắng đọng và được tháo tải dưới dạng slam.
• Cho dòng khí - bụi đi vào một thiết bị dạng xyclon khí, trên thành của
chúng có chảy màng nước. Hạt bụi chuyển động theo đường xoắn ốc,
va vào màng nước và tháo tải dưới dạng slam.
• Cho dòng khí - bụi đi qua một vách lọc ướt hoặc một lớp nước hoặc
một lớp bọt. Bụi bị giữ lại và tháo tải theo nước và bọt.
Ưu điểm của phương pháp khử bụi ướt: hiệu suất khử bụi cao, chi phí
thấp, khả năng khử bụi các khí có nhiệt độ cao và cả các khí dễ cháy nổ.
Nhược điểm: tạo thành slam và các lớp vật liệu ướt lắng đọng lên thành
ống dẫn khí: cần thiết phải có hệ thống cấp nước vào thiết bị cũng như hệ thống
xử lý slam.
Các thiết bị khử bụi ướt :
a. Tháp rửa bụi ly tâm.
Hiện đang lưu hành 2 loại tháp rửa bụi ly tâm được trình bày sau:
Tháp rửa bụi ly tâm VTI có cấu tạo là một tháp hình trụ thẳng đứng. Khí
chứa bụi được cấp vào phần dưới tháp theo phương tiếp tuyến và do đó dòng khí
chuyển động tròn và theo hướng dịch lên trên. Dưới tác dụng của lực ly tâm nên
các hạt bụi lắng đọng lên thành tháp. Ở phần trên tháp theo chu vi tròn người ta
lắp các vòi phun nước có áp. Các tia nước có hướng tiếp tuyến với bề mặt bên
trong của tháp và cùng chiều với chiều quay của dòng khí để không tạo thành
mù sương. Nước chảy theo bề mặt của tháp, làm ướt các hạt bụi và cuốn chúng
xuống phần đáy côn của tháp và được tháo tải liên tục qua một van chặn nước,
kết cấu đặc biệt. Không khí chuyển động tròn trong tháp và đi ra ở cửa phía trên.
Bề mặt bên trong của tháp được lát gạch chịu axit. Chiều dày lớp nước trên bề
mặt trong thiết bị khoảng 0,3 - 0,4mm; chi phí nước 90 - 125g/m3 khí, còn áp
lực nước 0,98 - 1,47 kPa. Tốc độ dòng khí trong tháp khoảng 4-5,5 m/s.
Thiết bị rửa bụi dạng MR khác thiết bị trên là ở đầu khí cấp có lắp các vòi
phun nước cùng một tấm lưới chắn ngang tiết diện cửa ra vào. Không khí chứa
bụi đầu tiên đi qua không gian giữa các vòi phun và qua lưới chắn được tưới
nước và các hạt bụi được sơ bộ thấm nước. Sau đó quá trình khử bụi tương tự
như tháp rửa VTI. Hiệu suất khử bụi khoảng 80% với chi phí nước khoảng
100g/m3.
b. Thiết bị rửa bụi tốc độ cao (dạng Venturi).
Các thiết bị khử bụi ướt tốc độ cao cấu tạo chủ yếu gồm ống Venturi và
cơ cấu ly tâm thu nước. Cấu tạo ống Venturi được trình bày ở hình vẽ. Tại điểm
thắt hẹp của ống người ta cấp nước bằng một vòi phun. Dòng khí đi qua ống
Venturi có tốc độ cao, trong khoảng 4 - 150m/s. Khi đi vào vùng thắt hẹp thì tốc
độ dòng khí tăng dần và đạt cực đại ở đầu thắt. Dưới tác động của dòng khí chảy
rối nước cấp vào đây được phân tán thành những giọt cực nhỏ, trộn đều với
106
dòng khí và kết hợp với các hạt bụi. Khi ra khỏi đầu thắt thì tốc độ dòng khí
giảm dần tạo điều kiện thuận lợi để các giọt nước chứa bụi kết tụ thành các giọt
to hơn.
Thiết bị rửa bụi dạng MS - VTI có cấu tạo tương tự như tháp rửa bụi ly
tâm MR (xem hình vẽ) và gồm một tháp hình trụ tròn thẳng đứng, ống Venturi
và vòi phun. Ở đây lưới được thay thế bởi ống Venturi. Các hạt bụi được thấm
ướt, các giọt nước chứa bụi, lúc này có kích thước khá lớn, được lắng đọng vào
bề mặt trong của tháp, chảy xuống và thu hồi qua van chặn nước ở đáy tháp.
Thiết bị rửa bụi dạng MPR (xem hình vẽ) là thế hệ thiết bị rửa bụi mới
nhất có hiệu suất khử bụi rất cao, thường được áp dụng ở khâu khử bụi cuối
cùng cho các bụi cực mịn nhất là sau các thiết bị sấy. Không khí chứa bụi được
quạt thổi cấp vào thiết bị qua một lưới được tưới nước. Ở đây một phần các hạt
bụi bị lắng đọng lên lưới chảy dưới dạng slam xuống van chặn nước.
Sau đó không khí đi vào ống Venturi và các hạt bụi mịn được kết hợp với
nước. Cuối cùng hỗn hợp khí - mù sương được đi qua lưới định hướng xoắn, và
do tác động của lực ly tâm các hạt nước được lắng đọng lên thành bên trong của
cơ cấu thu nước. Slam thu hồi chảy vào bể và một phần được cấp quay lại các
vòi phun để tiết kiệm nước.
ống nở dần
b) Thiết bị dạng MS-VTI: 1- Tháp hình trụ tròn; 2- Vòi phun; 3- Ống Venturi; 4- Van
nước chặn khí
c) Thết bị dạng MPR: 1- Bể chứa slam; 2- Cơ cấu ly tâm thu giọt; 3- Lưới hướng
xoắn; 4- Ống venturi; 5- Quạt hút; 6- Ống nở dần; 7- Lưới xếp; 8- Ống cong; 9-
Van nước chặn khí; 10- Vòi phun; 11- ỐNg tràn slam.
Hình 4.6: Thiết bị rửa bụi tốc độ cao Venturi
a) Nguyên lý Venturi: 1- Ống cấp nước; 2- Phần ống thắt dần; 3- Họng thắt; 4- Phần
107
c. Thiết bị khử bụi dạng lọc ướt.
Các thiết bị lọc ướt được áp dụng để khử bụi khi cho không khí chứa bụi
đi qua một lớp nước hoặc lớp bọt và các hạt bụi được giữ lại trong bọt hoặc
nước. Đơn giản nhất là thiết bị dạng sục khí. Trong các thiết bị khử bụi dạng sục
khí thì không khí chứa bụi được cấp sục qua một thể tích nước để tạo thành các
bọt khí có đường kính khoảng 3-7mm. Các bọt khí chuyển động với tốc độ 0,25
- 0,35mm/s và do đó năng suất của các thiết bị này rất thấp. Hiệu suất khử bụi
cũng không cao (khoảng 50 - 60%) vì một phần hạt bụi chứa trong bóng khí
không đi vào nước.
Một dạng thiết bị khử bụi sủi bọt được trình bày ở hình vẽ. Đó là một
dung tích hình trụ côn giữa có lắp một lưới và nước được cấp chảy ngang trên bề
mặt lưới. Không khí chứa bụi được cấp qua lưới từ phía dưới. Khi qua lưới
chúng tạo thành một lớp bọt dày khoảng 100-200mm. Bọt cùng slam tràn qua
ngưỡng và được tháo tải. Chiều cao lớp bọt có thể điều chỉnh bằng điều chỉnh
ngưỡng tràn. Các hạt bụi thô lắng đọng xuống phần hình côn của thiết bị và
được thải định kỳ. Không khí sạch đi ra ở nắp phía trên. Tốc độ không khí
khoảng 2-2,5m/s; chi phí nước 0,8 - 0,9 l/m3 khí; hiệu suất lọc bụi rất cao đến
99%. Nhược điểm của thiết bị này là lưới hay bị tắc.
1- Thân hình trụ côn; 2- Lưới; 3- Ống
cấp nước; 4- Ngưỡng bọt; 5- Ống tháo
Hình 4.7: Thiết bị khử bụi dạng sục khí
1- Thân hình trụ; 2- Ống thoát khí sạch;
3- Ống cấp khí; 4- Ống tháo slam
Một dạng thiết bị lọc ướt bụi là thiết bị lọc qua lớp đệm tưới nước. Sơ đồ
một thiết bị như vậy được trình bày ở hình 9. Không khí chứa bụi đầu tiên được
đi qua ống Venturi. Các hạt bụi thô va chạm vào bề mặt nước và lắng đọng
xuống phía dưới. Không khí sau đó đổi hướng đi lên phía trên qua lưới và lớp
vật liệu chèn đệm được tưới nước.
108
Hình 4.8: Thiết bị khử bụi lọc qua lớp đệm tưới nước
4,7- Vòi phun cấu thu giọt; 6- Lưới;
5- Lớp vật chèn sương; 1- Ống Venturi;
2- Buồng thu khí; 3- Cơ đệm; 8- Bunke chứa slam
Hầu hết các hạt bụi mịn được giữ lại trên bề mặt lớp vật liệu đệm và được
thải ra ngoài theo nước. Hiệu suất khử bụi của thiết bị như vậy lên tới 99%.
IV.5.2. Khử bụi bằng lọc khô.
Quá trình lọc bụi khô là quá trình làm sạch bụi khi cho không khí chứa
bụi đi qua một vách ngăn có các lỗ rỗng. Các hạt bụi được giữ lại trên bề mặt
vách ngăn trong khi không khí lọt qua.
Ưu điểm của phương pháp lọc bụi khô: hiệu quả khử bụi cao, khả năng
thu bụi trong không khí khô và ẩm, khả năng lọc bụi thô và mịn khi hàm lượng
bụi thấp, khả năng tự động hóa, quá trình ít phụ thuộc vào chi phí khí và sự thay
đổi tính chất lý hóa của bụi, đơn giản khi vận hành.
Khuyết điểm: cấu tạo cồng kềnh, không áp dụng vách ngăn bằng vải để
lọc không khí chứa nhiều hơi nước, cần thiết thường xuyên phục hồi bề mặt lọc,
chi phí năng lượng khá cao do trở lực lọc cao…
Các thiết bị lọc bụi khô rất đa dạng. Ở đây ta xem xét một dạng đơn giản
và phổ biến, đó là máy lọc bụi dạng tay áo (xem hình vẽ).
Máy lọc bụi bao gồm một thân bằng kim loại, các ống cấp khí và thoát
khí, cơ cấu rung, các túi dạng tay áo, bunke, nắp bunke và cơ cấu cửa tháo.
Trong thân máy treo nhiều túi vải hay tay áo đóng vai trò là vách lọc, đầu dưới
của chúng nối với bunke thông qua các lỗ thủng trên nắp bunke. Các đầu trên
của tay áo được treo vào một khung nối với cơ cấu rung.
109
Hình 4.9: Thiết bị lọc bụi khô dạng tay áo
1- Ống cấp khí chứa bụi; 2- Thân thiết bị bằng kim
loại; 3- Ống thoát khí sạch; 4- Cơ cấu nung; 5- Túi
lọc dạng tay áo; 6- Nắp bunke; 7- Bunke chứa bụi;
8- Cửa tháo
Không khí chứa bụi được hút qua ống cấp khí vào bunke, và sau đó được
phân phối vào các tay áo. Bụi được giữ lại trên bề mặt trong của tay áo còn
không khí đi qua khe vải và đi ra khỏi thiết bị lọc theo ống thoát. Khi lớp bụi
dày lên thì trở lực lọc khí tăng dần đến giảm năng suất thiết bị theo lưu lượng
khí đi qua. Chính vì vậy cứ khoảng 3 - 8 phút tùy thuộc vào độ hạt bụi, các tay
áo được tự động rung để rũ lớp bụi xuống. Trong thời điểm rũ xả bụi thì không
khí được cắt đồng thời khí ép được cấp thổi ngược lại để làm sạch vải lọc. Bụi
rơi xuống bunke và được tháo tải qua cửa tháo ở đáy bunke. Máy lọc làm việc ở
chế độ hút khí do quạt hút tạo nên.
IV.5.3. Lọc bụi tĩnh điện.
Làm sạch bụi bằng điện được áp dụng rộng rãi trong các nhà máy tuyển.
Ưu điểm của phương pháp này là: - hiệu suất khử bụi cao (đến hơn 99%), - trở
lực thấp, - hoạt động không phụ thuộc vào áp suất khí, chi phí điện năng thấp
(0,1 - 0,8kWh so với >2kWh đối với các thiết bị lọc bụi khác, - khả năng làm
sạch khí ở nhiệt độ cao, - làm việc với mức dao động nồng độ bụi lớn (từ một
vài phần gam cho đến 50g bụi trong 1m3 không khí), - có thể được tự động hóa
hoàn toàn. Nhược điểm của các thiết bị lọc bụi tĩnh điện là: - giá thiết bị cao so
với các thiết bị kiểu khác, - kích thước lớn, - cần công nhân vận hành trình độ
cao, - hiệu quả thấp với một số chất (như bồ hóng, ôxit kẽm…), - khả năng gây
nổ đối với các bụi dễ cháy nổ.
Nguyên lý hoạt động của thiết bị lọc bụi tĩnh điện dựa trên sự ion hóa
không khí chứa bụi đi qua không gian giữa hai hệ thống điện cực của một điện
trường điện thế cao. Trong không gian đó các hạt bụi bị tích điện và lắng đọng
trên điện cực có điện tích trái dấu. Các điện cực lắng đọng đó được định kỳ rung
để xả bụi lắng đọng vào ngăn thu bụi.
Thực nghiệm cho thấy rằng trong quá trình lắng đọng bụi còn có tác dụng
của luồng “gió điện” - tức là tác động cơ học của luồng ion lên các phần tử
không khí trong điện trường, dẫn đến sự chuyển động của không khí theo hướng
tới điện cực lắng đọng. Trên hình vẽ có trình bày các sơ đồ điện cực chủ yếu và
110
sự sắp xếp phân bố các đường sức giữa các điện cực. Mật độ đường sức lớn nhất
và cường độ điện trường lớn nhất, như trên hình 11, là ở trong trường hợp điện
cực dạng dây dẫn là nơi có mật độ đường sức lớn nhất và sẽ sinh ra vầng sáng
tím được gọi là “điện hoa”. Tia đó không thể đạt tới được điện cực đối diện vì
khi đi xa khỏi dây dẫn thì cường độ điện trường giảm dần. Dạng phóng tia lửa
điện như vậy gọi là phóng điện dạng điện hoa. Các điện cực mà xung quanh
chúng xuất hiện điện hoa được gọi là điện cực điện hoa, còn các điện cực đối
diện - điện cực lắng đọng. Khi giữa các điện cực có dòng điện hoa thì các hạt
bụi bị tích điện bởi các ion âm và bị hút vào điện cực lắng, sau đó bị rung và rơi
vào bunke.
a/ Hệ thống ống – dây dẫn
c/ Hệ thống tấm – dây dẫn
b/ Hệ thống tấm – tấm
d/ Hệ thống ống - ống
Hình 4.11: Sơ đồ các hệ điện cực và phân bố đường sức giữa chúng
Građient giảm điện thế lớn nhất có được ở hệ thống điện cực dạng dây
dẫn - ống còn đối với hệ thống điện cực dạng tấm thì không có građient giảm
điện thế. Trong hệ thống điện cực dây dẫn - ống thì dây dẫn là điện cực điện hoa
còn ống là điện cực lắng đọng. Trong thực tế thường áp dụng hệ dạng dây dẫn -
tấm mặc dù hệ thống này có hiệu suất kém hơn.
+ Thiết bị lọc bụi tĩnh điện dạng ống
Có hai dạng thiết bị lọc bụi tĩnh điện: dạng ống và dạng tấm:
Các điện cực lắng của thiết bị lọc bụi này là các ống kim loại hình trụ tròn
có đường kính 15 - 300mm, còn điện cực vầng sáng là các dây dẫn điện crôm-
niken dày 1,5 - 2mm chạy dọc theo trục ống. Ống có thể là ống thép (đối với khí
trung tính), hoặc chì (đối với khí axit).
Cấu tạo thiết bị lọc bụi dạng ống gồm một buồng bằng thép hoặc bê tông
cốt thép và một bunke tháo tải bụi. Trong buồng lọc bụi có lắp các ống thép và
theo trục của chúng là các dây dẫn (điện cực vầng sáng) được treo trên khung
đặt trên sứ cách điện. Điện cực lắng đọng được gắn vào một hệ khung khác.
Không khí chứa bụi qua ống cấp khí đi vào các ống lắng đọng; ở đây bụi được
lắng vào các thành trong của ống và sau đó bị rung xả xuống bunke chứa ở phía
111
dưới. Khí được làm sạch đi ra khí quyển theo ống thoát.
Hình 4.12: Thiết bị lọc bụi tĩnh điện dạng ống
1- Buồng lọc bụi; 2- Bunke tháo tải bụi; 3- Ống kim loại (điện cực lắng đọng); 4- Khung treo
điện cực dây dẫn; 5- Điện cực vầng sáng dạng dây dẫn; 6- Khung treo điện cực dạng ống; 7-
Sứ cách điện; 8- Cơ cấu xả rũ bụi; 9- Ống cấp khí chứa bụi; 10- Ống thoát khÝ s¹ch.
+ Thiết bị lọc bụi tĩnh điện dạng tấm
Bao gồm một buồng lọc bằng thép hoặc bê tông cốt thép bên trong các
điện cực vầng sáng và điện cực lắng đọng. Điện cực lắng đọng là các tấm có cấu
trúc đặc biệt trong khi các điện cực vầng sáng là hệ thống các dây dẫn. Các điện
cực vầng sáng được treo vào một khung. Khí chứa bụi được dẫn vào từ dưới lên
đi vào không gian giữa các điện cực. Các hạt bụi được lắng đọng lên các điện
cực lắng đọng còn khí sạch được thải ra khí quyển. Điện thế ở các điện cực vầng
sáng là 50-60kV còn các điện cực lắng được tiếp đất.
IV.5.4. Các sơ đồ khử bụi
Trong nhà máy tuyển thì quá trình khử bụi có thể diễn ra theo một, hai
hoặc ba giai đoạn. Sự lựa chọn sơ đồ khử bụi phụ thuộc vào thành phần độ hạt
của bụi cũng như nồng độ bụi.
Sơ đồ khử bụi một giai đoạn được áp dụng để làm sạch không khí trong nhà
xưởng trong các hệ thống thông gió công nghiệp khi bụi tương đối thô hoặc có
nồng độ thấp. Sơ đồ một giai đoạn cũng thường được áp dụng để làm sạch khí
112
tác nhân sấy đi ra thiết bị sấy ống hơi nước (xem hình 13).
Sơ đồ khử bụi hai giai đoạn được áp dụng để làm sạch không khí phân
xưởng đập của nhà máy tuyển cũng như làm sạch khí lò đi ra từ thiết bị sấy. Ở
giai đoạn I thường sử dụng xyclon đơn hoặc xyclon bộ để thu các bụi tương đối
thô. Ở giai đoạn II để làm sạch triệt để không khí áp dụng các thiết bị lọc bụi
tĩnh điện hoặc lọc bụi ướt hoặc lọc bụi tay áo.
Sơ đồ khử bụi 3 giai đoạn được áp dụng chủ yếu để làm sạch không khí đi
ra từ các thiết bị sấy (tang quay, ống sấy và sấy tầng sôi). Giai đoạn I thường là
buồng tháo tải của thiết bị sấy để tách hầu hết vật liệu được sấy. Giai đoạn khử
bụi tiếp theo được thực hiện trong xyclon bộ và giai đoạn cuối cùng trong các
thiết bị khử bụi ướt hiệu suất cao.
dạng tấm
Hình 4.13: Thiết bị lọc bụi tĩnh điện
Nhằm loại bỏ nguồn phát thải chính bụi và khí độc vào không khí của mỏ
lộ thiên, người ta đã chế tạo các thiết bị xúc bóc có lực cắt lớn hoặc máy xới để
làm tơi đất đá thay thế cho khâu khoan - nổ mìn (còn gọi là công nghệ khai thác
sạch) và bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan trong hoạt động thực tiễn
trên các mỏ lộ thiên của Nhật, Mỹ, Nga và Đức.
Hãng Caterpillar (Mỹ) và Komatsu (Nhật) đã chế tạo ra các loại máy xới D9R,
D10R, D11R, D275A, D375A, D475A và D575A có công suất động cơ từ 301 - 784
KW với trọng lượng làm việc 48 - 100 tấn có khă năng xới sâu 1,2 ÷ 1,8 m trong đất
đá từ cứng vừa tới cứng khi tốc độ truyền âm trong đá Vs < 2500 m/s.
Tại Nga cũng đã chế tạo các loại máy xới trên cơ sở máy kéo T500 và đã
áp dụng thành công ở một số mỏ lộ thiên như Đônbat (Nga) và Udơbekitan. Gần
113
đây họ đã cải tiến các răng tích cực đạt năng suất tới 31 ÷ 41% cao hơn. Còn ở
Mỹ, so với khoan nổ mìn, làm tơi đất đá bằng máy xới có chi phí thấp hơn tới
60%.
Năm 1993 và 1994 nhà máy sản xuất máy mỏ Uran (Nga) đã cho ra đời
sản phẩm mới là 4 chiếc máy xúc có “gầu tích cực” EKG - 5B cải tiến từ máy
xúc EKG - 5A. Sự khác biệt giữa EKG - 5B và EKG - 5A là thành trước của gầu
xúc có 3 răng xúc họat động theo búa đập khí nén xen giữa các răng cố định.
Cho tới nay các máy xúc này vẫn đang hoạt động tốt trên các mỏ đá vôi và đá
đôlômít có hệ số cứng f = 12 (có nơi σn = 157 MPα) mà không cần khoan nổ
mìn. Hiện tại, nhà máy này đang chế tạo loại máy xúc EKG - 12B trên cơ sở cải
tiến từ máy xúc EKG - 12A.
Trong thời gian tới các loại máy xúc này sẽ được sử dụng rộng rãi trên các
mỏ than lộ thiên của Nga, nơi mà độ cứng đất đá f = 8 ÷ 10.
Sử dụng công nghệ khai thác sạch không chỉ mang lại hiệu quả to lớn về
kinh tế mà còn là một giải pháp công nghệ tích cực, hạn chế được việc phát thải
bụi và các khí độc hại vào môi trường do hoạt động khoan – nổ mìn trên mỏ lộ
thiên gây ra.
IV.6. Xử lý nước thải trên mỏ lộ thiên.
IV.6.1. Dùng phương pháp lắng cơ học
Xung quanh mặt bằng SCN, bãi chứa sản phẩm cần có hệ thống cống rãnh
và xây dựng các hố lắng. Các hố lắng được thiết kế phù hợp (cấu tạo hố lắng
xem hình 4) để hạn chế bùn, đất, cát bị nước mưa cuốn trôi gây ô nhiễm nguồn
nước. Cặn lắng được nạo vét thường xuyên và được vận chuyển đến nơi xử lý
quy định.
Hình 4.14: Sơ đồ cấu tạo hố lắng cặn cứng
Đối với nước mưa chảy tràn, khi thoát ra thường mang theo nhiều cặn
cứng như vụn đá, cát, sét, mùn, quặng.... Do vậy trước khi hoà mạng thuỷ văn
khu vực, nước thải cần được làm trong bằng cách bơm qua hồ lắng.
Dung tích hồ lắng được tính toán sao cho có thể thu nạp hết lượng nước nhiễm
bẩn do một trận mưa lớn từ mỏ bơm ra.
(6.13) Vh = Fmax.S.Kt, m3 ,
114
trong đó: Fmax - lượng mưa lớn nhất của một trận mưa, m; S - Diện tích hứng
mưa của mỏ, m3; Kt - hệ số thu hồi khi nước dồn vào mỏ, Kt = 0,75 ÷ 0,85.
Nếu không đủ mặt bằng để xây dựng một hồ lắng lớn thì có thể xây dựng
một số hồ nhỏ phân tán có dung tích tương đương.
Trường hợp không có điều kiện để xây dựng hồ lắng chứa hết toàn bộ
khối lượng nước dồn vào mỏ thì cần thiết kế xây dựng hồ lắng sao cho có thể
lắng đọng và giữ lại trong hồ các loại hạt vật liệu có kích thước nhất định để
nước thải ra đạt độ đục cho phép theo luật bảo vệ môi trường.
Chiều dài hồ lắng phải thỏa mãn điều kiện:
, (6.14) Ll ≥ LR, m
0
.18,1
.
H
trong đó: Ll - Chiều dài lắng của các cỡ hạt cần được giữ lại để nước thải đạt
được độ đục cho phép; chiều dài này phụ thuộc vào tốc độ lắng của hạt trong
dòng chảy động và được xác định theo biểu thức:
Ll
max =
V
V
.82,0
.
H
, m (6.15)
Ll
min =
min
V
0
V
max
, m (6.16) ,
trong đó: Vmax, Vmin - Tốc độ lắng của cỡ hạt lớn nhất và bé nhất khi lắng trong
môi trường tĩnh, m/s; Llmax; Llmin - Quãng đường lắng của cỡ hạt bé nhất, m; V0 -
Tốc độ của dòng nước thải khi xả vào hồ lắng, m/s; H - Chiều sâu của hồ lắng,
m.
V
18
18
=
−
Tốc độ lắng của hạt trong môi trường tĩnh:
2
)
gd
(
2
γγ
−
b
d
M
.
dg
M
d
γ
b
⎛
⎜⎜
⎝
⎞
+⎟⎟
⎠
, cm/s (6.17)
trong đó: γd, γb - Khối lượng riêng của đất đá và của dung dịch bùn, g/cm3; M -
hệ số nhớt thủy động của dung dịch, d - đường kính trung bình của hạt, cm; g -
gia tốc trọng trường, m/s2.
Dòng bùn thải xả vào hồ lắng có vận tốc đầu là V0 và vận tốc cuối là Vc
nên có thể coi quá trình lắng của hạt trong hồ lắng là lắng đọng trong môi trường
động.
V
−
0
L
=
Chiều dài lang thực tế của hạt là:
l
H
V
0
lg.3,2
V
c
V
V
c
; m (6.18)
Để giảm quãng đường lắng của hạt có thể dùng biện pháp giảm tốc ban
đầu V0 bằng cách sử dụng các hố tiêu năng thay đổi hướng xả của đầu ống xả,
tăng chiều dài lắng bằng cách tăng kích thước của hồ lắng hoặc xây dựng các
tường chắn dẫn hướng trong hồ lắng để kéo dài quãng đường lắng cho vật liệu.
115
Ngoài ra cũng có thể dùng hoá chất tăng trọng lượng hạt để làm tăng tốc độ lắng
và làm giảm quãng đường lắng, nhưng phương pháp này đắt tiền.
Tiến hành làm lắng đọng kim loại hoặc mùn đá theo phương pháp cơ học
có thể lắng được 30 ÷75% chất huyền phù sau 2 ÷ 3 giờ ngưng đọng và sau 7 ÷
10 ngày có thể đạt độ sạch 90 ÷ 95%.
IV.6.2. Dùng phương pháp lắng cơ học kết hợp với kỹ thuật vi sinh
Có thể dùng bộ lọc sống như rong tảo để làm sạch nước hoặc tạo ra các vi
khuẩn có khả năng hấp thụ các chất dầu trong nước. Ví dụ, công ty General
Engineering đã dùng phương pháp cấy trồng gen để tạo ra các vi khuẩn hấp thụ
chất dầu trong nước mỏ, các chất bẩn còn lại thì dùng cá để thanh lọc. Người ta
còn tạo được các vi sinh vật dùng để hấp thụ protein từ dầu hỏa trong nước thải
từ các mỏ quặng vàng, uran, platin. Tại Irland người ta đã tìm được một loại vi
khuẩn chịu nhiệt độ cao (50 ÷ 60)oC để oxy hoá quặng sunfat. Hoạt tính các loại
vi khuẩn này lớn gấp hàng ngàn lần so với loại vi khuẩn chịu nhiệt độ thấp 30oC.
Đối với nước thải sinh hoạt có thể xử lý bằng hố ga lắng cặn và bể tự hoại
trước khi thải ra môi trường (cấu tạo bể tự hoại 3 ngăn xem hình 5). Nồng độ
các chất ô nhiễm trong nước thải sinh hoạt sau xử lý thỏa mãn các tiêu chuẩn
TCVN 6772 : 2000 (nêu trong Bảng 6.2.). Bể tự hoại là công trình giữ 2 chức
năng: lắng và phân hủy cặn lắng. Cặn lắng được giữ lại trong bể từ 6 ÷ 8 tháng,
dưới tác dụng của các vi sinh vật yếm khí, các chất hữu có có bị phân huỷ, một
phần tạo thành các khí và một phần tạo thành các chất vô cơ hoà tan. Nước thải
lắng trong bể với thời gian dài bảo đảm hiệu suất lắng cao. Nước thải sau khi xử
lý có thể tháo ra hệ thống thoát nước chung.
pH
BOD
Chất rắn lơ lửng
Chất rắn có thể lắng được
Tổng chất rắn hoà tan
Sunfua (theo H2S)
Dỗu mỡ (thực phẩm)
Tổng Coliforms Đơn vị
-
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
MPN/100ml Giá trị
5-9
30
50
0.5
500
1
20
1000 Bảng 4.2. Tiêu chuẩn nước thải sinh hoạt
Thông số
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
116
Hình 4.15: Sơ đồ bể tự hoại 3 ngăn
IV.6.3. Xử lý nước thải chứa dầu mỡ:
pH
Đơn vị
-
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l Giá trị
5.5-9
100
1.0
1.0
2.0
1.0
5.0
0.5
100
50 Nước thải chứa nhiều dầu mỡ, kim loại và các tạp chất khác từ xưởng sửa
chữa cơ khí, bảo dưỡng ôtô và trạm rửa xe... Sau khi qua hố lắng ga lắng cặn
được xử lý tách dầu mỡ bằng bẫy dầu trước khi thải ra môi trường (cấu tạo bể
lọc dầu, mỡ xem hình 6). Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải sau xử lý
thoả mãn các tiêu chuẩn TCVN 5945 : 1995 được nêu trong Bảng 6.3.
Bảng 4.3. Tiêu chuẩn nước thải sau khi xử lý
STT
Thông số
1
2 Chất rắn lơ lửng
3 Dầu mỡ khoáng
4 Đồng
5 Kẽm
6 Niken
Sắt
7
8 Chì
9 COD
10 BOD5(20oC)
117
Hình 4.16: Cấu tạo bể lọc dầu
Dung tích của bể được xác định bằng lượng nước lưu lại trong bể là 5 - 10
phút, chiều sâu bể tối thiểu 1m, đảm bảo tốc độ dòng nước chảy qua bể ≤
0,005m/s đủ để tách tới 90% lượng dầu mỡ trong nước thải.
Có thể dùng kỹ thuật vi sinh (bộ lọc sống) như rong tảo để làm sạch nước
hoặc tạo ra các vi khuẩn có khả năng hấp thụ các chất dầu trong nước. Ví dụ,
công ty General Engineering đã dùng phương pháp cấy trồng gen để tạo ra các
vi khuẩn hấp thụ chất dầu trong nước mỏ, các chất bẩn còn lại thì dùng cá để
thanh lọc. Người ta còn tạo được các vi sinh vật dùng để hấp thụ protein từ dầu
hoả trong nước thải từ các mỏ quặng vàng, uran, platin. Tại Irland người ta đã
tìm được một loại vi khuẩn chịu nhiệt độ cao (50 ÷ 60)0C để ôxy hoá quặng
sunfat. Hoạt tính các loại vi khuẩn này lớn gấp hàng ngàn lần so với loại vi
khuẩn chịu nhiệt độ thấp 300C.
IV.6.4. Xử lý nước thải từ mỏ bằng phương pháp trung hoà
Nước thải từ mỏ (hoặc nhà máy tuyển khoáng) bơm ra cần được xử lý
trước khi sử dụng hoặc cho hoà nhập vào mạng thuỷ văn khu vực. Tuỳ theo mục
đích sử dụng và tính chất của nước thải mà các mỏ có thể áp dụng các kỹ thuật
xử lý khác nhau. Trung hoà nước mỏ bằng các chất xúc tác là phương pháp được
áp dụng phổ biến trên nhiều mỏ lộ thiên. Các chất xúc tác thường dùng là vôi
vữa, sút, Sunfat Fe, Potash, MgCO3, Sunfat bải.
Bằng phương pháp trung hoà có thể làm cho các mỏ giảm thiểu hàm
lượng trong nước thải của Cu còn 5,2 mg/l, Zn - 10mg/l, fluorin - 92mg/l, Mo -
2,4mg/l, sản phẩm dầu - 4mg/l, các chất vẩn đục - 190mg/l... Ví dụ, ở vùng mỏ
Irkusk (Nga) người ta dùng vôi, xút, sunfat Al, sunfat Fe để trung hoà, đạt độ
sạch 90 ÷ 95%, còn để tiêu độc người ta dùng dung dịch hipochlorit. ở Mỹ, thì
trung hoà nước mỏ bằng vôi, xút Natri và Kali. ở Anh người ta dùng vôi
(MgCO2, Ca). Nước trung tính hay kiềm được làm sạch bằng cách thông gió
trên các giàn phun nước. Các vật cứng trong nước thì làm sạch bằng cách lắng
đọng cơ học.
118
Mỏ đồng Sin Quyền có thể lợi dụng tính kiềm cao trong đất đá thải để
trung hoà tính axit trong nước thải bằng cách bơm ngược nước thải từ hố lắng
lên bãi thải đất bóc để trung hoà nước trước khi sử dụng lại hoặc hoà mạng thuỷ
văn khu vực.
Ở các mỏ than vùng Quảng Ninh, nước thải từ đáy mỏ bơm lên phần lớn
đều có độ pH thấp (4,2 ÷ 5,5), có thể dùng vôi để trung hoà trước khi hoà mạng
thuỷ văn. Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải giới thiệu ở Hình 10.
Vôi được dùng ở dạng vôi tôi Ca(OH)2. Với nước thải có nồng độ trung
bình pH = 4,5 để tăng độ pH = 7 thì lượng vôi cần thiết để trung hoà là ~ 0,1g/l.
Nồng độ của chất rắn trong bùn vôi có thể thay đổi 5 ÷ 20%, thường là 10%.
Nước thải từ đáy mỏ được bơm qua bể trộn nhanh, đồng thời với việc cho
vôi sữa vào theo tỷ lệ 0,1g/l nước thải. Để tăng hiệu quả trung hoà, có thể dùng
máy khuấy cánh quạt để trộn đều dung dịch. Từ bể trộn nhanh, nước thải được
dẫn đến bể trung hoà axit và lắng cặn.
Hình 4.17. Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải từ đáy mỏ lộ thiên
Thông số các bể chính: có thể tham khảo các số liệu sau:
- Bể điều lượng có kích thước (dài x rộng x cao): 25x5x3 (m)
- Bể trung hoà có kích thước (dài x rộng x cao): 2x2x3 (m)
- Bể lắng có kích thước (dài x rộng x cao): 25x5x3 (m)
119
Trong nước thải sản xuất có chứa nhiều cặn lơ lửng, riêng nước thải khu
sửa chữa cơ khí còn chứa dầu mỡ, lượng nước thải này sẽ được thu gom và xử
lý trước khi thải ra ngoài.
Nước thải sản xuất được tập trung vào hố lắng cặn, sau khi lắng phải đảm bảo
chất lượng nước loại B theo TCVN 5945 - 1995 mới được thải vào hệ thống
thoát nước chung.
B
=
Kích thước của bể lắng được xác định trên cơ sở lưu lượng ngày lớn nhất
của nước thải Qmax(m3/ng.đ) tính theo q m3/s, chiều sâu bể chọn trước (thường
H=2 ÷ 2,5m) và vận tốc dòng chảy trung bình trong bể lắng (thông thường chọn
V=0,005m/s):
q
VHn
.
.
, m (6.19)
trong đó: q - Lưu lượng chất thải lớn nhất, m3/s; n - Số ngăn bể; H - Chiều cao
công tác bể lắng; V - Vận tốc nước trung bình trong bể.
L =
Để đảm bảo hiệu suất lắng E ≥50%, trong bể cần giữ lại các hạt có độ lớn
thuỷ lực tối thiểu U0 = 0,617 mm/s. Chiều dài bể lắng L được xác định theo biểu
thức:
HV
.
KU
0
(6.20) , m
W
=
Lượng cặn Wng.đ giữ lại trong bể trong 1 ngày đêm sẽ là:
ng.d
EQC
0
*
1000
1000
(6.21) , tấn/ng.đ
trong đó: K - Hệ số phụ thuộc, K=0,5; U0 - Độ lớn thủy lực của các hạt cặn tối
thiểu theo quy định, U0=0,000617 m/s; C0 - Hàm lượng cặn lơ lửng trong nước
thải, lúc bình thường C0 = 200mg/l. Cấu tạo bể lắng được giới thiệu trên
hình4.18.
Hinh 4.18 Sơ đồ nguyên lý cấu tạo bể lắng
120
a. Dùng phương pháp trung hoà bằng các chất xúc tác.
Các chất xúc tác thường dùng là vữa vôi, sút, sunfat Fe, potash, MgCO3, sunfat bải.
Bằng phương pháp trung hoà có thể làm cho các mỏ giảm thiểu hàm
lượng trong nước thải của Cu còn 5,2 mg/l, Zn - 10mg/l, fluorin - 92 mg/l, Mo -
2,4 mg/l, sản phẩm dầu - 4 mg/l, các chất vẩn đục - 190 mg/l... Ví dụ, ở vùng mỏ
Irkusk (Nga) người ta dùng vôi, sút, sunfat Al, sunfat Fe để trung hoà, đạt độ
sạch 90 ÷ 95%, còn để tiêu độc người ta dùng dung dịch hipochlorit. Ở Mỹ, thì
trung hoà nước mỏ bằng vôi, sút natri và kali. Ở Anh người ta dùng vôi (MgCO2,
Ca). Nước trung tính hay kiềm được làm sạch bằng cách thông gió trên các giàn
phun nước. Các vật cứng trong nước thì làm sạch bằng cách lắng đọng cơ học.
Mỏ đồng Sin Quyền có thể lợi dụng tính kiềm cao trong đất đá thải để
trung hòa tính axit trong nước thải bằng cách bơm ngược nước thải từ hố lắng
lên bãi thải đất bóc để trung hòa nước trước khi sử dụng lại hoặc hòa mạng thủy
văn khu vực.
b. Dùng phương pháp trao đổi ion.
Trong nước mỏ thường có các ion sianit rất độc. Có thể làm sạch chúng
bằng cách dùng các chất hấp thụ để tạo nên các trao đổi anion. Phương pháp này
được áp dụng ở nhiều mỏ của Thuỵ Điển. Tại Nhật, để tách các ion kim loại
nặng hoá trị 2 và các ion sunfat trong nước mỏ, người ta cho bari kết hợp với các
ion sunfat, còn các ion kim loại sẽ tách ra dưới dạng sunfat. Sau đó dùng
phương pháp tuyển nổi trong axit béo để tách các ion bari ra khỏi nước thải.
Phương pháp này có thể làm sạch nước mỏ tới 90%.
IV.7. Xử lý quặng đuôi tuyển nổi và bùn tại hồ thải
Quặng đuôi tuyển nổi và bùn thải mịn là nguồn nước thải chủ yếu của nhà
máy tuyển. Công việc xử lý quặng đuôi tuyển nổi là một việc phức tạp và đòi
hỏi nhiều chi phí đầu tư cơ bản.
Việc xử lý quặng đuôi tuyển nổi nhằm các mục đích sau:
Chất thải được một khối lượng lớn quặng đuôi tuyển nổi mà nếu thải ra •
môi trường sẽ làm ô nhiễm sông suối ruộng đồng xung quanh.
Thu hồi và tận dụng một lượng nước lớn cho nhu cầu công nghệ làm nước •
tuần hoàn.
Phân hủy các tạp chất có hại trong điều kiện tự nhiên có trong nước thải •
khi thải chúng ra môi trường.
121
Hình 4.19. Sơ đồ xử lý nước thải bằng phương pháp sinh hóa.
1- Nhà máy tuyển; 2- Bơm bùn; 3- Ống dẫn bùn; 4,5- Khung dầm đỡ; 6- Đập chắn;
7- Mặt bồi đắp từ cặn lắng; 8- Nước trong; 9- Mặt nước được lắng trong; 10- Giếng thu nước
trong; 11- Cống ngầm dẫn nước; 12- Bể thu nước; 13- Trạm bơm nước (tuần hoàn)
Hình 4.20: Bãi thải quặng đuôi tuyển nổi
122
IV.8. Tận dụng công trình mỏ cũ vào mục đích dân sinh khác.
Việc tận dụng lại các công trình mỏ lộ thiên sau khi đã kết thúc phải được
định hướng ngay từ giai đoạn thiết kế mỏ. Bởi vì mục đích sử dụng phải phù
hợp với các đặc điểm về vị trí, kết cấu và chất lượng của công trình mỏ sau khi
kết thúc vào những mục đích sau:
- Dùng bãi thải làm diện tích trồng rừng mới.
- Dùng đất đá thải đắp đê, lấp biển, lấp ao hồ, mở rộng diện tích canh tác
và xây dựng.
- Dùng đất đá thải đắp đê chắn và trồng cây để ngăn bụi và tiếng ồn giữa
khu chung cư với nơi có mật độ phương tiện giao thông lớn.
- Sử dụng đường mỏ vào mục đích phát triển giao thông khu vực.
- Sử dụng khoảng trống khai thác (sau khi đã lấp cho bớt sâu) làm khu vui
chơi giải trí hoặc công viên cho tụ điểm dân cư mới.
- Hình thành tụ điểm dân cư mới trên khu vực mỏ sau khi mỏ kết thúc.
Những giải pháp trên đây không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà
còn có ý nghĩa về sự hạn chế suy giảm môi trường do tác động của khai thác lộ
thiên.
123
CHƯƠNG V:
PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG SAU KHAI THÁC
V.1.Công tác chuẩn bị
Trong quá trình khai thác mỏ, một loạt các yếu tố của môi trường sinh
thái như đất, nước, không khí cũng như các yếu tố về kinh tế, xã hội của khu vực
mỏ đã bị tác động, biến đổi đáng kể tuỳ theo qui mô và phương pháp khai thác.
Chính vì vậy sau khi kết thúc khai thác mỏ, các cá nhân và tổ chức hoạt động
khai thác khoáng sản cần phải có trách nhiệm hoàn thổ và phục hồi môi trường
sau khai thác.
Dựa vào đặc thù của công tác khai thác mỏ, hiện trạng sau khai thác và
những yêu cầu đối với công tác khôi phục, cải tạo đất đai, địa hình - cảnh quan
và các vấn đề kinh tế, văn hoá - xã hội, mà cần phải tiến hành công tác chuẩn bị
cho các chương trình hoàn phục môi trường.
Một cách khái quát, công tác chuẩn bị hoàn phục môi trường bao gồm các
công việc sau:
- Thống nhất về những công trình bàn giao để địa phương quản lý và sử
dụng;
- Tháo dỡ và di chuyển thiết bị, công trình không cần thiết;
- Chuẩn bị phương án san lấp các hầm hố, hào rãnh, đề phòng tai nạn cho
người và súc vật.
V.1.1. Thống nhất về những công trình bàn giao để địa phương quản lý và
sử dụng
Hoàn phục môi trường là một phần không thể tách rời của kế hoạch khai
thác mỏ, do đó khi lập kế hoạch cần tính đến việc sử dụng đất một cách thích
hợp với khu vực và có sự quản lý phù hợp, lâu dài. Chính vì vậy, trước khi có
các chương trình hoàn phục môi trường cần thiết phải có sự tham khảo ý kiến
với cộng đồng có quyền lợi liên quan trong đó có các ban ngành của chính phủ,
chính quyền địa phương, các chủ sở hữu đất.
Các công trình của mỏ sau khi kết thúc khai thác bao gồm: các moong
khai thác, các bãi thải, hệ thống tuyến đường hào, hệ thống thoát nước mỏ, hệ
thống vận tải ngoài mỏ, mặt bằng công nghiệp, các kho tàng, nhà xưởng, trạm
điện,…
Trong số các công trình trên, không phải công trình nào cũng phải tháo dỡ
và di chuyển đi khi thực hiện các chương trình hoàn phục môi trường. Tuỳ theo
tính năng và mục đích sử dụng của các công trình hoặc nhóm các công trình này
mà địa phương hoặc chủ đất của khu mỏ có thể đề xuất mỏ bàn giao cho địa
phương quản lý, cải tạo hoặc tiếp tục sử dụng cho những mục đích dân dụng, xã
hội thậm chí là kinh doanh sau đó.
124
Trong thực tế đã có rất nhiều ví dụ sinh động ở nước ngoài về vấn đề này:
nhiều khu mỏ than nâu ở vùng Lauzit của CHLB Đức đã được biến thành các
công viên với đầy đủ núi non, cây cảnh và hồ nước thu hút nhiều khách du lịch;
mỏ hầm lò khai thác bạc ở Freiberg đã trở thành khu du lịch và các trạm phát
điện nhỏ phục vụ cho sinh hoạt của thành phố; một số mỏ đá vôi ở vùng Krưm -
Ukraina sau khi kết thúc khai thác đã được xả nước biển vào thành những hồ
nước du lịch tuyệt đẹp hay như nhiều đường lò của các mỏ khai thác than và
quặng ở Nga đã được cải tạo thành những đường tàu điện ngầm, công trình
ngầm hoặc kho chứa ngầm hiện đại cho địa phương,…
Đối với điều kiện thực tế của các mỏ ở Việt Nam, một số công trình mỏ
có thể cải tạo, tu bổ để phục vụ cho địa phương theo một số hướng sau:
- Sử dụng tuyến đường sắt ngoài mỏ và tuyến đường hào của mỏ để tạo
thành các hệ thống giao thông công cộng cho khu vực;
- Sử dụng moong khai thác và các bãi thải cùng hệ thống tuyến đường hào
để tạo nên một khu du lịch sinh thái với đầy đủ núi non và hồ nước;
- Sử dụng các cơ sở hạ tầng như điện, nước, xưởng cơ khí, nhà ở,… của
mỏ phục vụ cho mục đích dân sinh;
- Sử dụng mặt bằng công nghiệp mỏ để xây dựng khu công nghiệp mới,…
Những công trình của mỏ được bàn giao lại cho địa phương quản lý, sử
dụng cần được pháp lý hoá bằng các văn bản, nghiệm thu trên bản đồ và thực
địa. Trong các văn bản này cần cụ thể hoá tình trạng của các công trình này
(điều kiện kỹ thuật, môi trường,…), phương hướng sử dụng chúng trong tương
lai có kèm theo các cam kết của địa phương về trách nhiệm quản lý và sử dụng
các công trình này đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về bảo vệ môi trường của Nhà
nước.
Sau khi bàn bạc, thống nhất với địa phương về những công trình sẽ bàn
giao cho địa phương sử dụng, cần tiến hành công việc tiếp theo trong công tác
hoàn phục môi trường đó là: tháo dỡ và di chuyển các thiết bị, công trình không
cần thiết ra khỏi phạm vi sẽ thực hiện các chương trình hoàn phục môi trường
sau này.
V.1.2. Tháo dỡ và di chuyển các thiết bị, công trình không cần thiết
Ngoài các công trình mỏ ở trên, mỏ còn có rất nhiều các thiết bị khác
được sử dụng trong quá trình khai thác mỏ. Có thể phân chúng thành các loại
sau:
- Các thiết bị làm tơi đất đá: máy xới, đầu đập thuỷ lực, máy liên hợp
phay cắt, máy bào, máy combai, súng bắn nước,…
- Các thiết bị xúc bốc: máy xúc nhiều gầu kiểu rôto, máy xúc nhiều gầu
kiểu xích, máy xúc gầu treo, máy xúc kiểu mỏ, máy xúc tay gầu, máy xúc thuỷ
lực, máy bốc, máy ủi, máy cạp, máy bơm,…
125
- Các thiết bị vận tải: ô tô, đường sắt, băng tải, trục tải, trục nâng - ô tô,
máng cào, đường ống,…
- Các thiết bị thải đất đá: cầu thải, dầm côngxôn,…
- Các thiết bị phụ trợ: máy ủi, máy là đường, xe phun nước, xe cứu hoả,
xe cấp cứu mỏ, xe chỉ huy công trường,…
Đối với các mỏ lộ thiên lớn trên thế giới, ví dụ các mỏ than nâu của
CHLB Đức (sản lượng 40÷50 triệu tấn/năm), cả mỏ chỉ sử dụng một chiếc máy
xúc nhiều gầu rôto hoặc máy xúc nhiều gầu kiểu xích cùng hệ thống băng tải,
cầu thải, trạm điện và các hệ thống phụ trợ khác hay tại một số mỏ khai thác
than lớn tại Mỹ,Australia hay Nga (sản lượng hàng chục triệu tấn /năm), cả mỏ
chỉ có một vài chiếc máy xúc gầu treo hoặc máy xúc bóc đá kiểu mỏ khổng lồ
(dung tích gầu có thể tới 160 m3) được sử dụng để bóc đất đất trực tiếp đổ vào
bãi thải trong phục vụ cho việc khai thác khoáng sản,… thì các thiết bị này
thường được dùng cùng với thời gian tồn tại của mỏ. Điều này có nghĩa, khi mỏ
kết thúc khai thác, chúng cũng sẽ hết khấu hao và cần được dỡ bỏ. Thông
thường, chi phí cho việc dỡ bỏ các thiết bị khổng lồ này là rất lớn.
Đối với các mỏ của Việt Nam, các thiết bị của chúng ta không lớn (máy
khoan lớn nhất hiện nay là máy khoan xoay cầu XBS -250 MN có đường kính
250 mm đang được sử dụng ở các mỏ than Đèo Nai, Cọc Sáu, Cao Sơn,…; máy
xúc tay gầu lớn nhất hiện nay là EKG-10 có dung tích gầu 10m3 đang được sử
dụng tại mỏ than Cọc Sáu; máy xúc thuỷ lực lớn nhất là PC1800 - 12 m3 của
hãng Komatsu và ô tô CAT -777 tải trọng 96 tấn đang được dùng tại mỏ than
Cao Sơn,…) và hầu hết là các thiết bị khai thác theo chu kỳ (trừ một số ít máy
xúc nhiều gầu loại nhỏ kiểu rôto được dùng để khai thác sét ở phía Nam) với
nhiều nguồn xuất xứ và chủng loại khác nhau, nhưng đều có khả năng sửa chữa,
thay thế đặc biệt đối với các thiết bị của Liên Xô cũ.
Chính vì vậy sau khi kết thúc khai thác mỏ, cần thống kê lại toàn bộ các
công trình và thiết bị đã và đang sử dụng trong mỏ (chủng loại, số lượng, tình
trạng, khả năng phục hồi,…). Những công trình và thiết bị nào còn sử dụng
được sẽ được dùng để phục vụ cho công tác hoàn phục môi trường sau đó, còn
những công trình và thiết bị đã hỏng hoặc không thể dùng được phải có kế
hoạch thanh lý hoặc di chuyển ra khỏi khu mỏ để thuận tiện cho các công việc
chuẩn bị hoàn thổ sau đó.
V.1.3. Chuẩn bị phương án san lấp các hầm hố, hào rãnh, đề phòng tai
nạn cho người và súc vật
Như đã trình bày ở trên, khu vực khai thác mỏ là tập hợp của rất nhiều
công trình mỏ, điển hình như: các moong khai thác, các bãi thải (trong, ngoài,
hỗn hợp), hệ thống tuyến đường hào (hào trong, hào ngoài, hào dốc, hào chuẩn
bị,…), hệ thống thoát nước mỏ (mương, rãnh, hố ga, hồ lắng,…), hệ thống vận
tải ngoài mỏ, (đường bộ, đường sắt, băng tải,…), mặt bằng công nghiệp, các kho
tàng, nhà xưởng, trạm điện v.v.
126
Sau khi bàn giao các công trình cho địa phương quản lý sử dụng và tháo
dỡ các công trình, thiết bị không cần thiết, mỏ cần thực hiện công việc tiếp theo
là chuẩn bị các phương án san lấp các hầm hố, hào rãnh, đề phòng tai nạn cho
người và súc vật.
Các hầm hố, hào rãnh thuộc các khu vực sẽ có các chương trình hoàn
phục môi trường sau đó cần được san lấp, trước mắt để đảm bảo an toàn cho
người và súc vật nếu có trong thời gian chuẩn bị cho các dự án hoàn thổ tiếp
theo.
Vì khối lượng để san lấp các loại hào, rãnh này không lớn như đối với các
công việc san lấp bãi thải, nên khối lượng đất đá cho việc san gạt sẽ được vận
chuyển ở những nơi gần đó, cũng thuộc khu vực của mỏ nhưng có địa hình cao
hơn và không ảnh hưởng gì tới các chương trình hoàn phục môi trường tiếp
theo. Trong trường hợp, khối lượng san lấp lớn hơn so với khả năng huy động
đất đá trong khu vực mỏ, cần thiết phải tìm những nguồn vật liệu thích hợp bên
ngoài khu vực mỏ để san lấp các hầm hố, hào rãnh nguy hiểm trên.
Các thiết bị phục vụ cho công tác này chính là các thiết bị như máy xúc,
máy bốc, ô tô, máy cạp, máy ủi,... còn sử dụng được của mỏ. Trong trường hợp,
số lượng và năng suất của các thiết bị này không thể đáp ứng được, cần thiết
phải thuê cả ở bên ngoài để hoàn thành công việc trên.
Đối với những nơi không thuộc phạm vi khu vực cần san lấp để chuẩn bị
cho công tác hoàn phục môi trường như moong khai thác, sườn dốc và một số
công trình mỏ nguy hiểm đối với người và súc vật khi tới gần, cần tạm thời rào
chúng lại bằng dây thép gai hoặc đặt tạm các trạm gác, các biển báo để cảnh báo
nguy hiểm.
Sơ đồ và các cảnh báo trên cần được cụ thể hoá bằng các văn bản và phải
được thông báo cho nhân dân địa phương cũng như mọi người trong khu vực mỏ
biết để đảm an toàn, ít nhất là trong thời gian chờ đợi các dự án hoàn phục môi
trường chính thức được triển khai.
Tóm lại.công tác chuẩn bị là nhiệm vụ đầu tiên cần thực hiện cho các
chương trình hoàn phục môi trường. Nó được dựa trên điều kiện cụ thể về công
nghệ khai thác của mỏ, hiện trạng sau khai thác và những yêu cầu đối với công
tác khôi phục, cải tạo đất đai, địa hình - cảnh quan và các vấn đề kinh tế, văn
hoá - xã hội.
Các công việc cần được thực hiện trong công tác chuẩn bị hoàn phục môi
trường bao gồm:
- Thống nhất về những công trình bàn giao để địa phương quản lý và sử
dụng;
- Tháo dỡ và di chuyển thiết bị, công trình không cần thiết;
- Chuẩn bị phương án san lấp các hầm hố, hào rãnh, đề phòng tai nạn cho
người và súc vật.
127
Những nhiệm vụ ở trên vừa mang tính pháp lý và kỹ thuật, do đó mọi cá
nhân, tổ chức hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam cần ý thức được việc
làm này để cùng với các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện chúng một cách
nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao, góp phần nâng cao hiệu quả của các
hoạt động khai thác khoáng sản ở nước ta, đồng thời thực hiện nghiêm túc việc
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
V.2. Khôi phục cải tạo khai trường
Việt Nam hiện nay đang trong công cuộc CNH - HĐH đất nước, do đó
vấn đề khai thác các tiềm năng khoáng sản phục vụ cho sự phát triển của đất
nước là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích kinh tế to lớn do
ngành công nghiệp khai khoáng mang lại thì chúng cũng tạo ra những tác động
tiêu cực không nhỏ, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái. Chính vì
vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có chiến lược khai thác và phát triển bền vững, hay
nói cách khác ngoài các lợi ích trước mắt do khai thác khoáng sản mang lại, cần
phải tính đến các lợi ích lâu dài sau đó.
Khi tiến hành khai thác mỏ, một loạt các yếu tố của môi trường sinh thái
như đất, nước, không khí cũng như các yếu tố về kinh tế, xã hội của khu vực mỏ
đã bị tác động, biến đổi đáng kể tuỳ theo qui mô và phương pháp khai thác. Vì
vậy sau khi kết thúc khai thác mỏ, các cá nhân và tổ chức hoạt động khai thác
khoáng sản cần có trách nhiệm hoàn thổ và phục hồi môi trường sau khai thác.
Để tiến hành hoàn phục môi trường có kết quả, một công tác rất quan trọng sau
khi kết thúc khai thác mỏ là việc khôi phục, cải tạo công trường và quản lý chất
thải của mỏ. Khôi phục, cải tạo công trường mỏ bao gồm các công việc chính
như sau:
- San lấp mặt bằng công nghiệp;
- Làm thoải bãi thải và các sườn dốc với độ dốc thích hợp để tránh sụt lở
khi mưa gió;
- Bố trí hệ thống thoát nước nhằm bảo vệ địa hình sau khi được khôi
phục;
- Lựa chọn loại cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng đã được cải
tạo, khôi phục.
Còn quản lý chất thải trong mỏ bao gồm:
- Quản lý các chất thải rắn;
- Quản lý nước thải từ mỏ.
Khôi phục cải tạo công trường mỏ nhằm mục đích khôi phục và cải tạo
địa hình của mỏ ổn định và phù hợp với cảnh quan cũng như tạo điều kiện thuận
lợi cho các dự án hoàn phục môi trường sau đó. Một cách khái quát, công tác
này bao gồm các công việc sau:
- San lấp mặt bằng công nghiệp;
- Làm thoải các bãi thải và sườn dốc;
- Bố trí hệ thống thoát nước hợp lý;
- Lựa chọn loại cây trồng phù hợp.
128
V.2.1. San lấp mặt bằng công nghiệp
Trong quá trình khai thác mỏ, mặt bằng mỏ bị phân cắt thành nhiều khu
vực khác nhau để phục vụ cho các mục đích khác nhau như moong khai thác,
bãi thải đất đá, mặt bằng công nghiệp mỏ, kho bãi, nhà xưởng,… Chính công
nghệ khai thác và đặc tính của mỏ khoáng sản đã làm xáo trộn phong cảnh tự
nhiên vốn có trước đây của khu mỏ. Nếu như khai thác hầm lò thường ít ảnh
hưởng đến bề mặt quang cảnh và công tác hoàn thổ chỉ giới hạn đối với bãi thải,
di chuyển công trình xây dựng và thiết bị, đảm bảo cho bề mặt an toàn, thì khai
thác lộ thiên có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thực vật đang tồn tại, tạo nên sự thay
đổi về địa hình bề mặt do việc bố trí và hình thành các công trình mỏ.
Chính vì vậy, trước khi nghiên cứu triển khai các dự án phục hồi môi
trường sau khai thác mỏ, cần thiết phải thực hiện công việc đầu tiên và rất quan
trọng là san lấp mặt bằng công nghiệp.
Việc san lấp mặt bằng công nghiệp không chỉ đơn thuần là tạo nên sự
bằng phẳng cần thiết trong khu vực mỏ sau khai thác mà nó còn phải đảm bảo
những yêu cầu tối thiểu cho những chương trình phục hồi môi trường sau đó.
Mục tiêu lâu dài của việc san lấp mặt bằng công nghiệp cho các chương trình
phục hồi môi trường phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
- Phục hồi đất sao cho những điều kiện trước khi khai thác được lập lại
như cũ cùng với những giá trị về môi trường được bảo tồn;
- Cải tạo đất trở về điều kiện bảo tồn ở mức thấp thảm thực vật tự nhiên
hoặc là khôi phục sự dụng đất nông nghiệp hoặc trồng rừng;
- Phát triển đất để sử dụng hoàn toàn khác với sự tồn tại trước khi khai
thác, tức là cải tạo thành dạng đất mới và sử dụng theo cách mới để
đem lại lợi ích lớn hơn cho cộng đồng;
- Chuyển đất có giá trị bảo tồn thấp trong khu vực với mức sản xuất thấp
để đạt mức có điều kiện an toàn và bền vững.
Thông thường lập kế hoạch san lấp mặt bằng công nghiệp phục vụ cho
các chương trình hoàn phục môi trường bao gồm các vấn đề sau:
- Triển khai các thiết kế cho các hình dáng khu đất thích hợp đối với
từng khu mỏ cụ thể;
- Tạo nên hình dáng khu đất phù hợp với mục đích sử dụng;
- Thiết lập những hệ thống kinh tế thích hợp và bền vững.
Trong quá trình san lấp cần tính toán, cân đối khối lượng san gạt, cung độ,
tính chất vật liệu và mục đích sử dụng sau đó. Trong trường hợp cần tạo thảm
thực vật, cần tính đến các phương án vận chuyển đất màu và các loại cây trồng
thích hợp. Để tạo sự liên kết chắc chắn của lớp đất bề mặt, tạo điều kiện cho cây
cối và thực vật phát triển, chiều dày lớp đất bề mặt này phải dày từ 1÷2 m.
Ngoài ra, trong quá trình san lấp mặt bằng công nghiệp cần tính đất các khả
129
năng phục hồi lại sự tiêu thoát nước tự nhiên, khôi phục lại đất bị xáo trộn do
khai thác mỏ với mục đích sử dụng lâu dài và bền vững. Phụ thuộc vào việc sử
dụng đất trong các chương trình hoàn phục môi trường sau khai thác mỏ, cần
nghiên cứu lựa chọn các loài sinh thái học tự nhiên, kỹ thuật trồng cây, sự cộng
sinh của thực vật và phạm vi thay đổi của các loài khác để đảm bảo sự thành
công cho các chương trình hoàn thổ này.
V.2.2. Làm thoải các bãi thải và sườn dốc
Trong khai thác mỏ lộ thiên, bãi thải là một thành phần tất yếu quan trọng.
Bãi thải là nơi chứa đất đá bóc trong quá trình lấy khoáng sản. Khối lượng của
bãi thải phụ thuộc vào sản lượng của mỏ và mối quan hệ giữa khối lượng đất đá
phải bóc và khối lượng khoáng sản khai thác được thông qua hệ số bóc. Hệ số
bóc càng lớn đồng nghĩa với khối lượng đất đá phải bóc cũng lớn và hiệu quả
của phương pháp khai thác lộ thiên bị giảm đi.
Tuỳ thuộc vào vị trí của bãi thải so với biên giới mỏ mà nó có các tên gọi:
bãi thải ngoài (nằm ngoài phạm vi biên giới mỏ), bãi thải trong (nằm trong biên
giới mỏ) và bãi thải kết hợp (một phần nằm ngoài và một phần nằm trong biên
giới mỏ). Khi sử dụng bãi thải trong, cung độ vận tải đất đá giảm đáng kể, dẫn
đến chi phí cho công tác này cũng giảm hơn rất nhiều so với khi sử dụng bãi thải
ngoài. Tuy nhiên, bãi thải trong thường chỉ được sử dụng có hiệu quả khi khai
thác các vỉa nằm ngang và dốc thoải; nó cũng có thể dùng khi khai thác các vỉa
dốc xiên và dốc đứng trong những trường hợp đặc biệt khi mỏ có chiều dài theo
đường phương lớn hoặc có một số khai trường độc lập gần nhau.
Bãi thải được hình thành bằng cách đổ các lớp đất đá thải và san gạt
chúng theo mặt bằng của các tầng thải. Chính vì vậy cùng với quá trình khai
thác mỏ, kích thước của bãi thải tăng dần cả về diện tích và cao độ. Với các bãi
thải lớn của mỏ Đèo Nai (Cẩm Phả) và mỏ Hà Tu (Hòn Gai), những nguy cơ
tiềm ẩn về trượt lở sườn bãi thải là rất lớn. Vì vậy, để đảm bảo cho những bãi
thải đất đá của mỏ lộ thiên ổn định hơn, cần thiết phải làm thoải chúng. Theo
một số nghiên cứu của Viện Khoa học Công nghệ mỏ thì góc dốc ổn định của
sườn các bãi thải ngoài nên nhỏ hơn 25o (thực tế góc dốc trung bình của các bãi
thải hiện nay đang là 28o, cá biệt có bãi thải lên tới 32o).
Để làm thoải sườn các bãi thải, có thể tiến hành bằng hai cách: làm thoải từ
trên xuống (hình 5.1 a) và từ dưới lên (hình 2.1 b). Các thiết bị để thực hiện
công việc này là máy ủi hoặc máy xúc. Ngoài việc làm thoải sườn các bãi thải ở
trên, để đảm bảo ổn định lâu dài cho các sườn dốc trong khu vực mỏ được hoàn
phục môi trường, cần thiết phải tạo các bậc thang đối với các sườn dốc có độ
dốc lớn và kém ổn định (hình 5.2).
130
H0
H0
αb
α0
αb
α0
(a) (b)
Hình 5.1: Các sơ đồ làm thoải sườn bãi thải (a- từ trên xuống, b- từ dưới
h < 15m
lên)
§Êt tråNG c¢y
0<55
γ
Hình 5.2: Sơ đồ tạo bậc thang làm thoải sườn dốc
V.2.3. Bố trí hệ thống thoát nước hợp lý
Đặc thù của khai thác mỏ là chiếm dụng một diện tích lớn đất đai để làm
khai trường và bãi thải, do đó bên cạnh lợi ích về kinh tế, xã hội mà nó mang lại
thì nó cũng có những mặt trái ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường. Việc làm
thay đổi mạng thuỷ văn khu vực; ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước mặt là một
trong những tác hại đó. Chính vì vậy, một công việc quan trọng trong hoàn phục
môi trường sau khai thác mỏ là cần phải bố trí, cải tạo hệ thống thoát nước hợp
lý cho mỏ, đảm bảo giảm thiểu tối đa ô nhiễm do nước thải và các nguồn nước
mặt chảy qua khu vực mỏ cũ sinh ra, đồng thời phải phù hợp với những công
trình và dự án mới của chương trình phục hồi môi trường mỏ sau đó.
Để có thể bố trí được một hệ thống thoát nước hợp lý cần nghiên cứu kỹ
điều kiện thực tế của mỏ sau khai thác và các hệ thống thoát nước đã có trước
đây với các yêu cầu và mục đích mới cho những công trình, những dự định
trong tương lai. Nói cách khác, cần phải quản lý được toàn bộ nước của mỏ trên
cơ sở hai hệ thống công việc chính sau:
a. Hệ thống kiểm tra và tính lượng nước: việc kiểm tra và tính lượng nước
trong hoạt động khai thác mỏ cho các đối tượng sau:
- Các mỏ lộ thiên, hầm lò;
- Các bãi thải đất đá và quặng đuôi;
131
- Các nền đất cứng ở các khu vực xưởng tuyển, phân xưởng cơ khí, khu
hành chính, kho bãi và các khu vực phụ trợ ít thấm hoặc không thấm;
- Hệ thống cống rãnh ở trên mặt đất;
- Hệ thống kho, sân, bãi;
- Các khu vực có liên quan đến việc cung cấp nước và quản lý môi
trường;
- Hệ thống cung cấp nước mặt và nước ngầm;
- Hệ thống nước thải.
b. Hệ thống chuyển tải nước: hệ thống chuyển tải nước bao gồm hệ thống
các kênh, rạch, hồ lắng, hố ga, đường ống, bơm, van, hệ thống đo lường, kiểm
tra và điều khiển.
Khối lượng nước được sử dụng trong khai thác và làm giàu quặng tính toán ở
trên cần được giảm đến mức tối thiểu nhằm giảm lượng nước thải và như vậy sẽ
hạn chế được mức độ ô nhiễm. Nước bị ô nhiễm cần được gom vào một nơi
thích hợp và thuận tiện cho việc xử lý.
Đối với khai thác hầm lò, hệ thống thoát nước trong mỏ là bơm cưỡng
bức và ngoài mỏ (mặt bằng công nghiệp, kho bãi, văn phòng,…) là bằng hệ
thống các rãnh bao. Trong trường hợp, lượng nước trong mỏ có tính axit cao
hoặc bi ô nhiễm, cần thiết được tập trung qua hệ thống xử lý trước khi xả ra môi
trường.
Đối với các mỏ lộ thiên thì phức tạp hơn, việc kiểm soát nước phụ thuộc
chủ yếu vào địa hình cụ thể của mỏ. Cũng có hai hình thức thoát nước cho mỏ lộ
thiên là thoát nước tự nhiên và thoát nước cưỡng bức. Thoát nước tự nhiên là
hình thức thoát nước mặt cho phần địa hình nằm cao hơn mức thông thuỷ bằng
hệ thống các mương bao, sau đó được tập trung và chảy ra môi trường. Còn
thoát nước cưỡng bức là hình thức dùng cho phần địa hình nằm dưới mức thoát
nước tự chảy, thường là các moong khai thác. Lượng nước này là do nước ngầm
và một phần nước mặt trong vùng hứng nước của moong khai thác tạo thành. Để
thoát nước cưỡng bức phải dùng máy bơm để bơm lên thông qua hồ lắng gạn để
xử lý trước khi hoà vào mạng thuỷ văn khu vực. Một hệ thống thoát nước khá
quan trọng khác của mỏ lộ thiên đó là hệ thống mương bao quanh các bãi thải để
ngăn ngừa nước thải tràn qua bãi thải chảy xuống phần hạ lưu. Hệ thống thoát
nước cuối cùng của mỏ lộ thiên là hệ thống rãnh bao xung quanh các khu vực
như mặt bằng công nghiệp, kho bãi, … cũng cần thiết để đảm bảo quản lý nước
trong mỏ.
Hệ thống thoát nước hợp lý cho khu vực mỏ được khôi phục, cải tạo phục
vụ cho việc hoàn phục môi trường sau khai thác là một hệ thống thoát nước vừa
phải đảm bảo các yếu tố của hệ thống chuyển tải nước vừa phải có chức năng
giám sát được chất lượng nước và bảo vệ môi trường của khu mỏ sau khi đã
được hoàn phục và phục vụ cho các mục đích khác nhau sau đó. Chính vì vậy,
132
hệ thống thoát nước mới này có thể tận dụng từng phần hoặc toàn bộ hệ thống
thoát nước trước đây của mỏ, kết hợp với việc xây dựng bổ sung các hệ thống
thoát nước mới phục vụ cho các chương trình hoàn phục môi trường sau này.
V.2.4.Lựa chọn loại cây trồng phù hợp
Lập lại thảm thực vật là một công tác quan trọng trong việc khôi phục
công trường khai thác mỏ, gồm các bước sau: lựa chọn giống, lựa chọn nơi xuất
xứ thực vật và thiết lập lại thảm thực vật.
a. Lựa chọn giống: giống được lựa chọn phụ thuộc vào việc sử dụng đất
của khu vực sau khai thác, điều kiện đất mặt và khí hậu. Nếu mục tiêu là khôi
phục thực vật tự nhiên thì các giống này phải được định trước. Trong trường hợp
một số loài bản xứ không phát triển được tại những vị trí mà điều kiện đất mặt bị
thay đổi do khai thác thì phải nhập các loài đó từ nơi khác. Tuy vậy, cũng cần
phải nghiên cứu kỹ tính phù hợp của các điều kiện sau khai thác đối với các loài
nhập này. Đặc biệt chú ý tránh đưa vào những loài có thể trở nên nguy hiểm đối
với xung quanh hoặc trở thành có hại đối với nông nghiệp địa phương.
b. Lựa chọn nơi xuất xứ: việc chỉ sử dụng các loài thực vật của địa
phương có ưu điểm ở chỗ dễ phù hợp với các điều kiện tự nhiên của khu mỏ.
Tuy vậy, việc sử dụng các loài thực vật từ nơi khác đến đôi khi cũng hợp lý do
sau khi khai thác mỏ các điều kiện có nhiều thay đổi nhất là đất đai. Khi lựa
chọn các loài thực vật nhập từ khu vực, địa phương khác để hoàn thổ thì lựa
chọn nơi xuất xứ là rất quan trọng, nên lựa chọn nơi xuất xứ tương tự điều kiện
tự nhiên khu vực hoàn thổ.
c. Thiết lập thảm thực vật: các loại cây được dùng để thiết lập thảm thực
vật trên khu đất hoàn thổ được gieo trồng theo các cách sau đây:
- Nhân giống từ các bộ phận của cây, củ, rễ, dây leo,… được giữ lại trên
mặt đất;
- Gieo hạt;
- Phủ lại bằng cây cũ có khả năng sinh sản trên khu đất đã hoàn thổ;
- Trồng những cây nhỏ;
- Chuyển đến một số loài đặc biệt từ các khu vực tự nhiên;
- Chuyển cả “họ“ cây trồng phù hợp;
- Cây mọc và phát triển do tác động của chim muông, gió,...
Đối với điều kiện của các bãi thải đất đá, bờ mỏ lộ thiên của các mỏ vùng Quảng
Ninh, thực vật cần phải có những đặc tính sau:
- Có khả năng nhanh chóng quen với khí hậu và có sức chịu đựng lâu
dài với những thay đổi của điều kiện khí hậu như nhiệt độ cao, thời
gian khô hạn kéo dài,... và những đặc tính lý hoá không thuận lợi của
đất đá thải.
- Sinh trưởng nhanh chóng, có khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng là các
chất khó đồng hoá và của sinh vật hút nitơ tự nhiên.
- Có hệ thống rễ mạnh và khó có những biến động lớn khi bị vùi lấp
hoặc trôi gốc rễ.
133
- Có khả năng hình thành rừng trẻ, phát triển nhanh và khả năng tái sinh
bằng hạt.
Thực tế cho thấy, trên các bãi thải, bờ mỏ đã ngừng hoạt động của khu
vực Hòn Gai, Cẩm Phả đã có nhiều loại thảm thực vật đảm bảo các yêu cầu trên
như các loại cây cỏ mọc tự nhiên: cỏ le, lau, lách, róc, sim, mua, thanh hao, sắn
dây rừng; các loại cây trồng như: phi lao, thông; có thể phát triển các loại cây:
keo đậu, keo lá tràm, keo lưỡi liềm, đặc biệt là có thể phát triển tốt cây Kudzu để
phủ xanh sườn dốc, chống sói lở bồi lấp đất đá thải ở vùng Quảng Ninh.
Bên cạnh những lợi ích kinh tế to lớn do quá trình khai thác khoáng sản
mang lại thì chúng cũng tạo ra những tác động tiêu cực không nhỏ, đặc biệt là
vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái. Chính vì vậy, cần thiết phải có những
chiến lược khai thác và phát triển bền vững, hay nói cách khác cần phải tính cả
đến các lợi ích lâu dài sau đó.
Trong quá trình khai thác mỏ, một loạt các yếu tố của môi trường sinh
thái như đất, nước, không khí cũng như các yếu tố về kinh tế, xã hội của khu vực
mỏ đã bị tác động, biến đổi đáng kể tuỳ theo qui mô và phương pháp khai thác.
Chính vì vậy sau khi kết thúc khai thác mỏ, các cá nhân và tổ chức hoạt động
khai thác khoáng sản cần phải có trách nhiệm hoàn thổ và phục hồi môi trường
sau khai thác.
Công tác phục hồi môi trường của các loại hình mỏ khai thác khoáng sản
khác nhau là không giống nhau về qui mô, khối lượng và cách thức. Một cách
khái quát, có thể hiểu công tác phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản
bao gồm các công việc đưa môi trường tự nhiên như đất, nước, sinh thái - cảnh
quan của khu vực mỏ trở lại trạng thái như cũ hoặc chuyển sang một trạng thái
tốt nhất có thể, đồng thời góp phần giải quyết những vấn đề liên quan đến môi
trường văn hoá, kinh tế - xã hội như việc làm của người lao động, điều kiện sinh
sống của những gia đình công nhân viên của mỏ thời kỳ sau khi đóng cửa mỏ.
Dựa vào đặc thù của công tác khai thác mỏ, hiện trạng sau khai thác và
những yêu cầu đối với công tác khôi phục, cải tạo đất đai, địa hình, cảnh quan và
các vấn đề kinh tế, văn hoá - xã hội,… để xây dựng các phương án phục hồi môi
trường khả thi cho mỏ. Các phương án này phải tuân thủ một số nguyên tắc
chung như sau:
- Phương án phục hồi môi trường phải được đề cập ngay khi nghiên cứu
thiết kế mỏ;
- Quá trình phục hồi môi trường phải được tiến hành song song với quá
trình sản xuất và tuân thủ các điều luật có liên quan;
- Phải tôn trọng đặc thù phong tục, tập quán văn hoá xã hội của địa
phương;
- Phải hạn chế đến mức thấp nhất tác động của chất thải trong quá trình
khai thác đến các yếu tố tự nhiên như địa hình, địa mạo, cảnh quan, sinh thái;
- Hạn chế gây xáo trộn về mặt kinh tế - xã hội của khu vực.
Từ các phương án phục hồi môi trường khả thi ở trên, chúng ta xây dựng
được các chương trình phục hồi môi trường cụ thể cho mỏ. Dựa vào khối lượng
134
các công việc và các đơn giá của chúng, có thể lập được tổng dự toán chi phí
cho các chương trình phục hồi môi trường sau khai thác mỏ.
V.3.Chương trình phục hồi môi trường
Khi khai thác các loại khoáng sản rắn bằng phương pháp khai thác lộ
thiên, có hai thành phần quan trọng của mỏ cần đặc biệt lưu ý đó là biên giới và
bãi thải của mỏ. Chúng là những yếu tố chiếm dụng không gian và đất đai lớn
nhất của mỏ lộ thiên. Chính vì vậy, để có được các chương trình phục hồi môi
trường hợp lý sau khi kết thúc khai thác mỏ lộ thiên, trước hết cần phải phân loại
được các dạng biên giới cũng như bãi thải của mỏ khi kết thúc khai thác.
a. Các dạng biên giới của mỏ lộ thiên khi kết thúc khai thác
Đối tượng của phương pháp khai thác lộ thiên có thể là các loại than,
quặng và vật liệu xây dựng,… chính vì vậy biên giới của mỏ khi kết thúc khai
thác đối với các loại khoáng sản khác nhau cũng rất đa dạng và không giống
nhau vì chúng hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân bố của các loại khoáng sản
trong tự nhiên.
Một cách khái quát, có thể phân biên giới của mỏ lộ thiên khi kết thúc
khai thác thành các dạng sau:
o Biên giới kết thúc mỏ dạng A-1;
o Biên giới kết thúc mỏ dạng A-2;
o Biên giới kết thúc mỏ dạng A-3;
o Biên giới kết thúc mỏ dạng A-4;
o Biên giới kết thúc mỏ dạng A-5.
- Biên giới kết thúc mỏ dạng A-1 là biên giới mỏ sau khai thác có đáy
bằng phẳng và nằm cùng cốt cao với những khu vực xung quanh (hình 5.3).
Biên giới kết thúc mỏ dạng này thường phổ biến đối với những loại khoáng sàng
vật liệu xây dựng (đá vôi, sét,…), nơi mà chúng thường được thành tạo bởi
những ngọn núi, quả đồi đứng đơn độc hoặc thành cụm, dãy.
Hình 5.3: Biên giới kết thúc mỏ dạng A-1
- Biên giới kết thúc mỏ dạng A-2 là biên giới mỏ sau khai thác để lại địa
hình âm so với mặt địa hình xung quanh (hình 2.2). Biên giới kết thúc mỏ dạng
135
này cũng phổ biến đối với những loại khoáng sàng vật liệu xây dựng tương tự
dạng A-1 nhưng có phần trữ lượng sâu hơn so với địa hình khu vực xung quanh.
Hình 5.4: Biên giới kết thúc mỏ dạng A-2
- Biên giới kết thúc mỏ dạng A-3 là biên giới mỏ sau khai thác, gồm 2
phần: phần đáy mỏ bằng phẳng nằm ở độ cao của mặt địa hình xung quanh,
phần còn lại là sườn dốc tạo nên bởi bờ kết thúc mỏ (hình 5.5). Biên giới kết
thúc mỏ dạng này thường phổ biến đối với những loại khoáng sàng vật liệu xây
dựng có cấu tạo phân lớp và chất lượng không đồng nhất.
Hình 5.5: Biên giới kết thúc mỏ dạng A-3
- Biên giới kết thúc mỏ dạng A-4 là biên giới mỏ sau khai thác, tạo nên
một vùng trũng trong khối đồi núi nhưng có đáy mỏ nằm cao hơn địa hình phân
bố của phần chân đồi núi này (hình 5.6). Biên giới kết thúc mỏ dạng này thường
phổ biến đối với những loại khoáng sàng quặng có cấu tạo dạng ổ, khối hoặc
thấu kính.
Hình 5.6: Biên giới kết thúc mỏ dạng A-4
- Biên giới kết thúc mỏ dạng A-5 là biên giới mỏ sau khai thác, tạo nên
một vùng trũng trong khối đồi núi và có đáy mỏ nằm thấp hơn địa hình phân bố
của phần chân đồi núi này (hình 5.7). Biên giới kết thúc mỏ dạng này cũng
thường phổ biến đối với những loại khoáng sàng than kiểu sườn núi hoặc quặng
có cấu tạo dạng ổ, khối hoặc thấu kính.
136
Hình 5.7: Biên giới kết thúc mỏ dạng A-5
b. Các dạng bãi thải của mỏ lộ thiên khi kết thúc khai thác
Bãi thải là một thành phần không thể thiếu đối với khai thác mỏ lộ thiên.
Tuỳ theo vị trí của nó so với biên giới mỏ mà phân thành bãi thải ngoài và bãi
thải trong. Về lý thuyết, khi sử dụng bãi thải trong sẽ tăng được hiệu quả của
phương pháp khai thác lộ thiên và ít chiếm dụng không gian và đất đai hơn so
với khi sử dụng bãi thải ngoài. Tuy nhiên, điều kiện để sử dụng bãi thải trong
cũng khá đặc trưng, chỉ áp dụng được đối với các loại khoáng sàng dạng vỉa
nằm ngang và dốc thoải, đối với trường hợp vỉa dốc đứng thì mỏ phải có chiều
dài theo đường phương lớn.
Một cách khái quát, có thể phân bãi thải của mỏ lộ thiên khi kết thúc khai
thác thành các dạng sau:
o Bãi thải dạng B-1;
o Bãi thải dạng B-2;
o Bãi thải dạng B-3;
o Bãi thải dạng B-4.
- Bãi thải dạng B-1 là bãi thải ngoài bố trí ở sườn núi, chỉ có một tầng với
chiều cao 90÷150 m (hình 5.8). Bãi thải dạng này thường phổ biến đối với các
mỏ lộ thiên khai thác than hoặc quặng nằm trên địa hình đồi núi. Quá trình đổ
thải được tiến hành từ sườn núi tự nhiên và phát triển dần ra theo chu vi. Loại
bãi thải này áp dụng cho đất đá thải tương đối đồng nhất về kích thước và có khả
năng duy trì độ ổn định tự nhiên khá tốt.
Hình 5.8: Bãi thải dạng B-1
- Bãi thải dạng B-2 là bãi thải ngoài bố trí ở sườn núi theo phân tầng
(hình 5.9). Bãi thải dạng này cũng phổ biến đối với các mỏ lộ thiên khai thác
than hoặc quặng nằm trên địa hình đồi núi. Quá trình đổ thải được tiến hành từ
sườn núi tự nhiên, phát triển dần ra theo chu vi và theo cao độ bằng các phân
tầng có diện tích giảm dần. Loại bãi thải này áp dụng cho các loại đất đá không
137
đồng nhất về kích thước và không có khả năng duy trì độ ổn định tự nhiên với
chiều cao tầng thải lớn.
Hình 5.9: Bãi thải dạng B-2
- Bãi thải dạng B-3 là bãi thải ngoài bố trí ở khu vực bằng phẳng theo
kiểu bãi thải một tầng (hình 2.8-a) hoặc bãi thải nhiều tầng (hình 5.10-b). Bãi
thải dạng này có thể áp dụng cho các mỏ lộ thiên khai thác than hoặc quặng nằm
ở bình nguyên hoặc nằm trên địa hình đồi núi nhưng không thể đổ thải trên sườn
núi hoặc tận dụng bãi thải trong. Quá trình đổ thải được tiến hành bằng các tầng
thải ban đầu và phát triển dần ra theo chu vi cũng như độ cao theo thiết kế. Bãi
thải một tầng thường được áp dụng cho các loại đất đá thải tương đối đồng nhất
về kích thước và có khả năng duy trì độ ổn định tự nhiên khá tốt. Còn bãi thải
nhiều tầng thường được áp dụng cho trường hợp ngược lại.
(a) (b)
Hình 5.10: Bãi thải dạng B-3
- Bãi thải dạng B-4 là bãi thải trong, được bố trí ở khu vực khai trường đã
khai thác xong (hình 5.11-a) hoặc ở khu vực biên giới mỏ đã kết thúc khai thác
(hình 5.11-b). Bãi thải dạng này có thể áp dụng cho các mỏ lộ thiên khai thác
than hoặc quặng nằm ở bình nguyên hoặc nằm trên địa hình đồi núi, có khả năng
đổ thải bằng bãi thải trong. Quá trình đổ thải được tiến hành bằng các tầng thải
phát triển dần theo tiến độ khai thác của mỏ (đối với trường hợp thải trong khu
vực khai trường đã khai thác xong) hoặc mở rộng dần theo chu vi (đối với
trường hợp thải ở khu vực biên giới mỏ đã kết thúc khai thác).
a.
b.
Hình 5.11: Bãi thải dạng B-4
138
V.3.1.Chương trình phục hồi biên giới mỏ lộ thiên khi kết thúc khai thác
Dựa trên các dạng biên giới mỏ lộ thiên khi kết thúc khai thác ở trên, có
thể đề xuất các chương trình phục hồi khả thi như sau:
-Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng A-1:
- Chương trình A-1-1: San lấp tạo mặt bằng làm quỹ đất cho các công
trình dân dụng, công nghiệp;
- Chương trình A-1-2: San phẳng tạo mặt bằng và phủ một lớp thảm thực
vật như cỏ, bụi cây,…;
- Chương trình A-1-3: San phẳng tạo mặt bằng để trồng cây.
-Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng A-2:
- Chương trình A-2-1: Khôi phục làm hồ chứa nước cho tưới tiêu, nuôi
trồng thuỷ sản, công viên,…;
- Chương trình A-2-2: Lấp đầy, san phẳng để tạo mặt bằng.
-Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng A-3:
- Chương trình A-3-1: Phục hồi môi trường tổng thể (đảm bảo độ ổn định
bờ mỏ, phục hồi đáy mỏ và xử lý nước chảy qua mỏ).
-Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng A-4:
- Chương trình A-4-1: Phục hồi môi trường tổng thể (đảm bảo độ ổn định
bờ mỏ, phục hồi đáy mỏ, cải tạo bờ mỏ và xử lý nước chảy qua mỏ).
-Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng A-5:
- Chương trình A-5-1: Phục hồi môi trường tổng thể (đảm bảo độ ổn định
bờ mỏ, cải tạo bờ mỏ và xử lý nước chảy qua mỏ).
V.3.2. Các chương trình phục hồi bãi thải mỏ lộ thiên khi kết thúc khai
thác
Dựa trên các dạng bãi thải của mỏ lộ thiên khi kết thúc khai thác ở trên,
các chương trình phục hồi khả thi có thể đề xuất để phục hồi các dạng bãi thải
như sau:
a- Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng B-1:
- Chương trình B-1-1: Phục hồi môi trường tổng thể (gia cố sườn bãi thải,
tạo mặt bằng bãi thải, ngăn ngừa ô nhiễm từ bãi thải ra các khu vực xung
quanh).
b- Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng B-2:
- Chương trình B-2-1: Phục hồi môi trường tổng thể (làm thoải sườn bãi
thải, tạo mặt bằng bãi thải, ngăn ngừa ô nhiễm từ bãi thải ra các khu vực xung
quanh).
c- Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng B-3:
139
- Chương trình B-3-1: Phục hồi môi trường tổng thể (làm thoải sườn bãi
thải, tạo mặt bằng bãi thải, ngăn ngừa ô nhiễm từ bãi thải ra các khu vực xung
quanh).
d- Đối với biên giới kết thúc mỏ dạng B-4:
- Chương trình B-4-1: San phẳng tạo mặt bằng và phủ một lớp thảm thực
vật như cỏ, bụi cây,…;
- Chương trình B-4-2: San phẳng tạo mặt bằng để trồng cây.
V.4.Dự toán chi phí phục hồi môi trường
Sau khi đã đề xuất được các chương trình phục hồi môi trường sau khai
thác mỏ, dựa trên cơ sở khối lượng công việc cần thực hiện và đơn giá, có thể
tính toán được dự toán chi phí cho các chương trình phục hồi môi trường ở trên.
V.4.1. Chi phí phục hồi biên giới mỏ lộ thiên sau khi kết thúc khai thác
- Chương trình A-1-1: San lấp tạo mặt bằng làm quỹ đất cho các công trình
dân dụng, công nghiệp
(1) Mcp = S(Cg + Ccv), đồng
Trong đó: Mcp- tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường, đồng; S - diện
tích cần san gạt, m2; Cg- chi phí san gạt 1 m2 đất đá đảm bảo có thể chuyển
chúng thành đất xây dựng, đ/m2; Ccv- chi phí vận chuyển (bao gồm cả tiền mua
đất), đ/m2.
- Chương trình A-1-2: San phẳng tạo mặt bằng và phủ một lớp thảm thực
vật như cỏ, bụi cây,…
(2) Mcp = S(Cg + Cđ + Cs+ Ct), đồng
Trong đó: Mcp- tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường biên giới kết
thúc mỏ lộ thiên, đồng; S - diện tích cần phục hồi bằng cách trồng cỏ, m2; Cg-
chi phí san gạt 1 m2 đất đá, đ/m2; Cđ- chi phí cho đất trồng cỏ, bao gồm: tiền
mua đất, xúc đất, vận chuyển đất tới nơi dự định trồng cỏ, đ/m2 (Cđ = h.Co, trong
đó: h- chiều cao lớp đất trồng, m; Co- chi phí để mua đất, xúc đất và vận chuyển
đất, đ/m3); Cs- chi phí san 1 m2 đất trồng, đ/m2; Ct- chi phí để trồng 1 m2 cỏ, bao
gồm tiền mua cỏ, vận chuyển cỏ, trồng cỏ và chăm sóc cỏ từ khi trồng đến thời
điểm đảm bảo cỏ sống được, đ/m2.
-Chương trình A-1-3: San phẳng tạo mặt bằng để trồng cây
(3) Mcp = S(Ch + Cc + Cpk+ Cb + Cg + Cđ), đồng
Trong đó: Mcp- tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường biên giới kết
thúc mỏ lộ thiên, đồng; S - diện tích cần phục hồi bằng trồng cỏ, m2; Cg- chi phí
san gạt 1 m2 đất đá, đ/m2; Ch- chi phí đào hố trồng cây cho 1 m2 đất, đ/m2 (Ch =
K.C1, trong đó: K- số hố trồng cây trên 1 m2 diện tích, hố/m2; C1- chi phí để đào
1 hố trồng cây, đ/hố); Cc- chi phí trồng cây trên 1 m2 đất, đ/m2 (Cc = K.C2, trong
đó: C2- chi phí trồng 1 cây, đ/cây); Cpk- chi phí mua phân bón tính cho 1 m2 đất
140
trồng, đ/m2 (Cpk = K.C3, trong đó: C3- chi phí mua phân cho 1 hố trồng cây,
đ/hố); Cb- chi phí chăm bón cây tính cho 1 m2 diện tích, đ/m2 (Cb = K.C4, trong
đó: C4- chi phí chăm sóc cho 1 cây đảm bảo cho cây sống tốt, đ/cây); Cđ- chi phí
tạo lớp đất mầu trên mặt đảm bảo cho cây sống, đ/m2.
- Chương trình A-2-1: Khôi phục làm hồ chứa nước cho tưới tiêu, nuôi
trồng thuỷ sản, công viên,…
(4) Mcp = Csđ + Cbm + Ct, đồng
Trong đó: Mcp- tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường biên giới kết
thúc mỏ lộ thiên, đồng; Csđ- chi phí san gạt đáy mỏ, đồng (Csđ = S.Cg, trong đó:
S- diện tích cần san, m2; Cg- chi phí san gạt 1 m2 đất đá để tạo mặt bằng, đ/m2);
Cbm- chi phí củng cố bờ mỏ đảm bảo sự ổn định của nó theo thiết kế ban đầu
hoặc theo yêu cầu thực tế:
(5) Cbm = Sđ.C5/cosγ, đồng
Với Sđ- diện tích khu mỏ cần củng cố, m2; γ- góc dốc bờ mỏ, độ; C5- chi phí củng cố 1 m2 bờ mỏ, đ/m2);
(6) Ct- chi phí trồng cây xung quanh bờ mỏ đã được dùng làm hồ chứa nước: Ct = P.n.(Ch + Cc + Cpk + Cb), đồng
Với P- chu vi miệng hồ, m; n- số cây trồng tính theo 1 m dài chu vi hồ,
cây; Ch, Cc, Cpk và Cb- tương ứng là chi phí đào, trồng cây, mua phân bón và
chăm bón 1 cây trồng, đ/cây.
- Chương trình A-2-2: Lấp đầy, san phẳng để tạo mặt bằng
(7) Mcp = Vđ.C + S.Cg, đồng
Trong đó: Mcp- tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường biên giới kết
thúc mỏ lộ thiên, đồng; Vđ- khối lượng đất đá cần thiết để san lấp moong, m3; C-
chi phí xúc, vận chuyển 1 m3 đất đá, đ/m3; S - diện tích cần san gạt sau khi lấp
đầy moong, m2; Cg- chi phí để san gạt 1 m2 diện tích mặt bằng, đ/m2.
Sau khi đã lấp đầy, san phẳng để tạo được mặt bằng như ở trên, có thể áp
dụng một trong ba chương trình A-1-1, A-1-2 và A-1-3 để nâng cao hơn hiệu
quả của công tác phục hồi môi trường. Dự toán chi phí tương ứng với các
chương trình trên được tính toán theo các công thức (1), (2) và (3).
- Chương trình A-3-1: Phục hồi môi trường tổng thể (đảm bảo độ ổn định
bờ mỏ, phục hồi đáy mỏ và xử lý nước chảy qua mỏ)
(8) Mcp = Cbm + Cba + Cxl, đồng
Trong đó: Mcp- tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường biên giới kết
thúc mỏ lộ thiên, đồng; Cbm- chi phí để củng cố và đảm bảo độ ổn định của bờ
141
mỏ, tính theo công thức (5), đồng; Cba- chi phí phục hồi phần bằng của đáy mỏ,
có thể tính theo các công thức (1), (2) và (3), đ/m2; Cxl- chi phí xử lý nước bẩn
khi nước chảy qua bờ mỏ, đồng (bao gồm chi phí làm mương Cxlm và chi phí xây
hồ lắng Cxlh). Nước sau khi lắng sẽ tràn qua bể lắng để hoà nhập với mạng thủy
văn của vùng.
(9)
(10)
(11) Cxl = Cxlm + Cxlh, đồng
Cxlm = Lm.Cđm, đồng
Cxlm = V.Chn, đồng
Nếu trong quá trình khai thác, mỏ đã xây dựng các công trình trên thì chi
Với Lm- chiều dài của mương dẫn nước, m; Cđm- chi phí đào 1 mét
mương, đ/m; V- thể tích của bể lắng, m3; Chn- chi phí xây dựng 1 m3 bể lắng,
đ/m3.
phí Cxl sẽ là chi phí củng cố.
- Chương trình A-4-1: Phục hồi môi trường tổng thể (đảm bảo độ ổn định
bờ mỏ, phục hồi đáy mỏ, cải tạo bờ mỏ và xử lý nước chảy qua mỏ)
(12) Mcp = Cbm + Cba + Ccb + Cxl, đồng
Trong đó: Mcp- tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường biên giới kết
thúc mỏ lộ thiên, đồng; Cbm- chi phí để củng cố và đảm bảo độ ổn định của bờ
mỏ, tính theo công thức (5), đồng; Cba- chi phí phục hồi phần bằng của đáy mỏ,
tính theo các công thức (2) và (3), đ/m2; Ccb- chi phí cải tạo bờ mỏ, ví dụ như
trồng cây hoặc bụi rậm trên các mặt tầng đã kết thúc khai thác, đồng; tham khảo
công thức (3); Cxl- chi phí xử lý nước bẩn khi nước chảy qua bờ mỏ, đồng; tính
theo các công thức (9), (10) và (11).
Theo kinh nghiệm của nước ngoài thì nên xây dựng mương gom nước bẩn
và hồ lắng nước trong thời kỳ khai thác nhằm giải quyết vấn đề môi trường ngay
từ đầu. Đối với các mỏ có chứa các chất độc hại hoặc phóng xạ thì bể lắng ngoài
nhiệm vụ lắng đọng các phần tử rắn ra còn phải xử lý các yếu tố độc hại trước
khi cho nước mỏ hoà với mạng lưới thuỷ văn khu vực.
- Chương trình A-5-1: Phục hồi môi trường tổng thể (đảm bảo độ ổn
định bờ mỏ, cải tạo bờ mỏ và xử lý nước chảy qua mỏ)
(13) Mcp = Cbm + Ccb + Cxl, đồng
Trong đó: Mcp- tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường biên giới kết
thúc mỏ lộ thiên, đồng; Cbm- chi phí để củng cố và đảm bảo độ ổn định của bờ
mỏ, đồng; tính theo công thức (5); Ccb- chi phí cải tạo bờ mỏ, ví dụ như trồng
cây hoặc bụi rậm trên các mặt tầng đã kết thúc khai thác, đồng; tham khảo công
thức (3); Cxl- chi phí xử lý nước bẩn khi nước chảy qua bờ mỏ, đồng; tính theo
các công thức (9), (10) và (11).
142
Vì biên giới kết thúc mỏ dạng này thường gặp ở các mỏ khai thác than,
chiều sâu kết thúc khai thác của mỏ có thể đạt từ -50 đến -200 m. Chính vì vậy,
ngoài hướng phục hồi môi trường tổng thể đã đề xuất ở trên, có thể sử dụng
moong khai thác của mỏ sử dụng cho các mục đích có ích khác như:
- Làm hồ chứa nước;
- Chứa chất thải sinh hoạt cho các khu dân cư lân cận.
- Đổ thải đất đá cho các mỏ lân cận đang khai thác;
7.4.2. Chi phí phục hồi bãi thải mỏ lộ thiên sau khi kết thúc khai thác
- Chương trình B-1-1: Phục hồi môi trường tổng thể (gia cố sườn bãi thải,
tạo mặt bằng bãi thải, ngăn ngừa ô nhiễm từ bãi thải ra các khu vực xung
quanh).
(14) B = Cgs + Cmbt + Cnn, đồng
Trong đó: B - tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường bãi thải mỏ lộ
thiên, đồng; Cgs- chi phí gia cố sườn bãi thải:
(15) Cgs = (Ssd.Cpx)/cosγ, đồng
Với Ssd- diện tích sườn bãi thải cần gia cố, m2; γ - góc dốc sườn bãi thải,
độ; Cpx- chi phí gia cố sườn bãi thải bằng phương pháp cơ học hay sinh học
(trồng cây dây leo Kudu, cây lau,…), đ/m2;
Cmbt- chi phí tạo mặt bằng bãi thải, đồng; tuỳ theo mục đích phục hồi có
thể áp dụng các chương trình A-1-1, A-1-2 với các dự toán chi phí phục hồi môi
trường được tính theo các công thức (2) và (3); Cnn- chí phí để ngăn cách sự ô
nhiễm của bãi thải ra vùng lân cận:
(16) Cnn = Clđ + Cmt + Chl, đồng
Với Clđ- chi phí để làm đê ngăn dưới chân bãi thải không cho đất đá từ bãi thải lăn ra ngoài biên giới của nó:
(17) Clđ = Vđ.Cđ.Pđ, đồng
Vđ- thể tích đê tính cho 1 m dài, m3/m; Cđ- chi phí xây dựng 1 m3 đê,
Với Cmt- chi phí làm mương dẫn nước, bố trí song song với đê ngăn để đ/m3; Pđ- chiều dài của đê, m;
dẫn nước đến bể lắng:
(18) Cmt = Cm.Pm, đồng
Cm- chí phí đào và hoàn thiện 1 m mương, đ/m; Pm- chiều dài mương, m;
Với Chl- chi phí làm bể lắng (bể có nhiệm vụ chứa nước bẩn, lắng các
phần tử rắn, làm trong nước và sau đó xả nước trong ra mạng thuỷ văn khu vực):
(19) Chl = Vl.Clh, đồng
143
Vl- thể tích của bể lắng, Clh- chi phí xây dựng và hoàn thiện 1 m3 thể tích bể
lắng, đ/m3.
Đối với các mỏ đã có các công trình đề cập ở trên ngay từ thời kỳ khai
thác mỏ thì các chi phí tính ở các biểu thức (17), (18) và (19) là các chi phí tu
sửa và củng cố.
-Chương trình B-2-1: Phục hồi môi trường tổng thể (làm thoải sườn bãi
thải, tạo mặt bằng bãi thải, ngăn ngừa ô nhiễm từ bãi thải ra các khu vực xung
quanh).
(20) B = Cts + Cmbt + Cnn, đồng
Trong đó: B - tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường bãi thải mỏ lộ
thiên, đồng; Cts- chi phí làm thoải sườn bãi thải:
(21) Cts = Vts.Cts, đồng
Với Cts- chi phí để làm thoải sườn bãi thải, đ/m3; Vts- khối lượng đất đá phải di chuyển khi làm thoải sườn bãi thải, m3;
3
H
ctg
=
α
(
ctg
- Khi làm thoải theo sơ đồ từ trên xuống (hình 5.12 a):
V
ts
2
o
−α
b
)
,
mP
o
o
1
8
(22)
3
H
ctg
=
α
(
ctg
- Khi làm thoải theo sơ đồ từ dưới lên (hình 5.12 b):
V
ts
2
o
−α
b
)
,
mP
o
o
1
2
(23)
Ho- chiều cao tầng thải, m; αb- góc dốc sườn tầng thải sau khi làm thoải,
H0
H0
αb
αb
α0
α0
độ; αo- góc dốc sườn tầng thải trước khi làm thoải, độ; Po- chu vi bãi thải, m;
(a) (b)
Hình 5.12: Các sơ đồ làm thoải sườn bãi thải (a- từ trên xuống, b- từ dưới lên)
Cmbt, Cnn- chí phí tạo mặt bằng bãi thải và chí phí để ngăn cách sự ô nhiễm
của bãi thải ra vùng lân cận, đồng; được tính tương tự như trong chương trình B-
1-1.
Các công thức (21), (22) và (23) tính cho việc làm thoải sườn bãi thải của
một tầng thải. Trong trường hợp bãi thải của mỏ bao gồm một số tầng thì khối
lượng công tác làm thoải của mỏ sẽ là tổng khối lượng làm thoải của tất cả các
tầng.
144
- Chương trình B-3-1: Phục hồi môi trường tổng thể (làm thoải sườn
bãi thải, tạo mặt bằng bãi thải, ngăn ngừa ô nhiễm từ bãi thải ra các khu vực
xung quanh).
Nội dung và cách tính tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường bãi thải
mỏ lộ thiên trong trường hợp này cũng tương tự như của chương trình B-2-1. Nó
bao gồm các chi phí để làm thoải sườn bãi thải, chí phí tạo mặt bằng bãi thải và
chí phí để ngăn cách sự ô nhiễm của bãi thải ra vùng lân cận.
- Chương trình B-4-1: San phẳng bãi thải và phủ một lớp thảm thực vật
như cỏ, bụi cây,…;
Trong chương trình này, nội dung các công việc và cách tính tổng dự toán
chi phí phục hồi môi trường bãi thải mỏ lộ thiên tương tự như chương trình A-1-
2. Các công việc và chi phí chính bao gồm: chi phí san gạt đất đá tạo mặt bằng,
chi phí cho đất trồng cỏ (tiền mua đất, xúc đất, vận chuyển đất, san gạt đất), chi
phí để trồng cỏ (tiền mua cỏ, vận chuyển cỏ, trồng cỏ và chăm sóc cỏ từ khi
trồng đến thời điểm đảm bảo cỏ sống được).
-Chương trình B-4-2: San phẳng bãi thải để trồng cây
Nội dung các công việc và cách tính tổng dự toán chi phí phục hồi môi
trường bãi thải mỏ lộ thiên trong chương trình này tương tự như chương trình A-
1-3. Các công việc và chi phí chính bao gồm: chi phí san gạt đất đá, chi phí đào
hố trồng cây, chi phí trồng cây, chi phí mua phân bón, chi phí chăm bón cây, chi
phí tạo lớp đất mầu trên mặt đảm bảo cho cây sống.
Tóm lại, công tác phục hồi môi trường của các loại hình mỏ khai thác
khoáng sản khác nhau là không giống nhau về qui mô, khối lượng và cách thức.
Tuy nhiên, chúng phải đảm bảo được một yêu cầu chung đó là: phải đưa môi
trường tự nhiên như đất, nước, sinh thái - cảnh quan của khu vực mỏ trở lại
trạng thái như cũ hoặc chuyển sang một trạng thái tốt nhất có thể, góp phần giải
quyết những vấn đề liên quan đến môi trường văn hoá, kinh tế - xã hội của
người lao động sau khi đóng cửa mỏ.
Các phương án phục hồi môi trường cụ thể, khả thi cho mỏ cần được xây
dựng và thực hiện dựa trên những đặc thù của công tác khai thác mỏ, hiện trạng
sau khai thác và những yêu cầu đối với công tác khôi phục, cải tạo đất đai, địa
hình, cảnh quan và các vấn đề kinh tế, văn hoá - xã hội,...
Sau khi xây dựng được các chương trình phục hồi hoàn chỉnh cho mỏ,
dựa trên khối lượng các công việc và các đơn giá của chúng, có thể lập được
tổng dự toán chi phí cho các chương trình này một cách chính xác, có cơ sở
khoa học.
145
V.5. Ký quỹ môi trường
V.5.1.Khái niệm chung
Trong quá trình khai thác mỏ các yếu tố của môi trường sinh thái như đất,
nước, không khí cũng như các yếu tố về kinh tế, xã hội của khu vực mỏ đã bị tác
động, biến đổi đáng kể tuỳ theo qui mô và phương pháp khai thác. Chính vì vậy
sau khi kết thúc khai thác mỏ, các cá nhân và tổ chức hoạt động khai thác
khoáng sản cần phải có trách nhiệm hoàn thổ và phục hồi môi trường sau khai
thác.
Để nâng cao trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân được phép khai thác
khoáng sản, Điều 35 của Nghị định 160 - 2005 Hướng dẫn thi hành Luật
Khoáng sản qui định “ Tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải
ký quỹ phục hồi môi trường và đất đai tại Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam”.
Cũng theo Thông tư Liên tịch Bộ Tài chính - Công nghiệp - Khoa học, Công
nghệ và Môi trường số 126/1999/TTLT - BTC - BCN - BKHCNMT ngày 22
tháng 10 năm 1999 hướng dẫn về việc ký quỹ phục hồi môi trường trong khai
thác khoáng sản thì đối tượng phải ký quỹ trước khi tiến hành khai thác khoáng
sản có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc các giấy tờ trị
giá được bằng tiền vào tài khoản phong toả tại một tổ chức tín dụng của Việt
Nam hoặc tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ phục hồi môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra.
Như vậy, có thể hiểu rằng mục đích của việc ký quỹ là để đảm bảo thực
hiện một cách đầy đủ và có trách nhiệm nghĩa vụ thực hiện việc phục hồi môi
trường do các cá nhân và tổ chức hoạt động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản
gây ra theo đúng qui định của pháp luật về hoạt động khoáng sản theo Luật
Khoáng sản và Luật Bảo vệ môi trường đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam thông qua và việc ký quỹ môi trường cũng là một công cụ quản lý môi
trường.
Công cụ quản lý môi trường là các biện pháp hành động thực hiện công
tác quản lý môi trường của Nhà nước, các tổ chức khao học và sản xuất. Công
cụ quản lý môi trường rất đa dạng; mỗi một công cụ có một chức năng và phạm
vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau. Mỗi một quốc gia và mỗi địa
phương, tuỳ theo điều kiện cụ thể có thể lựa chọn công cụ thích hợp cho từng
hoạt động cụ thể. Bên cạnh việc sử dụng, các công cụ quản lý môi trường đòi
hỏi phải được nghiên cứu và hoàn thiện thường xuyên với xu hướng ngày càng
tinh vi và có hiệu lực hơn.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo chức năng thành công
cụ điều chỉnh vĩ mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh
vĩ mô là pháp luật và chính sách. Công cụ hành động là các công cụ có tác động
trực tiếp tới hoạt động kinh tế xã hội như các qui định hành chính, qui định xử
phạt, v.v. và công cụ kinh tế. Công cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất của
các tổ chức môi trường trong việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường. Các
công cụ phụ trợ dùng để quan sát, giám sát chất lượng môi trường, giáo dục ý
146
thức môi trường. Công cụ phụ trờ có tác dụng hỗ trợ và hoàn chỉnh hai công cụ
đã nói ở trên. Thuộc về loại này có các công cụ kỹ thuật như GIS, mô hình hoá,
đánh giá môi trường, kiểm toán môi trường, quan trắc môi trường.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân thành 3 loại sau:
- Công cụ pháp luật chính sách: bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật
quốc gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch và chính sách môi trường
quốc gia, các ngành kinh tế, các địa phương.
- Các công cụ kinh tế: gồm các loại thuế, phí, v.v. đánh vào thu nhập bằng
tiền của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công cụ này chỉ áp dụng có hiệu
quả trong nền kinh tế thị trường.
- Các công cụ kỹ thuật quản lý: thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát
Nhà nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và
phân bố chất ô nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể
gồm các đánh giá môi trường, giám sát môi trường, sủ lý chất thải, tái chế và tái
sử dụng chất thải. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành
công trong bết kỳ nền kinh tế phát triển như thế nào.
V.5.2. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Các công cụ kinh tế được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích
trong hoạt động của tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động tới hành vi ứng xử của
nhà sản xuất có lợi cho môi trường.
a. Thuế và phí môi trường
Thuế và phí môi trường là các nguồn thu ngân sách do các tổ chức và cá
nhân sử dụng môi trường đóng góp. Khác với thuế, phần thu về phí môi trường
chỉ được chi cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Dựa vào đối tượng đánh thuế
và phí có thể phân ra các loại sau:
- Thuế và phí chất thải;
- Thuế và phí rác thải;
- Thuế và phí nước thải;
- Thuế và phí ô nhiễm không khí;
- Thuế và phí tiếng ồn;
- Phí đánh vào người sử dụng;
- Thuế và phí đánh vào sản phẩm mà quá trình sử dụng và sau sử dụng
gây ra ô nhiễm (ví dụ thuế sunfua, cacbon, phân bón,…);
- Thuế và phí hành chính đóng góp tài chính cho việc cấp phép, giám sát
và quản lý hành chính đối với môi trường.
b. Giấy phép chất thải có thể mua bán được hay gọi là “cota ô nhiễm”
147
Loại giấy phép này được thực hiện ở các nước Tây Âu và Mỹ. Mục đích
của cota ô nhiễm là tăng cường hiệu quả kinh tế của công tác quản lý chất ô
nhiễm và đầu tư công nghệ xử lý ô nhiễm. Bản chất của cota ô nhiễm là công
nhận về pháp luật quyền được gây thiệt hại về môi trường của nhà sản xuất và
cho phép họ trao đổi quyền đó dưới dạng giấy phép chất thải. Trong điều kiện
đảm bảo tổng nguồn chất thải khu vực không thay đổi, các xí nghiệp có thể trao
đổi mua bán giấy phép chất thải mà không làm gia tăng ô nhiễm. Nhờ vậy, chất
lượng môi trường được đảm bảo, nhưng chi phí xã hội của các nhà sản xuất
giảm.
c. Ký quỹ môi trường
Là công cụ kinh tế áp dụng cho các ngành kinh tế dễ gây ra ô nhiễm môi
trường. Nội dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh nghiệp
trước khi đầu tư phải đặt cọc ở ngân hàng một khoản tiền đủ lớn để đảm bảo cho
việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và công tác bảo vệ môi trường. Số tiền ký
quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh phí cần để khắc phục môi trường nếu
doanh nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc làm suy thoái môi trường. Trong quá trình
thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu cơ sở có các biện pháp chủ động khắc phục,
không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường đúng như cam kết thì số tìen
ký quỹ sẽ được hoàn trả lại cho xí nghiệp. Nếu xí nghiệp không thực hiện đúng
cam kết hoặc phá sản, số tiền trên sẽ được rút ra từ tài khoản ngân hàng chi cho
công tác khắc phục sự cố ô nhiễm đồng thời với việc đóng cửa xí nghiệp.
Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích đối với Nhà nước do không phải đầu tư
kinh phí khắc phục môi trường từ ngân sách, khuyến khích xí nghiệp hoạt động
bảo vệ môi trường. Xí nghiệp sẽ có lợi do lấy lại được vốn khi không để xảy ra ô
nhiễm hoặc suy thoái môi trường.
d. Trợ cấp môi trường
Là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở rất nhiều nước châu Âu
thuộc tổ chức OECD. Trợ cấp môi trường gồm các dạng sau:
- Trợ cấp không hoàn lại;
- Các khoản cho vay ưu đãi;
- Cho phép khấu hao nhanh;
- Ưu đãi thuế.
Chức năng chính của trợ cấp là giúp đỡ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và
các ngành khác khắc phục ô nhiễm môi trường trong điều kiện khi tình trạng ô
nhiễm quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng
được đối với việc phải xử lý ô nhiễm môi trường. Trợ cấp này chỉ là biện pháp
tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp hoặc kéo dài có thể dẫn đến không có
hiệu quả kinh tế vì trợ cấp đi ngược với nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
tiền.
148
e. Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái là một danh hiệu của Nhà nước cấp cho các sản phẩm
không gây ô nhiễm môi ttrường trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hoặc quá
trình sử dụng các sản phẩm đó. Nhãn sinh thái có tác dụng thúc đẩy các hoạt
động hướng tới việc bảo vệ môi trường. Loại hàng hoá có gắn nhãn sinh thái
thường được ưu tiên tiêu thụ. Như vậy, nhãn sinh thái là công cụ kinh tế tác
động vào nhà sản xuất thông qua phản ứng và tâm lý của khách hàng.
Nhãn sinh thái là do một cơ quan môi trường quốc gia quản lý việc cấp và
thu hồi. Có rất nhiều loại nhãn sinh thái khác nhau như nhãn xanh, ecomark,…
Việc sử dụng các công cụ kinh tế trên cho thấy một số tác động tích cực
như các hành vi môi trường được thuế điều chỉnh một cách tự giác, các chi phí
của xã hội cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn, khuyến khích việc
nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho việc bảo vệ môi trường, gia
tăng nguồn thu nhập phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho ngân sách
Nhà nước, duy trì tốt giá trị môi trường của quốc gia.
V.5.3.Các nội dung của việc ký quỹ môi trường
a. Phương pháp xác định mức tiền ký quỹ
Mức tiền ký quỹ môi trường được căn cứ theo tổng dự toán chi phí phục
hồi môi trường, thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ
và báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được các cấp có thẩm quyền phê
chuẩn cũng như thời hạn có hiệu lực của giấy phép khai thác khoáng sản.
Tuỳ thuộc vào thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi, quỹ
môi trường có thể được ký một lần hoặc nhiều lần. Tương ứng với từng trường
hợp cụ thể mà số tiền ký quỹ ở trên cũng không giống nhau.
b. Trường hợp ký quỹ một lần
Những trường hợp các cá nhân hoặc tổ chức hoạt động khoáng sản có thời
hạn khai thác (theo báo cáo nghiên cứu khả thi) dưới 3 năm thì bắt buộc phải
thực hiện ký quỹ một lần. Mức tiền ký quỹ bằng 100% tổng dự toán chi phí phục
hồi môi trường theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và báo cáo đánh giá
tác động môi trường đã được các cơ quan có chức năng phê duyệt (không bao
gồm khoản kinh phí dùng cho phương án công nghệ sản xuất và công nghệ xử lý
về mặt môi trường được tiến hành ngay trong quá trình khai thác của mỏ).
c. Trường hợp ký quỹ nhiều lần
Những trường hợp thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi của
các cá nhân và tổ chức hoạt động khoáng sản lớn hơn 3 năm thì có thể thực hiện
ký quỹ nhiều lần. Mức tiền ký quỹ trong trường hợp này được xác định bằng
biểu thức sau:
149
M.T
g
cp
A =
T
b
(1)
Trong đó: A - tổng số tiền ký quỹ cho một đối tượng được phép khai thác
khoáng sản, đồng; Tg - thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản
được cấp, năm; Tb - thời hạn khai thác theo báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế
mỏ và báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được các cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt, năm; Mcp - tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường theo báo
cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế mỏ và đánh giá tác động môi trường đã được các
cơ quan có chức năng phê duyệt (không bao gồm khoản kinh phí dùng cho
phương án công nghệ sản xuất và công nghệ xử lý về mặt môi trường được tiến
hành ngay trong quá trình khai thác của mỏ).
Trong trường hợp này, số tiền ký quỹ có thể được tiến hành làm nhiều lần,
do đó cần có những quy định về số tiền ký quỹ lần đầu (B) và những lần sau (C)
dựa vào thời hạn khai thác được cấp trong giấy phép như sau:
B =
- Đối với dự án có thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản
được cấp dưới 10 năm thì mức ký quỹ lần đầu lấy bằng 25% tổng số tiền phải ký
quỹ xác định ở trên.
A.25
100
(2)
B =
- Đối với dự án có thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản được
cấp dưới 20 năm thì mức ký quỹ lần đầu lấy bằng 20% tổng số tiền ký quỹ.
A.20
100
(3)
B =
- Đối với dự án có thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản
được cấp từ 20 năm trở lên thì mức ký quỹ lần đầu lấy bằng 15% tổng số tiền
phải ký quỹ.
A.15
100
(4)
C
=
- Số tiền ký quỹ những lần sau căn cứ vào số tiền phải ký quỹ còn lại và
thời hạn khai thác theo giấy phép khai thác khoáng sản được cấp, được xác định
theo biểu thức sau:
)BA(
−
)1
T(
g −
(5)
150
d. Trường hợp mỏ được gia hạn, bổ sung thời hạn khai thác
Trong trường hợp thời hạn khai thác được gia hạn, bổ sung mà không gây
tác động xấu đến môi trường do công suất khai thác chưa đủ và đã được cơ quan
quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đồng ý thì không phải ký quỹ nữa.
Trường hợp các hoạt động khai thác theo khoảng thời gian được gia hạn,
bổ sung gây tác động xấu đến môi trường thì phải thực hiện ký quỹ một lần theo
tổng dự toán chi phí phục hồi môi trường do hoạt động khai thác được gia hạn,
bổ sung gây ra đã được cơ quan có thẩm quyền thẩm định và phê chuẩn.
V.5.4. Thời điểm thực hiện ký quỹ
Đối với trường hợp ký quỹ một lần và ký quỹ lần đầu của những trường
hợp được ký quỹ nhiều lần, việc ký quỹ phải thực hiện xong trước ngày bắt đầu
tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản mà tổ chức, cá nhân được phép khai
thác khoáng sản đã đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo qui định
của Luật Khoáng sản và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Đối với trường hợp ký quỹ nhiều lần, thì từ lần thứ hai trở đi việc ký quỹ
phải thực hiện hàng năm (trước ngày 31 tháng 12 hàng năm) tính từ ngày đăng
ký bắt đầu tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản cho tới khi kết thúc thời
hạn khai thác theo giấy phép được cấp. Các đối tượng được phép ký quỹ nhiều
lần có thể chọn hình thức ký quỹ một lần cho toàn bộ thời hạn khai thác khoáng
sản theo giấy phép khai thác khoáng sản được cấp.
Đối với trường hợp được gia hạn, bổ sung thời hạn khai thác, việc ký quỹ
phải thực hiện trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được giấy phép chấp thuận
của cơ quan có thẩm quyền cho phép gia hạn thời hạn khai thác.
V.5.5.Trình tự, thủ tục ký quỹ
Ngay sau khi cấp giấy phép khai thác khoáng sản, cơ quan có thẩm quyền
cấp giấy phép khai thác khoáng sản phải ra thông báo yêu cầu đối tượng được
cấp giấy phép khai thác khoáng sản phải tiến hành ký quỹ tại một tổ chức tín
dụng theo qui định.
Trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo yêu cầu ký quỹ, đối
tượng được phép khai thác khoáng sản phải thực hiện việc ký quỹ tại tổ chức tín
dụng và thông báo bằng văn bản cho những cơ quan sau:
- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi tiến hành
hoạt động khai thác;
- Bộ Công nghiệp (Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam);
tại tổ chức tín dụng theo qui định của pháp luật về hoạt động của các tổ
chức tín dụng. - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Cục Môi trường).
Đối tượng phải ký quỹ có trách nhiệm thanh toán mọi chi phí về dịch vụ ký quỹ
151
Mọi thủ tục ký quỹ tại tổ chức tín dụng được thực hiện theo hướng dẫn
của tổ chức tín dụng nơi ký quỹ và phải phù hợp với quy định của pháp luật về
hoạt động của các tổ chức tín dụng đối với hoạt động ký quỹ.
Tiền ký quỹ được nộp, thanh toán và hạch toán bằng đồng Việt Nam.
Trường hợp có nhu cầu nộp bằng ngoại tệ thì được tính toán qui đổi về đồng
Việt Nam theo qui định của tổ chức tín dụng nơi ký quỹ.
V.5.6. Quản lý, sử dụng tiền ký quỹ
Cơ quan có thẩm quyền cấp, gia hạn, bổ sung và thu hồi giấy phép khai
thác khoáng sản có thẩm quyền và trách nhiệm:
- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện việc ký quỹ của các tổ chức, cá
nhân khai thác khoáng sản;
- Chấp thuận cho các tổ chức, cá nhân ký quỹ rút tiền để thực hiện việc
phục hồi môi trường;
- Quyết định hoàn trả số tiền ký quỹ không sử dụng hết cho các đối tượng
đã ký quỹ theo quy định của pháp luật về khoáng sản, bảo vệ môi trường.
Cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm thẩm
định và xác nhận:
- Các trường hợp gia hạn, bổ sung thời hạn khai thác mà hoạt động khai
thác không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường;
- Các tổ chức, cá nhân đã hoàn thành việc phục hồi môi trường.
Các tổ chức, cá nhân ký quỹ có quyền rút tiền ký quỹ khi đã thực hiện
xong nghĩa vụ phục hồi môi trường và đã được cơ quan quản lý Nhà nước về
bảo vệ môi trường thẩm định và xác nhận.
Khi các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản đã ký quỹ nhưng không
thực hiện việc phục hồi môi trường hoặc trường hợp bị phá sản hay giải thể thì
cơ quan có thẩm quyền quyết định cho phép sử dụng số tiền ký quỹ để phục hồi
môi trường và lựa chọn (thông qua đấu thầu) đơn vị thực hiện việc phục hồi môi
trường bằng khoản tiền ký quỹ này. Việc sử dụng tiền ký quỹ phải đảm bảo
đúng mục đích, phù hợp với nội dung, khối lượng công việc và dự toán chi phí
phục hồi môi trường đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và
phê chuẩn. Nếu số tiền ký quỹ để phục hồi môi trường không sử dụng hết thì
được trả lại cho đối tượng đã ký quỹ; trường hợp đối tượng ký quỹ đã bị giải thể
hoặc phá sản thì nộp toàn bộ vào Ngân sách Nhà nước theo qui định của pháp
luật về quản lý và xử lý tài sản khi có quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước và
tài sản được xác lập quyền sở hữu Nhà nước. Số tiền ký quỹ đã sử dụng phải
được kiểm tra, quyết toán theo qui định của pháp luật về tài chính hiện hành.
V.5.7. Tổ chức thực hiện
Cục Địa chất và khoáng sản Việt Nam, Sở Công nghiệp, Sở Khoa học
Công nghệ và Môi trường, Sở Tài chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
152
ương có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Công nghiệp, Bộ trưởng Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các nhiệm vụ qui định theo
Thông tư 126/1999/TTTL-BTC-BCN-BKHCNMT của liên bộ Tài chính - Công
nghiệp - Khoa học, Công nghệ và Môi trường.
Tổ chức tín dụng, nơi đối tượng khai thác khoáng sản thực hiện việc ký
quỹ để đảm bảo việc phục hồi môi trường theo qui định được phép thu khoản
phí dịch vụ về ký quỹ theo đúng qui định của pháp luật về hoạt động của các tổ
chức tín dụng và có các trách nhiệm:
- Thực hiện các thủ tục ký quỹ như nhận tiền gửi để ký quỹ, mở tài khoản phong
toả cho khoản tiền ký quỹ, xác nhận bằng văn bản việc ký quỹ cho đối tượng ký
quỹ, lưu giữ chứng từ liên quan đến việc ký quỹ, thanh toán tiền ký quỹ,… theo
các qui định về hoạt động của các tổ chức tín dụng, tài chính hiện hành.
- Thanh toán tiền ký quỹ cho các đơn vị được phép rút tiền ký quỹ theo
qui định.
Các đối tượng phải ký quỹ theo qui định đã nêu ở trên nếu không thực hiện việc
ký quỹ sẽ không được phép tiến hành khai thác khoáng sản hoặc sẽ bị thu hồi
giấy phép khai thác khoáng sản theo qui định hiện hành của pháp luật về hoạt
động khoáng sản.
Các đối tượng bị trả lại hoặc bị thu hồi giấy phép phải thực hiện nghĩa vụ
ký quỹ theo qui định này cho đến thời điểm trả lại hoặc bị thu hồi giấy phép.
Việc hoàn tả khoản tiền ký quỹ không sử dụng hết cho việc phục hồi môi trường
cho các đối tượng này sẽ được thực hiện sau khi có xác nhận đã hoàn thành việc
phục hồi môi trường hoặc sau khi có quyết toán chính thức về việc phục hồi môi
trường do hoạt động khai thác khoáng sản của các đối tượng này gây ra.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và phê chuẩn báo cáo đánh giá tác
động môi trường phải phối hợp với Bộ Tài chính hoặc Sở Tài chính để thẩm
định, phê chuẩn dự toán chi phí phục hồi môi trường của báo cáo đánh giá tác
động môi trường. Trường hợp trong báo cáo đánh giá tác động môi trường chưa
có dự toán chi phí phục hồi môi trường thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thẩm định và phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường có trách nhiệm
yêu cầu đối tượng xin thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường phải bổ
sung thêm nội dung này. Cơ quan tài chính và cơ quan phê chuẩn báo cáo đánh
giá tác động môi trường có trách nhiệm phối hợp quản lý và thực hiện việc kiểm
tra, quyết toán số tiền ký quỹ đã sử dụng.
Mọi chế độ thanh tra, kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm việc thực
hiện những quy định tại Thông tư 126/1999/TTTL-BTC-BCN-BKHCNMT
được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Các đối tượng được cấp giấy phép khai thác khoáng sản trước ngày thông
tư trên có hiệu lực thi hành mà giấy phép vẫn còn thời hạn và đối tượng đó có
nghĩa vụ phải phục hồi môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra thì
153
cũng phải thực hiện việc ký quỹ theo qui định của thông tư này. Mọi qui định
của Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
trước đây trái với thông tư trên đều bãi bỏ. Trong quá trình thực hiện, nếu có
vướng mắc, các đơn vị liên quan có thể phản ánh trực tiếp về liên bộ Tài chính,
Công nghiệp, Khoa học, Công nghệ và Môi trường để nghiên cứu bổ sung.
Có thể nói những nội dung của việc ký quỹ môi trường này là hoàn toàn
phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, phần nào tiếp cận và hội nhập được
với thế giới trong quản lý các hoạt động khai thác khoáng sản, bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững.
154
CHƯƠNG VI:
LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
CHO CÁC DỰ ÁN KHAI THÁC MỎ
Các phương pháp ĐTM chính được khuyến cáo áp dụng cho các dự án
VI.1. Các phương pháp được khuyến cáo áp dụng.
Để thực hiện ĐTM cho một dự án phát triển đảm bảo bao quát hết được
các vấn đề môi trường cần đề cập tới thì việc áp dụng đúng và đủ các phương
pháp đánh giá tác động cần được xem là một yêu cầu bắt buộc.
Nhìn chung, các phương pháp đánh giá, dự báo được sử dụng trong ĐTM
cho các dự án phát triển khá phong phú, từ đơn giản như phương pháp liệt kê,
mạng lưới,… cho tới các phương pháp phức tạp hơn như phương pháp mô hình,
phương pháp phân tích chi phí - lợi ích. Tùy thuộc vào bản chất của từng loại
hình dự án phát triển cần ĐTM, các phương pháp được lựa chọn sẽ khác nhau và
ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của mỗi phương pháp cũng khác nhau.
Các dự án khai thác khoáng sản lộ thiên là một trong những loại hình dự án có
khả năng gây ra nhiều tác động tiêu cực tới môi trường. Chính vì vậy, loại hình
dự án này bắt buộc phải thực hiện ĐTM theo quy định của Luật Bảo vệ Môi
trường (năm 2005).
Do những đặc thù riêng của loại hình dự án này nên việc xem xét, đánh
giá, lựa chọn các phương pháp ĐTM cho các dự án khai thác mỏ lộ thiên cần
được quan tâm xem xét để đảm bảo phản ánh đúng và đầy đủ các tác động lớn,
đặc trưng có khả năng xảy ra khi triển khai dự án.
khai thác khoáng sản lộ thiên là:
- Phương pháp liệt kê danh mục.
- Phương pháp ma trận.
- Phương pháp mạng lưới.
- Phương pháp mô hình hóa.
Nhìn chung, các phương pháp này đều là các phương pháp phổ biến được
sử dụng trong ĐTM cho các dự án phát triển. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu
phù hợp với loại hình dự án khai thác khoáng sản lộ thiên, các phương pháp này
sẽ được cụ thể hóa và đặc trưng hóa, đảm bảo dự báo đúng và đầy đủ các tác
động môi trường có thể xảy ra khi thực hiện dự án.
VI.2. Phương pháp liệt kê danh mục (checklist methodologies)
Phương pháp liệt kê danh mục là các phương pháp tương đối đơn giản,
được sử dụng khá phổ biến trong quá trình ĐTM cho các dự án phát triển. Các
phương pháp này giúp đưa ra một bức tranh tổng thể các vấn đề môi trường liên
quan tới dự án phát triển, đồng thời cũng cung cấp các thông tin về dự báo và
đánh giá các tác động môi trường có thể xảy ra khi thực hiện dự án.
Tùy thuộc vào đặc trưng và độ phức tạp của bảng danh mục, người ta chia
các phương pháp này ra nhiều mức độ khác nhau, từ đơn giản như các bảng liệt
kê đơn thuần các vấn đề môi trường cần quan tâm của dự án hay phức tạp hơn
155
Bảng 6.1. Bảng liệt kê các hoạt động dự án và thành phần môi trường
HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN
CỦA DỰ ÁN
CÁC HẬU QUẢ GÂY
RA ĐỐI VỚI MÔI
TRƯỜNG
CÁC YẾU TỐ MÔI
TRƯỜNG BỊ TÁC ĐỘNG
1. Xây dựng mỏ
1.1. Di dời nhà cửa, công trình
công nghiệp, dân dụng,...
1.2. Tháo khô, thoát nước mỏ,
vệ sinh công nghiệp,...
1.3. Tập kết nguyên nhiên vật
liệu, máy móc, thiết bị,...
1.4. Xây dựng các công trình
công nghiệp, dân dụng,...
1.5. Lắp đặt máy móc, thiết bị...
1.6. Bóc đất đá, xây dựng
đường ra vào mỏ, mặt bằng công
tác đầu tiên,…
2. Hoạt động sản xuất
2.1. Tháo khô, thoát nước mỏ
2.2.Bóc đất đá :
- Khoan lỗ mìn
- Nổ mìn
- Xúc bóc đất đá
-Vận tải đất đá
- Đổ thải đất đá
2.3. Thu hồi khoáng sản :
- Khoan lỗ mìn
- Nổ mìn
- Xúc khoáng sản
-Vận tải khoáng sản
- Gia công chế biến
- Chất kho và tiêu thụ
3. Đóng cửa mỏ
3.1. Di chuyển thiết bị máy móc,
tháo dỡ công trình nhà cửa, ….
3.2. Cải tạo, san gạt các mặt
bằng, sườn dốc, …
3.3. Phục hồi đất đai, trồng cây
phủ xanh bãi thải, sườn dốc,….
3.4. Xây dựng các công trình
bảo vệ, cắm biển báo, …
….
156
nữa là bổ sung các thông tin về phương pháp đánh giá, dự báo các tác động của
vấn đề môi trường được đưa ra hay bảng liệt kê các vấn đề môi trường của dự án
có tính đến mức độ (trọng số) của mỗi vấn đề kèm theo các kỹ thuật cho điểm
đối với mỗi tác động môi trường của từng phương án khác nhau.
Đối với các dự án khai thác khoáng sản lộ thiên, phương pháp liệt kê danh
mục nên được sử dụng là phương pháp liệt kê các họat động phát triển của dự án
có kèm theo các thông tin về dự báo các tác động của họat động dự án tới thành
phần môi trường. Chi tiết của phương pháp này được trình bày theo bảng trên.
VI.3. Xây dựng ma trận môi trường dùng trong ĐTM các dự án khai thác lộ
thiên.
VI.3.1. Lựa chọn hình thức ma trận.
Ma trận môi trường định lượng, có thể hiểu là đơn giản, dễ sử dụng, dễ
thống nhất trong cách đánh giá và định lượng mức độ tác động của các hoạt
động phát triển, không đòi hỏi người tham gia đánh giá tốn nhiều công sức tìm
hiểu các hậu quả sâu xa và phạm vi ảnh hưởng rộng lớn của yếu tố tác động.
Tuy nhiên nhược điểm của ma trận đơn là phiến diện, chỉ mang tính trực giác
nhiều hơn là đi sâu vào bản chất của sự việc, lượng thông tin ít và đôi khi gây sự
nhầm lẫn trong khi đánh giá.
Ví dụ, khi nổ mìn, tác động xấu đến môi trường dễ nhận biết nhất là tiếng
động lớn, bụi nhiều và bốc lên cao, chấn động mặt đất, chấn động không khí, đá
bay và thường được người đánh giá cho điểm cao về những tác động này, nhưng
lại coi nhẹ phần các khí nhà kính và khí độc hại (NO, CO, CO2, H2O, …) phát
thải vào không khí.
Trong khâu vận tải mỏ cũng tương tự, các nhà môi trường chỉ cho điểm
trên cơ sở sự phát xả bụi và gây ồn khi thiết bị hoạt động mà đánh giá thấp các
khí COx, NOx, SO2,… thoát ra từ động cơ điêzen.
Khi nổ mìn, tiếng nổ mặc dù rất lớn, nhưng chỉ thoáng qua và đối tượng
chịu tác động không nhiều. Những đám bụi dày đặc, bốc cao, nhưng lắng đọng
và phát tán nhanh với phạm vi ảnh hưởng không lớn. Đá bay rất nguy hiểm, có
thể gây chết người nhưng việc phòng tránh lại dễ dàng khi thực hiện đúng quy
phạm. Trong khi đó thì các khí độc hại và khí nhà kính khác thoát ra từ sản
phẩm nổ mặc dù không làm ảnh hưởng trực tiếp tới các thành phần môi trường
khu vực, nhưng lại đóng góp vào sự gia tăng hiệu ứng nhà kính, có ảnh hưởng
lâu dài trên phạm vi rộng lớn phủ kín toàn cầu.
Tuy nhiên, việc đánh giá mức độ ảnh hưởng có tầm quan trọng tương đối
là rất khó do phạm vi so sánh, xem xét rộng lớn và có liên quan đến hàng loạt
các hoạt động khác ở quy mô toàn cầu, trong khi đó thì đối tượng nghiên cứu lại
nằm trong giới hạn hạn chế về không gian và thời gian. Bởi vậy, tính thực tiễn
và khả thi của phương pháp ma trận môi trường kép chỉ dừng lại ở việc đánh giá
mức độ ảnh hưởng của các hoạt động phát triển đối với các nhân tố môi trường
157
có tầm quan trọng tuyệt đối.
Xét tổng thể, phương pháp ma trận môi trường định lượng có trọng số kết
hợp với việc phân định tác động mang tính tích cực hay tiêu cực bằng ký tự “+”
và “-” có thể coi là phương pháp biểu đạt các tác động môi trường hợp lý, chi
tiết và có tính khả thi hơn. Trong ma trận này trọng số là tầm quan trọng của
nhân tố môi trường nào đó đối với môi trường sống nói chung của con người, ví
dụ, dự án khai thác lộ thiên một mỏ than ở khu vực Quảng Ninh có ảnh hưởng
với tầm quan trọng lớn nhất tới đất đai lâm nghiệp (chiếm dụng nhiều diện tích
để mở khai trường, làm bãi thải và xây dựng các công trình phụ trợ khác), nhưng
đồng thời cũng là đối tác quan trọng trong việc cung cấp nhiên liệu cho công
nghiệp phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao động, do vậy trọng số của
3 thành phần này được đánh giá bằng 5. Sau đó là ảnh hưởng tới các thành phần
thảm thực vật (bị thu hẹp), dân trí của cộng đồng dân cư (đưa điện, nước, các
dịch vụ văn hoá về vùng sâu, vùng xa…). Tiếp đến là ảnh hưởng tới các thành
phần nước mặt, nước ngầm, dịch vụ xã hội, thương mại,… Các tác động của dự
án tới môi trường không khí, tài nguyên rừng, hệ sinh thái, đất nông nghiệp,…
trong khu vực là có nhưng không nhiều, do vậy điểm trọng số của các thành
phần này là 1.
Mức độ tác động của các hoạt động phát triển trong dự án tới các thành
phần môi trường trong ma trận này được đánh giá trên cơ sở giải phóng công
nghệ - kỹ thuật cụ thể áp dụng cho hoạt động đó. Ví dụ, trong khâu khoan, khi
sử dụng các máy khoan đập xoay cũ, không có thiết bị hút bụi, thổi phoi bằng
khí nén, thì mức độ tác động vào môi trường (do bụi) là -5, nhưng nếu dùng các
loại máy khoan hiện đại có cabin kín, có thiết bị thu gom bụi thì mức độ tác
động là -2 hoặc -1. Mức độ tác động tích cực của các hoạt động phát triển tới
các thành phần môi trường có thể đánh giá theo tỷ lệ đóng góp của chúng.
Đối với việc hoàn thành mục tiêu của dự án và theo tính chất cụ thể của
từng hoạt động. Ví dụ, mức độ tác động tới thành phần môi trường kinh tế - xã
hội, khoản mục tạo công ăn việc làm của khâu khoan là +1; nổ là +1; xúc là +1;
vận tải là +3; sàng tuyển - phân loại là +4,…; nhưng đối với việc nâng cao dân
trí của khâu khoan là +2; nổ, xúc, vận tải là +3; sàng tuyển - phân loại là +1, …
VI.3.2. Cách thể hiện các nguyên nhân gây tác động.
Việc phân chia các nguyên nhân gây tác động đến môi trường hay gọi
cách khác là các hoạt động phát triển của dự án có ảnh hưởng lớn đến mức độ
chính xác và tính cụ thể của ma trận.
Một số tác giả phân các hoạt động phát triển của dự án thành: mỏ, nhà
máy tuyển, đường giao thông, bãi thải. Cách phân này phiến diện và thiếu chính
xác, chỉ phù hợp khi tiến hành đánh giá tác động môi trường cho một khu vực
mà trong đó có chứa các tác nhân là mỏ lộ thiên (trong đó bao gồm cả bãi thải,
nhà máy tuyển, hệ thống giao thông khu vực, … Trong trường này thì trong
danh mục thống kê trên còn thiếu nhiều tác nhân khác.
158
Các hoạt động phát triển
Giai đoạn
I
Chuẩn bị dự án
II
Xây dựng mỏ
- Giải phóng mặt bằng (di dời, đền bù).
- Thoát nước, tháo khô mỏ.
- Tập kết nhân vật lực.
- San gạt, đào đắp mặt bằng.
- Xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp.
- Lắp đặt thiết bị, máy móc.
- Khoan - nổ mìn.
- Xúc bóc.
- Vận tải.
- Đổ thải.
- Thoát nước mỏ.
- Khoan - nổ mìn.
III
Hoạt động khai thác
IV
Đóng cửa mỏ
- Xúc bóc.
- Vận tải đất đá.
- Vận tải quặng.
- Đổ thải.
- Gia công chế biến.
- ChÊt kho vµ tiªu thô
- San lấp moong.
- Gia cố bãi thải.
- Trồng cày.
- Tháo dỡ công trình.
- Di chuyển thiết bị máy móc.
- Chuyển nhượng hạ tầng cơ sở và một số công trình.
Bảng 6.2: Các hoạt động phát triển của dự án Một số khác thì phân chia thành xây dựng cơ sở vật chất khu mỏ, mở mỏ,
khai thác khoáng sản, vận chuyển khoáng sản, hoạt động tuyển khoáng. Cách
phân chia này hợp lý hơn và sát với hoạt động khai thác lộ thiên hơn, nhưng
chưa chi tiết và chưa thể hiện chính xác các nguồn gốc hay nguyên nhân tạo nên
các sự cố môi trường. Mặt khác, thông thường hoạt động tuyển khoáng được
đánh giá tác động môi trường riêng như một đơn vị độc lập và về mặt hành
chính, rất ít khi thuộc biên chế của mỏ lộ thiên. Mỏ lộ thiên chỉ quản lý khâu gia
công chế biến sơ bộ trong mỏ như nghiền, đập, sàng, phân loại,… Việc vận
chuyển khoáng sản cũng tương tự như vận chuyển đất đá, khoan nổ mìn, xúc
bóc đất đá,… vì vậy không nên tách riêng.
TT
Việc phân chia các hoạt động phát triển của dự án khai thác lộ thiên trước
hết cần theo giai đoạn: chuẩn bị dự án, xây dựng mỏ, hoạt động khai thác và
đóng cửa mỏ hoặc cũng có thể nhập 2 giai đoạn chuẩn bị dự án và xây dựng mỏ
làm một. Bước tiếp theo, trong mỗi giai đoạn hoạt động cần bóc tách riêng từng
nhân tố cơ bản có thể gây các sự cố (tích cực và tiêu cực) môi trường bằng cách
đưa vào giá trị của mức độ ảnh hưởng các dấu “+” và “-” như một số tác giả
thường sử dụng.
159
VI.3.3. Phát hiện các yếu tố môi trường bị tác động
Nhìn chung các yếu tố môi trường bị tác động trong một dự án khai thác
lộ thiên thường là rất phong phú, tuy nhiên trong đánh giá tác động môi trường
chỉ đánh giá đến những yếu tố chủ yếu: con người tồn tại trong môi trường sống
bao gồm môi trường thiên nhiên và môi trường nhân tạo. Trong môi trường
thiên nhiên có các động thực vật trên cạn, dưới nước (thuộc môi trường sinh
thái), có đất, nước và không khí (thuộc môi trường vật lý). Trong môi trường
nhân tạo có điều kiện kinh tế - xã hội, thành tựu khoa học - kỹ thuật, … Tất cả
những yếu tố đó có tác dụng nâng cao chất lượng cuộc sống con người, chúng
có quan hệ qua lại lẫn nhau.
Bởi vậy các yếu tố môi trường có thể phân thành 3 nhóm:
a. Môi trường vật lý:
- Tài nguyên đất lâm nghiệp.
- Tài nguyên đất nông nghiệp.
- Tài nguyên nước mặt.
- Tài nguyên nước ngầm.
- Không khí.
b. Môi trường sinh học:
- Tài nguyên rừng.
- Hệ sinh thái trên cạn.
- Thảm thực vật.
- Động vật quý hiếm.
c. Môi trường kinh tế - xã hội:
- Công nghiệp.
- Nông nghiệp.
- Thương mại.
- Giao thông.
- Công ăn việc làm.
- Dịch vụ xã hội.
- Tệ nạn xã hội
- Dân trí.
- Sức khỏe cộng đồng.
Bảng 6.3 giới thiệu ma trận môi trường của một mỏ than đang hoạt động
(theo cách đánh giá của tác giả thông qua các báo cáo ĐTM hàng năm của mỏ).
Đối với khu vực Quảng Ninh nói chung, mỏ Hà Tu nói riêng, hoạt động khai thác
lộ thiên có tầm quan trọng lớn nhất tác động tới sự phát triển công nghiệp, công ăn
việc làm cho hàng chục ngàn người, giúp cho dân trí phát triển, tạo ra các nhu cầu
về dịch vụ xã hội, góp một phần nhỏ vào sự phát triển giao thông, nhưng đồng thời
cũng tạo điều kiện cho một số tệ nạn xã hội phát triển. Những tác động tiêu cực đối
với các thành phần môi trường chủ yếu là thu hẹp thảm thực vật, đất lâm nghiệp,
sau đó đến làm xấu chất lượng nước mặt, nước ngầm, không khí, tài nguyên rừng.
160
Bảng6.3. Ma trận môi trường mỏ than Hà tu
Hoạt động phát triển
Tổng
Nghiền
Thành phần môi trường
Khoan Nổ mìn Xúc Vận tải
Thải đá
ố
s
g
n
ọ
r
T
phân loại
tác động
Đất lâm nghiệp
3
-5
-1
-3
-27
Đất nông nghiệp
1
-4
-4
Nước mặt
2
-1
-2
-1
-2
-14
-1
Nước ngầm
2
-1
-1
-2
-1
-12
-1
ý
l
t
ậ
v
g
n
ờ
ư
r
t
i
ô
M
Không khí
2
-2
-2
-1
-2
-1
-22
-3
Tài nguyên rừng
2
-1
-1
-4
1
Hệ sinh thái trên
cạn
-1
-1
-1
-3
Thảm thực vật
3
-2
-3
-18
-1
c
ọ
h
h
n
i
s
g
n
ờ
ư
r
t
i
ô
M
-1
-1
-2
Động vật quý hiếm 1
Công nghiệp
5
2
3
2
5
3
2
4
+1
+1
+1
+1
+2
1
1
1
1
1
+2
+1
+1
+2
+2
-1
+2
+3
+1
+1
+2
+2
+2
-1
+1
+1
+1
+1
+1
+1
+1
+50
+6
+21
+3
+50
+27
-4
+32
+2
+1
+2
+3
+2
+1
i
ộ
h
ã
x
-
ế
t
h
n
i
k
g
n
ờ
ư
r
t
i
ô
M
Nông nghiệp
Thương mại
Giao thông
Công ăn việc làm
Dịch vụ xã hội
Tệ nạn xã hội
Dân trí
Sức khoẻ cộng
đồng
2
-2
-2
-1
-1
-1
-1
-16
Nguồn: ĐTM mỏ than Hà Tu.
Còn các ảnh hưởng của hoạt động khai thác lộ thiên tới đất nông nghiệp, hệ sinh
thái trên cạn, động vật quý hiếm là không đáng kể. Xuất phát từ cách nhìn nhận đó
mà điểm trọng số đối với các thành phần môi trường được đánh giá.
161
CHƯƠNG VII:
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ TIÊU TRONG
HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC LỘ THIÊN CÓ ẢNH HƯỞNG
TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VII.1. Đặt vấn đề
Hoạt động khai thác mỏ nói chung, hoạt động khai thác lộ thiên nói riêng
hàng năm cung cấp cho nền kinh tế quốc dân hàng trăm triệu tấn khoáng sản các
loại, đóng ghóp vào GDP hàng trăm ngàn tỷ đồng,giúp đẩy nhanh công cuộc
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho
hàng triệu người lao động, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng
đưa ánh sáng văn hoá vào vùng sâu, vùng xa của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh
đó, hoạt động khai thác mỏ cũng gây ra nhiều hiểm hoạ, sự cố môi trường ảnh
hưởng không ít đến sự phát triển bền vững của xã hội loài người nói chung, của
đất nước nói riêng.
Trong thông điệp gửi thế giới của Chiến lược toàn cầu về môi trường và
phát triển bền vững đã nhấn mạnh “Sự sống của nhân loại phải dựa hoàn toàn
vào khả năng chịu đựng của Trái Đất. Nếu chúng ta không biết sử dụng tài
nguyên Trái Đất một cách lâu bền và thông minh thì tương lai của loài người sẽ
bi huỷ hoại. Mãi mãi không bao giờ có một sự lựa chọn nào khác. Bởi vậy
chúng ta phải tạo lập lối sống và sự phát triển trong những giới hạn của tự nhiên
và những hoạt động kỹ thuật- công nghệ cũng phải tuân theo nguyên lý đó.
Trong 10 nguyên tắc sống bền vững là “Tôn trọng và quan tâm đến đời
sống cộng đồng; Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người; Bảo vệ sức
sống và tính đa dạng của Trái Đất; Giảm đến mức thấp nhất sự cạn kiệt các
nguồn tài nguyên không tái tạo; Hoạt động trong phạm vi chịu đựng của Trái
Đất; Thay đổi thái độ và hành vi cá nhân; Hạn chế tiêu thụ và hạn chế sinh đẻ
nhằm giảm nhu cầu về năng lượng; Giúp đỡ cộng đồng để có khả năng tự giữ
gìn môi trường của mình; Đưa ra một khuôn mẫu quốc gia cho sự phát triển
tổng hợp và bảo vệ; Xây dựng khối liên minh toàn cầu “ thì hoạt động của ngành
khai thác lộ thiên đã có những vi phạm nghiêm trọng tới 2 nguyên tắc là :
a.Tham gia vào việc thải khí SO2, Nox,Cox,và các khí hydrocacbon, gây ra
mưa axit và khói quang hoá,…là nguyên nhân làm thay đổi khí hậu trái đất; thu
hẹp diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, làm ảnh hưởng đến chế độ sinh
sản của một số loài động thực vật, tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái,
…(nguyên tắc 3).
b. Khai thác với quy mô ngày càng lớn các loại khoáng sản (kim loại, phi
kim loại, nhiên liệu, vật liệu xây dựng,…) làm cạn kiệt nguồn tài nguyên không
tái tạo (nguyên tắc 4).
Nước ta là một nước đang phát triển, thuộc nhóm các nước nghèo trên thế
giới, có nguồn tài nguyên tuy phong phú, đa dạng nhưng khá khiêm tốn về trữ
lượng, môi trường bị suy thoái nghiêm trọng sau nhiều năm chiến tranh, nghèo
nàn về kinh tế, lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ. Ngày nay, bước sang thời kỳ
162
đổi mới, chúng ta đang trên con đường xây dựng nhằm đạt được mục tiêu là trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Bởi vậy, vấn đề bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững đang trở thành một tiêu chí hàng đầu của sự nghiệp nói
trên mà trong đó sự phát triển của ngành khai thác lộ thiên không phải là một
ngoại lệ.
Trong những năm gần đây, việc bảo vệ môi trường trên các mỏ lộ thiên đã
bước đầu có những chuyển biến rõ nét, công tác ĐTM đã được coi trọng và đi
vào nề nếp, tuy nhiên ĐTM chưa thực sự trở thành một nhân tố tích cực thúc
đẩy các quá trình sản xuất trên mỏ lộ thiên vận hành theo hướng phát triển bền
vững, chưa quan tâm tới một số vấn đề tưởng như đơn thuần thuộc phạm trù
kinh tế-kỹ thuật như tổn thất quặng trong quá trình khai thác, hiệu quả sử dụng
đất cho khai thác, hiệu quả phục hồi đất sau khai thác, …
VII.2. Tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác
VII.2.1.Tài nguyên khoáng sản là một trong những nhân tố cấu thành môi
trường
Tài nguyên khoáng sản là loại tài nguyên đặc biệt, không tái tạo được, mà nhu
cầu sử dụng của nhân loại thì ngay càng gia tăng-năm sau cao hơn năm trước.
Nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên này đang là vấn đề làm cho nhiều quốc gia lo
lắng.
Các nhà địa chất đã kiểm kê, xác nhận trữ lượng toàn cầu về dầu thô là 137 tỷ
tấn, khí thiên nhiên là 141 ngàn tỷ m, Trong giai đoạn vừa qua, hàng năm thế
giới đã khai thác từ lòng đất trên 3 tỷ tấn dầu và trên 2 tỷ m khí thiên nhiên, nếu
chỉ tính nhu cầu sử dụng của thế giới hàng năm gia tăng 2-3% thì trữ lượng dầu
khí của trái đất chỉ đủ dùng cho nửa đầu thế kỷ thứ XXI. Về than đá, theo tạp chí
“Coal information” hiện nay tổng trữ lượng của thế giới chỉ còn khoảng 840-
1040 tỷ tấn, chỉ đủ dùng cho nhân loại trong khoảng 236 năm.
Trong nhóm khoáng sản phi kim loại, trữ lượng thạch cao của thế giới được
đánh giá là 2,6 tỷ tấn-chỉ đủ dùng cho thập kỷ tới; Barit trên 500 triệu tấn- đủ
dùng cho vài ba thế kỷ nữa; Fluospa- nhóm khoáng vật chứa F, dùng cho công
nghiệp hoá chất, gốm sứ, luyện kim,…trữ lượng 400 triệu tấn, đủ dùng cho
khoảng 100 năm; Kim cương công nghiệp chỉ đảm bảo tiêu dùng cho khoảng 30
năm; Atbet - dùng trong các ngành hoá chất, xây dựng, cơ khí, may mặc,…đủ
dùng cho vài ba thế kỷ mà thôi.
Trong nhóm khoáng sản kim loại, trong số trữ lượng sắt dự báo của thế giới là
13-15 ngàn tỷ tấn thì 95% là quặng quăczit chứa sắt, chỉ khoảng 100 tỷ tấn là
quặng sắt có thể khai thác được, Với sản lượng hàng năm trên dưới 950 triệu tấn
thì chỉ đủ tiêu dùng trong khoảng hơn100 năm; Trữ lượng mangan- xấp xỉ 5 tỷ
tấn, có thể khai thác được trong vài thế kỷ nữa; Crom- 11 tỷ tấn, đủ dùng cho vài
trăm năm; Vonfram-với 3 triệu tấn đủ cho nhân loại dùng trên 100 năm. Tương
tự như vậy đối với 12 triệu tấn môlipđen, 5triệu tấn niken, 11triệu tấn coban đã
163
được các nhà địa chất đánh giá; Đồng-590 triệu tấn-50 năm; Chì - 130 triệu tấn -
vài chục năm; Kẽm - 330 triệu tấn - 50 năm; Thiếc - 10 triệu-50 năm; Nhôm
(bauxit) - 30 triệu tấn, inmenhit - 430 triệu tấn; Antimon- 4,7 triệu tấn- chỉ đủ
dùng cho dưới 100 năm.
Trước tình hình đó, nhiều quốc gia đã đưa vấn đề tiết kiệm tài nguyên
khoáng sản, tận dụng triệt để và sử dụng hợp lý phần tài nguyên đang tiến hành
khai thác, cất giữ phần tài nguyên chưa đủ điều kiện để khai thác hiệu quả hoặc
có nguy cơ gây tổn thất lớn trong quá trình thu hồi, coi đó là trách nhiệm để
“không làm tổn hại đến tiềm năng thoả mãn nhu cầu sống của các thế hệ mai
sau”.
Tài nguyên (nói chung) là nhân tố cơ bản tạo nên môi trường sống của con
người, là nền tảng của kinh tế - xã hội loài người. Để xã hội tiếp tục phát triển
bền vững thì ngay từ bây giờ cũng như mãi mãi về sau con người phải biết giữ
gìn, tiết kiệm và sử dụng hợp lý tài nguyên, nhất là tài nguyên không tái tạo
được.
Tiềm năng khoáng sản nước ta tuy phong phú, đa dạng nhưng không
giàu, điều kiện tự nhiên phức tạp, kỹ thuật và công nghệ khai thác tuy đã được
đổi mới và hiện đại hoá nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu theo mặt bằng
chung thế giới về mặt tận thu tối đa tài nguyên trong quá trình khai thác.
Để tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác không chỉ gây thiệt hại về mặt
kinh tế mà còn tác động xấu tới môi trường và xã hội do phải tiếp tục chiếm
dụng đất đai để mở mỏ mới, làm thu hẹp thảm thực vật và đất canh tác, mở rộng
phạm vi ảnh hưởng của khai thác đến môi trường, làm xáo trộn đời sống và việc
làm của cộng đồng ở nơi cũ và mới,….
Có thể nêu ra đây một vài con số cụ thể về tình hình tổn thất tài nguyên khoáng
sản trên một vài mỏ lộ thiên : mỏ apatit Lao cai, từ năm 1980-1995 tổn thất
trung binh hàng năm là 8,47%; trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, theo thống kê
chưa đầy đủ, tổn thất thiếc là 7%,vonfram – 30%,mangan, antimon-15%; pyrit
Giáp Lai – 13,28%; tổn thất than trên các mỏ lộ thiên trung bình 8-10%,…
Qua tìm hiểu 146 báo cáo ĐTM về các dự án khai thác mỏ (21 báo cáo về
than, 13 về quặng kim loại và 112 về đá vôi ximăng, sét, đá xây dựng thông
thường) chưa có một báo cáo ĐTM nào đề cập tới vấn đè dự báo tổn thất tài
nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác và đè xuất những giải pháp công
nghệ- kỹ thuật cụ thể nhằm hạn chế những tổn thất đó. Đièu đó, một mặt do chủ
quan nhà đầu tư chưa nhận thức đày đủ việc tiết kiệm tài nguyên lòng đát như
một trách nhiệm về bảo vệ môi trường, mặt khác chưa có một văn bản pháp quy
nào đưa ra ràng buộc với chủ dự án về trách nhiệm đối với việc tổn thất tài
nguyên khoáng sản trong quá trình vận hành dự án,trong khi luật BVMT đã ghi
rõ “sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên,…” là một trong những
chính sách Nhà Nước về bảo vệ môi trường (khoản 3 điều 5).
Hình thành được quan niệm “tổn thất tài nguyên khoáng sản là một sự cố môi
trường” thì đó sẽ là chìa khoá để bắt buộc đưa ra những giải pháp tích cực và cụ
164
thể nhằm hạn chế và khắc phục hiện tượng lãng phí và sử dụng không hợp lý
nguồn tài nguyên không tái tạo được đang ngày càng cạn kiệt dần.
Xuất phát từ quan điểm “Tài nguyên khoáng sản là một nhân tố quan
trọng cấu thành môi trường sống của con người “, chúng ta nên coi việc gây tổn
thất chúng trong quá trình khai thác như một tác động xấu tới môi trường của
hoạt động dự án và phải nhìn nhận vấn đề đó một cách nghiêm túc trong quá
trình tiến hành ĐTM.
m
100
VII.2.2.Tổn thất khoáng sản trong quá trình khai thác
Tổn thất khoáng sản trong quá trình khai thác là một hiện tượng không
c
, % (9-1) Km = tránh khỏi trên các mỏ lộ thiên.
Tổn thất khoáng sản là phần trữ lượng khoáng sản (KSCI) trong cân đối
bị mất đi trong quá trình khai thác. Với các công nghệ khai thác và bóc đất đá
khác nhau thì tổn thất khoáng sản cũng khác nhau. Trong khai thác lộ thiên
người ta phân biệt hai loại tổn thất: tổn thất chung và tổn thất khai thác.
Tổn thất chung và phần trữ lượng công nghiệp phải để lại dưới các trụ bảo
vệ, bờ mỏ, đai vận tải, hoặc do các nguyên nhân khách quan như các đứt gãy địa
chất, điều kiện địa chất thuỷ văn phức tạp… Tổn thất khai thác xảy ra do phần
tài nguyên trừ lại ở vùng tiếp xúc của đất đá với vách và trụ vỉa, do rơi vãi trong
quá trình xúc bóc, vận tải, do xúc lẫn vào đất đá, do nổ mìn… Người ta đánh giá
tổn thất bằng phần trăm khối lượng khoáng sản trong cân đối bị mất đi so với
khối lượng khoáng sản cân đối toàn bộ theo tính toán.
Mức độ tổn thất khoáng sản biểu thị trình độ kỹ thuật và tổ chức sản xuất
mỏ, mức độ khó khăn và thuận lợi của điều kiện tự nhiên, cũng như có thể dựa
vào đó để đánh giá mức độ tận dụng tài nguyên lòng đất.
Để xác định tỷ lệ tổn thất khoáng sản, trước hết cần tiến hành tính toán trữ
lượng trong cân đối Qc của khu vực nghiên cứu trên cơ sở tài liệu thăm dò địa
chất. Sau đó, bằng phương pháp gián tiếp hay trực tiếp tính toán khối lượng
khoáng sản bị tổn thất Qm.
Hệ số tổn thất khoáng sản:
Q
Q
Hệ số thu hồi khoáng sản nguyên khai là tỷ số giữa khối lượng khoáng
k
sản khai thác được và khối lượng khoáng sản gốc tương ứng trong cân đối.
Q
Q
c
(9-2) Kth =
+
Q
)
d
c
hay:
(
−
QQ
m
Q
c
(9-3) Kth = =1- Km + Kd ; %
165
d
Trong đó : Qđ -khối lượng đá bẩn lẫn vào khoáng sản nguyên khai, tấn;
Q
Q
c
- hệ số pha tạp. Kd =
Từ đó hệ số tổn thất khoáng sản có thể xác định theo biểu thức :
Km = 1- Kth + Kd ; % (9-4)
VII.2.3. Thiệt hại kinh tế do tổn thất khoáng sảntrong quá trình khai thác
Do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ khai thác và sử dụng tài nguyên
khoáng sản ngày một gia tăng, trong khi đó thì trữ lượng của chúng trong lòng
đất là có hạn. Bởi vậy những năm gần đây, vấn đề sử dụng hợp lý và tiết kiệm
tài nguyên khoáng sản - một loại tài nguyên không tái tạo được - đã trở thành
một mục tiêu hàng đầu trong công nghiệp khai thác, chế biến và sử dụng khoáng
sản.
Nếu như trước đây, trong cơ chế bao cấp, vấn đề tiết kiệm tài nguyên
(thông qua chỉ tiêu tổn thất khoáng sản khi khai thác) chưa được coi trọng đúng
mức do nó không những không ảnh hưởng đến giá thành khai thác, mà trong
nhiều trường hợp nó còn làm giảm một cách đáng kể các chi phí sản xuất của
mỏ, thì ngày nay, trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp mỏ buộc phải quản
trị tốt các tài nguyên được giao bởi các lý do sau:
1. Tài nguyên ở các khoáng sàng ngày một cạn kiệt, điều kiện khai thác
ngày một khó khăn.
2. Các lợi ích kinh tế của doanh nghiệp gắn liền với quản trị tài nguyên
thông qua các ràng buộc do các điều khoản của Luật Khoáng sản và các văn bản
dưới luật của Bộ, Ngành chức năng quy định.
3. Các chi phí điều tra khảo sát, thăm dò địa chất,... không còn được Nhà
Nước bao cấp như trước đây, mà do chính bản thân doanh nghiệp phải hạch toán
vào giá thành sản phẩm.
Các nguyên nhân trên buộc các doanh nghiệp ngày một ý thức sâu sắc
hơn vấn đề sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, mà nhiệm vụ trước mắt là
tìm giải pháp nhằm giảm tổn thất và làm nghèo khoáng sản khi khai thác, tận thu
tối đa tài nguyên lòng đất. Các thiệt hại gây ra do tổn thất và làm nghèo trong
quá trình khai thác có thể định lượng gần đúng như sau:
a. Thiệt hại kinh tế do thăm dò địa chất phân bổ cho khối lượng khoáng
sản cân đối không thu hồi được là:
(9-5) Ctd = KmQcctd, đồng
Trong đó: Km- là hệ số tổn thất khoáng sản cân đối thực tế; Qc- là khối
lượng khoáng sản trong cân đối, ctd- giá thành thăm dò địa chất tính cho 1 tấn trữ
lượng cân đối, đ/T.
166
2. Thiệt hại kinh tế để xây dựng mỏ phân bổ cho khối lượng khoáng sản
cân đối không thu hồi được là:
(9-6) Cxd = KmQccxd, đồng
Trong đó: cxd- chi phí để xây dựng mỏ tính cho 1 tấn khoáng sản cân đối
3. Thiệt hại kinh tế do tăng chi phí bóc đất đá vì khối lượng khoáng sản
cân đối bị lẫn vào đất đá thải.
(9-7)
Cđ = KmQcb, đồng
Trong đó: b- chi phí thực tế để bóc tấn đá thải
4.Thiệt hại kinh tế do lãi không thu hồiđược đối với khối lượng khoáng
sản cân đối bị tổn thất:
(9-8)
Cl = (G - C) Km Qc, đ
Trong đó:
G - Giá bán một tấn khoáng sản có hàm lượng α, đ/t; C - Giá thành toàn phần
của một tấn khoáng sản có hàm lượng α, đ/t.
(9-9)
(9-10)
C = a + Ktb. b, đ/t
a - Giá thành khai thác một tấn khoáng sản chưa kể đất bóc, đ/t; b - giá thành
bóc một tấn đất đá thải, đ/t; Ktb- hệ số bóc đất đá trung bình của mỏ, đ/t.
5. Thiệt hại kinh tế do quá trình làm nghèo khoáng sản làm giảm giá trị của
khoáng sản nguyên khai, có thể tính gần đúng với biểu thức:
Cg = Kth Qc (G - G’), đ
Trong đó : Kth - hệ số thu hồi khoáng sản nguyên khai; G và G’ - giá bán một tấn
khoáng sản có hàm lượng α và α’ , đ/t.
Từ đó ta có tổng thiệt hại kinh tế do tổn thất và làm nghèo trong quá trình khai
thác là:
(9-11)
(9-12)
Cth = Ctđ + Cxd + Cđ + Cl + Cg, đ
Hay Cth = Qc[Km (ctđ + cxd +b + G - C) + Kth (G-G’)], đ.
Ngoài các thiệt hại có thể định lượng trên còn phải kể đến các thiệt hại về
môi trường và xã hội khác như việc tổn thất tài nguyên dẫn đến rút ngắn tuổi thọ
mỏ làm nhanh chóng phải mở mỏ mới trên vùng lãnh thổ mới, một số loại
khoáng sản khi bị lẫn vào đất đá thải sẽ gây những hậu quả nghiêm trọng về môi
trường, việc kết thúc mỏ sớm cũng đồng nghĩa với việc giảm công ăn việc làm
của người lao động, nhà nước cũng thiệt hại những khoản thu ngân sách,….
VII.3. Hiệu quả sử dụng đất trong khai thác lộ thiên
Đất đai là loại tài nguyên cơ bản của mọi hoạt động kinh tế loài người. Đất đai
không phát triển được và ngày càng bị thu hẹp diện tích theo đầu người do sự
gia tăng dân số trái đất. Theo Jacques Vallin vào năm 10.000 trước Công
nguyên, toàn cầu chỉ có 5 triệu người, vào giữa thiên niên kỷ thứ 4 trước Công
167
nguyên đã đạt tới 150 triệu người. Đầu nguyên đại chúng ta đã lên tới 250 triệu
người. Đến năm 1830 thì dân số trái đất đã tăng lên 1 tỷ người và 100 năm sau
đã vượt quá 2 tỷ. Để đạt tới con số 3 tỷ người chỉ mất có 32 năm. Tháng 3 năm
1976 là 4 tỷ, tháng 7 năm 1987 là 5 tỷ, năm 1990 là 5,5 tỷ....
ở Việt Nam ta, đầu thế kỷ I sau Công nguyên là 1 triệu người, đến thế kỷ
XI là 4,3 triệu người, sang thế kỷ XIX là 7,2 triệu người. Năm 1921 (Pháp
thuộc) là 15,5 triệu người. Năm 1945 (sau CM tháng 8) là 23 triệu người, năm
1976 - 46,2 triệu người, năm 1996 - 75 triệu người,...
Các số liệu thống kê trên cho thấy tốc độ tăng dân số ngày càng cao trong
khi đó thì đất đai dùng cho canh tác, trồng trọt ngày càng thu hẹp, do quá trình
đô thị hóa, do sự tàn phá vô ý thức của người dân đối với rừng, do thiên tai hỏa
hoạn, và một phần nữa do sự phát triển của công nghiệp khai thác khoáng sản
ngày càng mạnh mẽ.
Đất đai trực tiếp nuôi sống con người nhiều cách: là nơi trú ngụ của
những ngôi nhà, làng mạc, thành phố, khu công nghiệp; là nơi nuôi trồng những
“cây con” cung cấp các nhu cầu vật chất thiết yếu để con người tồn tại; là nơi
đáp ứng nguồn tài nguyên khoáng sản cho sự phát triển của xã hội; là nơi góp
phần cải thiện, nâng cao chất lượng sống bằng không gian trong lành và đa dạng
khi thư giãn nghỉ ngơi;... Hiệu quả sử dụng mà đất đai mang lại cho con nguời
trên mỗi vùng, mỗi khu vực cụ thể, là khác nhau tùy thuộc vào việc lựa chọn của
con người. Không ai dám chắc việc khai thác đá ở một ngọn núi để làm vật liệu
xây dựng sẽ mang lại lợi ích to lớn hơn khi giữ nguyên nó cho một cảnh quan du
lịch hay việc thu hồi quặng sắt ở một khoáng sàng nào đó không đủ bù chi phí
cho việc khắc phục hậu quả về môi trường sau này,... nếu không có những
nghiên cứu, so sánh, đánh giá nghiêm túc, đặc biệt đối với việc khai thác những
khoáng sản có chứa hoặc phải sử dụng tới những hóa chất độc hại, nhậy cảm với
môi trường hay khi khoáng sàng chứa loại khoáng sản đó nằm ở địa điểm có mật
độ dân cư lớn, hoặc gần các khu di tích, khu du lịch hay ở vùng đất màu mỡ,
thuận lợi cho việc thâm canh nông, lâm nghiệp.
Bên cạnh đó, thì việc khai thác một cách cạn kiệt các nguồn tài nguyên
không tái tạo và hữu hạn cũng là điều phải cân nhắc. Vì mục đích phát triển bền
vững, vấn đề này hiện đang được các nước phát triển trên thế giới coi trọng.
“Tiết kiệm, sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản, dành dụm cho các thế hệ mai
sau” đã trở thành quốc sách. Nhiều nước phát triển đã thu hẹp sản lượng hoặc
ngừng khai thác ở một số khoáng sản chiến lược, hoặc xét thấy hiện tại việc khai
thác chúng kém hiệu quả,... Chúng ta đã biết các nhà khoa học thế giới sau khi
kiểm kê lại nguồn tài nguyên khoáng sản của nhân loại và nghiên cứu, sự gia
tăng nhu cầu sử dụng chúng của các nước đã dự báo rằng các khoáng sản chỉ đủ
cho thế giới dùng trong vòng 100 ÷ 300 năm là sắt, mangan, crôm, vônfram,
molipđen, coban; Đủ dùng cho khoảng 50 năm là đồng, thiếc; Đủ dùng cho 40
năm là kẽm; Đủ dùng cho 30 năm và vàng, bạc; Đủ dùng cho vài chục năm là
168
nhôm, bạch kim. Còn than, với trữ lượng dự báo là 840 ÷ 1040 tỷ tấn cũng chỉ
đủ dùng 236 năm.
Từ đó, việc cân nhắc để tiến hành khai thác một khoáng sản nào đó, ngoài
việc dựa vào tiêu chí hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất vào mục đích khai
thác khoáng sản so với sử dụng vào mục đích kinh tế khác, còn cần phải xem xét
lợi ích lâu dài và vị trí chiến lược của loại khoáng sản đó trong sự phát triển bền
vững của nền kinh tế quốc dân để quyết định thời điểm đưa nó vào sử dụng. Cả
hai vấn đề trên đều thuộc trách nhiệm cơ quan quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô về
sử dụng hợp lý tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản.
Hiệu quả kinh tế sử dụng đất thờng được đánh giá dễ dàng bằng định
lượng trên cơ sở giá trị hiện tại ròng (NPV) của dự án, diện tích đất sử dụng của
dự án và giá trị kinh tế của bản thân đất thông qua giá trị đất cho thuê hoặc
nhượng quyền sử dụng (theo quy định hiện hành của Nhà nước), lợi tức hàng
năm mang lại của các dịch vụ khác của đất như trồng lúa, hoa mầu, cây công
nghiệp,... hoặc tham quan - du lịch trên vùng diện tích đó.
Tùy theo loại khoáng sản, phương thức khai thác và khả năng phục hồi
mà giá trị kinh tế của bản thân đất có thể chỉ tạm thời không thu hồi được trong
thời gian hoạt động của dự án khai thác mỏ hoặc vĩnh viễn mất đi, thậm chí còn
phải bù đắp thêm để khắc phục những hậu quả xấu mà dự án khai thác mỏ để lại.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp hoạt động khai thác mỏ đã tạo ra “hiệu
ứng dương” làm tăng thêm giá trị của đất đai sau khai thác, biến những vùng đồi
trọc khô cằn hay vùng đầm lầy chua mặn không có giá trị sử dụng thành khu dân
cư sầm uất, khu vui chơi giải trí, có giá trị thẩm mỹ cao trong dịch vụ du lịch.
T
Hiệu quả kinh tế của dự án khai thác mỏ được đánh giá bằng chỉ tiêu NPV
(Net Present Value) - là tổng của hiệu các dòng tiền mặt thu và chi trong các
năm hoạt động của đời dự án quy về thời điểm đánh giá (mốc 0 của thời điểm
đánh giá thường lấy là năm đầu đưa dự án vào hoạt động - tức năm đầu xây
dựng mỏ), có thể viết là:
=
NPV
)
(
.
−
aCG
i
i
i
∑
1
=
i
=
, tỷ đồng (9-13)
ia
i
1
) 1
−Γ+
(
1
Trong đó, i = 1,2,3,... T - thứ tự các năm hoạt động của dự án; T - số năm của
đời dự án, năm; G - dòng tiền mặt thực thu ở năm thứ i, tỷ đồng; Ci - dòng tiền
; r -
mặt thực chi ở năm thứ i, tỷ đồng; ai - tỷ suất chiết khấu, đvtp;
hệ số chiết khấu vốn đầu t, thường lấy bằng lãi suất vay ngân hàng trên thị
trường vốn, đvtp.
Thông thường, để kể đến ý nghĩa kinh tế xã hội của dự án (tạo công ăn
việc làm, nâng cao dân trí cộng đồng,...) thì khi NPV ≥ 0 là dự án được chấp
nhận. Có nghĩa là, việc chấp nhận dự án chỉ mới xét đến yếu tố cung cầu đối với
loại khoáng được khai thác hoặc chỉ mới nhìn nhận vấn đề trên lợi ích cá nhân
169
của nhà đầu tư, mà chưa quan tâm một cách toàn diện, khách quan hơn về hiệu
quả sử dụng đất.
+
tT
−
NPV
j
∑
.
aC
j
1
+=
Tj
Để khắc phục tính phiến diện, chủ quan khi đánh giá, lựa chọn và quyết
định phương án đầu tư dự án (bao gồm cả dự án khai thác khoáng sản) ta có thể
căn cứ vào chỉ số hiệu quả sử dụng đất:
=
I
d
+
tT
.
aG
k
k
∑
1
=
k
1
=
(9-14)
ja
Γ+
(
1
)j
Trong đó, NPV - giá trị hiện tại ròng của dự án khai thác khoáng sản trong T
năm hoạt động, xác định theo biểu thức (1), tỷ đồng; Cj - chi phí phục hồi môi
; Gk - lợi
trường ở năm thứ j, tỷ đồng; aj - tỷ suất chiết khấu, đvtp;
=
nhuận thu hồi từ dịch vụ chính của đất ở thời điểm đánh giá (nuôi trồng, du
ja
j
1
) 1
−Γ+
(
1
, đvtp. lịch,...), tỷ đồng; ak - tỷ suất chiết khấu,
Dự án khai thác khoáng sản sẽ được chấp nhận khi Iđ > 1. Trên thực tế,
phần lớn các dự án khai thác khoáng sản đều có Iđ lớn hơn 1 (thậm chí là lớn
hơn nhiều lần). Tuy nhiên khi “t” - thời gian phục hồi đất càng lớn thì Iđ càng
nhỏ và nếu sau khai thác, khả năng phục hồi đất là bất khả (kể cả chuyển đổi
chức năng sử dụng) thì Iđ ≈ 0. Khi đó, dự án không thể chấp nhận. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc dành dụm tài nguyên cho các thế hệ mai sau, khi điều
kiện khoa học - công nghệ phát triển đủ để thu hồi chúng mà vẫn bảo đảm chỉ số
Iđ là dương tính.
Tóm lại, việc quan tâm đến chỉ số hiệu quả sử dụng đất Iđ khi đánh giá,
lựa chọn các dự án khai thác khoáng sản là một tiêu chí tham khảo, mang tính
khách quan, vừa đảm bảo tính kinh tế của tiêu chí lựa chọn, vừa có tác dụng
nhắc nhở các chủ đầu tư tiết kiệm đất sử dụng cho dự án, ý thức được trách
nhiệm trong bảo vệ môi trường và góp phần cho sự phát triển bền vững của kinh
tế xã hội.
Vấn đề phục hồi đất sau khai thác cũng cần được đánh giá một cách khách
quan hơn. Về tổng thể, khai thác mỏ lộ thiên là hoạt động gây nhiều tác động
xấu tới đất đai, môi trường sinh học và cảnh quan khu vực như chúng ta đã nhắc
đén nhiều lần ở trên. Tuy nhiên nếu coi đó là một hiện tượng phổ biến và tất yếu
thì đó là một đáng giá chủ quan và không công bằng. Trong thực tế hoạt động
khai thác mỏ nói chung của thế giới và Việt nam đã có không ít những trường
hợp mà trong đó đất đai của vùng mỏ cũ (được phục hồi sau khai thác) có giá trị
cao hơn nhiều so với giá trị nguyên thuỷ của nó trước khi mở mỏ, thậm chí còn
kéo theo sự gia tăng giá trị của vùng đất lân cận. Xét ở góc cạnh tích cực, hoạt
động khai thác mỏ đã tạo ra những cộng đồng dân cư mới, những đô thị mới; đã
đưa ánh sáng văn hoá về vùng sâu, vùng xa (vì phần lớn tài nguyên khoáng sản
170
đều tập trung ở vùng miền núi); tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng cuộc
sống, nâng cao dân trí cho một bộ phận không nhỏ dân cư vùng đồng bằng và
miền núi.
Trên thế giới, việc khai thác than ở vùng Đônbat đã tạo nên thành phố
Đonhet (Ucraina); bể than Katowice đã trở thành thành phố Katowice sầm uất;
mỏ đá xây dựng ở Dramen (Na Uy) đã trở thành một điểm du lịch lý tưởng; mỏ
muối Kracôv ngày nay là một bảo tàng muối có một không hai trên thế giới,...
Ơ nước ta, phường Hà Tu (thành phố Hạ Long) là kết quả của việc mở mỏ
khai thác các khoáng sàng than Lộ Phong, Bàng Danh; mỏ đá Núi Voi đã dựng
nên phường Núi Voi của thành phố Thái Nguyên;...còn có thể đưa ra nhiều ví dụ
tương tự.
Bản thân các công trình mỏ cũ và diện tích đất đai xây dựng, bãi thải của
mỏ cũ sau khi cải tạo để chuyển đổi mục đích sử dụng trong nhiều trường hợp
cũng có giá trị cao hơn nhiều giá trị nguyên thuỷ tuỳ theo ý tưởng ban đầu của
nhà thiết kế, phương án và quy mô phục hồi, vị trí địa hình và địa lý của khu mỏ.
Hiệu quả của việc phục hồi đất sau khai thác có thể đánh giá qua „chỉ số
phục hồi đất“, được xác định theo biểu thức sau :
Ip = (Gm – Gp)/Gc (9.15)
Trong đó, Gm- giá trị đất đai sau khi phục hồi, dự báo theo giá cả thị trường
tại thời điểm tính toán; Gp- tổng chi phí phục hồi đất để đạt được mục đích sử
dụng trên; Gc- giá trị nguyên thuỷ của đất đai trước khi mở mỏ ở thời điểm tính
toán (theo định giá của Nhà nước).
Chỉ số „Ip“ có thể lớn hơn hay nhỏ hơn 1 tuỳ theo khả năng phục hồi, quy
mô phục hồi, mục đích sử dụng cũng như vị trí của vùng đất phục hồi sau khai
thác.
Việc đưa chỉ số Ip vào báo cáo ĐTM các dự án khai thác mỏ có ý nghĩa
khuyến khích nhà đầu tư ý thức hơn về tầm nhìn lâu dài đối với việc sử dụng đất
từ khi bắt đầu nghiên cứu, thiết kế dự án, đến khi xây dựng phương án đóng cửa
mỏ, phục hồi môi trường sau khai thác.
Chỉ số Ip còn giúp cho các nhà quản lý, chủ sở hữu đất, chính quyền các
cấp trong việc cân nhắc, định hướng các quy hoạch phát triển lâu dài trên vùng
đất thuộc quyền quản lý của mình.
Chỉ số Ip cũng giúp cho chúng ta có được cái đánh giá khách quan và cụ thể
hơn về hiệu ứng tích cực hay tiêu cực mà hoạt động của dự án khai thác mỏ đó
mang lại đối với môi trừơng kinh tế – xã hội.
171
KẾT LUẬN
KTLT là hoạt động khoáng sản chủ yếu trong ngành mỏ, hàng năm cung
cấp cho sự nghiệp CNH và HĐH đất nước 65% sản lượng than, trên 95% quặng
các loại, 100% vật liệu xây dựng, với tổng giá trị sản lượng khoảng 15-20 ngtỷ
đồng. Tuy nhiên, KTLT cũng là hoạt động gây nhiều tác động xấu tới môi
trường như chiếm dụng nhiều đất đai trồng trọt và canh tác, thu hẹp thảm thực
vật, làm suy giảm chất lượng đất-nước-không khí, làm ảnh hưởng đáng kể đến
tính đa dạng sinh học,…Ý thức được tầm quan trọng của hậu quả xấu đó, trong
những năm gần đây ngành mỏ nói chung, ngành KTLT nói riêng, đã có những
việc làm thiết thực nhằm giảm thiểu tối đa sự suy giảm chất lượng môi trường
do các hoạt động của mình gây ra bằng cách áp dụng các giải pháp công nghệ-
kỹ thuật sản xuất tiên tiến, thân thiện với môi trường, tăng cường công tác quản
lý-giám sát môi trường, tổ chức giáo dục và truyền thông trách nhiệm BVMT
trong cộng đồng,….Mặc dù vậy, qua kiểm tra và khảo sát thực tế, ở các vùng có
hoạt động KTL môi trường vẫn bị tàn phá nghiêm trọng, đặc biệt là ở các vùng
mà việc khai thác do địa phương quản lý như các bãi vàng ở Nà Rì (Bắc Cạn),
Đắc Sơ Mei (Đắc Doa- Gia Lai), Hòn Cồ - Eatrol (Sông Hinh- Phú Yên), Quỳ
Châu (Nghệ An), Hoài Đức (Hoài Nhơn- Bình Định), Avao (Đắc Rông- Quảng
Trị), …; các điểm khai thác sắt ở Kim Bôi (Hoà Bình), Quỳ Hợp (Nghệ An),
Như Thanh (Thanh Hoá), Ngườm Cháng,... (Thái Nguyên),…
Riêng ở vùng than Quảng Ninh, mặc dù trong phạm vi từng mỏ, qua việc
lấy mẫu thí nghiệm các thông số môi trường theo định kỳ, phần lớn các chỉ tiêu
môi trường đều thấp hơn hoặc đạt TCVN, nhưng do sự cộng hưởng của mật độ
dày đặc và quy mô các mỏ lớn, kết hợp với hậu qủa của cả quá trình nhiều năm
khai thác thiếu trách nhiệm với môi trường để lại nên hiện trạng môi trường vẫn
còn nhiều bức xúc: đất đá thải làm thu hẹp các bồn hứng nước đầu nguồn, lấp
cạn lòng các sông suối, bồi lắng và sa mạc hoá vùng đất đai hạ lưu, thu hẹp đáng
kể thảm thực vật trong vùng; việc hạ thấp đáy mỏ và bơm thoát nước làm biến
đổi chế độ hoạt động của nước ngầm, làm cạn các hồ chứa nước sinh hoạt và các
dòng sông suối; sự lan toả của bụi than và bụi đất làm ảnh hưởng đáng kể đến
đời sống, hoạt động kinhtees - xã hội của cộng đồng; tạo nguồn tiềm ẩn các
nguy cơ trôi lấp, sạt lở các sườn dốc từ các bờ mỏ sâu và bãi thải cao; gây ảnh
hưởng nhất định tới khu di sản thiên nhiên và thành phố du lịch Hạ Long.
Về công tác ĐTM, trong thời gian qua đã có trên 150 báo cáo ĐTM của các
dự án khai thác đá và vật liệu xây dựng, kim loại và than gửi lên phê duyệt tại
các Hội đồng Thẩm định của Bộ. Ở thời kỳ đầu các báo cáo ĐTM được xây
dựng trên định hướng của các nội dung trong Luật bảo vệ Môi trường và các văn
bản pháp quy dưới luật về bảo vệ môi trường va Thông tu sô 490/1998/TT-
BKHCNMT về hướng dẫn lập và thẩm định báo cáo ĐTM. Từ năm 1999, trên
cơ sở bản hướng dẫn lập báo cáo ĐTM dự án khai thác chế biến đá và sét của
Cục Môi trường - Bộ KHCN và MT (nay là Bộ TN và MT), các báo cáo ĐTM
đã có sự thống nhất hơn về kết cấu hình thức và nội dung, tuy nhiên do đặc điểm
về tự nhiên và kỹ thuật của các mỏ đá và sét đơn giản hơn nhiều so với của các
172
mỏ kim loại và than, do vậy, theo bản hướng dẫn trên, các báo cáo ĐTM được
thành lập và khi thông qua Hội đồng Thẩm định của Bộ thường phải chỉnh sửa
nhiều lần, có báo cáo phải hủy bỏ hoàn toàn, làm tổn hại công sức, thời gian và
tiền bạc của chủ đầu tư, cơ quan tư vấn và Bộ.
Rà soát lại các báo cáo ĐTM của các dự án khai mỏ trong 3 năm 2004, 2005 và
2006 có thÓ rót ra một số nhận xét sau đây:
1) Các báo cáo ĐTM được thành lập do nhiều cơ quan tư vấn khác nhau,
trong đó có những cơ quan tư vấn yếu kém chuyên môn về môi trường, yếu kém
về lĩnh vực khai thác mỏ hoặc yếu kém về cơ sở vật chất thiết bị kỹ thuật hành
nghề.
2) Phần lớn các báo cáo ĐTM chưa có sự kết nối chặt chẽ với nội dung
dự án, các công trình trực tiếp phục vụ hoặc có ảnh hưởng gián tiếp đến công tác
bảo vệ môi trường trong dự án chưa được thể hiện hoặc thể hiện chưa đúng chỗ
trong báo cáo ĐTM. Một số các hạng mục xây dựng nhằm mục đích bảo vệ môi
trường không được đưa vào dự án về nội dung công việc cũng như chi phí xây
dựng. Hầu như các nhà tư vấn lập báo cáo ĐTM làm việc độc lập với các nhà tư
vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án.
3) Một số báo cáo ĐTM được lập trên nền một báo cáo nghiên cứu khả
thi có chất lượng chuyên môn yếu kém (đã được thông qua ở cấp hữu trách -
thường rơi vào các cơ quan không quản lý về công nghệ khai thác mỏ) làm cho
báo cáo ĐTM dù có phương án đề xuất hợp lý cúng không có tính khả thi.
4) Báo cáo ĐTM là tài liệu kỹ thuật phục vụ cho công tác bảo vệ môi
trường và làm cơ sở cho công tác thanh kiểm tra của cơ quan chức năng, nhưng
phần lớn các báo cáo chưa đáp ứng được mục đích này. Các giải pháp công
nghệ, kỹ thuật và các biện pháp tổ chức nhằm ngăn chặn, hạn chế và khắc phục
các hậu quả xấu của hoạt động khai thác mỏ tới môi trường chưa được trình bày
một cách cụ thể, chưa gắn chặt vào điều kiện tự nhiên và kỹ thuật thực tế của dự
án, mà còn trình bày một cách chung (không có vị trí, thông số kỹ thuật, phương
thức tiến hành,…), mang tính quy phạm hoặc khuyến cáo.
5) Một số báo cáo ĐTM, do cơ quan tư vấn thiếu chuyên gia về khai
thác mỏ nên trình bày nội dung ở phần giới thiệu sơ lược dự án và phần các giải
pháp ngăn ngừa khắc phục tác động xấu tới môi trường đã sử dụng thuật ngữ
sai, hiểu sai nội dung công nghệ, trình bày vấn đề lúng túng. Ngược lại, một số
báo cáo khác thì do cơ quan tư vấn thiếu chuyên gia giỏi về môi trường nên
trong phần đánh giá môi trường nền của dự án thiếu sức thuyết phục, bỏ sót nội
dung, việc lựa chọn và phân loại các hoạt động phát triển cũng như các yếu tố
môi trường không hợp lý, phương pháp luận không chặt chẽ.
6) Thông qua các báo cáo ĐTM lần 2 của một số dự án cũ mở rộng và
chất vấn chủ đầu tư ở Hội đồng Thẩm định cho thấy một số chủ dự án không
thực hiện nghiêm túc các cam kết đã có trong báo cáo ĐTM như: không ký quỹ
môi trường (rơi vào các dự án khai thác than), không thực hiện một số các hạng
173
mục bảo vệ môi trường như bể xử lý nước thải công nghiệp, vành đai cây xanh
chống bụi và một số biện pháp chống bụi, chống ồn, chống khí thải độc hại
khác. Về mặt ý thức đối với trách nhiệm bảo vệ môi trường, một số chủ dự án
còn coi báo cáo ĐTM như một thủ tục hành chính để xin giấy phép cấp đất hoặc
giấy phép đầu tư khai thác mỏ.
Những tồn tại nêu trên trong các báo cáo ĐTM của các dự án khai thác
mỏ đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý của Nhà nước về môi
trường cũng như làm hạn chế hiệu lực pháp chế của Nhà nước về bảo vệ môi
trường và cuối cùng là ảnh hưởng đến sự kiểm soát tình trạng ô nhiễm trầm
trọng môi trường trong hoạt động khoáng sản như đang xảy ra hiện nay trên cả
nước, mà nguyên nhân là:
1) Do trước đây (trước ngày 9/8/2006) chưa có một quy định pháp lý
nào về điều kiện, chức năng và phạm vi hoạt động, trách nhiệm trước pháp luật
đối với các cơ quan lập báo cáo ĐTM. Trên thực tế, một số báo cáo ĐTM được
thành lập từ một cơ quan tư vấn mà trong giấy phép hành nghề không có chức
năng này. Hiện nay có khá nhiều cơ quan thực hiện công tác ĐTM: trường đại
học, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, viện nghiên cứu, cơ quan
thiết kế, các trung tâm, các sở TN và MT, cơ quan quân đội,… thậm chí các cá
nhân mượn dấu của công ty nào đó cũng có thể làm tư vấn lập báo cáo ĐTM.
Riêng cho các dự án khai thác mỏ cũng có thể kể tên gần vài chục nhà tư vấn.
2) Cơ quan tư vấn lập báo cáo ĐTM không có hoặc không mời chuyên
gia ngành khai thác mỏ tham gia khi tiến hành lập báo cáo ĐTM các dự án khai
thác mỏ. Đã có báo cáo được trình bày một cách phiến diện, sai lệch các nội
dung chuyên môn và đề xuất những giải pháp không sát thực tế (tất nhiên là
không được chấp nhận).
3) Chưa có một văn bản hướng dẫn cụ thể và chi tiết về lập báo cáo
ĐTM cho các dự án khai thác mỏ. Bản hướng dẫn lập báo cáo ĐTM cho khai
thác chế biến đá và sét năm 1999 chỉ đáp ứng đúng cho 2 đối tượng là đá và sét
mà chưa đủ cho việc lập báo cáo ĐTM đối với các dự án khai thác quặng và
than, đặc biệt sau khi có thông tư 08/2006/TT-BTNMT của Bộ Tài Nguyên Môi
Trường.
4) Công tác thanh kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng
thực hiện chưa chặt chẽ, chưa dựa vào báo cáo ĐTM của dự án để làm cơ sở
pháp lý khi tiến hành thanh kiểm tra. Điều này dẫn đến sự không nghiêm túc
thực hiện các cam kết trong báo cáo ĐTM của chủ đầu tư và làm cho các nhà tư
vấn lập báo cáo ĐTM không coi trọng phần các giải pháp nhằm giảm thiểu suy
giảm môi trường.
Để công tác đánh giá tác động môi trường đi vào nề nếp, để các báo cáo
ĐTM thực sự trở thành công cụ hữu hiệu, làm tài liệu kỹ thuật cơ sở của công
tác thanh kiểm tra nhà nước về môi trường, để thực sự góp phần cải thiện môi
trường các khu vực thực hiện dự án khai thác mỏ, cần nâng cao chất lượng các
báo cáo ĐTM của các dự án khai thác mỏ, cần lưu ý các vấn đề sau:
174
• Các cơ quan hành nghề “lập báo cáo ĐTM” cho ngành mỏ cần tuân thủ
nghiêm túc những quy định trong Nghị định 80/2006/NĐ-CP về điều kiện
cần thiết để một tổ chức có thể làm tư vấn trong việc lập báo cáo ĐTM.
• Đối với các chủ dự án, khi lựa chọn cho mình đơn vị tư vấn lập Báo cáo
ĐTM, cần lưu ý các vấn đề liên quan đến năng lực của cơ quan tư vấn
trong từng điều kiện cụ thể.
• Các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐTM cần tăng
cường năng lực thẩm định.
• Cần có một văn bản hướng dẫn chi tiết về lập báo cáo ĐTM cho các dự án
khai thác mỏ (riêng cho từng phương pháp khai thác lộ thiên và khai thác
hầm lò).
• Cần tăng cường công tác thanh kiểm tra (của các cơ quan chức năng) trên
cơ sở báo cáo ĐTM của dự án được phê duyệt.
Trong thời gian tới, để đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH và HĐH đất
nước, nhiều mỏ lộ thiên khai thác than, quặng các loại và vật liệu xây dựng sẽ
được xây dựng mới hoặc mở rộng quy mô sản xuất. Nhằm để kiểm soát tốt hơn
nữa tình trạng làm suy thoái môi trường của các đối tượng này, tăng cường hơn
nữa hiệu quả quản lý môi trường thông qua các ĐTM, đề tài đã tiến hành khảo
sát thực trạng công tác BVMT trên một số mỏ lộ thiên điển hình đang hoạt động,
nghiên cứu các tác động tiêu cực của hoạt động KTLT tới các yếu tố môi
trường, nghiên cứu tổng quan về công tác ĐTM đã tiến hành trên các mỏ lộ
thiên trong thời gian qua trên cơ sở các văn bản pháp lý đã có và cuối cùng, đã
xây dựng được bản dự thảo “ Hướng dẫn lập báo cáo ĐTM đối với các dự án
khai thác khoáng sản bằng phương pháp lộ thiên”. Bản dự thảo này không biên
soạn theo kết cấu nội dung theo hướng dẫn của Thông tư số 08/2006/TT-
BTNMT ngày 08/9/2006, mà được trình bày bám sát theo tinh thần Luật Bảo vệ
môi trường với một trình tự khác để linh hoạt hơn trong quá trình sử dụng.
Bản dự thảo được biên soạn cho các dự án khai thác khoáng sản thông thường
(theo quy định hiện hành của pháp luật), tuỳ theo từng trường hợp cụ thể về loại
khoáng sản được tiến hành khai thác hay lập dự án khai thác mà có thể vận dụng
theo các nội dung cho phù hợp.
Đề tài đã được hoàn thành đúng tiến độ với tổng kinh phí thực hiện là
350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng), so với tổng kinh phí được cấp
đạt 100%.
Tập thể tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban lãnh đạo Viện Khoa học
Địa chất và Khoáng sản cũng như các nhà khoa học trong và ngoài Viện đã tạo
điều kiện cũng như đóng góp nhiều ý kiến để Báo cáo hoàn thành có chất lượng.
175
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] - Hướng dẫn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án khai thác chế
biến đá và sét. Cục Môi trường - Bộ KHCN và MT, Hà nội 1999.
[2] - Hồ Sĩ Giao, Bảo vệ môi trường khai thác mỏ lộ thiên, ĐH Mỏ - Địa chất,
HN 2001.
[3] – Hoàng Xuân Cơ, Đánh giá tác động môi trường, NXB ĐH QG, HN 2001.
[4] - Phạm Khắc Mạnh, Tình hình thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
trong khai thác khoáng sản, Hà nội 2005.
[5] – Mai Thế Toản, Bảo vệ môi trường trong ngành khai khoáng Việt Nam -
Thực trạng và những tồn tại, Tạp chí KHKT Mỏ - Địa chất, số 14 – 4/2006.
[6] - Luật Khoáng sản và Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khoáng
sản
[7] - Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005).
[8] – Các báo cáo ĐTM của các dự án khai thác khoáng sản rắn trong các năm
2004, 2005 và 2006.
[9] - Alan Gilpin - Environmental Impact Assessment (EIA) Cutting edge for the
twenty-first century. Cambridge University Press. 1995.
[10] - Lê Thạc Cán và nnk. Đánh giá động môi trường. Phương pháp luận và
kinh nghiệm thực tiễn. NXB KH và KT. Hà nội. 1993.
[11] - Hoàng Xuân Cơ - Đánh giá tác động môi trường. NXB Khoa học Quốc
gia. Hà nội. 2001.
[12] - Cẩm nang công nghệ thiết bị mỏ. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hầ nội.
2006.
[13] - Lê Trình - Lựa chọn phương pháp đánh giá tác động môi trừơng cho hoạt
động khai thác lộ thiên. 2006.
[14] - Hồ Sĩ Giao - Cơ sở công nghệ khai thác đá. NXB Giáo dục. Hà nội. 1996
[15] - Environmient Australia, clearer production. Best practice environmiental
management in Mining, June – 2000.
[16] - Heinz Leuenberger - Sản xuất sạch hơn và kiểm soát ô nhiễm công
nghiệp: Tiềm năng và hạn chế. TT Công trình KH-ĐHBK, Hà Nội 10/2001.
[17] - Lê Minh Châu, Lê Đăng Hoan – SXSH và khả năng áp dụng trong các
hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản ở Việt Nam, TC Công nghiệp mỏ,
Số 6/2005.
[18] - Phùng Mạnh Đắc – Nghiên cứu đánh giá tác động của Luật Khoáng sản
đối với sự phát triển ngành mỏ Việt Nam. Đề tài của Liên hiệp các Hội KH và
KT Việt Nam, năm 2005.
176
[30] -Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Mỏ toàn quốc lần thứ
[19] - Trần Văn Huỳnh – Nghiên cứu các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên
khoáng sản năng lượng. Chương trình nhà nước KC.08 năm 2005.
[20] - Hồ Sĩ Giao - Bảo vệ môi trường mỏ lộ thiên – ĐH Mỏ - Địa chất Hà nội
2001.
[21] - Hồ Sĩ Giao, Lưu Văn Thực - Vấn đề đổ thải trong các mỏ lộ thiên QN,
thông tin KHCN Mỏ - Viện KHCN Mỏ số 9/2004.
[22] - Hồ Sĩ Giao - Sử dụng bãi thải tạm - một giải pháp kỹ thuật có hiệu quả
kinh tế cao. TC Than VN số 8/1996.
[23] - Lê Đức Phương và nnk – Nghiên cứu lựa chọn công nghệ và thiết bị khai
thác chọn lọc vỉa mỏng và vỉa có cấu tạo phức tạp cho mỏ than Cọc Sáu. Đề tài
NCKH – TVN – năm 1997.
[24] - Phạm Minh Thảo, Vũ Minh Thành – Đánh giá hiệu quả công nghệ làm tơi
đất đá bằng máy xới tại Cty Than Núi Béo, Hội thảo khoa học kỹ thuật mỏ toàn
quốc lần XVI-2004.
[25] - Lại Hồng Thanh – Tình hình thực hiện quy trình, quy phạm trên các mỏ lộ
thiên trong nước. TT các báo cáo Hội nghị KHKT Mỏ toàn quốc lần XII-1999.
[26] –Nguyễn Hoàng Sơn - Kỹ thuật môi trường tuyển khoáng. Đại học MĐC -
2001
[27] – Tăng Văn Đoàn -Trần Đức Hạ - Kỹ thuật môi trường- NXB Giáo Dục,Hà
nội, 2004.
[28] – Lưu Đức Hải - Chu Văn Ngợi - Tài nguyên khoáng sản. NXB Đại học
quốc gia, Hà nội, 2004.
[29] - Hoàng Văn Huệ - Công nghệ môi trường - NXB Xây Dựng, Hà nội, 2004.
XVII. Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam. Đà Nẵng, 2006.
[31]. Lưu Đức Hải. Cơ sở khoa học môi trường. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội. 2002.
177