Báo cáo tốt nghiệp “Mở rộng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU - SƠ ĐỒ LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ......................... 3 1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .......................................................................................... 3 1.1.1. Khái niệm ..................................................................................... 3 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại ....................... 4 1.1.2.1. Cho vay.................................................................................. 4 1.1.2.2. Nhận tiền gửi ......................................................................... 5 1.1.2.3. Mua bán ngoại tệ.................................................................... 5 1.1.2.4. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán ...... 5 1.1.2.5. Các dịch vụ khác .................................................................... 5 1.1.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại .............................. 5 1.1.3.1. Khái niệm .............................................................................. 5 1.1.3.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay ............................................ 6 1.1.3.3. Phân loại hoạt động cho vay của NHTM ................................ 7 1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM.......... 8 1.2.1. Ngân hàng thương mại với hoạt động xuất nhập khẩu .................. 8 1.2.2. Khái niệm và vai trò của hoạt động cho vay XNK ...................... 10 1.2.2.1. Khái niệm và sự ra đời của hoạt động cho vay XNK ............ 10 1.2.2.2. Vai trò của hoạt động cho vay XNK .................................... 10 1.2.3. Hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế ............................... 13 1.2.3.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu ........................... 13 1.2.3.2. Vai trò của hoạt động XNK đối với nền kinh tế ................... 14 1.2.4. Các hình thức cho vay xuất nhập khẩu ........................................ 15 1.2.4.1. Đối với nhà xuất khẩu .......................................................... 15 1.2.4.2. Đối với nhà nhập khẩu ......................................................... 16

1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU............................................................................... 18 1.3.1. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp xuất nhập khẩu .................... 18 1.3.2. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng ................................... 20 1.3.3. Các nhân tố khác......................................................................... 22

CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM .................................................................................................. 25 2.1. SƠ LƯỢC VỀ SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM .................................................................................. 25 2.1.1. Quá trình thành lập và phát triển của Sở giao dịch ...................... 25 2.1.2. Mô hình tổ chức Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam ...................................................................................................... 26 2.1.3. Giám đốc Sở giao dịch qua các thời kỳ ....................................... 28 2.1.4. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh trong ba năm gần đây ... 28 2.1.4.1. Tình hình hoạt động huy động vốn ....................................... 28 2.1.4.2. Tình hình hoạt động tín dụng ............................................... 30 2.1.4.3. Một số chỉ tiêu khác ............................................................. 33 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SGD NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM ............... 34 2.2.1. Những quy định chung về hoạt động cho vay XNK của SGD ..... 34 2.2.1.1. Đối tượng cho vay................................................................ 34 2.2.1.2. Hình thức cho vay xuất nhập khẩu ....................................... 35 2.2.2. Thực trạng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại SGD .............. 36 2.2.2.1. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu ........................................ 36 2.2.2.2. Doanh số thu nợ xuất nhập khẩu .......................................... 39 2.2.2.3. Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu ............................................ 40 2.2.2.4. Nợ quá hạn ........................................................................... 43 2.2.2.5. Nợ xấu ................................................................................. 44 2.2.2.6. Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng XNK ................................. 45 2.2.3. Đánh giá hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại SGD ................. 46 2.2.3.1. Những kết quả đạt được ....................................................... 46 2.2.3.2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân ................................ 48

CHƯƠNG 3 - GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH ............................................................ 52 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH ............................................................................... 52 3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của đất nước tới năm 2010 .............................................................................................. 52 3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay XNK tại SGD ............ 54 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM ....................................................................... 54 3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành ......................................... 54 3.2.1.1. Tăng cường công tác huy động vốn ..................................... 54

3.2.1.2. Định hướng chiến lược tài trợ .............................................. 55 3.2.2. Nhóm giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK .................... 56 3.2.2.1. Quản lý tài sản thế chấp cầm cố ........................................... 56 3.2.2.2. Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK ............................ 57 3.2.2.3. Đa dạng hoá các phương thức cho vay XNK........................ 58 3.2.3. Chính sách khách hàng ............................................................... 59 3.2.4. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng ........................... 61 3.2.4.1. Đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng .................................... 61 3.2.4.2. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng ....................................... 63 KẾT LUẬN .................................................................................................. 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 66

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BIDV : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

NH : Ngân hàng

NHTM : Ngân hàng thương mại

SGD : Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

XNK : Xuất nhập khẩu

WTO : Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC BẢNG BIỂU - SƠ ĐỒ

Trang

Sơ đồ 2.1 : Cơ cấu tổ chức của SGD 27

Bảng 2.1 : Cơ cấu vốn huy động theo thành phần kinh tế 29

Bảng 2.2 : Cơ cấu vốn huy động theo thời gian 31

Bảng 2.3 : Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn 31

Bảng 2.4 : Cơ cấu các khoản cho vay trung-dài hạn 32

Bảng 2.5 : Một số chỉ tiêu khác 33

Bảng 2.6 : Doanh số cho vay XNK 37

Bảng 2.7 : Doanh số thu nợ XNK 39

Bảng 2.8 : Doanh số thu nợ XNK và Doanh số cho vay 40

Bảng 2.9 : Dư nợ tín dụng XNK 40

Bảng 2.10 : Dư nợ tín dụng XNK và Tổng nguồn vốn huy động 42

Bảng 2.11 : Nợ quá hạn XNK 43

Bảng 2.12 : Nợ xấu XNK 44

Bảng 2.13 : Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng XNK 45

Biểu đồ 2.1 : Doanh số cho vay XNK 37

Biểu đồ 2.2 : Dư nợ tín dụng XNK 41

LỜI MỞ ĐẦU

Lý luận cũng như thực tiễn phát triển kinh tế thế giới đã cho thấy hoạt

động xuất nhập khẩu là một trong những lĩnh vực trung tâm quan trọng nhất

trong toàn bộ các hoạt động kinh tế của nhiều quốc gia. Hoạt động xuất nhập

khẩu đã góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngân sách, đặc biệt là thu

ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán giải quyết công ăn việc làm cho người

dân, thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao vị

thế của đất nước trong nền kinh tế toàn cầu.

Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam ngày càng hội nhập mạnh mẽ với

nền kinh tế khu vực và thế giới. Hiện nay nước ta đã có quan hệ mua bán

ngoại thương với hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt, sự

kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng

11/2006 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng đối với sự phát triển của nền

kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực thương mại nói riêng.

Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế, nhu cầu vốn

của các doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng tăng.

Một trong những kênh tài trợ vốn quan trọng cho các doanh nghiệp là vốn vay

của các NHTM. Vì vậy, có thể nói việc mở rộng hoạt động cho vay XNK tại

các NHTM là một xu hướng tất yếu nhằm thúc đẩy hoạt động XNK của Việt

Nam cũng như đáp ứng các mục tiêu gia tăng thu nhập của ngân hàng.

Trong thời gian qua, tại Sở giao dịch Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, bên

cạnh cho vay đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động truyền thống thì SGD đang

có chủ trương mở rộng nhiều hoạt động cho vay khác có hiệu quả, trong đó có

hoạt động cho vay XNK. Mặc dù đã có những thành công nhất định, nhưng

sau một thời gian ngắn thực tập tại SGD, em nhận thấy vẫn còn một số vướng

mắc và tồn tại như là dư nợ cho vay XNK vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong

1

tổng dư nợ cho vay cũng như chưa tương xứng với tiềm năng của SGD. Xuất

phát từ những lý do trên, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Mở rộng hoạt động

cho vay xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Việt Nam” để nghiên cứu.

Mục đích nghiên cứu: Đề tài được thực hiện nhằm nghiên cứu và đánh

giá hoạt động cho vay XNK tại Sở giao dịch Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.

Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung tìm hiểu thực trạng hoạt động

cho vay XNK tại Sở giao dịch Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam trong ba năm

gần đây 2006-2008.

Phương pháp nghiên cứu: chủ yếu là thu thập, phân tích, đánh giá các số

liệu trên cơ sở so sánh, đối chiếu, phân tích các bảng biểu và biểu đồ.

Bố cục bài viết: Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, bài viết của em chia

thành ba chương sau:

- Chương 1- Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay xuất nhập khẩu

của ngân hàng thương mại.

- Chương 2- Thực trạng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại Sở giao

dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.

- Chương 3- Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu

tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.

2

CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT

ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1. Khái niệm

Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền

kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền

kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương

mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng

các ngân hàng.

Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền

kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh

tế-xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ

cho toàn xã hội.

Ngân hàng cũng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan

trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách

tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ

nhằm ổn định kinh tế.

Theo PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, 2007, Giáo trình Ngân hàng thương

mại, NXB ĐH Kinh tế quốc dân: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung

cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng,

tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so

với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế”.

3

1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và

doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định

các dịch vụ mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu

quả.

1.1.2.1. Cho vay

a) Cho vay thương mại

Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực

tế là cho vay đối với những người bán. Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết

khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có

vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.

b) Cho vay tiêu dùng

Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối

với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi

ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh

tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng

như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín

dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng

nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.

c) Tài trợ cho dự án

Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày

càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt

là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói

chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào

đất.

4

1.1.2.2. Nhận tiền gửi

Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với

cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các

khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho

khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép

ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.

1.1.2.3. Mua bán ngoại tệ

Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi

ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền

khác và hưởng phí dịch vụ.

1.1.2.4. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán

Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền

mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ

cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận

được tiền. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức

thanh toán được phát triển như Ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng

điện, thẻ…

1.1.2.5. Các dịch vụ khác

Ngoài các dịch vụ được cung cấp ở trên, một ngân hàng thương mại còn

cung cấp thêm một số dịch vụ cơ bản như sau: bảo quản vật có giá, quản lý

ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cung cấp dịch vụ bảo

hiểm, cho thuê thiết bị trung và dài hạn…

1.1.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

1.1.3.1. Khái niệm

Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001: “Cho vay

là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng

5

sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo

thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”

Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM.

Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu

nhập của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước

lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định cho vay.

1.1.3.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay

Cho vay của NHTM là một hoạt động phức tạp, thường xuyên chịu sự

tác động của môi trường kinh tế. Nhưng về bản chất, hoạt động cho vay của

NHTM có ba đặc điểm sau:

Thứ nhất, cho vay là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng

tin. Điều đó có nghĩa là NHTM tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có

hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ.

Thứ hai, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn trong

một thời hạn xác định. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, NHTM thường xác

định rõ thời hạn cho vay. Việc xác định thời hạn cho vay dựa vào quá trình

luân chuyển vốn của người đi vay và tính chất vốn của NHTM.

Về quá trình luân chuyển vốn của người vay: Thời hạn cho vay phải phù

hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của người vay thì lúc đó người vay mới có

điều kiện để trả nợ. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn thì

khi đến hạn, khách hàng chưa có nguồn thu để trả nợ. Ngược lại, nếu thời hạn

cho vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử

dụng vốn sai mục đích và không có nguồn để trả nợ.

Về tính chất vốn của NHTM: nếu vốn của NHTM ổn định (vốn trung-dài

hạn chiếm tỷ trọng lớn hoặc khả năng huy động vốn tốt) thì thời hạn cho vay

có thể dài hơn, ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo khả

năng thanh toán của NHTM.

6

Thứ ba, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên

nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Vì vốn cho vay của NHTM là vốn huy

động của những người tạm thời có vốn nhàn rỗi nên sau một thời gian nhất

định NHTM phải trả lại cho họ. Mặt khác, NHTM phải có nguồn để trả lãi

cho người gửi tiền cũng như bù đắp chi phí hoạt động nên người vay vốn

ngoài việc phải trả nợ gốc còn phải trả cho NHTM một khoản lãi.

1.1.3.3. Phân loại hoạt động cho vay của NHTM

a) Phân loại theo thời gian

Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời

gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như

khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:

- Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống.

- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm.

- Tín dụng dài hạn: trên 5 năm.

Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng tín

dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một

khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên

của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về.

b) Phân loại theo tài sản đảm bảo

Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín

của khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.

Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng

có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài

chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa. Các khoản cho vay theo

chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo. Các

khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn… cũng có

thể không cần tài sản đảm bảo.

7

Tín dụng dự trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng

phải kí hợp đồng đảm bảo.

c) Phân loại theo rủi ro

Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an

toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.

- Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.

- Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh

như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách

hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…

- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn

ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.

- Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài

sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…

d) Phân loại theo mục đích sử dụng vốn

- Cho vay sản xuất lưu thông hàng hóa: là hình thức cho vay đối với các

doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng

hóa.

- Cho vay tiêu dùng: là hình thức cho vay đối với các cá nhân để đáp ứng

nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa lâu bền…

1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NHTM

1.2.1. Ngân hàng thương mại với hoạt động xuất nhập khẩu

NHTM tham gia Tài trợ ngoại thương: đây là một trong những chức

năng quan trọng nhất do các ngân hàng thương mại thực hiện, liên quan trực

tiếp đến quan hệ kinh tế đối ngoại. Mặc dù ngoại thương được hình thành và

bắt nguồn từ các hoạt động nội thương nhưng có những sự khác nhau đáng kể

và chính từ sự khác nhau đó mà các NHTM cần phải cung ứng các dịch vụ

8

thanh toán quốc tế nhằm làm cho quá trình này diễn ra một cách suôn sẻ.

Chính vì vậy, các NHTM có vai trò rất quan trọng trong thương mại quốc tế,

điều này được thể hiện ở các mặt sau:

- Cung cấp các khoản bảo lãnh hoặc tín dụng: bao gồm bảo lãnh tín chấp,

bảo lãnh phát hành LC, cho vay… đối với nhà nhập khẩu và chiết khấu chứng

từ xuất khẩu, mua lại chứng từ nhờ thu… đối với nhà xuất khẩu.

- Trung gian thanh toán: hệ thống NH cho phép việc thực hiện thanh toán

giữa các bên liên quan, đảm bảo an toàn nhanh chóng và chính xác.

- Tư vấn: trong bất kỳ trường hợp nào nếu gặp phải những vấn đề liên

quan đến thanh toán trong giao dịch ngoại thương, khách hàng liên quan đều

có thể nhận được những tư vấn tốt nhất từ cán bộ chuyên môn trong các

NHTM.

- Quản lý rủi ro tín dụng: trong thương mại quốc tế, người mua có thể

phải giao dịch với một người bán mà họ không hề biết. Người mua người bán

không thể chắc chắn về khả năng tài chính, uy tín và khả năng thực hiện trách

nhiệm thanh toán với nhau, do đó khó lường trước những rủi ro có thể xảy ra.

Với sự giúp đỡ của ngân hàng, người mua và người bán sẽ yên tâm và tin

tưởng hơn vì sẽ loại trừ được rủi ro.

- Quản lý rủi ro về ngoại hối: trong thương mại quốc tế người mua và

người bán ở hai nước khác nhau, nhưng chỉ giao dịch với cùng một loại tiền,

họ phải đương đầu với những rủi ro dao động về tỷ giá tiền tệ, những rủi ro

này sẽ dễ dàng loại trừ khi có sự giúp đỡ của ngân hàng thông qua các nghiệp

vụ phòng ngừa rủi ro do ngân hàng thực hiện.

- Cung cấp khả năng lựa chọn các phương thức thanh toán: hiện nay các

NHTM có thể cung cấp cho khách hàng nhiều phương thức thanh toán quốc tế

khác nhau như: thanh toán trước, thanh toán sau, tài khoản mở, nhờ thu và

L/C. Trong tất cả các phương thức này, quan trọng nhất là L/C.

9

1.2.2. Khái niệm và vai trò của hoạt động cho vay XNK

1.2.2.1. Khái niệm và sự ra đời của hoạt động cho vay XNK

Trong quan hệ mua bán trong nước, chúng ta thường thấy có hình thức

tín dụng thương mại. Điều này là rất khó khăn trong lĩnh vực ngoại thương,

bởi vì các quốc gia đều có hệ thống tiền tệ, luật pháp riêng, ngoài ra các quốc

gia còn có sự khác nhau về môi trường văn hóa, phong tục tập quán… Vì vậy,

để thực hiện các hợp đồng ngoại thương trong quan hệ XNK, các doanh

nghiệp thường tìm kiếm các khoản tài trợ từ các NHTM. Các NHTM có

nguồn vốn lớn, am hiểu và có mối quan hệ rộng trong lĩnh vực kinh doanh

tiền tệ và thanh toán quốc tế có thể đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh

nghiệp XNK. Vì vậy hoạt động cho vay XNK của NHTM đã ra đời gắn với

sự ra đời của hoạt động thương mại quốc tế.

Cho vay XNK là hình thức cho vay trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông

hàng hóa. Hoạt động cho vay XNK có thể được định nghĩa như sau:

Hoạt động cho vay XNK của NHTM là việc NHTM cho các doanh

nghiệp XNK vay nhằm giúp các doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ của mình

khi tham gia vào hoạt động XNK.

1.2.2.2. Vai trò của hoạt động cho vay XNK

Thương mại quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ khiến cho nhu cầu

vay vốn tài trợ cho hoạt động XNK của các doanh nghiệp ngày càng tăng.

Điều này cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của hoạt động cho vay XNK.

Cụ thể, vai trò của hoạt động cho vay XNK được thể hiện như sau:

a) Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu:

Các khoản vay của NHTM sẽ giúp doanh nghiệp có thể thực hiện những

thương vụ lớn mà doanh nghiệp không thể có đủ tiềm lực tài chính để tự thực

hiện, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.

10

Cho vay XNK còn góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả

kinh doanh của các doanh nghiệp XNK. Thông qua các khoản cho vay của

NHTM, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ có vốn để thu mua hàng hóa, nguyên

vật liệu đúng thời vụ và giao hàng đúng thời điểm, các doanh nghiệp nhập

khẩu có thể mua được những lô hàng lớn, giá rẻ.

Ngoài ra, thông qua các khoản cho vay XNK, doanh nghiệp có thể nhập

khẩu các máy móc, công nghệ hiện đại từ nước ngoài để đổi mới sản phẩm,

nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, nâng tính cạnh tranh của các

doanh nghiệp trên thị trường.

Mặt khác, hoạt động cho vay XNK còn giúp các doanh nghiệp XNK hạn

chế rủi ro trong quá trình hoạt động. Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp

đồng, các doanh nghiệp có thể nhận được sự tư vấn của ngân hàng về lĩnh vực

thanh toán quốc tế và ngoại thương.

b) Đối với ngân hàng thương mại

Vì NHTM hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên độ rủi ro rất

lớn. Do đó, mục tiêu hoạt động của các NHTM luôn là an toàn và sinh lời.

Trong quá trình kinh doanh, NHTM luôn tìm kiếm, đưa ra các sản phẩm có

độ an toàn cao và có khả năng sinh lời cao nhất. Cho vay XNK là hình thức

cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích

và đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.

Thời hạn cho vay XNK thường là ngắn hạn do gắn liền với thời gian

thực hiện từng thương vụ, do đó phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của

NHTM. Điều này đã giúp cho NHTM tránh được rủi ro thanh khoản, dễ dẫn

đến việc mất khả năng thanh toán của NHTM.

Hoạt động cho vay XNK đảm bảo các doanh nghiệp XNK sử dụng vốn

đúng mục đích do các khoản vay thường gắn liền với từng thương vụ cụ thể,

trong nhiều trường hợp, tiền vay sẽ được chuyển thẳng cho bên thứ ba mà

11

không qua bên vay như thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh toán tiền

nguyên vật liệu cho các bên cung cấp cho nhà nhập khẩu…

Ngân hàng có thể quản lý chặt chẽ các nguồn thu thanh toán của các

doanh nghiệp XNK, đảm bảo khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Đối với nhà

xuất khẩu, NHTM yêu cầu nhà xuất khẩu phải thanh toán tiền hàng thông qua

một tài khoản mở tại ngân hàng. Còn đối với nhà nhập khẩu, ngân hàng yêu

cầu nhà nhập khẩu phải tập trung tiền bán hàng vào tài khoản mở tại ngân

hàng.

Đồng thời, cho vay XNK còn góp phần đa dạng hóa lĩnh vực cho vay

của NHTM, phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động ngoại

thương, góp phần hạn chế rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh và thu nhập cho

ngân hàng.

c) Đối với nền kinh tế

Không chỉ đem lại những lợi ích to lớn cho NHTM và các doanh nghiệp

XNK, hoạt động cho vay XNK còn có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế

đất nước.

Thứ nhất, hoạt động cho vay của NHTM đã đẩy mạnh hoạt động XNK,

tăng thu ngoại tệ cho đất nước, tạo nguồn vốn để thực hiện quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, cho vay XNK góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển quốc

gia. Trên cơ sở đó, mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất

nước, nâng cao vị thế của đất nước trên thế giới.

Thứ ba, hoạt động cho vay XNK tạo điều kiện cho việc sản xuất và lưu

thông hàng hóa được thông suốt, liên tục.

12

1.2.3. Hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh tế

1.2.3.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu

XNK là hoạt động trao đổi hàng hóa giữa nước này với nước khác thông

qua hoạt động mua và bán ở phạm vi quốc gia. Trong hoạt động ngoại

thương: xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài; còn nhập

khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài.

Xuất nhập khẩu là hoạt động tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế và phát triển đất nước. Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới,

đã khẳng định một đất nước muốn phát triển một cách nhanh chóng bền vững

ngoài việc phải khai thác tối đa tiềm năng trong nước, thì phải biết tận dụng

“tinh hoa” của khoa học kỹ thuật, của kinh tế thế giới, phát huy lợi thế của

kinh tế trong nước thông qua XNK.

Trong điều kiện hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế của các

nước trên thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng cao khiến cho các quốc

gia trong khu vực và thế giới vận động trong mối tương quan chặt chẽ. Không

một quốc gia nào muốn phát triển mà lại cho phép mình đứng ngoài “cuộc

chơi” chung. Chính vì vậy, XNK được thừa nhận là hoạt động kinh tế đối

ngoại rất cơ bản, là phương tiện để phát triển đất nước.

Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có

những nét đặc thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ

tầng kỹ thuật lạc hậu, công nghệ thủ công... đang rất cần được đổi mới, bên

cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất

cả những điều này cho thấy hoạt động XNK đối với nước ta càng quan trọng

hơn.

13

1.2.3.2. Vai trò của hoạt động XNK đối với nền kinh tế

a) Đóng góp của xuất khẩu với nền kinh tế

- Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho nhập khẩu, hiện đại

hóa đất nước. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.

- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát

triển.

- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận

lợi.

- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào

cho sản xuất, tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực

sản xuất trong nước.

- Thông qua xuất khẩu hàng hóa, sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị

trường thế giới về giá cả và chất lượng qua đó buộc các nhà sản xuất trong

nước phải tổ chức lại sản xuất, liên tục đổi mới và hoàn thiện khâu quản lý

sản xuất kinh doanh, tình hình cơ chế sản xuất thích nghi với thị trường.

- Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải

thiện đời sống dân cư.

b) Đóng góp của nhập khẩu với nền kinh tế

- Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu

tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong

nước; nhập khẩu để bổ sung các hàng hóa trong nước không sản xuất được…

- Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật

chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp

hóa đất nước.

- Nhập khẩu góp phần cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân.

- Nhập khẩu có vai trò tích cực trong việc thúc đẩy xuất khẩu.

14

Tóm lại hoạt động XNK tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền

kinh tế thế giới, biến nền kinh tế thế giới thành nơi cung cấp các “yếu tố đầu

vào” và tiêu thụ các “yếu tố đầu ra” cho nền kinh tế quốc dân trong hệ thống

kinh tế quốc tế.

1.2.4. Các hình thức cho vay xuất nhập khẩu

1.2.4.1. Đối với nhà xuất khẩu

a) Tài trợ trong khuôn khổ chứng từ

Đây là hình thức tín dụng của Ngân hàng cho nhà xuất khẩu trên cơ sở

chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với nghiệp vụ này Ngân

hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi vốn với khoản tín dụng

mà Ngân hàng cung ứng. Tỷ lệ chiết khấu được áp dụng vào phương thức

chiết khấu:

- Chiết khấu truy đòi: ngân hàng sau khi chiết khấu bộ chứng từ sẽ truy

đòi nhà xuất khẩu nếu đến hạn thanh toán bị phía đối tác từ chối thanh toán,

lãi suất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp.

- Chiết khấu miễn truy đòi: đây là trường hợp mua đứt bộ chứng từ, ngân

hàng sẽ chịu hoàn toàn rủi ro nếu phía đối tác không thanh toán khi đến hạn

lãi suất áp dụng cao.

b) Tạm ứng cho nhà xuất khẩu

Bên cạnh các khả năng tài trợ liên quan đến các chứng từ thanh toán, các

ngân hàng cũng có thể được đề nghị cung cấp tín dụng giữa chừng trong

khuôn khổ “thanh toán trơn” (clean payment), đây là hình thức tài trợ ngắn

hạn, chủ yếu đối với các nhà xuất khẩu khi không có đủ khả năng thanh toán,

nhờ được tài trợ các nhà xuất khẩu có thể khắc phục được tình hình bất cập về

tài chính cho đến khi thu được lợi nhuận từ xuất khẩu. Mức độ tạm ứng xuất

khẩu tùy thuộc vào khả năng thanh toán của nhà xuất khẩu, cũng như phụ

thuộc vào sự bảo đảm và nhạy cảm về giá cả hàng hóa.

15

c) Factoring- Bao toàn bộ thanh toán xuất khẩu

Đây là hình thức tài trợ xuất khẩu ngắn hạn. Bản chất Factoring là

nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải thu của nhà xuất khẩu. Thông qua

nghiệp vụ Factoring biến cung ứng hàng hóa cho mục đích thanh toán ngắn

hạn thành nghiệp vụ thanh toán bằng tiền mặt. Chủ yếu các khoản cần trợ

giúp của Factoring trên ba lĩnh vực sau:

- Mua lại các khoản nợ tiền hàng và thực hiện thanh toán ngay cho nhà

xuất khẩu và các khoản nợ được công ty Factoring chấp nhận.

- Cung cấp dịch vụ (hạch toán sổ sách, kế toán nợ, nghiệp vụ ủy nhiệm

thu thông kê bán hàng…)

- Tài trợ tiêu thụ, đảm bảo đầy đủ cho các khoản bán hàng đã được chấp

nhận.

1.2.4.2. Đối với nhà nhập khẩu

a) Tín dụng dành cho người đặt hàng và hiệp định khung tài trợ nhập

khẩu

Tín dụng cho người đặt hàng là tín dụng dành cho người nước ngoài đặt

mua hàng hóa hoặc các lao động dịch vụ trong nước nhằm thanh toán cho

hàng hóa và các dịch vụ này. Đây là hình thức tài trợ của những nước muốn

khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu của nước mình. Đây là hình thức tài trợ

xuất khẩu được sử dụng phổ biến ở các nước phát triển, họ cung cấp những

khoản tín dụng này cho những nước đang phát triển và những nước có hoạt

động ngoại thương do Nhà nước quản lý để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của

nước mình, do vậy hình thức xuất nhập khẩu theo hiệp định khung có một

điều kiện tối thiểu là 60% giá trị hàng hóa phải được sản xuất hoặc có xuất sứ

từ nước tài trợ.

16

b)Tín dụng thuê mua vượt qua biên giới (Cross-Border-Leasing)

Đây là phương thức tài trợ vốn mà nhờ đó một doanh nghiệp có thể có

được các cấu kiện nhà máy, thiết bị… mà không cần thiết phải có ngay vốn.

Thay vì mua đứt các tài sản đó, doanh nghiệp thuê các tài sản đó từ công ty

thuê mua của ngân hàng. Thuận lợi của hình thức thuê mua tài sản đối với

doanh nghiệp là mặc dù tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu hợp pháp của công ty

thuê mua Ngân hàng, sau một khoản tiền thuê đầu tiên thanh toán quyền sử

dụng tài sản thuộc về doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải dùng nguồn

vốn của mình hoặc tìm kiếm một khoản tiền tài trợ để trang trải.

c) Cho vay mở L/C

Phương thức tín dụng chứng từ là một thỏa thuận trong đó một Ngân

hàng (ngân hàng phát hành L/C) theo yêu cầu của khách mở thư tín dụng sẽ

trả tiền cho người thứ ba hay bất cứ một người nào khác theo lệnh của người

thứ ba đó, khi đã chấp nhận thanh toán hay mua hối phiếu sau khi đã trình đủ

các chứng từ quy định.

Như vậy, khoản tín dụng mà Ngân hàng cấp cho người nhập khẩu được

đảm bảo bằng bộ chứng từ hàng hóa (thứ tín dụng - L/C). Việc mở thư tín

dụng đã thể hiện sự tài trợ cho nhập khẩu.

Việc xin mở thư tín dụng có những quy định cụ thể, tùy theo mối quan

hệ giữa ngân hàng với khách hàng mà ngân hàng yêu cầu phải có ký quỹ hay

không và mức ký quỹ là bao nhiêu. Ngân hàng phát hành L/C có thể miễn cho

các doanh nghiệp không phải ký quỹ 100%. Sự tài trợ này cũng cho các

doanh nghiệp không bị ứ động vốn trong thời gian chứng từ luân chuyển vì

trong thực tế thời gian mở thư tín dụng đến khi thanh toán xong là khoảng

thời gian khá dài.

17

d) Tạm ứng cho nhập khẩu

Cũng như các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng cần đến những khoản

tạm ứng của Ngân hàng. Chẳng hạn khi nhà nhập khẩu cần phải thanh toán

tiền cho nhà xuất khẩu trong khi có nhu cầu mới phát sinh cần thanh toán.

Nhà nhập khẩu có thể dùng bộ chứng từ hàng hóa chưa về đến cảng, hoặc

chưa thu hồi vốn để đảm bảo xin tài trợ từ ngân hàng. Đây chỉ là việc tài trợ

cho các mục tiêu thanh toán ngắn hạn của ngân hàng cho doanh nghiệp.

Ngoài 4 hình thức tài trợ trên, nhà nhập khẩu còn có thể nhận được một

số hình thức tài trợ khác như: Chấp nhận của Ngân hàng (Bank Acceptance);

Tín dụng chấp nhận hối phiếu dành cho nhà nhập khẩu (hối phiếu tư nhân nợ

- promissory note); Tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp (chuyển tiền).

1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY

XUẤT NHẬP KHẨU

Cũng như các hình thức cho vay khác của NHTM, hoạt động cho vay

XNK cũng chịu tác động của nhiều yếu tố xuất phát từ cả bên trong và bên

ngoài ngân hàng. Sau đây là một số nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động

cho vay XNK của NHTM.

1.3.1. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp xuất nhập khẩu

a) Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp xuất nhập khẩu:

NHTM chỉ có thể cho vay khi khách hàng có nhu cầu vay vốn. Vì vậy

nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp XNK ảnh hưởng lớn tới hoạt động cho vay

XNK của ngân hàng. Khi nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp lớn thì ngân

hàng sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động cho vay của mình, còn ngược lại khi

nhu cầu của doanh nghiệp ít thì hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ gặp khó

khăn. Mặt khác, nhu cầu vay vốn của khách hàng là ngắn hạn, trung hay dài

18

hạn sẽ ảnh hưởng tới cơ cấu dư nợ cho vay theo kỳ hạn của ngân hàng, do đó

quyết định cơ cấu cho vay.

b) Năng lực vay vốn của doanh nghiệp:

Thực tế thì không phải khách hàng nào có nhu cầu vay vốn đều được

ngân hàng đáp ứng. Ngân hàng chỉ có thể cho vay khi khách hàng có đủ năng

lực vay vốn bao gồm năng lực pháp lý, năng lực sản xuất, năng lực tài chính

và năng lực quản lý. Do đó, việc mở rộng hoạt động cho vay XNK của ngân

hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự đáp ứng các năng lực vay vốn của doanh

nghiệp.

Về năng lực pháp lý, nếu khách hàng là doanh nghiệp hoặc tổ chức thì

phải có đủ các giấy tờ chứng minh sự tồn tại và hoạt động hợp pháp của

doanh nghiệp, tổ chức đó. Năng lực pháp lý là yếu tố đầu tiên mà ngân hàng

xem xét khi giải quyết hồ sơ xin vay vốn của doanh nghiệp.

Về năng lực sản xuất, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ xin vay vốn,

ngân hàng sẽ thẩm tra năng lực sản xuất của khách hàng. Chỉ khi quy mô sản

xuất cũng như cơ cấu và giá thành sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị

trường thì ngân hàng mới đồng ý cho vay.

Về năng lực quản lý, sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ

thuộc rất nhiều vào năng lực quản lý của ban lãnh đạo. Vì vậy, ngân hàng sẽ

cho vay khi ban lãnh đạo doanh nghiệp có trình độ quản lý tốt, năng động,

nhạy bén với thị trường.

c) Tính hiệu quả của phương án sử dụng vốn vay của doanh nghiệp:

Khi xét cho vay, ngân hàng sẽ đánh giá hiệu quả của phương án sử dụng

vốn vay của doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ cho vay khi phương án đó thể hiện

được tính hiệu quả và khả thi. Còn ngược lại, khi sự thành công của phương

án chưa chắc chắc thì ngân hàng không thể cho khách hàng vay vì nguy cơ

không trả được nợ của doanh nghiệp là rất cao.

19

d) Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp XNK

Khi ngân hàng cấp vốn cho vay các doanh nghiệp XNK, nhưng vì một

nguyên nhân nào đó các ngân hàng này gặp rủi ro trong quá trình hoạt động

kinh doanh (bị huỷ bỏ hợp đồng, hàng bị mất cắp giảm giá trị...) làm cho họ

không thu hồi đủ vốn để trả lại các khoản vay cho ngân hàng. Đối với ngân

hàng khi mà có quá nhiều khách hàng đến hạn trả mà khôn có khả năng thanh

toán hoặc cố ý chây ì thiếu ý thức tôn trọng các điều khoản thoả thuận trong

hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán của mình thậm

chí ngân hàng còn rơi vào tình trạng phá sản.

Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh

nghiệp hoạt động XNK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh

nghiệp sẽ thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng.

1.3.2. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng

a) Chiến lược phát triển của ngân hàng:

Ngân hàng luôn đặt ra chiến lược phát triển cho từng giai đoạn nhất định

nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Chiến lược của ngân hàng được xác

định trên cơ sở thế mạnh của ngân hàng cũng như nhu cầu của thị trường và

định hướng phát triển của Nhà nước. Mặt khác, chiến lược phát triển này còn

phụ thuộc vào quan điểm của nhà lãnh đạo ngân hàng.

b) Quy mô và cơ cầu nguồn vốn của ngân hàng:

Quy mô và cơ cấu nguồn vốn của NHTM sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy

mô và cơ cấu cho vay nói chung và cho vay XNK nói riêng của NHTM. Các

khoản cho vay XNK thường có quy mô vừa và lớn nên các ngân hàng cũng

phải có một quy mô vốn nhất định mới có thể tiến hành được hoạt động cho

vay XNK. Do đó, những ngân hàng có quy mô vốn lớn sẽ có nhiều ưu thế

20

trong việc mở rộng hoạt động cho vay XNK và ngược lại với các ngân hàng

có quy mô nhỏ.

Mặt khác, nếu nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là vốn ngắn

hạn sẽ hạn chế việc mở rộng cho vay XNK trung-dài hạn. Cơ cấu nguồn vốn

theo loại tiền cũng ảnh hưởng tới hoạt động cho vay XNK. Nếu nguồn vốn

của ngân hàng có nhiều ngoại tệ thì ngân hàng sẽ thuận lợi hơn trong việc cho

vay XNK, điều này là do các khoản vay XNK chủ yếu là vay bằng ngoại tệ.

c) Mạng lưới chi nhánh và đội ngũ cán bộ ngân hàng:

Mạng lưới chi nhánh là nơi thu hút khách hàng đến với ngân hàng, là nơi

đầu tiên khách hàng tiếp xúc với ngân hàng nên ảnh hưởng không nhỏ tới

hoạt động cho vay XNK. Một ngân hàng có mạng lưới chi nhánh hiện đại sẽ

tạo cho khách hàng một sự tin tưởng trong việc sử dụng các sản phẩm của

ngân hàng. Bên cạnh đó, mạng lưới chi nhánh rộng khắp sẽ thuận lợi cho

khách hàng trong giao dịch với ngân hàng, giúp cho ngân hàng có thể tìm

hiểu kỹ về nhu cầu vay vốn, hướng dẫn thủ tục cho người vay vốn và thực

hiện tốt công tác marketing với khách hàng cũng như giám sát tình hình thực

hiện khoản vay của khách hàng.

Ngoài ra, đội ngũ cán bộ ngân hàng cũng có ảnh hưởng lớn. Thái độ

phục vụ và trình độ của đội ngũ cán bộ sẽ quyết định ấn tượng của khách

hàng về ngân hàng tốt hay xấu. Nếu đội ngũ cán bộ tạo được ấn tượng tốt đẹp

đối với khách hàng sẽ là cơ hội để quảng bá cho ngân hàng cũng như cho hoạt

động cho vay XNK của ngân hàng. Hoạt động cho vay XNK rất phức tạp, đòi

hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn tốt nếu không sẽ gây tổn thất

cho ngân hàng. Có thể nói, thái độ phục vụ và trình độ, đạo đức nghề nghiệp

của đội ngũ cán bộ ngân hàng là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới hoạt

động cho vay XNK của NHTM.

21

d) Công nghệ ngân hàng:

Công nghệ ngày càng giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng.

Ngày nay, các ngân hàng luôn cố gắng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng

nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Trước hết, công nghệ hiện đại cho phép

ngân hàng đơn giản hóa các thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ

vay vốn, từ đó tiết kiệm thời gian cho khách hàng.

Mặt khác, công nghệ hiện đại tạo điều kiện cho ngân hàng thu thập, xử

lý và quản lý thông tin về khách hàng một cách hiệu quả hơn. Theo đó, ngân

hàng sẽ đưa ra các quyết định cho vay hiệu quả, hạn chế tình trạng bị khách

hàng lừa dối, đồng thời tăng khả năng tiếp cận và đáp ứng nhu cầu vay vốn

của khách hàng. Ngoài ra, hoạt động cho vay XNK còn liên quan đến yếu tố

nước ngoài, vì vậy công nghệ hiện đại giúp ngân hàng nằm bắt được thông tin

từ nước ngoài có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay XNK một cách nhanh

chóng, chính xác nhất.

1.3.3. Các nhân tố khác

Ngoài các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay XNK xuất phát từ

bản thân doanh nghiệp và ngân hàng, một vài nhân tố sau đây cũng có tác

động không nhỏ tới quy mô và hiệu quả của hoạt động cho vay XNK của

NHTM

a) Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật:

Lĩnh vực ngân hàng nói chung cũng như hoạt động cho vay XNK nói

riêng rất nhạy cảm với những biến động của môi trường kinh tế, chính trị, xã

hội, luật pháp. Cụ thể như sau:

- Về môi trường kinh tế, những biến động của nền kinh tế, đặc biệt là sự

biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay

XNK. Nếu tỷ giá trong nước tăng, có nghĩa là một ngoại tệ sẽ mua được nhiều

đồng nội tệ hơn so với trước đây, lúc đó hàng hóa trong nước sẽ rẻ hơn một

22

cách tương đối so với hàng hóa nước ngoài. Trong trường hợp này, sẽ khuyến

khích xuất khẩu và hạn chế hàng nhập khẩu, kéo theo cơ cấu cho vay của hoạt

động cho vay XNK thay đổi, thiên về cho vay xuất khẩu nhiều hơn. Tình

huống ngược lại sẽ xảy ra khi tỷ giá trong nước giảm.

Khi môi trường kinh tế không ổn định, kéo theo sự thay đổi của các

ngoại tệ mạnh như USD, EURO, GBP… thì để đảm bảo an toàn, các ngân

hàng thường hạn chế cho vay XNK.

Về môi trường chính trị, xã hội: trong điều kiện môi trường chính trị, xã

hội ở trong nước không ổn định, xảy ra chiến tranh hoặc bạo động… thì hoạt

động XNK của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn và bị đình trệ, dẫn tới

hoạt động cho vay XNK cũng bị suy giảm.

Về môi trường luật pháp, tính hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống luật

pháp là yếu tố tác động trực tiếp tới hoạt động cho vay XNK của NHTM về

cả quy mô và chất lượng. Đặc biệt là hoạt động cho vay XNK liên quan đến

hệ thống quy ước, thông lệ và tập quán kinh doanh quốc tế về hợp đồng XNK,

thanh toán quốc tế, tín dụng chứng từ… Do đó, hệ thống luật pháp phải hoàn

chỉnh tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động

và giải quyết tranh chấp. Khi đó, những rủi ro trong hoạt động cho vay XNK

của ngân hàng sẽ được hạn chế, chất lượng được nâng cao, các ngân hàng mới

mạnh dạn mở rộng hoạt động cho vay XNK.

b) Chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước:

Các chủ trương, chính sách của Nhà nước tác động tới mọi hoạt động

trong nền kinh tế nói chung cũng như tới hoạt động của ngân hàng nói riêng.

Do đó hoạt động cho vay XNK sẽ chịu ảnh hưởng của các thay đổi trong

chính sách của Nhà nước, đặc biệt là chính sách xuất nhập khẩu. Chính sách

XNK bao gồm chính sách mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách tỷ giá,

chính sách thuế, chính sách hỗ trợ đầu tư… Bất kỳ sự thay đổi nào trong

23

chính sách XNK của Nhà nước đều tác động đến nhu cầu vay vốn của các

doanh nghiệp. Khi chính sách này được định hướng đúng đắn, phù hợp với

tình hình kinh tế trong nước và thế giới, nó sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các

doanh nghiệp XNK tiếp cận và mở rộng thị trường XNK, từ đó gia tăng nhu

cầu vay vốn của NHTM. Trái lại khi chính sách này không nhất quán, nó sẽ

hạn chế hoạt động XNK cũng như hoạt động cho vay XNK.

c) Các đối thủ cạnh tranh trên địa bàn:

Trên cùng một địa bàn thường có nhiều tổ chức tín dụng cung cấp hoạt

động cho vay XNK. Khách hàng có quyền lựa chọn tổ chức tín dụng nào phù

hợp nhất, đem lại lợi ích cao nhất cho họ để vay vốn. Vì vậy sự cạnh tranh

của các tổ chức tín dụng trên địa bàn có ảnh hưởng tới việc mở rộng hoạt

động cho vay XNK của ngân hàng. Nếu áp lực cạnh tranh quá gay gắt thì

ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trong cho vay đối với doanh nghiệp XNK.

Điều này đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện tốt các chính sách thu hút khách

hàng, marketing, tuyên truyền cho hoạt động cho vay XNK của mình để tăng

khả năng cạnh tranh. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ thu hút được nhiều doanh

nghiệp vay vốn.

24

CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY

XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG

ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

2.1. SƠ LƯỢC VỀ SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ

PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

2.1.1. Quá trình thành lập và phát triển của Sở giao dịch

Sở giao dịch Ngân hàng ĐT&PT VN được thành lập ngày 28/3/1991

theo quyết định số 76 QĐ/TCCB của Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN.

Là một chi nhánh đặc biệt. thực nghiệm thành công mô hình mới là đơn vị

trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ

chiến lược của BIDV.

Hiện nay, SGD có trụ sở chính tại tòa tháp A - Vincom, số 191 Bà Triệu

- Hà Nội.

Cho tới nay, SGD đã trải qua 18 năm hoạt động và phát triển, đạt được

nhiều bước tiến vượt bậc, cụ thể:

- Trong bốn năm đầu tiên (1991-1994), tuy còn nhiều bước đi chập

chững, tuy nhiên SGD đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp phát vốn ngân

sách cho các dự án đầu tư của Bộ, Ngành với số vốn cấp phát hàng trăm tỷ

đồng. Theo đó Sở giao dịch đã phát huy vai trò kiểm tra, giám sát sử dụng

vốn ngân sách của chủ đầu tư, thực hiện phương châm cấp phát đúng địa chỉ,

đúng đối tượng, đúng với thiết kế và khối lượng thi công, góp phần tiết kiệm

chống lãng phí trong xây dựng cơ bản.

- Giai đoạn tiếp theo 1996-2000: Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của

ngân hàng thương mại, phục vụ đông đảo khách hàng thuộc mọi tầng lớp kinh

tế và dân cư. SGD đã chuyển hướng mạnh mẽ sang hoạt động kinh doanh,

hạch toán kinh tế chủ động, tự trang trải. SGD đã đạt được những kết quả

25

quan trọng, xác lập được vị thế, trở thành một địa chỉ quen thuộc, tin cậy của

khách hàng đến gửi tiền. SGD còn thử nghiệm thành công các sản phẩm huy

động vốn dài hạn của BIDV thông qua các đợt phát hành trái phiếu, kỳ phiếu.

SGD cũng được biết đến như một đơn vị chuyên tài trợ vốn cho các dự án

lớn, trọng điểm của Nhà nước và cung cấp các dịch vụ ngân hàng chất lượng

cao như thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế...

- Đến tháng 3/2001- Kỷ niệm 10 năm thành lập, SGD đã đạt được quy

mô tổng tài sản 7.828 tỷ đồng, huy động 6.441 tỷ đồng, dư nợ cho vay 4.179

tỷ đồng, thu phí dịch vụ hàng chục tỷ đồng và cơ cấu dịch vụ chiếm 16,72%

lợi nhuận trước thuế.

- Từ 2001-2005: SGD đã thực hiện tách nâng cấp mở 4 chi nhánh cấp I

trên địa bàn Hà Nội đó là: chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2002, chi nhánh Hà

Thành năm 2003, chi nhánh Đông Đô năm 2004 và chi nhánh Quang Trung

năm 2005. Cơ cấu lại Sở giao dịch theo mô hình phục vụ giao dịch một cửa

thuận lợi cho khách hàng và quản lý thông tin, thanh toán trực tuyến. SGD đã

có 15 phòng nghiệp vụ, 15 điểm giao dịch với gần 300 cán bộ nhân viên.

- Tính đến năm 2008, nguồn vốn huy động đã đạt 28.919 tỷ đồng. Nguồn

vốn huy động liên tục tăng trưởng qua các năm, có được kết quả vượt bậc này

là do sự kết hợp của việc nâng cao ứng dụng công nghệ, không ngừng phát

triển sản phẩm, tiện ích, phong cách giao dịch văn minh của nhân viên NH.

- Với phương châm hoạt động “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là

mục tiêu hoạt động của ngân hàng”, SGD có thể tự hào với kết quả đạt được

qua hơn 18 năm, phục vụ sự phát triển kinh tế đất nước với đông đảo tầng lớp

dân cư với chất lượng không ngừng được nâng cao.

2.1.2. Mô hình tổ chức Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển

Việt Nam

Đến nay, SGD đã có 17 phòng nghiệp vụ và các phòng giao dịch. Các

phòng nghiệp vụ của SGD được sắp xếp theo các khối căn cứ vào chức năng

và nhiệm vụ của các phòng theo sơ đồ sau:

26

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của SGD

BAN GIÁM ĐỐC

KHỐI TÍN DỤNG

:P. Quan hệ khách hàng 1

P. Quan hệ khách hàng 2

P. Quan hệ khách hàng 3

P. Tài trợ dự án

P. Quản lý rủi ro 1

P. Quản lý rủi ro 2

P. Quản trị tín dụng

KHỐI DỊCH VỤ

P. Dịch vụ khách hàng cá nhân P. Dịch vụ khách hàng doanh nghiệp 1

P. Dịch vụ khách hàng doanh nghiệp 2 P. Quản lý và dịch vụ kho quỹ

P. Thanh toán quốc tế

KHỐI QUẢN LÝ NỘI BỘ

P. Kế hoạch tổng hợp

P. Điện toán

P. Tài chính kế toán

P. Tổ chức nhân sự

Văn phòng

KHỐI ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC

Các phòng Giao dịch

27

2.1.3. Giám đốc Sở giao dịch qua các thời kỳ

- Ông Võ Xuân Phúc-Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN kiêm

Giám đốc Sở giao dịch (3/1991-10/1996).

- Ông Vũ Quốc Sáu-Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN kiêm

Giám đốc Sở giao dịch (11/1996-3/1997). Hiện nay là Chủ tịch HĐQT Ngân

hàng ĐT&PT VN.

- Ông Lê Đào Nguyên-Giám đốc Sở giao dịch (4/1997-6/2001). Hiện

nay là Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN.

- Ông Lê Văn Lộc-Giám đốc Sở giao dịch (7/2001-10/2002). Hiện nay là

Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN.

- Ông Nguyễn Khắc Thân-Giám đốc Sở giao dịch (11/2002- /2005).

Hiện nay là Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN.

- Bà Lê Thị Kim Khuyên-Giám đốc Sở giao dịch (từ 5/2005).

2.1.4. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh trong ba năm gần đây

Với sự năng động và nhạy bén, Ban giám đốc SGD đã nhận định được

những khó khăn, thách thức trong quá trình hoạt động, kịp thời đưa ra những

biện pháp, chính sách đúng đắn giúp SGD luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ do

Hội sở chính giao cho, thực hiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả, và SGD

luôn là đơn vị dẫn đầu trong hệ thống BIDV. Kết quả hoạt động kinh doanh

của SGD được thể hiện qua các mảng hoạt động chính của SGD như sau:

2.1.4.1. Tình hình hoạt động huy động vốn

Trong những năm qua, thị trường huy động vốn luôn diễn biến phức tạp

do sự thay đổi liên tục của giá vàng, giá dầu và việc thay đổi lãi suất của Fed.

Mặt khác, các tổ chức tín dụng cũng đưa ra nhiều sản phẩm huy động vốn đa

dạng với lãi suất hấp dẫn, tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ. Trước tình hình đó,

SGD đã cố gắng giữ vững và tăng trưởng nguồn vốn huy động. Tổng nguồn

28

vốn huy động tính tới năm 31/12/2008 đạt 28.919 tỷ đồng, tăng 13.615 tỷ

đồng (89%) so với năm 2007. Con số cho thấy mức tăng trưởng mạnh của Sở

giao dịch BIDV.

- Cơ cấu vốn theo thành phần kinh tế:

Bảng 2.1: Cơ cấu vốn huy động theo thành phần kinh tế

Đơn vị: tỷ đồng

Năm

2006

2007

2008

Tỷ lệ tăng trưởng (%) 2008/2007

2007/2006

Chỉ tiêu Huy động vốn Tiền gửi dân cư Tiền gửi tổ chức Nguồn huy động khác

10.110 2.791 7.284 34

15.304 2.491 12.760 53

28.919 2.355 26.485 78

51% (11)% 75% 54%

89% (5)% 108% 47%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Nguồn vốn tiền gửi của dân cư: 2.355 tỷ đồng, giảm 36 tỷ đồng (5%) so

với năm 2007, chiếm 8,1% trong tổng nguồn vốn huy động được. Giảm 436

tỷ đồng (16%) so với năm 2006. Nguyên nhân là do xu hướng chuyển dịch

nguồn tiền gửi dân cư từ khu vực NHTM Nhà nước sang các NHTM cổ phần

trong những năm gần đây. Đây là một tín hiệu không tốt trong việc huy động

vốn của SGD vì nguồn vốn từ dân cư vẫn là nguồn huy động quan trọng của

các ngân hàng.

Nguồn vốn huy động từ các tổ chức: 26.485 tỷ đồng, tăng 13.725 tỷ

đồng (tăng 108%) so với năm 2007; chiếm 92% trong tổng nguồn vốn. Có thể

giải thích là do SGD đã thực hiện tốt công tác thu hút thêm nhiều doanh

nghiệp và tổ chức mở tài khoản tại ngân hàng để thanh toán tiền lương cho

cán bộ công nhân viên và thực hiện các dịch vụ thanh toán của ngân hàng.

Mức tăng trưởng nguồn vốn 2008 so với 2007 cao hơn 2007 so với 2006.

Tuy nhiên cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý, vốn dân cư chiếm tỷ trọng thấp;

tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng lớn và tập trung vào một số

khách hàng nên tính ổn định chưa cao.

29

- Cơ cấu vốn theo thời gian:

Bảng 2.2: Cơ cấu vốn huy động theo thời gian

Đơn vị: tỷ đồng

Năm

Tỷ lệ tăng trưởng(%)

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

Huy động vốn NV không kỳ hạn NV có kỳ hạn

10.110 1.645 8.465

15.340 3.768 11.572

28.919 7.953 20966

2007/2006 51% 129% 37%

2008/2007 89% 111% 81%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Nguồn vốn không kỳ hạn: 7.953 tỷ đồng, tăng 4.185 tỷ đồng (tăng

111%) so với năm 2007; chiếm tỷ trọng 27,5% tạo điều kiện giảm chi phí đầu

vào, tăng cường năng lực tài chính, tuy vẫn còn thấp hơn mức tăng trưởng của

năm 2007 so với năm 2006 là 129%. Đạt được kết quả trên là do trong năm

2008 SGD mở rộng và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.

Nguồn vốn có kỳ hạn: 20.966 tỷ đồng, tăng 9.394 tỷ đồng (tăng 81%) so

với năm 2007; chiếm tỷ trọng 72,5% trong tổng nguồn vốn. Tăng 12.501 tỷ

đồng (tăng 148%) so với năm 2006. Tạo lập nguồn vốn ổn định và tự cân đối

nguồn vốn để đầu tư cho vay các dự án.

- Các nguồn huy động khác: Năm 2008 huy động từ các nguồn khác đạt

78,235 tỷ đồng, tăng 47% so với năm 2007 (huy động được 53,335 tỷ đồng).

Tỷ trọng của nguồn này tuy không cao nhưng cũng phản ánh được rằng SGD

vẫn chú trọng, số vốn huy động năm sau vẫn cao hơn năm trước.

2.1.4.2. Tình hình hoạt động tín dụng

Hoạt động tín dụng về cơ bản bám sát mục tiêu: chủ động tăng trưởng,

gắn tăng trưởng với kiểm soát chất lượng, đảm bảo an toàn và phát triển các

dịch vụ trên nguyên tắc chấp hành nghiêm chỉnh giới hạn tín dụng được Hội

sở chính phê duyệt. Dư nợ cho vay của SGD nhìn chung đều tăng qua các

năm. Đến năm 2008, tổng dư nợ cho vay của SGD đã đạt 5.807 tỷ đồng, tăng

30

trưởng 14% so với năm 2007. Nguyên nhân do SGD đã đẩy mạnh quan hệ

hợp tác trong lĩnh vực tín dụng với một số khách hàng lớn như: Tổng công ty

xây dựng Hà Nội, Tổng công ty lắp máy…, đồng thời mở rộng quan hệ tín

dụng với các khách hàng, doanh nghiệp mới như Công ty viễn thông điện lực,

công ty sữa Hà Nội…

- Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn:

Bảng 2.3: Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn

Năm

Tỷ lệ tăng trưởng(%)

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

2007/2006

2008/2007

Tín dụng

5.001

5.099

5.807

2%

14%

Cho vay ngắn hạn

1.960

2.059

2.915

5%

42%

Cho vay trung-dài hạn

3.041

3.040

2.892

(1)%

(5)%

Đơn vị: tỷ đồng

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động cho vay, SGD đã quan tâm tới

việc mở rộng cho vay ngắn hạn thông qua việc đưa ra nhiều hình thức cho vay

ngắn hạn như: cho vay tài trợ XNK, cho vay tiêu dùng, cho vay tài trợ tài sản

lưu động…Do đó cho vay ngắn hạn năm 2008 đạt 2.915 tỷ đồng, tăng 856 tỷ

đồng (42%) so với năm 2007, trong khi năm 2007 chỉ tăng trưởng 5% so với

năm 2006. Tỷ trọng chiếm 50,1% tổng nguồn tín dụng.

Cho vay trung-dài hạn 2.892 tỷ đồng, giảm 148 tỷ đồng (5%) so với năm

2007, mức giảm mạnh hơn so với mức giảm của năm 2007 so với 2006. Tỷ

trọng nguồn cho vay trung-dài hạn chiếm 49,9% tổng tín dụng. Ta có thể thấy

quy mô cho vay trung-dài hạn của SGD giảm dần qua các năm do chủ trương

của SGD giảm bớt các khoản cho vay trung-dài hạn không hiệu quả nằm nâng

cao chất lượng tín dụng và phù hợp với cơ cấu nguồn vốn huy của SGD.

31

- Cơ cấu các khoản cho vay trung-dài hạn:

Bảng 2.4: Cơ cấu các khoản cho vay trung-dài hạn

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

Tỷ lệ tăng trưởng(%)

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

Cho vay TDHTM Cho vay ĐTT Cho vay KHNN Cho vay ủy thác, ODA Tổng cộng

623 1.894 256 266 3.041

1.095 1.512 161 271 3.040

1.035 1.584 18 253 2.892

2007/2006 76% (20)% (37)% 2% (1)%

2008/2007 (6)% 5% (88)% (7)% (5)%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Đối với cho vay trung-dài hạn thương mại, mặc dù năm 2007 đã có bước

nhảy vọt, đạt 1.095 tỷ đồng, tăng 76% so với năm 2006, nhưng tới năm 2008

lại có sự chững lại, chỉ đạt 1.035 tỷ đồng, giảm 60 tỷ đồng (tức là 6%) so với

năm 2007. Điều này đã được giải thích ở trên là do SGD đang có sự sàng lọc

kỹ càng trong việc chọn các doanh nghiệp để cho vay, đảm bảo doanh nghiệp

đó làm ăn hiệu quả và nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.

Nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cho vay trung-dài hạn là cho vay

đồng tài trợ, năm 2008 chiếm 55% tổng lượng cho vay. Năm 2008 đã có mức

tăng trở lại sau khi có mức giảm đáng kể năm 2007 so với năm 2006. Cho vay

đồng tài trợ năm 2008 đạt 1.584 tỷ đồng. Điều này báo hiệu trong thời gian

tới SGD sẽ mở rộng hoạt động này, vì đây là một hình thức cho vay tương đối

hiệu quả với ngân hàng nhằm giảm bớt rủi ro khi cho vay (san sẻ rủi ro giữa

các nhà đồng tài trợ).

Dư nợ cho vay theo kế hoạch Nhà nước đang giảm dần và chiếm tỷ trọng

ngày càng nhỏ trong tổng cơ cấu cho vay trung-dài hạn. Năm 2008 chỉ đạt 18

tỷ đồng, giảm 143 tỷ đồng (88%) so với năm 2007, tỷ trọng chỉ chiếm chưa

đến 1%. Điều này thể hiện sự chủ động hơn của SGD trong việc lựa chọn dự

án và ra quyết định cho vay, tăng sự an toàn tín dụng cho SGD.

32

Cho vay ủy thác, ODA năm 2008 tuy có giảm so với năm 2007 nhưng là

không đáng kể (7%), hoạt động cho vay này trong những năm qua vẫn dao

động xung quanh một mốc cố định, cho thấy SGD chưa có động thái gì mới

để thay đổi hình thức cho vay này.

2.1.4.3. Một số chỉ tiêu khác

Ngoài hoạt động huy động vốn và tín dụng, hoạt động dịch vụ cũng là

mảng được SGD chú trọng. Tình hình của hoạt động dịch vụ, đồng thời kết

quả lợi nhuận trước thuế và tổng tài sản của SGD trong 3 năm gần đây được

thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.5: Một số chỉ tiêu khác

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

Tỷ lệ tăng trưởng(%)

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

Thu dịch vụ ròng Lợi nhuận trước thuế Tổng tài sản

49,512 184,858 14.141

76,850 321,000 17.999

115,000 428,000 30.125

2007/2006 55% 74% 27%

2008/2007 50% 33% 67%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Trong 3 năm gần đây hoạt động dịch vụ được chú trọng, thể hiện qua

mức tăng lớn qua các năm 2007 và 2008. Cả hai năm đều có mức tăng trưởng

tương đối hơn 50%, năm 2008 thu từ dịch vụ ròng đã đạt 115 tỷ đồng, tăng

38,15 tỷ đồng so với năm 2007. Có được sự tăng trưởng ổn định này là do

SGD đã thu hút được nhiều đơn vị mở tài khoản thanh toán qua SGD, thực

hiện trả lương qua tài khoản cho nhiều doanh nghiệp, mở rộng mạng lưới máy

ATM và máy POS (Point of sale) nên thu hút được khách hàng sử dụng thẻ,

và đặc biệt do tăng thu từ hoạt động thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại

tệ.

Tổng quan nhìn lại, mặc dù trong giai đoạn vừa qua tình hình kinh tế thế

giới có nhiều những biến động khó khăn, nhưng lợi nhuận và tổng tài sản của

33

Sở giao dịch vẫn tăng trưởng tốt. Lợi nhuận trước thuế năm 2008 là 428 tỷ

đồng, tăng 107(33%) so với năm 2007. Tổng tài sản đạt 30.125 tỷ đồng, cũng

tăng trưởng mạnh với mức 67% cho thấy qui mô ngày càng lớn của SGD và

vai trò của nó trong BIDV nói riêng và ngành ngân hàng Việt Nam nói chung.

2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY XUẤT NHẬP

KHẨU TẠI SGD NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

SGD sớm nắm bắt được nhu cầu vốn tài trợ cho hoạt động XNK của các

doanh nghiệp cũng như vai trò quan trọng của hoạt động XNK đối với nền

kinh tế trong quá trình hội nhập. Vì vậy, với tư cách là đơn vị kinh doanh của

Hội sở chính, thực hiện thử nghiệm các sản phẩm mới của toàn hệ thống

BIDV, SGD đã triển khai thành công và bắt đầu mở rộng hoạt động cho vay

XNK.

2.2.1. Những quy định chung về hoạt động cho vay XNK của SGD

Nhằm thực hiện việc mở rộng hoạt động cho vay XNK có hiệu quả, SGD

luôn thực hiện theo các quy định của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam cũng như

các quy định của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động cho vay nói chung và

cho vay XNK nói riêng.

2.2.1.1. Đối tượng cho vay

SGD thực hiện cho vay đối với tất cả các khách hàng có nhu cầu vay vốn

tài trợ cho hoạt động XNK hàng hóa không thuộc danh mục hàng hóa bị Nhà

nước cấm xuất-nhập khẩu và thỏa mãn điều kiện cho vay của SGD.

Tuy nhiên, để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất

nước và phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, SGD ưu tiên cho vay nhằm

tài trợ cho hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại, các sản phẩm thiết

yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống mà trong nước chưa sản xuất được hoặc

34

chưa sản xuất đủ, cho vay hỗ trợ xuất khẩu nông sản… SGD hạn chế cho vay

nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ như thuốc lá, rượu bia…

Ngoài ra SGD còn chú trọng vào hoạt động cho vay vốn lưu động đối

với những doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất. Trong điều kiện đất nước

đang mở cửa hội nhập như hiện nay, số lượng doanh nghiệp sản xuất phục vụ

xuất khẩu là rất lớn. Vì vậy chính sách cho vay này của SGD đã phần nào đáp

ứng được nhu cầu về vốn - nhu cầu quan trọng nhất của các doanh nghiệp khi

muốn mở rộng sản xuất.

2.2.1.2. Hình thức cho vay xuất nhập khẩu

Hiện nay, 98% dư nợ cho vay XNK của SGD là các khoản cho vay ngắn

hạn để tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp XNK, còn lại là cho vay đối

với các doanh nghiệp để thực hiện dự án nhập khẩu máy móc thiết bị và được

xếp vào cho vay đầu tư dự án. Như vậy, hoạt động cho vay XNK theo cách

phân loại của SGD chỉ bao gồm các hình thức cho vay XNK ngắn hạn. SGD

đang triển khai các hình thức cho vay XNK sau:

- Cho vay đối với nhà nhập khẩu:

Cho vay đảm bảo bằng lô hàng nhập khẩu: loại vay này được dùng để tài

trợ cho việc nhập khẩu nguyên liệu thô và các hàng hóa khác. Các khoản cho

vay thế chấp lô hàng đòi hỏi hàng hóa phải được đặt dưới sự quản lý của

SGD. SGD được quyền quyết định đối với hàng hóa trong trường hợp khách

hàng không trả được nợ. Loại cho vay thế chấp bằng lô hàng này chỉ được áp

dụng đối với những hàng hóa dễ tiêu thụ hoặc được chính BIDV sử dụng.

- Cho vay đối với nhà xuất khẩu:

Cho vay trước khi giao hàng (cho vay chuẩn bị hàng xuất khẩu): loại

hình này dùng để tài trợ cho nhà xuất khẩu trước khi giao hàng, để nhà xuất

35

khẩu mua hàng hóa trong nước hoặc nhập khẩu nguyên liệu chế biến hàng

xuất. Lô hàng cần được đảm bảo chắc chắn sẽ được thanh toán từ vốn của

doanh nghiệp hoặc được khách hàng khác hay cơ quan khác cho vay.

Cho vay sau khi giao hàng (ứng trước tiền hàng): ngân hàng thực hiện

ứng trước tiền hàng cho nhà xuất khẩu thông qua chiết khấu bộ chứng từ hàng

xuất. Các hình thức chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất: chiết khấu có thời hạn

và chiết khấu vô thời hạn.

2.2.2. Thực trạng hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại SGD

Trong những năm vừa qua, cùng với hệ thống BIDV nói chung, SGD đã

có nhiều thành công tích cực trong hoạt động kinh doanh, tiếp tục khẳng định

vị trí của mình trong quá trình phát huy các nguồn nội lực, thu hút nguồn

ngoại lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà

Nội. Dù trong thời gian qua tình hình thị trường trong nước và thế giới biến

động phức tạp, nhưng nhờ sự nỗ lực hết sức của cán bộ nhân viên, SGD đã

duy trì được kết quả tốt trong hoạt động cho vay XNK trong những năm vừa

qua, được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu sau:

2.2.2.1. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu

Với thế mạnh là một NHTM nhà nước có uy tín lớn trên thị trường trong

nước và quốc tế, BIDV nói chung và SGD nói riêng đã phát triển mạnh hoạt

động cho vay tài trợ XNK. Đặc biệt trong những năm gần đây, nhờ có những

biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các dịch vụ đã tạo điều kiện cho SGD

thu hút thêm khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay XNK. Điều này được

thể hiện rất rõ qua doanh số cho vay XNK của SGD trong ba năm gần đây:

36

Bảng 2.6: Doanh số cho vay XNK

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

Tỷ lệ tăng trưởng(%)

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

2007/2006 2008/2007

Doanh số cho vay XNK Doanh số cho vay chung

1187,697 4750,715

1472,429 5354,287

1895,129 6213,538

24% 13%

29% 16%

Tỷ trọng

25%

27,5%

30,5%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Biểu đồ 2.1: Doanh số cho vay XNK

Đơn vị: Tỷ đồng

7000

6000

5000

4000

3000

2000

1000

0

2006

2007

2008

1187.697

1472.429

1895.129

Doanh số cho vay XNK

4750.715

5354.287

6213.538

Doanh số cho vay chung

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Dựa vào bảng số liệu và biểu đồ trên, ta có thế thấy rõ xu hướng tăng lên

trong doanh số cho vay XNK nói riêng cũng như doanh số cho vay chung tại

SGD nói chung. Năm 2008, doanh số cho vay XNK đã đạt 1895,129 tỷ đồng,

tăng trưởng so với năm 2007 là 422,7 tỷ đồng (29%). Nếu so với năm 2006,

năm 2007 tăng trưởng ở mức 24%. Có thể nói đây là con số khá là ấn tượng,

cho thấy mức tăng trưởng cao và ổn định đối với hoạt động cho vay XNK tại

SGD trong ba năm qua.

37

Có được kết quả như trên là do nhu cầu vay vốn phục vụ cho hoạt động

XNK của các doanh nghiệp ngày càng tăng. Theo số liệu đã thống kê, trong

năm 2008, tổng kim ngạch XNK đã đạt hơn 140 tỷ USD, tăng 28,9% so với

năm 2007, kéo theo mức tăng trưởng tương ứng trong hoạt động cho vay

XNK tại SGD. Đáng nói ở đây là vào những tháng cuối năm 2008, hoạt động

XNK bắt đầu chịu tác động của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn

cầu, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, nếu không đã có thể có mức tăng trưởng

ấn tượng hơn. Năm 2006 ghi nhận sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ

chức thương mại thế giới WTO, kéo theo những kết quả khả quan trong XNK

ở năm 2007 và 2008. Năm 2008 chứng kiến một tần suất hiếm thấy trong điều

chỉnh thuế xuất nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng như: nông sản, đồ gỗ, xăng

dầu, gas, ô tô…Xuất khẩu có những chuyển động mới trong mở rộng thị

trường, trước khó khăn của những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật

Bản…, hoạt động xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp đã chủ động đẩy mạnh

sang khai thác và mở rộng những thị trường mới, hoặc đã thâm nhập trước đó.

Tất cả những chính sách này đã có tác dụng lớn trong việc phát triển hoạt

động XNK ở Việt Nam, kéo theo đó là nhu cầu cho vay tài trợ XNK tại SGD

cũng tăng.

Xét về tỷ trọng của doanh số cho vay XNK so với doanh số cho vay

chung, ta thấy tỷ trọng cũng tăng dần qua các năm, từ 25% năm 2006 tới

30,5% trong năm 2008. Đây là kết quả của sự cố gắng của SGD trong việc

giảm bớt các khoản cho vay không hiệu quả trong lĩnh vực xây lắp và thực

hiện đa dạng hóa sản phẩm, đưa ra nhiều hình thức cho vay mới an toàn và

hiệu quả hơn như cho vay XNK. Mặt khác tỷ trọng cho vay XNK tăng là do

yêu cầu của nền kinh tế đang hộp nhập, lưu thông giữa các nước nhiều nên

nhu cầu vay vốn tài trợ cho XNK tăng lên, do đó cho vay XNK trở thành thị

trường đầy tiềm năng và phát triển. Tuy vậy tỷ trọng cho vay XNK vẫn chưa

38

cao do chủ yếu hiện nay đối tượng cho vay của SGD là các doanh nghiệp xây

lắp, chưa cân xứng với nhu cầu của thị trường. Vì vậy, trong thời gian tới,

SGD cần phải tiếp tục cố gắng hơn nữa để gia tăng doanh số cho vay XNK

của SGD, từ đó nâng tỷ trọng của cho vay XNK trong doanh số cho vay

chung của SGD.

2.2.2.2. Doanh số thu nợ xuất nhập khẩu

Doanh số thu nợ phản ánh số nợ mà Ngân hàng thu được từ các khoản

cho vay trước đó trong khoảng thời gian nhất định, thường là 1 năm. Doanh

số thu nợ chung và doanh số thu nợ XNK tại SGD được thể hiện qua bảng số

liệu dưới đây:

Bảng 2.7: Doanh số thu nợ XNK

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

Tỷ lệ tăng trưởng(%)

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

2007/2006 2008/2007

Doanh số thu nợ XNK Doanh số thu nợ chung

1026,155 4275,644

1340,221 5255,768

1514,099 5505,814

31% 23%

13% 5%

Tỷ trọng

24%

25,5%

27,5%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Doanh số thu nợ chung của SGD trong năm 2008 đạt 6213,538 tỷ đồng,

trong đó doanh số thu nợ XNK chiếm 24%, đạt 1895,129 tỷ đồng. Thu nợ

XNK năm 2008 mặc dù có mức tăng so với năm 2007, nhưng so với mức tăng

của năm 2007 thì lại thấp hơn (13% soi với 37%).Có thể giải thích điều này là

do trong năm 2007, SGD đã có nhiều biện pháp quản lý, theo dõi tình hình

sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn, dẫn tới khả năng thu hồi

nợ trong năm này tăng rất cao. Mặt khác, tỷ trọng của thu nợ XNK trong thu

nợ chung vẫn tăng đều qua các năm, cho thấy hoạt động cho vay XNK an

39

toàn và có chất lượng hơn một số hình thức cho vay khác và đang dần dần

chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động tín dụng tại SGD.

Bảng 2.8: Doanh số thu nợ XNK và Doanh số cho vay XNK

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

Doanh số thu nợ XNK

Giá trị 1026,155

Tỷ lệ 86%

Giá trị 1340,221

Tỷ lệ Giá trị 1514,099 91%

Tỷ lệ 80%

Doanh số cho vay XNK

1187,679

100%

1472,429

100% 1895,129 100%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Tỷ lệ Thu hồi nợ XNK/Doanh số cho vay XNK trong những năm gần đây

khá là cao, luôn đạt trên 80%. Đây là kết quả của việc SGD đã sàng lọc, chỉ

cho những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có phương án sản xuất kinh doanh

tốt vay vốn, do đó khả năng thu hồi nợ rất là cao.

2.2.2.3. Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu

Sự tăng nhanh của doanh số cho vay XNK trong những năm qua đã kéo

theo sự tăng nhanh của dư nợ cho vay XNK.

Bảng 2.9: Dư nợ tín dụng XNK

Đơn vị: Tỷ đồng

Tăng trưởng

Năm

2006

2007

2008

2007/2006 Giá trị %

2008/2007 Giá trị %

1250,188 1382,396 1763,427 132,208

11%

381,030

28%

5000,753 5099,321 5807,045

98,568

2%

707,724

14%

Chỉ tiêu Dư nợ tín dụng XNK Dư nợ tín dụng chung Tỷ trọng

25%

27%

30% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

40

Biểu đồ 2.2: Dư nợ tín dụng XNK

Đơn vị: Tỷ đồng

6000

5000

4000

3000

2000

1000

0

2006

2007

2008

1250.188

1382.396

1763.427

Dư nợ tín dụng XNK

5000.753

5099.321

5807.045

Dư nợ tín dụng chung

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Bảng số liệu và biểu đồ trên đã cho thấy dư nợ tín dụng XNK của SGD

tăng liên tục qua các năm. Năm 2007, dư nợ tín dụng XNK đạt 1382,396 tỷ

đồng, tăng 132,208 (11%) so với năm 2006, năm 2008 đạt 1763,427 tỷ đồng,

tăng 381,03 tỷ đồng (28%) so với 2007. So với tốc độ tăng trưởng của dư nợ

tín dụng chung thì hoạt động cho vay XNK đã có bước nhảy vọt. Năm 2007,

2008 dư nợ tín dụng chung chỉ tăng trưởng 2% và 14%, con số này đối với dư

nợ tín dụng XNK là 11% và 28%. Nó cho ta thấy hiện nay SGD đang rất chú

trọng vào mảng cho vay XNK, hứa hẹn trong thời gian tới sẽ còn phát triển

hơn nữa.

Dư nợ cho vay XNK tăng nhanh phản ánh sự nỗ lực của SGD trong việc

thực hiện công tác marketing cho hoạt động cho vay XNK. Trong thời gian

qua, SGD đã thực hiện tốt công tác phân loại khách hàng (khách hàng thường

xuyên và khách hàng không thường xuyên) và có những chính sách thích hợp

đối với từng nhóm khách hàng. SGD luôn cố gắng duy trì mối quan hệ tốt, có

41

nhiều ưu đãi với các khách hàng hiện tại, đặc biệt là các khách hàng thường

xuyên và khách hàng VIP. Đồng thời, SGD cũng thực hiện nhiều biện pháp

nhằm thu hút thêm nhiều khách hàng mới, trong đó có những khách hàng lớn

như Tổng công ty xăng dầu Việt Nam, Công ty dệt may Hà Nội… Ngoài ra

BIDV còn kịp thời ra một số công văn và hướng dẫn cụ thể trong việc cấp tín

dụng là những cơ sở quan trọng giúp SGD mạnh dạn mở rộng hoạt động cho

vay XNK, góp phần quan trọng trong việc gia tăng dư nợ cho vay XNK.

Sự đóng góp lớn của hoạt động cho vay XNK vào hoạt động tín dụng

chung của SGD được thể hiện rõ qua tỷ trọng của hoạt động này trong thời

gian qua. Tỷ trọng Dư nợ tín dụng XNK/Dư nợ tín dụng chung tăng từ 25%

năm 2006 đến 30% năm 2008. Có được con số này, như đã nói ở trên, là do

kết quả của việc SGD đang cố gắng giảm bớt các khoản cho vay không hiệu

quả, ví dụ như trong lĩnh vực xây lắp, tập trung hơn vào những hình thức cho

vay mới hiệu quả hơn, trong đó có cho vay tài trợ XNK.

Bảng 2.10: Dư nợ tín dụng XNK và Tổng nguồn vốn huy động

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

Dư nợ tín dụng XNK

Giá trị 1250,188

Giá trị 1382,396

%TT 11%

Giá trị 1763,427

Tỷ lệ 28%

Tổng nguồn huy động 10110,926

15304,462

51%

28919,460

89%

Tỷ trọng

12%

9%

6%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Ta có thể thấy tổng nguồn vốn huy động trong các năm qua đều tăng rất

cao, tuy nhiên tỷ lệ Dư nợ tín dụng XNK/Tổng nguồn vốn huy động lại giảm

dần qua các năm. Điều này cho thấy nguồn vốn còn bị ứ đọng khá nhiều, hoạt

động cho vay chưa tương xứng với tốc độ huy động vốn. Nó cũng mở ra khả

năng mở rộng loại hình tín dụng XNK nói riêng, cũng như tín dụng nói chung

của SGD. Cho vay XNK vốn là loại hình tín dụng từ trước tới nay rất có chất

42

lượng và an toàn, đồng thời sẽ có nhiều tiềm năng trong tương lai. Vì vậy

SGD cần phải cố gắng phát huy những ưu điểm ở trên, tiếp tục nâng cao tỷ

trọng tín dụng XNK trong tổng nguồn vốn huy động của NH.

2.2.2.4. Nợ quá hạn

Nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng

tín dụng của NH. BIDV nói chung và SGD nói riêng đã thực hiện nghiêm túc

việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, do đó đã đạt được những kết

quả rất khả quan.

Bảng 2.11: Nợ quá hạn XNK

Đơn vị: Triệu đồng

Năm

Tỷ lệ tăng trưởng(%)

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

2007/2006 2008/2007

Nợ quá hạn Nợ quá hạn XNK

750 0

918 0

87 0

22%

-91%

Nợ quá hạn khó đòi

53%

-70%

150

229

68

Nợ quá hạn XNK khó đòi

0

0

0

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Như ta có thể thấy, mặc dù cho vay XNK là một sản phẩm khá mới của

SGD, nhưng trong 3 năm gần đây không hề có nợ quá hạn đối với tín dụng

XNK tại SGD. Có được kết quả này là do nỗ lực của SGD trong việc rà soát

và kiểm tra khách hàng vay vốn, thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro, đôn

đốc khách hàng trả nợ. Số liệu này cho ta thấy chất lượng các khoản cho vay

XNK ở SGD là rất tốt, phản ánh chất lượng của việc mở rộng hoạt động cho

vay XNK của SGD, mở rộng về quy mô nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của

món vay. Tuy nhiên, để duy trì được kết quả này thì SGD vẫn cần tiếp tục

thực hiện nhiều biện pháp để đảm bảo được việc thu nợ có hiệu quả.

Mặt khác, nhìn vào tình hình nợ quá hạn chung tại SGD, tuy năm 2007 tỉ

lệ nợ quá hạn và nợ quá hạn khó đòi đều tăng, nhưng đến năm 2008 đã giảm

43

đáng kể, chỉ còn 87 triệu đồng và 68 triệu đồng. Đây là tín hiệu đáng mừng,

cho thấy trong thời gian tới tình hình nợ quá hạn sẽ được cải thiện.

2.2.2.5. Nợ xấu

Bên cạnh nợ quá hạn, nợ xấu cũng là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng

của khoản cho vay. Mặc dù không có được con số ấn tượng như nợ quá hạn,

tuy nhiên tình hình nợ xấu XNK tại SGD cũng đạt được một số kết quả sau:

Bảng 2.12: Nợ xấu XNK

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

Nợ xấu (nhóm 3, 4, 5)

Giá trị 100,015

Giá trị %TT Giá trị Tỷ lệ 16% 119,834

136,369

20%

Nợ xấu XNK

1,2

1,498

25%

1,881

26%

Tỷ trọng

1,2%

1,25%

1,38%

Dư nợ tín dụng XNK

1250,188

1382,396

11%

1763,427 28%

Nợ xấu XNK/Dư nợ tín dụng XNK

0,11%

0,11%

0,1%

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Nợ xấu XNK trong năm 2008 khoảng 1,881 tỷ đồng, chỉ chiếm 1,38% so

với nợ xấu của toàn SGD, điều này là phù hợp với hoạt động cho vay XNK

khi mà như ở trên đã đề cập, đây là loại hình tín dụng rất an toàn và có chất

lượng, nợ quá hạn gần như là không có.

Tuy tỷ trọng là thấp, nhưng nó đang có xu hướng tăng lên qua các năm,

từ 1,2% năm 2006 đến 1,38% năm 2008. Với các chỉ số khác thì tỷ trọng này

là không đáng kể, tuy nhiên đối với chỉ số nợ xấu, phản ánh rủi ro của món

khoản cho vay, thì mức tăng này là rất đáng kể. Năm 2008 mức nợ xấu XNK

cũng tăng 383 triệu đồng (26%) so với năm 2007. Có thể giải thích điều này

là mặc dù SGD đã có nhiều biện pháp kiểm soát khoản cho vay, nhưng do

mức tăng trưởng của Doanh số cho vay XNK và Dư nợ tín dụng XNK quá

nhanh, dẫn tới nợ xấu gia tăng là điều không thể tránh khỏi. SGD cần có ngay

44

những biện pháp khắc phục ngay, tránh để nợ xấu tăng cao, dễ dẫn đến nợ quá

hạn và nợ khó đòi.

2.2.2.6. Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng XNK

Nhờ những biện pháp kịp thời, có hiệu quả của SGD đối với hoạt động

cho vay XNK nên đã đạt được những kết quả như đã nêu ở trên, góp phần

đóng góp vào lợi nhuận chung của SGD:

Bảng 2.13: Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng XNK

Đơn vị: Tỷ đồng

Tăng trưởng

Năm

2006

2007

2008

2007/2006 Giá trị %

2008/2007 Giá trị %

42,006

48,953

60,974

6,947

17%

12,02

25%

từ tín

150,023

152,98

174,211

2,957

2%

21,232

14%

từ tín

Chỉ tiêu Lợi nhuận hoạt động dụng XNK Lợi nhuận hoạt động dụng Tỷ trọng

28%

32%

35%

Thu dịch vụ ròng

27,338

55%

38,15

50%

49,512

76,850

115

136,142

74%

107

33%

Lợi nhuận trước thuế

184,858

321

428 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch năm 2006-2008)

Năm 2008, lợi nhuận từ hoạt động cho vay XNK đạt gần 61 tỷ đồng, nếu

so với năm 2007 thì tăng 12,02 tỷ đồng, tức là 25%. Năm 2007 cũng tăng

trưởng so với năm 2006, nhưng mức tăng thấp hơn, chỉ có 6,947 tỷ đồng

(17%). Con số này tiếp tục phản ánh sự phát triển về mọi mặt của hoạt động

tín dụng tài trợ XNK, hơn thế nữa còn khẳng định những đóng góp quan trọng

đối với SGD. Điều này được thể hiện qua tỷ trọng lớn của lợi nhuận từ tín

dụng XNK so với lợi nhuận từ tín dụng chung và lợi nhuận sau thuế. Năm

2008, tỷ trọng lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay XNK so với lợi nhuận thu

45

từ hoạt động cho vay chung đạt con số 35%, tăng 3% so với năm 2007 và 7%

so với năm 2006.

Bên cạnh việc đóng góp chung vào lợi nhuận của SGD, hoạt động cho

vay XNK còn có vai trò thúc đẩy nguồn thu từ hoạt động dịch vụ ròng. Ngoài

việc cung cấp các dịch vụ cho nhà xuất nhập khẩu như nhờ thu, nhờ chi, thư

tín dụng L/C… thì hoạt động cho vay XNK kéo theo sự tăng mạnh trong hoạt

động kinh doanh tiền tệ. Nguyên nhân là do điều kiện để SGD cấp tín dụng

cho các doanh nghiệp XNK là họ phải có tài khoản tại SGD, đồng thời có

chính sách ưu đãi đối với những doanh nghiệp cam kết bán lại nguồn ngoại tệ

cho SGD. Chính vì vậy, nguồn thu ngoại tệ của SGD là khá dồi dào, góp phần

lớn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ nói riêng và thu từ dịch vụ ròng nói

chung. Trong 2 năm liên tiếp 2007 và 2008, mức tăng trưởng thu từ dịch vụ

ròng đều đạt trên 50%, con số này đã phần nào phản ánh được đóng góp của

hoạt động cho vay XNK tại SGD.

2.2.3. Đánh giá hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại SGD

2.2.3.1. Những kết quả đạt được

Trong bối cánh hoạt động tiền tệ của NH nói chung và SGD nói riêng đã

gặp nhiều khó khăn, rủi ro vẫn còn tiềm ẩn, tất cả các cán bộ làm công tác tín

dụng phải chấn chỉnh hoạt động, đi vào kỷ cương tuân thủ chặt chẽ theo quy

định cho vay. Với phương châm cho vay an toàn, hiệu quả và hạn chế đến

mức thấp nhất rủi ro phát sinh nhằm từng bước nâng cao chất lượng tín dụng,

việc thẩm định, phê duyệt cho vay đã từng bước được cải tiến đáp ứng nhu

cầu của khách hàng, trách nhiệm của cán bộ tín dụng dần dần được nâng cao.

Do vậy hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại SGD đã đạt được một số kết quả

nhất định, góp phần quan trọng vào kết quả hoạt động kinh doanh chung của

SGD, thể hiện ở một số mặt sau:

46

Thứ nhất, đứng trước sự cạnh tranh gay gắt về cả lãi suất cũng như giành

giật khách hàng của các NH hoạt động trên địa bàn Thủ đô, SGD luôn quan

tâm đặc biệt tới công tác khách hang. Số lượng khách hàng được cấp tín dụng

XNK ngày càng tăng. Đây là kết quả của sự nỗ lực của SGD trong thực hiện

hoạt động marketing đối với cho vay XNK. Cán bộ tín dụng đã trực tiếp tiếp

xúc, đặt quan hệ với khách hàng tiền năng bên cạnh việc duy trì mối quan hệ

than thiết với các khách hàng hiện tại. Đội ngũ cán bộ NH có thái độ phục vụ

tận tình, chu đáo, trình độ chuyên môn cao góp phần thu hút thêm khách hàng

mới đến vay vốn tại SGD.

Thứ hai, cơ cấu khách hàng được điều chỉnh một cách hợp lý hơn thông

qua việc mở rộng đối tượng cho vay XNK. Theo đó, tỷ trọng cho vay đối với

doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có xu hướng tăng lên rõ rệt, còn tỷ

trọng cho doanh nghiệp Nhà nước vay đang giảm. Tính tới hết năm 2008, tỷ

trọng dư nợ đối với doanh nghiệp Nhà nước trong tổng dư nợ tín dụng toàn

SGD là khoảng 64%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 29%, còn lại 7% là

dư nợ của các thành phần khác. Con số này trong năm 2007 tương ứng là

72%, 26% và 2%. Sự thay đổi trong cơ cấu này cũng hoàn toàn phù hợp với

chủ trương của Đảng và Nhà nước cũng như định hướng phát triển của BIDV.

Thứ ba, doanh số và dư nợ tín dụng tài trợ XNK tăng liên tục qua các

năm, ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng tín dụng chung của SGD.

Đây là kết quả từ việc số lượng khách hàng được cấp tín dụng XNK tại SGD

ngày càng tăng, thêm vào đó giá trị mỗi khoản vay cũng lớn hơn so với trước.

Thứ tư, sau gần hai năm tiên phong trong việc triển khai hệ thống xếp

hạng tín dụng nội bộ, trích lập dự phòng rủi ro theo Điều 7 Quyết định

493/2005/QĐ-NHNN, SGD nói riêng cũng như BIDV nói chung đã đạt được

những kết quả khả quan, đặc biệt là chất lượng của các khoản vay XNK. Đến

47

nay, các khoản tín dụng tài trợ XNK tại SGD đã gần như không có nợ quá

hạn, tỷ lệ nợ xấu cũng ở mức rất thấp và đang tiếp tục có xu hướng giảm.

Điều này cho thấy hiệu quả trong việc mở rộng hoạt động cho vay XNK tại

SGD, cả về quy mô lẫn chất lượng.

Thứ năm, hoạt động cho vay XNK đã có những tác động tích cực trong

việc thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh tiền tệ tại SGD.

Điều này được thể hiện qua doanh số và lợi nhuận thu được từ các hoạt động

trên tại SGD, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. Sự đóng góp của hoạt động cho

vay XNK tới SGD, cũng như tới BIDV đã góp phần giúp cho BIDV được Tạp

chí Asianmoney xếp hạng là “Ngân hàng cung cấp dịch vụ kinh doanh ngoại

tệ tốt nhất Việt Nam” trong năm 2007.

Thứ sáu, SGD đã xuất sắc hoàn thành và hoàn thành vượt mức tiến độ,

kế hoạch đề ra trong năm cho hoạt động tín dụng tài trợ XNK, đặc biệt là các

chỉ tiêu về chất lượng và hiệu quả hoạt động.

2.2.3.2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân

a) Những mặt còn tồn tại:

Mặc dù hoạt động tín dụng XNK tại SGD đạt được rất nhiều kết quả lạc

quan như trên, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nổi lên một số mặt hạn chế cần

được khắc phục, cụ thể:

Thứ nhất, SGD chưa khai thác hết tiềm năng của khách hàng, số doanh

nghiệp hiện nay đang cần vay vốn tài trợ XNK là rất lớn, tuy nhiên SGD mới

chỉ thực hiện cho vay với những khách hàng truyền thống, những khách hàng

tiềm năng lớn và số ít khách hàng mới, còn bỏ ngỏ một số lượng lớn các

doanh nghiệp khác có tiềm năng, nhưng do điều kiện chưa thể tiếp cận được

với nguồn vốn của SGD.

48

Thứ hai, tỷ trọng dư nợ cho vay XNK trong tổng nguồn vốn huy động tại

SGD còn rất thấp, hơn thế nữa lại đang có xu hướng giảm dần qua các năm,

từ 12% năm 2006 xuống còn 6% năm 2008. Đây là loại hình cho vay tương

đối hiệu quả, có thời gian thu hồi vốn nhanh và có tác dụng kích thích các

hoạt động dịch vụ khác của NH. Vì vậy trong thời gian tới SGD cần nỗ lực

hơn nữa để mở rộng cho vay XNK, tránh để vốn huy động được bị ứ đọng,

gây thất thu cho NH.

Thứ ba, tuy rằng cơ cấu cho vay XNK đang được điều chỉnh hợp lý hơn,

nhưng tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn quá cao (64%

trong năm 2008), mảng doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chưa được chú ý

đúng mức (năm 2008 chỉ tăng 3% so với năm 2007). Đành rằng cho vay

doanh nghiệp Nhà nước thì có rủi ro thấp hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc

doanh, tuy nhiên trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

làm ăn rất có hiệu quả, đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp

100% vốn nước ngoài là nhóm khách hàng SGD cần mạnh dạn tiếp cận, tin

tưởng vào họ vì tiềm năng của nhóm khách hàng này là rất lớn.

Thứ tư, các hình thức tín dụng tài trợ XNK còn khá là ít và đơn điệu, làm

giảm tính hấp dẫn đối với khách hàng. Hy vọng trong thời gian tới, SGD sẽ

mạnh dạn đa dạng hóa, phát triển thêm một số loại hình cho vay XNK nữa để

phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế cũng như nhu cầu của doanh nghiệp.

b)Nguyên nhân:

Những mặt còn hạn chế trong hoạt động cho vay XNK tại SGD có thể

được cho là do những nguyên nhân sau:

* Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, lĩnh vực hoạt động truyền thống của BIDV là đầu tư xây dựng cơ

bản, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là hoạt động mới được thực hiện trong mấy

49

năm trở lại đây. Do vậy, thị phần thanh toán quốc tế của SGD trên địa bàn còn

nhỏ bé.

Thứ hai, cơ sở dữ liệu của NH về khách hàng và thị trường còn thiếu,

không thường xuyên được cập nhật nên đã gây khó khăn cho NH trong việc

thẩm định, đưa ra các quyết định cho vay cũng như kiểm tra, giám sát các

khoản đã cho vay.

Thứ ba, mặc dù trong thời gian gần đây, công tác Marketing đối với tín

dụng XNK rất được SGD quan tâm nhưng hiệu quả còn chưa cao. Hoạt động

Marketing mới chỉ nhắm vào số ít khách hàng lớn, truyền thống, số lượng các

doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu vay vốn là rất lớn nhưng lại chưa được

quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng số lượng khách hàng tới

SGD còn ít, cơ cấu cho vay XNK chưa được hợp lý.

*Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất, SGD nói riêng cũng như các NH nói chung trên toàn quốc

đang cần một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ cho hoạt động cho vay

XNK. Tuy rằng các Nhà nước, Chính phủ đang được điều chỉnh các chính

sách cho phù hợp với tình hình hiện nay. Nhưng do tần suất điều chỉnh quá

lớn, khiến cho cả NH cũng như khách hàng không kịp nắm bắt, điều chỉnh

cho phù hợp. Bên cạnh đó các quy chế này tác động tới NH và khách hàng

một cách không nhất quán, khi thì tạo thuận lợi cho NH, nhưng lại gây cản trở

cho doanh nghiệp, khi thì tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng gây khó khăn

cho NH. Cả hai tình huống đều dẫn đến tình cảnh NH và doanh nghiệp không

thể đáp ứng được nhu cầu của nhau, khi thì NH ứ đọng vốn không cho vay

được, còn doanh nghiệp thì lại không thể tiếp cận được nguồn vốn đó…

Thứ hai, do vị trí địa lý của SGD nằm trên địa bàn Hà Nội, thế nhưng

hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu có nhu cầu vay vốn lại thường nằm ở

50

các khu CN, khu chế xuất xa trung tâm…Điều này đã làm cho khả năng tiếp

cận nguồn vốn của các doanh nghiệp thấp, và với SGD nói riêng cũng như

BIDV nói chung thì việc mở rộng hoạt động tín dụng XNK cũng trở nên khó

khăn hơn.

Thứ ba, nguyên nhân nằm ở các doanh nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam,

phần lớn các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn tự có rất nhỏ.

Bên cạnh đó, phương án kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trình lên SGD

xin vay vốn không hợp lý, dẫn tới SGD dù muốn cũng không thể cấp tín dụng

cho các doanh nghiệp như vậy. Hơn thế nữa, do mới chuyển sang hoạt động

theo cơ chế thị trường, kiến thức của doanh nghiệp về hoạt động tín dụng, về

hợp đồng thương mại còn hạn chế gây bất lợi cho NH. Ngoài một số doanh

nghiệp còn không thực hiện đúng cam kết khi vay vốn như không mua bảo

hiểm tài sản, sử dụng vốn sai mục đích.

Thứ tư, sự cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt cũng là một trở

ngại đáng kể trong việc SGD phát triển hoạt động cho vay tài trợ XNK. Hiện

nay, SGD phải cạnh tranh với một số NH vốn có thế mạnh trong hoạt động

cho vay XNK như Ngân hàng cổ phần Ngoại Thương Việt Nam

(Vietcombank) Ngân hàng Thương mại Cổ phần xuất nhập khẩu

(Eximbank)… Vì vậy trong thời gian tới SGD phải nỗ lực hơn rất nhiều thì

mới mong mở rộng được hoạt động cho vay XNK.

51

CHƯƠNG 3 - GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO

VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP

KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH

3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của đất

nước tới năm 2010

Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sau với nền kinh tế thế

giới, đặc biệt là Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức

Thương mại thế giới WTO, điều này đòi hỏi Việt Nam phải chủ động hơn

trong quá trình hội nhập để khắc phục những khó khăn, thách thức của nền

kinh tế và phát huy được những điểm mạnh và cơ hội của mình.

Tuy nhiên trong tình hình thế giới như hiện nay, kinh tế toàn cầu đang

rơi vào suy thoái, đặc biệt là các nước phát triển, những thị trường xuất khẩu

chủ lực của đất nước ta, báo hiệu cho một thời kỳ hoạt động xuất khẩu sẽ

không thuận lợi. Bên cạnh đó hoạt động nhập khẩu cũng gặp những khó khăn

có thể dự báo trước. Trước những yêu cầu đó, Nhà nước đã xây dựng chiến

lược phát triển hoạt động XNK như sau:

- Phát triển xuất khẩu một cách bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng

trưởng GDP.

- Về mặt hàng xuất khẩu: đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng

có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm

năng thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu

quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu

những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản

52

phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm tỷ trọng hàng xuất khẩu

thô. Nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu vì ngày càng có nhiều tiêu

chuẩn khắt khe của các nước đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ sản

xuất trong nước.

- Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu năm 2009 là khoảng 13% theo chỉ tiêu

Quốc hội đề ra - tương đương với kim ngạch xuất khẩu khoảng 72 tỷ USD dự

báo sẽ gặp rất nhiều khó khăn, một số dự đoán cho rằng do tác động của cuộc

suy thoái kinh tế toàn cầu, mức 13% này là khó có thể đạt được.

- Phương hướng chung đối với hoạt động nhập khẩu, đó là kết hợp với

sản xuất trong nước để thực hiện việc nhập khẩu đáp ứng các nhu cầu về

nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc cho sản xuất và đầu tư. Ưu tiên nhập

khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ đầu tư và sản xuất cho

xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng

hóa trong nước….

- Kiểm soát nhập khẩu một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện

các biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Đẩy mạnh sản xuất và tăng cường

sử dụng những loại máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu còn đang nhập khẩu

để góp phần giảm nhập siêu.

- Hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước đã sản xuất được và bảo

đảm yêu cầu về chất lượng, các mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu.

- Trong thời buổi nền kinh tế khó có thể dự đoán trước những biến động,

thì bên cạnh duy trì mối quan hệ XNK hiệu quả với các thị trường truyền

thống như Châu Á - Thái Bình Dương, Nga, cần phải đa dạng hóa, mở rộng

quan hệ với nhiều thị trường tiền năng khác nhằm tránh lệ thuộc, rủi ro trong

quan hệ XNK như thị trường Châu Âu, Châu Phi và Nam Mỹ.

- Khuyến khích, tạo điều kiện và khai thác tối đa tiềm năng của mọi

thành phần kinh tế trong hoạt động XNK nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp.

53

3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay XNK tại SGD

Trên cơ sở định hướng phát triển hoạt động XNK của đất nước cũng như

định hướng phát triển chung của toàn SGD, SGD đã đề ra định hướng phát

triển cụ thể cho hoạt động cho vay XNK như sau:

- SGD phấn đấu tăng dư nợ cho vay XNK so với năm 2008, trên cơ sở

đó gia tăng thu nhập từ các dịch vụ liên quan phục vụ cho các doanh nghiệp

vay vốn như thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ…

- Tiếp tục xúc tiến công tác marketing, thu hút thêm các doanh nghiệp

vay vốn XNK.

- Mở rộng cho vay XNK đối với mọi thành phần kinh tế, giảm tỷ trọng

cho vay XNK đối với các doanh nghiệp Nhà nước.

- Tập trung cho vay XNK vào các sản phẩm, thị trường theo định hướng

phát triển XNK của Nhà nước.

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO

VAY XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU

TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Trong bối cảnh hoạt động kinh doanh ngân hàng đang ngày càng bị cạnh

tranh gay gắt, môi trường vĩ mô thường xuyên biến động phức tạp, đồng thời

từ thực trạng hoạt động cho vay XNK của SGD trong những năm vừa qua, em

xin đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay XNK tại SGD

một cách có hiệu quả.

3.2.1. Nhóm giải pháp về quản trị điều hành

3.2.1.1. Tăng cường công tác huy động vốn

Định hướng tín dụng XNK của SGD phải phù hợp với chính sách phát

triển kinh tế xã hội của Nhà nước và nằm trong chiến lược kinh doanh chung

của BIDV.

54

Điều kiện tiên quyết đảm bảo tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng nguồn

vốn. Có huy động vốn được nhiều thì Ngân hàng mới có thể cho vay hoặc đa

dạng hoá hoạt động kinh doanh phục vụ khách hàng và ngược lại, việc sử

dụng vốn khuyến khích Ngân hàng đẩy mạnh đa dạng các hình thức huy

động. Việc mở rộng khai thác các nguồn vốn có thể theo các hướng sau đây:

- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ

cấu nguồn vốn huy động của SGD. Vì vậy SGD cần phải tiếp tục phát huy vai

trò đầu mối huy động tiền gửi từ các tổ chức, định chế tài chính và các tổng

công ty lớn trong nền kinh tế như: Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Công ty

tái bảo hiểm quốc gia, bảo hiểm xã hội Việt Nam…

- Tiếp tục khuyến khích dân cư gửi tiền vào SGD bằng các chính sách

tăng lãi suất tiền gửi cả VNĐ lẫn ngoại tệ, cả ngắn hạn và trung dài hạn. Đối

với khách hàng truyền thống, Ngân hàng nên có các phần thưởng xứng đáng,

có chính sách ưu đãi riêng.

- Thực hiện một số biện pháp để đảm bảo có nguồn ngoại tệ đáp ứng

được nhu cầu mở rộng cho vay XNK tại SGD vì hoạt động XNK thường liên

quan mật thiết đến ngoại tệ. Có thể áp dụng mức phí hấp dẫn để thu hút lượng

kiều hối gửi về nước; thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ an toàn, hiệu quả;

triển khai các sản phẩm huy động tiền gửi bằng ngoại tệ hấp dẫn…

3.2.1.2. Định hướng chiến lược tài trợ

Chuyển hướng tài trợ từ cho vay thương vụ có tính chất riêng lẻ thụ động

sang cho vay theo dự án khép kín chu trình lưu thông hàng hoá từ sản xuất

đến tiêu thụ. Việc lựa chọn và thẩm định dự án đầu tư trở thành nhân tố có ý

nghĩa quan trọng nhất đối với sự thành công của Ngân hàng. Một dự án mặc

dù đã được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt,

nhưng trước khi quyết định cho vay, SGD cần phải thẩm định xem xét lại:

- Tính pháp lý của bộ hồ sơ bao gồm hồ sơ dự án và hồ sơ xây dựng theo

điều kiện xây dựng của Nhà nước, hồ sơ mua sắm thiết bị theo quy chế đấu

55

thầu và quy định của bộ thương mại (nếu có thiết bị nhập khẩu), hồ sơ tín

dụng theo quy định của Ngân hàng.

- Phương án vay và trả nợ của dự án tính toán các nguồn vốn và nguồn tài

trợ, dự kiến biến động của các thông số ảnh hưởng đến nguồn trả nợ.

- Thẩm định nhóm chi tiêu hiệu quả: thời gian hoàn vốn, hiệu quả ròng

(NPV), thể lệ hoàn vốn nội bộ, tỷ suất lợi nhuận...

Đối với dự án có giá trị lớn vượt giới hạn tỷ lệ vốn có của doanh nghiệp

và Ngân hàng, nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay bằng việc cho

vay doanh nghiệp có dư nợ tại Ngân hàng hiện nay.

3.2.2. Nhóm giải pháp về nghiệp vụ tín dụng tài trợ XNK

3.2.2.1. Quản lý tài sản thế chấp cầm cố

- Về nguyên tắc, tài sản thế chấp cầm cố cho khoản vay phải là những tài

sản được hình thành trước và độc lập với vốn vay. Nhưng nếu NH có kho bãi

đầy đủ điều kiện an toàn, có thể chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay để

làm hàng hoá vật tư đảm bảo việc giải chấp trên cơ sở thanh toán của người

vay. Hiện nay tại SGD đang thực hiện cách làm là thuê kho bãi của bên thứ ba

để gửi quản lý hàng hóa (bên thứ ba là bên có chức năng cho thuê kho bãi).

Hàng chỉ được xuất kho khi có lệnh của NH (ký hợp đồng thuê kho ba bên).

- Bảo hiểm tài sản, hàng hoá để phòng ngừa rủi ro bất khả kháng như

thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn... tài sản do ngân hàng quản lý cần được bảo hiểm.

NH có thể thực hiện bằng hợp đồng thoả thuận với các tổ chức bảo hiểm

trong nước và ngoài nước với điều khoản bên thụ hưởng bảo hiểm là NH,

buộc người vay phải mua bảo hiểm cho hàng hoá thế chấp cầm cố với NH.

- Thành lập các công ty mua bán, khai thác tài sản thế chấp tồn đọng của

các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào thực trạng giá trị của tài sản tồn đọng và khả

năng của công ty, tổ chức tín dụng chuyển giao tài sản tồn đọng cho công ty

dưới hình thức uỷ thác hoặc trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng theo thỏa

56

thuận, giúp tổ chức tín dụng thu hồi vốn và khai thác sử dụng tài sản tồn đọng

có hiệu quả. Việc xử lý cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế thủ

tục pháp lý; có cơ chế cho phép ngân hàng được để lại tài sản thế chấp cho

doanh nghiệp tiếp tục khai thác theo phương án sản xuất kinh doanh mới,

giúp doanh nghiệp có nguồn trả nợ; ngân hàng được quyền trực tiếp ký hợp

đồng uỷ quyền bán tài sản với trung tâm bán đấu giá, không qua các trung

gian những tài sản thuộc diện xử lý của toà án.

3.2.2.2. Quản lý rủi ro trong tín dụng tài trợ XNK

Hoạt động cho vay XNK là hoạt động cho vay phức tạp, chịu tác động

nhiều bởi thị trường thế giới. Do đó, để hạn chế bớt rủi ro trong hoạt động cho

vay XNK, SGD cần thực hiện một số biện pháp sau:

- SGD chỉ thực hiện cho vay đối với những doanh nghiệp đã mua bảo

hiểm hàng hóa XNK và bảo hiểm tín dụng XNK. Trong hoạt động XNK, giá

trị hàng hóa XNK thường rất lớn và được vận chuyển bằng đường biển, thời

gian vận chuyển dài. Do đó những rủi ro trong quá trình vận chuyển là rất lớn.

Mặc khác rủi ro còn có thể xuất phát từ chính đối tác khi họ không có khả

năng thanh toán vì lý do nào đó, dẫn đến tổn thất đối với doanh nghiệp rất

lớn, đôi khi làm mất khả năng thanh toán đối với ngân hàng. Tuy vậy, hiện

nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa quan tâm đúng mức đến việc mua bảo

hiểm hàng hóa XNK. Vì vậy, bảo hiểm tín dụng XNK đảm bảo an toàn hơn

cho NH trong trường hợp khách hàng gặp rủi ro, NH vẫn có nguồn để thu nợ.

- SGD cần cập nhật liên tục các quy chế, văn bản mới liên quan đến hoạt

động cho vay XNK để tạo cơ sở cho các cán bộ đưa ra quyết định cho vay

chính xác.

Ngoài những nhân tố rủi ro khách quan và chủ quan trong tín dụng thông

thường, tín dụng tài trợ XNK còn chịu ảnh hưởng lớn của hai nhân tố lãi suất

và tỷ giá của các đồng tiền giao dịch. Sự biến động thường xuyên của hai

57

nhân tố, nếu tạo thêm thuận lợi cho ngân hàng trong nghiệp vụ tín dụng thì sẽ

gây thiệt hại cho khách hàng và ngược lại.

Để quản lý rủi ro đối với lãi suất và tỷ giá, các ngân hàng nước ngoài áp

dụng các giải pháp nghiệp vụ kinh doanh hối đoái trên thị trường tiền tệ với

các công cụ chủ yếu sau: Hợp đồng mua bán kỳ hạn; Nghiệp vụ SWAP về lãi

suất; Hợp đồng quyền chọn về lãi suất và tỷ giá…

3.2.2.3. Đa dạng hoá các phương thức cho vay XNK

Hiện nay, SGD chưa thực hiện tài trợ XNK dưới các hình thức như phát

hành thư bảo lãnh với người nước ngoài, bao thanh toán, thuê mua tài chính...

Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam và giới hạn nguồn vốn kinh doanh của

mình, SGD chưa thể áp dụng ngay được các hình thức này. Song, trong

những năm tới, NH nên cố gắng áp dụng tốt hình thức tín dụng bảo lãnh và

tín dụng trả góp.

Về tín dụng trả góp: Đối với các doanh nghiệp nhập máy móc thiết bị từ

nước ngoài, thời gian sử dụng khá lâu nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn

lớn. Để giúp cho các doanh nghiệp này SGD cấp tín dụng cho họ theo đó các

doanh nghiệp này được phép trả dần theo số tiền vay theo định kỳ. Sở hữu

không nhất thiết phải dùng vốn trung và dài hạn để cho các doanh nghiệp này

vay mà có thể dùng vốn ngắn hạn để cho vay vì các doanh nghiệp sẽ trả định

kỳ theo thoả thuận với SGD.

Về nghiệp vụ bảo lãnh: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số

26/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành "Quy chế bảo lãnh ngân hàng". Quyết

định số 26/2006/QĐ-NHNN hướng dẫn thực hiện các loại bảo lãnh dự thầu,

bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo đảm thanh

toán, bảo đảm chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, đảm bảo hoàn trả vốn vay.

Trong những năm vừa qua thực hiện các loại hình bảo lãnh theo quyết định

26, các NHTM đã bảo lãnh cho rất nhiều doanh nghiệp tham gia đấu thầu

58

thực hiện hợp đồng... giúp cho việc triển khai thực hiện dự án, thu hút vốn và

công nghệ cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những mặt được

đó, qua hơn 2 năm thực hiện quy chế bảo lãnh theo quyết định 26/2006/QĐ-

NHNN đã bộc lộ một số tồn tại bất hợp lý. Với những kinh nghiệm của các

ngân hàng khác trong việc thực hiện nghiệp vụ này và bài học của bản thân

mình, SGD cần phải có nhận thức đúng về hình thức tín dụng bảo lãnh.

Do đó, SGD áp dụng hình thức bảo lãnh XNK thì cần lưu ý các điều trên

và thực hiện quy trình nghiêm ngặt như một khoản cho cho vay cùng loại:

+ Thẩm định và lập đủ hồ sơ tín dụng

+ Phân kỳ kế hoạch thu nợ

+ Kiểm tra quản lý vốn như quy trình tín dụng

+ Tổ chức hạch toán nội bảng và ngoại bảng đầy đủ.

3.2.3. Chính sách khách hàng

Khách hàng là nguyên nhân tồn tại và phát triển của NHTM, thế nên

khách hàng quyết định cơ cấu, quy mô nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân

hàng, thể hiện uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường

trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, khách hàng vay vốn chủ yếu của

SGD là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong khi đó, số lượng các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh ở nước ta là rất nhiều và nhu cầu vay vốn tài trợ cho hoạt

động XNK là rất lớn. Vì vậy không thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và đáp ứng

yêu cầu mở rộng hoạt động cho vay XNK, SGD có thể vận dụng các hình

thức, biện pháp sau đây:

- Thứ nhất: Phân loại khách hàng

Đánh giá đúng khách hàng trước hết dựa vào quan hệ tín dụng của họ với

Ngân hàng. Căn cứ chủ yếu để phân loại khách hàng là năng lực tài chính và

kinh doanh. Cần phải phân tích khách quan và đúng đắn các loại nợ quá hạn

để phân loại khách hàng, nhưng quan trọng nhất vẫn là việc thực hiện của các

59

Chi nhánh ngân hàng cơ sở cho từng đối tượng phù hợp với thực tiễn sinh

động. Sử dụng cơ chế lãi suất ưu đãi cho cả đối tượng khách hàng lớn, truyền

thống cũng như khách hàng đang gặp khó khăn.

- Thứ hai: Tổ chức hội nghị khách hàng

Đây là hình thức tổ chức hoạt động có hiệu quả cho cả ngân hàng và

khách hàng. Thông qua các hội nghị khách hàng, khách hàng có điều kiện tiếp

xúc và trao đổi thông tin với nhau, đồng thời tạo cơ hội cho họ và ngân hàng

hiểu về khó khăn vướng mắc để có các giải pháp cùng nhau tháo gỡ.

Tổ chức một hội nghị khách hàng cũng cần phải coi trọng về khâu chất

lượng, trước hết là công tác thẩm định lựa chọn khách hàng, thăm dò và xây

dựng nội dung hội nghị để có đề tài trọng tâm, đồng thời tạo được không khí

cởi mở để thông qua khách hàng mà đánh giá năng lực, phẩm chất của cán bộ

ngân hàng.

Một hình thức hội nghị phổ biến hiện nay của các ngân hàng nước ngoài

là hội thảo chuyên đề do một ngân hàng chủ trì với sự tham gia của các bạn

hàng là ngân hàng và doanh nghiệp với nhiều nội dung phú như: trao đổi kinh

nghiệm, tổ chức thảo luận về nghiệp vụ mới và về biện pháp quản lý rủi ro.

- Thứ ba: Từ tư vấn tiếp thị đến hợp tác kinh doanh.

Ngân hàng là người tư vấn có hiệu quả nhất về phương diện tài chính

cho dự án kinh doanh của khách hàng. Trong ngoại thương, vai trò tiếp thị

của ngân hàng rất quan trọng, giúp khách hàng tìm kiếm thị trường, bạn hàng

và sản phẩm mới. Tham gia cấp tín dụng và bảo lãnh tín dụng hàng hoá xuất

khẩu.

Trong các nước tư bản, từ lâu tư bản ngân hàng đã thâm nhập vào tư bản

công nghiệp và thương nghiệp, quản lý khép kín toàn bộ các khâu sản xuất và

lưu thông. Sự sát nhập đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của tập đoàn về tài

chính, kinh doanh và tiêu thụ hàng hoá.

60

3.2.4. Chiến lược con người và công nghệ ngân hàng

3.2.4.1. Đào tạo, tuyển chọn cán bộ tín dụng

Con người luôn là nhân tố quyết định thành công mọi hoạt động sản xuất

xã hội. Chúng ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền

kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và bắt đầu sự nghiệp công nghiệp

hoá đòi hỏi: "xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất tốt, kiến thức

và năng lực về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và có

trình độ ngoại ngữ là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động ngân

hàng". Để đạt được yêu cầu đó, NHNT Hà Nội cần tập trung vào chiến lược

con người với nội dung cơ bản sau:

- Thứ nhất: công tác đào tạo và đào tạo lại

Một trong những nguyên nhân chất lượng tín dụng toàn ngành thấp là do

chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, nhận thức không đầy đủ về quy luật thị

trường và sản xuất hàng hoá. Do đó, đây là những mục tiêu để SGD xây dựng

các giải pháp trong bộ trong hoạch định chiến lược đào tạo và đào tạo lại cán

bộ nhân viên.

Trước hết là công tác quy hoạch cán bộ các cấp, cần phải trang bị lại

kiến thức cơ bản theo hai hình thức đào tạo tập trung và đào tạo định hướng,

giúp cán bộ, công nhân viên ngân hàng tự học để có đủ trình độ phù hợp với

cương vị đã đảm nhận. Cần phá bỏ triệt để tư tưởng cho đi học các đối tượng

không nằm trong quy hoạch như sắp xếp nghỉ hưu, sức khoẻ hoặc năng lực

không đủ điều kiện làm việc, cán bộ kỷ luật...

Các đối tượng đào tạo theo hướng tập trung, chuyên ngành. Trước hết ưu

tiên cho cán bộ tín dụng, kế toán và triển khai chương trình phổ cập tin học.

Đào tạo hoặc tuyển dụng tổ chuyên gia tin học có khả năng xây dựng các đề

án tin học và lập trình các nghiệp vụ phát sinh của ngân hàng.

61

Khuyến khích học ngoại ngữ đối với cán bộ chuyên môn, học chuyên

môn đối với cán bộ chuyên ngữ và cán bộ nghiên cứu khoa học ngoài giờ

bằng các hình thức khen thưởng vật chất hoặc nâng mức lương.

- Thứ hai: Công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ

Tuyển chọn và sử dụng cán bộ là những nội dung quan trọng trong tiêu

chuẩn hoá và trẻ hoá cán bộ. Khác với những năm đầu thập kỷ 90, càng khác

xa với thời kỳ kinh tế bao cấp, hầu hết số người được đào tạo trong trường

chưa thể có đủ ngay kiến thức tổng hợp, thậm chí chưa đáp ứng được công

việc trong điều kiện hiện đại, chưa nói đến sự phát triển trong tương lai. Việc

tuyển chọn cán bộ trẻ thay thế lớp người sắp nghỉ hưu có ý nghĩa quyết định

trong tương lai phát triển của ngân hàng. Kinh nghiệm từ các doanh nghiệp

nước ngoài cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên và các cơ sở đào tạo:

trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo... đã mang lại kết quả tốt

cho Ngân hàng về đội ngũ nhân tài trẻ có năng lực và yêu cầu.

Ngân hàng cần thực hiện tốt chế độ thi tuyển để có lớp người mới thực

sự về chất. Những năm qua, việc thi tuyển chủ yếu tập trung vào ngoại ngữ

cần phải đưa ra các môn thi chuyên ngành khác để lựa chọn cho cán bộ có đủ

năng lực toàn diện về chuyên môn và nhận thức xã hội. Có được lớp người

mới, số người cũ sẽ tự đào thải nếu không có ý thức vươn lên và thiếu ý thức

trong công việc. Làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ, SGD sẽ dần khắc phục

tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ như hiện nay.

- Thứ ba: Đối với cán bộ làm tín dụng XNK thì các yêu cầu và tiêu dùng

chuẩn về năng lực cao hơn không những kiến thực nghiệp vụ mà cần trang bị

cho họ trình độ cơ bản về thương mại, pháp luật, ngoại ngữ... nơi nào chưa có

đủ điều kiện về cán bộ thì kiên quyết không cho thực hiện nghiệp vụ thanh

toán quốc tế.

62

3.2.4.2. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng

Công nghệ ngân hàng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức cạnh tranh

của một NHTM. SGD luôn là đơn vị đi đầu trong hệ thống BIDV cũng như

các NHTM trong nước về hiện đại hóa công nghệ NH. Công nghệ tin học của

thế giới ngày nay đang mở ra những cơ hội thuận lợi cho SGD trong chiến

lược hiện đại hoá ngân hàng. Tuy nhiên, công nghệ NH thường xuyên thay

đổi và hiện tại công nghệ NH ở Việt Nam vẫn còn kém xa so với công nghệ

NH thế giới. Trong năm tới, ngân hàng cần tập trung thực hiện từng bước

chiến lược đó như sau:

- Tìm hiểu kỹ lưỡng về các công nghệ NH trên thế giới, lựa chọn công

nghệ NH thích hợp nhất để ứng dụng tại SGD.

- Cử cán bộ ra nước ngoài học tập kinh nghiệm, cách thức sử dụng công

nghệ mới, tổ chức các buổi tập huấn cho cán bộ về cách thức sử dụng, khai

thác công nghệ…

Trong giai đoạn hiện nay, hiện đại hóa công nghệ NH tại SGD cần tập

trung giải quyết những vấn đề sau:

-Thực hiện kế toán giao dịch tức thời tại quầy, kiểm tra kiểm soát từ xa

các nghiệp vụ thị trường liên ngân hàng, quản lý thông tin báo cáo thống kê

và thông tin phòng ngừa rủi ro, quản lý lưu trữ hồ sơ tín dụng, kế toán ngân

hàng. Đảm bảo an toàn hiệu quả nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh

ngoại tệ.

- Tiếp tục phát triển hệ thống kênh phân phối hiện đại như telephone

banking, mobile banking, internet banking để tạo nhiều cơ hội đáp ứng nhu

cầu khách hàng cũng như giúp khách hàng thuận tiện hơn trong quá trình giao

dịch.

- Từng bước hiện đại hoá các phương tiện thanh toán không dùng tiền.

Sử dụng thẻ thanh toán của ngân hàng và doanh nghiệp, thẻ rút tiền tự động,

63

đảm bảo cho khách hàng gửi tiền một nơi mà có thể rút tiền bất cứ Chi nhánh

nào trong cả nước.

- Nâng cấp cơ sở hoạt động và các phương tiện làm việc của ngân hàng.

Công nghệ NH phải đảm bảo nhanh, kịp thời và chính xác nhằm đáp ứng yêu

cầu cao về xử lý thông tin trong lĩnh vực NH.

64

KẾT LUẬN

Những năm qua, trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế theo hướng mở cửa

và đặc biệt là nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp hoạt động

XNK, các NHTM Việt Nam đã có những bước đi tích cực trong việc mở rộng

hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng tốt nhất

những yêu cầu đó.

Cùng với các ngân hàng trong toàn ngành, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu

tư và Phát triển Việt Nam đã không ngừng mở rộng hoạt động cho vay XNK,

khách hàng vay vốn cho hoạt động XNK tại SGD ngày càng tăng về cả số

lượng cũng như giá trị mỗi khoản vay. Dù đã đạt được nhiều kết quả đáng tự

hào nhưng không phải là không có những hạn chế đối với SGD. Khó khăn

xuất phát từ bản thân SGD, từ sự cạnh tranh mạnh mẽ trong hệ thống NHTM

cũng như từ những biến động bất lợi của môi trường kinh tế.

Thấy được những hạn chế đó, với nỗ lực không ngừng và khả năng phát

triển của NH như hiện nay chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng trong tương lai

hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng XNK nói riêng của SGD sẽ phát

triển mạnh mẽ và đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển của ngành NH

cũng như sự phát triển chung của đất nước.

65

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2006), Giáo trình Ngân hàng thương mại,

Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

2. TS. Tô Ngọc Hưng (2000), Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân

hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội.

3. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo (2006), Nghiệp vụ thanh toán quốc tế,

Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

4. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2005), Thanh toán quốc tế - Tài trợ ngoại

thương, Nxb Thống kê, Hà Nội.

5. GS.TS Lê Văn Tư (2000), Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán

quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, Nxb Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh.

6. Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (2006-2008),

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Hà Nội.

7. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về quy chế cho

vay.

8. Lê Ngọc Quỳnh (2008), Hai năm BIDV thực hiện điều 7 quyết định

493: Minh bạch nợ xấu - kết quả ngoài mong đợi, Tạp chí Ngân hàng,

Số 07/2008.

9. Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính,

Hà Nội.

10. Herbert-Jkessler (1993), Tài chính ngoại thương, NXB Khoa học kỹ

thuật, Hà Nội.

66

67