VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ BẢO TRÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI

TRONG CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2020

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ BẢO TRÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI

TRONG CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA

HÀ NỘI - 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO

QUYỀN CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM

TÌNH DỤC ................................................................................................................. 9

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi

trong các vụ án xâm phạm tình dục ..................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục ........................................................................................................................ 9

1.1.2. Đặc điểm về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục ....................................................................................................................... 13

1.1.3. Ý nghĩa bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục ....................................................................................................................... 15

1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền của bị

hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục ....................................... 19

1.2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn tiền khởi tố và khởi tố các vụ án xâm phạm tình dục ........................................................................................................................................... 19

1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục .............. 21

1.2.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các giai đoạn truy tố các vụ án xâm phạm tình dục ........ 23

1.2.4. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử các vụ án xâm phạm tình dục....... 24

Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 27

Chương 2:THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI

TRONG CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC – TỪ THỰC TIỄN TẠI ĐỊA

BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................................... 28

2.1. Tổng quan về các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................. 28

2.1.1. Khái quát chung về các đặc điểm kinh tế, xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................................................................... 28

2.1.2. Tình hình các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ..................................................................................................... 29

2.1.3. Đặc điểm các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................................... 32

2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm

phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .... 40

2.2.1. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục trong giai đoạn tiền khởi tố và khởi tố các vụ án xâm phạm tình dục ........................................................................................................................................... 41

2.2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục trong giai đoạn điều tra ......................................................................... 43

2.2.3. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục trong giai đoạn truy tố ........................................................................... 47

2.2.4. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục trong giai đoạn xét xử ............................................................................ 49

2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc bảo đảm quyền của

bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục .................................. 53

Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 57

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO ĐẢM QUYỀN

CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONGCÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC

................................................................................................................................... 58

3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm

phạm tình dục .......................................................................................................... 58

3.2. Giải pháp góp phần bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục.................................................................................................. 60

3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật ................................. 60

3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường nhận thức về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18

tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục ................................................................... 65

Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 70

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TĂT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT : Cơ quan điều tra

TA: Tòa án

THTT : Tiến hành tố tụng

TA : Tòa án

TAND: Tòa án nhân dân

VKS : Viện kiểm sát

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

XPTD: Xâm phạm tình dục

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

28 Bảng 2.1:

Số vụ án, số bị cáo hình sự đã xét xử và số vụ, số bị cáo xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

29 Bảng 2.2:

Thống kê tình hình các tội xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi xét theo tội danh căn cứ vào số liệu của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

31 Phương thức, thủ đoạn phạm tội Bảng 2.3:

34 Bảng 2.4:

Độ tuổi của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục

35 Bảng 2.5:

Độ tuổi của bị cáo trong các vụ xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi

35 Bảng 2.6:

Trình độ học vấn của bị cáo trong các vụ án xâm phạm tình dục

29 Biểu đồ 2.1: Số vụ phạm tội và số bị cáo trong các vụ xâm phạm tình dục

trẻ em giai đoạn 2015 - 2019

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, đây

được xem là quá trình phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn

thế giới. Ở Việt Nam vấn đề quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước ta coi

trọng thu hút được sự quan tâm của dư luận và có sự tác động mạnh mẽ đến các

quan hệ chính trị, pháp lý, xã hội. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất

khả xâm phạm, nó được thể hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó

có lĩnh vực Tố tụng hình sự (viết tắt là TTHS).

Tố tụng hình sự bao gồm các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành

án hình sự. Đây là những giai đoạn độc lập vì thực hiện những nhiệm vụ khác nhau

nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ thể hiện ở các chủ thể có quan hệ chặt chẽ với

nhau, kiểm sát lẫn nhau để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong hoạt động

TTHS quyền con người chính là quyền dễ bị xâm phạm và tổn thương nhất và hậu

quả để lại cũng nghiêm trọng nhất vì nó liên quan đến quyền sống, quyền tự do và

sinh mệnh chính trị của con người chính vì vậy vấn đề bảo đảm quyền con người

nhất là bảo đảm quyền của bị hại phải được đặt lên hàng đầu.

Trong giai đoạn hội nhập quốc tế như hiện nay, tình hình tội phạm ở nước ta

có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, xuất hiện nhiều loại hình tội phạm mới với

những thủ đoạn tinh vi hơn trước. Trong số đó, tội phạm xâm phạm tình dục đang

có chiều hướng gia tăng. Đáng chú ý, ngày càng xuất hiện nhiều các vụ án XPTD

mà nạn nhân là người dưới 18 tuổi - nhóm đối tượng dễ bị tổn thương do sự phát

triển về thể chất và tinh thần chưa hoàn thiện cũng như khả năng phòng vệ và tự vệ

còn yếu.

Ngoài vai trò chính trị quan trọng (đứng sau Thủ đô Hà Nội), Thành phố Hồ

Chí Minh còn được coi là trung tâm kinh tế của cả nước, nơi mà những tác động

tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường thể hiện rõ nét nhất. Bên cạnh những

thành tựu lớn về kinh tế, văn hóa và xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn đang phải

đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, trong đó có sự gia tăng nhóm tội XPTD

nói chung và XPTD đối với bị hại là người dưới 18 tuổi nói riêng. Qua thực tiễn áp

2

dụng BLTTHS, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đã có những bước tiến rõ rệt;

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến hành tố tụng được quy định

rõ ràng. Tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết và bất cập cả lập pháp, tổ

chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, những người tham gia tố tụng

cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ chế đảm bảo quyền của bị hại là người

dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD chưa rõ ràng, còn nhiều yếu kém nhất định như

quá trình giải quyết vụ án hình sự có dấu hiệu quá tải, các cơ quan THTT vẫn còn

một số thiếu sót nhất định; bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD chưa

có nhận thức đúng đắn về việc tự bảo vệ mình trước sự XPTD…

Trong điều kiên xây dựng nhà nước pháp quyền, quy định mới của hiến

pháp năm 2013, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta yêu cầu cải cách tư

pháp cần phải đảm bảo quyền của trẻ em trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

Chính vì những điều trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục từ thực tiễn Thành phố

Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ chuyện ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con

người trong tố tụng hình sự nói chung và bảo đảm quyền con người của người chưa

thành niên trong tố tụng hình sự nói riêng, trong đó có quyền của bị hại là người

dưới 18 tuổi. Về cơ bản, các công trình này có thể được chia thành hai nhóm sau:

Nhóm các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong tố tụng

hình sự nói riêng. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:

Sách chuyên khảo:

- Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Bảo đảm quyền con người, quyền

công dân – tư tưởng xuyên suốt trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trong

“Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb Chính trị quốc

gia, tr.40.

- Nguyễn Xuân Hà (2016), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên,

trong “Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, (Nguyễn Hòa

Bình chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, tr.352.

3

Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:

- Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam,

tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại

học luật Thành phố Hồ Chí Minh.

- Phan Thị Thanh Tâm (2017), Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người

chưa thành niên trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ luật học, HVKHXH.

- Bùi Bảo Trâm (2008), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

- Ngô Thị Thanh (2013), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử

vụ án hình sự, Đại học quốc gia Hà Nội.

- Võ Thị Khánh Hoài (2015), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong

luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

- Trương Minh Hiếu (2018), Bào chữa chỉ định theo pháp luật tố tụng hình

sự Việt Nam cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh,

Luận văn thạc sĩ Luật học, HVKHXH.

Tạp chí nghiên cứu khoa học:

- Trần Thu Hạnh (2018), “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử

vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học đại học

quốc gia Hà Nội: Luật học, số 3, tr 54 – 59.

- Nguyễn Hải Ninh (2019) “Pháp luật tố tụng hình sự đối với việc bảo đảm

quyền con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp,

số 08.

Các công trình này tập trung phân tích cơ chế bảo đảm quyền con người của

các chủ thể khác nhau trong các hoạt động khác nhau của TTHS. Trong các công

trình này, việc bảo đảm quyền của người chưa thành niên nói chung và bị hại là

người chưa thành niên nói riêng mới chỉ được đề cập ở mức khái lược, mang tính

chất giới thiệu chung chứ chưa khảo cứu sâu hơn.

Khác với nhóm các công trình nghiên cứu trên, nhóm các công trình nghiên

cứu thứ hai tập trung vào chủ đề bảo đảm quyền của đối tượng cụ thể là người dưới

18 tuổi trong TTHS. Trong số đó, có thể kể đến một số công trình như:

4

Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:

- Nguyễn Thị Bích Vân (2016), Bảo đảm quyền con người của người chưa

thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn

Hà Giang), Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

- Vũ Xuân Tân (2018), Bảo vệ quyền trẻ em bị xâm hại tình dục tại các tỉnh

Tây Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh.

- Nguyễn Chí Tâm (2018), Phòng, chống xâm hại trẻ em của công an huyện

Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ luật hoc, Học viện quốc gia Hồ Chí

Minh.

- Nguyễn Hữu Thịnh (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là người dân tộc

thiểu số trong điều tra các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Thanh

Hóa, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh.

Tạp chí nghiên cứu khoa học

- Diệp Huyền Thảo (2015), “Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

trên địa bàn tỉnh Trà Vinh – thực trạng và dự báo”, Tạp chí nhà nước và pháp luật,

số 06, tr. 23 – 29.

- Thái Vũ (2019), “Quy định mới về xét xử vụ án có bị cáo, người bị hại là

người dưới 18 tuổi”, tại trang apchitoaan.vn/bai-viet/cong-dan-va-phap-luat-2/quy-

dinh-moi-ve-xet-xu-vu-an-co-bi-cao-nguoi-bi-hai-la-nguoi-duoi-18-tuoi, truy cập

ngày 12/12/2019.

- Phạm Minh Tuyên (2019), “Một số vấn đề cần chú ý trong việc giải quyết

vụ án hình sự về xâm hại tình dục có người dưới 18 tuổi tham gia tại Tòa án”, tại

tranghttps://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mot-so-van-de-can-chu-y-trong-

viec-giai-quyet-cac-vu-an-hinh-su-ve-xam-hai-tinh-duc-co-nguoi-duoi-18-tuoi-,

truy cập ngày 13/10/2019.

Điểm chung của các công trình này là đi sâu phân tích việc bảo đảm các

quyền con người khác nhau của người chưa thành niên khi tham gia tố tụng hình sự.

Các khía cạnh khác nhau trong cơ chế bảo đảm quyền con người đối với loại đối

5

tượng này đã được phân tích khá chi tiết và chuyên sâu. Tuy nhiên, trong các công

trình này, vấn đề bảo đảm quyền con người của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

XPTD phần lớn xoay quanh hoạt động điều tra, mà ít đề cập đến hoạt động xét xử.

Hơn thế nữa, cũng chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh.

Mặc dù vậy, với các cách tiếp cận đa dạng đối với quyền con người, những

công trình kể trên đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn phong phú và hữu ích để

tác giả có thể tham khảo, kế thừa và phát triển khi hoàn thành luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp

luật và nâng cao thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ các

quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

Một là, nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về bảo đảm

quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD; phân tích vấn đề bảo

đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi theo pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế

giới;

Hai là, phân tích quy định hiện hành của luật TTHS Việt Nam, đánh giá việc

áp dụng pháp luật trong thời gian qua, làm rõ những bất cập, hạn chế về bảo đảm

quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD ;

Ba là, những nội dung cần sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hoàn thiện hơn

nữa pháp luật và hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bảo đảm quyền của bị hại dưới 18

tuổi trong các vụ án XPTD theo pháp luật Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

6

- Phạm vi về nội dung: Vấn đề bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong

các vụ án XPTD có thể khảo sát dưới góc độ luật hình sự hoặc TTHS. Trong luận

văn này tác giả chỉ giới hạn việc nghiên cứu bảo đảm quyền của bị hại là người

dưới 18 tuổi theo luật TTHS Việt Nam

- Phạm vi về thời gian: Các số liệu thống kê được tác giả thu thập trong giai

đoạn từ 2015 đến năm 2019.

- Địa bàn nghiên cứu: Khảo sát nghiên cứu tập trung tại Thành phố Hồ Chí

Minh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước về bảo đảm quyền con người và đặc biệt là bảo đảm quyền của

bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu chung của lĩnh vực khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù đó

là: Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác

nhau, bao gồm các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội nói chung

và chuyên ngành pháp luật về quyền con người nói riêng. Đó là các phương pháp

phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp trong việc bảo đảm quyền của bị hại là người

dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự nói chung. Cụ thể như sau:

- Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử: đây là phương

pháp cơ sở nền tảng cho việc nghiên cứu.

- Trong chương 1 tác giả sử dụng các phương pháp:

+ Phương pháp lịch sử, liệt kê hệ thống hóa vấn đề.

+ Phương pháp phân tích, suy diễn logic, diễn giải, giải thích.

- Trong chương 2 tác giả sử dụng các phương pháp:

+ Phương pháp phân tích, liệt kê, suy diễn logic, giải thích, dẫn chiếu.

+ Phương pháp đánh giá: từ nội dung của những quy định đã được phân tích

7

tác giả đưa ra một số đánh giá ở các khía cạnh khác nhau: tính hợp lý, khả thi cũng

như hiệu quả áp dụng trên thực tiễn.

+ Tác giả sử dụng bản án, quyết định của TA để đánh giá thực trạng bảo

đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD, phân tích những

mặt hạn chế của pháp luật và thực trạng áp dụng thông qua giải thích, suy diễn

logic, đánh giá. Kết hợp với phương pháp so sánh để làm rõ điểm tiến bộ trong quy

định của luật TTHS Việt Nam. Từ đó, tác giả sử dụng phương pháp đánh giá nhằm

đưa ra các khía cạnh hợp lý, khả thi của các quy định pháp luật, thực trạng áp dụng

pháp luật.

- Trong chương 3 của luận văn tác giả sử dụng:

+ Phương pháp liệt kê để đưa ra các quan điểm bảo đảm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

+ Phương pháp suy diễn lo gic, diễn dãi, liệt kê là phương pháp chủ yếu để

tác giả kiến nghị dựa trên cơ sở những bất cập quy định của pháp luật và tăng cường

nhận thức về bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án

XPTD.

Ngoài ra trong quá trình thực hiện luận văn tác giả còn sử dụng các phương

pháp:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp trong chương 1 và chương 2 về các vấn

đề liên quan đến bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án

XPTD, từ đó khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu

trong luận văn. Bằng phương pháp này tác giả đã phân tích những quy định hiện

hành của luật TTHS Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi

trong các vụ án XPTD tại hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Từ đó, tác giả phân

tích những tồn tại, bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành để làm cơ sở cho

những đề xuất, kiến nghị của mình.

- Sau mỗi tiểu mục, mục cuối của mỗi chương cũng như cuối luận văn

tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để đưa ra kết luận trọng tâm về nội

dung đã phân tích. Những kết luận này là kết quả của quá trình tổng hợp

những đặc điểm và nội dung của vấn đề đã đề cập trước đó.

8

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về mặt lý luận, đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về quyền con

người trong tố tụng hình sự của đối tượng bị hại là người dưới 18 tuổi, góp phần

làm rõ những thuật ngữ, khái niệm có liên quan, phân tích, làm rõ những qui định

của pháp luật Việt Nam hiện hành.

Về mặt thực tiễn, đề tài phân tích, nêu rõ những vướng mắc, bất cập của pháp

luật qui định về quyền con người của đối tượng là bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

XPTD. Sau khi phân tích, xác định những vướng mắc, bất cập, Luận văn cũng sẽ đưa

ra những đề xuất, kiến nghị về mặt khoa học trong việc hoàn thiện qui định về quyền

con người của đối tượng là bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trong tương lai,

góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật Việt Nam trong thời gian tới.

Luận văn có thể cung cấp thêm kiến thức cho sinh viên, học viên các trường

học có chuyên ngành Luật, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học

Kiểm sát, Học viện Tòa án, Học viện Tư pháp. Đề tài cũng có thể làm tài liệu tham

khảo cho những người làm công tác giải quyết các vụ án hình sự có đối tượng bị hại

là người chưa thành niên trong thực tế như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán, Luật sư, người bào chữa...

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm quyền của bị hại

dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục

Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ

án xâm phạm tình dục từ thực tiễn tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3. Quan điểm và giải pháp cơ bản góp phần bảo đảm quyền của bị

hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục.

9

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

QUYỀN CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM

TÌNH DỤC

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa bảo đảm quyền của bị hại dưới 18

tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục

1.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục

1.1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi

Ở Việt Nam vấn đề bảo đảm quyền của người dưới 18 tuổi được xác định tại

Điều 37 Hiến pháp năm 2013, Luật trẻ em năm 2016, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung 2017) quy định tại chương XII với tên gọi: “Những quy định đối với người

dưới 18 tuổi” (từ điều 90 đến điều 107), BLTTHS năm 2015 quy định tại chương

XXVIII với tên gọi “thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” (từ điều 413 đến

điều 430) nằm trong phần thứ 7 “thủ tục tố tụng đặc biệt” … và một số văn bản

pháp luật khác có liên quan. Trong đó độ tuổi của trẻ em được quy định như sau:

Điều 1, Luật trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [33,

Điều 1]. Tuy nhiên, quy định này đang được kiến nghị sửa đổi nâng độ tuổi đến

dưới 18 để phù hợp với quy định của Công ước quốc tế về quyền trẻ em nhằm mục

đích tăng mức độ bảo vệ trẻ em cho tất cả những người có độ tuổi dưới 18.

Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định: “Người chưa thành niên là người dưới

18 tuổi” [28, Điều 20, khoản 1] và “Người chưa thành niên là người chưa đủ 18

tuổi” [28, Điều 21, khoản 1]. Trong pháp luật hình sự, Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi,

bổ sung năm 2017 dành hẳn một chương XII để quy định đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội, trong đó tại điều 90 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải

chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác

của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”.

Người dưới 18 tuổi có thể tham gia TTHS với tư cách người bị hại, người

làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Người dưới 18 tuổi là đối tượng

10

được pháp luật bảo vệ đặc biệt. Trong một số trường hợp, hành vi xâm phạm không

bị coi là tội phạm nếu đối tượng bị xâm hại là người đã thành niên, ngược lại hành

vi xâm hại đó sẽ có tội nếu đối tượng đó là người chưa thành niên hoặc trẻ em. Mặc

dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng có thể hiểu như sau: “Người dưới 18

tuổi là người đang trong độ tuổi phát triển, chưa hoàn thiện về mặt sinh lý và tâm

lý, dễ bị tổn thương do các tác động tiêu cực từ môi trường xã hội”.

1.1.1.2. Khái niệm xâm phạm tình dục

Ở Việt Nam các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn

hóa được ghi nhận tại Điều 17 Hiến pháp năm 2013, thể hiện ở 4 cấp độ gồm công

nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm [27]. Bảo vệ danh dự, nhân phẩm, tính mạng

sức khỏe của con người, của công dân là nhiệm vụ của xã hội.

Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: “Tình dục là nhu cầu tự nhiên của con

người về quan hệ tính giao” [14, tr. 98] và “Xâm hại là xâm phạm đến khiến cho bị

tổn hại” [14, tr. 127]. Do vậy, xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi là xâm phạm,

động chạm đến các quyền tự do, quyền tự nhiên của người dưới 18 tuổi về quan hệ

tính giao; xâm phạm đến thân thể, sức khỏe.

Hiện nay, ở Việt Nam, vấn đề XPTD người dưới 18 tuổi cũng được nghiên

cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên cũng chưa có một khái niệm thống nhất

nào được đưa ra. Tại khoản 8, Điều 4 Luật trẻ em năm 2016 quy định rõ: xâm hại

tình dục trẻ em được hiểu là việc “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi

kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp

dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại

dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [33].

Tại báo cáo “Phân tích kết quả kết nối can thiệp các ca trẻ em bị xâm hại

tình dục qua hoạt động của đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em” năm 2008 của

Trung tâm tư vấn và dịch vụ truyền thông - Cục bảo vệ, Chăm sóc trẻ em thuộc Bộ

lao động, Thương binh và Xã hội đã đưa ra một định nghĩa khác như sau: “Xâm hại

tình dục trẻ em là hành vi có chủ ý làm hài lòng nhu cầu tình dục của một người lớn

đối với trẻ em, là sự tham gia của trẻ em vào một hành vi tình dục mà các em chưa

hiểu biết đầy đủ, không thể đồng ý, vi phạm pháp luật và đạo lý xã hội. Hành vi này

11

có thể bao gồm thuyết phục hoặc đe dọa trẻ tham gia vào bất kỳ hành vi tình dục

phi pháp nào; sử dụng trẻ em mang tính bóc lột ấn phẩm khiêu dâm, hiếp dâm trẻ

em”[62, tr.3].

Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và

BLTTHS năm 2015 quy định nếu một người bị nghi là có một trong những hành vi

nêu trên thì sẽ bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử theo quy định của pháp luật

Hình sự. Và để luật hình sự hóa các hành vi XPTD trẻ em của Luật trẻ em năm

2016 thì theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có 05 tội

danh liên quan đến XPTD trẻ em bao gồm: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều

142); Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội giao cấu

hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi (Điều 145); Tội dâm ô với người dưới 16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người

dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); Ngoài ra còn có 03 tội danh quy

định tình tiết phạm tội lạm dụng tình dục trẻ em là dấu hiệu định khung tăng nặng

(trong trường hợp nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi) bao gồm: Tội

chứa mại dâm (Điều 327); Tội môi giới mại dâm (Điều 328); Tội mua dâm người

dưới 18 tuổi (Điều 329).

Tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 06/2019 ngày 1 tháng 10 năm 2019 của

Hội đồng thẩm phán tòa án tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các

điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS về việc xét xử vụ án xâm hại tình

dục người dưới 18 tuổi giải thích về xâm hại tình dục như sau: “Xâm hại tình dục

người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ

người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục bao gồm hiếp

dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm,

khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục thực hiện do đồng

thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền,

tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội

tiến bộ...)” [59].

Như vậy, ta có thể đưa ra định nghĩa: “Các tội XPTD người dưới 18 tuổi là

những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực

12

hiện một cách cố ý trực tiếp biểu hiện ở hành vi XPTD đối với nạn nhân là người

dưới 18 tuổi”.

1.1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục

Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng định nghĩa quyền là: “điều mà pháp luật

hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [14, tr.63 ].

Quyền cơ bản của mỗi công dân được quy định trong Hiến pháp nước cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Quyền của người tham gia tố tụng hình sự, đặc

biệt là bị hại được quy định trong chính sách hình sự của quốc gia đó.

Cũng theo từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” là: “Làm cho chắc chắn thực hiện

được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [14, tr. 23].

Theo quy định tại điều 62 BLTTHS năm 2015 về bị hại thì: “Bị hại là cá

nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị

thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. [31]

Tại Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đưa ra khái niệm “Người bị

hại” theo đó “Người bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản

do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt

hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản. Nếu người bị hại là người chưa thành

niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ

của họ với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại”. Trong trường hợp

người bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị hại tham gia tố tụng với

tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại và có những quyền của người bị hại,

tuy nhiên trong BLTTHS năm 2015 thuật ngữ “Người bị hại” trong BLTTHS năm

2003 đã được thay thế bằng thuật ngữ “Bị hại” trong đó khái niệm bị hại mở rộng

hơn đối tượng bao gồm công dân và pháp nhân. (BLTTHS năm 2003 quy định

người bị hại chỉ có công dân)

Bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trẻ em là

thành tố quan trọng để vụ án được xét xử khách quan, công bằng thông qua đó góp

phần xây dựng nhà nước pháp quyền, thượng tôn công lý trong xã hội toà án.

Bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được thể hiện trên

13

ba phương diện, đó là: Thứ nhất, hình thành hệ thống pháp luật quốc gia trên cơ sở

các tiêu chí quốc tế về quyền con người; Thứ hai, có các biện pháp bảo đảm thực thi

có hiệu quả pháp luật về quyền con người; Thứ ba, có cơ chế giám sát thực thi

quyền con người [80, tr.56].

Bảo đảm quyền của người bị hại trong các vụ án XPTD trẻ em gắn với

phương thức sống của cá nhân, các mối quan hệ xã hội và các hoạt động sống của

con người trong xã hội. Những quyền cần thiết và cơ bản để con người tham gia vào

quá trình sống và được nhà nước công nhân đó là: quyền được sống, quyền được

tôn trọng danh dự nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về thân thể…

Bảo vệ chăm sóc giáo dục người dưới dưới 18 tuổi là vấn đề được Đảng và

Nhà nước ta quan tâm trong suốt sự nghiệp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

để phù hợp với pháp luật quốc tế và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Chính

sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi là bị hại trong các vụ án XPTD thể hiện ở

sự thống nhất trong những quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp,

về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền của người dưới 18 tuổi theo những

tính chất, đặc thù vốn có.

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bảo đảm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD như sau: “Bảo đảm quyền của bị hại dưới

18 tuổi trong các vụ án XPTD là bảo đảm những quyền đặc thù chỉ dành cho nhóm

đối tượng này, là đối tượng cần chăm sóc đặc biệt bởi chưa phát triển đầy đủ về thể

chất và tâm thần đồng thời Nhà nước phải có nghĩa vụ ghi nhận trong Hiến pháp và

hệ thống pháp luật quốc gia, được Nhà nước đảm bảo thực hiện và bảo vệ khi bị

xâm hại”.

1.1.2. Đặc điểm về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục

Bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trẻ em được

thể hiện thông qua những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, Chủ thể bảo đảm

14

Bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trẻ

em xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người nói chung chính là việc đảm bảo

tính hiện thực của quyền này đã được pháp luật thừa nhận.

Đảng và Nhà nước ta đã ghi nhận việc bảo đảm quyền của bị hại là người

dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trẻ em trong TTHS vừa là quan điểm nhất quán

của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời với việc thừa nhận đó cũng có nghĩa Nhà nước

phải có nghĩa vụ bảo đảm bằng biện pháp pháp lý mà còn bằng những bảo đảm

bằng chính trị, xã hội và kinh tế. Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật TTHS để

bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD, đồng thời

thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa

án bảo đảm quyền này trong suốt quá trình tố tụng. Như vậy, chủ thể bảo đảm

quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trước hết là các cơ

quan xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS.

Tuy nhiên, ngoài ra việc bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi

trong các vụ án XPTD còn thông qua: người bào chữa, Uỷ ban mặt trận Tổ quốc

Việt Nam, gia đình, nhà trường, đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…

Thứ hai, về đối tượng bảo đảm

Bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD có đầy đủ các quyền như

bị hại là người chưa thành niên. Bên cạnh đó họ còn được bảo đảm những quyền

đặc thù để có thể bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình đó là:

Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của

con người nói chung trong đó có quyền của người dưới 18 tuổi. Đây là quyền hiến

định. Do đó, bị hại là người chưa thành niên khi bị XPTD, bị bạo hành hoặc bị mua

bán sẽ được giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời [31, Điều 20].

Quyền được điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với tâm lý, lứa tuổi [31, khoản 1

Điều 414]. Hiện nay người chưa thành niên đặc biệt là bị hại trong các vụ án XPTD

đã được các cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp

của mình như việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên đây là bước tiến

lớn trong việc xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho hoạt động tố tụng phù hợp với

tâm lí của người chưa thành niên như phòng lấy lời khai, phòng xử án thân thiện

15

được quy định tại Thông tư số 01/2017/TT – TANDTC quy định về phòng xử án.

Các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ đứng dưới góc độ pháp luật mà còn phải

đứng dưới góc độ chuyên môn như tâm lý học và giáo dục học để làm sáng tỏ

nguyên nhân và bối cảnh giải quyết của vụ việc. Việc xây dựng hệ thống tư pháp

thân thiện với người dưới 18 tuổi là một trong những giải pháp bảo đảm quyền của

bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD, phù hợp với các chuẩn mực

quốc tế về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được thể hiện trong Công ước

của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn bản mà Việt Nam đã tham gia và

cam kết thực hiện được thể hiện trong các văn bản pháp luật hình sự, tố tụng hình

sự, hàng loạt các chế định mang tính cá biệt nhằm đảm bảo quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi.

Quyền ưu tiên được đảm bảo giữ bí mật thông tin cá nhân của người dưới 18

tuổi [31, khoản 2 Điều 414] Mọi hoạt động tố tụng liên quan đến người dưới 18

tuổi cần được tiến hành trong môi trường thuận tiện cho việc đảm bảo bí mật đời tư,

danh dự, nhân phẩm của họ.

Quyền có sự hiện diện bắt buộc của những người tiến hành tố tụng và người

tham gia tố tụng [31, khoản 3 Điều 414] có hiểu biết về người dưới 18 tuổi đó là

người đại diện, người bào chữa, người bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đại diện

Nhà trường, Đoàn thanh niên và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải có mặt

và tham gia đầy đủ các hoạt động tố tụng theo quyết định hoặc theo yêu cầu của cơ

quan THTT, người có thẩm quyền THTT. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là

Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi được phân công tiến

hành tố tụng, hội thẩm nhân dân phải nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

người dưới 18 tuổi đây là những người phải có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lí, đã

được tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có sự

tham gia của người dưới 18 tuổi.

1.1.3. Ý nghĩa bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm

phạm tình dục

1.1.3.1. Thể hiện sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các

Công ước quốc tế về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm

16

phạm tình dục

Ở Việt Nam, việc tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế nói chung, trong đó

có các điều ước quốc tế về quyền con người được quy định cụ thể trong Luật Điều

ước quốc tế năm 2016. Theo Điều 76, Luật Điều ước quốc tế: "Thủ tướng Chính

phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, phê duyệt kế hoạch thực hiện, quyết định biện

pháp chỉ đạo, điều hành hoặc biện pháp khác để thực hiện điều ước quốc tế”.

Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á, thứ hai trên thế giới phê chuẩn công

ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Việc phê chuẩn Công

ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em là cam kết chính trị mạnh mẽ của nước ta đảm

bảo cho trẻ em có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Việc vận dụng các giá trị, tư tưởng tiến bộ của nhân loại về bảo đảm quyền

của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trẻ em là một nỗ lực lớn của

Đảng và Nhà nước, mặt khác đó là một thành tích được cộng đồng quốc tế ghi nhận

và đánh giá cao. Việc tham gia công ước này thể hiện quyết tâm cao độ của Việt

Nam trong việc thúc đẩy và tôn trọng các nhân quyền cũng như các quy định của

pháp luật quốc tế về nhân quyền. Việc vận dụng, phát triển các quan điểm chung

của cộng đồng quốc tế có tính đến bối cảnh đặc thù về dân tộc, lịch sử, văn hóa,

chính trị của nước toà án nhằm bảo vệ đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương trong xã

hội. Việt Nam đã xây dựng Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới luật phù hợp với

các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.

Phát triển quan điểm của các quốc gia có nghĩa vụ hàng đầu trong việc bảo

đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi, Việt Nam đã đẩy mạnh nghiên cứu

nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ của các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước như: Quốc hội,

Chính Phủ, TAND, VKSND, chính quyền địa phương, cán bộ, công chức, viên chức

nhà nước và trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội, nghề nghiệp; trách nhiệm

của thiết chế truyền thông, báo chí trong định hướng dư luận xã hội liên quan đến

vấn đề này.

Đảng và Nhà nước đã nghiên cứu để giám sát và ngăn ngừa tình trạng vi

phạm quyền con người, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm quyền con

17

người, quyền công dân trên các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt trong tư pháp hình

sự, bảo vệ quyền của người tham gia tố tụng là bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

XHTD trẻ em và có sự hỗ trợ kịp thời đối với nạn nhân khi xảy ra vụ việc. Mặt

khác, đã hướng tới xây dựng cơ quan chuyên trách về quyền con người, phù hợp

với chuẩn mực pháp lý quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam.

Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã chủ động tham gia vào các diễn đàn

và hoạt động quyền con người khu vực cũng như toàn cầu. Đảng toà án luôn khẳng

định, việc bảo đảm quyền con người là một mục tiêu, động lực của cách mạng, là

trách nhiệm lớn của Đảng và Nhà nước. Trong bối cảnh mới Đảng nêu rõ: "Chủ

động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn,

tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế đất nước (…) là bạn, là đối tác tin cậy

và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế" [2, tr 152 - 153].

1.1.3.2. Góp phần thực thi hiệu quả quyền của người bị hại dưới 18 tuổi bị

xâm hại tình dục trong tố tụng hình sự

Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý,

là những đối tượng dễ bị tổn thương, vì vậy trong quá trình giải quyết các vụ án

hình sự đối với người dưới 18 tuổi cần phải bảo đảm quyền và lợi ích của họ theo

quy định pháp luật. Xuất phát từ ý nghĩa nhân văn, BLTTHS năm 2015 đã dành hẳn

một chương với tên gọi "Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi" nằm trong

phần thứ bảy "Thủ tục tố tụng đặc biệt" với nhiều nội dung mới được sửa đổi, bổ

sung. Dù tham gia với tư cách nào thì người chưa thành niên cũng được hưởng sự

bảo vệ đặc biệt: Một là, sự bảo vệ chung như những người tham gia tố tụng khác;

Hai là, sự bảo vệ đặc biệt dành riêng cho người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em

tham gia tố tụng hình sự. Các chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước toà án

đối với người dưới 18 tuổi đã và đang làm hài hòa các văn kiện quốc tế về người

chưa thành niên mà Việt Nam là thành viên như Công ước quyền trẻ em và các

chuẩn mực quốc tế khác có liên quan, như Nghị định thư không bắt buộc của Công

ước quyền trẻ em về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em, Quy tắc chuẩn tối thiểu của

Liên Hợp quốc về quản lý tư pháp người chưa thành niên.

Thực tiễn hiện nay cho thấy những vụ việc XPTD người dưới 18 tuổi ngày

18

càng diễn biến phức tạp về quy mô và cách thức thực hiện. Đây là vấn nạn trên toàn

Việt Nam, hậu quả mà các em gánh chịu là những tổn thất về sức khỏe thể chất và

tinh thần, làm giảm khả năng học tập, hòa nhập xã hội và thậm chí có thể hủy hoại

tương lai của các em. Trong nhiều năm qua, Nhà nước và các cơ quan ban ngành đã

có nhiều biện pháp để phòng chống, giảm thiểu và đẩy lùi hiện tượng XPTD trẻ em

này.

1.1.3.3. Góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay

Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Thực hiện quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; gắn

quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội, Đảng, Nhà nước có cơ chế,

chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân theo

phương hướng: Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con

người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người,

tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước toà án ký

kết” [2].

Hiện nay, sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

và hội nhập quốc tế đến công tác bảo đảm quyền con người, nhất là bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD, vẫn chuyển biến theo cả hướng tích

cực lẫn tiêu cực. Trong điều kiện như vậy, công tác này đã đạt được những thành

tựu rất quan trọng. Để có được điều đó là do các chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền

con người, trước hết và chủ yếu là Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đã

tích cực và chủ động thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con người; hệ thống thiết

chế và thiết chế bảo đảm quyền con người được xây dựng theo hướng hoàn thiện;

sự tham gia tích cực của con người và các tổ chức xã hội vào công tác bảo đảm

quyền con người.

Việc bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong vụ án XPTD trẻ

em trên thực tế còn tồn tại nhiều bất cập về tổ chức, hoạt động của một số thể chế

liên quan đến quyền con người. Chính việc nhìn nhận những mặt tích cực và tiêu

cực như vậy sẽ cho phát huy được những mặt tích cực, đồng thời đề ra được những

19

giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay, nhất là

bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ XPTD.

1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục

1.2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn tiền khởi tố và khởi tố các vụ án xâm

phạm tình dục

Khởi tố vụ án hình sự được xác định là giai đoạn mở đầu trong quá trình tố

tụng hình sự. Trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu

hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn

này bắt đầu khi phát hiện những nguồn thông tin về tội phạm và kết thúc khi cơ

quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Điều 18

BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong

phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có

trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác

định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội” [31].

Bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn tiền khởi tố

và khởi tố được thể hiện qua những nội dung sau:

- Thứ nhất, đảm bảo giải quyết vụ án, vụ việc nhanh chóng, kịp thời. Tại

Điều 13 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT – VKSNDTC- TANDTC- BCA –

BTP- BLĐTBXH về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố

tụng đối với người dưới 18 tuổi: Đối với vụ việc có bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại

tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì cơ quan có thẩm quyền THTT, người có

thẩm quyền THTT phải phối hợp chặt chẽ với nhau và phối hợp với các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có liên quan ngay từ khi phát hiện nguồn tin về tội phạm, khẩn

trương kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, bảo

đảm giải quyết vụ án, vụ việc nhanh chóng, kịp thời, trong thời gian ngắn nhất. Độ

tuổi dưới 18 tuổi là một độ tuổi hết sức nhạy cảm, Việt Nam với cương vị đã tham

gia công ước về quyền trẻ em. Điều này được đề ra để phù hợp với tâm sinh lý,

những tâm tư tình cảm khác biệt đang trong giai đoạn phát triển chỉ có ở người dưới

20

18 tuổi nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho họ đặc biệt là bị hại là người dưới 18 tuổi

trong các vụ án xâm phạm tình dục.

- Thứ hai, khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Cơ quan THTT chỉ được quyền

khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc đại diện của bị hại và họ chỉ

được quyền rút yêu cầu khởi tố thuộc một trong các tội danh được liệt kê tại khoản

1 Điều 155 của BLTTHS năm 2015: chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy

định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 266 của Bộ

luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) [31]. Bảo vệ bị hại không chỉ đơn thuần

là đưa ra pháp luật và trừng trị người phạm tội mà còn phải xem xét đến mong

muốn của bị hại liên quan đến vấn đề xử lý người phạm tội như thế nào. Nếu bị hại

hoặc người đại diện của họ đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại,

trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. Thực tế hiện nay có trường

hợp phạm tội ít nghiêm trọng, gây hậu quả không lớn khi xảy ra thường ít khi khởi

tố, điều tra vì nhiều vụ việc bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại không muốn

giải quyết công khai vụ việc bằng thủ tục tố tụng vì sợ ảnh hưởng đến uy tín, danh

dự, nhân phẩm của mình hoặc vì giữa bị hại và người gây thiệt hại có mối quan hệ

đặc biệt hoặc tốn kém thời gian và chi phí hay trong nhiều trường hợp bị hại chỉ

quan tâm đến bồi thường về dân sự…

- Thứ ba, tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố được BLTTHS năm 2015 quy định thành một chương riêng (Chương IX), ngày

29/12/2017[31], Liên ngành Trung ương cũng đã ban hành thông tư liên tịch số

01/2017/TTLT – BCA – BQP – BTC – BNN & PTNT – VKSNDTC hướng dẫn áp

dụng. Cụ thể nguồn tin về tội phạm được quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 4

BLTTHS năm 2015. Đối với những vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi trong các

vụ án XPTD thì việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có vai trò đặc biệt quan

trọng. Đây là những đầu mối, căn cứ đầu tiên để cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra,

xác minh từ đó quyết định có ban hành hay không ban hành quyết định khởi tố vụ

án hình sự. Giai đoạn này Viện kiểm sát phải chủ động phối hợp với Cơ quan điều

tra, kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố; đảm bảo việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can cũng như việc không khởi

21

tố vụ án hình sự, kịp thời, có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai, hạn chế bỏ lọt

tội phạm…

1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục

Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn TTHS thứ hai mà trong đó cơ quan điều

tra phải căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của Viện

kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và cùng cố các chứng cứ,

nghiên cứu các tình tiết của vụ án phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng

như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự,

đồng thời bảo đảm bảo cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây

nên. Đảm bảo quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình

dục theo quy định của BLTTHS Việt Nam được thể hiện qua những nội dung như

sau:

Thứ nhất, về người tiến hành tố tụng. Theo điều 415 Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 quy định: “Người tiến hành tố tụng đối với vụ án có người dưới 18 tuổi

phải là người được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên

quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với

người dưới 18 tuổi”. [31]

Theo Điều 5 Thông tư số 06/2018/TTLT số 06/2018/TTLT – VKSTC –

TANDTC – BCA – BTP- BLĐTBXH củaViện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án

nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội hướng dẫn thi

hành một số quy định của BLTTHS đối với người dưới 18 tuổi: Điều tra viên, Cán

bộ điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi được phân công THTT đối với vụ án có

người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi phải có ít nhất một trong các điều kiện

sau đây: Có kinh nghiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến

người dưới 18 tuổi; Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các

vụ án hình sự tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi; Đã được đào tạo, tập huấn, bồi

dưỡng về tâm lý, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Việc quy định về

người tiến hành tố tụng đảm bảo cho quá trình tố tụng được diễn ra khách quan,

công bằng và đảm bảo quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án

22

XPTD.

Thứ hai, về lấy lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều

tra các vụ án XPTD. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ

tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trẻ

em. Nơi lấy lời khai có thể thực hiện tại nơi học tập, lao động và sinh hoạt của

người đó hoặc nơi tiến hành điều tra. Trường hợp lấy lời khai tại nơi điều tra, truy

tố, xét xử thì phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời khai đảm bảo thân thiện, phù hợp với

tâm lý người dưới 18 tuổi [59, Khoản 1 Điều 14].

Bảo đảm việc lấy lời khai phải theo đúng trình tự, thủ tục, thời gian, bảo đảm

sự tham gia của người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người dưới 18 tuổi; thực hiện đúng trình tự, thủ tục ghi âm hoặc ghi hình

có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử [59, Khoản 2 Điều 14].

Đối với bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD, bị bạo hành hoặc

bị mua bán thì việc lấy lời khai của họ phải được tiến hành ngay sau khi tiếp nhận

nguồn tin về tội phạm. Địa điểm lấy lời khai phải ưu tiên tại nơi cư trú của người

đó, nếu không có nơi cư trú thì phải tiến hành tại cơ sở chăm sóc trẻ em.

Khi tiến hành lấy lời khai người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có thái

độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với độ tuổi, giới tính,

khả năng nhận thức của họ; xem xét áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm đến

mức thấp nhất về thời gian, số lượng lần lấy lời khai, hỏi cung. [59, Khoản 3 Điều

14]

Điều tra viên, Kiểm sát viên phải kiểm soát chặt chẽ việc hỏi của người đại

diện; yêu cầu không được hỏi và phải dừng ngay việc hỏi đối với những câu hỏi có

tính chất gợi ý, định hướng hoặc có tính chất khẳng định, phủ định liên quan đến vụ

án. Trường hợp phát hiện người đại diện, người bào chữa có dấu hiệu thông cung,

mớm cung phải lập tức yêu cầu họ dừng ngay việc hỏi và lập biên bản, báo cáo

người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật [59, Khoản 4 Điều 14].

Thứ ba, quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ cần phải tiến hành nhanh

chóng, kịp thời kịp thời thu giữ các dấu vết đặc biệt là lông, tóc, sợi, dịch, máu,

quần áo, công cụ trong các vụ án XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi. Phối hợp

23

với các bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý, bác sĩ chuyên khoa phụ sản, cán bộ đã được

đào tạo chuyên môn về quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em để xử lý thông tin ban

đầu, thăm khám, thu thập dấu vết vật chứng có liên quan trên thân thể nạn nhân để

tiến hành giám định pháp y trong thời gian nhanh nhất nhằm kết luận có hay không

có dấu hiệu XPTD. Công tác khám nghiệm hiện trường phải kịp thời, tỉ mỉ, toàn

diện để đánh giá lời khai của bị hại có căn cứ hay không, để làm căn cứ đấu tranh

với bị can vì đây là chứng cứ quan trọng để truy nguyên đối tượng. Cơ quan điều tra

và Viện kiểm sát cần phải có sự phối hợp chặt chẽ trong giai đoạn này. Kịp thời đề

nghị cơ quan có thẩm quyền cử người giám hộ, người đại diện, người thực hiện trợ

giúp pháp lý, người bào chữa, bào chữa viên nhân dân để tham gia tố tụng với bị hại

là người dưới 18 tuổi.

Thứ tư, về xác định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi được quy định tại

Khoản 1 Điều 14 BLTTHS năm 2015 như sau: “Việc xác định tuổi của người bị

buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện

theo quy định của pháp luật”[31]. Và khoản 2, khoản 3 Điều 14 của BLTTHS năm

2015 cũng có quy định về các trường hợp áp dụng các biện pháp hợp pháp mà

không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh và không xác định được năm

sinh đây là điểm mới so với BLTTHS năm 2003 đã quy định một nguyên tắc thống

nhất trong việc xác định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD

nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính dáng cho những người này.

1.2.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong các giai đoạn truy tố các vụ án xâm phạm tình dục

Truy tố là một giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn

truy tố được bắt đầu khi VKS nhận được các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả

kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và kết thúc bằng việc

VKS ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước tòa bằng bản cáo

trạng (kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hay tạm đình

chỉ vụ án hình sự. Truy tố là hoạt động thực hành quyền công tố của VKS sau khi

kết thúc giai đoạn điều tra. Quy định của BLTTHS năm 2015 về bảo đảm quyền của

bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn truy tố các vụ án XPTD được thể hiện

24

qua những nội dung sau:

Thứ nhất, về việc phân công kiểm sát viên. Theo quy định tại điều 415

BLTTHS năm 2015 đối với các vụ án XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi phải

phân công kiểm sát viên có trình độ, năng lực để thực hành quyền công tố, kiểm sát

điều tra, xét xử các loại án này, đồng thời phải hiểu biết về tâm sinh lý trẻ em, người

dưới 18 tuổi, hoàn cảnh sống của họ… để giải quyết tốt vụ án.

Thứ hai, đảm bảo quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong việc ra quyết

định truy tố. Điều 243 BLTTHS năm 2015, quy định cụ thể về việc VKS quyết định

truy tố bị can trước TA bằng bản cáo trạng. Bản cáo trạng là căn cứ đầu tiên để xác

định phạm vi và cơ sở cho TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đảm bảo cho quá

trình truy tố chặt chẽ hơn; đánh giá được đầy đủ, đúng đắn tính chất, mức độ thiệt

hại do tội phạm gây ra; giúp cho Kiểm sát tranh tụng, luận tội tại phiên tòa có căn

cứ pháp lý, góp phần để TA đưa ra quyết định đúng pháp luật bảo đảm quyền của bị

hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

Thứ ba, việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Tại khoản 3 Điều 245

BLTTHS năm 2015 quy định: sau khi Viện kiểm sát trả hồ sơ yêu cầu cơ quan điều

tra bổ sung thì cơ quan điều tra phải thực hiện đầy đủ những yêu cầu như quyết định

trả hồ sơ của VKS… và ngoài quy định của BLTTHS thì vấn đề này cũng được quy

định tại Thông tư số 02/2017/TTLT – VKSNDTC – BCA – BQP ngày 22/07/2017

quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan THTT trong việc thực hiện một số quy

định của BLTTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung. Vấn đề này để đảm bảo xác định sự

thật khách quan, toàn diện của vụ án. Đảm bảo cho các cơ quan, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thực hiện

đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS bảo về quyền và lợi ích của bị hại

là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

1.2.4. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử các vụ án xâm phạm tình dục

Một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2015 là những quy định về

bảo đảm quyền con người trong TTHS. PGS. TS Nguyễn Hòa Bình đã nhận xét:

“Đặc biệt những yêu cầu của Hiến pháp về dân chủ, pháp quyền, tôn trọng, bảo vệ,

25

bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được thể hiện sâu sắc trong Bộ luật”

[1, tr.40].

Xét xử là giai đoạn quan trọng trong tố tụng hình sự, được bắt đầu từ khi TA

nhận được hồ sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước TA kèm theo bản

cáo trạng) do VKS chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu

lực pháp luật của TA. Hiện nay Nghị quyết số 06/2019/NQ – HĐTP nghị quyết

hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147

của BLHS về việc xét xử các vụ án XPTD đã tháo gỡ những khó, khăn vướng mắc

trước đây trong việc xét xử các vụ án XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi. Quy

định của BLTTHS về bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai

đoạn xét xử các vụ án XPTD được thể hiện qua các nội dung:

Thứ nhất, Về thẩm quyền xét xử, việc xét xử các vụ án có bị hại là người

dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người

chưa thành niên được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 02/2018/ TT –

TANDTC ngày 21/09/2018 của Chánh án TAND tối cao quy định chi tiết việc xét

xử vụ án hình sự có người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người

chưa thành niên.

Thứ hai, Về phòng xử án, tại khoản 4 Điều 423 BLTTHS năm 2015 quy

định: “Phòng xử án được bố trí thân thiện, phù hợp với người dưới 18 tuổi”. Phòng

xử án đảm bảo tiêu chí thân thiện là Phòng xử án giải quyết các vụ việc thuộc thẩm

quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên quy định tại Điều 6 của Thông tư

số 01/2017/TT – TANDTC ngày 28/07/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

quy định về phòng xử án: “1. Vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham

gia tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được bố trí trên

cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án có

màu xanh. Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh người

đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 2. Bàn,

ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng, bàn ghế văn phòng. 3. Ngoài

các quy định tại điều này; phòng xử án giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của

Tòa gia đình và người chưa thành niên phải đảm bảo quy định tại Điều 4 và Điều 5

26

Thông tư này”. Phòng xử án theo không gian mới sẽ tác động tâm lý tốt tới người

dưới 18 tuổi, không làm họ hoảng sợ, việc khai báo sẽ chính xác hơn, góp phần đảm

bảo chất lượng xét xử vụ án của TA được nâng cao. Phòng xử án thân thiện là một

trong những bước cải cách tư pháp để thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam về

bảo vệ các quyền trẻ em, người dưới 18 tuổi đã được ghi nhận trong các văn kiện

quốc tế và Việt Nam là thành viên.

Thứ ba, về thành phần tham gia xét xử, khoản 1 Điều 423 BLTTHS năm

2015 quy định: “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm

là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm

lý người dưới 18 tuổi”[31]. Người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18

tuổi là người có thâm niên công tác trong các lĩnh vực tư pháp, quản lý, đào tạo, bảo

vệ, chăm sóc và giáo dục người dưới 18 tuổi; người được đào tạo về giáo dục thanh,

thiếu niên, nhi đồng hoặc những người khác có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người

dưới 18 tuổi.

Khi phân công thẩm phán phải đảm bảo đúng quy định tại khoản 1, Điều 6

Thông tư số 02/2018/TT – TANDTC ngày 21 tháng 09 năm 2018 quy định chi tiết

về xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm

quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên: “Thẩm phán là người có kinh

nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo,

tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”.

Ngoài ra còn có quy định về trang phục của Thẩm phán tại điểm b, khoản 1

Điều 7 của thông tư số 02/2018/TT – TANDTC là mặc trang phục hành chính làm

và việc của Tòa án nhân dân (không mặc áo choàng).

Thứ tư, về bản án, quyết định của Tòa án, khi xét xử các vụ án XPTD người

dưới 18 tuổi, TA phải xét xử kín, tuyên án công khai theo đúng quy định tại Điều

325 của Bộ luật tố tụng hình sự. Khi tuyên án, Hội đồng xét xử chỉ đọc phần quyết

định trong bản án. Khi xét xử các vụ án XPTD người dưới 18 tuổi, không được yêu

cầu bị hại là người dưới 18 tuổi tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội; không sử

dụng câu hỏi có tính chất công kích, đe dọa, gây xấu hổ, xúc phạm bị hại; không đối

chất giữa bị hại với người phạm tội tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án liên

27

quan đến vụ án trên cũng không được công khai trên cổng thông tin điện tử của Tòa

án [Khoản 2 Điều 7, 59].

Thứ năm, Việc tiếp xúc giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với bị cáo được quy

định cụ thể tại Điều 10 thông tư số 02/2018/TT – TANDTC. Bị hại là người dưới

18 tuổi trong các vụ án XPTD là đối tượng dễ bị tổn thương. Để bảo đảm quyền và

lợi ích cho người dưới 18 tuổi trong các vụ án này, Hội đồng xét xử đã cách ly bị

hại đối với bị cáo. Đây là một biện pháp thể hiện sự nhân đạo của pháp luật đối với

người dưới 18 tuổi. Trong quá trình xét xử, bị hại sẽ được tham gia phiên tòa ở

phòng cách ly. Để bảo đảm cho họ vẫn có thể theo dõi diễn biến phiên tòa, thực

hiện quyền, nghĩa vụ của mình đầy đủ, thông tìn về phiên tòa sẽ được truyền qua hệ

thống truyền hình trực tuyến có âm thanh hoặc phương thức khác. Trong phòng

cách ly, bị hại sẽ được hỗ trợ bởi: người đại diện, người giám hộ; chuyên gia hoặc

cán bộ tâm lý, xã hội; người làm công tác bảo vệ trẻ em.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1 của luận văn tác giả đã trình bày những nội dung cụ thể như

sau:

Thứ nhất, trên cơ sở phân tích những quan điểm tác giả đã đưa ra khái niệm

người dưới 18 tuổi, xâm hại tình dục, đảm bảo quyền của bị hại là người dưới 18

tuổi trong các vụ án XPTD; đặc điểm về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi

trong các vụ án XPTD; ý nghĩa bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ

án XPTD.

Thứ hai, làm rõ những quy định của BLTTHS Việt Nam về bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD thông qua những nội dung: quy định

của BLTTHS Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn

tiền khởi tố và khởi tố; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử các vụ

án XPTD.

Những vấn đề lý luận đã nêu ở nội dung chương 1 sẽ là nền tảng để tác giả

tiếp tục nghiên cứu nội dung chương 2.

28

Chương 2

THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG

CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC – TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ

CHÍ MINH

2.1. Tổng quan về các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên

địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

2.1.1. Khái quát chung về các đặc điểm kinh tế, xã hội của Thành phố Hồ

Chí Minh

Trong giai đoạn 2015 - 2019 tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

của đất nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng tiếp tục được giữ

vững và ổn định, nhưng tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp; các tranh chấp

dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân - gia đình, lao động vẫn có xu hướng gia

tăng. Cùng với yêu cầu làm tốt công tác giải quyết xét xử các loại vụ án, các Cơ

quan tiến hành tố tụng còn phải tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách

tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW và Kết luận

số 92-KL/TW của Bộ Chính trị; hoàn thành các chỉ tiêu công tác theo tinh thần

Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội; Nghị quyết số 01-

NQ/BCS, ngày 26/01/2018 của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao; Chỉ thị số

01/2018/CT-CA ngày 26/01/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cũng như

các nhiệm vụ chung của thành phố đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội

lần thứ X của Đảng bộ; một số nội dung về cơ chế đặc thù của Thành phố Hồ Chí

Minh đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết 54/2017/QH14 ngày 24/11/2017.

Tháng 04/2016, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên thành lập

Tòa gia đình và người chưa thành niên. Đây là giải pháp nâng cao chất lượng hiệu

quả toà án nói chung, công tác xét xử giải quyết các vụ XPTD người dưới 18 tuổi

nói riêng. Bên cạnh đó sẽ nâng cao vai trò của gia đình tạo điều kiện cho người

chưa thành niên phát triển nhân cách và thể chất; góp phần vào sự ổn định chung

của xã hội. Việc triển khai mô hình Tòa gia đình và người chưa thành niên là một

trong những dấu ấn quan trọng của tiến trình cải cách tư pháp, chứng tỏ cam kết

29

mạnh mẽ của Việt Nam trong tiến trình bảo vệ quyền của bị hại là người dưới 18

tuổi trong các vụ XPTD trẻ em. Là bước đi cụ thể của Việt Nam để thực hiện các

cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ các quyền của trẻ em, người chưa thành

niên đã được ghi trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là

Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1990, phù hợp với mô hình tổ

chức toà án của nhiều quốc gia trên thế giới, đồng thời đây cũng là phương thức để

thực hiện nguyên tắc hiến định về việc xét xử kín đối với người chưa thành niên

theo quy định tại khoản 3 điều 103 của Hiến pháp năm 2013.

Thời gian qua, tình trạng tội phạm XPTD và bạo hành trẻ em diễn biến phức

tạp, có xu hướng gia tăng, nhiều vụ việc nghiêm trọng xảy ra gây bức xúc trong dư

luận xã hội. Bên cạnh đó, việc triển khai các quy định của BLHS, BLTTHS, các đạo

luật có liên quan và các hướng dẫn thi hành trong thực tiễn điều tra, truy tố xét xử

cũng phát sinh một số vướng mắc.

2.1.2. Tình hình các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh

Tình hình giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ XPTD người

dưới 18 tuổi nói riêng được thể hiện rõ nét trong báo cáo tổng kết của các cơ quan

tiến hành tố tụng Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2015 - 2019, cụ thể như

sau:

Bảng 2.1. Số vụ án, số bị cáo hình sự đã xét xử và số vụ, số bị cáo xâm phạm

tình dục người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Năm

Tổng số vụ án hình sự đã xét xử

Số vụ XPTD người

Tỷ lệ (%)

dưới 18 tuổi

Số vụ án

Số bị cáo

Số vụ án

Số bị cáo Số vụ án

Số bị

cáo

(1) (2) (3)/(1) (4)/(2) (3) (4)

1534 1756 53 65 3,46 3,7 2015

1854 2111 43 54 2,32 2,56 2016

1932 2675 49 52 2,54 1,94 2017

1717 1912 39 47 2,27 2,46 2018

30

1652 1823 37 41 2,48 2,45 2019

Tổng 8769 10.286 221 259 2,52 2,52

(Nguồn số liệu thống kê của TAND thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 -

2019) [52]

Biểu đồ 2.1. Số vụ phạm tội và số bị cáo trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ

em giai đoạn 2015 đến năm 2019

Số lượng vụ án XPTD cao nhất là năm 2015 với 53 vụ, 65 bị cáo và xảy ra

số vụ XPTD người dưới 18 tuổi thấp nhất là năm 2019 với 37 vụ 41 bị cáo. Biểu đồ

2.2 cho thấy tình tình các tội XPTD người dưới 18 tuổi có những diễn biến phức

tạp, số lượng các vụ án có chiều hướng tăng, giảm thất thường. Sự tăng giảm không

đồng đều của tình hình các tội XPTD người dưới 18 tuổi cũng cho thấy được sự

diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, ẩn chứa những nguy cơ gia tăng nhóm

tội phạm này trong thời gian tới.

Qua số liệu trên chúng ta có thể thấy những vụ án XPTD người dưới 18 tuổi

đã giải quyết chiếm tỉ lệ khá cao, nhưng nhìn chung các cơ quan tiến hành tố tụng

đã giải quyết tốt để bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ

XPTD.

31

Tình hình các tội XPTD trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cao nhất qua

các năm là năm là năm 2015 với 53 vụ, thấp nhất là năm 2019 với 37 vụ. Tình hình

các tội XPTD người dưới 18 tuổi có xu hướng diễn biến phức tạp. Trong đó tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142) cao nhất là năm 2015, 2017 với 37 vụ chiếm tỉ

lệ lần lượt là 69,8% và 75,5 thấp nhất là năm 2019 với 26 vụ chiếm tỉ lệ 70,3%; Tội

cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi cao nhất là năm 2015 với 14 vụ,

chiếm tỉ lệ 26,4%, thấp nhất là năm 2014 với 1 vụ chiểm tỉ lệ 4,4%; Tội giao cấu

hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

cao nhất là năm 2016, 2017 với 3 vụ mỗi năm và chiếm tỉ lệ là 15,8% và 9,7%.

Trong khi đó tội dâm ô người 16 tuổi chiểm tỷ lệ cao nhất là năm 2017 với 3 vụ

chiếm tỉ lệ 9,7%; thấp nhất là năm 2018 với 3 vụ chiểm tỉ lệ 7,7% . Tội sử dụng

người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm xảy ra ít trong năm 2018 là 2 vụ và

năm 2019 là 1 vụ điều này được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.2: Thống kê tình hình các tội Xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi

xét theo tội danh căn cứ vào số liệu của Tòa án nhân dân

Tổng số vụ

XPTD trẻ Điều 142 Điều 144 Điều 145 Điều 146 Điều 147

Năm em

Số

Số

Số

Số

Số

Số

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

vụ

vụ

vụ

vụ

vụ

vụ

53

37

100%

69,8% 14 26,4%

1

1,9%

1

1,9%

0

0%

43

29

100%

67,4% 11 25,6%

2

3,5%

1

3,5%

0

0%

2015

49

37

100%

75,5%

7

3

6,1%

2

4,1%

0

0%

14,3%

2016

39

28

100%

71,8%

3

3

7,7%

3

7,7

2

5,1%

7,7%

2017

37

26

100%

70,3%

6

2

5,4%

2

5,4%

1

2,7%

16,2%

2018

2019

4,07

1,43

18,6

9

3

221

100% 157

71%

41

11

4,9%

Tổng

%

%

%

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND thành phố Hồ Chí Minh giai

đoạn 2015 - 2019) [52]

32

2.1.3. Đặc điểm các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Căn cứ vào số liệu của TAND Thành phố Hồ Chí Minh xét xử 221 vụ với

259 bị cáo XPTD người dưới 18 tuổi trên địa bàn trong giai đoạn 2015 đến 2019 có

- Đặc điểm về địa điểm phạm tội:

thể rút ra những đặc điểm như sau:

Các vụ án XPTD người dưới 18 tuổi thường tập trung nhiều ở những địa bàn

đông dân cư, nơi có nhiều phòng trọ, khu công nghiệp, gia đình thiếu sự quan tâm

đến con cái. Qua nghiên cứu các vụ án cho thấy đối tượng phạm tội trong nhà nạn

nhân chiếm tỉ lệ khá cao với 57/221 vụ chiếm tỉ lệ 25,79% [52]. Chúng ta có thể

thấy rằng nguyên nhân này xuất phát từ việc gia đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc,

giáo dục con cái. Điển hình như vụ án thứ nhất: Đầu năm 2012, Danh Bạch từ Sóc

Trăng lên Thành phố Hồ Chí Minh làm thuê tại bô rác, thuộc khu vực đường số 10,

khu phố 5, phường X, Quận Y (gần nhà cháu Đặng Thị Kim N, sinh ngày

22/08/2001). Sau đó, Bạch và cháu N quen biết nhau, phát sinh tình cảm yêu đương

, gia đình cháu N có biết quan hệ tình cảm này nhưng không ngăn cấm mà vẫn

thường xuyên cho Bạch đến nhà chơi với N, trong những lần đó, Bạch và N đã xảy

ra quan hệ tình dục trên gác lửng bằng gỗ tại nhà của cháu N, trong lúc mẹ của N

cùng đang có mặt tại nhà (tại nhà không số, đường số 10, khu phố 5, phường X,

quận Y), cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất, thứ hai: Vào khoảng tháng 10/2012 và tháng 05/2013, thời

điểm này cháu N đã trên 11 tuổi nhưng chưa tròn 12 tuổi, đang học lớp 6.

- Lần thứ ba, thứ tư: Vào khoảng tháng 10, 12/2013, thời điểm này cháu N đã

trên 12 tuổi nhưng chưa tròn 13 tuổi, đang học lớp 7.

Tháng 8/2014, gia đình cháu N đang mang thai, qua gặng hỏi cháu N thú

nhận đã quan hệ tình dục với Bạch dẫn đến có thai. Sau đó, gia đình Bạch và gia

đình cháu N đã thống nhất cho Bạch ở rể tại gia đình N, đi làm kiếm tiền nuôi mẹ

con N và không khai báo với chính quyền địa phương. Ngày 14/10/2104, cháu N đã

sinh 01 bé gái đặt tên là Tr.

Ngày 19/09/2014, tổ công tác xóa đói giảm nghèo của Uỷ ban nhân dân

33

phường X, quận Y đi khảo sát địa bàn, nắm tình hình các hộ gia đình khó khăn, cần

được sự trợ giúp theo chương trình xóa đói giảm nghèo tại địa phương, phát hiện sự

việc trên nên tiến hành lập biên bản, chuyển giao cho công an phường X, kết hợp

với Cơ quan Cảnh sát điều tra Quận Y tiến hành điều tra và chuyển cho cơ quan

Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý theo thẩm quyền [41].

(Trích bản án số 16/2016/HSST ngày 14/01/2016 của TAND Thành phố Hồ Chí

Minh)

Trong vụ án trên, gia đình của bị hại biết mối quan hệ tình cảm yêu dương

của Danh Bạch và N nhưng không ngăn cấm mà còn cho phép qua lại – điều đó cho

thấy gia đình bị hại rất vô tâm, thiếu quản lý, hướng dẫn và chăm sóc con mình về

mặt phát triển tâm sinh lý của lứa tuổi dậy thì để xảy ra hành vi quan hệ tình dục tại

gác lửng bằng gỗ tại nhà của cháu N, trong lúc mẹ của N cùng đang có mặt tại nhà.

Khi sự việc xảy ra gia đình bị hại không báo với chính quyền mà còn cho bị cáo

được ở rể chỉ đến khi tổ công tác xóa đói giảm nghèo của Uỷ ban nhân dân phường

X, quận Y đi khảo sát thì sự việc trên mới được phát hiện.

- Đặc điểm về phương thức, thủ đoạn phạm tội

Bảng 2.3: Phương thức, thủ đoạn phạm tội

Tổng số Dùng vật chất Sử dụng vũ lực Những

để dụ dỗ để gây án thủ đoạn khác vụ án

94 71 56 221

42,53 32,13 25,34 100%

(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 –

2019) [52]

Theo thống kê của bảng 2.3 cho thấy đa phần các bị cáo sử dụng dùng vật

chất để dụ dỗ bị hại chiếm 94/221 vụ với tỉ lệ 42,53%; các đối tượng sử dụng vũ lực

để gây án chiến tỉ lệ 32,13% (71/221 vụ) và những thủ đoạn khác như lợi dụng sự

kém hiểu biết của trẻ, trẻ còn quá nhỏ tuổi, trẻ bị thiểu năng trí tuệ… chiếm tỉ lệ

25,34% (56/221 vụ). Điển hình như vụ án thứ hai: Lê Văn Sám làm nghề bẫy chim

tại khu vực gần trường học K, quận N, có quen biết cháu N.T.H.T, sinh ngày

17/06/2003, là học sinh lớp 4, trường K. Sám thường lợi dụng lúc vắng người để

34

thực hiện hành vi dâm ô cháu T, mỗi lần cho cháu từ 10.000 đến 30.000 đồng.

Khoảng 11 giờ ngày 02/11/2015, cháu T đang trên đường đi học về thì gặp Sám.

Sám nói thương gửi xe đạp rồi rủ vào nhà trọ bỏ hoang ở cuối hẻm 143, khu phố X,

phường H, quận N. Thương đồng ý và mang xe đạp gửi rồi đi bộ ra nhà trọ bỏ

hoang. Tại đây Sám đã thực hiện hành vi giao cấu với T. Bà D. T. P ngụ tại cùng

khu phố phát hiện sự việc và đã báo cho mẹ của cháu T là P.T.D biết. Chị D đã trình

báo với Cơ quan điều tra. Ngày 06/11/2015, Cơ quan điều tra – Công an Quận 7 đã

ra lệnh bắt khẩn cấp đối với Lê Văn Sám. Tại cơ quan điều tra bị can Sám khai nhận

hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, còn khai nhận: Khoảng giữa tháng 10/2015

đến ngày 02/11/2015, Sám đã thực hiện hành vi giao cấu với cháu T, tại địa điểm

nêu trên tổng cộng là 05 lần, mỗi lần quan hệ xong Sám cho cháu T 100.000 đồng.

Riêng lần thứ 6, ngày 02/11/2015, Sám nói cháu T lát ra ngoài rồi cho tiền nhưng

khi Sám ra ngoài thấy bà P ngồi phơi cơm nên Sám bỏ đi không đưa tiền cho T

được [45]. (Trích bản án số 180/2017/HSST ngày 24/05/2017 của TAND Thành phố

Hồ Chí Minh)

Qua vụ án trên chúng ta có thể thấy, Lê Văn Sám đã lợi dụng sự non nớt,

thiếu hiểu biết của cháu T để thực hiện hành vi XPTD nhiều lần. Mỗi lần đều sử

dụng vật chất để dụ dỗ cho việc dâm ô là từ 10. 000 đến 30.000 và hành vi giao cấu

là 100.000 đồng đây là hành vi gây hậu quả nghiêm trọng không những xâm hại đến

sức khỏe, danh dự, nhân phẩm mà còn gây ảnh hưởng xấu về lâu dài đến quá trình

phát triển tâm sinh lý của bị hại.

Hay như vụ án thứ ba: Tháng 02/2017, Trần Tựu mua sim điện thoại 3G (số

thuê bào 0123XXX) tạo tài khoản Zalo lấy tên nickname “Cô đơn mình anh” để

giao lưu và kết bạn với những người có tài khoản trên Zalo. Khoảng đầu tháng

3/2017, Tựu tìm trên mạng và kết bạn với nick name “Chết” do cháu T.T.L (sinh

ngày 23/10/2002) sử dụng. Khi trò chuyện Tựu yêu cầu L gửi ảnh cho Tựu xem và

L cũng yêu cầu Tựu gửi ảnh cho L xem. Sau khi xem ảnh, Tựu thấy L là một cháu

gái còn trẻ, do đã lớn tuổi sợ gửi ảnh thật của mình thì L sẽ không chấp nhận làm

bạn nên Tựu lấy hình của người thanh niên khác trên mạng gửi cho L và giới thiệu

tên là Nguyễn Tuấn Anh, sinh năm 2001, Tựu ngỏ lời yêu L và L đồng ý. Do muốn

35

quan hệ tình dục với L nên Tựu bịa ra câu chuyện Tuấn Anh là con một trong gia

đình, do không muốn con mình chia sẻ tình cảm với người khác nên mẹ Tuấn Anh

đã làm bùa không cho người con gái nào yêu Tuấn Anh, để được yêu nhau thì L

phải gặp cậu của Tuấn Anh để giải bùa; L tin tưởng nên đồng ý gặp cậu của Tuấn

Anh.

Trưa ngày 03/03/2017, Tựu đóng vai là cậu của Tuấn Anh và nói với L vào

khách sạn cho vắng người, rồi chở L vào một khách sạn tại huyện X. Khi vào

phòng, Tựu lấy vàng mã kêu cháu L viết họ tên, năm sinh của mình và Tuấn Anh

lên giấy vàng mã rồi thực hiện hành vi quan hệ tình dục với L. Trong lúc giao cấu,

Tựu dùng điện thoại di động hiệu FPT của mình quay lại cảnh giao cấu với L, sau

đó Tựu chở L về lại công ty.

Ngày 05/03/2017, Tựu muốn tiếp tục quan hệ tình dục với L nên đóng giả

làm cậu của Tuấn Anh và nói L đi làm bùa. L nghi ngời Tựu lợi dụng việc làm bùa

yêu để quan hệ tình dục nên không đồng ý; Tựu gửi đoạn phim đã quay cảnh quan

hệ tình dục với L tại khách sạn X vào ngày 03/03/2017 đến nick name “Chết” của L

cho L xem và dọa sẽ đăng lên mạng và gửi vào công ty nơi L làm việc để cho mọi

người biết nếu L không cho Tựu quan hệ tình dục. Do sợ, nên L đồng ý và hẹn trước

công ty nơi L làm việc. Tựu điều khiển xe gắn máy tới một khách sạn tại huyện X

thuê phòng. Khi vào phòng, Tựu phát hiện L có kinh nguyệt nên không giao cấu.

Cũng với thủ đoạn đe dọa sẽ đăng cảnh quan hệ tình dục với L trên mạng, Tựu đã

ép buộc L quan hệ tình dục 02 lần vào các ngày 12/03/2017, 25/03/2017 tại một

khách sạn trên địa bàn huyện X.

Trong thời gian trên, Tựu dùng nick name “Cô đơn mình anh” để kết bạn và

tiếp tục làm quen với nick name “Kelly Tiên” trên mạng zalo do cháu P.T.C.T (sinh

ngày 25/11/2002) sử dụng và nick name “Pin pin” do cháu N.T.H.Y (sinh ngày

05/05/2002) sử dụng; Tựu tiếp tục lấy hình ảnh của người thanh niên khác trên

mạng gửi cho T, Y và bịa đặt chuyện giải bùa yêu để hẹn gặp T, Y.

Ngày 18/03/2018, Tựu hẹn gặp cháu N.T.H.Y tại trước trụ sở Uỷ ban nhân

dân xã Y, huyện X. Tựu điều khiển xe gắn máy chở Y đến chợ mua giấy tiền vàng

mã. Sau đó, Tựu chở Y đến một khách sạn tại huyện X. Khi vào phòng, Tựu nói Y

36

cởi quần áo nằm lên giường để làm bùa yêu rồi quan hệ tình dục với Y. Trong lúc

giao cấu, Tựu dùng điện thoại di động của mình quay cảnh giao cấu với Y. Sau đó,

Tựu chở Y về. Ngày 21/03/2017, Tựu nhắn tin nói Y làm bùa yêu, do nghi ngờ Tựu

muốn giao cấu nên Y lấy lí do bận học không đi. Do bị từ chối, Tựu gửi đoạn clip

quan hệ tình dục với Y vào ngày 18/03/2017 cho Y xem. Ngày 24/03/2017, Tựu tiếp

tục nhắn tin nói Y làm bùa yêu nhưng Y từ chối và Tựu dọa sẽ đăng clip lên mạng

xã hội và gửi vào trường nơi Y học.

Ngày 25/03/2017, Tựu hẹn gặp P.T.C.T trước một doanh trại quân đội tại

huyện X; Tựu chuẩn bị sẵn trước giấy tiền vàng mã và điều khiển xe gắn máy đến

chở T, Tựu đưa cho T bịch nylon đựng giấy tiền vàng mã và nói T bỏ vào trong áo

rồi tìm chỗ vắng người làm bùa yêu thì mới có kết quả tốt. Sau đó, Tựu chở T đến

một khách sạn taih huyện X. Khi vào phòng, Tựu nói T viết họ tên, năm sinh của

mình và Tuấn Anh lên giấy vàng mã để trên bàn rồi nói T cởi hết quần áo để Tựu

giao cấu thì mới có hiệu nghiệm. Tựu thực hiện hành vi quan hệ tình dục với T rồi

sau đó chở T ra về.

Ngày 26/03/2017, N.T.H.Y đến công an xã Y, huyện X tố cáo hành vi nêu

trên của Trần Tựu. Ngày 28/03/2017, Tựu bị Cơ quan cảnh sát điều tra bắt khẩn cấp

về hành vi phạm tội của mình [49]. (Trích bản án số 471/2018/ HS – ST ngày

27/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)

Qua vụ án trên cho thấy, lợi dụng sự non nớt thiếu hiểu biết của các bị hại L,

Y, T mà Trần Tựu đã dùng thủ đoạn làm bùa yêu để thực hiện hành vi phạm tội với

các bị hại. Sau đó, còn dùng video quay cảnh quan hệ tình dục với L, Y để ép bị hại

tiếp tục quan hệ tình dục với mình. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến danh dự,

nhân phẩm, sức khỏe và sự phát triển bình thường của bị hại và xâm hại đến các giá

trị đạo đức của xã hội.

- Đặc điểm về độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm

phạm tình dục

Bảng 2.4: Độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm

tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 – 2019.

37

Bị hại Dưới 6 Từ đủ 6 đến dưới 13 Từ đủ 13 tuổi đến Từ đủ 16 tuổi

tuổi tuổi dưới 16 tuổi đến 18 tuổi

21 221 56 85 59

100% 9,5% 25,34% 38,46% 26,7%

Nguồn: 221 bản án xét xử sơ thẩm cuả TAND thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn

2015 - 2019 [50].

Qua bảng số liệu trên chúng toà án có thể thấy bị hại từ đủ 13 tuổi đến dưới

16 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất với 38,46%; kế đến là độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18

tuổi chiếm tỉ lệ 26,7%, tiếp theo là từ đủ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi chiếm tỉ lệ 25,34%

và thấp nhất là độ tuổi dưới 6 tuổi chiếm tỉ lệ 9,5%.

- Đặc điểm về nhân thân người phạm tội

+ Về độ tuổi:

Bảng 2.5: Độ tuổi của các bị cáo trong các vụ XPTD người dưới 18 tuổi

Tổng số bị Trên 30 tuổi Từ đủ 18 đến 30 Từ đủ 14 tuổi đến chưa

cáo tuổi đủ 18 tuổi

83 125 51 259

100% 32,04% 48,26% 19,07%

Nguồn: 221 bản án xét xử sơ thẩm của TAND thành phố Hồ Chí Minh giai

đoạn 2015 - 2019 [50].

Kết quả nghiên cứu cho thấy người phạm tội về XPTD người dưới 18 tuổi đa

số ở độ tuổi từ đủ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi chiếm tỉ lệ là 48,26% (125/259); tiếp đến

là trên 30 tuổi chiếm tỉ lệ 32,04% (83/259); và từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi chiếm

tỉ lệ 19,07% (51/259).

+ Trình độ học vấn của bị cáo

Bảng 2.6: Trình độ học vấn của bị cáo trong các vụ XPTD người dưới 18

tuổi

Năm Số bị Trình độ học vấn

cáo Không biết chữ Tiểu học THCS THPT Cao đẳng

và đại học

2014 65 17 19 15 14 0

38

19 2015 54 19 10 6 0

16 2016 52 17 13 5 1

11 2017 47 20 9 5 2

9 2018 41 18 8 6 0

74 259 91 55 36 3 Tổng

Tỷ lệ 100% 35,13% 28,57% 21,24% 13,90% 1,16%

Nguồn: 221 bản án xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí

Minh.[50]

Trong tổng số 214 bị cáo phạm tội XPTD người dưới 18 tuổi, số bị cáo

không biết chữ chiếm tỉ lệ 35,13% (91/259); trình độ tiểu học chiếm 28,57%

(74/259); trình độ Trung học cơ sở chiếm tỉ lệ 21,24% (55/259; trình độ Trung học

phổ thông chiếm tỉ lệ 13,90% (36/259) và bị cáo có trình độ cao đẳng và đại học

chiếm tỉ lệ nhỏ 1,16% (3/259). Điều đó cho thấy rằng trình độ học vấn tác động đến

cách ứng xử của con người. Trình độ học vấn thấp nên nhận biết pháp luật hạn chế,

nên nguy cơ phạm tội cao hơn. Điển hình như vụ án thứ tư: Cháu N.H.L.N (sinh

ngày 06/02/2005) được mẹ đẻ là chị N.T.M.L gửi cho bà ngoại là N.T.S nuôi tại nhà

không số, tổ 30, ấp 3, xã X, huyện N. Sinh sống cùng bà S có Nguyễn Văn Hùng là

chồng sau của bà S. Từ năm 2011 cho đến ngày bị bắt giữ (27/10/2015), lợi dụng

lúc bà S đi làm về trễ, Hùng đã nhiều lần thực hiện hành vi XPTD đối với N. Và

trong năm 2015, Hùng đã hai lần giao cấu với cháu N vào ngày 05/03/2015 và giữa

tháng 04/2015. Cháu N kể sự việc bị Hùng XPTD cho chị M.T.B là người hàng

xóm nghe. Chị B điện thoại báo cho chị L biết. Sau đó chị L làm đơn tố cáo Hùng.

Tại cơ quan điều tra, Hùng đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên [42] (Trích bản

án số 92/2016/HSST ngày 23/03/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí

Minh).

Vụ án thứ năm: Đầu tháng 8/2017, Trần Văn Cường làm thợ hồ tại công

trình gần nhà cháu P.N.D.M nên Cường quen biết với cháu M, sau đó Cường và

cháu M phát sinh tình cảm yêu đương nên đã quan hệ tình dục với nhau, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 12 giờ 30 phút, vào thời điểm cuối tháng 8/2017,

Cường chạy xe gắn máy hiệu Wave màu đỏ, không có biển số, đến khu vực bụi

39

chuối (cách nhà M khoảng 40m) để chở cháu M đi học. Khi đến trường H, cháu M

không chịu vào lớp học, nên Cường tiếp tục chở M đi chơi lòng vòng. Đến khoảng

13 giờ 30 phút cùng ngày, C chở cháu M đến một nhà trọ tại huyện B, thuê phòng

trọ và thực hiện hành vi quan hệ tình dục với M.

Lần thứ hai: Khoảng 19 giờ ngày 07/10/2017, Cường chạy xe gắn máy hiệu

Wave màu xanh, không có biển số, đến khu vực vườn nhàn (cách nhà M khoảng

100 m) để cở cháu M về nhà của Cường tại huyện B, ngồi chơi và gặp bà Đ.T.G mẹ

ruột của Cường. Lát sau, Cường chở cháu M đi chơi lòng vòng và Cường nói

“Khuya rồi để Cường chở M về” nhưng cháu M không chịu. Sau đó, Cường chở

cháu M đến một ngôi chùa đang xây dựng tại huyện B rồi thực hiện hành vi quan hệ

tình dục. Sau đó, do M không chịu về nhà, nên Cường chở M về nhà Cường ngủ

qua đêm.

Đến ngày 08/10/2017, cháu M về nhà thì bị ông P.V. B, bà N.T.K.D (cha mẹ

của cháu My), gặng hỏi, cháu M kể lại sự việc quan hệ tình dục với Cường, nên ông

B đến công an xã P, huyện B làm đơn tố cáo. Ngày 14/10/2017, Cường đến công an

xã P, huyện B đầu thú. Ngày 23/01/2018, Cơ quan diều tra Công an Thành phố Hồ

Chí Minh thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với Cường [48]. (Trích bản án số

239/2018/HS – ST ngày 12/07/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)

Qua hai vụ án trên, các bị cáo Nguyễn Văn Hùng có trình độ học vấn 05/12

(Theo bản án số 92/2016/HSTT) và Trần Văn Cường có trình độ học vấn không biết

chữ (Theo bản án số 239/2018/HSST) trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp

luật còn hạn chế dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội với cháu N.

+ Về thành phần xã hội, nghề nghiệp của người phạm tội

Qua nghiên cứu các vụ án XPTD giai đoạn từ năm 2015 - 2019 cho thấy số

người phạm tội XPTD người dưới 18 tuổi đa phần làm nghề tự do, nghề nghiệp

không ổn định chiếm 54,05% (140/259); bên cạnh đó người phạm tội XPTD là công

nhân chiếm tỉ lệ 26,64% (69/259); học sinh, sinh viên chiếm tỉ lệ 5,79% (15/259);

người không nghề nghiệp chiếm tỉ lệ 7,7% (20/259); nông dân chiếm tỉ lệ 3,86%

(10/259); số người phạm tội XPTD trẻ em là công nhân viên chức chiếm chiếm tỉ lệ

thấp 1,96% (5/259) [50].

40

+ Mối quan hệ giữa bị hại và bị cáo.

Trong các vụ XPTD người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

cho thấy mối quan hệ giữa bị hại và người phạm tội được thể hiện ở những mối

quan hệ sau: mối quan hệ giữa người bị hại và nạn nhân có quan hệ hàng xóm, đã

quen biết chiếm tỉ lệ cao 56,76 % (147/259); quan hệ bà con, họ hàng, ruột thịt, con

nuôi, con dượng chiếm tỉ lệ 25,87% (67/259), quan hệ tình cảm chiếm tỉ lệ 13,51%

(35/259); chỉ có số vụ phạm tội giữa thủ phạm và nạn nhân không quen biết chiếm

tỉ lệ thấp 3,86% (10/259) [50]. Qua số liệu phân tích trên cho thấy mối quan hệ giữa

bị hại và người phạm tội chiếm tỉ lệ khá cao do đa phần gia đình chưa có sự quan

tâm quản lý con cái tốt về các mối quan hệ của bị hại, cũng như những kiến thức về

sức khỏe sinh sản, về giới tính của bị hại không cao để các đối tượng lợi dụng thực

hiện hành vi phạm tội… đặc biệt có những vụ bị hại và người phạm tội có mối quan

hệ ruột thịt, điển hình như vụ án thứ sáu: Huỳnh Minh Mẫn và vợ là H.T.M.P là vợ

chồng có hai con chung là H.S.H và H.N.H (sinh ngày 20/06/2003) cùng chung

sống tại nhà số 12/4 TK, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Cả gia đình

ngủ chung trên gác gỗ theo thứ tự Mẫn rồi đến bà P, H, H. Trong khoảng tháng 3 và

tháng 04/2015, Mẫn đã giao cấu với cháu H 3 lần. Ngày 29/10/2015, bà P phát hiện

bụng H to nên dẫn H đi khám thì được biết H có thai 30 tuần tuổi. Bà P có hỏi H thì

H cho biết bị Mẫn giao cấu nhiều lần. Ngày 28/11/2015, H sinh một bé trai. Ngày

08/12/2015, bà P làm đơn tố cáo M với Cơ quan điều tra [43]. (Trích bản án số

291/2016/HSST ngày 22/08/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh).

Trong vụ án trên, bị cáo Mẫn là cha ruột của cháu H.T.N.H nhưng đã bất

chấp luân thường đạo lý, lợi dụng sự lệ thuộc của cháu H đối với bị cáo để giao cấu

nhiều lẫn và làm cháu có thai khi mới 11 tuổi. Đây là hành vi rất nguy hiểm cho xã

hội, đã xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phầm và sự phát triển bình thường

về tâm sinh lý của trẻ.

2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Hiện nay, pháp luật đã quy định khá đầy đủ các trình tự, thủ tục trong công

tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi trong

41

các vụ án XPTD. Sau khi BLHS năm 2015 được ban hành và sửa đổi bổ sung năm

2017, các cơ quan THTT cũng đã ban hành những hướng dẫn chi tiết liên quan đến

vấn đề này. Trong giai đoạn 2015– 2019, theo báo cáo tổng kết của Công an Thành

phố Hồ Chí Minh đã phát hiện và khởi tố mới 237 vụ án với 302 bị can. Viện kiểm

sát nhân dân đã thụ lý kiểm sát điều tra tổng cộng 320 vụ với 379 bị can[76]. Toàn

án nhân dân đã xét xử 221 vụ với 259 bị cáo[51]. Tuy nhiên thực trạng hiện nay vẫn

còn nhiều vướng mắc.

2.2.1. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục trong giai đoạn tiền khởi tố và khởi tố các vụ án xâm phạm

tình dục

- Về vấn đề giải quyết vụ án một các nhanh chóng, kịp thời hiện nay chưa

đảm bảo. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về giám định khẩn cấp đối với những vụ

tố giác XPTD điều này dẫn đến việc thu thập chứng cứ khó khăn (vùng kín bị hóa

sẹo, không thu được tinh dịch…) nên rất khó để xác định bị hại có bị hiếp dâm hay

không và ai là người thực hiện hành vi Thực trạng giải quyết các vụ án XPTD có bị

hại là người dưới 18 tuổi hiện nay cho thấy việc pháp hiện, thu thập tài liệu chứng

cứ ban đầu như dấu vết, mẫu tinh dịch, mẫu AND của đối tượng để lại trên người và

trên quần áo của nạn nhân, hoặc ở hiện trường và giám định pháp y cần phải tiến

hành nhanh chóng, kịp thời nhưng theo quy trình giải quyết tin báo thì cơ quan điều

tra sau khi tiếp nhận tin báo tố giác về tội phạm, phải phân loại và tổ chức lấy lời

khai ban đầu, xác minh, làm thủ tục giới thiệu đến cơ quan chuyên môn thăm khám,

lấy mẫu giám định… quy trình này kéo dài trên dưới 1 tuần, có trường hợp còn kéo

dài hơn. Vì vậy, thời gian càng kéo dài, việc thu thập dấu vết tội phạm, chứng cứ

chứng minh thủ phạm ngày càng khó khăn hơn.

- Khởi tố theo yêu cầu của bị hại là một trong những quy định của pháp luật

TTHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại, đặc biệt bị hại là người dưới 18 tuổi

trong các vụ án XPTD. Mặc dù quy định của pháp luật có nhiều thay đổi chặt chẽ

hơn, nhưng trong thực tiễn thi hành quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu

của bị hại phát sinh một số khó khăn, vướng mắc trong nhận thức và áp dụng do

luật chưa có quy định hoặc quy định chưa rõ ràng nhưng chưa có văn bản dưới luật

42

hướng dẫn, giải thích kịp thời, thống nhất. Cụ thể:

+ Chưa quy định về nội dung, hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Nội

dung yêu cầu khởi tố là yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, xử lý

sự việc có dấu hiệu tội phạm. Nội dung yêu cầu khởi tố cũng có thể chứa đựng

thông tin về tội phạm nên yêu cầu khởi tố cũng có thể đồng thời là tố giác tội phạm,

là một trong những căn cứ để xác định dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên, yêu cầu khởi

tố là điều kiện chứ không phải căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Nếu chỉ có yêu cầu

khởi tố mà không có dấu hiệu tội phạm thì không được khởi tố vụ án hình sự và

ngược lại, khi xác định có dấu hiệu tội phạm thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu

của bị hại nhưng không có yêu cầu khởi tố của bị hại thì cũng không được khởi tố

vụ án hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự cũng chưa có quy định về hình thức yêu

cầu khởi tố mặc đù đây là một trong những tài liệu quan trọng. Thực tiễn áp dụng

hiện nay cơ quan thẩm quyền chỉ căn cứ vào Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT –

VKSTC – BCA – BQP ngày 07/09/2005.

+ Đơn tố cáo, tố giác tội phạm có phải là yêu cầu khởi tố? Hiện nay có nhiều

quan điểm khác nhau về vấn đề này, có quan điểm cho rằng đơn tố cáo hoặc đơn tố

giác tội phạm được xem là đơn yêu cầu khởi tố vì tuy tiêu đề là đơn tố cáo, tố giác

tội phạm nhưng trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội. Trong khi

quan điểm khác lại cho rằng đơn tố cáo, tố giác tội phạm là cơ sở ban đầu để cơ

quan thẩm quyền xác minh, khi xác minh có dấu hiệu tội phạm thì phải làm tiếp đơn

yêu cầu khởi tố vụ án. Trong trường hợp nhận thức của các cơ quan THTT khác

nhau trong việc xác định đơn tố cáo có phải là yêu cầu khởi tố hay không thì việc

giải quyết vụ án gặp khó khăn, phức tạp, hậu quả sẽ dẫn đến tình trạng trả hồ sơ

điều tra bổ sung hoặc hủy án.

+ Áp dụng quy định về thay đổi quyết định khởi tố: những tồn tại phần lớn là

do nhận thực của những người tiến hành tố tụng hoặc bị hại và người đại diện của

họ. Những người THTT không nghiên cứu kỹ những quy định của pháp luật về khởi

tố theo yêu cầu của bị hại dẫn đến việc giải quyết các vụ án chưa chính xác trong

giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, chưa có những hướng dẫn cụ thể

đối với bị hại. Về bị hại trong các vụ XPTD nếu không chủ động trình báo thì cơ

43

quan có thẩm quyền rất khó phát hiện. Vì vậy có trường hợp bị hại không trình báo

do sợ bị ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm… Có những trường hợp chưa có đủ

kiến thức pháp lý dẫn đến bị hại nêu quan điểm chưa rõ ràng trong việc yêu cầu

khởi tố hay không yêu cầu khởi tố, rút yêu cầu khởi tố hay là xin giảm nhẹ trách

nhiệm cho người phạm tội… gây khó khăn cho hoạt động giải quyết vụ án.

2.2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục trong giai đoạn điều tra

- Khi giải quyết các vụ án XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi cơ quan

THTT phải làm rõ các đặc điểm riêng biệt như: dộ tuổi, đặc điểm tính cách của nạn

nhân, hoàn cảnh gia đình. Căn cứ vào đặc điểm của từng bị hại để có biện pháp tác

động cụ thể, kịp thời. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ cán bộ làm công tác này chưa

đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Chúng ta chưa có được đội ngũ Điều tra viên,

Kiểm sát viên và Thẩm phán riêng biệt được trang bị những kiến thức cần thiết để

nắm bắt và hiểu biết về tâm lý học cũng như về khoa học giáo dục. Do quy định của

pháp luật tại điều 415 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các văn bản

khác còn khá chung chung, vẫn chưa chú trọng đến những thủ tục tố tụng đặc biệt

để đảm bảo quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi. Trong quá trình tố tụng, Cơ

quan điều tra chỉ mới quan tâm về mặt chứng cứ, xác định có việc phạm tội hay

không, chưa thực sự quan tâm đến việc nghiên cứu nhân thân, điều kiện, môi trường

giáo dục của người dưới 18 tuổi.

- Trong quá trình lấy lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án

XPTD. Khi tiến hành lấy lời khai nhiều cán bộ giải quyết các vụ án XPTD người

dưới 18 tuổi vẫn còn dùng những từ ngữ mang tính chất chuyên môn hoặc câu hỏi

áp dụng như người lớn khiến bị hại là người dưới 18 tuổi không biết trả lời hoặc

không trả lời chính xác. Khi lấy lời khai những người có liên quan chưa bao quát

hết được vụ án nên dẫn đến bỏ sót tình tiết của vụ án.

- Qúa trình thu thập, đánh giá chứng cứ gặp nhiều vướng mắc phải có kết

luận giám định pháp y và những vật chứng có liên quan để làm căn cứ, khẳng định

ai là người thực hiện hành vi phạm tội và sẽ bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội gì trong

các tội XPTD người dưới 18 tuổi. Trên thực tế có nhiều vụ XPTD đối với phụ nữ,

44

trẻ em nhưng không đủ cơ sở để người phạm tội đưa ra pháp luật. Có nhiều trường

hợp người dưới 18 tuổi bị XPTD, gia đình biết đã lưỡng lự dẫn đến kết quả là khai

báo muộn, không biết cách giao nộp những vật chứng cần thiết để giao nộp cho cơ

quan chức năng nên đã vô tình chung tạo điều kiện cho người thực hiện hành vi

phạm tội có đủ thời gian xóa hết dấu vết. Có trường hợp sau khi bị xâm hại một thời

gian dài, bị hại mới tố cáo hành vi phạm tội do sợ danh dự, nhân phẩm của gia đình

và bản thân bị ảnh hưởng. Do đó việc thu thập chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp

nhiều khó khăn (vùng kín bị hóa sẹo, không thu được tinh dịch...) nên rất khó để

xác định bị hại có bị hiếp dâm không và ai thực hiện hành vi. Do đó, việc điều tra,

truy tố cũng như xét xử đối với TA trong các trường hợp này gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, nhiều vụ án khi đưa ra xét xử, bị cáo được sự tư vấn của luật

sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp vì một lý do nào đó không đồng ý với

bản kết luận pháp y đã được đưa ra trước đó nên đã đề nghị với Hội đồng xét xử

cho giám định pháp y lại, dẫn đến kéo dài thời gian và gây khó khăn cho quá trình

giải quyết vụ án.

Việc xác định vấn đề giao cấu trái ý muốn của nạn nhân là vấn đề phức tạp.

Ta phải căn cứ vào nhiều yếu tố để xác định có hay không có sự giao cấu trái ý

muốn. Các yếu tố đó là: bạo lực hoặc các thủ đoạn khác mà người phạm tội có đủ

sức làm tê liệt ý chí của bị hại hay không, thái độ phản kháng của trẻ em trước và

trong sau khi bị hiếp dâm (như có biểu hiện mắng, kêu khóc, gào thét, vật lộn, cấu

xé, đánh lại...) được biểu hiện như thế nào, hiện trường người phạm tội thực hiện

hành vi hiếp dâm có yếu tố bình thường hay không, nhân thân của hai người, ý kiến

nhận xét của cơ quan, tổ chức xã hội nơi hai người công tác, của cha mẹ của bạn bè

hai bên... Thực tế để xác định có hành vi giao cấu trái ý muốn hay không là vấn đề

phức tạp vì có trường hợp ban đầu bị hại đồng ý nhưng sau lại không đồng ý và

ngược lại. Vì vậy, để xác định giao cấu với ý muốn hay thuận tình của trẻ em, bảo

đảm xét xử công bằng, đúng người đúng tội thì không thể căn cứ vào lời khai của

một bên nào mà ta phải xem xét tất cả các yếu tố trên. Một lần nữa lưu ý rằng ở đây

chỉ xét đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, vì mọi trường hợp giao cấu với

trẻ em dưới 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em.

45

Điển hình như vụ án thứ bảy: Từ tháng 4/2013, Lê Văn Thuận làm thuê tại

cơ sở sản xuất dép và tạm trú ở một nhà trọ tại Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Thị K (sinh ngày 12/07/2003) sống cùng bà ngoại tại cùng khu gần nhà trọ

của Thuận tại Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Thuận và K có quan hệ tình cảm

với nhau. Khoảng 19h một ngày trong tháng 1/2014, Thuận điều khiển xe gắn máy

biển số 61S3 – 26xx đến trước quán ăn X, tại khu phố Y, phường B, thị xã Dĩ An,

tỉnh Bình Dương đón K, chở đến quán cà phê võng N, ki ốt số 1 khu phố Y, phường

B, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Thuận và K vào một chòi không số và thực hiện

hành vi quan hệ tình dục tại đây. Sau đó, Thuận và K tiếp tục quan hệ tình dục tại

quán cà fe này 03 lần. Trong lần thứ 4, K phát hiện Thuận mở đèn flash trên điện

thoại di động của Thuận, nghĩ là Thuận dùng điện thoại di động quay cảnh hai

người đang quan hệ tình dục nên K không đồng ý, bảo Thuận đừng quay nhưng

Thuận không nói gì.

Từ tháng 08/2015, K bà ngoại chuyển về sinh sống tại quận M, thành phố Hồ

Chí Minh. Thuận làm phụ hồ ở Bình Dương và tại ở công trình xây dựng nên không

có nơi cư trú ổn định. Trong thời gian từ tháng 8/2015 đến tháng 02/2016 Thuận gọi

điện hẹn K đến quán cà fe Võng T, đường X, khu phố N, phường U, quận M, Thành

phố Hồ Chí Minh. Mỗi lần, Thuận điều khiển xe gắn máy biển số 61S3 – 26xx, còn

K tự điều khiển xe đạp điện đến quán cà fe võng T. Tại đây, Thuận và K vào chòi số

14, thực hiện hành vi quan hệ tình dục với nhau. Sau mỗi lần quan hệ tình dục,

Thuận đều đưa cho K một viên thuốc ngừa thai, do Thuận mua trước đó, cho K

uống.

Đến ngày 26/02/2016, K không muốn tiếp tục quan hệ tình dục với Thuận

nên không trả lời cuộc gọi của Thuận. Thuận nghi ngờ K có bạn trai khác nên nhắn

tin, gọi điện đe dọa buộc K phải tiếp tục quan hệ tình dục với Thuận nếu không

Thuận sẽ đăng đoạn phim ghi hình Thuận quan hệ tình dục với K tại quán cà fe

võng N trên mạng xã hội Facebook. K không đồng ý nên Thuận nhắn tin, gọi điện

đe dọa nhiều lần. Do hoảng sợ, K kể sự việc cho bạn học là Nguyễn Thị Xuân H và

bà ngoại biết. Ngày 06/03/2016, bà ngoại của K đưa K đến công an phường U, quận

M, Thành phố Hồ Chí Minh tố cáo Thuận [46]. (Trích bản án số 378/2017/HSST

46

ngày 27/09/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh).

Qua vụ án trên ban đầu nạn nhân K đồng thuận quan hệ tình dục với Thuận

nhưng do đến tháng 02/2016, do K không đồng ý tiếp tục quan hệ tình dục với

Thuận nên Thuận có gọi điện và nhắn tin đe dọa nên sự việc mới được phát giác qua

kết luận giám định pháp y tình dục số 25/TD.16 ngày 24/03/2016, đối với bị hại

không phát hiện được dấu vết nên phải căn cứ vào lời khai của người bị hại, người

làm chứng mới đủ cơ sở kết luận.

- Trong một số vụ án việc xác định tuổi của bị hại gặp nhiều khó khăn, các cơ

quan tố tụng đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng không xác định được chính xác tuổi

của bị hại để xác định được bị hại có phải là người dưới 18 tuổi hay không? Có

trường hợp bị hại không có giấy khai sinh gốc hoặc có giấy khai sinh nhưng ngày,

tháng, sinh không chính xác hoặc giấy khai sinh chỉ ghi năm sinh. Có vụ án cha

mẹ, bị hại nhớ nhầm ngày sinh của bị hại (ngày âm lịch, ngày dương) nên cấp phúc

thẩm phải hủy án sơ thẩm. Có trường hợp bị hại có các giấy tờ chứng minh, xác

định độ tuổi khác nhau như trong lý lịch, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu... gây khó khăn

cho việc xác định độ tuổi của bị hại.

Việc xác định độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi thường dựa trên các

giấy tờ pháp lý như Sổ hộ khẩu, hộ tịch, Giấy chứng sinh, Giấy khai sinh. Nhưng

trong thực tế, đối với các trường hợp đối với trẻ em không có nơi cư trú rõ ràng,

không có giấy khai sinh, trẻ em lang thang, cơ nhỡ...; các địa phương khó khăn ở

vùng nông thôn, hẻo lánh nên vấn đề khai sinh của trẻ em chưa được quan tâm đúng

mức dẫn đến việc không có giấy khai sinh, khai sinh không đúng tuổi... Việc không

xác định được đúng độ tuổi đã ảnh hưởng không nhỏ trong việc giải quyết các vụ án

XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi.

Có trường hợp không xác định được năm sinh của bị hại nên cơ quan tiến

hành tố tụng đã làm các thủ tục để tiến hành giám định tuổi của họ nhưng kết quả

giám định của cơ quan chuyên môn khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với tài liệu điều

tra khác nên gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có TA trong đánh

giá, sử dụng tài liệu, chứng cứ.

47

2.2.3. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục trong giai đoạn truy tố

- Việc phân công kiểm sát viên. Mỗi cá nhân bị hại là người dưới 18 tuổi

trong các vụ án XPTD có môi trường sống khác nhau nên nhìn nhận của họ về cuộc

sống, xã hội cũng khác nhau. Kiểm sát viên trước hết phải có cái nhìn đúng đắn để

bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD. Hiện nay số

lượng vụ án ngày càng tăng với tính chất phức tạp. Cho nên, việc phân công vụ án

có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi cho một Kiếm sát viên đảm nhận là

rất khó thực hiện, thực tế các Viện kiểm sát chủ yếu phân đều cho các Kiểm sát viên

trong đơn vị cùng nhau giải quyết. Trong số những người này có Kiểm sát viên có

kinh nghiệm đối với các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi và có người chưa

có kinh nghiệm.

- Cáo trạng là văn bản pháp lý do VKS là cơ quan duy nhất được giao chức

năng thực hiện quyền công tố ban hành, thực hiện quyền buộc tội và truy tố bị can

trước TA để xét xử về tội danh và điều luật được quy định trong BLHS. tại Mọi cáo

trạng đều thực hiện theo mẫu số 144/HS tại danh mục mẫu văn bản tố tụng, văn bản

nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố

điều tra, truy tố (Ban hành kèm theo quyết định số 15/QĐ – VKSTC ngày 09 tháng

01 năm 2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Tuy nhiên, hiện nay

vẫn chưa thống nhất trong việc trích dẫn điều luật, chưa được VKSND tối cao

hướng dẫn cụ thể. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có thông báo rút kinh nghiệm

số 811/TB – VKSTC – V1C ngày 08/11/2014 của vụ 1C rút kinh nghiệm về xây

dựng Cáo trạng của Viện kiểm sát, Công văn số 4258/ VKSTC – V1C(P3) ngày

28/11/2013 của VKSND tối cao về việc rút kinh nghiệm tồn tại, hạn chế về báo cáo,

chỉ thị và ban hành Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh miền Trung. Từ

những quy định, hướng dẫn việc xây dựng cáo trạng và trích dẫn điều luật truy tố

của VKS trong thực tế vẫn có sự khác biệt nhất định thể hiện ở các trích dẫn: chỉ

phạm một tội nhưng trích dẫn hết các hành vi của tội ghép, chỉ phạm vào một cấu

thành cơ bản trong điều luật nhưng trích dẫn hết các cấu thành, chỉ truy tố bị can về

một tội quy định tại khoản 1 của Điều luật, nhưng trích dẫn luôn cả khoản quy định

48

về hình phạt bổ sung.

- Hiện nay, theo báo cáo tổng kết của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh trong

năm năm từ năm 2015 đến 2019, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã trả hồ sơ cho

CQĐT để điều tra bổ sung là 09 vụ, trong đó Thiếu chứng cứ là 03 vụ chiếm, có

yêu cầu khởi tố mới là 02 vụ, Vi phạm thủ tục tố tụng là 03 vụ, lý do khác là 01 vụ

[76]. Qua số liệu thống kê có thể thấy rằng số vụ án bị trả hồ sơ là rất ít cho thấy sự

phối hợp chặt chẽ giữa Điều tra viên và kiểm sát viên ngay từ khi tiếp nhận, phân

loại, xử lý, tố giác tội phạm trong quá trình điều tra vụ án XPTD có bị hại là người

dưới 18 tuổi. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn một số tồn tại, vướng mắc liên quan

đến vấn đề này hiện nay Luật và các văn bản áp dụng pháp luật chung được sửa đổi,

bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế nhưng chưa kịp thời được giải thích,

hướng dẫn dẫn đến việc nhận thức và áp dụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và

Thẩm phán chưa thống nhất. Vẫn còn tồn tại một số Kiểm sát viên có ý thức trách

nhiệm chưa cao trong việc thực thi nhiệm vụ. Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ

sunng trong giai đoạn truy tố được quy định cụ thể tại điểm m khoản 2 Điều 41;

điểm b khoản 2 Điều 45; khoản 2 Điều 174; khoản 5 Điều 236; Điều 245; Điều 246;

Điều 280 BTTHS, Thông tư liên tịch số 02/2017 2017/TTLT – VKSNDTC – BCA –

BQP ngày 22/07/2017 quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung;

Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra

và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ – VKSTC ngày 29/12/2017 của

Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao chưa quy định về thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ

sung để nhập vào vụ án khác, nên rất khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

- Liên quan đến vấn đề nhập, tách vụ án hình sự trong giai đoạn truy tố. Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định rõ về thẩm quyền của Viện kiểm sát

trong việc quyết định nhập, tách vụ án hình sự trong giai đoạn truy tố. Vấn đề này

được quy định tại Điều 242 thuộc chương XVIII của BLTTHS năm 2015 như sau:

a) Bị can phạm nhiều tội;

b) Bị can phạm tội nhiều lần;

“1. Viện kiểm sát quyết định nhập vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:

c) Nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người

khác che dấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà

có.

2. Viện kiểm sát quyết định tách một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây nếu

xét thấy việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện và

đã có quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can:

a) Bị can bỏ trốn;

b) Bị can mắc bệnh hiểm nghèo;

c) Bị can bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.”

49

Đây là một trong những điểm mới và cũng là thẩm quyền mới được cụ thể

hóa trong BLTTHS năm 2015 mà VKS có thẩm quyền áp dụng để truy tố so với

BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có ban

hành Quyết định số 15/QĐ – VKSTC ngày 09 tháng 01 năm 2018 về ban hành mẫu

văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công

tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố. Có 170 biểu mẫu văn bản được quy

định trong lĩnh vực TTHS, trong đó có 20 biểu mẫu trong giai đoạn truy tố nhưng

lại không có biểu mẫu quy định về việc nhập hoặc tách vụ án trong giai đoạn truy

tố, đây là một khó khăn trong thực tiễn khi VKS gặp vụ án hình sự cần phải tiến

hành nhập hoặc tách vụ án hình sự trong giai đoạn truy tố.

2.2.4. Thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục trong giai đoạn xét xử

Tình hình giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ XPTD trẻ em nói

riêng của Tòa án nhân dân được thể hiện rõ nét trong báo cáo tổng kết của TAND

Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2015 - 2019 cụ thể như sau:

- Năm 2015, Toà án nhân dân Thành phố đã thụ lý tổng cộng 5.927 vụ (cũ

264 vụ, mới 5.663 vụ); đã giải quyết: 5.677 vụ; còn lại 250 vụ (có 01 vụ quá hạn),

tỷ lệ giải quyết đạt: 95,78%. Trong đó số vụ xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi

đã được giải quyết là 53 vụ với 65 bị cáo [51].

- Năm 2016, Tòa án nhân dân Thành phố đã giải quyết 1.711/1.717 vụ thụ lý,

đạt tỷ lệ 99,65%; so với cùng kỳ năm 2015, thụ lý tăng 67 vụ, giải quyết tăng 68 vụ,

tỷ lệ giải quyết giảm 0,05%; có 15 bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan, chiếm

50

tỷ lệ 0,87%. Trong đó số, vụ xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã được giải

quyết là 43 vụ với 54 bị cáo [51].

- Năm 2017, Tòa án nhân dân thành phố đã giải quyết 1.675/1679 vụ thụ lý,

đạt tỷ lệ 99,76%; so với cùng kỳ năm 2016, thụ lý giảm 38 vụ, giải quyết giảm 36 vụ,

tỷ lệ giải quyết tăng 0,11%; có 05 bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan, chiếm tỷ

lệ 0,30%. Tòa án nhân dân cấp quận, huyện đã giải quyết 6.729/6.743 vụ thụ lý, đạt tỷ

lệ 99,79%; so với cùng kỳ năm 2015, thụ lý giảm 308 vụ, giải quyết giảm 300 vụ, tỷ lệ

giải quyết tăng 0,13%; có 25 bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan, chiếm tỷ lệ

0,37%. Tòa án nhân dân thành phố xét xử lưu động 32 vụ với 40 bị cáo. Trong đó, số

vụ xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã được giải quyết là 49 vụ với 52 bị cáo

[51].

- Năm 2018, Tòa án nhân dân Thành phố thụ lý 8.328 vụ việc các loại (Thụ

lý cũ: 2.859 vụ việc, thụ lý mới: 5.469 vụ việc), đã chuyển thẩm quyền 278 vụ việc,

còn lại phải giải quyết là 8.050 vụ việc; đã giải quyết 4.090 vụ việc, đạt tỷ lệ

50,81%; còn lại 3.960 vụ việc chưa giải quyết, trong đó có 2.822 vụ việc đang tạm

đình chỉ, 01 vụ việc quá hạn luật định. So với năm công tác 2017, tổng lượng án thụ

lý tăng 979 vụ việc, giải quyết giảm 197 vụ việc, tỷ lệ giải quyết giảm 9,18%.

Trong đó, số vụ xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã được giải quyết là 39 vụ

với 47 bị cáo [51].

- Năm 2019, Tòa án nhân dân Thành phố thụ lý 9.850 vụ việc các loại, giải quyết

5.057 vụ việc, đạt tỷ lệ 51,34%; còn lại 4.793 vụ việc chưa giải quyết, trong đó có 3.031

vụ việc đang tạm đình chỉ, 08 vụ việc quá hạn luật định chưa được giải quyết. So với

năm 2017, tổng lượng án thụ lý tăng 312 vụ việc, giải quyết giảm 112 vụ việc, tỷ lệ giải

quyết tăng 0,53%. Trong đó, số vụ xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã được giải

quyết là 37 vụ với 41 bị cáo.

Thực trạng xét xử các vụ án XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai

đoạn 2015 – 2019, cho thấy TA đã phối hợp chặt chẽ với CQĐT, VKS cùng cấp

tronng các hoạt động điều tra, truy tố để giải quyết kịp thời, bảo đảm xét xử đúng

người, đúng tội và áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với những hành vi xâm hại

trẻ em, nhất là hành vi XPTD người dưới 18 tuổi. Đối với các vụ án mà bị hại cần

được trợ giúp pháp lý, Tòa án đã chủ động liên lạc với các cơ quan trợ giúp pháp lý

51

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Trước tình hình các tội

XPTD người dưới 18 tuổi ngày càng phức tạp TA đã có những bước tiến mới trong

việc bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD như

sau:

- Về tòa gia đình và người chưa thành niên. Tòa gia đình và người chưa

thành niên được thành lập ngày 04/04/2016, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương

đầu tiên trong cả nước thành lập tòa chuyên trách này. Đây là Tòa gia đình và người

chưa thành niên trên cả nước với thẩm quyền chuyên biệt xét xử các vụ án hôn nhân

và gia đình, các vụ án dân sự, hình sự liên quan đến người chưa thành niên, đặc biệt

là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD. Đây là

bước tiến quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp, triển khai có hiệu quả các chủ

trương và quan điểm của Đảng và Nhà nước nhằm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ

em và xử lý người chưa thành niên phạm tội; đồng thời chứng tỏ cam kết mạnh mẽ

của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền trẻ em, đặc biệt là hoạt động tư pháp, thông

qua việc xây dựng một hệ thống tư pháp toàn diện mà Tòa gia đình và người chưa

thành niên là trung tâm, với sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức

có liên quan. Đây là phương thức thực hiện tinh thần khoản 3 Điều 103 Hiến pháp

năm 2013 về nguyên tắc xét xử kín. Theo báo cáo tổng kết công tác hoạt động của

Tòa gia đình và người chưa thành niên giai đoạn 2016 – 2019, Tòa gồm có 38 biên

chế (trong đó có 18 Thẩm phán và 20 thư ký); có 01 chánh tòa và 03 phó chánh Tòa

[53].

- Về phòng xử án: Phòng xử án hình sự của Tòa gia đình và người chưa

thành niên không có vành móng ngựa, bị cáo là người chưa thành niên được tiếp

xúc với người đại diện hợp pháp, người giám hộ, người thân, người bào chữa.

Trong các vụ án hình sự có bị hại là người dưới 18 tuổi, đặc biệt là các vụ án

XPTD, Tòa gia đình và người chưa thành niên đã sắp xếp riêng cho bị hại, tránh để

bị hại tiếp xúc với bị cáo làm ảnh hưởng đến tâm lý của bị hại trong quá trình xét

xử. Việc cách ly cũng bảo đảm lời khai của bị hại được khách quan. Tuy nhiên trụ

sở làm việc của Tòa gia đình và người chưa thành niên chưa đáp ứng được yêu cầu

đòi hỏi vì chỉ có 02 phòng xử án, 01 phòng hòa giải nên thiếu phòng cách ly, phòng

52

xử án, phòng hòa giải. Các phòng xử án, hòa giải có diện tích nhỏ, trong trường hợp

có nhiều đương sự thì không đủ sức chứa, người dự khán phải ngồi tràn ra ngoài

phòng [53]. Vấn đề thiếu phòng chức năng là Phòng cách ly bị hại là trẻ em là vấn

đề khó khăn đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

- Về thành phần tham gia xử án: Theo báo cáo tổng kết công tác hoạt động

của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong giai đoạn 2016 – 2019, thì tổng số

cán bộ công chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên là 38 người gồm 18

thầm phán và 20 thư ký [53]. Để đáp ứng yêu cầu xét xử hiện nay, dội ngũ nhân sự

phải nắm chắc quy định của pháp luật về người chưa thành niên, về hôn nhân gia

đình. Trình độ ngoại ngữ của các Thẩm phán còn hạn chế. Vì vậy, nhiều trường hợp

còn khó khăn khi giải quyết các vụ án đòi hỏi nghiên cứu, xem xét các tài liệu bằng

tiếng nước ngoài. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được TAND tối cao hướng dẫn theo

Công văn số 226/TANDTC-TCCB: Những người được chủ tịch nước bổ nhiệm

chức danh Thẩm phán (lần đầu) có nhiệm kỳ là 05 năm; những người được chủ tịch

nước bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán hoặc bổ nhiệm lại vào ngạch thẩm phán

(thông qua thi nâng ngạch) có nhiệm kỳ là 10 năm, hết nhiệm kỳ, Thẩm phán sẽ

được xem xét và bổ nhiệm lại. Với quy định gắt gao hiện nay, nếu trong nhiệm kỳ

gặp sai sót dẫn đến hủy án, Thẩm phán có thể không được xem xét bổ nhiệm lại,

hoặc thông qua thi nâng ngạch không đạt yêu cầu đồng nghĩa với việc trở lại làm

Thư ký. Quy định như vậy, có tác dụng thúc đẩy Thẩm phán có trách nhiệm hơn

trong công tác xét xử, không để tình trạng án tồn, án hủy xảy ra.

Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập: Việc quy định nhiệm kỳ đối với một chức

danh Thẩm phán là quá ngắn, đối với tình hình kinh tế ngày càng phát triển như

hiện nay, số vụ án ngày càng đa dạng và gia tăng về số lượng, hàng năm mỗi Thẩm

phán trung bình phải giải quyết hàng chục vụ án mỗi lĩnh vực, đồng thời phải bảo

đảm không có án tồn, án hủy, điều này khiến Thẩm phán không yên tâm với công

việc, không kiên quyết, mạnh dạn trong việc giải quyết án vì tâm lý e ngại án bị hủy

không được tái bổ nhiệm dẫn đến tình trạng vụ án giải quyết bị kéo dài hoặc án giải

quyết bị quá hạn, Thẩm phán không còn chuyên tâm vào từng vụ án mà chỉ quan

tâm đến số lượng giải quyết, nhiều trường hợp đến hạn báo cáo cuối năm, các Thẩm

53

phán phải cố dồn án giải quyết cho kịp chỉ tiêu và tiến độ. Điều này gây ảnh hưởng

lớn đến quyền lợi của các đương sự, cũng như không thể bảo đảm chất lượng xét

xử. Trong tình trạng các vụ án XPTD người dưới 18 tuổi diễn biến phức tạp và đa

dạng, việc có một đội ngũ bảo đảm về số lượng, chất lượng chuyên sâu, am hiểu và

có kinh nghiệm xét xử về lĩnh vực này, đặc biệt là thật sự có trách nhiệm với công

tác của mình sẽ thuận lợi hơn rất nhiều trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

Quy trình tuyển chọn, cử Hội thẩm nhân dân và năng lực trình độ của Hội

thẩm nhân dân trong giai đoạn hiện nay còn nhiều hạn chế. Hội thẩm nhân dân đóng

vai trò quan trọng trong công tác xét xử. Nhưng hiện nay, Hội thẩm nhân dân chủ

yếu là cán bộ kiêm nhiệm hoặc công chức Nhà nước đã nghỉ hưu nên rất ít người

được đào tạo chính quy có trình độ đại học hoặc trên đại học về luật mà chủ yếu chỉ

có trình độ trung cấp về luật. Điều này gây trở ngại không nhỏ trong công tác xét xử

những vụ án liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi

trong các vụ án XPTD. Trên thực tế rất ít Hội thẩm thực hiện đúng trách nhiệm và

nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho mình, chế định Hội thẩm tham gia xét xử còn

mang nặng tính hình thức.

2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc bảo đảm quyền

của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục

Qua thực tiễn, tác giả nhận thấy nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

trong việc bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD được thể

hiện:

Thứ nhất, nguyên nhân về các quy định của pháp luật

- Chưa thống nhất trong quy định có liên quan đến XPTD trẻ em và bảo đảm

quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ XPTD trẻ em. Khái niệm về trẻ

em và độ tuổi của trẻ em hiện nay được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới

luật, nhưng không có sự thống nhất, rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau về độ

tuổi của trẻ em. Việc quy định không thống nhất, rõ ràng về độ tuổi của trẻ em đã

gây khó khăn, bất cập trong công tác bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18

tuổi trong các vụ XPTD trẻ em.

- Thiếu những quy định xử lý các cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố giác

54

hành vi XPTD người dưới 18 tuổi; không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ

trách nhiệm bảo vệ người dưới 18 tuổi bị xâm hại.

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước toà án khá nhiều và cồng

kềnh. Ngoài Luật còn có những văn bản hướng dẫn chi tiết như: nghị định, thông tư,

nghị quyết... Các văn bản dưới luật này lại rải rác, được ban hành có tính hệ thống

không cao gây khó khăn cho việc áp dụng, thực thi trên thực tế. Thêm vào đó,

phương pháp liệt kê được sử dụng phổ biến trong quá trình xây dựng pháp luật giúp

các cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng áp dụng để giải quyết án XPTD người dưới

18 tuổi nhưng tính dự báo sẽ không cao, sẽ là trở ngại cho công tác điều tra, truy tố,

xét xử khi có những tình tiết mới phát sinh mà pháp luật chưa dự liệu được và

không có cơ sở để giải quyết.

Thứ hai, nguyên nhân từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng

Theo yêu cầu công tác thì đội ngũ cơ quan tiến hành tố tụng phải nắm chắc các

quy định của pháp luật về tư pháp người chưa thành niên, về hôn nhân gia đình.

Vấn đề năng lực trình độ của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán xét xử còn

nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi của thực tế. Nhiều cán bộ còn chưa nắm

vững khái niệm và trình tự hoạt động giải quyết án thuộc thẩm quyền. Trình độ ngoại

ngữ của các cán bộ tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn hạn chế. Vì vậy,

nhiều trường hợp còn khó khăn khi giải quyết các vụ án đòi hỏi phải xem xét, nghiên cứu

các tài liệu bằng tiếng nước ngoài.

Mặc dù Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên trong cả nước thành

lập Tòa gia đình và người chưa thành niên nhưng hiện nay đội ngũ cán bộ làm công

tác này còn thiếu. Các cơ quan khác cũng chưa có bộ phận chuyên trách liên quan

đến vấn đề đảm bảo quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

Thứ ba, Nhận thức về pháp luật của bản thân bị hại và gia đình còn hạn chế

Trong nhiều vụ án mặc dù tại Cơ quan điều tra và trong hồ sơ vụ án đã thể

hiện quan điểm rõ ràng và khẳng định hành vi của bị cáo là XPTD đối với họ.

Nhưng do trong quá trình xét xử gia đình bị cáo và bi hại đã thỏa thuận, thống nhất

với nhau và thậm chí do sự tác động nào đó (có thể bị đe dọa hoặc hứa hẹn) nên tại

phiên tòa bị hại thay đổi lời khai, phủ nhận lời khai trước và một mực bảo vệ bị cáo,

55

cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi XPTD đối với họ như trong hồ sơ vụ án đã

thể hiện... qua đó gây nhiều khó khăn cho Hội đồng xét xử trong quá trình giải

quyết vụ án đó.

Trong các vụ án XPTD đối với người dưới 18 tuổi, bị hại và gia đình của bị

hại thường có tâm lý e ngại, lo sợ ảnh hưởng đến danh dự, cuộc sống nên nhiều gia

đình chưa dám lên tiếng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Khi xảy ra

vụ việc, họ thường không trình báo với cơ quan có thẩm quyền mà dấu diếm, bỏ

qua hoặc tự thỏa thuận với người có hành vi phạm tội và gia đình của người phạm

tội gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ

án, do thời gian xảy ra lâu, sự hợp tác không chặt chẽ của người phạm tội, người bị

hại nên việc giám định của cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn, cũng ảnh hưởng

đến việc giải quyết vụ án.

Có trường hợp bị hại quan hệ tình dục với nhiều người trong thời gian dài,

nên khi cơ quan tiến hành điều tra thì không có chứng cứ buộc tội tất cả các đối

tượng. Cũng như có trường hợp biết sự việc thì gia đình bị cáo và bị hại tự thỏa

thuận với nhau về việc bồi thường, sau đó không thống nhất được mức bồi thường

nên bị hại mới tố cáo hành vi của người phạm tội, nhưng việc khai báo không phù

hợp với các tình tiết khách quan của vụ án nên việc điều tra và nhận định các chứng

cứ gặp nhiều khó khăn, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

Bên cạnh đó, một số loại tội liên quan đến XPTD xảy ra trông nội bộ gia

đình nên việc phát hiện, tố giác và xử lý gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính là

do nhận thức của người bị XPTD còn hạn chế, không tố giác kịp thời các hành vi

này. Trong các trường hợp này bị hại có thái độ cam chịu hoặc không hợp tác với

chính quyền địa phương, đoàn thể có biện pháp kịp thời mà âm thầm chịu đựng cho

đến khi không thể chịu đựng được nữa mới gửi đơn tố cáo hành vi XPTD. Khi Tòa

án yêu cầu cung cấp chứng cứ thì không cung cấp được chứng cứ chứng minh là có

hành vi XPTD gây khó khăn cho TA trong việc giải quyết, xét xử vụ án.

Nhận thức pháp luật của một số người dân còn nhiều hạn chế. Nhiều người

chưa nhận thức được hành vi của họ thực hiện là hành vi vi phạm pháp luật hoặc

danh dự, nhân phẩm của họ đã bị xâm hại, phổ biến nhất là hành vi giao cấu với trẻ

56

em. Thông thường giữa bị cáo và bị hại có quan hệ tình cảm, thậm chí có trường

hợp gia đình bị hại còn tổ chức đám cưới cho hai người tạo điều kiện cho bị cáo

thực hiện hành vi giao cấu với bị hại. Do đó, việc xử lý, phát hiện hành vi phạm tội

chưa triệt để, một số trường hợp còn che dấu, không hợp tác trong quá trình giải

quyết vụ án.

Điển hình như vụ án thứ chín: Nguyễn Văn Phục, Từ Văn Phú là công nhân

công ty Liên Thành Phát tại xã V, huyện B, có quen biết với cháu Đoàn Lâm N là

con nuôi của bà B, gia đình bà này sống trong khuôn viên của công ty A. Khoảng 07

giờ 30 phút ngày 15/03/2013, Phục đến sửa mái tôn nhà bà A, Phục nói chuyện với

cháu N và theo cháu về phòng riêng. Tại đây, Phục đã giao cấu với cháu N. Do lo sợ

có thai nên ngày 18/03/2013, cháu N đã để lại toàn bộ sự việc cho bà A, sau đó bà A

đã lên công an trình báo sự việc.Trong quá trình điều tra, cháu N còn khai báo đã

giao cấu với Từ Văn Phú 03 lần tại nhà vệ sinh của công ty A [38]. (Trích bản án số

184/2014/HSST ngày 16 tháng 05 năm 2014 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh).

Trong vụ án trên do bị hại phát triển quá sớm so với độ tuổi nên các bị cáo

Phục và Phú có nhận thức sai về độ tuổi, khi giao cấu với Phú bị hại đã có sự chủ

động.

Hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực mà nền kinh thế thị trường mang

lại cũng tồn tại nhiều thiếu sót người dưới 18 tuổi dễ bị tác động, ảnh hưởng bởi

các phương tiện truyền thông. Do đặc điểm về tâm sinh lý của người dưới 18

tuổi, sự bồng bột thiếu suy nghĩ và non nớt về trí tuệ, trình độ nhận thức còn hạn

chế, thiếu kiến thức về xã hội là nguyên nhân bị XPTD.

57

Tiểu kết chương 2

Chương 2 của luận văn trên cơ sở những quy định của pháp luật về đảm bảo

quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD, đã làm rõ những nội dung như

sau:

Thứ nhất, tác giả đã khái quát những nội dung liên quan đến các vụ án XPTD

người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thông qua những nội dung

sau: khái quát chung về các đặc điểm kinh tế, xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh;

tình hình các vụ án XPTD người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh;

đặc điểm các vụ án XPTD người dưới 18 tuổi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ hai, thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

XPTD trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thông qua những nội dung: thực trang

bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn tiền khởi tố và khởi tố các vụ

án XPTD; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử.

Thứ ba, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong đảm bảo quyền của bị

hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

58

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO ĐẢM QUYỀN

CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG

CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC

3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

xâm phạm tình dục

Bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền không chỉ là nội

dung, bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp

quyền. Tố tụng hình sự là một lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến quyền con người.

Quyền con người đặc biệt là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong

các vụ án XPTD được ghi nhận và bảo vệ trong hoạt động TTHS bằng các phương

tiện, biện pháp khác nhau. Trong đó, các biện pháp quan trọng nhất là quy định

đúng đắn, hợp lý, khả thi trong pháp luật TTHS và bảo đảm thực hiện quy định đó

trên thực tế. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới

phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 02 năm 1990.

Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam là chăm lo con người, tôn trọng, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân. Với quan điểm nhất quan trong bảo đảm quyền

con người đặc biệt là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ

án XPTD, Đảng và Nhà nước ta hiện nay luôn đặt vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp

luật liên quan đến vấn đề này đặt lên hàng đầu thông qua Hiến pháp năm 2013 có

các quy định về con người và bảo đảm quyền con người là cơ sở Hiến định quan

trọng để xây dựng hệ thống pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở nước ta, đặc

biệt là hoạt động TTHS. Trên cơ sở này, Chính phủ đã ban hành kế hoạch triển khai

thi hành Hiến pháp, giao cho các cơ quan Nhà nước rà soát, lập danh mục đề xuất

các văn bản cần bãi bỏ, sửa đổi bổ sung các văn bản mới cho phù hợp với các quy

định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 đã thể hiện được các chuẩn mực cơ bản quốc tế và tinh thần của Hiến

pháp năm 2013 trong bảo đảm quyền con người đặc biệt là người dưới 18 tuổi bằng

59

việc đã có nhiều quy định mới về trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết vụ án hình sự

đối với người dưới 18 tuổi theo hướng quy định cho họ được thực hiện nhiều quyền

năng tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời có những quy

định nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan đến

người dưới 18 tuổi được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật như ban hành quy

định mới về việc xác định tuổi của bị hại; bổ sung các quyền của người đại diện,

nhà trường, tổ chức khi tham gia tố tụng; sửa đổi, bổ sung thủ tục lấy lời khai bị hại

là người dưới 18 tuổi; sửa đổi, bổ sung về thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi

bằng việc quy định thủ tục tố tụng áp dụng đối với người dưới 18 tuổi thành một

chương riêng quy định tại Chương XXVIII, Phần thứ bảy (Thủ tục đặc biệt) với tên

gọi “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” gồm 18 điều, từ Điều 413 đến điều

430. Những quy định này chặt chẽ hơn, bảo đảm các hoạt động tố tụng được thực

hiện phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thực của

người dưới 18 tuổi

Ngày 02/06/2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49/NQ – TW về “

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” là một nội dung quan trọng trong

đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng. Thời gian qua, hoạt động cải cách

tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tổ chức bộ máy TA, viện kiểm sát,

Cơ quan điều tra tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động được nâng cao.

Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương “tiếp tục đổi mới, sắp xếp

bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” nêu trong

Nghị quyết số 18 – NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị Ban chấp

hành Trung ương lần thứ 6. Rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, TA gắn với việc cải cách thủ tục hành chính. Chú trọng phân định

rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng gắn với trách nhiệm,

quyền hạn tư pháp của cán bộ được giao thực hiện các hoạt động tư pháp

Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự và bảo đảm quyền con

người nói chung và bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án

XPTD thông qua các giai đoạn gồm các giai đoạn khởi tố và tiền khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Mỗi giai đoạn do một chủ thể khác

60

nhau thực hiện, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và kiểm soát lẫn nhau để

bảo đảm quyền lợi của bị hại. Trong tố tụng hình sự, nạn nhân của tội phạm tham

gia tố tụng với tư cách bị hại không chỉ là quyền mà là nghĩa vụ. Ở phương diện

quyền con người nói chung, bị hại đặc biệt là bị hại là người dưới 18 tuổi đã bị tội

phạm xâm phạm và họ có quyền yêu cầu các cơ quan THTT bảo vệ quyền con

người của mình.

3.2. Giải pháp góp phần bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong

các vụ án xâm phạm tình dục

3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật

Nhìn chung, Việt Nam đã có một hệ thống khung pháp luật tương đối toàn

diện và đầy đủ để bảo đảm và bảo vệ các quyền con người nói chung, trong đó có

quyền của người dưới 18 tuổi nói riêng. Bộ luật hình sự năm 2015, BLTTHS năm

2015, Nghị định số 06/2019... ban hành là bước tiến mới trong việc đảm bảo quyền

của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD. Tuy nhiên, các quy định bảo

đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trẻ em còn tản

mạn, chưa tập trung theo lĩnh vưc; trong đó có một số quy định còn chung chung,

khó thực hiện. Theo đó, thời gian tới cần phải rà soát, hệ thống hóa các quy định

này trên cơ sở đó ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung theo hướng tổng thể, toàn

diện.

Trẻ em là thế hệ mầm non - tương lai của đất nước, cần được chăm sóc bảo

vệ, giáo dục, trong những điều kiện tốt nhất bởi nhà trường và xã hội. Pháp luật Việt

Nam luôn dành sự quan tâm đến trẻ em, xem trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia

đình của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng

thời trang bị hành trang pháp luật để bảo vệ người dưới 18 tuổi bị xâm hại, đặc biệt

là XPTD trẻ em. Trong thời gian tới để hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến

vấn đề bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD trẻ

em theo những giải pháp sau:

3.2.1.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan đến giai đoạn

tiền khởi tố và khởi tố

61

- Để giải quyết các vụ án XPTD người dưới 18 tuổi hiện nay nhanh chóng,

kịp thời. Hiện nay các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành hướng dẫn cụ thể quy

định về giám định khẩn cấp đối với những trường hợp tố giác tội phạm. Cơ quan có

thẩm quyền cần chủ động phối hợp với cơ quan chuyên môn xây dựng quy trình

giải quyết theo hướng khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm nhanh chóng, kịp thời

thực hiện các hoạt động: kịp thời thu giữ dấu vết đặc biệt là lông, tóc, sợi, dịch,

máu, quần áo, công cụ trong các vụ án XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi; phối

hợp với Bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý, bác sĩ chuyên khoa phụ sản, cán bộ đã được

đào tạo chuyên môn về quản lý chăm sóc, giáo dục trẻ en xử lý thông tin ban đầu,

thăm khám, thu thập dấu vết, vật chứng có liên quan trên thân thể nạn nhân để tiến

hành giám định pháp y trong thời gian nhanh nhất nhằm kết luận có hay không có

dấu hiệu XPTD; công tác khám nghiệm hiện trường cần kịp thời, tỉ mỉ, toàn diện để

đánh giá lời khai của bị hại là có căn cứ hay không, để làm căn cứ đấu tranh với bị

can vì đây là những chứng cứ quan trọng để truy nguyên đối tượng.

- Cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn hoặc có văn bản hướng dẫn về vấn đề

khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu trong

vấn đề quy định cụ thể về nội dung, hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình sự cho

phù hợp với thực tiễn hơn. Về vấn đề đơn tố cáo, tố giác tội phạm theo tác giả nên

xác định là một trong những nội dung của yêu cầu khởi tố sau khi kiểm tra, xác

minh vì trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội. Quy định như vậy

sẽ thống nhất trong nhận thức của cơ quan THTT trong việc xác định đơn tố cáo có

phải là yêu cầu khởi tố hay không, làm giảm bớt thời gian, chi phí tố tụng, tránh làm

cho bị hại phải gánh chịu thêm những thiệt hại về tinh thần, uy tín, danh dự do việc

khởi tố vụ án gây ra mà vẫn đạt được mục đích cuối cùng là giáo dục người phạm

tội. Cần có hướng dẫn cụ thể trong việc thay đổi quyết định khởi tố trong trường

hợp phát sinh các tình huống phức tạp hay đưa ra các án lệ, các thông báo rút kinh

nghiệm để bị hại có thể dễ dàng hơn trong việc rút yêu cầu khởi tố.

3.2.1.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan đến giai đoạn

điều tra

62

- Về vấn đề lấy lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án

XPTD nên có quy định cụ thể trong việc mời chuyên gia tâm lý tham gia cùng.

Trong trường hợp không mời được cần tập huấn cho các cán bộ các kĩ năng như là

quan sát thái độ, cử chỉ hành động của các em, cần sử dụng những từ ngữ đơn giản,

dễ hiểu mà ở nhà ông bà, bố mẹ hay dùng trao đổi với bị hại. Cần chú ý kết hợp với

người nhà của nạn nhân xem xét những biểu hiện như: nép chặt vào cha mẹ, không

dàm nhìn người lạ, òa khóc khi gặp người lạ, trên người có dấu vết bị XPTD hay

không, có biểu hiện giật mình khóc thét, ngại tắm, ngại cởi quần áo, sợ bị người

khác chạm vào người… Tự nhiên có tiền hoặc quà, phát ngôn những từ ngữ mới, vẽ

hình ảnh bất thường về tình dục, có phương pháp tình dục không phù hợp, … để có

phương pháp tiếp cận trẻ phù hợp với lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi.

- Về xác định độ tuổi của bị hại quy định tại Điều 417 BLTTHS năm 2015

cần có hướng dẫn cụ thể căn cứ xác định tuổi, cách thức xác định tuổi của bị hại

là người dưới 18 tuổi trong trường hợp không có giấy tờ hoặc giấy tờ, tài liệu về

xác định tuổi của họ có mấu thuấn, không rõ rảng. Theo đó, quy định rõ căn cứ

để xác định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi gồm: giấy chứng sinh, giấy khai

sinh, giấy chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, sổ hộ khẩu, lời khai của

cha mẹ, người thân thích, người biết việc, người đại diện, người bảo vệ quyền lợi

của người dưới 18 tuổi và các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi

của người đó. Trường hợp không có giấy tờ, tài liệu hoặc giấy tờ, tài liệu xác

định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi có mâu thuẫn, không rõ ràng có thể xác

định chính xác ngày, tháng, năm sinh cho người dưới 18 tuổi thì cơ quan tiến

hành tố tụng phải phối hợp với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà

trường, đoàn thanh niên nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động sinh hoạt để

lấy lời khai, áp dụng biện pháp xác minh để xác định chính xác tuổi của người

dưới 18 tuổi. Trường hợp đã áp dụng biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định

được khoảng thời gian tháng, quý, nửa năm của năm sinh thì tùy từng trường hợp

cụ thể thì căn cứ vào khoản 2 Điều 417 của BLTTHS. Trường hợp kết quả giám

định tuổi chỉ xác định được khoảng độ tuổi thì cơ quan THTT lấy tuổi thấp nhất

trong khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi.

63

3.2.1.3. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan đến giai đoạn

truy tố

- Về vấn đề trích dẫn cáo trạng, hiện nay việc trích dẫn điều luật trong cáo

trạng là chưa thống nhất, trong thực tế tuy không làm ảnh hưởng đến quyết định

truy tố của Viện kiểm sát. Nhưng theo tác giả để bảo đảm tính nghiêm minh và

thống nhất thì cần phải xem xét vấn đề này trước hết cần tuân thủ đầy đủ và đúng

quy định tại Điều 243 và Điều 461 BLTTHS năm 2015. Bám sát mẫu hướng dẫn số

144/HS (Ban hành kèm theo quyết định số 15/QĐ – VKSTC ngày 09 tháng 01 năm

2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Nghiên cứu kỹ và vận dụng

có hiệu quả Thông báo rút kinh nghiệm số: 811/TB – VKSTC – V1C ngày 18 tháng

11 năm 2014 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về rút kinh nghiệm một số tồn tại,

hạn chế về báo cáo, chỉ thị ban hành Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh

miền trung; Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT – VKSNDTC – BCA – BQP ngày

19 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ công an – Bộ quốc

phòng về quy định phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực

hiện một số quy định của BLTTHS. Đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành một

văn bản hướng dẫn chính thức về “trích dẫn điều luật” trong cáo trạng hoặc là phải

thống nhất vận dụng công văn số 1044/VKSTC – V4 ngày 29/03/2017 của Vụ 4 –

Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Theo tác giả cách tính thời hạn trả hồ sơ để điều tra bổ sung cần có hướng

dẫn cụ thể căn cứ vào khoản 2 điều 174 của BLTTHS năm 2015 và quy định rõ ràng

như sau: khi TA trả hồ sơ điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung là không quá

01 tháng là giai đoạn thẩm quyền của Tòa trả cho Viện kiểm sát, còn nếu Viện kiểm

sát tự bổ sung được thì trong thời hạn 01 tháng phải tiếp tục truy tố và chuyển hồ sơ

cho TA. Trong trường hợp Viện kiểm sát không thể tự bổ sung thì phải trả hồ sơ cho

Cơ quan điều tra thì lúc này thời hạn phải tính 02 tháng, bởi vì, thời điểm này hồ sơ

vụ án đang trong giai đoạn truy tố thì Viện kiểm sát có quyền quyết định việc trả hồ

sơ và phải tính thời hạn 02 tháng để đủ thời gian thu thập chứng cứ đối với vụ án

được nhập vào.

64

- Như đã nêu ở mục 2.2.3, chương 2 liên quan đến vấn đề nhập, tách vụ án

hình sự trong giai đoạn truy tố. Tuy nhiên hiện nay chưa có quy định về biểu mẫu

nhập, tách vụ án trong giai đoạn truy tố. Kiến nghị với Viện kiểm sát nhân dân tối

cao hướng dẫn và xây dựng biểu mẫu liên quan đến vấn đề này đúng quy định tại

điều 242 của BLTTHS năm 2015.

3.2.1.4 Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan đến giai đoạn xét xử:

- Trong thời gian tới, Quốc hội nên phê chuẩn tăng tuổi nghỉ hưu đối với một

số chức danh nhằm tận dụng uy tín, phẩm chất, kinh nghiệm... của các cán bộ này.

Trong quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán thủ tục còn quá rườm rà, cần đơn

giản hóa thủ tục bổ nhiệm. Đối với những trường hợp bổ nhiệm lại, cần đơn giản

hóa thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán. Điều này giúp cho hoạt động của Thẩm phán ít

bị gián đoạn hơn, góp phần làm giảm thiểu tình trạng thiếu Thẩm phán hiện nay.

Hiện nay có rất nhiều ý kiến cho rằng, cần nghiên cứu và thay đổi theo

hướng nhiệm kỳ của Thầm phán tiến đến bổ nhiệm không kỳ hạn. Nếu thay đổi như

vậy sẽ tạo ra những thuận lợi đáng kể. Thứ nhất, không phải tuyển chọn, bổ nhiệm

nhiều lần đối với một Thẩm phán, điều này sẽ giảm đi một khối lượng đáng kể cho

chủ thể có Thẩm quyền bổ nhiệm, đặc biệt với việc bổ nhiệm lại thẩm phán TAND

địa phương. Thứ hai, việc bổ nhiệm một lần sẽ tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm

phán, Chánh án, Phó Chánh án tâm lý ổn định và yên tâm công tác, tránh được tình

trạng bị gián đoạn công tác khi chưa tiến hành làm thủ tục tái bổ nhiệm đúng kỳ hạn

với Thẩm phán hết nhiệm kỳ. Thực tế có nhiều nước trên thế giới đã và đang áp

dụng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời có hiệu quả như Hoa Kỳ, Cộng hòa

Pháp, Cộng hòa Liên Bang Nga... Pháp luật của các nước này quy định cho Thẩm

phán được hưởng quyền "bất khả miễn nhiệm". Đây là một quyền rất quan trọng, là

một bảo đảm về mặt pháp lý cho Thẩm phán chuyên tâm vào sự nghiệp xét xử của

mình. Xét xử luôn được xác định là chức năng của Thẩm phán trừ khi họ tự nguyện

chuyển công tác vì lý do sức khỏe mà không bảo đảm được công việc, đến tuổi nghỉ

hưu hay do vi phạm pháp luật. Do ổn định về mặt công tác nên ý thức tự học tập

nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trau dồi kỹ năng nghề nghiệp của các

Thẩm phán cũng được chú trọng hơn. Nhờ đó, nguyên tắc độc lập trong xét xử càng

65

được củng cố, hiệu quả xét xử được nâng cao. Đây thực sự là kinh nghiệm quý báu

để chúng toà án tham khảo, học hỏi để vận dụng bổ nhiệm Thẩm phán trong thời

gian tới.

- Trong quá trình tham gia xét xử, hội thẩm nhân dân thực hiện đúng chức

năng, thẩm quyền theo quy định của pháp luật, có quan điểm rõ ràng, độc lập, góp

phần cùng với hội đồng xét xử đưa ra phán quyết đúng pháp luật. Hội thẩm nhân

dân cần thường xuyên cập nhập kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử cơ bản đáp

ứng yêu cầu xét xử của TA trong các vụ án XPTD có bị hại là người dưới 18 tuổi.

Trước khi tham gia vụ án, hội thẩm nhân dân cần chủ động nghiên cứu kĩ hồ sơ,

nắm chắc nội dung vụ án, các chứng cứ và điều luật áp dụng. Qúa trình xét hỏi, cần

có ý kiến phân tích, đánh giá, chứng cứ để đi đến thống nhất, đưa ra ý kiến thống

nhất để đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan

sai, bỏ lọt tội phạm.

Trong việc bầu Hội thẩm nhân dân cần thực hiện đúng theo các bước hướng

dẫn, chú trọng lựa chọn những người có kinh nghiệm xét xử các vụ án XPTD người

dưới 18 tuổi, những hội thẩm có kiến thức pháp luật, hội thẩm là cán bộ đoàn viên,

giáo viên đảm bảo đủ thành phần theo quy định. Yêu cầu những người làm công tác

này phải có uy tín, có tinh thần trách nhiệm cao và có phẩm chất chính trị, đạo đức

nghề nghiệp và khả năng nghiên cứu, áp dụng trong hoạt động xét xử.

Để Hội thẩm nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, nâng cao vai trò

trong công tác xét xử, thì mỗi người cần hiểu được đây là nhiệm vụ chính trị quan

trọng được Đảng và Nhà nước giao và chỉ có TA là chủ thể có quyền nhân danh Nhà

nước đưa ra phán quyết, trong phán quyết đó có đại diện cho ý chí của nhân dân.

Hội thẩm nhân dân cùng với TA bảo vệ quyền công lý, bảo vệ quyền con người, bảo

vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức. Các cấp chính quyền cần

quan tâm hộ trợ hơn nữa để khẳng định vai trò, tầm quan trọng của Hội thẩm nhân

dân trong hoạt động xét xử; từng bước nâng cao chất lượng của hội thẩm từ lúc

tuyển chọn đến khi xét xử.

3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường nhận thức về bảo đảm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tình dục

66

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về giới, về tình

dục về quyền của phụ nữa trẻ em, một cách sâu rộng có trọng tâm, trọng điểm để bị

hại và gia đình của họ nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình trong đấu

tranh phòng chống XPTD. Đề xuất với Bộ giáo dục và đào tạo đưa môn giáo dục

công dân, giáo dục giới tính, giáo dục quyền con người vào chương trình giáo dục

bắt buộc đối với học sinh, sinh viên ngay từ sớm nhằm nâng cao nhận thức và khả

năng tự vệ từ chính đối tượng có nguy cơ bị XPTD. Thường xuyên phổ biến những

phương thức, thủ đoạn phạm tội và các vụ việc xảy ra để người dân và tự bản thân

trẻ em nâng cao ý thức phòng ngừa; hướng dẫn cho người dưới 18 tuổi một số biện

pháp phòng chống XPTD. Thiết lập các đường dây "nóng", hòm thư tố giác tội

phạm để tiếp nhận mọi thông tin, tài liệu liên quan đến các vụ việc XPTD trẻ em.

Trong công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho người dưới

18 tuổi cần thông tin về tình trạng XPTD trẻ em, nguyên nhân, hậu quả và những

biện pháp phòng, chống XPTD trẻ em. Đồng thời, tuyên truyền những vấn đề liên

quan đến bổn phận và quyền trẻ em được quy định trong Luật trẻ em; tuyên truyền,

giáo dục cho các em những kiến thức về sức khỏe, giới tính và các kỹ năng cần thiết

chống bị xâm hại và lạm dụng tình dục, giới thiệu về quy tắc "4 vòng tròn, 5 ngón

tay", "vùng cấm trên cơ thể"; tư vấn pháp luật và tâm lý, cảnh báo đến người dưới

18 tuổi những chiêu thức mà thủ phạm thường sử dụng. Qua đó giúp người dưới 18

tuổi có thể bảo vệ mình trước các nguy cơ bị XPTD.

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hình sự,

hôn nhân gia đình, pháp luật về chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em và pháp luật về

phòng, chống XPTD người dưới 18 tuổi cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,

vùng xa, khu vực nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh hơn nữa công tác

thông tin, tuyên truyền Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 -

2020. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải có kế hoạch, chương trình ngắn

hạn, dài hạn cụ thể trong đó chủ động chú trọng đến việc lồng ghép nội dung tuyên

truyền phòng, chống XPTD phụ nữ và trẻ em vào trong sinh hoạt thôn, ấp, tổ dân

phố; trong sinh hoạt ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của tổ chức,

đoàn thể các cấp.

67

Hơn ai hết để bảo vệ con em mình trước nguy cơ bị XPTD cần nâng cao vai

trách nhiệm của cha mẹ và người thân để tránh những sự việc đau lòng do tội phạm

XPTD gây nên, cha mẹ cần thường xuyên quan tâm, chia sẻ với con mình để nhận

thấy những thay đổi tâm sinh lý cần thiết.

Thứ hai, về phía các cơ quan THTT. Cần sớm có kế hoạch đào tạo về trình

độ tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi cho cán bội điều tra,

kiểm sát viên, Thẩm phán để giải quyết các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi

trong đó có nhóm tội XPTD; thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm trong công tác

điều tra, truy tố, xét xử các vụ án này. Đồng thời, quan tâm sắp xếp các cán bộ theo

hướng chuyên sâu, có tính ổn định theo từng lĩnh vực công tác. Tăng cường việc

đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức bổ trợ.

Công tác này được đổi mới và tăng cường với các hình thức đào tạo cần phong phú,

toàn diện như: kết hợp đào tạo trong nước và nước ngoài, đào tạo tập trung với đào

tạo tại đơn vị công tác để tạo nguồn nhân lực có chất lượng. Để đội ngũ cán bộ Điều

tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đáp ứng yêu cầu trong công tác giải quyết án

XPTD hiện nay cần có một kế hoạch cụ thể để chuẩn hóa đào tạo, bồi dưỡng. Chú

trọng đào tạo chuyên sâu và sau đại học để xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi trên từng

lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Phối hợp liên kết với các trường đại

học, trung tâm đào tạo khác cùng chuyên ngành để đa dạng hóa các loại hình đào

tạo, bồi dưỡng.

Tăng cường công tác đào tạo, tự đào tạo qua hoạt động thực tiễn như: các

phiên tòa rút kinh nghiệm… Đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo,

bồi dưỡng thẩm phán phù hợp với chuyên môn, công việc và từng ngạch thẩm phán.

Chú trọng truyền đạt các nội dung: kiến thức pháp luật mới, kỹ năng nghiệp vụ mới,

kỹ năng nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận chính trị, pháp luật quốc tế, ngoại

ngữ, tin học, kỹ năng dân vận… Bảo đảm nội dung kiến thức truyền đạt vừa rộng,

vừa chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lý thuyết và thực hành,

giúp thẩm phán nắm vững kiến thức, thành thạo kỹ năng, ngày càng nâng cao trình

độ chuyên môn. Đồng thời, bảo đảm các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán

phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ và thật sự chí công vô tư

68

vì nếu không có một đội ngũ cán bộ vừa giỏi lý luận vừa giàu kinh nghiệm thực

tiễn, có bản lĩnh nghề nghiệp thì không thể nâng cao chất lượng xét xử được.

Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải thường xuyên tự giác cập

nhập hệ thống văn bản pháp luật trong nước, các văn bản quy định tập quán và

thông lệ quốc tế có liên quan đến việc giải quyết án XPTD người dưới 18 tuổi để áp

dụng một cách linh hoạt, hợp lý và chủ động khi giải quyết một vụ án cụ thể. Nâng

cao năng lực cho Hội thẩm nhân dân, Thư ký, Thẩm tra viên, Điều tra viên, Kiểm

sát viên tham gia các vụ việc liên quan đến trẻ em ở cấp Trung ương và cấp tỉnh với

các tài liệu và các lớp tập huấn về điều tra thân thiện với trẻ em do UNICEF xây

dựng và tổ chức.

Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét

xử. Trong phân công nhiệm vụ ở từng bộ phận cũng cần tiêu chuẩn hóa cả về tiêu

chuẩn chuyên môn và tiêu chuẩn ngoại ngữ.

Bên cạnh trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì kỹ năng sử dụng tin học cũng

giúp cho cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng giải quyết công

việc, trình bày văn bản khoa học và đúng quy định. Do vậy, cần chú trọng công tác

đào tạo tin học cho cán bộ.

Chú trọng công tác bồi dưỡng lý luận chính trị và đạo đức nghề nghiệp

thông qua việc tuyển chọn, giáo dục và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội

bộ. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với

việc khắc phục những tồn tại, hạn chế; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong

nội bộ. Đẩy mạnh việc tuyên truyền phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt,

các tập thể, điển hình tiên tiến. Tiếp tục bám sát chủ đề “Phụng công thủ pháp, chí

công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” gắn với việc

thực hiện “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh” trong

đạo đức, lối sống của cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ xét xử, các lớp phổ biến

các quy định pháp luật mới ban hành liên quan đến hoạt động giải quyết án XPTD

69

trẻ em cho cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử. Tăng cường trao đổi, rút

kinh nghiệm về án XPTD giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, TA.

Chú trọng hơn nữa công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán

bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử. Tạo điều kiện để các điều tra viên, kiểm sát

viên, thẩm phán tham gia các lớp/khóa tập huấn, đào tạo và đào tạo lại để nâng cao

năng lực cũng như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Các cơ quan tiến hành tố tụng

Thành phố trong thời gian tới nên tổ chức nhiều buổi tọa đàm về văn hóa pháp đình

với sự tham gia của nhiều chuyên gia pháp lý trên các lĩnh vực như Thẩm phán,

Kiểm sát viên, luật sư, giảng viên trường Đại học luật, nhà báo… để rút ra được

nhiều kinh nghiệm trong công tác xét xử đồng thời tự bản thân các cán bộ làm công

tác điều tra, truy tố, xét xử Thành phố Hồ Chí Minh điều chỉnh, tu dưỡng, rèn luyện

bản thân.

Tòa chuyên trách chuyên giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa

thành niên, cán bộ nhất là Thẩm phán Tòa gia đình và người chưa thành niên phải

có kiến thức chuyên môn theo quy định, phải có kiến thức về tâm sinh lý, kỹ năng

sư phạm, làm việc với người dưới 18 tuổi. Hay nói cách khác họ phải được chuyên

môn hóa cao.

Cần triển khai ngay việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các bộ làm công tác điều

tra, truy tố, xét xử những kiến thức cơ bản về giáo dục, tâm lý học, đồng thời bồi

dưỡng kỹ năng tiến hành tố tụng trong các vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi, đặc

biệt là các vụ án về XPTD.

Tòa án nhân dân các cấp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cần chủ động

phối hợp chặt chẽ trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử để có thể kịp thời nắm

bắt được diễn biến của vụ án lên kế hoạch xét xử, bảo đảm kịp thời giải quyết các

vụ XPTD người dưới 18 tuổi. Cần nâng cao hiệu quả điều tra, xử lý tội phạm XPTD

người dưới 18 tuổi, cần xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật, kiên quyết đấu

tranh không để lọt tội phạm. Trong công tác tổ chức các phiên tòa xét xử các vụ án

XPTD đối với người dưới 18 tuổi, các TA cần cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm vừa làm

rõ tình tiết của vụ án, đồng thời bảo đảm thuần phong mỹ tục, các yếu tố văn hóa,

bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người dưới 18 tuổi. Hình phạt áp dụng đối với các

70

tội XPTD người dưới 18 tuổi cần phải bảo đảm quy định của pháp luật, nghiêm

minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đáp ứng được

yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các vụ XPTD người dưới 18

tuổi nói riêng.

Tiểu kết chương 3

Đảm bảo quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD là một nhu

cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay các vụ án XPTD người dưới 18 tuổi đang gây

bức xúc trong dư luận xã hội. Tác giả đã trình bày những nội dung như sau:

Thứ nhất, tác giả đã trình bày những quan điểm liên quan đến vấn đề bảo

đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD thể hiện sự nỗ lực của

Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện đảm bảo quyền con người nói chung và bảo

đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD nói riêng.

Thứ hai, trên cơ sở thực trạng tác giả đã kiến nghị những giải pháp hoàn

thiện các quy định của pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi

trong các vụ án XPTD, đồng thời đề ra những giải pháp tăng cường nhận thức về

bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

Đây là những giải pháp dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn mà tác giả đúc kết

được qua quá trình nghiên cứu.

71

KẾT LUẬN

Trong thời gian qua, tình trạng tội phạm XPTD, đặc biệt là các tội XPTD

người dưới 18 tuổi diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng, nhiều vụ việc nghiêm

trọng gây bức xúc trong dư luận xã hội. Bên cạnh đó việc triển khai các quy định

của BLHS, BLTTHS, các đạo luật có liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành

cũng gặp một số khó khăn, vướng mắc nhất định.

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế của cả nước và thường xuyên

đóng góp nhiều nhất vào tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Bên cạnh những thành

tựu về mặt kinh tế - xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn gặp phải không ít khó

khăn, thách thức do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, mà đáng chú ý là

sự gia tăng tỷ lệ tội phạm, trong đó có tội phạm XPTD người dưới 18 tuổi. Điều

này đặt ra áp lực không nhỏ đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo

đảm quyền con người, đặc biệt là đảm bảo quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các

vụ án XPTD.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả đã nghiên cứu những nội dung như

sau:

Trong chương 1 của luận văn, trên cơ sở phân tích những quan điểm tác giả

đã đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi, xâm hại tình dục, đảm bảo quyền của bị hại

dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD; đặc điểm về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18

tuổi trong các vụ án XPTD; ý nghĩa bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong

các vụ án XPTD. Làm rõ những quy định của BLTTHS Việt Nam về bảo đảm

quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD thông qua những nội dung:

quy định của BLTTHS Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong

giai đoạn tiền khởi tố và khởi tố; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét

xử các vụ án XPTD

Chương 2 của luận văn, tác giả đã làm rõ thực trạng thông qua: khái quát

những nội dung liên quan đến các vụ án XPTD người dưới 18 tuổi trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18

tuổi trong các vụ án XPTD trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thông qua những

72

nội dung và đúc kết những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong đảm bảo

quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

Chương 3 của luận văn, tác giả đã trình bày những quan điểm liên quan đến

vấn đề bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD thể hiện sự nỗ

lực của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện đảm bảo quyền con người nói

chung và bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD nói

riêng. Trên cơ sở thực trạng tác giả đã kiến nghị những giải pháp hoàn thiện các quy

định của pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong

các vụ án XPTD, đồng thời đề ra những giải pháp tăng cường nhận thức về bảo đảm

quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án XPTD.

Do thời gian, nhận thức có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót, hạn

chế nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy, cô giáo, các

đồng nghiệp, các chuyên gia... để tác giả tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu

của mình.

Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thị Phương Hoa cùng các

thầy, cô giáo đã tham gia giảng dạy đã nhiệt tình hướng dẫn, truyền đạt kinh

nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tài liệu để tác giả thực hiện hoàn

thành Luận văn này./.

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trương Hòa Bình (2012), ''Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa

án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội

chủ nghĩa'', (10), tr.1-12.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2010 về chiến lược

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định

hướng năm 2020, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (1997), Nghị quyết số 1997/33 ngày 21/07/1997 của Hội đồng

Kinh tế và Xã hội (ECOSOC), Hà Nội.

4. Nguyễn Hữu Chính (2012), ''Đổi mới mô hình tổ chức Tòa án nhân dân đáp

ứng yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay'', Tạp chí Tòa án

nhân dân, (22), tr.1-3.

5. Đỗ Tiến Dũng (2014), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh

Bình Dương: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc

sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

6. Phạm Ngọc Hà, Nguyễn Tường Linh (2010), "Một số ý kiến về kinh nghiệm

tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán ở một số nước trên thế giới và tham khảo

vận dụng vào điều kiện Việt Nam", Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 13), tr.31-

34.

7. Nguyễn Sơn Hà (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là trẻ em trong điều tra các

vụ án xâm hại tình dục của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Đống

Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Pháp luật về quyền con người, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

8. Phạm Hồng Hải (2004), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

9. Nguyễn Quang Hiền (2009), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự

Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

10. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư pháp, Hà

Nội.

74

11. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình cao cấp lý luận

chính trị: Lý luận pháp luật về quyền con người, Nxb Lý luận chính trị, Hà

Nội.

12. Phạm Mạnh Hùng (2002), Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về

các tội xâm phạm tình dục trẻ em, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại học

Luật thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

13. Nguyễn Thị Lành (2005), Các tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên

dưới góc độ pháp lý hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt

nghiệp cử nhân, Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

14. Phạm Lê Liên (2015), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

15. Liên Hợp quốc (1985), "Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp quốc

về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên (Quy tắc Bắc Kinh)", tại

trang https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Quy-tac-tieu-chuan-

toi-thieu-ve-hoat-dong-tu-phap-doi-voi-nguoi-vi-thanh-nien-1985-

275842.aspx, [truy cập ngày 06/03/2019].

16. Liên Hợp quốc (1989), ''Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em", tại trang

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-cua-Lien-hop-

quoc-ve-quyen-tre-em-233659.aspx, [truy cập ngày 05/03/2019].

17. Nguyễn Đức Mai và các cộng sự (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Trương Thị Hương Mai (2008), Bảo đảm quyền trẻ em trong kiểm sát điều tra

các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

19. Dương Tuyết Miên (1998), Về các tội xâm phạm tình dục trong Luật hình sự

Việt Nam, Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

20. Vũ Thị Thanh Nga (2018), ''Vấn đề xâm hại tình dục ở trẻ em hiện nay và sự

cần thiết của hoạt động tham vấn tâm lý tại trường học", tại trang

http://hnmu.edu.vn/tin-tuc/van-de-xam-hai-tinh-duc-o-tre-em-hien-nay-va-su-

can-thiet-cua-hoat-dong-tham-van-tam-ly-tai-truong-hoc.html, [truy cập ngày

05/6/2019].

75

21. Đỗ Thị Phượng (2008), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong

Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

22. Quốc hội (2005), Luật Thanh niên năm 2005, Hà Nội.

23. Quốc hội (2012), Luật Lao động, Hà Nội.

24. Quốc hội (2012), Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung Điều 2

Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH11 về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân,

Thẩm phán của Toà án nhân dân, Hà Nội.

25. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

26. Quốc hội (2014), Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hà Nội.

27. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13, Hà Nội.

28. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13, Hà Nội.

29. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự Việt Nam số 100/2015/QH13, Hà Nội.

30. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Hà Nội.

31. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Hà Nội.

32. Quốc hội (2015), Nghị quyết 103/2015/QH13 về việc thi hành BLTTDS 2015,

Hà Nội.

33. Quốc hội (2016), Luật trẻ em 102/2016/QH13, Hà Nội.

34. Nguyễn Chí Tâm (2018), Phòng, chống xâm hại trẻ em của Công an huyện

Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

35. Diệp Huyền Thảo (2015), ''Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên

địa bàn tỉnh Trà Vinh - thực trạng và dự báo'', Tạp chí nhà nước và pháp luật,

(6) tr.23-29.

36. Nguyễn Hữu Thịnh (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là người dân tộc thiểu

số trong điều tra các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Thanh

Hóa, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

37. Phạm Văn Tỉnh (2011), ''Tổng quan về mức độ của tình hình tội phạm ở Việt

Nam qua số liệu thống kê (1986 - 2008)'', tại trang http://tks.edu.vn/thong-tin-

76

khoa-hoc/chi-tiet/80/5, [truy cập ngày 05/6/2019].

38. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2014), Bản án số 184/2014/HSST

ngày 16/05/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

39. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2015, Hồ Chí Minh.

40. Tóa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2016), Bản án số 16/2016/HSST

ngày 14/01/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

41. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Bản án số 92/2016/HSST

ngày 23/03/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

42. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Bản án số 291/2016/HSST

ngày 22/08/2016 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

43. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2016), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2016, Hồ Chí Minh.

44. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Bản án số 471/2018/HSST

ngày 24/05/2017 của Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh.

45. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Bản án số 378/2017/HSST

ngày 27/09/2017 của Toàn án nhân Thành phố Hồ Chí Minh.

46. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2017), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2017, Hồ Chí Minh.

47. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2018), Bản án số 239/2018/HSST

ngày 12/07/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

48. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Bản án số 471/2018/HSST

ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

49. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2019), 221 bản án xét xử sơ thẩm

của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019, Hồ

Chí Minh.

50. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2018), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2018, Hồ Chí Minh.

51. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2019), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2019, Hồ Chí Minh.

77

52. Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2018), Bản án của các vụ án xâm

phạm tình dục trẻ em tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019,

Hồ Chí Minh.

53. Tòa gia đình và người chưa thành niên (2019), Báo cáo tổng kết giai đoạn

2016 - 2019.

54. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết số 05/2012/NQ- HĐTP hướng dẫn

thi hành một số quy định trong Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa

án cấp sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo

Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

55. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Nghị quyết 04/2016/NQ- HĐTP ngày

30/12/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS số

92/2015/QH13, Luật Tố tụng hành chính 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn

khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng

phương tiện điện tử, Hà Nội.

56. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Công văn số 26/TANDTC - TCCB ngày

15/01/2018 về việc triển khai tổ chức các Tòa án chuyên trách tại Tòa án

nhân dân cấp tỉnh Thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa án nhân dân huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Hà Nội.

57. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày

21/9/2018 quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng

là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành

niên, Hà Nội.

58. Toà án nhân dân tối cao (2019), Tài liệu tập huấn trực tuyến và tọa đàm quốc

tế thuộc dự án EU JULE về trao đổi kinh nghiệm hoạt động và giải quyết các

vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên, Hà Nội.

59. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số 06/2019/NQ – HĐTP về hướng

dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147

của Bộ luật hình sự về xét xử vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi.

60. Trần Hữu Tráng (2000), Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam,

Tạp chí Luật học, (3), tr.51-57.

78

61. Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giam, tạm

giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học,

Đại học Luật Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

62. Trung tâm tư vấn và dịch vụ truyền thông - Cục bảo vệ và chăm sóc trẻ em

thuộc Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2008), Phân tích kết quả kết nối

can thiệp các ca trẻ em bị xâm hại tình dục qua hoạt động của đường dây tư

vấn và hỗ trợ trẻ em, Hà Nội.

63. Trung tâm Nghiên cứu về quyền con người (1998), Các văn kiện quốc tế về

quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Trường cán bộ Tòa án (2014), Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ Hội thẩm nhân

dân, Quyển 1, Nxb Thanh niên, Hà Nội;

65. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 1,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

66. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và

pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

67. Vũ Xuân Tuân (2018), Bảo vệ quyền trẻ em bị xâm hại tình dục tại các tỉnh

Tây Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

68. Nguyễn Thanh Tuấn (2016), ''Bảo đảm quyền con người trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện

nay'', tại trang http://ttpc.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=a 2e170e8-b467-4165-

9d7b-1679d68c4cc8, [truy cập ngày 05/6/2019].

69. Đào Trí Úc (1994), Tội phạm học Luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

70. Đào Trí Úc (2000), Tội phạm học Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

71. Nguyễn Thị Bích Vân (2016), Bảo đảm quyền con người của người chưa

thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại địa

bàn Hà Giang), Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

72. Viện nghiên cứu quyền con người (2010), Bình luận và khuyến nghị chung

79

của Uỷ ban công ước thuộc Liên Hợp quốc về quyền con người, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

73. Viện nghiên cứu quyền con người (2010), Giáo trình lý luận về quyền con

người, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

74. Viện Nghiên cứu quyền con người (2017), Bảo đảm quyền con người thông

qua nhà nước pháp quyền và nền tư pháp độc lập - Kinh nghiệm của Cộng

hòa Liên bang Đức và Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

75. Đặng Bá Vinh (2018), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giam trong

điều tra các tội phạm về ma túy của Công an tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ

pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội.

76. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Báo cáo tổng kết

công tác giai đoạn 2014 – 2018.

77. Võ Khánh Vinh (2000), Dự báo tình hình tội phạm, Tội phạm học Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

78. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội.

79. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

80. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

81. Võ Khánh Vinh (2015), Giáo trình quyền con người, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.