VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ANH HOÀNG

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP

Tháng 8, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy

định.

Tác giả

Nguyễn Anh Hoàng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON

NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ......................................5

1.1. Khái niệm quyền con người...............................................................................5

1.2. Khái niệm quyền con người trong TTHS Việt Nam và luật pháp quốc tế.........5

1.3 Khái niệm bị cáo trong luật TTHS Việt Nam....................................................7

1.4. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Quốc Tế............8

1.5. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Tố tụng hình sự

Việt Nam từ năm 2015 đến nay………………………………….………………………15

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO

TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ

CHÍ MINH…….................................................................................................................26

2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong

hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh................................26

2.2. Những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong

hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh................................28

2.3. Nguyên nhân của tình hình oan, sai trong hoạt động xét xử…………………47

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ............................................................51

3.1 Nhóm giải pháp về hoàn thiện một số nguyên tắc tố tụng.................................51

3.2 Giải pháp hoàn thiện các thủ tục tố tụng............................................................54

3.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện quy định về các chủ thể tố tụng: địa vị pháp lý của

bị cáo; quyền hạn, trách nhiệm, thẩm quyền.......cơ quan tiến hành tố tụng......................54

3.4 Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định khác...................................................61

KẾT LUẬN..............................................................................................................64

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS 2015: Bộ luật dân sự 2015

BLHS 2015: Bộ luật hình sự 2015

BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS 2015: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT: Cơ quan điều tra

ĐTV: Điều tra viên

KSV: Kiểm sát viên

LS: Luật sư

NBC: Người bào chữa

PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự

TAND: Tòa án nhân dân

TTHS: Tố tụng hình sự

THTT: Tiến hành tố tụng

VAHS: Vụ án hình sự

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu

Quyền con người là những nội dung quan trọng của Hiến pháp, kết tinh những giá

trị cao đẹp trong nền văn hóa của các dân tộc. Đây không chỉ là những ngôn ngữ chung

mà còn là “sản phẩm chung”, “mục tiêu chung” của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới

Bảo đảm quyền con người là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản và quan

trọng nhất trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ: “….hoàn thiện các thủ tục

tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo

vệ quyền con người”.

Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động liên quan rất chặt chẽ với quyền con người,

là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước để cưỡng chế; là nơi quyền con người của các

chủ thể tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất, vì sử dụng các

biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người.

Thực tiễn trong những năm qua cho thấy vẫn còn nhiều trường hợp vi phạm quyền

con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm thường biểu hiện như: vi

phạm các thủ tục tố tụng trong xét xử, tranh tụng, bào chữa, áp dụng và viện dẫn sai điều

luật, nhận định sai tình tiết vụ việc….Các hành vi này không những xâm phạm trực tiếp

quyền cơ bản của con người là quyền công bằng, quyền tự do thân thể, sức khỏe, tôn

trọng danh dự, nhân phẩm của con người mà còn xâm phạm đến nền pháp chế XHCN,

làm mất niềm tin của nhân dân vào các cơ quan pháp luật. Những vi phạm trên xuất phát

từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến là do trình độ năng lực ý thức tuân thủ pháp

luật của các cán bộ trong các cơ quan tố tụng còn hạn chế, tiếp đến là chính sách pháp

6

luật hình sự, tố tụng hình sự chưa rõ ràng, chi tiết, vẫn còn tồn tại những hạn chế bất cập

dẫn đến có sự áp dụng tùy tiện, lạm dụng và không đồng bộ ở một số nơi.Có thể nói

nghiên cứu quyền con người, đặc biệt của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự từ góc độ

lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm

vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp nói

riêng ở nước ta. Vì vậy mà tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của bị cáo

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện

nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn hiện hệ thống pháp luật

TTHS Việt Nam trên nguyên tắc bảo đảm những quyền cơ bản của con người.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình “Lý luận pháp

luật về quyền con người” của Khoa Luật ĐHQG Hà Nội do Nguyễn Đăng Dung chủ

biên; “Giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay” của Học viện KHXH do Võ

Khánh Vinh chủ biên, “Tư tưởng Việt Nam về Quyền con người” của Phạm Hồng Thái...

Từ góc độ nghiên cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có “Bảo đảm quyền

con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố

Hồ Chí Minh, 2010); “Quyền con người trong tư pháp hình sự” của Nguyễn Ngọc Chí...

Ngoài ra trong các đề tài nghiên cứu khoa học là Luận văn, luận án có một số tác giả

chọn vấn đề bảo vệ quyền con người trong luật hình sự như Luận án của Lại văn Trình,

ĐH Luật TpHCM năm 2011, Trần Hưng Bình, Học viện KHXH năm 2013, Luận văn

Ngô Thi Thanh, ĐHQG Hà Nội 2013…..

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền con

người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một

số giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật và chính sách áp dụng pháp luật của

7

TTHS đối với bị cáo trên cơ sở bảo đảm quyền con người.

Để thực hiện mục đích đó luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Thứ nhất, làm rõ khái niệm bị cáo, quyền của bị cáo trong TTHS Việt Nam, xác

định và phân tích cơ sở pháp lý và nội dung các quyền của bị cáo trong xét xử; thủ tục tố

tụng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nghiên cứu so sánh lịch sử hình thành và phát triển

quyền của bị cáo và thủ tục tố tụng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong hệ thống tư pháp

hình sự thế giới và Việt Nam; xác định các cơ chế, điều kiện bảo đảm hiện thực hóa các

quyền đó trong điều kiện thực tế của Việt Nam.

- Thứ hai, đánh giá thực trạng các qui định pháp luật về quyền của bị cáo và thủ tục

tố tụng hình sự; thực trạng thực hiện các quyền và thủ tục đó ở Việt Nam từ 2003 đến

nay, bao gồm: làm rõ nghĩa vụ thực thi của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nêu và phân tích bằng các số liệu, tình huống

điển hình về bức tranh hiện thực phản ánh việc bảo đảm quyền con người của bị cáo

trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời so

sánh với kinh nghiệm một số nước trên thế giới. Từ đó đề xuất phương pháp để bảo đảm

quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học, các quy định của luật

TTHS hiện hành và thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh

trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm

quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh từ giai đoạn

8

2010 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật về cải cách tư pháp.

- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: Phân tích, tổng

hợp, lịch sử cụ thể, thống kê, khảo sát thực tế... của các Tòa án trên địa bàn TpHCM.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp luật, đóng

góp thêm vào sự phát triển lý luận về việc thực hiện bảo đảm quyền con người trong xét

xử sơ thẩm vụ án hình sự . Với việc đề xuất các giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số

giải pháp – kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS Việt Nam

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp trong hoàn

thiện pháp luật về tố tụng hình sự, đồng thồi cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

trong công tác nghiên cứu, giảng dạy trong các trường Đại học và học viện.

7. Kết cấu của luận văn.

Nội dung của Luận văn gồm 2 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong

xét xử sơ thẩm hình sự.

Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử xét

xử sơ thẩm hình sự tại TpHCM.

9

Chương 3. Giải pháp bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN

CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm chung về quyền con người

Theo Từ điển Luật học đã đưa ra quan niệm về quyền con người là: “Quyền của

thành viên trong xã hội loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu

cầu, lợi ích và năng lực của con người được thể chế hóa (ghi nhận) trong pháp luật quốc

tế và pháp luật quốc gia”.

Theo quan điểm của các nhà triết học, chính trị học thời kỳ Khai sáng (thế kỷ

XVII) thì quyền con người là các quyền không thể tước bỏ được; đây là các quyền tự

nhiên (natural right) do tạo hóa ban cho họ mang tính bẩm sinh, vốn có của các cá nhân,

khi sinh ra đã được thừa hưởng. Các quyền này không một xã hội hay một chính phủ nào

có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó không phụ thuộc vào các phong tục,

tập quán, truyền thống văn hóa,… đây là các quyền vốn có của các cá nhân. Theo quan

điểm của tác giả đây là định nghĩa đầy đủ và mang tính bao quát nhất về quyền con

người. Mặc dù nó ra đời từ thế kỷ XVII nhưng vẫn còn nguyên tính giá trị cho đến ngày

nay, kế thừa quan điểm này các nhà chính trị đã phát triển định nghĩa quyền con người để

làm kim chỉ nam cho các tuyên ngôn đó là: “Quyền sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu

hạnh phúc”

1.2. Khái niệm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam và luật pháp

quốc tế.

Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật

bao gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Mỗi giai

đoạn tố tụng thực hiện chức năng khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ thống nhất cùng

hướng về mục đích là giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự một mặt là

phát hiện và xử lý tội phạm, bảo vệ người bị hại trước hành vi vi phạm của tội phạm

10

nhưng cũng đồng thời phải bảo vệ quyền con người. Ở đây tác giả chỉ muốn đề cập đến

các khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn tố tụng xét xử sơ thẩm. Theo

Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của

pháp luật”, vì vậy trong các giai đoạn TTHS chưa có kết luận của Tòa án thì bị can, bị

cáo vẫn chưa bị coi là có tội, thậm chí theo nguyên tắc của luật TTHS bản án có hiệu lực

khi bản án đó phải tuân theo đúng quy trình thủ tục TTHS thì bản án mới được thi hành,

vì vậy quyền con người, thậm chí quyền công dân của họ vẫn phải được bảo đảm trước

và trong quá trình xét xử. Có thể thấy rằng, hoạt động TTHS là sử dụng quyền lực nhà

nước tạo sức mạnh để cưỡng chế chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS, vì vậy sẽ dẫn

đến quyền con người dễ bị xâm phạm và gây hậu quả nghiêm trọng khi nó động chạm

đến quyền sống, quyền tự do, quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện, quyền được xét xử

công bằng….Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: “Phạm vi quyền con người trong TTHS

bao gồm hai khuynh hướng: Một mặt, các hoạt động tố tụng hướng tới bảo đảm quyền

được buộc tội khách quan, công bằng của người bị cáo buộc phạm tội, mặt khác bảo đảm

quyền của những người yếu thế trong xã hội bao gồm những người bị cáo buộc phạm

tội,… tránh sự lạm dụng của người tiến hành tố tụng”. Xã hội sẽ bất ổn định khi mà bất

cứ ai cũng có thể bị tình nghi, cáo buộc và rơi vào thế yếu, bị động và bất lợi trong khi

xét xử. Quyền con người được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước đặc

biệt là luật TTHS, là cơ sở để Nhà nước bảo đảm những quyền lợi cơ bản nhất của con

người của các chủ thể tham gia tố tụng, trong đó có bị cáo, đồng thời khi quyền con

người được bảo đảm cũng kéo theo sự công bằng, công lý được thực thi. Quyền con

người đối với bị cáo trong xét xử là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính

trị khẳng định phẩm giá của con người, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm

quyền của các cơ quan nhà nước trong các hoạt động xét xử. Theo các văn bản pháp lý

quốc tế về quyền con người thì quyền con người của bị cáo là quyền được xét xử công

bằng, quyền được suy đoán vô tội; quyền được bào chữa và biện hộ….Vì vậy, một Nhà

nước pháp quyền là Nhà nước cần phải bảo đảm được quyền con người, được cụ thể hóa

trong pháp luật của Nhà nước, ghi nhận quyền con người trong hệ thống pháp luật nói

11

chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Ghi nhận quyền con người trong pháp luật

không chỉ giới hạn trong mỗi quốc gia mà là những giá trị cao quý đã được ghi nhận

trong suốt lịch sử văn minh nhân loại. Trong các văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn nhân

quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm

1966 (ICCPR); Hiến chương Liên Hợp Quốc về quyền con người, 1945, Các quy tắc

hành động của cán bộ thi hành pháp luật, 1979, Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập

của toà án, 1985; Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư, 1990; Các hướng dẫn về

vai trò của Công tố viên, 1990…… đã ghi nhận quyền con người một cách rõ ràng.

Theo UHDR và ICCPR quyền con người trong TTHS được quy định tại các điều 5,

7, 9, 10, 11, 14, 15 bao gồm các quyền sau: Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ

tục tố tụng hình sự; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và

quyền tự do cá nhân khác; Quyền được nhanh chóng minh oan; Quyền được bào chữa và

biện hộ, Quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; Quyền không bị kết tội hai lần về

cùng một hành vi; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc

thẩm; Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt;…..

1.3 Khái niệm bị cáo trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bộ Luật TTHS 2015 dành một chương trong bộ luật để định nghĩa về những người tham

gia TTHS, trong đó tại điều 61 của Bộ Luật TTHS 2015 định nghĩa bị cáo như sau: “Bị

cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ

của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp

nhân theo quy định của Bộ luật TTHS này”. Vì vậy có thể hiểu là bị cáo là người bị khởi

tố về hình sự, bị Viện kiểm sát truy tố và bị Tòa án đưa ra xét xử, bị cáo được hiểu là

người bị cáo buộc vi phạm một tội nào đó trong Bộ luật hình sự, khác với trường hợp bị

can đó là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự mà chưa có quyết định của Tòa án

đưa ra xét xử, bị can được hiểu là người liên can đến một vi phạm nào đó. Qua phân tích

trên có thể thấy bị cáo là tư cách pháp lý của người tham gia tố tụng hình sự sau quá trình

điều tra, truy tố, hồ sơ vi phạm của bị cáo đã được chuyển sang Tòa án và Tòa án nhận

12

thấy cần thiết đưa bị cáo ra xét xử bằng một quy trình và thủ tục TTHS.

1.4. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật quốc tế

Trong tiến trình hội nhập quốc tế, tính đến nay, Việt Nam đã là tham gia một số

Công ước quốc tế như: ICCPR (tham gia năm 1982); Công ước về không áp dụng thời

hiệu tố tụng đối với tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại năm 1968 (tham gia năm

1983); CRC (tham gia năm 1990); Tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con

người cho thấy sự khẳng định và quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc

tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Các chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã

được Đảng và Nhà nước thực hiện thông qua việc thực hiện các điều ước quốc tế về

quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời Nhà nước chuyển hóa các điều

luật quốc tế thành “nội luật hóa” pháp luật việt nam thông qua các bản Hiến pháp và Bộ

luật TTHS. Theo các văn bản pháp lý quốc tế thì quyền con người trong TTHS có thể xếp

vào hai nhóm: 1) Các quyền sống, quyền an toàn về thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá

nhân trong TTHS. 2) Quyền được xét xử nhanh chóng, không trì hoãn, công bằng bởi

một Tòa án độc lập. Như đã phân tích ở trên thì xét xử là đích cuối cùng xuyên suốt quá

trình của TTHS, và nhóm quyền thứ 2 trong TTHS ảnh hưởng và chi phối trực tiếp các

quyền con người của bị cáo trong xét xử.

Điều 1 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người (UDHR) tuyên bố” Mọi

người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải

đối xử với nhau trong tình bằng hữu”. Điều 3 của UDR khẳng định: “Ai cũng có quyền

được sống, tự do, và an toàn thân thể”.

Khoản 2 điều 11 của UDHR, 1948 cũng ghi nhận: “Không ai có thể bị kết án về

một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu

thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng

không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian

phạm pháp”.

Những người bị tạm giam, tạm giữ vì tình nghi phạm tội theo luật hình sự, họ cần

13

được xét xử và phán quyết bởi Tòa án để xác định tội của họ. “Việc đối xử với một người

khi họ bị buộc tội phản ảnh rõ mức độ tôn trọng nhân quyền của Nhà nước đó. Quyền xét

xử công bằng được coi như nền tảng của các xã hội dân chủ và là quyền thiết yếu

(essential) trong mọi quốc gia pháp trị - The Right to a Fair Trial). Nhóm quyền này là

tập hợp các quyền bao gồm: Bình đẳng trước Tòa án; Quyền được xét xử nhanh chóng và

được xét xử bởi một Tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Được suy đoán vô tội;

Không bị áp dụng hồi tố; Không hình sự hóa vụ án dân sự, Quyền kháng cáo bản án để

xét xử phúc thẩm; Quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi; Quyền bào chữa ;

Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên.....

Quyền của bị cáo trong xét xử hình sự có thể hiểu là quyền của người bị

buộc tội trong vụ án hình sự trước cơ quan tư pháp. Về nhóm quyền này tại Điều 10

Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 (UDHR) nêu rõ: “Ai cũng có quyền, trên căn bản

hoàn toàn bình đẳng, được một Toà án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và

công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghiã vụ của mình, hay về những tội trạng

hình sự mà mình bị cáo buộc”. Cũng tại Khoản 1 điều 11 của tuyên ngôn trên: “Bị cáo bị

cáo buộc về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm

pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”. Có

thể nói thêm rằng những bằng chứng phạm pháp và thủ tục xét xử phải được thu thập

theo đúng quy trình pháp luật TTHS, khi chưa có bản án có hiệu lực của Tòa án thì bị

cáo phải được coi là vô tội, được đối xử bình đẳng, công bằng và tôn trọng. Đây là bước

tiến vĩ đại của nhân loại trong tư duy pháp lý về nhân quyền, nó phải được xem như là sợi

chỉ đỏ xuyên suốt trong tư duy của cơ quan tư pháp từ giai đoạn người phạm tội bị tình

đến khởi tố, điều tra, bắt tạm giam và xét xử.

Quyền được xét xử nhanh chóng để xác định tính hợp pháp của việc bắt giữ

người cũng được cụ thể hóa bằng Điều 9 của Công ước quốc tế (ICCPR) năm 1966: “Bất

cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử

trước Tòa án, nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp

pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp

14

pháp”. Cũng tại khoản 3, điều 9 Công ước quốc tế (ICCPR) “Bất cứ người nào bị bắt

hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra Toà án hoặc một cơ quan tài

phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp

lý hoặc được trả tự do. Trong ICCPR, bên cạnh các quyền con người như quyền sống,

quyền tự do thân thể thì quyền được xét xử công bằng cũng là một trong các quyền cơ

bản của con người, đã được quy định trong điều 14 của ICCPR, đã bao quát hầu hết các

nội dung của quyền con người. 1) Mọi người đều bình đẳng trước các Toà án và cơ quan

tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Toà án

có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật; 2) Quyền

được suy đoán vô tội; 3) Quyền được thông báo lý do buộc tội, 4) Quyền bào chữa hoặc

tự bào chữa, hoặc có người bào chữa và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định

trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi, 5) Quyền được xét xử mà không bị trì hoãn

một cách vô lý, được có mặt trong khi xét xử, được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn

những nhân chứng, không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình; 6) Được áp

dụng thủ tục riêng đối với người chưa thành niên; 7) Được xét xử phúc thẩm; 8) Được

bồi thường khi bị kết án oan, trừ trường hợp cơ quan tố tụng chứng minh rằng việc sự

thật không được làm sáng tỏ tại thời điểm đó hoàn toàn hoặc một phần là do lỗi của

người bị kết án gây ra; 9) Không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh mà người đó đã

bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án, 10) Các quyền tố tụng của người bị buộc tội được

bảo đảm thực hiện đầy đủ như quyền được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một

ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình; 11) được xét xử nhanh

chóng, kịp thời mà không bị trì hoãn một cách vô lý; được có mặt trong khi xét xử, 12)

được phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong

phiên toà, 13) Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Bất cứ người nào bị kết án là phạm

tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình

theo quy định của pháp luật, 14) Tố tụng hình sự áp dụng đối với những người dưới 18

tuổi phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của họ.

Mặt khác, tại các nước thuộc liên minh Châu Âu thì Công ước Châu Âu cũng quy

15

định rất rõ về quyền của con người. Điều 6 của Công ước này quy định quyền xét xử

công bằng, trong đó có quyền của người bị buộc tội, đây là điều khoản được viện dẫn

nhiều nhất bởi Ủy ban Châu Âu và Tòa án nhân quyền Châu Âu bao gồm các điều khoản:

Điều 6.1 Công ước quy định người bị buộc tội có quyền được xét xử bởi Tòa án; các bên

được đối xử công bằng trong xét xử và có quyền tham gia phiên tòa và xét xử công khai

trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và hình sự bao gồm 2 nội dung, một là quy định

quyền của người bị buộc tội – điều này đã xác định các nguyên tắc cơ bản để bảo đảm

các quyền lợi của người bị buộc tội, trên cơ sở các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng.

Điều 6.2, Công ước quy định người bị buộc tội được suy đoán là không có tội cho đến

khi tội phạm được chứng minh theo quy định của pháp luật – Nguyên tắc này đặt ra

nhiệm vụ cho Tòa án phải xem xét vấn đề theo hướng có lợi cho bị cáo mà không bị ràng

buộc bởi bất cứ định kiến nào, và chỉ có thể kết tội anh ta trên cơ sở đã xem xét, đánh giá

các chứng cứ được xem là hợp pháp và được thu thập theo một trình tự, thủ tục luật định.

Như vậy, theo công ước này quy định sự kết tội của tòa án chỉ có giá trị pháp lý khi dựa

trên việc đánh giá và xem xét một cách khách quan các chứng cứ đã được thu thập theo

một trình tự và thủ tục hợp pháp. Nguyên tắc suy đoán là không có tội buộc tòa án phải

nhìn nhận bị cáo trên quan điểm là không có tội, nếu ngay từ đầu Tòa án coi bị cáo là

người có tội thì tại phiên tòa xét xử, Tòa án sẽ tập trung đi tìm chứng cứ buộc tội mà

không tập trung đánh giá các chứng cứ, ý kiến tranh luận của các bên để tìm ra sự thật

của vụ án. Đồng thời nếu coi bị cáo là người phạm tội thì ngay cả giai đoạn điều tra cũng

không bảo đảm công bằng, cơ quan điều tra sẽ có định hướng cố tìm ra bằng chứng để

kết tội người bị buộc tội hơn là tìm ra chứng cứ khách quan. Và như vậy sẽ gây bất lợi và

có ý buộc tội người bị buộc tội ngay từ đầu. Một điều quan trọng trong nguyên tắc TTHS

không chỉ ở luật TTHS Việt Nam mà cũng là nguyên tắc chung của TTHS thế giới đó là

thẩm quyền chứng minh tội phạm được “đẩy” cho cơ quan điều tra – có nghĩa là khi

buộc tội cơ quan điều tra phải đưa ra được chứng cứ buộc tội, chứ không phải yêu cầu

người bị buộc tội đưa ra chứng cứ rằng họ không phạm tội, nhưng cho phép người bị

buộc tội có quyền đưa ra những chứng cứ cho rằng bản án của Tòa án là không chính

16

đáng và sẽ bị bác bỏ bởi cấp phúc thẩm. Việc làm này sẽ bảo đảm được quyền lợi chính

đáng của bị cáo. Điều 6.3 về quyền được xét xử công bằng , trong đó có quyền được xét

xử công khai trước một Tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền

được coi là vô tội khi chưa có phán quyết của Tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với

những người bị cáo buộc một tội hình sự ((Quyền được thông báo kịp thời về lý do họ bị

buộc tội và đòi hỏi phải chính xác, đầy đủ để họ có điều kiện chuẩn bị cho việc bào chữa

(Điều 6.3a); Quyền được tạo điều kiện thuận lợi về thời gian thích hợp để chuẩn bị cho

việc bào chữa (Điều 6.3b); Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (Điều

6.3c); Quyền được thu thập chứng cứ và kiểm tra chứng cứ do nhân chứng cung cấp

chống lại mình (Điều 6.3d); Quyền được có phiên dịch miễn phí: khi người bị buộc tội

không hiểu ngôn ngữ đang được sử dụng để chống lại anh ta (Điều 6.3e)) – Đây là các

quy định cụ thể về các quyền cơ bản của người bị buộc tội. Vấn đề bảo đảm quyền của

người bị buộc tội theo nội dung Điều 6 Công ước Châu Âu về quyền con người được thể

hiện ở hai góc độ: Một là, quyền của người bị buộc tội được bảo đảm trên cơ sở các

nguyên tắc trong hoạt động tố tụng. Hai là, các quy định cụ thể về các quyền cơ bản của

người bị buộc tội.

_Tuyên ngôn về nhân quyền nước Mỹ quy định nguyên tắc xét xử công bằng:

trong mọi trường hợp bị truy tố hình sự, bị cáo có quyền được xét xử nhanh chóng và

công khai bởi một Bồi thẩm đoàn công bằng…, bị cáo được thông báo tính chất, lý do

buộc tội, được đối chất với nhân chứng chống lại mình và được sự giúp đỡ của luật sư

bào chữa (Điều 6)

_Bộ Luật TTHS Pháp hiện hành quy định quyền của của bị cáo trong xét xử:

Nguyên tắc bảo đảm quyền con người trong pháp luật TTHS của Pháp được đề cập

ngay tại Điều 1- P - Điều khoản sơ bộ bao gồm các nguyên tắc:

+Tố tụng hình sự phải công bằng và tranh tụng, duy trì sự cân bằng về quyền giữa

các bên. Những người nào thuộc các trường hợp tương tự nhau và bị truy tố bởi các tội

17

danh giống nhau thì phải được xử lý theo các quy định pháp luật giống nhau.

+Cơ quan tư pháp bảo đảm là các nạn nhân được thông báo và các quyền của họ

được tôn trọng trong suốt bất kỳ quá trình tố tụng nào.

+ Bất kỳ ai bị nghi ngờ hoặc truy tố được suy đoán vô tội chừng nào chưa chứng

minh được tội của họ. Việc vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội bị cấm, và phải bị bồi

thường, trừng phạt trong các trường hợp luật định.

+Người này có quyền được thông báo về cáo buộc chống lại họ và được bào chữa

về mặt pháp lý.

+Các biện pháp cưỡng chế mà người này phải chịu được tiến hành bởi hoặc dưới sự

kiểm soát hiệu quả của cơ quan tư pháp. Chúng phải được giới hạn một cách nghiêm ngặt

trong sự cần thiết của tiến trình, tương ứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm bị cáo

buộc và không xâm phạm phẩm giá của con người.

+Việc buộc tội đối với người này phải được đưa ra trước phán quyết cuối cùng

trong thời gian hợp lý.

+Bất kì ai bị kết án có quyền được Toà án cấp thứ hai thẩm tra việc kết án.

_Bộ TTHS Liên bang Nga cũng thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ lợi ích của con người,

bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là nạn nhân của tội phạm, không hạn chế

các quyền tự do cá nhân không có căn cứ và trái pháp luật, đồng thời xác định trách

nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án trong khi tiến hành tố tụng

phải tôn trọng các quyền, tự do của những người tham gia tố tụng. Theo quy định tại

Điều 6 Bộ luật TTHS Liên bang Nga thì tố tụng hình sự có 3 nhiệm vụ chính, đó là: Bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức, của những người bị thiệt hại do

tội phạm gây ra; bảo đảm không ai bị buộc tội, bị kết án, bị hạn chế các quyền và tự do

một cách không có căn cứ và trái pháp luật; việc truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng

hình phạt một cách công bằng đối với người phạm tội, đồng thời không được truy cứu

trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người không phạm tội, minh oan cho

18

bất cứ người nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự một cách không có căn cứ [29].Nội

dung luật TTHS liên bang Nga cũng bao gồm một số nguyên tắc chung về quyền của bị

cáo trong việc bảo đảm quyền con người như là: Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 14);

Tôn trọng danh dự và nhân phẩm của cá nhân (Điều 9); Quyền bất khả xâm phạm của cá

nhân (Điều 10); Bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân trong tố tụng

hình sự (Điều 11); Bảo đảm tranh tụng giữa các bên (Điều 15), Quyền được bào chữa

(Điều 16); Các quyền của người bào chữa (Điều 49); Quy định về khiếu nại quyết định và

hành vi của Tòa án và những người THTT (từ Điều 123 đến Điều 127), Quy định về

minh oan (từ Điều 133 đến Điều 139)…..

_Luật TTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) cũng chứa đựng vài

nguyên tắc chung của TTHS quốc tế: “Không ai bị coi là có tội nếu không bị xét xử và

kết án bởi một Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật (Điều 12). Đây cũng là điểm

tương đồng giữa luật pháp Trung Quốc và luật pháp Việt Nam. Quy định Toà án nhân

dân thực hành quyền xét xử độc lập (Điều 5); Bảo đảm quyền được bào chữa (Điều 32-

Điều 39); Bảo đảm quyền không bị quá hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn (Điều 124,

126)” …. Về cơ bản pháp luật TTHS Trung Quốc và pháp luật Việt Nam có nhiều nét

tương đồng trong việc quy định bảo đảm quyền của bi can, bị cáo trước xét xử và trong

xét xử.

Từ những khái niệm trên, tác giả có nhận xét rằng luật nhân quyền quốc tế có nhiều

điểm tiến bộ và quy đinh đầy đủ hơn về quyền con người trong TTHS nói chung và giai

đoạn xét xử nói riêng so với pháp luật Việt Nam. Cụ thể là luật nhân quyền quốc tế đã ghi

nhận cho bị cáo được quyền xét xử nhanh chóng, quyền im lặng, trong khi pháp luật Việt

Nam chưa có ghi nhận chính thức về những quyền này mà chỉ quy nhận một cách gián

tiếp qua các quy định khác. Có thể thấy rằng so với luật quốc tế thì các văn bản chúng ta

đã nội luật hóa thường có nội hàm hẹp hơn. Xét một cách tổng quát các quy định của

Luật nhân quyền quốc tế luôn mang tính nhân văn, vì con người vì Luật nhân quyền quốc

tế ra đời nhằm mục đích xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho mọi

19

thành viên của cộng đồng nhân loại. Trong khi đó pháp luật Việt Nam ra đời ngoài mục

đích bảo vệ các quyền con người, còn phải hướng đến mục đích khác nhau như: vừa là để

đấu tranh phòng chống tội phạm, vừa xử phạt người phạm tội, vừa bảo vệ lợi ích nhà

nước và cộng đồng, bảo vệ các giá trị xã hội, vừa nội luật hóa các vấn đề liên quan đã

tham gia trong các công ước quốc tế, vừa phải xuất pháp từ thực tiễn của quốc gia. Do

đó, một số các quy định bảo đảm quyền con người trong pháp luật Việt Nam có thể bị

lược bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế Việt Nam là điều tất nhiên.

1.5. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Tố tụng hình

sự Việt Nam từ năm 2015 đến nay

1.5.1 Quy định bảo đảm quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng

Điều 9, Bộ luật TTHS 2015 nêu rõ: Quyền bình đẳng của mọi công dân được hiểu

là sự bình đẳng như nhau của mọi công dân trong mọi lĩnh vực của hoạt động nhà nước

và xã hội mà không có sự ưu tiên, ưu đãi, phân biệt đối xử với bất cứ đối tượng nào.

Không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Điều

này được hiểu theo luật TTHS là bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo trình tự thủ

tục của pháp luật TTHS không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành

phần, địa vị xã hội; mọi công dân ở địa vị pháp lý như nhau thì có quyền và nghĩa vụ tố

tụng như nhau, áp dụng pháp luật như nhau.

1.5.2 Quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp

luật của Tòa án.

Theo nguyên tắc suy đoán vô tội tại Điều 13 của Bộ luật TTHS 2015 thì người bị

buộc tội chỉ coi là có tội khi thỏa cả hai yếu tố đó là phải được chứng minh theo trình tự,

thủ tục do Bộ luật TTHS quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật. Luật TTHS ghi rõ “cho đến khi” được chứng minh theo thủ tục và bản án có hiệu

lực của Tòa án, vì vậy hiểu trên nguyên lý là khi chưa có 2 điều kiện đã nói ở trên thì

người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là có tội, vì vậy họ vẫn phải được bảo đảm hầu hết các

20

quyền công dân của họ.

Nguyên tắc này được quy định lại từ nguyên tắc được quy định tại Điều 9 Bộ Luật

TTHS 2003 với nội dung “không ai bị coi là có tội” được sửa lại thành” “Người bị buộc

tội được coi là không có tội”. Đây là điểm kế thừa và hoàn thiện khi mà luật năm 2015

chỉ quy định suy đoán vô tội chỉ dùng cho người bị buộc tội, còn luật 2003 có thể hiểu là

tất cả mọi người, tất cả công dân đều được suy đoán vô tội. Mặc nhiên, một người, một

công dân không có tội thì không thể dùng nguyên tắc suy đoán vô tội với người đó được,

mà phải mặc nhiên coi người đó không có tội.. Mặt khác, Điều 13 Luật TTHS 2015 quy

định thêm yêu cầu đó là việc buộc tội phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục của

luật và đồng thời bỏ cụm từ “phải chịu hình phạt” như trong luật TTHS 2003. Cụm từ

“phải chịu hình phạt” vô hình dung làm người đọc liên tưởng đến tư duy ưu tiên chọn

hình phạt trước trong tư duy pháp lý về TTHS của nước ta. Đó là bước tiến, không ngừng

cải cách hoàn thiện pháp luật của Đảng và Nhà nước trên quan điểm bảo vệ tối đa quyền

con người.

Thứ hai cũng tại khoản 2, Điều 13, Luật TTHS 2015 quy định khi không đủ và

không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy

định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội

không có tội. Trong các giai đoạn tố tụng đặc biệt là quá trình xét xử mà không chứng

minh được bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội thì phải tuyên vô tội, và mọi nghi ngờ

trong quá trình tố tụng phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Luật

hoá nguyên tắc suy đoán vô tội nhằm thay đổi nhận thức của người tiến hành tố tụng và

quan điểm của nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người trong TTHS. Luôn quan niệm

bản chất coi người theo hướng nhân văn, lương thiện, tránh quan niệm “Giết nhầm còn

hơn bỏ sót”.

1.5.3 Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo

Theo quy định của điều 16 BLTTHS thì người bị buộc tội có quyền tự bào chữa,

nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

21

có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị can, bị cáo

thực hiện đầy đủ quyền bào chữa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy

định của Bộ luật TTHS.

Quy định về quyền bào chữa cũng là một trong những nguyên tắc rất quan trọng

trong TTHS nhằm bảo đảm QCN của bị cáo. Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ

người bào chữa để chứng minh sự vô tội hoặc nhằm làm giảm nhẹ tội trước những cáo

buộc của cơ quan tố tụng đặt ra cho họ. Hay nói cách khác quyền bào chữa được pháp

luật quy định để người bị buộc tội chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự. Luật TTHS cũng quy định cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có

trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm quyền được bào chữa của bị cáo. Bởi vì hơn

ai hết bị cáo là người hiểu rõ sự việc của vụ án. Vì vậy, quy định bị cáo có quyền tự bào

chữa là hết sức cần thiết. Trong những trường hợp, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người

có nhược điểm về thể chất và tâm thần, người bị truy tố về tội có khung hình phạt từ 20

năm tù trở lên nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không nhờ người bào

chữa thì Tòa án phải chỉ định người bào chữa cho họ. Người bị buộc tội hoặc người đại

diện, người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ

luật TTHS có quyền từ chối người bào chữa. Nhưng trong trường hợp người bị truy tố về

tội có khung hình phạt từ 20 năm tù trở lên thì luật yêu cầu bắt buộc phải có người bào

chữa. Đó cũng là một quy định thể hiện tính nhân văn, công bằng đối với những người

phạm tội mà nếu bị kết án sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do của họ, thậm chí

ảnh hưởng đến quyền sống của con người. Một tư tưởng được tác giả xem là tiến bộ

trong tư duy pháp lý về quyền con người của luật TTHS 2015 so với luật 2003 về quy

định thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đó là trong trường hợp người bị bắt, người bị

tạm giữ, người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do

người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp

người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối (Điều 77,

Luật TTHS 2015). Đây là quy định nhằm tránh việc ép cung, mớm cung hoặc dùng nhục

hình để người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam từ chối việc mời người bào

22

chữa. Tiếp theo nữa là luật TTHS 2003 quy định chủ thể của quyền bào chữa là người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo không đề cập đến trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn

cấp, người bị bắt thì Luật TTHS 2015 đã mở rộng quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào

chữa trong trường hợp bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm

tội quả tang hoặc bị bắt theo quyết định truy nã ( điểm g khoản 1, điều 58, Bộ Luật TTHS

2015).

Ngoài nguyên tắc quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo thì Bộ luật TTHS

2015 dành hẳn một chương để quy định về quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp

của người bị hại, đương sự từ điều 72 đến điều 84 trong đó quy định trách nhiệm thông

báo cho người bào chữa (Điều 79); Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng, đối với

trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có

mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra (Điều 74), Quyền của người bào chữa (Điều 73,

80,81,82...). Bên cạnh đó, để bảo đảm người bào chữa có mặt sớm nhất có thể để bảo vệ

quyền lợi từ khi bị can, bị cáo, Luật TTHS quy định trách nhiệm thông báo cho người

bào chữa (Điều 79) và quy định thời gian, thủ tục đăng ký bào chữa (Điều 78). Vấn đề

quy định người bào chữa có mặt ngay từ đầu của quá trình bắt, giữ, tạm giữ, tạm giam

giúp cho người bào chữa có đầy đủ thông tin và bằng chứng phục vụ cho việc bào chữa

trước phiên tòa xét xử.

Bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị cáo,

BLTTHS 2015 đã có những quy định về quyền của bị cáo tại các Điều 58, Điều 59, Điều

60, Điều 61 đó là các quyền:

+ Được biết lý do mình bị bắt, tạm giữ, bị khởi tố. Đây là yếu tố cơ bản nhất để

tránh trường hợp bắt giữ người tùy tiện, đồng thời cũng là bảo đảm quyền bào chữa của

họ bởi vì điều đầu tiên khi biết tội danh đang bị cơ quan thẩm quyền buộc tội gì thì họ

mới có thể đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để bào chữa.

+ Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo luật: Ngoài việc giao quyết

định tạm giam, tạm giữ, quyết định khởi tố.... thì Cơ quan điều tra phải thông báo, giải

23

thích cho bị can biết quyền và nghĩa vụ của họ tạo điều kiện cho người bị bắt, bị giữ, bị

can thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của họ để tạo thuận lợi cho việc bào chữa của bị

cáo sau này.

+ Được nhận lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cập, quyết định khởi tố,

quyết định tạm giữ, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Quy

định này để bảo đảm quyền được biết để thực hiện tốt quyền bào chữa của mình. Đồng

thời cũng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc theo đúng thủ tục, trình

tự, và các quyết định đưa ra phải có văn bản công khai, minh bạch.

+ Được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu chứng minh,

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc phải thừa nhận mình có tội. Vì vậy,

trong trường hợp họ từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối thì cũng không phải chịu

trách nhiệm hình sự về hành vi đó cũng như không bị áp dụng những tình tiết này là tình

tiết tăng nặng hình phạt. Bị can cũng có thể đưa ra những tài liệu, đồ vật nhằm chứng

minh họ không liên quan đến vụ việc, đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu xác minh lại

sự việc, yêu cầu Cơ quan điều ra đưa ra những bằng chứng chứng minh lý do bắt giữ,

tạm giam. Đây phải được coi là quyền mà không phải nghĩa vụ của họ.

+ Quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch

thuật… nếu có căn cứ cho rằng họ không bảo đảm sự vô tư, công bằng trong khi giải

quyết vụ việc. Trong trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét giải quyết

yêu cầu của bị can, bị cáo nếu có căn cứ.

+ Quyền tham dự phiên tòa: Tại phiên tòa, bị cáo được bình đẳng với các chủ thể

khác trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu và tranh luận tại phiên tòa. Vì vậy, quyền tham

dự phiên tòa của bị cáo bảo đảm sự dân chủ, công bằng trong việc làm sáng tỏ sự thật vụ

án. Ngoài ra, bị cáo cũng có quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người

24

tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa.

+ Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Luật TTHS cũng quy định ngoài tự

bào chữa, bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác bào chữa. Bảo đảm quyền của người

bào chữa cũng đồng thời bảo đảm quyền được bào chữa của bị can, bị cáo. Để bảo đảm

quyền của người bào chữa điều 73 BLTTHS quy định toàn bộ quyền và nghĩa vụ của

người bào chữa, gồm các quyền:

+ Gặp, hỏi người bị buộc tội, có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ:

Quy định người bào chữa có quyền gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc với người bị buộc tội giúp

người bào chữa nắm đầy đủ các tình tiết của vụ án, trên cơ sở đó tìm ra những tình tiết gỡ

tội cho người bị buộc tội, trong quá trình hỏi người bị buộc tội, người bào chữa có thể

phát hiện ra các tình tiết có lợi cho người bị buộc tội. Đồng thời sự có mặt của người bào

chữa giúp người bị buộc tội an tâm, tự tin hơn khi một mình đối mặt với các cơ quan

công quyền. Mặt khác, sự có mặt của người buộc tội cũng mang ý nghĩa giám sát, kiểm

soát các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm các cơ quan tiến hành tố tụng

phải thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục pháp luật.

+ Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng

liên quan đến người mà mình bào chữa. Quy định người bào chữa có thể xem biên bản về

hoạt động tố tụng của mình cũng là để giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan

nhà nước, bảo đảm các biên bản đó phản ánh đúng thực tế hoạt động tố tụng.

+ Quy định bị cáo, người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố

tụng, đề nghị thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế nếu có căn

cứ cho rằng những người này khi tham gia tố tụng hoặc những hoạt động này thực hiện

trong quá trình tố tụng là không công bằng, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bào chữa,

ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, hoặc vi phạm quy định về thủ tụng TTHS.

Điều này yêu cầu sự công bằng, công minh, không vu lợi, khách quan của những người

tiến hành tố tụng.

1.5.4 Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc

25

người tham gia tố tụng.

Những người THTT là những người có trách nhiệm chứng minh tội phạm, những

người tham gia tố tụng như người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản,

người phiên dịch, người dịch thuật ... khi tham gia tố tụng có trách nhiệm làm rõ bản

chất vụ án. Vì vậy, việc vô tư của họ khi tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có ý

nghĩa rất quan trọng, góp phần giải quyết vụ án khách quan, bảo vệ quyền con người.

Luật TTHS quy định họ sẽ không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do

xác đáng để cho rằng có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.

1.5.5 Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án

Xác định sự thật khách quan là mục đích của qúa trình giải quyết vụ án hình sự góp

phần bảo vệ quyền con người. Điều 15 Bộ luật TTHS 2015 quy định các cơ quan THTT

trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan,

toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình

tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội và trách

nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị

buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Như vậy, trách

nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan THTT, người THTT. Bị can, bị cáo không có nghĩa

vụ phải chứng minh họ vô tội, không phải chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Tuy

nhiên, để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, Luật

TTHS quy định họ có quyền đưa ra các chứng cứ và yêu cầu chứng minh mình không

phạm tội. Các cơ quan THTT phải tạo điều kiện để bị can, bị cáo đưa ra các chứng cứ và

giải quyết các yêu cầu mà họ đưa ra, phải xem xét một cách khách quan các chứng cứ và

yêu cầu đó không được có thái độ thiên vị hoặc bỏ qua.

1.5.6 Nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật của Toà án, trong hệ thống cơ quan Nhà

nước thì chỉ có Tòa án có quyền xét xử về hình sự. Để bảo đảm sự khách quan, vô tư mà

26

không bị phụ thuộc vào bất kỳ tác động khách quan hay chủ quan nào thì Tòa án xét xử

phải dựa trên các quy định của pháp luật. Điều 23, Bộ luật TTHS 2015 quy định Thẩm

phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,

cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Đồng thời quy định chế tài

xử lý vi phạm của các cá nhân, cơ quan can thiệp vào việc xét xử của Tòa án thông qua

chế định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm

dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt

vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.

1.5.7 Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số

Để bảo đảm sự khách quan, không thiên vị theo chủ ý của cá nhân nào, khách quan,

đúng người đúng tội, luật TTHS quy định nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định

theo đa số. (Điều 24 Bộ luật TTHS). Theo nguyên tắc này thì việc xét xử các vụ án ở các

cấp Tòa án đều hiện theo chế độ hội đồng. Khi quyết định các vấn đề của vụ án được

thực hiện bằng cách biểu quyết và quyết định của Hội đồng xét xử là ý kiến đa số trừ

trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.

1.5.8 Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng, công khai

Công khai là nguyên tắc quan trọng của thiết chế dân chủ. Vì vậy nguyên tắc công

khai, công bằng không thể không đề cập đến, nguyên tắc xét xử kịp thời, công khai, công

bằng gần như bao trùm hết toàn bộ các nguyên tắc để bảo đảm cho quyền con người của

bị cáo trong xét xử đó là ba quyền được xét xử kịp thời – được xét xử công khai – công

bằng. Điều 25, Bộ luật TTHS 2015, quy đinh Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật

định, bảo đảm công bằng. Chỉ trừ các trường hợp đặc biệt khác mà luật cho phép, ngoài

ra tất cả các vụ án Tòa án phải đưa ra xét xử công khai và tất cả mọi người đều có quyền

tham dự phiên tòa. Nguyên tắc này tạo điều kiện để nhân dân kiểm tra công việc xét xử

của Tòa án có tác dụng nâng cao trách nhiệm trong việc xét xử của Tòa án đồng thời

thông qua đó giáo dục ý thức pháp luật của công dân, động viên đông đảo mọi người

27

tham gia vào cuộc đấu tranh chống tội phạm.

1.5.9 Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt động

của các cơ quan THTT

+ Quyền khiếu nại : Quyền này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ

pháp luật, tôn trọng các quyền của bị can, bị cáo. Đồng thời góp phần khôi phục lại

những quyền và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo, mặt khác kịp thời phát hiện và xử

lý những hành vi vi phạm pháp luật nhằm giữ gìn kỷ cương, trật tự của pháp luật. Điều 32

Bộ luật TTHS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có

quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.

Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp

thời, đúng pháp luật; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan,

tổ chức khiếu nại và có biện pháp khắc phục”.

+ Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án: Bị cáo có quyền kháng cáo để

chống lại bản án của Tòa án, qua đó yêu cầu được cấp phúc thẩm xét xử lại trên cơ sở

xem xét lại toàn bộ bản án và các tình tiết giảm nhẹ. Bị cáo có quyền kháng cáo lại bản

án, quyết định của Tòa án trong thời gian quy định. Vì vậy, khi bị cáo kháng cáo trong

thời gian quy định tại điều 333, Bộ luật TTHS 2015 (Luật cho phép kháng cáo quá hạn

nếu có lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà người kháng cáo không thể

thực hiện việc kháng cáo theo điều 335) thì tòa phúc thẩm phải xem xét và giải quyết

kháng cáo của bị cáo. Trong trường hợp bị cáo kháng cáo cho rằng bản án của Tòa án

cấp sơ thẩm là không phù hợp, quá nặng hay chưa xem xét hết các tình tiết có lợi cho bị

cáo mà không có sự kháng cáo hay kháng nghị theo hướng tăng nặng khác của VKS hay

của bị hại thì Tòa án cấp phúc thẩm không thể tuyên một bản án cao hơn hay bất lợi cho

bị cáo. Nói theo cách khác là nếu không có yêu cầu kháng cáo hay kháng nghị tăng nặng

thì Tòa án cấp phúc thẩm không được tuyên mức án nặng hơn mức án sơ phẩm (Điều

357, Luật TTHS 2015). Đây là một tư duy có lợi cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên

tâm kháng cáo những tình tiết mà mình cho là bất lợi mà không lo sợ các tình huống bất

28

lợi khác dẫn đến không dám kháng cáo.

1.5.10 Các nguyên tắc bảo đảm không làm ảnh hưởng đến quyền con người khi

tiến hành tố tụng.

Các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp là quá trình kế thừa

và xuyên suốt từ bản Hiến pháp đầu tiên đến nay. Những quyền này không chỉ có ý

nghĩa chính trị mà còn tác động đến đời sống hàng ngày của người dân. Vì thế, khi tiến

hành áp dụng các biện pháp của TTHS để giải quyết vụ án, một mặt phải bảo đảm thực

hiện được nhiệm vụ của TTHS nhưng đồng thời phải tôn trọng các quyền con người cũng

như các quyền cơ bản của công dân. Điều 8, bộ luật TTHS 2015 quy định tôn trọng và

bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đó là khi tiến hành tố

tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp

dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp

luật hoặc không còn cần thiết.

1.5.11 Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng mọi công dân trước pháp luật

Điều 9 Bộ luật TTHS quy định tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi

người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn

giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.

1.5.12 Nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận và bảo đảm

Trong Bộ luật TTHS 2015, nguyên tắc tranh tụng lần đầu được chính thức ghi nhận

là một nguyên tắc trong xét xử của Tòa án. Tranh tụng là sự đối trọng giữa bên buộc tội

và bên gỡ tội. Nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS không chỉ quy định giới hạn

trong giai đoạn xét xử mà cần mở rộng cả ở các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Đó

là toàn bộ quy định tại điều 26, Bộ luật TTHS 2015 đó là: “Trong quá trình khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố

29

tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền

bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự

thật khách quan của vụ án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo,

người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ

của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Mọi chứng cứ xác định có tội,

chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp

dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt,

mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý

nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án,

quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả

tranh tụng tại phiên tòa”. Do đó, việc quy định nguyên tắc tranh tụng tồn tại từ giai đoạn

điều tra sẽ góp phần bảo đảm chân lý khách quan của vụ án, làm cơ sở để loại trừ các sai

phạm tư pháp như: bức cung, nhục hình,… làm sai lệch hồ sơ vụ án trước khi đưa ra xét

xử. Một lần nữa nguyên tắc tranh tụng được áp dụng tại phiên tòa xét xử để đánh giá lại

toàn bộ sự thật khách quan của vụ án lần nữa.

 Trên đây là các yêu cầu theo BLTTHS bắt buộc CQTHTT thực hiện để bị cáo hiểu

rõ được các quyền của mình, làm tiền đề cho việc xét xử được bảo đảm công bằng, đúng

pháp luật. Đặc biệt, quy định người bào chữa được tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa

thể hiện vai trò đặc sắc nhất của người bào chữa. Tòa án chỉ là cơ quan xem xét và đưa ra

phán quyết cuối cùng để quyết định mức độ phạm tội của bị cáo. Có thể nói đây là khâu

cuối cùng của quá trình TTHS, vì vậy cần có mặt của người bào chữa, người bào chữa

được hỏi để làm sáng tỏ bản chất của vụ án và có thể gỡ tội cho bị cáo. Trong quá trình

tố tụng tại phiên tòa người bào chữa dùng hoạt động phân tích, lập luận, tranh luận với

Viện kiểm sát để bác bỏ những lời buộc tội đối với bị cáo. Có thể nói quá trình bào chữa

tại phiên tòa là rất quan trọng, khi pháp luật bảo đảm tốt thì sẽ tạo điều kiện cho người

bào chữa thực hiện tốt nhất việc bào chữa của mình, và như vậy sẽ tránh được oan sai, vi

phạm pháp luật TTHS, từ đó sẽ bảo đảm tốt quyền của con người mà cụ thể là quyền và

30

lợi ích hợp pháp của bị cáo.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ

CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH.

2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo

trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh.

Đảng và Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện pháp luật với mục tiêu xây dựng

một nhà nước công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng nhà nước trong sạch, vững

mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Có thể thấy từ

năm nay 2016 đến nay hàng chục văn bản luật với nhiều quy định tiến bộ đã có hiệu lực

thi hành, trong đó có quy định mới liên quan đến “vị trí” của người bào chữa và bị cáo tại

phiên tòa, cụ thể hóa quy định của BLTTHS 2015 ngày 28-7-2017, Chánh án TAND Tối

cao ký ban hành Thông tư số 01 quy định về phòng xử án với nội dung đáng chú ý là tại

phiên tòa hình sự, đó là quy định người bào chữa được bố trí chỗ ngồi ngang bằng với đại

diện VKS, tạo nên sự bình đẳng ngang hàng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, vị thế của

người bào chữa với người buộc tội được xem xét trên phương diện như nhau. Cũng tại

Thông tư này thì khi tham dự phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác sẽ thay

vành móng ngựa bằng bục khai báo riêng. Đây là một cải cách đột phá, trên cơ sở đề cao

nguyên tắc “suy đoán vô tội” khi mà “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi

chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Trong quá trình xét xử Tòa

án chưa tuyên án thì bị cáo vẫn được xem là chưa có tội, hình ảnh bục khai báo giúp bị

cáo tự tin trong quá trình tự bào chữa. Đồng thời trong trường hợp bị cáo được tuyên vô

tội thì hình ảnh đứng trước vành móng ngựa sẽ gây ký ức tiêu cực của bị cáo đối với xã

hội, nó liên tưởng đến song sắt của nhà tù. Có thể nói những cải cách hình thức tại phiên

tòa theo hướng bình đẳng, nâng cao chất lượng tranh tụng hơn, bảo đảm việc xét xử

khách quan, bảo đảm quyền con người.

Quyền của bị cáo được coi trong, điển hình là quyền im lặng của bị cáo. Mặc dù

chưa có quy định trực tiếp về quyền im lặng trong bộ luật TTHS 2015 nhưng qua vụ án

31

Trương Hồ Phương Nga được TAND Tp.HCM đưa ra xét xử. Ngay phần xét hỏi tại

phiên xét xử hôm (22/6), bị cáo Nga đã xin chủ tọa được dùng “quyền im lặng” và giữ

nguyên lời khai như phiên tòa trước đó, đồng thời không trình bày thêm. Đồng thời, Nga

cũng nói mình không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, bị oan. Nghĩa vụ chứng minh

tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan tố tụng, “không phải bị cáo không hợp tác mà bị

cáo giữ quyền im lặng”..

Theo điểm b khoản 1 Điều 7 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định chi tiết

việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm

quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên thì Thẩm phán mặc trang phục làm việc

hành chính của Tòa án nhân dân (không mặc áo choàng); Đối với độ tuổi này, theo quy

định tại Điều 91 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì “Việc xử lý người dưới

18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm

mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân

có ích cho xã hội.” Bởi những lẽ đó, khi phiên tòa có sự tham gia của bị cáo dưới 18 tuổi

thì Tòa án phải tạo một không khí thân thiện nhất để buổi xử án diễn ra hiệu quả nhất. Và

quy định “khi xét xử người dưới 18 tuổi Thẩm phán không mặc áo choàng” là một quy

định mới mang tính ưu việt [23, tr.1]

Từ năm 2002, thuật ngữ “Tranh tụng” được sử dụng trong Nghị quyết số 08/NQ-

TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp.

Tuy nhiên, BLTTHS 2003 vẫn chưa ghi nhận một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét

xử đó là nguyên tắc tranh tụng. Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trên, tại khoản 5

Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được

bảo đảm”. Trên nền tảng nguyên tắc hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ

sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26). Đây là quy định

mới, là căn cứ pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo

hiến định, thể hiện cụ thể ở các nội dung sau:

“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên,

32

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham

gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ,

đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”.

Như vậy có thể thấy BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ mối quan hệ, vị trí giữa

những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng

cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án là bình

đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan

điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Nguyên tắc tranh tụng là hai bên buộc tội

và gỡ tội đưa ra các chứng cứ và tranh luận, còn tòa án là bên thứ ba độc lập căn cứ trên

các chứng cứ, lý lẽ mà các bên đưa ra và quy định pháp luật để đưa ra phán quyết. Để

tranh tụng có hiệu quả thì một trong những điều kiện quan trọng nhất là các bên buộc tội

và gỡ tội phải thực sự bình đẳng với nhau và Tòa án phải đứng ở vị trí trung gian, độc

lập, khách quan, bảo đảm cho hai bên thực hiện chức năng của mình. Tư tưởng bình đẳng

này đã được Thông tư 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân tối

cao thể hiện qua việc bố trí phòng xử án, khi mà vị trí người bào chữa được đưa lên

ngang bằng với Viện kiểm sát đại diện cho bên buộc tội.

Ngoài ra nguyên tắc tranh tụng tại Điều 26 BLTTHS còn có nội dung rất quan

trọng khác đó là “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh

giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Việc tranh tụng chỉ là hình thức nếu kết

quả tranh tụng không được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án. Việc quy định

bản án, quyết định của Tòa án phải dựa vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết

quả tranh tụng là một trong những điểm mới nổi bật trong quy định về nguyên tắc tranh

tụng [24, tr.1].

2.2. Những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo

trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh.

Theo các số liệu thống kê tham khảo từ nhiều nguồn, cụ thể từ Báo cáo kiểm sát

việc truy tố, xét xử của Viện kiểm sát nhân dân TPHCM và Báo cáo số 96/2015/HDND

33

ngày 16/05/2015 của HĐND thành phố về kết quả giám sát về “tình hình oan, sai trong

việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự...” năm 2015 đến nay cho thấy: Về cơ

bản hoạt động truy tố, xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các cơ quan tố

tụng đã khắc phục tồn tại, thiếu sót trong hoạt động truy tố, xét xử; nhờ đó tình hình oan,

sai đã được hạn chế đáng kể so với trước đây. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp,

yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 thì việc phòng chống oan, sai, quy định quyền của bị

cáo vẫn còn hạn chế, bất cập.

Theo các số liệu thống kê, trong 03 năm từ 2011 -2014, các cơ quan tiến hành tố

tụng khởi tố 219.506 vụ với 338.379 bị can nhưng số vụ làm oan người vô tội

có 71 trường hợp, chiếm 0,02% ; 19 trường hợp TA tuyên không phạm tội và bản án đã

có hiệu lực pháp luật [25]. Số người bị oan trên chủ yếu thuộc loại án giết người, cướp tài

sản, hiếp dâm trẻ em mà quá trình điều tra gặp nhiều khó khăn và loại án về kinh tế do

chủ quan của người tiến hành tố tụng nhận thức không đúng, chưa phân biệt được vi

phạm pháp luật và hành vi phạm tội đã hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế thành các

tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; có một số trường hợp làm oan khác là

do người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật đơn thuần, chỉ chú ý đến hậu quả xảy ra,

không xem xét lỗi và điều kiện khách quan dẫn đến hành vi vi phạm trong các trường

hợp. Ngoài các trường hợp bị oan nêu trên, qua giám sát cho thấy tình trạng khởi tố, điều

tra, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do hành vi không cấu thành tội phạm, do miễn trách

nhiệm hình sự có dấu hiệu làm oan người vô tội. Trong 03 năm còn để xảy ra 71 người bị

oan và một số trường hợp khác có dấu hiệu bị oan đang được xem xét, giải quyết đã cho

thấy tình hình làm oan người vô tội trong hoạt động tố tụng hình sự hiện nay còn nghiêm

trọng [31]. Các trường hợp làm oan đều là nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến danh dự,

nhân phẩm, sức khỏe, tài sản của người dân bị oan; có một số vụ đặc biệt nghiêm trọng

gây bức xúc trong dư luận, gây mất lòng tin của nhân dân đối với công lý, giảm sút uy tín

của cơ quan bảo vệ pháp luật. Bên cạnh những sai lầm, vi phạm nghiêm trọng trên, hoạt

34

động xét xử còn nhiều vi phạm khác trong việc áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự

như áp dụng sai điều luật, thiếu thành phần tham gia tố tụng, việc kê biên tài sản, xử lý

vật chứng chưa đúng quy định... dẫn đến tình trạng oan sai, phiếu nại….

Theo số liệu của TAND thành phố trong năm 2019 số bản án hình sự, quyết định sơ

thẩm bị kháng nghị và đã xét xử phúc thẩm 125 vụ/210 bị cáo. TA cấp phúc thẩm hủy án

để điều tra, xét xử lại 184 bị cáo, trong đó sửa tội danh 16 bị cáo, áp dụng hình phạt

không đúng 95 bị cáo, chưa đủ căn cứ kết tội 25 bị cáo, dấu hiệu bỏ lọt tội phạm 10 bị

cáo, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự, sai về phần dân sự 38 bị cáo. 68 bị

cáo TA cấp sơ thẩm cho hưởng án treo bị TA cấp phúc thẩm hủy án để điều tra xét xử lại,

chiếm tỷ lệ 0,87%. Trong số 06 bị cáo được TA sơ thẩm tuyên phạm tội thì có đến 05

trường hợp bị xét xử theo trình tự phúc thẩm, hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại với

cả 05 trường hợp. Theo báo cáo tại kỳ họp HĐND TP.HCM lần thứ 17 khóa IX ngày

7/12/2019. Ban Pháp chế HĐND TP.HCM nhận định công tác kiểm tra, giám sát việc

giải quyết các loại án chưa được thực hiện thường xuyên. Một số cán bộ, công chức, nhất

là Thẩm phán còn hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp...

dẫn đến một số vụ án bị hủy, bị sửa do lỗi của quan của Thẩm phán. Cụ thể, có 109 án bị

hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán (chiếm 0,27%) và 267 án sửa do lỗi chủ quan

(chiếm 0,67%) [30].

2.2.1 Thiếu sót, vi phạm trong thu thập tài liệu, chứng cứ vụ án

Hiện nay nhiều vụ án do chứng cứ chưa thật sự khách quan Tòa án phải trả hồ sơ

để điều tra lại. Theo Chánh án Nguyễn Hòa Bình cho biết năm 2017, ngành Tòa án đã trả

điều tra bổ sung hơn 2.000 vụ án. Trong năm 2017 có 145 vụ trả điều tra bổ sung nhiều

lần, trong đó trả từ hai lần trở lên là hơn 100 vụ, bốn lần là 20 vụ, năm lần là chín vụ.

Trên thực tế nhiều vụ án thực chất không hề có nhân chứng, vật chứng nhưng vẫn

kết tội bị cáo do sử dụng lời khai. Trong các bản án Tòa án thường viện dẫn các bút lục

lời khai của bị can, bị cáo làm cơ sở bằng chứng để kết tội. Điển hình như vụ án oan của

ông L. ở Quận 12, ông L.bị kết án 12 năm tù mà không hề có nhân chứng, vật chứng

nhưng thực tế Tòa án vẫn kết tội bị cáo bằng việc dựa vào lời khai, và bởi vì pháp luật

35

quy định lời khai cũng là chứng cứ. Chứng cứ và lời khai cùng được sử dụng trong việc

tìm kiếm sự thật vụ án, chứng cứ phải được đánh giá quan trọng hơn lời khai, nhưng theo

quy định pháp luật thì lời khai cũng được xác định là chứng cứ và được xem xét đánh giá

ngang hàng với vật chứng. Nhiều vụ án Thẩm phán lại chỉ chú trọng xem xét lời khai của

bị cáo tại phiên tòa, mà thiếu xem xét mối liên hệ giữa các chứng cứ, tình tiết liên quan,

có một số trường hợp bị cáo trong thời gian giam giữ bị ép cung, nhục hình, đe dọa phải

khai theo hướng dẫn của Điều tra viên nên dẫn đến làm sai lệch sự thật của vụ án. Có

trường hợp Tòa án sơ thẩm còn nhầm lẫn nhận định rằng “việc truy tìm vật chứng phải

do CQĐT tiến hành theo thủ tục, trường hợp người bị hại tự qua nhà bị cáo lục soát mang

giao nộp thì không được coi là chứng cứ”. Theo khoản 3, điều 88, Bộ luật TTHS 2015

quy định bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử

và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án. Đồng thời, cũng Bộ luật TTHS tại

điều 86 quy định chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thủ tục quy định. Vấn đề đặt

ra là trường hợp cá nhân tự thu thập chứng cứ thì như thế nào được coi là thu thập theo

trình tự, thủ tục theo luật định, ví dụ như trường hợp vừa nêu trên. So với Bộ luật TTHS

2003 thì Điều 86 Bộ luật TTHS 2015 đã bỏ cụm từ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và

Toà án thành” Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ

luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,

người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết

vụ án”. Cụm từ này trong luật TTHS 2003 dễ gây hiểu nhầm khi áp dụng đó là chỉ có các

cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập.

Một ví dụ điển hình về nhận định sai nội dung và chứng cứ của vụ án như vụ án

xảy ra tại Quận 9, TPHCM Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định sai nội dung và chứng cứ

của vụ án. Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận 9 và bản án hình sự sơ thẩm

của Tòa án nhân dân quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh thì nội dung vụ án được tóm tắt

như sau: Đoái Phước T và bà Nguyễn Thị Nhật M là hai vợ chồng cùng trú tại địa chỉ số

10X/2X Đường 7X, Khu phố X, phường Tăng Nhơn P B, Quận 9, Thành phố Hồ Chí

Minh. Tối ngày 10/4/2017, Đoái Hoàng N là em ruột của Đoái Phước T mượn nhà của T

36

tại số 10X/2X Đường 7X, Khu phố X, phường Tăng Nhơn P B, Quận 9, Thành phố Hồ

Chí Minh để mời bạn về uống rượu, T nói với vợ là Nguyễn Thị Nhật M biết và M đồng

ý. Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 11/4/2017, Đoái Hoàng N, Huỳnh Thế Th, Trần Văn

Đông E, Phan Lê P và Nguyễn Bảo K cùng ngồi uống rượu dưới nhà T và cùng ngồi nói

chuyện lớn tiếng thì chị M từ phòng ngủ của mình đi ra cầu thang nói đi chỗ khác nhậu

nên cả nhóm bỏ về. Lúc này, do tự ái nên T từ dưới nhà đi lên phòng ngủ cãi nhau với chị

M. Trong lúc hai bên lớn tiếng với nhau, T tức giận giơ tay định đánh M nhưng dừng lại

rồi bất ngờ dùng tay đẩy chị M ngã về phía sau, đập đầu vào vách tường ngã xuống sàn

nhà. Sau đó T thấy chị M ôm gối nằm ngủ nên T lấy máy tính bảng ra xem phim, đến 02

giờ 00 phút cùng ngày, T quay sang nhìn thấy chị M nằm bất động, toàn thân tím tái nên

T đưa chị M đi cấp cứu nhưng chị M đã chết trước khi nhập viện. Ngày 03/11/2017,

Trung tâm pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh có Văn bản số 449/TT.17-GT.17

ngày 03/11/2017 về việc giải thích cơ chế hình thành vết thương chị Nguyễn Thị Nhật M

với nội dung: Thái dương bên phải của bị hại khi ngã nghiêng nếu chỉ đơn thuần như

trình bày trong các biên bản mà cơ quan cảnh sát điều tra cung cấp thì không thể gây ra

tình trạng xuất huyết dưới nhện lan tỏa hai bán cầu đại não và tiểu não như thể hiện trong

bản ảnh và bản kết luận giám định pháp y tử thi của bị hại đã mô tả. Đồng thời các

thương tích bên ngoài của vùng đầu bị hại ở nhiều vị trí khác nhau như mô tả trong trang

2 của bản kết luận giám định là do tác động nhiều lần bằng vật tày, không thể do té ngã

va đập một lần gây ra như lời khai của Đoái Phước T. Tất cả các thương tích bầm tụ máu,

sây sát da bên ngoài trên người bị hại là do vật tày tác động vào cơ thể hoặc ngược lại.

Vật tày là những vật có bề mặt tròn hoặc tù (tức là không sắc, không nhọn, không có cạnh

sắc). Sau khi có văn bản giải thích nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân quận 9 vẫn giữ

nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng số 115/CT-Viện kiểm sát nhân dân ngày

01/9/2017. Khi tiếp nhận lại hồ sơ vụ án, Tòa án nhân dân Quận 9 đã mở phiên tòa xét xử

và tuyên án. Theo bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2018/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm

2018 của Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị

cáo Đoái Phước T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tại bản án phúc thẩm số:

37

126/2018/HS-PT ngày: 23-3-2018, Tòa phúc thẩm TAND TpHCM đã nhận định kết luận

điều tra, cáo trạng và bản án sơ thẩm đều mô tả hành vi của bị cáo Đoái Phước T như nêu

trên là không phù hợp với kết luận giám định pháp y tử thi cũng như văn bản giải thích về

cơ chế hình thành vết thương. Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc

thẩm không thể bổ sung được, nên cần hủy toàn bộ án sơ thẩm để điều tra lại nhằm xác

định chính xác hành vi phạm tội.

Vụ án tiếp theo cũng là nguyên nhân gây oan, sai do Tòa án cấp sơ thẩm nhận định

sai chứng cứ trực tiếp gây ra tỉ lệ thương tật của bị hại. Theo các tài liệu có trong hồ sơ

vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 30

phút ngày 14/6/2017, ông Nguyễn Lê Thanh Nhân tổ chức tiệc sinh nhật tại khách sạn

Valentine, số 93/1 Nguyễn Chí Thanh, Phường 9, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Do

khách đến đông, tầng hầm khách sạn không đủ chỗ để xe nên ông Nhân đã hướng dẫn

cho khách đậu xe bên hông nhà 93/2 Nguyễn Chí Thanh, Phường 9, Quận 5 của bà Phan

Thị Gấm. Lúc này, Lê Thị Kim Uyên là con ruột bà Gấm đang đứng ở trong nhà 93/2

Nguyễn Chí Thanh, Phường 9, Quận 5 nói với ông Nguyễn Xuân Hữu là bảo vệ khách

sạn Valentine không được để xe bên hông nhà và nói chủ khách sạn là ông Nhân qua nói

chuyện. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, ông Nhân cùng ông Nguyễn Xuân Hữu đi sang

nhà Uyên để nói chuyện. Do đang uống bia cùng bạn, trên tay ông Nhân có cầm một ly

thuỷ tinh (loại ly có quai dùng để uống bia), ông Nhân đứng trước cửa nhà Uyên và đang

nói chuyện với Uyên thì bất ngờ bị Uyên dùng một con dao rọc giấy trên tay phải đâm

thẳng vào ngực ông Nhân, theo phản xạ tự nhiên, ông Nhân giật lùi lại nhưng dao vẫn

trúng vào ngực phải của ông Nhân gây thương tích. Sau khi dùng dao gây thương tích

cho ông Nhân, Uyên đóng cửa đi vào trong nhà và rửa sạch các vết máu trên lưỡi dao.

Sau đó, ông Nhân được đưa đi cấp cứu và Uyên bị mời đến Công an Phường 9, Quận 5

làm việc. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 711/TgT.17 ngày

30/8/2017 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tỉ lệ tổn

thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 43%. Do đó, tại Bản án hình sự sơ thẩm

số 91/2018/HSST ngày 10/10/2018 của Toà án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí

38

Minh đã nhận định: “ ... bị cáo Lê Thị Kim Uyên đã có hành vi cố ý dùng con dao rọc

giấy đâm một nhát vào ngực phải của ông Nguyễn Lê Thanh Nhân, gây thương tật cho

ông Nhân với tỷ lệ 43%.” Từ đó, tuyên bố bị cáo Lê Thị Kim Uyên phạm tội “Cố ý gây

thương tích” và áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 50

Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Lê Thị Kim Uyên 05 năm

06 tháng tù. Ngày 08/3/2019, TAND TPHCM mở phiên phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc

thẩm xét thấy, theo văn bản số 711-GT2/TgT.17 ngày 26/2/2019 của Trung tâm Pháp y –

Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh và văn bản giải thích số 711-GT/TgT.17 ngày

27/9/2018, Trung tâm Giám định pháp y – Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh thì vết

thương do bị cáo gây ra cho bị hại Nhân (vết đâm ảnh 1) có tỷ lệ tổn thương cơ thể chỉ là

2%, còn lại 40% tổn thương cơ thể là do di chứng từ vết đâm (ảnh 1) gây ra, và 9% là từ

các vết xử lý của cơ quan y tế, cộng lùi các tỷ lệ là 43%. Từ kết quả trên cho thấy, tỷ lệ

tổn thương cơ thể từ vết đâm gây ra là rất thấp (chỉ 2%), trong khi di chứng từ vết đâm lại

lên đến 40%. Ngoài ra, từ thời gian xử lý vết thương ban đầu và lần xử lý thứ 2 của cơ

quan y tế là cách nhau 07 ngày, vậy di chứng xảy ra cho người bị hại là hoàn toàn do vết

đâm ban đầu gây ra hay do một phần lỗi của cơ quan y tế khi xử lý vết thương? Ngoài ra,

cần thiết phải xác định chiều sâu của vết đâm, ảnh hưởng đến những cơ quan nội tạng

nào, khả năng di chứng đến đâu. Tất cả việc này cần thiết phải được làm rõ nhằm xác

định chính xác tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại từ hành vi cố ý gây thương tích

mà bị cáo thực hiện, bởi đối với tội “Cố ý gây thương tích”, tỷ lệ gây tổn thương cơ thể

của bị cáo gây ra cho người bị hại chính là căn cứ để xác định cấu thành tội phạm và định

khung hình phạt. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo

của bị cáo, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra và giám định pháp y về thương tích lại

ở cơ quan giám định cao hơn. Qua đó, cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã có nhận định sai

trong việc gộp chung tất các thương tật để tuyên bị cáo phạm tội “cố ý gây thương tích

với tỉ lệ 43%” trong khi đó vết thương thực tế do bị cáo gây ra nhỏ hơn rất nhiều.

Phần lớn thực tiễn các vụ án hình sự hiện nay, Luật sư vẫn dựa vào hồ sơ buộc tội

của CQĐT, VKS để bào chữa. Trong khi đó, muốn gỡ tội cho thân chủ, LS cần phải tự

39

thu thập được các chứng cứ riêng thì mới đạt hiệu quả cao nhưng việc thu thập chứng cứ

riêng với họ là rất gian nan và khó khăn. Trong khi cơ quan tố tụng chỉ cần gửi công văn

yêu cầu là được cá nhân, tổ chức liên quan đáp ứng thì với LS, khi gặp sự bất hợp tác thì

họ cũng đành chịu bởi không hề có quy định chế tài trường hợp từ chối cung cấp chứng

cứ cho LS. Trong khoản 1 và khoản 2 của điều 88, quy định về việc thu thập chứng cứ.

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

cung cấp chứng cứ, tài liệu. Trong khi đó Luật sư, người bào chữa chỉ có quyền đề nghị

cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào

chữa. Chỉ riêng cách dùng từ giữa đề nghị và yêu cầu cũng cho thấy sự khác biệt trong

việc thu nhập chứng cứ giữa các bên.

2.2.2 Thiếu sót, vi phạm về thủ tục tố tụng trong hoạt động xét xử

Ngoài những sai phạm cơ bản trên, qua tìm hiểu còn cho thấy bản án, quyết định

của nhiều Tòa án địa phương thường có vi phạm về thủ tục tố tụng như: không triệu tập

đầy đủ những người tham gia tố tụng đến phiên tòa, không công bố lời khai của người

làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, vi phạm quyết định đưa vụ án ra xét xử (không ghi họ

tên của Hội thẩm); việc xét xử đối với bị cáo là người chưa thành niên nhưng thành phần

Hội đồng xét xử không có Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ đoàn thanh niên

(Điều 423 BLTTHS 2015), không áp dụng các quy trình tại điều 420, 421,422, 423

BLTTHS 2015 để điều tra; xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Vi phạm về thời

hạn ra lệnh tạm giam, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Biên bản phiên tòa, biên bản nghị

án còn sơ sài, hình thức, không đúng với phần quyết định của bản án. Khi nghị án không

thảo luận và biểu quyết về điều khoản áp dụng xử phạt bị cáo; một số vụ trả hồ sơ không

có căn cứ, không gửi hoặc chậm gửi bản án, quyết định cho VKS; một số nơi chậm

chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp dưới để giải quyết theo thẩm quyền.

Nguyên nhân dẫn đến các trường hợp oan, sai thuộc trách nhiệm tòa án chủ yếu do

trình độ, năng lực của một bộ phận thẩm phán còn hạn chế. Việc một số thẩm phán chưa

nghiên cứu kỹ hồ sơ, thiếu phân tích, đánh giá các chứng cứ vụ án một cách khách quan,

toàn diện trước khi xét xử; thẩm phán còn quá tin vào tài liệu hồ sơ của CQĐT và cáo

40

trạng VKS, chưa chủ động hỏi để làm rõ các tình tiết mới phát sinh; chưa coi trọng ý kiến

bào chữa của bị cáo và Luật sư; năng lực áp dụng pháp luật và trách nhiệm trong xét xử

của một số thẩm phán còn yếu; chất lượng tranh tụng tại nhiều phiên tòa còn hạn chế và

mang tính hình thức. Ví dụ như Bản án số: 55/2018/HS-PT của TAND TPHCM ngày

02/02/2018. Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên xét xử và hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số

13/2018/TLPTH của TAND huyện Củ Chi. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn

biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày

22/01/2017, bị cáo Đỗ Thanh L chửi bới, xô ngã hàng rào tại nhà ông Nguyễn Văn N do

có mâu thuẫn về tranh chấp đất trong dòng họ, thời điểm này ông N không có ở nhà.

Khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày, ông N đi câu cá về nghe vợ kể lại nên ông N qua nhà

bị cáo L để hỏi rõ. Tại nhà bị cáo L, hai bên xảy ra xô xát và sau khi được can ngăn, ông

N đi ra về. Lúc này, bị cáo L chạy xuống nhà bếp lấy 01 con dao dài khoảng 50 cm chạy

ra quơ ngang trúng vào vùng thái dương bên trái của ông N. Tại bản án hình sự sơ thẩm

số 200/2017/HSST ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ

Chí Minh đã tuyên xử: bị cáo Đỗ Thanh L 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương

tích” theo điểm a Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm

2009). Tuy nhiên tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào quy định của bộ luật hiện hành, chưa

xem xét theo điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của

Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung

một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 quy định kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, Bộ

luật Hình sự năm 2015 được áp dụng như sau: “Các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm

2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ

hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt,

xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả

những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau

thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang

được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích”. Vì vậy tại phiên tòa phúc thẩm

xét theo khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về

41

“Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự” có những quy định có lợi cho bị cáo so với quy định

tại Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Điều 155 Bộ luật

tố tụng hình sự 2015, Tòa án phúc thẩm đã tuyên miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo

Đỗ Thanh L.

Vụ án thứ 2, tại Bản án số: 88/2018/HS-PT Ngày: 05-3-2018 xét xử phúc thẩm của

TAND TPHCM tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, do việc điều tra của cấp sơ thẩm

không đầy đủ. Cụ thể tại bản án hình sự sơ thẩm số 200/2017/HSST ngày 30/11/2017 của

Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị

cáo Trương Minh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ

thu thập được có trong hồ sơ vụ án, tòa phúc thẩm nhận thấy vụ án còn nhiều điểm chưa

được làm rõ, lời khai của bị cáo không thống nhất, lời khai của bị cáo, người liên quan có

nhiều mâu thuẫn với bị hại và người làm chứng. Ngay sau khi khởi tố vụ án, bị can, Cơ

quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Bình Chánh không tiến hành thực nghiệm điều

tra ngay. Hơn 1 tháng sau khi thực hiện tạm giam, Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an

huyện Bình Chánh và Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh mới tiến hành thực

nghiệm điều tra, nhưng không bảo đảm về hình thức và nội dung theo quy định tại Điều

153 Bộ luật tố tụng hình sự và không có bị hại Nguyễn Minh N, người làm chứng Hồ

Khắc H chứng kiến. Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần

để làm rõ, nhưng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn không tiến hành điều tra

thêm. Sau đó Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tuyên Trương Minh T, phạm tội “Cố ý gây thương

tích” với mức án 01 năm 06 tháng tù nên Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy tòa bộ bản án

sơ thẩm của TAND huyện Bình Chánh.

2.2.3 Thiếu sót, bất cập trong tranh tụng

Từ những nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hình sự

sơ thẩm tại TpHCM ngoài những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và hạn

chế trong việc bảo đảm quyền của bị cáo trong quá trình tranh tụng cho thấy:

Một là, sự bình đẳng của các bên tham gia tranh tụng vẫn còn nhiều mặt chưa được

bảo đảm và vai trò của Tòa án vẫn chưa được phát huy hết. Trước hết là do các quy định

42

cho bảo đảm sự bình đẳng của các bên tranh tụng vẫn chưa được hoàn thiện, các quyền

của bên bị buộc tội vẫn còn hạn chế chưa tương xứng với quyền của bên buộc tội. Một

phần do cơ chế tổ chức hệ thống tham gia thủ tục tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát, Tòa án với tổ chức luật sư chưa được hoàn thiện. Trong đó ba trong bốn cơ quan, tổ

chức trên thuộc cơ quan công quyền, vô hình dung làm cho bị cáo và người bào chữa có

cảm giác bất bình đẳng, chính hệ thống tổ chức như trên xuất hiện nhiều trường hợp án

được “họp liên ngành” giữa CQĐT- Viện kiểm sát – Tòa án trước khi đưa ra xét xử.

Trên nguyên tắc chức năng của Tòa án là phán xét trên cơ sở thẩm định các chứng

cứ và lời đối đáp, tranh biện giữa các bên để tuyên án, nhưng thực tế vẫn còn trường hợp

Tòa án buộc tội thay cho VKS, vẫn là một cơ quan có trách nhiệm chứng minh, quá trình

xét hỏi của TA đa phần vẫn dựa vào bản cáo trạng truy tố của VKS nhằm để buộc tội bị

cáo.

Ví dụ, vụ án “cố ý gây thương tích” tại quận Thủ Đức. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày

25/12/2015, tại phòng VIP 4 quán Phố Biển - số 12 đường K, phường T, quận Thủ Đức,

Thành phố Hồ Chí Minh, anh Trần Vũ Hồng Q tham gia dự tiệc liên hoan cùng các nhân

viên làm chung quán ăn Phố Biển gồm có: Nguyễn Xuân K, Nguyễn Phúc G, Lê Minh H

và Lưu Hồng S. Trong lúc đang ăn uống và hát Karaoke thì giữa anh Q với Lê Minh H có

mâu thuẫn nhưng đã được anh Nguyễn Xuân K can ngăn và kéo anh Q ra khỏi phòng để

tránh xảy ra đánh nhau. Khi anh K và anh Q vừa ra khỏi phòng thì Minh H và Phúc G đi

ra theo, giữa Minh H và anh Q tiếp tục cự cãi và đánh nhau, Minh H dùng tay phải đánh

vào người anh Q một cái, Phúc G dùng tay phải đấm vào người anh Q một cái. Lúc này,

Lưu Hồng S từ trong phòng Víp 4 đi ra thấy anh Q và Minh H cùng Phúc G đánh nhau

lên cùng với anh K can ngăn, Minh H quay người lại định bỏ đi thì bất ngờ bị anh Q đi lại

dùng tay đẩy Minh H từ phía sau ngã xuống đất. Thấy vậy, Lưu Hồng S liền dùng tay trái

có đeo chiếc nhẫn làm bằng inox màu xám, bên trên nhẫn có gắn viên đá màu đen, đấm

một cái trúng vào mắt phải của anh Q làm anh Q ngã xuống đất bất tỉnh và chảy máu ở

mắt phải.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 137/TgT.16 ngày

43

04/7/2017 của Trung tâm Pháp pháp y - Sở Y Tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

thương tích của anh Trần Vũ Hồng Q theo bản kết luận giám định pháp y số 137/TgT.16

ngày 15/3/2016 thì dùng nắm tay có đeo nhẫn như mô tả phù hợp gây ra các thương tích

tại vùng mắt trái hơn là dùng nắm tay không. Tại bản án hình sự sơ thẩm số

318/2017/HSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí

Minh đã tuyên xử: Tuyên bố bị cáo Lưu Hồng S phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tuy

không thu nhập được chứng cứ là chiếc nhẫn, chỉ căn cứ theo cáo trạng và bản kết luận

giám định pháp y về thương tích mà ít căn cứ vào đánh giá tranh tụng tại tòa, Tòa án cấp

sơ thẩm đã tuyên bị cáo bản án 05 năm tù là chưa đánh giá hết được toàn bộ diễn biến và

sự việc của vụ án.

Theo bản kết luận giám định pháp y số 137/TgT.16 ngày 15/3/2016 của Trung tâm

Pháp pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh về thương tích của anh Trần Vũ Hồng Q

kết luận: anh Q bị chấn thương vùng mắt phải gây rách da mi trên, dưới; vỡ nhãn cầu; vỡ

hốc mắt; vỡ xoang hàm; gãy xương chính mũi. Tuy nhiên tại bản kết luận giám định pháp

y về thương tích (bổ sung) số 137/TgT.16 ngày 04/7/2017 của Trung tâm Pháp pháp y -

Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh giải thích về cơ chế hình thành vết thương xác định:

thương tích của anh Trần Vũ Hồng Q theo bản kết luận giám định pháp y số 137/TgT.16

ngày 15/3/2016 thì dùng nắm tay có đeo nhẫn như mô tả phù hợp gây ra các thương tích

tại vùng mắt, mặt trái hơn là dùng nắm tay không; là có mâu thuẫn với các tài liệu, chứng

cứ khác có trong vụ án để xác định sự thật khách quan của vụ án nhưng Tòa án cấp sơ

thẩm không trả hồ sơ điều tra bổ sung yêu cầu cơ quan giám định giải thích về sự mâu

thuẫn này trong các kết luận giám định mà vẫn sử dụng làm chứng cứ để kết tội đối với bị

cáo S là có thiếu sót, chưa toàn diện, khách quan trong việc đánh giá chứng cứ. Do đó

Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ và tại

phiên tòa, bị cáo Lưu Hồng S khai bổ sung tình tiết mới có dấu hiệu làm thay đổi nội

dung vụ án, nên cần hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 318/2017/HSST ngày

28/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra và

44

xét xử lại ở cấp sơ thẩm.

Bên cạnh đó, thực tiễn vẫn còn những trường hợp khi đối đáp, đại diện Viện kiểm

sát chỉ nêu tranh luận của Luật sư là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không

chấp nhận; hoặc theo khoản 2, điều 322 quy định Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài

liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham

gia tố tụng khác tại phiên tòa nhưng thực tiễn xét xử đại diện Viện kiểm sát không đối

đáp lại ý kiến của Luật sư mà chỉ nêu “Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm của mình”,

mặc dù có quy định nhưng nếu Kiểm sát viên không đáp lại thì cũng không có cơ chế nào

buộc họ phải tranh luận đến cùng. Cũng liên quan đến vấn đề tranh luận của Luật sư tại

phiên tòa sơ thẩm, theo khoản 3 Điều 322 BLTTHS quy định Chủ tọa phiên toà không

được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận

trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.

Khái niệm “không liên quan vụ án” rất chung chung và có nhiều cách hiểu khác nhau trên

thực tế cũng được diễn dịch và áp dụng khác nhau đó là khi Chủ tọa phiên tòa dùng

quyền của mình để cắt ý kiến của người bào chữa.

Mặt khác, hạn chế trong tranh tụng còn xuất pháp từ chính người bào chữa, như

thiếu số lượng Luật sư bào chữa trong các phiên tòa, chất lượng bào chữa tại phiên tòa

nhìn chung chưa cao. Đa số các Luật sư mới chỉ dựa vào hồ sơ vụ án và tìm ra trong đó

những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà chưa tìm hiểu thực tế vụ án.

Mặt khác, hiện nay phần lớn Luật sư chỉ tham dự, có mặt từ khi đưa vụ án ra xét xử nên

hạn chế trong việc thu thập thông tin từ giai đoạn đầu khi khởi tố…

Nguyên tắc bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo chưa được

thực thi hiệu quả. Xương sống của nguyên tắc tranh tụng chính là tính đối trọng của hai

chức năng buộc tội và gỡ tội. Tuy nhiên, hiện nay khoảng 80% các phiên tòa hình sự ở

Việt Nam thiếu người bào chữa thực hiện chức năng gỡ tội để có thể làm đối trọng với

các cơ quan buộc tội của nhà nước. Rõ ràng những cơ quan nhà nước chuyên môn sẽ có

kiến thức hơn những người bị buộc tội mà người bị buộc tội lại thiếu sự giúp đỡ từ phía

các Luật sư thì hầu như bản án chỉ phán quyết dựa trên quyết định của các cơ quan tiến

45

hành tố tụng.

2.2.4 Về tính độc lập của Tòa án trong xét xử

Theo quy định của pháp luật, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật. Quy định này được thể hiện rõ trong Hiến pháp 2013 và một lần nữa được

nhấn mạnh trong BLTTHS 2015. Sự độc lập của Tòa án trong xét xử là điều cần thiết,

cộng đồng quốc tế thống nhất rằng một nền tư pháp độc lập là nền tảng cho sự thịnh

vượng của nền kinh tế quốc gia nhưng trên thực tế, sự độc lập của Tòa án không phải lúc

nào cũng được bảo đảm. Độc lập xét xử nghĩa là Tòa án đưa ra những phán quyết dựa

trên đánh giá khách quan của vụ án và chiếu theo quy định của pháp luật mà không chịu

sự tác động bởi bất kỳ thứ gì. Có thể nói để cho Tòa án xét xử một cách khách quan và

công bằng thì phải bảo đảm cho Tòa án nguyên tắc độc lập.

Có thể thấy rằng, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp hợp

thành quyền lực nhà nước thống nhất của một quốc gia. Tại các quốc gia khác nhánh tư

pháp được xem như là một trong các nhánh quyền lực bao gồm tư pháp, hành pháp và lập

pháp, nhánh tư pháp chịu sự giám sát lẫn nhau giữa 2 nhánh quyền lực còn lại là lập pháp

và hành pháp. Nhưng ở Việt Nam chưa có ghi nhận chính thức về quyền này. Mặt khác

theo quy định của pháp luật Tòa án là cơ quan tư pháp thực hiện chức năng xét xử,

nhưng khái niệm cơ quan tư pháp, phân định nhánh quyền tư pháp ở Việt Nam còn chung

chung. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược Cải cách

tư pháp đến năm 2020 chỉ xác định: “Tòa án là trung tâm và hoạt động xét xử là trọng

tâm trong hệ thống tư pháp nước ta” chứ chưa hề có sự khẳng định về nhánh quyền tư

pháp. Khi đề cập đến việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ

chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp đã nêu các cơ quan: Tòa án nhân dân; Viện kiểm

sát nhân dân; Cơ quan điều tra; Cơ quan thi hành án. Như vậy có thể hiểu cơ quan tư

pháp ngoài tòa án còn có các cơ quan khác, trong cùng hệ thống tư pháp. Các cơ quan

trong cùng một hệ thống xét trên một vài khía cạnh nào đó cũng phải có sự ràng buộc,

tương trợ lẫn nhau. Do sự quy định còn mập mờ như vậy, việc bảo đảm tính độc lập của

46

Tòa án trong xét xử vẫn còn hạn chế.

Tại Việt Nam, Đảng là cơ quan lãnh đạo toàn diện, như vậy sự chi phối của Đảng

biểu hiện rõ rệt trong hoạt động của Tòa án. Đảng lãnh đạo Tòa án thông qua các nghị

quyết, chủ trương, đường lối đối với hoạt động xét xử. Mặt khác, một trong những

nguyên tắc lãnh đạo của Đảng là công tác nhân sự, bổ nhiệm, việc xem xét, quyết định

nhân sự cán bộ lãnh đạo và Thẩm phán Tòa án các cấp càng cho thấy sự lãnh đạo của

Đảng. Có thể cho rằng sự lãnh đạo của Đảng trên mặt nhân sự không ảnh hưởng trực tiếp

đến quá trình xét xử. Nhưng xét trên một phương diện nào đó nó có tác động gián tiếp

đến tư tưởng của Thẩm phẩm khi xét xử.

Thứ hai, tính độc lập của Tòa án trong xét xử còn bị chi phối ít nhiều bởi HĐND và

cơ quan hành pháp cùng cấp: đó là Tòa án nhân dân, cụ thể là Chánh án Tòa án có trách

nhiệm báo cáo và chịu chất vấn của HĐND cùng cấp. Thẩm phán, hoặc Chánh án Tòa án

sẽ là ủy viên của BCH Đảng tại địa phương, sẽ chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bí thư

đảng ủy về một phạm vi nào đó. Đối với cơ quan hành pháp cùng cấp có thẩm quyền

tham gia hoặc quyết định những vấn đề về ngân sách, cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động

của Tòa án. Do đó dẫn đến một thực tế là, cơ quan Tòa án khó có thể độc lập, mà ít nhiều

cũng chịu sự chi phối vào các cơ quan khác ở địa phương.

Thứ ba, Tòa án có thể bị chi phối bởi Tòa án cấp trên

Trên thực tế ngoài hoạt động tố tụng, trong cơ cấu tổ chức, quản lý vẫn thể hiện

mối quan hệ hành chính giữa Tòa án cấp trên và cấp dưới. Do đó, Tòa án cấp tỉnh, thành

phố vẫn có sự ảnh hưởng nhất định đối với Tòa án cấp cao. Bên cạnh đó, Tòa án cấp sơ

thẩm luôn bị đặt trong trạng thái bản án, quyết định của mình có thể bị xét xử theo thủ tục

phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị thì sự độc lập của Tòa án trong xét xử cấp sơ

thẩm sẽ là khó bảo đảm. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng “thỉnh thị án”, “báo cáo

án”, “chỉ đạo án” hiện nay.

Thứ tư, khả năng Tòa án có thể bị chi phối bởi các VKS, CQĐT

Thực tế trong hoạt động tố tụng, mà báo chí vẫn nhắc tới đó là “họp liên ngành”

giữa Tòa án – VKS – CQĐT vẫn còn diễn ra. VKS cùng cơ quan Tòa án họp bàn thống

47

nhất về đường lối xử lý vụ án trước khi đưa vụ án ra xét xử. Thực tiễn này sẽ làm ảnh

hưởng đến sự độc lập của Tòa án trong việc xét xử, Tòa án dễ bị chi phối bởi những quan

điểm đã được trao đổi, bàn bạc với CQĐT và VKS. Hơn nữa, các cơ quan này dễ tạo ra

quan hệ “có đi có lại”, bao che nhau để tránh việc bản án đã tuyên gặp phải kháng nghị

của VKS lên Tòa cấp trên. Bên cạnh đó tại khoản 1, điều 42, Bộ luật TTHS 2015 quy

định cơ quan VKS có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng hình sự, chính chức năng VKS có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp

luật, kể cả việc tuân theo pháp luật của Tòa án nên ít nhiều tâm lý của Tòa án khi xét xử

có tính “dè chừng và có chiều hướng xử theo “nguyện vọng” của VKS. Khác với hệ

thống tư pháp của các nước chỉ có Viện công tố thay cho Viện kiểm sát, như ở nước ta

VKS vừa có chức năng công tố vừa có chức năng kiểm sát, đôi lúc sẽ dẫn đến tình trạng

“vừa đá bóng vừa thổi còi”.

2.2.5 Quyền bào chữa của bị cáo chưa được bảo đảm triệt để.

Việc ghi nhận quyền bào chữa trong Hiến pháp và BLTTHS 2015 cùng với đội ngũ

Luật sư đã và đang được đánh giá là có số lượng phát triển vượt bậc chỉ trong vòng chưa

đầy 10 năm trở lại đây, với tốc độ phát triển đạt 250% cho thấy nỗ lực lớn của Nhà nước

Việt Nam trong việc bảo đảm nhân quyền này. Tuy nhiên xét trên một vài khía cạnh nào

đó, quy định quyền này vẫn còn những hạn chế:

Tính đến nay, với hơn 15.000 Luật sư đang hành nghề và hơn 5.000 Luật sư tập

sự đang thực tập trên cả nước cho thấy đội ngũ Luật sư ngày càng tăng về số lượng và

chất lượng. Thế nhưng, nếu so với quy mô dân số và các nước trên thế giới, tỷ lệ Luật sư

của Việt Nam vẫn còn quá ít. Tính trung bình mới đạt 16.000 dân/1 Luật sư. Do vậy, ít

nhiều sẽ hạn chế đến quyền bào chữa của bị cáo do không được thực hiện hoặc thực hiện

không kịp thời, không đầy đủ với nguyên nhân thiếu Luật sư tham gia ngay từ đầu vụ án

lẫn trong quá trình xét xử. Với những vụ án mà Luật sư tham gia do chỉ định thì phần lớn

các Luật sư đều tham gia phiên tòa một cách hình thức, chiếu cố, lấy lệ, chưa thực sự

nhiệt tình để bào chữa cho thân chủ.

Ở Việt Nam hiện nay, nhiều Luật sư không dám nói lên hết suy nghĩ của mình, có

48

thể là do họ lệ thuộc tổ chức hoặc giữ mối quan hệ với cơ quan tố tụng để hành nghề,

không nhiều người dám nói lên suy nghĩ thực, trong khi đa số ngại đụng chạm. Sự lệ

thuộc vào tổ chức ở đây là Liên đoàn Luật sư, trong khi đó Liên đoàn Luật sư là một tổ

chức chính trị, nằm trong phạm vi hoạt động của Mặt trận Tổ quốc nên sự độc lập của

Liên đoàn Luật sư cũng có tác động ít nhiều đến “tâm lý” của các Luật sư.

2.2.6 Quy định về chứng cứ và người bào chữa

Theo quy định tại điều 72, Bộ Luật TTHS 2015, người bào chữa là Luật sư; Người

đại diện của người bị buộc tội; hoặc Bào chữa viên nhân dân nhưng phải được Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa

và Trợ giúp viên pháp lý. Cũng tại điều 78 bộ luật này quy định khi làm thủ tục đăng ký

bào chữa thì bào chữa viên nhân dân phải kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử

bào chữa viên nhân dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành

viên của Mặt trận; hoặc trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình

văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Quy

định như thế này quả thực là rườm ra, tốn thêm công sức, thời gian cho người bào chữa,

hạn chế người tham gia vào việc bào chữa.

2.2.7 Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn nhiều bất cập

Hiện nay tại TpHCM đã thành lập tòa Gia đình và người chưa thành niên. Đây là

sự nỗ lực lớn của thành phố trong việc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi.

Theo Bà Ung Thị Xuân Hương, nguyên chánh án TAND TP.HCM cho biết công tác xét

xử án hình sự của Tòa Gia đình và người chưa thành niên luôn bảo đảm việc xử lý để

người chưa thành niên phạm tội được lợi ích tốt nhất và chủ yếu nhằm mục đích giáo

dục. Phần lớn các hình phạt đối với người chưa thành niên được áp dụng là án treo.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động đã tồn tại nhiều vướng mắc. Cụ thể, lực lượng

Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án chưa được tập huấn chuyên sâu về lĩnh vực

hôn nhân gia đình, về tâm lý trẻ em, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên;

Hội đồng tư vấn giải quyết các vấn đề về gia đình và người chưa thành niên chưa được

thực hiện vì chưa có quy chế phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan, tổ chức chính trị - xã

49

hội liên quan nên việc thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng còn gặp nhiều khó khăn.

Thêm vào đó Tòa Gia đình và người chưa thành niên chỉ có duy nhất một tòa cấp thành

phố, trong khi đó cấp quận, huyện vẫn dùng TAND để xét xử sơ thẩm người chưa thành

niên do cấp quận /huyện chưa có thành lập Tòa án chuyên biệt này. tại Hội nghị sơ kết

công tác 6 tháng hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên TAND

TP.HCM, nhiều đại biểu đã nêu ý kiến về bất cập trong phạm vi thẩm quyền xét xử các

vụ án liên quan đến chưa người thành niên. Cụ thể, người phạm tội đến mức độ nào thì

Tòa GĐVNCTN xét xử, trong những vụ án hỗn hợp (có cả người lớn và người chưa

thành niên) thì giao cho TAND xử theo thủ tục bình thường hay chuyển qua cho Tòa

GĐVNCTN xử lý; hoặc đối với các vụ án về lao động, hành chính… mà trong đó có

người chưa thành niên thì xét xử theo thủ tục nào... [26]

2.2.8 Quy định về tiêu chuẩn và trách nhiệm của của Hội thẩm trong xét xử

Hội thẩm nhân dân có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử vì khi tham gia xét xử

ở cấp sơ thẩm, Hội thẩm chiếm đa số trong Hội đồng xét xử (2/3 hoặc 3/5) và ngang

quyền với Thẩm phán khi biểu quyết mà không có bất kỳ sự lệ thuộc nào. Nhưng hiện

nay các quy định về tiêu chuẩn và trách nhiệm của hội thẩm vẫn còn chung chung, hoàn

toàn mang tính định lượng, không rõ ràng, không cụ thể nên rất dễ tùy nghi vận dụng như

quy định tại Điều 85 Luật TCTAND 2014 thì hội thẩm chỉ cần là công dân Việt Nam; Có

kiến thức pháp luật; Có hiểu biết xã hội; Có sức khỏe là đủ vì vậy đa số Hội thẩm được

bầu hoặc cử trong các nhiệm kỳ vừa qua chưa trải qua lớp đào tạo chuyên ngành Luật mà

chỉ được trang bị kiến thức rất cơ bản về pháp luật và nghiệp vụ công tác xét xử sau khi

được bầu làm Hội thẩm thông qua đợt tập huấn hàng năm thời gian từ 02 đến 03 ngày

cho nên khi tham gia xét xử, bản thân các Hội thẩm thường xem xét các vấn đề đặt ra đối

với họ chủ yếu bằng kinh nghiệm sống, chứ ít khi dựa trên cơ sở pháp luật. Trong khi đó

Luật cho phép hội thẩm ngang quyền với thẩm phán và biểu quyết theo số đông. Do đó

khi nghị án nếu các hội thẩm cùng có nhận định sai về quan hệ pháp lý nhưng ý kiến biểu

quyết của các Hội thẩm là giống nhau và khác với ý kiến của Thẩm phán thì quyết định

50

của Hội đồng xét xử phải theo ý kiến của đa số, dù Thẩm phán là người đã từng làm công

tác xét xử lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, đạt đến trình độ chuyên nghiệp thì cũng chỉ có

quyền bảo lưu ý kiến của mình trong biên bản nghị án.

Bên cạnh đó, tại Điểm a, Khoản 1, Khoản 2, Điều 46, Bộ Luật TTHS 2015 quy định

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm được phân công xét xử sơ thẩm vụ án

hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn như: “Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên

tòa và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình”.

Tại 2 điểm này tác giả có ý kiến như sau:

+Về việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa: Tác giả cho rằng thời gian Hội

thẩm phiên tòa được nghiên cứu hồ sơ vụ án quá ngắn. Theo quy định chỉ khi có quyết

định phân công của Chánh án của Tòa án và quyết định của Thẩm phán – chủ tọa phiên

tòa đưa vụ án ra xét xử, thì từ thời điểm đó Hội thẩm chính thức trở thành thành viên của

Hội đồng xét xử và được tham gia đọc hồ sơ, nghiên cứu xét xử vụ án đó. Căn cứ theo

Khoản 3, Điều 277 Bộ Luật TTHS 2015 là tối đa 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa

vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa, đồng nghĩa với việc Hội thẩm chỉ có thời gian

nghiên cứu vụ án tối đa là 15 ngày trước khi vụ án được xét xử, trong khi đó cũng tại

khoản 1, điều này cho phép thẩm phán được phân công xét xử vụ án có thời gian nghiên

cứu hồ sơ dài hơn, cụ thể 30 ngày, 45 ngày, 02 tháng, 03 tháng tùy theo từng loại tội

phạm. Như vậy đối với những vụ án hình sự có nhiều bị cáo tham gia, hồ sơ lên đến hàng

trăm bút lục thì thời gian như vậy đối với Hội thẩm là chưa đủ.

+Về trách nhiệm của Hội thẩm trong việc đưa ra quyết định bản án. Quy định hiện hành

chưa có quy định cụ thể để ràng buộc trách nhiệm của hội thẩm trong việc đưa ra bản án

trái pháp luật. Điều 46 BLTTHS 2015, Điều 8, Nghị quyết số 1213/2016/UBTVQH13,

ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của đoàn hội thẩm và Khoản 8, Điều 89, Luật

TCTAND 2014 quy định: “Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính

chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự

theo quy định của luật. Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà

51

gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm

bồi thường và Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy

định của pháp luật”. Tuy nhiên thực tế chưa có vị Hội thẩm nào bị xét kỷ luật hoặc truy

cứu trách nhiệm hình sự do không hoàn thành nhiệm vụ, bởi lẽ “phiên tòa cũng không

phải là nơi họ sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính, nên cho dù có

thực hiện tốt hay chưa tốt nhiệm vụ của Hội thẩm thì cũng không ảnh hưởng đến việc xét

nâng lương, thăng quân hàm (đối với hội thẩm quân nhân), bổ nhiệm chức danh,…kể cả

đánh giá xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đảng viên, cán bộ, công chức,

viên chức tại cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý họ. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp

bản án của Hội đồng xét xử đó bị hủy, bị sửa do áp dụng pháp luật không đúng hoặc xét

xử oan, sai, nhưng cuối cùng Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử vẫn vô tư, coi như

không có chuyện gì xảy ra” [32]

2.3. Nguyên nhân của tình hình oan, sai trong hoạt động xét xử

Theo Nguyên Chánh án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Ung Thị Xuân

Hương, kết quả thực hiện công tác xét xử, giải quyết án của Tòa án nhân dân hai cấp

thành phố chưa đạt yêu cầu cũng như chỉ tiêu công tác đề ra. Một trong những nguyên

nhân là do gia tăng lượng án thụ lý mới, bên cạnh án tồn đọng của những năm trước,

trong đó có nhiều vụ án có yếu tố nước ngoài nên phải thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp,

tạm đình chỉ nên mất nhiều thời gian. Trong khi đó, vào những tháng cuối năm 2017, Tòa

án nhân dân thành phố vẫn phải thụ lý một lượng lớn các vụ việc chuyển thẩm quyền của

các Tòa án nhân dân cấp quận, huyện. “Số lượng các loại vụ án thụ lý lớn, tính chất các

vụ tranh chấp ngày càng phức tạp, trong khi đó số lượng cán bộ, Thẩm phán, nhất là

Thẩm phán sơ cấp chưa đủ để đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó, nhiều Bộ luật, Luật mới có

hiệu lực thi hành nhưng phần lớn chưa có Nghị định, Thông tư hướng dẫn. Cá biệt có

nhiều vấn đề vướng mắc về công tác chuyên môn và Tòa án nhân dân hai cấp thành phố

đã gửi văn bản yêu cầu hướng dẫn đến Tòa án nhân dân tối cao nhưng chưa nhận được

phản hồi kịp thời” [27]

Ngoài những nguyên nhân chủ quan kể trên thì nguyên nhân khác là do một bộ

52

phận Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán chưa nghiêm túc chấp hành pháp luật; yếu

kém về năng lực, trình độ, nôn nóng trong giải quyết vụ án, việc thu thập, đánh giá chứng

cứ chưa thật đầy đủ, khách quan, toàn diện; chưa bảo đảm đúng nguyên tắc “suy đoán vô

tội”. Một bộ phận người tiến hành tố tụng còn yếu kém về phẩm chất, đạo đức, buông

lỏng trách nhiệm công vụ. Một số địa phương xảy ra nhiều án còn thiếu Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư, tính chuyên nghiệp của đội ngũ những người tiến

hành tố tụng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự chưa cao, tỷ lệ vụ án

hình sự có NBC tham gia tố tụng còn rất thấp, chất lượng bào chữa của NBC chưa đáp

ứng nhu cầu thực tế ...

Theo báo cáo của Liên đoàn Luật sư Việt Nam thì: Năm 2010 có 55.221 vụ án sơ

thẩm, 12.971 vụ án phúc thẩm; năm 2011 có 60.925 vụ sơ thẩm, 13.896 vụ án phúc thẩm;

năm 2012 có 67.369 vụ án sơ thẩm, 14.119 vụ án phúc thẩm; năm 2013 là 68.751 vụ án

sơ thẩm, 15.094 vụ án phúc thẩm. Trong khi đó số vụ án hình sự có Luật sư tham gia bào

chữa trong năm 2010 là: 14.727 vụ (trong đó: 7.608 vụ được mời, 7.119 vụ theo yêu cầu

của CQTHTT); Năm 2011 là: 17.507 vụ (trong đó: 9.740 vụ được mời, 7.767 vụ theo yêu

cầu của CQTHTT): Năm 2012 là: 14.375 vụ (trong đó: 5.946 vụ được mời, 8.429 vụ theo

yêu cầu của CQTHTT).

Nhìn vào số liệu trên cho thấy tỷ lệ vụ án hình sự có NBC tham gia TTHS để bào

chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị can, bị cáo là quá thấp. Vẫn còn rất nhiều vụ án

hình sự không có sự tham gia bào chữa của NBC dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của

53

bị can, bị cáo không được bảo đảm; hiện tượng án oan, sai vẫn còn nhiều. Thực tiễn xét

xử cho thấy rằng chất lượng tranh tụng tại một số phiên tòa còn hạn chế, một số phiên tòa

việc tranh luận còn mang tính hình thức. Chất lượng bào chữa tại phiên tòa nhìn chung

vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này,

tác giả chỉ tập trung vào phân tích nguyên nhân khách quan chủ yếu về những bất cập

trong các quy định của pháp luật, đặc biệt là luật TTHS 2015 trong việc bảo vệ quyền lợi

của bị can, bị cáo với một số nội dung như sau:

Một số quy định của BLTTHS còn hạn chế, bất cập như: nguyên tắc suy đoán vô

tội như đã phân tích, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, tranh tụng tại phiên

tòa; khái niệm chứng cứ, các nguyên tắc đánh giá, sử dụng và loại trừ chứng cứ; chủ thể

thu thập chứng cứ…..như đã phân tích ở trên.

Thực tiễn cho thấy định kiến chung khi nhìn nhận những người bị buộc tội như là

người có tội. Vì vậy, trong giải quyết vụ án nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng

không đi theo hướng suy đoán vô tội mà có khuynh hướng suy đoán có tội, cố tìm ra

chứng cứ để buộc tội dẫn đến oan sai, bức cung….Trong vài trường hợp khi xét xử không

đủ chứng cứ Tòa án thường có quan niệm trả tòa hồ sơ điều tra lại, việc trả hồ sơ điều tra

lại vô hình dung cố tình ghép tội bị cáo bằng cách điều tra lại để củng cố chứng cứ buộc

tội, chứ ít khi Tòa án tuyên bị cáo vô tội. Đối với bị cáo bị truy tố với mức hình phạt cao

nhất, quan niệm Thẩm phán xét xử thường chọn phương án an toàn là tuyên phạt tù

chung thân khi nhận thấy chứng cứ chưa đủ mạnh.

Theo Điều 87, Bộ Luật TTHS 2015 quy định nguồn chứng cứ được dùng làm căn

cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội có thể là lời khai, lời trình bày của

người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Chính quy

định lời khai của bị can bị cáo cũng là chứng cứ nên thực tế đã xảy ra tình trạng là Cơ

quan điều tra hay HĐXX thay vì đi tìm các tài liệu bằng chứng xác thực khác, trước tiên

họ thực hiện bắt giam sau đó truy bức nhục hình, đe dọa cho người này khai nhận hành vi

54

phạm tội [28].

Mặt khác, quy định điều 86 Bộ luật TTHS 2015 quy định về chứng cứ vẫn chưa

chi tiết, cụ thể quy định “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ

tục do Bộ luật này”, điều này sẽ dẫn đến rất nhiều thứ được coi như là chứng cứ để chứng

minh, làm “nhiễu” quá trình xác minh bản chất sự thật của vụ án. Xét trên phạm trù tâm

lý học, khi có bản cáo trạng hoặc lời khai của bị cáo, thì tư duy “án tại hồ sơ” luôn chi

55

phối ít nhiều đến tư tưởng của HĐXX.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO

TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ.

Nghị quyết số 09/NQ - TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020" đã đề ra nhiệm vụ "Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự

và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;

hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh

bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người".

Từ những nguyên nhân đã phân tích ở trên có nhiều cách bảo đảm quyền con người

trong xét xử. Theo Chánh án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kết quả thực hiện

công tác xét xử, giải quyết án của Tòa án nhân dân thành phố chưa đạt yêu cầu cũng như

chỉ tiêu công tác đề ra là do gia tăng lượng án thụ lý mới, bên cạnh án tồn đọng của

những năm trước, vì vậy ngoài việc tăng cường đội ngũ cán bộ Tòa án, nâng cao năng

lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, cơ sở vật chất, tài chính,

nâng cao chế độ lương, phụ cấp, công tác phí để cán bộ công chức Tòa án có thể bảo đảm

cuộc sống cho bản thân và gia đình ở mức trung bình, quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán

dài hơn hoặc vô thời hạn để Thẩm phán yên tâm công tác, quy định rõ mối quan hệ giữa

các cơ quan tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức nghề

nghiệp cho đội ngũ Kiểm sát viên, Luật sư……Ở đây tác giả không đi sâu vào phân tích

tất cả các nguyên nhân mà chỉ tập trung vào phân tích những hạn chế và đưa ra giải pháp

liên quan đến quy định pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người trong xét xử hình

sự sơ thẩm. Từ những lý luận và nguyên nhân thực trạng như đã phân tích ở trên, tác giả

đưa ra những giải pháp để hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật TTHS trong xét xử

hình sự sơ thẩm như sau:

3.1 Nhóm giải pháp về hoàn thiện một số nguyên tắc tố tụng

Thứ nhất, quy định giới hạn của việc xét xử. Hướng tới việc bảo đảm quyền con

56

người thì trong hoạt động tố tụng cần có sự phân định rạch ròi chức năng của các

CQTHTT theo tinh thần của Nghị quyết 49 về chiến lược cải cách tư pháp. Như các phân

tích ở trên chức năng của Tòa án là chức năng xét xử vì vậy để đưa Tòa án trở về đúng

nhiệm vụ của mình, tác giả đề nghị cần bỏ khoản 3, điều 298, Bộ Luật TTHS 2015 đó là

trong bất cứ trường hợp nào mà xét thấy bị cáo phải xử tội danh nặng hơn tội danh mà

Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án cũng chỉ xử phạm tội danh như Viện kiểm sát truy tố

hoặc bằng hoặc nhẹ hơn. Nghĩa là Tòa án trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được

xét xử vượt quá giới hạn truy tố của Viện Kiểm sát. Còn trường hợp xét thấy có bỏ sót tội

danh hay tội danh quá nhẹ là trách nhiệm thuộc về Viện kiểm sát. Viện kiểm sát sẽ phải

chịu trách nhiệm về thiếu sót của mình, trách nhiệm này không thể đẩy sang Tòa án. Quy

định này vô hình chung làm cho nền tư pháp với tư tưởng “tầng tầng lớp lớp” để buộc tội

. Tư tưởng “lọt sàng xuống nia” khi mà Viện kiểm sát truy tố tội danh sai thì còn có Tòa

án “níu lại”. Có ý kiến cho rằng nếu thực hiện các cơ chế trên sẽ dẫn đến bỏ sót tội phạm.

Trên thực tế, cơ chế này phải làm cho Viện kiểm sát thận trọng hơn, đánh giá kỹ càng

hơn và có trách nhiệm hơn trước khi truy tố ra trước Tòa án. Viện kiểm sát cũng thấy cần

phải nâng cao trình độ để xử lý chính xác hơn tránh để bỏ lọt tội phạm.

Tiếp theo, tại Khoản 1, Điều 325, BLTTHS 2015 về việc xem xét việc rút quyết

định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa quy định khi Kiểm sát viên rút một

phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét

xử vụ án. Theo tác giả quy định như vậy là chưa rõ ràng và chưa hợp lý. Chưa rõ ràng đó

là Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử như thế nào? Phạm vi xét xử? Thực tế thì Hội

đồng xét xử sẽ tiếp tục xét xử về phần quyết định truy tố không bị rút. Vì vậy theo tác giả

cần quy định rõ khoản 1 điều 325 như sau: “Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định

truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án về phần

quyết định truy tố không bị rút”. Mặt khác cũng trong điều luật đó khoản 2 quy định

“Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội đồng

xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết định

truy tố đó” cộng với khoản 4 điều 326 bộ luật TTHS 2015: “Trường hợp Kiểm sát viên

57

rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án

theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội

thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy tố không

có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cùng

cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp”. Tác giả cho rằng từ góc độ bảo

đảm quyền con người của bị cáo, quy định cách như vậy là chưa hợp lý, trên lý thuyết

bản chất tố tụng là chỉ khi có sự buộc tội thì khi đó mới có xét xử. Nghĩa là phải có sự

cáo buộc của Viện kiểm sát mới phát sinh hoạt động xét xử. Khi Viện kiểm sát rút toàn

bộ cáo trạng truy tố thì hoạt động xét xử không nên tồn tại. Vì vậy cần quy định khi

Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố thì Tòa án phải tuyên đình chỉ vụ án.

Thứ hai, nguyên tắc suy đoán vô tội của Luật TTHS 2015 đã được hoàn thiện nhiều

so với luật TTHS 2003 nhưng theo ý riêng của người viết thì để bảo đảm thực hiện tốt

suy tắc này thì Điều 13 không nên quy định tiêu đề nguyên tắc là suy đoán vô tội. Bởi vì,

hiểu một cách đơn giản từ suy đoán có nghĩa là phỏng đoán một điều gì chưa chắc chắn,

ai cũng có quyền suy đoán nhưng suy đoán trong ý nghĩ còn thực hiện không lại là việc

khác. Theo ý kiến của cá nhân tác giả nên thay bằng nguyên tắc theo nghĩa khẳng định

với điều kiện “Không bị coi là có tội khi…”. Mặt khác, bản thân nguyên tắc tại điều 13

luật TTHS 2015 không hẳn là nguyên tắc của suy đoán. Chúng ta cần xem lại Tuyên

ngôn nhân quyền quốc tế về nguyên tắc này. Điều 14 Tuyên ngôn không thể hiện tiêu đề

đó là nguyên tắc là suy đoán vô tội mà nội dung của nguyên tắc được xem xét trên hai

chữ “presumed innocent” được hiểu theo nghĩa “được coi như vô tội”. Có thể hiểu theo

hai nghĩa khác nhau không? khi giữa “presumed innocent” nghĩa “Được coi như vô tội”

trong luật nhân quyền quốc tế và “Presumption of innocence” nghĩa “Giả định vô tội hay

suy đoán vô tội”, nghĩa là phải coi như người đó không có tội khi chưa có bản án có hiệu

lực của Tòa án, chứ không thể hiểu tôi giả định anh không có tội – giả định vẫn là một

suy đoán.

Mặt khác, trước khi bị cáo bị tuyên là có tội thì trước khi tuyên hình phạt cần có

quy định những yếu tố tiền án, tiền sự cần loại trừ đề cập trong bản cáo trạng hay buộc tội

58

trước khi hội đồng xét xử quyết định một người nào đó phạm tội hay không, và chỉ được

đưa khi quyết định hình phạt để làm tình tiết tăng nặng hay có án tích. Bởi vì yếu tố tiền

án, tiền sự trước đây của bị cáo ít nhiều ảnh hưởng đến suy đoán của hội đồng xét xử là bị

cáo đã phạm tội rồi có thể tiếp tục phạm tội, và tuyên bản án bất lợi cho bị cáo.

3.2 Giải pháp hoàn thiện các thủ tục tố tụng

Về việc sửa đổi điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn. Theo quy định điều 456, bộ luật

TTHS 2015 áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi

có đủ các điều kiện: Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự

thú; Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít

nghiêm trọng; Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Như vậy để áp dụng được

thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm phải bảo đảm đủ 4 yếu tố trên. Thực tế các vụ án

trường hợp phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú không nhiều trong khi đó nhiều

trường hợp thỏa mãn các điều kiện còn lại như sự việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội

phạm ít nghiêm trọng, người phạm tội có nơi cư trú rõ ràng lại không được áp dụng thủ

tục rút gọn. Theo tác giả nên bỏ điều kiện thứ nhất để mở rộng số lượng vụ án được áp

dụng thủ tục rút gọn mà thay vào đó là có sự đồng ý của bị can, bị cáo. Vì khi áp dụng

thủ tục rút gọn có thể gây bất lợi cho bị can, bị cáo ở một số thủ tục vì vậy phải cần có sự

đồng ý của bị can, bị cáo để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cũng như quyền con người của

bị can, bị cáo.

3.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện quy định về các chủ thể tố tụng: địa vị pháp lý

của bị cáo; quyền hạn, trách nhiệm, thẩm quyền... cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ nhất, về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa. Điều 290, BLTTHS 2015 quy định

Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp bị cáo trốn và việc truy nã

không có kết quả. Việc bị cáo có mặt tại phiên tòa xét xử để đối chứng và làm rõ sự thật

khách quan của vụ án, cũng là để bào chữa cho mình. Việc quy định Tòa án xét xử vắng

mặt bị cáo là ảnh hưởng rất lớn đến quyền của bị cáo. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị

cáo cùng phạm tội, nếu cho xét xử vắng mặt một vài bị cáo, rất có thể các bị cáo có mặt

59

sẽ đổ hết tội cho bị cáo vắng mặt để làm giảm nhẹ tội mà không có sự đối chất. Vì vậy

tác giả để nghị nên bỏ trường hợp Tòa án được xét xử trong trường hợp này. Cũng như

trường hợp vắng mặt của đại diện Viện kiểm sát phiên tòa phải hoãn xét xử, thì cũng nên

quy định nếu vắng mặt Luật sư hoặc bị cáo sẽ không xét xử phần cáo trạng của bị cáo

vắng mặt. Có như vậy Tòa án mới tuyên bản án phù hợp với sự thật khách quan.

Thứ hai, về quyền đặt câu hỏi của bị cáo và người tham gia tố tụng khác. Để tạo cơ

chế thực sự dân chủ, bình đẳng tại phiên tòa, tạo điều kiện thực hiện một cách có hiệu

quả nhất quyền buộc tội và quyền bào chữa trong quá trình xét xử sơ thẩm. Tại các điều

309, 310, 311 bộ luật TTHS 2015 quy định bị cáo có quyền hỏi bị hại, nguyên đơn dân

sự, người làm chứng ....nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý. Ở đây quyền của bị cáo trong

thủ tục xét hỏi tại phiên tòa đã được mở rộng so với luật TTHS 2003. Đó là bị cáo có

quyền đặt câu hỏi trực tiếp với bị cáo khác, bị hại, người tham gia tố tụng về các vấn đề

có liên quan mà không phải truyền đạt câu hỏi của mình qua Chủ tọa phiên tòa. Tuy

nhiên, quyền đặt câu hỏi của bị cáo vẫn bị hạn chế là phụ thuộc vào sự đề nghị hỏi của bị

cáo có được Chủ tọa phiên tòa đồng ý cho phép hỏi hay không, theo tác giả cần mở rộng

hơn nữa quyền hỏi của bị cáo trong 3 điều luật này, chỉ nên giới hạn là Chủ tọa phiên tòa

chỉ được cắt những câu hỏi của bị cáo khi xét thấy những câu hỏi đó không liên quan đến

tình tiết vụ án hay câu hỏi vòng vo, trùng lắp.

Thứ ba, về việc quy định quyền im lặng cho bị can, bị cáo bắt đầu từ giai đoạn điều

tra cho đến giai đoạn xét xử. Quyền im lặng được xem là “quyền văn minh” và quyền rất

quan trọng trong tố tụng hình sự. Nhưng hiện nay quyền im lặng chưa được ghi nhận trực

tiếp vào Bộ luật TTHS 2015 mà chỉ quy định gián tiếp thông qua quy định quyền của bị

can, bị cáo đó là “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội”.

Thứ tư, kiến nghị bổ sung quyền của bị cáo. Để bảo đảm được quyền của bị cáo

trong xét xử, tác giả kiến nghị nên bổ sung điều 61, BLTTHS 2015 về quyền của bị cáo.

Cụ thể, cần bổ sung quyền được tư vấn pháp luật trong quá trình xét xử và trong quá trình

tạm giam chờ xét xử. Bởi khi bị cáo hiểu được đầy đủ quyền được pháp luật trao cho

60

giúp bị cáo tự tin hơn trong quá trình tranh tụng, cũng như xét hỏi tại phiên tòa. Quyền tư

vấn pháp luật khác với quyền bào chữa, nó có nội hàm hẹp hơn nhưng có mối quan hệ

khăng khít và là tiền đề tốt cho việc thực hiện bào chữa. Bên cạnh đó cũng cần bổ sung

thêm quyền được ghi chép những số liệu, tài liệu trong quá trình xét hỏi. Cụ thể hóa các

quy định của Hiến pháp về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp

pháp của đương sự, điều 257 Bộ luật TTHS 2015 quy định về hình thức phòng xử án và

được TAND Tối cao quy định chi tiết mẫu mô hình phòng xử án trong thông tư

01/2017/TT-TANDTC như đã đề cập trong phần thực trạng. Nhưng qua thực tiễn xét xử

sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tác giả đã quan sát thấy chưa có sự thống

nhất về thiết kế bục khai báo của bị cáo. Nhiều nơi bục khai báo được kê bằng cái bàn và

có ghế ngồi, nơi khác bục khai báo được thiết kế theo hình chữ U không ghế. Vì vậy chưa

có sự thống nhất trong thiết kế mô hình xét xử, điều này gây bất lợi cho bị cáo trong việc

ghi chép thông tin, hồ sơ, tài liệu. Nhiều phòng xử án chỉ thiết kế bục theo hình chữ U

không bố trí chỗ ngồi và bàn ghi chép cho bị cáo. Thực tế ngay cả người bào chữa, người

tiến hành tố tụng có đầy đủ hồ sơ, tài liệu nhưng vẫn không nhớ hết được các tình tiết của

vụ án huống chi bị cáo luôn trong tâm trạng lo sợ, hoảng loạn sẽ khai báo các tình tiết

không chính xác với sự thật của vụ án hoặc quên các tình tiết nhằm gỡ tội cho mình nếu

không có ghi chép, chú thích.

Thứ năm, đối với việc xét xử người dưới 18 tuổi. Nên có quy định giao cho Tòa gia

đình và người chưa thành niên xét xử ngay từ giai đoạn sơ thẩm. Cần có cơ quan chuyên

trách thực hiện từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử đối với người dưới 18 tuổi bảo

đảm môi trường thân thiện. Đặc biệt xét xử đối với những đối tượng này phải được xét xử

kín. Mặc dù hiện nay tại TpHCM đã thành lập tòa gia đình và trẻ vị thành niên, nhưng

chưa có sự đồng bộ giữa CQĐT và Viện kiểm sát do cơ cấu tổ chức của 2 đơn vị này

chưa thành lập được cơ quan chuyên trách trong điều tra và truy tố đối với người chưa

thành niên.

Thứ sáu, về quy định người bào chữa theo quy định tại điều 72, Bộ Luật TTHS

2015 người bào chữa là Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; hoặc Bào chữa

61

viên nhân dân……Theo tác giả không nên quy định một người nào cụ thể mà nên mở

rộng cho tất cả mọi người. Theo Bộ Luật TTHS Nhật Bản hiện hành quy định người bào

chữa có thể là luật sư hoặc bất kỳ người nào có chuyên môn pháp lý, công tâm, không

trái ý bị cáo, được bị cáo nhờ hoặc Công tố viên, Tòa án chỉ định. Chính quy định “bất cứ

người nào” đã cho phép mở rộng để mọi người có thể tham gia vào hoạt động bào chữa

cho bị cáo. Theo tác giả, chúng ta nên quy định người bào chữa là bất cứ ai có thể bào

chữa do bị cáo nhờ hoặc Tòa án chỉ định đều có quyền bào chữa cho bị cáo.

Thứ bảy, về quy định sự có mặt của người bào chữa. Về nguyên tắc xét xử bên bào

chữa được đặt ngang hàng và bình đẳng với bên buộc tội nhưng tại quy định điều 289, bộ

luật TTHS 2015 quy định về sự có mặt của Kiểm sát viên, trường hợp không có mặt của

Kiểm sát viên thì phải hoãn phiên tòa, trong khi đó nếu người bào chữa vắng mặt không

vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần

thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Có thể thấy rằng đối với

bên buộc tội vắng mặt thì phiên tòa phải hoãn, trong khi đó người bào chữa vắng mặt thì

phiên tòa vẫn có thể tiếp tục. Quy định như vậy vô hình chung đề cao tầm quan trọng của

bên buộc tội hơn bên bào chữa trong quá trình xét xử.

Thứ tám, cần quy định rõ trách nhiệm pháp lý của Luật sư bào chữa trước bị can,

bị cáo. Để bảo đảm cho Luật sư có trách nhiệm trong việc bào chữa của mình đối với bị

cáo, thiết nghĩ pháp luật cũng nên có quy định về trách nhiệm của Luật sư như trách

nhiệm hoàn trả tỉ lệ tiền thù lao cho thân chủ, hoặc khoản phạt trước Liên đoàn luật sư

hay trách nhiệm kỷ luật trước Liên đoàn như phê bình, cảnh cáo, tạm đình chỉ hành

nghề...., đặc biệt có thể truy cứu trách nhiệm hình sự nếu Luật sư không làm tròn trách

nhiệm, không can thiệp kịp thời gây đến hậu nghiêm trọng như bị cáo bị xét xử oan, sai

dẫn đến tự sát hoặc bị nhục hình dẫn đến chết người. Ngoài những quy định về trách

nhiệm của Luật sư, bên cạnh đó cần cải tiến, nâng cao chương trình đào tạo nghề Luật sư

tại các cơ sở đào tạo Luật sư, tăng cường nội dung diễn án, tranh luận phản biện trong các

phiên tòa giả định. Để nâng cao chất lượng của đội ngũ Luật sư hiện nay cần tăng thêm

62

thời gian tập sự nghề, thời gian làm thực tiễn từ 5 năm trở lên để đủ điều kiện cấp giấy

phép hành nghề Luật sư. Được như vậy thì trình độ của Luật sư mới được nâng lên, bảo

đảm hoàn thành được một cách tốt nhất nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo.

Thứ chín, mở rộng việc quy định về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa.

Theo khoản 2, điều 88, bộ luật TTHS 2015 quy định: “Để thu thập chứng cứ, người bào

chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người

khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị

cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào

chữa”. Theo ý kiến của tác giả nên mở rộng quyền thu thập chứng cứ cho người bào chữa

cụ thể: “Người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng

và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày, có quyền được ghi lời khai,

ghi âm, ghi hình việc hỏi của những người này. Những người được người bào chữa hỏi

có nghĩa vụ xác nhận vụ thật lới khai của mình bằng cách ký tên, đóng dấu hay điểm chỉ.

Và những phương thức trên được dùng làm chứng cứ tham gia tranh tụng tại tòa”. Vốn

dĩ người bào chữa, bị cáo luôn luôn bất lợi trong việc thu thập chứng cứ so với CQĐT

nên quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thu thập chứng cứ và

tranh tụng tại tòa.

Thứ mười, bỏ quy định về thẩm quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong

giai đoạn chuẩn bị xét xử. Khi đã thụ lý hồ sơ mà Tòa án phát hiện ra việc thiếu các

chứng cứ quan trọng hay nhận định bị cáo phạm một tội khác thì nên tiến hành xét xử và

tuyên không đủ chứng cứ để buộc tội bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm là của

CQĐT và VKS, nếu hai cơ quan này không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của

mình thì phải chịu hậu quả cho sự yếu kém, tắc trách đó chứ không thể bắt bị can phải

kéo dài thời gian tham gia tố tụng để chờ sự hoàn thiện về chứng cứ để buộc tội mình.

Quy định như thế này trước hết để bảo đảm quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ cho

bị can. Mặt khác, Tòa án phải giữ vai trò khách quan để xét xử. Việc trả hồ sơ để điều tra

bổ sung các chứng cứ vô hình chung Tòa án đã có ý chí kết tội ngay từ đầu. Và như vậy,

không quy định Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

63

là phù hợp với bản chất, chức năng Tòa án là cơ quan xét xử, Viện kiểm sát và Cơ quan

điều tra là cơ quan buộc tội trong Nhà nước pháp quyền. Thể hiện việc bảo vệ quyền con

người khỏi tầng nấc các hệ thống cơ quan buộc tội, loại bỏ tư tưởng hệ thống Cơ quan

điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án khắc phục, bao che cho nhau trong TTHS theo hướng

đã bị khởi tố là bị truy tố đã bị truy tố là bị xét xử theo hướng có tội. Đây là cơ chế mà rất

nhiều nước đã áp dụng. Ngay cả Trung Quốc là nước có mô hình tranh tụng tương đồng

với Việt Nam đã áp dụng cơ chế này từ năm 1997.

Mười một, về thẩm quyền thu thập chứng cứ của Tòa án. Như các phân tích trong

bài viết để bảo đảm tính công bằng của Tòa án trong xét xử thì cần phân định rõ chức

năng của Tòa án, chức năng duy nhất đó là xét xử dựa trên đánh giá sự thật khách quan

của vụ án trên cơ sở xem xét các chứng cứ và đánh giá kết quả tranh tụng giữa bên buộc

tội và bên gỡ tội. Nhưng tại khoản 6 điều 252 quy định thêm Tòa án có quyền tiến hành

thu thập chứng cứ, tài liệu để chứng minh vụ án trong trường hợp Viện kiểm sát không

bổ sung chứng cứ. Quy định này làm cho Tòa án ngoài chức năng xét xử còn có chức

năng đi tìm chứng cứ buộc tội thì quá trình xét xử sẽ không bảo đảm công bằng, vì vậy

tác giả mạnh dạn đề xuất bỏ khoản 6, điều 252 trong Bộ luật TTHS 2015.

Mười hai, quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án. Khoản 4, điều 153 quy định Hội

đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu

qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Quy định này đã làm

cho Tòa án mất đi chức năng duy nhất của mình là xét xử. Tòa án vừa có chức năng khởi

tố, xong rồi lại xét xử, vô hình chung như vừa đá bóng vừa thổi còi sẽ không bảo đảm

được khách quan. Việc khởi tố vụ án là trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm

sát, chức năng của Tòa án nên là chức năng xét xử phân định đúng sai giữa bên buộc tội

và bên gỡ tội, từ đó chiếu theo quy định pháp luật để phán quyết. Các quy định đó là trái

với cơ chế, nguyên tắc tố tụng là Tòa án chỉ xét xử khi có sự buộc tội. Vì vậy, không nên

quy định cho Tòa án trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự mà chỉ quy định là Tòa án có

quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án.

Mười ba, về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên. Theo Khoản

64

1, Điều 42 BLTTHS quy định cơ quan VKS có chức năng thực hành quyền công tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Như đã phân tích ở phần thực

trang; sự chi phối của CQĐT, VKS đối với Tòa án, tác giả đề nghị bỏ quy định việc

Viện kiểm sát vừa thực hiện chức năng công tố, vừa thực hiện kiểm sát việc xét xử của

Tòa án. Việc này sẽ làm cho Tòa án bị lệ thuộc theo quan điểm truy tố của Viện kiểm

sát.

Mười bốn, về cơ quan tiến hành tố tụng. Khoản 1, điều 34 quy định cơ quan tiến

hành tố hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án. Theo nguyên tắc tố

tụng trong xét xử Viện kiểm sát đại diện cho bên buộc tội ngang hàng với bên gỡ tội. Nếu

quy định Viện kiểm sát cùng Tòa án đều là cơ quan tiến hành tố tụng đã đặt Viện kiểm

sát - bên buộc tội ngang hàng với Tòa án là bên xét xử. Theo tác giả nên đưa Viện kiểm

sát vào điều 55 Bộ luật TTHS 2015 cũng chỉ là một bên tham gia tố tụng, có địa vị bình

đẳng với bên bị buộc tội. Xác định rõ ràng, cụ thể địa vị pháp lý của Luật sư trong hệ

thống các chức danh tư pháp, theo đó khẳng định Luật sư là một chức danh tư pháp độc

lập, có địa vị bình đẳng với những người tiến hành tố tụng, mở rộng khả năng Luật sư

thực hiện một số hoạt động độc lập trong tố tụng hình sự, tranh tụng bình đẳng và dân

chủ tại phiên tòa.

Mười năm, về việc sửa đổi quy định cơ quan xác định sự thật của vụ án. Điều 15,

bộ luật TTHS 2015 quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng. Mà cơ quan tiến hành tố tụng theo điều 34 của bộ luật này liệt kê

gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án. Vậy có nghĩa là theo quy định Tòa án là

cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa là Tòa án cũng phải có trách nhiệm chứng minh tội

phạm, quy định như vậy cực kỳ mâu thuẫn với nguyên lý Tòa án thực hiện việc xét xử,

việc chứng minh tội phạm thuộc về CQĐT và VKS. Với quy định như vậy có nghĩa là

Tòa án đồng thời là cơ quan xét xử, cũng có trách nhiệm buộc tội bị cáo trong quá trình

xét xử. Theo chúng tôi, Nghị quyết 49 Bộ chính trị nêu rõ cần phân định rõ chức năng,

thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng như đã nêu thì nên bỏ trách nhiệm chứng

minh tội phạm của Tòa án do trách nhiệm này thuộc chức năng của Cơ quan điều tra và

65

Viện kiểm sát.

Mười sáu, về quy định Hội thẩm nhân dân. Thực tiễn xét xử sơ thẩm ở nước ta cho

thấy tuy chiếm đa số trong HĐXX nhưng vai trò của Hội thẩm thường mờ nhạt trong xét

xử và phụ thuộc vào vào Thẩm phán khi nghị án. Bởi đa số Hội thẩm còn hạn chế về

kiến thức pháp luật, nếu có lại không đầy đủ so với quy mô vụ án. Việc tham gia của Hội

thẩm chủ yếu mang tính hình thức, chiếu lệ. Trong nhiều trường hợp Hội thẩm đến tham

gia xét xử với tâm lý cho có, cho đủ HĐXX, ít tham gia xét hỏi, tranh tụng, mọi việc

thường do Thẩm phán quyết định. Theo tác giả nên có quy định cụ thể hơn về việc lựa

chọn Hội thẩm, quy định trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, phẩm chất cụ thể đối với

từng Hội thẩm. Do vậy cần xem xét bổ sung thêm tiêu chuẩn để cụ thể hóa chức danh

hội thẩm nhân dân trong BLTTHS 2015 hoặc Luật TAND 2014 nên quy định người được

bầu hoặc cử làm Hội thẩm phải có trình độ pháp luật từ trung cấp trở lên; đối với các

thành phố lớn trực thuộc Trung ương như Tp. Hồ Chí Minh thì hội thẩm phải có trình độ

cử nhân Luật trở lên. Có như vậy mới đảm bảo được sự công bằng, chân thật trong các

phán quyết của tòa án. Đồng thời cần có cơ chế cụ thể cả hành chính, chính trị ràng buộc

trách nhiệm của hội thẩm khi đưa ra phán quyết. Bên cạnh đó cần có quy định thời gian

phân công hội thẩm tham gia vụ án phù hợp để các hội thẩm có đủ thời gian nghiên cứu

vụ án.

Bên cạnh đó theo quy định tại Điều 44 Bộ luật TTHS 2015 quy định quyền hạn

của Chánh án có quyền phân công Hội thẩm. Chính quy định này làm hạn chế chức năng

của Hội thẩm, thức tế có trường hợp Thẩm phám, Chánh án mời những Hội thẩm hợp ý

với mình tham gia HĐXX. Điều này vô hình dung ý chí chủ quan của Thẩm phán cũng là

ý chí của Hội thẩm. Do đó để phát huy được vai trò và tính độc lập của Hội thẩm trong

HĐXX, thiết nghĩ nên lựa chọn Hội thẩm theo hình thức ngẫu nhiên để mang tính khách

quan, như hình thức bốc thăm giống như pháp luật các nước Nga, Pháp, và cơ chế bồi

thẩm đoàn trong pháp luật Mỹ.

3.4 Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định khác.

Thứ nhất, về quy định xem xét vật chứng. Tại điều 312, Bộ luật TTHS 2015 quy

66

đinh: “Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét tại

phiên tòa”. Theo quan điểm của tác giả nên mở rộng đối tượng của vật chứng và vật thể

được đưa ra xem xét tại phiên tòa, đó là bổ sung thêm băng ghi âm, ghi hình, phim và các

dữ liệu điện tử. Cụ thể khoản 1, điều 312, Bộ luật TTHS 2015 nên được sửa như sau:

“Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng, băng ghi âm, ghi hình, phim và các

dữ liệu điện tử được đưa ra để xem xét tại phiên tòa”.

Thứ hai, về văn bản nghị án của HĐXX. Điều 326, Bộ luật TTHS 2015 quy định:

“Chủ tọa phiên tòa chủ trì việc nghị án có trách nhiệm đưa ra từng vấn đề của vụ án phải

được giải quyết để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định. Chủ tọa phiên tòa tự mình hoặc

phân công một thành viên Hội đồng xét xử ghi biên bản nghị án. Các thành viên Hội

đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số

về từng vấn đề. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Nếu không

có ý kiến nào chiếm đa số thì phải thảo luận và biểu quyết lại từng ý kiến của các thành

viên Hội đồng xét xử đã đưa ra để xác định ý kiến chiếm đa số. Người có ý kiến thiểu số

có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án”. Quy

định như vậy nghĩa là chỉ trong trường hợp có ý kiến thiểu số trái với ý kiến chung của

HĐXX mới được đưa vào hồ sơ vụ án. Trong thực tế xét xử và nghiên cứu của tác giả

trên vài bản án hình sự sơ thẩm được công bố trên trang thông tin điện tử của Tòa án cho

thấy, đa số các bản án hình sự sơ thẩm viết không đạt chuẩn mực về cả nội dung lẫn hình

thức. Lập luận của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho bị cáo rất ít được ghi

nhận đầy đủ trong bản án, hoặc nếu có thì ghi cho có lệ mang tính hình thức chng chung

như: xét thấy quan điểm của Luật sư không có cơ sở nên HĐXX bác, quan điểm của

Viện kiểm sát có cơ sở nên HĐXX chấp nhận....lý do vì sao có và vì sao không có phải

quy định ghi vào trong bản án. Trước tình trạng này, quan điểm của tác giả nên bổ sung

điều 326 cần ghi rõ quan điểm của Luật sư, đại diện Viện kiểm sát và quan điểm nghị án

của HĐXX vào trong hồ sơ bản án.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm

quyền con người trong hoạt động TTHS. Mặc dù quy định các trách nhiệm đối với việc

67

xâm phạm quyền con người không nằm trong phạm vi xét xử của Tòa án, nhưng khi có

chế tài quy định trách nhiệm sẽ tác động gián tiếp đến hoạt động của cơ quan tiến hành tố

tụng làm cho các cơ quan này phải tuân theo đúng quy định pháp luật nếu không muốn bị

xử lý như quy định rõ về trách nhiệm truy tố oan, sai, xét xử oan sai, những hành vi của

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xâm phạm quyền con người chưa đến mức độ truy

cứu TNHS thì tùy tính chất, mức độ phải được xử lý kỷ luật một cách hợp lý; phải được

đánh giá để bãi miễn hoặc không tái bổ nhiệm các chức danh chuyên môn.

Thứ tư, về việc quy định chế tài trong việc vi phạm. Để bảo đảm thực hiện tốt quyền

con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, theo chúng tôi, đồng thời với việc bổ

sung, hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng, cũng cần

quy định rõ chế tài xử phạt, bồi thường khi quy định về quyền của bị can, bị cáo bị vi

phạm.

Thứ năm, cần có quy định cụ thể tránh đề cập mang tính chất chung chung. Như tác

giả đã nêu trong phần thực trạng ở mục bất cập trong tranh tụng: Khoản 3, Điều 322, Bộ

luật TTHS 2015, khái niệm “không liên quan vụ án” cần có quy định chi tiết hơn hoặc

khoản 2, điều 322 quy định: “Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để

đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại

phiên tòa” nhưng không có cơ chế nào buộc Viện kiểm sát phải tranh luận đến cùng.

68

.

KẾT LUẬN

Bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người của bị cáo nói riêng trong

xét xử sơ thẩm hình sự là vấn đề rộng và khó nhưng lại rất quan trọng cả về lý luận và

thực tiễn, quyền con người là quyền thiêng liêng đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới,

việc nghiên cứu quyền con người là yêu cầu cần thiết và quan trọng trong pháp luật của

mỗi quốc gia nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “Bảo đảm quyền con người của bị cáo

trong xét xử sơ thẩm hình sự tại TPHCM”. Với khả năng có hạn, tôi đã cố gắng nghiên

cứu và đạt được một số kết quả khiêm tốn sau đây:

1/ Luận văn đã nêu lên được những vấn đề lý luận về quyền con người trong pháp

luật TTHS Việt Nam nói chung và bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử hình

sự sơ thẩm nói riêng, luận văn đã khái quát tóm tắt lý luận về quy định bảo đảm quyền

con người trước và sau khi có luật TTHS 2015.

2/ Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của Bộ luật TTHS và đánh giá

đầy đủ, tòan diện thực tiễn bảo đảm quyền con người của bị cáo trên cơ sở xét xử các vụ

án hình sự sơ thẩm tại TpHCM, trên các số liệu thu nhập được và phân tích những quy

định trong pháp luật TTHS Việt Nam, từ đó tìm ra được những hạn chế, bất cập và

nguyên nhân của những bất cập, hạn chế làm tiền đề đưa ra các giải pháp chung nhằm

bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

3/ Luận văn đã đưa ra được số giải pháp và kiến nghị nhằm hòan thiện các quy định của

pháp luật TTHS Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người trong họat động xét xử.

Có rất nhiều nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến quyền con người như đã phân tích ở

trên, trong đó phải kể nguyên nhân khách quan và chủ quan, có một số nguyên nhân

chúng ta có thể khắc phục được ngay nhưng cũng có một vài nguyên nhân tồn tại không

thể giải quyết một sớm một chiều như là trình độ nhận thức, nguồn nhân lực, tài chính,

thể chế chính trị.....Vì vậy, trong giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào các giải

pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS hiện hành, vì pháp luật có tính chất bắt buộc

69

chi phối đến nhận thức và hành động của những người THTT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Luận Văn, Luận Án, Sách, Tạp Chí

1. Bùi Bảo Trâm (2008), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,

bị can, bị cáo, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

2. Đào Thị Mai Phương (2015), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối

với người bị tạm giữ, tạm giam, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.

3. Hoàng Văn Thành (2015), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

4. Hồ Sỹ Sơn (2011), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề

xuất hoàn thiện, Tạp chí Luật học, số 1/2011, tr.41-47.

5. Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật TpHCM.

6. Lương Đức Dương (2015), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các

vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.

7. Liên Hiệp Quốc (2010), Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự

Việt Nam, ngày 02 tháng 8, năm 2010.

8. Ngô Thị Thanh (2013), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án

hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.

9. Nguyễn Ngọc Chí (2011), Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự - yếu tố quan

trọng trong việc bảo đảm quyền con người, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27

(2011) tr. 221-239.

10. Nguyễn Ngọc Chí (2007), Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự,

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23 (2007) tr. 64-80.

11. Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa

70

thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật TpHCM.

12. Nguyễn Phi Long (2015), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can,

bị cáo trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.

13. Nguyễn Đông Khánh (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền

con người thông qua chế định người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn

thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.

14. Nguyễn Như Hiển (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các quyền

con người bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia

Hà Nội.

15. Nguyễn Ngọc Kiện (2019), Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, NXB

Tư pháp.

16. Phạm Minh Tuyên (2018), Kỹ năng xét xử các vụ án hình sự, NXB Thanh Niên

17. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, ngày 27 tháng 11 năm 2015, Hà Nội

18. Trần Thị Minh Nguyệt (2013), Quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.

19. Trần Văn Độ, Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự - Khái quát các tiêu

chuẩn quốc tế và quy định pháp luật Việt Nam, Đại học Vinh, ngày 16/12/2017.

20. Võ Quốc Tuấn (2017), Bảo đảm quyền của bị cáo trong hạt động xét xử sơ thẩm

các vụ án hình sự của tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ.

Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

21. Võ Thị Kim Oanh (2012), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, NXB

ĐH quốc gia TPHCM.

B. Tài liệu từ nguồn Internet

22. Luận Văn A-Z, “Quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự về bảo đảm quyền con người”

va-phat-trien-cac-quy-dinh-cua-phap-luat-tung-hinh-su-ve-bao-dam-quyen-con-

71

nguoi.html>

23. Nguyễn Hương (2019) “Vì sao khi xét xử người dưới 18 tuổi, Thẩm phán không

mặc áo choàng”,

tuoi-tham-phan-khong-mac-ao-choang-230-18804-article.html>

24. Báo Mới (2019), “Nguyên Tắc tranh tụng trong xét xử bảo đảm quyền con người”,

<(https://baomoi.com/nguyen-tac-tranh-tung-trong-xet-xu-bao-dam-quyen-con-nguoi-

chong-oan-sai-trong-to-tung-hinh-su/c/23243825.epi)>

25. Báo điện tử Nhân dân (2016), Phòng chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm vẫn chưa đáp

ứng yêu cầu”,

pham-van-chua-dap-ung-yeu-cau-234289>

26. Thanh Niên (2016), “Băn khoăn phạm vi thẩm quyền của Tòa gia đình và người

chưa thành niên”<(https://thanhnien.vn/thoi-su/ban-khoan-pham-vi-tham-quyen-cua-toa-

gia-dinh-va-nguoi-chua-thanh-nien-769579.html)> trang 62

27. Hoàng Hải (2018), “Nâng cao chất lượng xét xử Tòa án nhân dân hai cấp Thành

phố Hồ Chí Minh”, <“(https://bnews.vn/nang-cao-chat-luong-xet-xu-toa-an-nhan-dan-

hai-cap-thanh-pho-ho-chi minh/74547.html)> trang 62

28. BBC News (2015), “Pháp luật lệch lạch dẫn đến án oan”

<(http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2015/12/151213_ngongoctrai_vn_wrong_justic

)>

29. Trường ĐH Kiểm sát,“Mô hình tố tụng hình sự liên bang Nga”

30. Thu Hằng (2019), “Một số thẩm phán ở TP.HCM hạn chế năng lực, trình

độ”,

post1022418.html>

31. Tạp chí điện tử Vneconomy, (2015), “3 năm, 71 người được xác định bị oan”,

20150605081118610.htm>

32. Lê Văn Sua, (2016), “Chế định về Hội thẩm, vai trò của Hội thẩm khi tham gia

72

xét xử - Một số kiến nghị hoàn thiện” Báo điện tử bộ Tư pháp,

73