HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ HÒA

B¶O §¶M QUYÒN Vµ LîI ÝCH HîP PH¸P CñA C¸ NH¢N, Tæ CHøC TRONG XÐT Xö C¸C Vô ¸N HµNH CHÝNH ë VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2015

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ HÒA

B¶O §¶M QUYÒN Vµ LîI ÝCH HîP PH¸P CñA C¸ NH¢N, Tæ CHøC TRONG XÐT Xö C¸C Vô ¸N HµNH CHÝNH ë VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

2. TS. NGUYỄN THANH BÌNH

HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên c ứu khoa

học của riêng tôi, các s ố liệu và kết quả nghiên cứu của luận

án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GI

Ả LUẬN ÁN

V

Ũ THỊ HÒA

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 9 1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu mang tính lý luận định hướng về tổ chức

bộ máy nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với công dân 9

1.2. Nhóm những công trình bài viết nghiên cứu có liên quan đến tố tụng hành chính 15 1.3. Nhóm những công trình bài viết nghiên cứu liên quan đến việc thực hiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong các vụ án hành chính 23

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LU ẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, T Ổ CH ỨC THÔNG QUA HO ẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN 28 2.1. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức trong xét xử các vụ án hành chính 28

2.2. Vai trò của Tòa án nhân dân trong bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính 41

2.3. Các điều kiện, cơ cấu và nội dung bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính 49

2.4. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính trong xét xử của nước ngoài, giá tr ị kinh nghi ệm có th ể vận dụng ở Việt Nam 53

Chương 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC THÔNG QUA XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 67 3.1. Sự hình thành và phát triển hệ thống pháp luật tố tụng hành chính - cơ sở pháp lý của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua hoạt động xét xử hành chính của Tòa án 67

3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá

nhân thông qua hoạt động xét xử hành chính của Tòa án 82

3.3. Thực trạng áp dụng hệ thống các văn bản pháp luật hành chính vào thực tiễn

giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án 105

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GI ẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CH ẤT LƯỢNG CỦA VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN 118 4.1. Hoàn thiện pháp luật nội dung hành chính và pháp luật tố tụng hành chính 118 4.2. Hoàn thiện tổ chức xét xử hành chính 125 4.3. Hoàn thiện nhân tố con người trong xét xử hành chính 131 4.4. Hoàn thiện cơ chế về các biện pháp bảo đảm quyền, nghĩa vụ của cá nhân,

tổ chức thông qua hoạt động xét xử hành chính của Tòa án 143

KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp bách của đề tài

Lịch sử loài người đã trải qua nhiều hình thức nhà nước và pháp luật khác

nhau, sự phát tri ển có xu h ướng ngày càng ti ến bộ, hướng tới trung tâm là con

người và có sự cân bằng lợi ích của các bộ phận trong xã hội. Trong quá trình xây

dựng và tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước, người ta thường cho rằng về nguyên

tắc thì các chính sách pháp lu ật của nhà nước đều phải xuất phát từ lợi ích của

người dân. Nhưng nếu chỉ nói đến “lợi ích” thôi thì chưa đủ, mà còn phải nói đến

quyền của các cá nhân công dân c ũng như các tổ chức. Đây chính là m ột trong

những điểm khác bi ệt căn bản giữa một nhà nước phong kiến với một nhà nước

pháp quyền hiện đại. Một quốc vương thời phong kiến có thể chăm lo cho lợi ích

của muôn dân vì lòng thương dân, hay chỉ đơn giản muốn chứng tỏ mình là một vị

minh quân, nh ưng với một nhà nước pháp quy ền thì vi ệc ch ăm sóc lợi ích của

công dân, hoàn toàn không phải do tình thương hay sự tốt bụng mà trên hết đó là

vì nghĩa vụ tôn tr ọng các quy ền dân sinh và dân ch ủ của công dân mà nhà n ước

này đã cam kết bảo vệ thông qua bản hiến pháp.

Ở Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra một thời kỳ mới,

có tính bước ngoặt cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung

và phát triển năm 2011); Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm

2020; Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là những dấu mốc

lớn mang tính b ước ngo ặt trong nh ận th ức lý lu ận của Đảng ta v ề con ng ười,

quyền con người. Mặt khác, Hiến pháp năm 2013 đã giành Chương II ghi nhận về

“Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Như vậy, quan điểm

nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định con người ở vị trí trung tâm

của các chính sách kinh tế - xã hội, là nhân tố quan trọng để phát triển bền vững,

thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Một trong các nội dung về củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề được đặc biệt coi trọng là việc tổ chức thực hiện

quyền lực nhà nước trên quan điểm “Quyền lực nhà nước là th ống nh ất, có sự

2

phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trong đó việc thực thi quyền tư pháp là

một nội dung có ý ngh ĩa đặc biệt quan tr ọng trong vi ệc hoàn thi ện, tăng cường

hiệu lực của bộ máy nhà n ước, thúc đẩy sự phát tri ển kinh tế - xã h ội, bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Khi thực thi hoạt động hành pháp,

các cơ quan nhà n ước (hoặc người có th ẩm quyền trong cơ quan nhà n ước) với

những lý do khác nhau có th ể ban hành nh ững quyết định hành chính, hành vi

hành chính gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Những

thiệt hại này là cơ sở tạo nên nh ững mâu thu ẫn giữa cơ quan công quy ền với cá

nhân, công dân, tổ chức. Từ đó, sẽ dẫn đến việc công dân, tổ chức khiếu nại đến

cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc Tòa án nhân dân để khiếu nại, khiếu kiện

các quyết định hành chính, hành vi hành chính đó. Để giải quyết các khi ếu kiện

hành chính, cá nhân, tổ chức bị các quyết định hành chính, hành vi hành chính làm

xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích của mình có th ể lựa chọn nhiều phương

thức giải quyết khác nhau nh ư giải quyết theo trình tự thủ tục hành chính thông

qua việc khiếu nại tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện vụ án

hành chính tại Tòa án nhân dân theo trình t ự, thủ tục tư pháp. Trong hai ph ương

thức trên thì việc giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân có một vị trí và

vai trò đặc biệt quan trọng, bởi nó thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, thể hiện

sự nghiêm túc trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, và đặc biệt là liên quan

đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức...

Thực tế nước ta với xu ất phát điểm từ kinh tế đa phần dân cư sống nhờ

nông nghiệp, từ một xã hội phong kiến, nửa thuộc địa, trải qua một thời gian rất

dài với hai cuộc chiến tranh lớn, chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa nên những yếu tố lạc hậu còn ảnh hưởng rất nhiều. Nhìn nhận của

xã hội nói chung đối với hoạt động của nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước

với công dân đó là quan hệ mang nặng tính xin, cho; mệnh lệnh một chiều. Người

dân thường có quan niệm những việc liên quan đến tòa án giải quyết chỉ là những

vụ việc có tính ch ất hình sự, là mang tính quy ền lực trấn áp, và có s ự đồng nhất

không phân biệt các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đối với người dân, cơ quan

3

công an, viện kiểm sát, tòa án là m ột, việc khiếu kiện các cơ quan nhà nước đối

với công dân là một việc bất khả thi ngay từ trong suy nghĩ.

Về phía các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước cũng có tâm lý

như vậy, nhiều năm thực hiện chế độ quản lý thời chiến tạo thành một thói quen

mệnh lệnh hành chính - quân s ự trong tất cả các quan h ệ phát sinh. T ừ sau khi

thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986, tư duy này mới dần thay đổi. Các tranh

chấp được giải quyết bằng tòa án d ần mở rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời

sống xã hội. Người dân đã bớt đi sự e ngại khi mang vụ việc tranh chấp ra tòa án

để giải quyết, và trong nh ận thức đã có sự phân biệt được sự khác nhau về chức

năng nhiệm vụ của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Trên thực tế, các vụ việc được đưa ra tòa án giải quyết vẫn chỉ tập trung ở

các vụ việc dân sự với các tranh chấp phát sinh giữa các cá nhân tổ chức với nhau,

còn việc người dân đưa các vụ tranh chấp hành chính ra tòa án giải quyết vẫn còn

rất hạn chế. Hình thức giải quyết được ưa thích vẫn là khiếu nại ở các cơ quan nhà

nước mà theo họ là có thẩm quyền. Vấn đề này tạo ra khiếu nại vượt cấp, sai thẩm

quyền, thời gian kéo dài dai dẳng gây bức xúc xã hội. Nguyên nhân xuất phát từ

tâm lý và sự hiểu biết về quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và của

cả những cơ quan trong bộ máy nhà nước còn hạn chế.

Để giải quyết vấn đề đó, Nghị quyết 8 Ban Ch ấp hành Trung ương khóa

VII đã đặt ra yêu cầu cấp bách là: "Đẩy mạnh giải quyết các khiếu kiện của dân...

xúc tiến việc thiết lập hệ thống Tòa án hành chính để xét xử các khi ếu kiện của

dân đối với các quy ết định hành chính" [25, tr.34]. Đại hội đại bi ểu toàn qu ốc

Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII tiếp tục khẳng định "xúc tiến thành lập Tòa

hành chính trong Tòa án nhân dân, b ổ sung th ể chế làm căn cứ cho vi ệc xét xử.

Xác định mô hình tổ chức và thủ tục tố tụng phù hợp với đặc điểm của các vụ kiện

hành chính" [27, tr.18].

Thể chế hóa các quan điểm, các nhiệm vụ nêu trên của Đảng, đã có nhiều

văn bản pháp lu ật quan tr ọng để thiết lập thể chế tài phán hành chính góp ph ần

hoàn thiện các chế định giải quyết khiếu kiện hành chính của dân. Kết quả nổi bật

là đã hình thành t ổ chức và th ực hiện hoạt động xét xử hành chính c ủa Tòa án

nhân dân.

4

Từ năm 1996 đến nay, các Tòa án nhân dân đã giải quyết được hàng ngàn

vụ khiếu kiện hành chính, góp phần ổn định các quan hệ hành chính, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Bước đầu, xã hội đã phần nào có sự nhìn

nhận, đánh giá việc xét xử các vụ án hành chính là ph ương thức bảo đảm quyền,

lợi ích của cá nhân, tổ chức một cách có hiệu quả khi họ đặt niềm tin pháp lý vào

việc khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án.

Tuy vậy, nhìn chung vẫn còn không ít nh ững tồn tại. Tình tr ạng án hành

chính bị cải, sửa vẫn thường xuyên xảy ra dẫn đến việc bảo đảm quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính còn nhi ều hạn chế, đồng

thời gây bức xúc xã hội. Có rất nhiều nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng

đến việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành

chính hành chính, nh ưng tập trung ch ủ yếu vào một số vấn đề như: hệ thống tổ

chức Tòa hành chính ch ưa được hoàn thi ện; trình độ chuyên môn c ủa đội ng ũ

Thẩm phán trực tiếp làm công tác giải quyết án hành chính chưa cao, bản lĩnh và

đạo đức nghề nghiệp còn hạn chế. Đặc biệt là hệ thống pháp luật hành chính và tố

tụng hành chính của nước ta còn khá nhi ều những vướng mắc, bất cập, không rõ

ràng. Bên cạnh đó, việc tổ chức hệ thống Toà hành chính nằm trong hệ thống Tòa

án nhân dân với thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ như hiện nay thì việc xét xử án

hành chính ch ưa th ể đạt được kỳ vọng trong vi ệc bảo đảm, bảo vệ quy ền con

người, bảo vệ pháp chế.

Trên bình diện quốc tế, hiện nay Việt Nam là thành viên tích cực của Hiệp

hội các qu ốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đang nỗ lực cùng tất cả các thành

viên khác để xây dựng cộng đồng này với mục tiêu lấy con người làm trung tâm,

có trách nhiệm xã hội nhằm xây dựng tình đoàn kết, thống nhất bền lâu giữa các

quốc gia và dân tộc ASEAN. Việt Nam còn tham gia còn tham gia một số các điều

ước quốc tế có liên quan đến quyền con người. Do đó yêu cầu sự minh bạch, bảo

đảm quyền, lợi ích của công dân trong t ố tụng nói chung và xét x ử vụ án hành

chính nói chung lại càng trở thành vấn đề cấp thiết.

Những vấn đề trong nước và quốc tế, những yếu tố chủ quan và khách quan

liên quan đến nhà nước và các cá nhân t ổ chức trong xã hội đặt ra yêu cầu phải

nghiên cứu một cách toàn diện, sâu rộng vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

5

của cá nhân và tổ chức đặc biệt trong các vụ án hành chính. Tuy nhiên, qua khảo

sát các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, vấn đề này chưa được chú ý

nghiên cứu chuyên sâu, còn nhi ều ý ki ến khác nhau và ch ưa có s ự tập trung.

Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống về vấn đề giải quyết

các vụ án hành chính theo trình tự thủ tục tư pháp dưới góc nhìn xét xử vụ án hành

chính là một phương thức để thực hiện việc bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ

chức và làm thế nào để nâng cao hiệu quả, chất lượng của phương thức này là một

công việc có ý nghĩa thiết thực.

Xuất phát từ những yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, nghiên cứu sinh lựa

chọn đề tài: "Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét

xử các vụ án hành chính ở Việt Nam" làm luận án tiến sĩ luật học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích của luận án là làm sáng tỏ bản chất của việc bảo đảm quyền, lợi

ích hợp pháp của cá nhân tổ chức thông qua việc luận giải cơ sở lý lu ận và thực

tiễn xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án thông qua các quy định của pháp luật;

cơ sở việc nghiên cứu các quan điểm về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, rút ra

các đặc điểm cũng như mối quan hệ với các khái niệm có liên quan để làm sáng tỏ

bản chất của vấn đề.

Thông qua việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về giải quyết

các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân, lu ận án có nhi ệm vụ phân tích nh ững

ưu điểm và những tồn tại của các quy định của pháp luật cũng như những kết quả

đạt được và nh ững sai sót, vướng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án hành

chính trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra những kiến nghị khoa học

nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án

nhân dân nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao ch ất lượng xét xử, bảo đảm công

bằng xã hội thông qua ho ạt động tài phán, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các

bên khi tham gia tố tụng.

Thực hiện mục tiêu trên luận án có nhiệm vụ:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận, ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật.

6

- Nghiên cứu những qui định của pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề

để làm rõ và có nhận thức đúng đắn về vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân,

tổ chức trong trong xét xử vụ án hành chính, vụ án hành chính.

- Phân tích thực trạng và những thách thức đối với việc thực thi sự bảo đảm

quyền và lợi ích của công dân, tổ chức. Xác định rõ quan điểm, nhận thức và đề

xuất các giải pháp tăng cường sự bảo đảm trong thực tế.

Như vậy, song song với việc phân tích, đánh giá và tìm ra ph ương hướng

để hoàn thi ện pháp lu ật, lu ận án c ũng hướng tới mục tiêu làm th ế nào để bảo

đảm quy ền, lợi ích h ợp pháp c ủa công dân, t ổ ch ức trong xét x ử vụ án hành

chính hành chính.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề bảo đảm quyền lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức thông qua quá trình ti ến hành và tham gia t ố tụng để

giải quyết vụ án hành chính tại Ṭa án nhân dân theo quy định của pháp luật hiện

hành và thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án.

- Phạm vi nghiên cứu của luận án là những vấn đề khác nhau liên quan tới

quá trình giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân. Đồng thời, trong quá

trình trình bày những vấn đề pháp lý của pháp luật nước ta liên quan đến quá trình

giải quyết án hành chính, tác giả luận án cũng trình bày thêm một số quy định của

pháp luật nước ngoài có liên quan.

Tuy nhiên, trong khuôn kh ổ của một luận án, tác gi ả không có điều kiện

trình bày một cách chi ti ết mọi vấn đề liên quan mà ch ỉ tập trung trình bày m ột

cách có hệ thống những vấn đề có tính nguyên tắc, luận giải khoa học về các quy

định của pháp luật và thực tiễn thực hiện để làm tiền đề cho những kiến nghị khoa

học để hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ

án hành chính tại Toà án, nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức ngày một hiệu quả hơn.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận án được th ực hi ện trên cơ sở vận dụng nh ững quan điểm của ch ủ

nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; quan điểm chính trị của Đảng Cộng

sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới và phát triển các quan điểm về

7

xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam nhằm xây dựng một xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Luận án áp dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ

nghĩa Mác - Lênin vào việc phân tích, lý giải các vấn đề thuộc đối tượng và phạm

vi nghiên cứu. Luận án sử dụng những phương án nghiên cứu chủ yếu sau:

- Ph ương pháp phân tích, t ổng hợp: đây là ph ương pháp được áp d ụng

trong hầu hết các phần và nội dung của luận án như phân tích các quan niệm, quan

điểm về một vấn đề, rút ra các y ếu tố, các bộ phận có mối liên hệ mật thiết với

nhau để xác lập một quan điểm, một vấn đề gồm các yếu tố cần và đủ cho một kết

luận, một quan niệm đầy đủ hơn.

- Phương pháp so sánh: Ph ương pháp này được sử dụng nhằm tìm ra các

điểm chung, các nét đặc trưng của các vấn đề, các hiện tượng hoặc cùng một hiện

tượng nhưng cần phải so sánh trong các giai đoạn (thời gian) khác nhau hay trong

những không gian (giữa vùng này với vùng khác, nước này với nước khác) khác

nhau... để rút ra các điểm tích cực, tiến bộ.

- Phương pháp lịch sử: là phương pháp nghiên cứu một vấn đề trong cả quá

trình phát sinh, tồn tại và phát tri ển của nó thông qua các giai đoạn, các mốc về

thời gian gắn với các sự kiện tương ứng.

- Phương pháp thống kê: Để ghi chép, cập nhật các số liệu, các thông tin, sự

kiện... theo trình t ự, cách th ức nh ất định. Ph ương pháp này được áp d ụng cho

những vấn đề cần chứng minh từ các số liệu, sự kiện được tập hợp và có độ tin cậy

xác định.

Luận án sẽ sử dụng tập hợp tất các các ph ương pháp nói trên để thực hiện

những nội dung đã đặt ra.

5. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án

- Luận án là công trình nghiên c ứu đầu tiên, toàn di ện về vấn đề bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính.

- Làm rõ được cơ sở khoa học, các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền, lợi ích

hợp pháp. Đưa ra và làm rõ được nội hàm của khái ni ệm quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính.

8

- Luận án khái quát được nội dung, bản chất của vấn đề bảo đảm quyền, lợi

ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức dưới góc độ pháp lý nhằm tạo ra khuôn khổ cho

hoạt động của tố tụng của những người tiến hành tố tụng cũng như tham gia t ố

tụng hành chính.

- Phân tích đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ về th ực

trạng cũng như những hạn chế và thách thức đối với việc bảo đảm quyền, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính trên cả phương diện

pháp luật và thực tiễn, đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm thể hiện rõ

quan điểm, đường lối của Nhà nước về vấn đề này, góp phần hoàn thiện pháp luật

tố tụng hành chính.

Những kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo cho việc nghiên

cứu, xây dựng và hoàn thi ện pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền, lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính. Luận án cũng có thể làm

tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và học tập ở các trường đại học, các

học viện có chuyên ngành v ề lu ật học, quyền con ng ười. Lu ận án cũng là một

nguồn tư liệu để cán bộ làm công tác th ực tiễn tham kh ảo vận dung trong ho ạt

động thực tiễn nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong

xét xử vụ án hành chính. Tác gi ả mong mu ốn đóng góp một phần công sức vào

việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết vụ án hành chính và nâng

cao chất lượng xét xử hành chính c ủa Tòa án, t ừ đó góp ph ần giải quyết nhanh

chóng, dứt điểm các khiếu kiện hành chính phát sinh trong thực tế, đảm bảo quyền

và lợi ích của công dân, tổ chức trong xã hội đặc biệt trong bối cảnh xây dựng nhà

nước pháp quyền, hội nhập quốc tế ngày một sâu, rộng.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công

bố liên quan đến luận án và danh m ục tài li ệu tham kh ảo, nội dung của luận án

gồm 4 chương, 14 tiết.

9

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Trong tiến trình đổi mới đất nước như hiện nay, một loạt vấn đề nảy sinh từ

thực tiễn về mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, về vai trò tích cực của Nhà

nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xây d ựng một xã

hội dân giàu, nước mạnh... cần phải được nghiên cứu, tổng kết nhằm luận giải cho

các quan điểm đổi mới đất nước, xác định những luận cứ khoa học tạo cơ sở vững

chắc để xây dựng các ch ế định pháp lý, góp ph ần hoàn thiện bộ máy Nhà nước,

bảo vệ quyền lợi của công dân. Trong đó, việc nghiên cứu các quy định, các cơ

chế gi ải quy ết khi ếu nại, tố cáo c ủa công dân, gi ải quy ết các tranh ch ấp, mâu

thuẫn giữa Nhà nước với công dân để nhà nước thực sự là công cụ chủ yếu, bảo vệ

và thực hiện quyền làm chủ của công dân ngày càng thu hút đông đảo sự quan tâm

nghiên cứu của nhiều cơ quan, tổ chức, nhiều nhà khoa học. Nghiên cứu về vấn đề

này có một số công trình, bài viết tiêu biểu sau:

1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU MANG TÍNH LÝ LUẬN ĐỊNH

HƯỚNG VỀ TỔ CH ỨC BỘ MÁY NHÀ N ƯỚC VÀ M ỐI QUAN HỆ GI ỮA NHÀ

NƯỚC VỚI CÔNG DÂN

1.1.1. Các công trình, tài liệu nghiên cứu trong nước

- Nguyễn Văn Mạnh, Nhận th ức và th ực ti ễn vận dụng quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới (từ

1986 đến nay) [66]. Nội dung đề tài được chia làm ba ph ần. Ph ần th ứ nh ất là

những quan điểm, chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy

nhà nước. Các tác giả tập trung làm rõ cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức, hoạt động

của bộ máy nhà nước trong đó có Tòa án. Thực trạng thể chế hóa vận dụng quan

điểm của Đảng về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước được các

tác giả đánh giá chi ti ết trong phần thứ hai của đề tài. Phần thứ ba, đề tài đưa ra

phương hướng vận dụng quan điểm của Đảng trong đổi mới tổng thế tổ chức bộ

máy nhà nước và các gi ải pháp để kiện toàn, đổi mới tổ chức bộ máy nhà n ước

theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền theo thực thế Việt Nam.

10

- Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới [130]. Với nội dung nhìn lại 20 năm đổi

mới tư duy về Nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam các tác giả làm rõ nh ững luận điểm khoa học về nhà nước pháp quyền, dân

chủ và mối quan hệ gi ữa Đảng và Nhà n ước, sự phân công quy ền lực trong tổ

chức bộ máy nhà nước, mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các tác giả cũng đưa ra các vấn đề cần

tiếp tục đổi mới trong ho ạt động lập pháp, hành pháp, c ải cách hành chính nhà

nước, hoàn thiện tổ chức bộ máy Tòa án và xét xử vụ án hành chính.

- Đào Trí Úc, Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy

Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [117]. Từ sự phân tích nền

tảng lý lu ận của việc xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động

của bộ máy Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự tổng kết hơn 20 năm thực hiện các

cơ chế dân ch ủ, cơ chế và hình th ức giám sát của nhân dân, k ết hợp với những

nghiên cứu, đánh giá kinh nghiệm của nước ngoài. Các tác gi ả đưa ra các yếu tố

tích cực hợp lý với việc xây dựng, đổi mới các cơ chế kiểm tra giám sát từ phía

nhân dân đối với bộ máy công quyền. Đồng thời cuốn sách đưa ra đề xuất mô hình

cả về lý luận và thực tiễn cho các cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với

các thiết chế bộ máy của Đảng và Nhà nước. Mô hình đó cần đảm bảo mục đích

kiểm tra hữu hiệu, vừa bảo đảm tính khả thi phù hợp với tình hình thực tế của hệ

thống chính trị Việt Nam

- Nguyễn Chí Dũng, Cơ ch ế pháp lý giám sát ho ạt động tư pháp ở Vi ệt

Nam [20]. Trong luận án này, tác giả phân tích các khái niệm có ý nghĩa làm cơ sở

lý luận cho cơ ch ế giám sát ho ạt động tư pháp. Có th ể kể đến đó là khái ni ệm

quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, giám sát; mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố

tạo nên hệ thống cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp. Các yếu tố cấu thành

cơ chế này bao gồm: phương thức tổ chức giám sát; yếu tố pháp lý; mối quan hệ

tương tác gi ữa chủ thể giám sát có tác động đến đối tượng giám sát. Các y ếu tố

này là tiền đề của nhau, bổ xung cho nhau và để hoàn thiện cơ chế pháp lý. Khi

nghiên cứu cần xác định rõ vai trò của các yếu tố này một cách độc lập tương đối

và vai trò c ủa chúng trong mối quan hệ là các y ếu tố hợp thành tạo nên cơ chế

11

pháp lý giám sát. Từ những cơ sở lý luận luận án phân tích thực trang cơ chế pháp

lý giám sát hoạt động tư pháp. Xem xét các yêu cầu khách quan, quan điểm và các

giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện

nay. Một số vấn đề lý luận về cơ chế giám sát của luận án có ý ngh ĩa tham khảo

đối với đề tài của nghiên cứu sinh trong việc xác định các vấn đề bảo đảm quyền

và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức khi tham gia vụ án hành chính

- Nguyễn Mạnh Bình, Hoàn thi ện cơ chế pháp lý giám sát xã h ội đối với

việc th ực hiện quy ền lực Nhà nước ở Vi ệt Nam hi ện nay [7]. Tác gi ả cho r ằng

trong hệ thống cơ chế pháp lý giám sát xã h ội đối với thực hiện quyền lực Nhà

nước bao gồm 5 yếu tố cấu thành. Đó là: hệ thống thiết chế; hệ thống thể chế; hình

thức và ph ương pháp giám sát; trình t ự và th ủ tục giám sát; hậu quả giám sát xã

hội. Cơ chế pháp lý vận hành được tạo nên từ các yếu tố này. Các yếu tố này có

vai trò nh ất định, là ti ền đề và b ổ xung cho nhau để tạo nên một cơ ch ế hoàn

chỉnh. Dựa trên những phân tích cơ sở lý luận của cơ chế giám sát xã hội đối với

việc thực hiện quyền lực Nhà nước luận án phân tích th ực trạng các yếu tố cấu

thành cơ chế pháp lý giám sát xã h ội. Từ thực tế tìm ra nh ững nguyên nhân, bài

học từ đó rút ra yêu cầu khách qua và các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp

lý giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực Nhà nước trong điều kiện Việt

Nam hiện nay. Luận án chỉ dừng ở phạm vi cơ chế pháp lý giám sát nên ch ưa đi

sâu vào từng lĩnh vực cụ thể, tuy nhiên nh ững vấn đề lý lu ận nêu ra có ý ngh ĩa

tham khảo cho nghiên cứu sinh.

- Bộ Tư pháp, Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ

tục tư pháp, nâng cao hi ệu quả và hi ệu lực xét xử của Tòa án trong nhà n ước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân [8]. Công trình chuyên

khảo, nghiên cứu đánh giá về cơ sở lý luận, chính trị, pháp lý và th ực tiễn về cải

cách tư pháp ở Việt Nam. Đề tài lu ận giải cơ sở lý lu ận và quá trình hình thành

quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp từ năm 1986 đến 2006; th ực tiễn việc

triển khai các nghị quyết về cải cách tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong

phạm vi các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án, thi hành án và các cơ quan, tổ chức

bổ trợ tư pháp. Nội dung đề tài cũng xác định những vấn đề lý luận và thực tiễn

của nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án; vấn đề tranh tụng và hiệu quả xét xử

12

của Tòa án. Đề tài cũng đưa ra mô hình tổ chức của cơ quan tư pháp và bổ trợ tư

pháp như Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, thi hành án, các tổ chức luật sư,

tư vấn pháp luật, giám định tư pháp, công chứng.

- Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam [115]. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khái niệm

tuy đã được hình thành từ rất lâu nh ưng trong thực tế mới đang được định hình.

Các tác giả tập trung xác định mô hình lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam để giúp có thêm những điều kiện nhận thức cho tiến trình cải cách

về lập pháp, hành pháp và tư pháp đang được thực thi mạnh mẽ. Với các cơ quan

xét xử, các tác gi ả đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ

quan này, đưa ra các nguyên tắc thiết kế tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án

trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề xuất mô hình tổng thể về tổ chức

và hoạt động của hệ thống Tòa án.

- Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước và trách nhi ệm của nhà nước [17]. Nhà

nước phải chịu trách nhi ệm về những hành vi ho ạt động của mình. Bảo đảm sự

độc lập của tòa án là biểu hiện của sự chịu trách nhiệm của nhà nước. Hiệu quả xét

xử của tòa án phụ thuộc rất nhiều vào sự độc lập này.

- Nguyễn Phú Trọng, Phát huy dân ch ủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân [107]. Cuốn sách

là tập hợp những bài nói, bài viết và trả lời phỏng vấn báo chí về vấn đề phát huy

dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền. Tác giả khẳng định: Nhà nước ta là nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là

nhà nước đại đoàn kết toàn dân, d ựa trên nền tảng của khối liên minh giai c ấp

công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam

lãnh đạo. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

được đặt ra như một tất yếu khách quan. Đây là cách thức cơ bản để phát huy dân

chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực nhà

nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong

việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Vi ệt Nam. Cu ốn sách cho ng ười đọc th ấy được một cách h ệ th ống

những quan điểm, nguyên tắc, cách thức và bước đi trong việc phát huy dân chủ,

13

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cuốn sách nêu bật 5

quan điểm cơ bản trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Thứ

nhất: Nhà nước ta là nhà n ước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa của dân do dân, vì

dân, dựa trên nền tảng của khối liên minh giai c ấp công nhân v ới giai cấp nông

dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công

nhân; thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,

chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.

Thứ hai: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các

cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ ba: quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của trung

ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính ch ủ động, năng động, sáng tạo của

từng địa phương, từng cơ sở, từng tổ chức, từng cá nhân và toàn hệ thống. Thứ tư:

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức xã

hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng. Thứ

năm: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

- Uông Chu L ưu, Cái cách tư pháp, hoàn thi ện hệ th ống các th ủ tục tư

pháp, nâng cao hi ệu qu ả và hi ệu lực xét x ử của Tòa án trong nhà n ước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân [65]. Trong cuốn sách này làm rõ

các vấn đề lý luận và thực tiễn, khái niệm, vị trí, vai trò, bản chất, đặc trưng của

các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp; quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp

trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó đề tài đã đưa ra khái

quát về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong các khoảng thời gian

trước và sau năm 1986. Đề tài đánh giá những thành tựu đưa ra những hạn chế và

nguyên nhân để từ đó hình thành những quan điểm, những tiền đề và các yêu cầu

cải cách tư pháp. Đề tài nghiên cứu hệ thống tòa án trong hệ thống các cơ quan tư

pháp và việc thực hiện quyền của tòa án với vị trí quan tr ọng trong hệ thống cơ

quan tố tụng. Đề tài cũng đưa ra một số vấn đề liên quan đến cải cách tổ chức và

hoạt động của tòa án trong tiến trình cái cách tư pháp.

- Lê Minh Thông, Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay [94]. Tác

14

giả nêu và phân tích các nội dung liên quan đến việc đổi mới, hoàn thiện bộ máy

nhà nước pháp quy ền theo các n ội dung cơ bản: Yêu cầu đổi mới bộ máy nhà

nước; quá trình đổi mới mô hình b ộ máy nhà n ước trong lịch sử; thực trạng mô

hình bộ máy nhà nước Việt nam từ 1992 đến nay; phương hướng đổi mới tổ chức

bộ máy nhà nước. Theo tác giả hiện nay còn nhiều vấn đề cần có sự thống nhất về

mặt lý lu ận như quyền tư pháp và các c ơ quan tư pháp. Sự thiếu thống nhất này

dẫn tới khái niệm các cơ quan tư pháp chưa được hiểu một cách chính xác, đầy đủ

tạo nên sự khó khăn trong nhận thức lý luận và cả thực tế hoạt động đối với việc

phân định giữa hành pháp và tư pháp.

1.1.2. Các công trình, tài liệu nghiên cứu của nước ngoài

Joseph S. Nye, Philip Zelikow, David C. King, Why People Don't Trust

Government, Tại sao nhân dân không tin t ưởng Chính ph ủ, Harvard University

Press [139]. Niềm tin đối với chính ph ủ Mỹ đã giảm trong ba th ập kỷ qua. Ba

phần tư dân Mỹ khi được hỏi cho biết họ tin tưởng chính phủ liên bang làm đúng

trong năm 1964. Hiện nay, chỉ một phần tư còn có lòng tin. Lý do tại sao lại có sự

suy giảm đó? Sự không tin tưởng này phản ánh thái độ hoài nghi lâu dài của người

dân Mỹ đối với một nhà nước mạnh mẽ? Hay sự thiếu tin cậy là một vấn đề cho

tương lai của việc lãnh đạo?

Với tập hợp các bài tiểu luận của các học giả hàng đầu Harvard, cuốn sách

này tìm hiểu gốc rễ của sự thiếu tin cậy. Nó đầu tiên xem xét ph ạm vi hoạt động

của chính phủ hiện nay, hiệu suất thực tế của nó, và nh ận thức của người dân về

hiệu quả của nó. Sau đó các tác giả đánh giá những giải thích có thể cho là nguyên

nhân cho sự suy giảm lòng tin, bao gồm cả sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, kỳ

vọng cao sau Thế chiến II, một nền kinh tế suy yếu, ảnh hưởng của toàn cầu hóa,

sự tức giận trong các vụ bê bối chính trị, và sự bất lực của các quan ch ức. Cuốn

sách làm rõ suy nghĩ về nguồn gốc của sự bất mãn công khai. Xuất phát từ đó, các

tác giả đã đưa ra nhi ều nguyên nhân, ph ần lớn là không liên quan đến điều kiện

kinh tế quốc gia, những thách thức của nền kinh tế toàn cầu, chiến tranh lạnh, hoặc

cách hành sử sai lầm của các quan ch ức và chính tr ị gia. Thay vào đó, họ chỉ ra

rằng thủ phạm rất có thể là tất cả những điều tồn tại trong xã hội - một sự pha trộn

15

tương tác của các cuộc xung đột văn hóa và chính trị khuấy động bởi một hệ thống

phương tiện truyền thông.

1.2. NHÓM NHỮNG CÔNG TRÌNH BÀI VIẾT NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

1.2.1. Các công trình, tài liệu nghiên cứu trong nước

- Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương, Tài phán hành chính trong

bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quy ền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hi ện

nay [77]. Cuốn sách này là s ự tập hợp ý ki ến của một số tác gi ả xoay quanh

những vấn đề lý lu ận và th ực tiễn cấp bách nh ất về nền tài phán hành chính ở

Việt Nam. Các tác gi ả tập trung làm rõ c ơ sở lý lu ận và kinh nghi ệm xây dựng

nền hành chính ở nước ta. Cùng v ới đó là sự phân tích, đánh giá về nhà n ước

pháp quyền, về việc bảo vệ quyền con người, các vấn đề liên quan đến tài phán

hành chính.

Nhà nước pháp quyền, từ trong bản chất của nó, đặt ra yêu cầu về sự giới

hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó điểm nhấn quan trọng là sự kiểm

soát và kiềm chế quyền lực hành pháp - bộ phận quyền lực có nhiều khả năng nhất

trong việc lấn quyền và lạm quyền. Vì vậy, thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng các cơ chế

đảm bảo quyền lực nhân dân trên cơ sở hạn chế tối đa khả năng lạm quyền từ phía

các cơ quan hành pháp. Điều này trực tiếp đặt ra yêu cầu về một nền tài phán hành

chính hữu hiệu ở Việt Nam hiện nay.

Tài phán hành chính là m ột vấn đề phức tạp, liên quan đến và ph ụ thuộc

vào nhiều yếu tố chính trị - xã hội trong các không gian và thời gian khác nhau. Ở

Việt Nam, tài phán hành chính xu ất hiện sớm và th ực sự tr ở thành một cơ ch ế

pháp lý nhằm giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước hướng tới mục tiêu bảo

vệ quyền con người, chỉ từ sau khi Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân được

ban hành năm 1991 và đặc biệt là sau năm 1995 - khi Quốc hội Việt Nam sửa đổi

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, trao cho Tòa án nhân dân ch ức năng xét xử hành

chính và thiết lập trong hệ thống tòa án nhân dân các tòa chuyên trách th ực hiện

chức năng này (gọi chung là Tòa hành chính). Từ đó đến nay, mặc dù về bản chất,

tài phán hành chính là hoạt động xem xét và ra phán quyết có giá trị pháp lý nhằm

16

giải quyết các tranh chấp hành chính hay các tranh ch ấp nảy sinh trong quá trình

điều hành, quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó chủ yếu là việc

xem xét, phán quyết về tính đúng đắn của các quyết định hay hành vi hành chính

của các cơ quan qu ản lý nhà n ước, nhưng trên th ực tế đang tồn tại những cách

quan niệm khác nhau về tài phán hành chính. Sự phức tạp trong nhận thức lý luận

về tài phán hành chính kéo theo những lúng túng và thiếu hiệu quả trong thực tiễn

xây dựng và th ực thi cơ chế tài phán hành chính. H ệ quả đương nhiên của tình

hình đó là quy ền khiếu nại, tố cáo của công dân b ị xâm hại, vai trò c ủa các cơ

quan tài phán hành chính bị suy giảm, đi đôi với hiện tượng gia tăng sự tùy tiện,

vô cảm, thiếu trách nhiệm của một bộ phận công chức hành chính nhà nước. Đó là

thực trạng không tương thích với đòi hỏi của quá trình tiếp tục xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

- Nguyễn Thanh Bình, Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong vi ệc giải

quyết các khiếu kiện hành chính [4]. Tác giả tập trung làm rõ cơ sở lý luận về sự

cần thiết và tính tất yếu của việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải

quyết khiếu kiện hành chính, lu ận án xây dựng được khái niệm thẩm quyền giải

quyết khiếu kiện hành chính của tòa án góp ph ần tạo nên sự thống nhất về nhận

thức cho vi ệc xác định thẩm quyền của tòa án. Qua vi ệc đánh giá th ực trạng về

thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân, tác giả cho thấy những yếu tố

tích cực và cả những khó khăn, bất hợp lý trong việc xác định thẩm quyền xét xử

các vụ án hành chính của Tòa án. Đó cũng chính là nguyên nhân làm hạn chế vai

trò của Tòa án tham gia vào gi ải quyết khiếu kiện hành chính. Luận án cũng đưa

ra những kiến nghị, những giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm quyền của Tòa Hành

chính và xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, thống nhất đồng bộ và hoàn thiện

môi trường pháp lý về thủ tục giải quyết vụ án hành chính.

- Nguyễn Thanh Bình, Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của tòa án

- sự đảm bảo công lý trong quan h ệ Nhà nước và Công dân [6]. Cuốn sách gồm

ba phần: Phần thứ nhất đưa ra cơ sở lý luận về xác định, phân định thẩm quyền xét

xử khiếu kiện hành chính của Tòa án. Trong phần này tác giả tập trung làm rõ các

vấn đề lý lu ận về thẩm quyền xét xử của tòa án đối với khiếu kiện hành chính.

Đưa ra các khái niệm về khiếu kiện hành chính, thẩm quyền của tòa án, đặc điểm

17

về thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử các khiếu kiện hành chính, đồng thời

nêu các nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án.

Phần thứ hai, cuốn sách đánh giá thực tiễn về thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành

chính của Tòa án. Cụ thể là nêu ra các c ơ sở để xác lập thẩm quyền của Tòa án,

xác định đối tượng xét xử là các quy ết định hành chính, hành vi hành chính. Ở

phần này tác gi ả cũng nêu các v ấn đề về thẩm quyền của tòa án theo lo ại việc,

theo lãnh th ổ, theo cấp tòa án xét x ử. Bên cạnh đó tác gi ả đi sâu vào phân tích

thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của tòa án trong các giai đoạn tố tụng và

áp dụng pháp lu ật dân sự và t ố tụng dân sự trong xét x ử các khi ếu ki ện hành

chính, thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và trong việc ra bản

án, quyết định xét xử khiếu kiện hành chính. Ph ần thứ ba, trên c ơ sở lý lu ận và

thực tiễn, tác giả đưa ra phương hướng và các bi ện pháp hoàn thiện thiết chế xét

xử khiếu kiện hành chính của tòa án để đảm bảo công lý trong quan h ệ giữa nhà

nước với công dân. Tại phần này tác giả đề cập đến vấn đề mở rộng thẩm quyền

của Tòa án trong việc xét xử các khiếu kiện hành chính, việc hoàn thiện hệ thống

các quy định pháp luật nhằm mở rộng thẩm quyền của Tòa án, hoàn thiện sự phân

định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp, hoàn thiện các quy định và biện pháp

bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền xét xử. Bên cạnh đó tác giả cũng đưa ra

vấn đề cải cách trình tự thủ tục tố tụng hành chính cho phù hợp đặc điểm của việc

khiếu ki ện hành chính c ũng nh ư các đề xu ất liên quan t ới th ẩm quy ền ra phán

quyết và quan niệm về đối tượng xét xử của toàn án là quyết định hành chính.

- Nguyễn Văn Thanh, Đinh Văn Minh, Một số vấn đề về đổi mới cơ chế

giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam [92]. Nội dung cu ốn sách này t ập

trung phân tích những vấn đề về khiếu kiện hành chính và cơ chế giải quyết khiếu

kiện hành chính. Các khái ni ệm được các tác gi ả làm rõ nh ư khi ếu ki ện hành

chính, giải quyết khiếu kiện hành chính, quan điểm về giải quyết khiếu kiện hành

chính trong giai đoạn 1998 - 2003. Các vấn đề về đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả

công tác giải quyết khiếu kiện hành chính trong th ời gian tới. Với nội dung giới

hạn trong một khoảng thời gian nên những vấn đề cuốn sách mang lại có ý nghĩa

tham khảo đối với đề tài.

18

- Trần Quang Hi ển, Cơ chế pháp lý b ảo đảm giải quyết tranh ch ấp hành

chính ở Việt Nam [52]. Luận án làm rõ c ơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh

chấp hành chính là t ổng hợp các yếu tố cấu thành và ph ương thức tổ chức, hoạt

động của các chủ thể theo những nguyên tắc, quy định của pháp luật, với các hình

thức, công cụ, phương tiện pháp lý có m ối liên hệ chặt chẽ với nhau, vận hành

trong một thể đồng bộ, thống nhất thông qua các chủ thể có thẩm quyền giải quyết

tranh chấp hành chính nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh

chấp được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Các yếu tố cấu thành của cơ

chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính gồm: các nguyên tắc pháp

lý cơ bản; những quy định của pháp luật thực định về giải quyết tranh chấp hành

chính; yếu tố thủ tục, phương thức pháp lý giải quyết tranh chấp hành chính; yếu

tố ch ủ th ể pháp lu ật trong cơ ch ế pháp lý b ảo đảm gi ải quy ết tranh ch ấp hành

chính. Luận án đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp

hành chính ở Việt Nam trên những nội dung như: các nguyên tắc pháp lý cơ bản;

những quy định pháp lu ật về giải quyết tranh ch ấp hành chính; th ủ tục, phương

thức pháp lý gi ải quyết tranh chấp hành chính; yếu tố chủ thể pháp luật trong cơ

chế pháp lý b ảo đảm giải quyết tranh ch ấp hành chính. Quan điểm chỉ đạo việc

xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính

gồm: Xây dựng và hoàn thi ện cơ ch ế pháp lý gi ải quyết tranh ch ấp hành chính

phải bảo đảm cho các tranh chấp hành chính được giải quyết nhanh, kịp thời, đúng

pháp luật và có hiệu quả nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ

chức trong xã h ội; Xây dựng và hoàn thi ện cơ ch ế pháp lý b ảo đảm giải quyết

tranh chấp hành chính trên cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng một xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; Xây dựng và

hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính phải phù hợp

với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách hành chính, cải cách tư

pháp; Xây dựng và hoàn thi ện cơ chế pháp lý gi ải quyết tranh ch ấp hành chính

bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là

thành viên; Xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp

hành chính phải bảo đảm tính đồng bộ, tính ổn định, nhất quán của các yếu tố cấu

thành cơ chế; Xây dựng và hoàn thi ện cơ chế pháp lý b ảo đảm giải quyết tranh

19

chấp hành chính trên c ơ sở tổng kết thực tiễn giải quyết tranh ch ấp hành chính,

vận dụng sáng tạo kinh nghi ệm nước ngoài vào hoàn c ảnh Việt Nam hi ện nay.

Các giải pháp nh ằm xây dựng và hoàn thi ện cơ chế pháp lý b ảo đảm giải quyết

tranh chấp hành chính ở Việt Nam trong thời gian tới như: Đổi mới về điều kiện

khiếu kiện hành chính b ảo đảm quyền lựa chọn của người khiếu kiện khi khi ếu

kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính; Thể chế hóa những nguyên tắc cơ

bản về giải quyết tranh chấp hành chính thành các quy phạm pháp luật cụ thể; Xây

dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật trong cơ chế pháp lý bảo đảm giải

quyết tranh chấp hành chính; Gi ải pháp đổi mới thủ tục và ph ương thức pháp lý

giải quyết tranh ch ấp hành chính; Gi ải pháp hoàn thi ện yếu tố chủ thể pháp lu ật

trong cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính.

- Ngô Mạnh Toan, Hoàn thi ện pháp lu ật về khiếu nại, tố cáo trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam [95]. Tác giả xem xét phân tích

những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước

trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo, các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo,

trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo. Trên cơ sở những phân tích đó luận án

phân tích sự hình thành, phát tri ển và th ực trạng pháp lu ật khiếu nại tố cáo hi ện

nay ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra yêu cầu khách quan, những quan điểm đổi mới

trong thời gian tới.

- Phạm Hồng Thái, Quyết định hành chính, hành vi hành chính - Đối tượng

xét xử của Tòa án [88]. Cuốn sách chủ yếu phân tích các khía cạnh khoa học, pháp

lý về quyết định hành chính, hành vi hành chính - đối tượng xét xử của Tòa án,

thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân các c ấp. Tuy vậy, cuốn sách

không đề cập tới tố tụng hành chính và việc bảo đảm quyền của cá nhân, tố chức

trong xét xử hành chính.

- Ph ạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu, Tài phán hành chính ở Vi ệt Nam

[87], cuốn sách chủ yếu tập trung luận giải về tài phán hành chính như là một bộ

phận, một mặt của quản lý hành chính nhà nước và phân tích sự tác động giữa hai

mặt hoạt động này. Đồng thời chỉ ra th ẩm quyền của tài phán hành chính - phán

xét về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Cu ốn sách

đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về tài phán hành chính và xét xử hành chính.

20

- Học viện Hành chính, Giáo trình Luật hành chính và tài phán hành chính

Việt Nam [56]. Giáo trình này gồm các phần: Phần thứ nhất, Khái quát chung về

Luật hành chính Việt Nam; Phần thứ hai: Chủ thể của Luật hành chính Việt Nam;

Phần thứ ba: Cưỡng chế hành chính và trách nhiệm hành chính; Phần thứ tư: Kiểm

soát đối với hoạt động hành chính nhà nước; Phần thứ năm: Tài phán hành chính.

Nội dung giáo trình đưa ra các khái ni ệm về lu ật hành chính và tài phán hành

chính Việt Nam tạo tiền đề nghiên cứu các vấn đề chuyên sâu.

- Học viện Hành chính, Giáo trình Hành chính công [57]. Cuốn giáo trình

này cung cấp những kiến thức cơ bản về hoạt động quả lý của bộ máy hành chính

nhà nước và những cách thức phối hợp sử dụng nguồn lực để hành chính nhà nước

đạt được những mục tiêu của mình. Hành chính công có mối liên hệ mật thiết với

các môn khoa học khác như quản trị học, quản trị nhân sự, luật, kinh tế vĩ mô…

Cuốn sách mang tới cho người đọc sự tiếp cận một cách có hệ thống những kiến

thức về nhà nước và ho ạt động quản trị của một quốc gia gắn liền với hệ thống

những công cụ, phương pháp, nguyên tắc quản lý và trong đó có công cụ pháp luật

mà chủ yếu là Luật hành chính.

- Nguy ễn Hoàng Anh, Nh ững căn cứ đánh giá tính h ợp pháp của quy ết

định hành chính trong xét xử hành chính ở Cộng hòa Pháp và Vương quốc Bỉ [2].

Bài viết của tác giả đưa ra và phân tích vấn đề về tiêu chí đánh giá tính hợp pháp

của quyết định hành chính theo quy định của pháp luật Bỉ và Pháp là đúng thẩm

quyền, tuân th ủ yêu cầu về hình th ức, thủ tục và trình tự ban hành. Tác gi ả giới

thiệu và phân tích các căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế để đánh giá tính hợp pháp

của quyết định hành chính. Từ thực tế áp dụng luật của các nước trên rút ra bài

học kinh nghiệm cho việc vận dụng ở Việt Nam.

- Phạm Hồng Quang, Luật kiện tụng hành chính ở Nhật Bản và một số vấn

đề cải cách tố tụng hành chính ở Nhật Bản hiện nay [82]. Tác giả bài vi ết giới

thiệu về quá trình hình thành, đưa ra nội dung và đặc điểm của luật kiện tụng hành

chính Nhật Bản. Bên cạnh việc giới thiệu sơ bộ về những đặc điểm cần quan tâm

của luật kiện tụng hành chính, bài viết còn nêu ra những hạn chế còn tồn tại trong

luật của Nhật Bản. Cùng với những con số thống kê cụ thể về thực tiễn xét xử của

21

tòa án tác giả bài viết đưa ra một số phương hướng và các biện pháp cải cách chủ

yếu đối tố tụng hành chính.

- Tìm hiểu xét xử hành chính một số nước và lãnh thổ trên thế giới [74], Tài

liệu tham khảo bao gồm các tài liệu được dịch, ghi chép qua các bài viết trình bày

tại các hội thảo khoa học, các đợt khảo sát nghiên cứu của các chuyên gia Vi ệt

Nam tại một số nước. Cuốn sách đề cập đến cách th ức tổ chức cơ quan tài phán

hành chính ở một số nước trên thế giới, trong đó tập trung sâu vào tìm hiểu về Tòa

án hành chính ở Cộng hòa Pháp; tòa án hành chính trong h ệ th ống cơ quan tài

phán Cộng hòa liên bang Đức; Tòa án hành chính t ại Thụy Điển, tính lưỡng hệ

trong tài phán ở Phần Lan và Thụy Điển. Cuốn sách đưa ra sơ bộ về lịch sử hình

thành, chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của hệ thống tòa án hành chính ở

các quốc gia này. Bên cạnh đó cuốn sách còn đề cập đến tổ chức và hoạt động của

hệ thống tòa án hành chính và việc giải quyết các khiếu kiện hành chính ở một số

nước và vùng lãnh th ổ lân cận với Việt Nam nh ư Trung Qu ốc, Đài Loan, Hàn

Quốc, Malaysia, Singapore. Cuốn sách cũng đề cập tới sự ảnh hưởng của hệ thống

tòa án hành chính ở các nước phương Tây tới việc hình thành c ơ quan tài phán

hành chính của các nước trong khu vực Đông Nam Á.

- Đinh Văn Minh, Tài phán hành chính so sánh [70]. Cuốn sách làm rõ mô

hình tổ ch ức cơ quan tài phán hành chính c ủa một số nước trên th ế gi ới, quan

điểm của các nước về tài phán hành chính, một số vấn đề tố tụng hành chính, đối

tượng xét xử của tòa án hành chính.

- Phạm Hồng Quang, Hoàn thi ện chế định tài phán hành chính Vi ệt Nam

trong tiến trình hội nhập và phát triển: một vài kinh nghiệm từ hệ thống luật Châu

âu lục địa, Nhật Bản và Trung Quốc [83]. Tác giả nêu rõ hoàn thi ện chế định tài

phán hành chính ở Việt Nam cần xem xét nh ững động lực nội tại và sự tác động

của bên ngoài. Những kinh nghiệm của nước ngoài cần được vận dụng một cách

khéo léo hợp lý. Những kinh nghiệm từ hệ thống luật châu Âu lục địa, Nhật Bản

và Trung Quốc được rút ra từ quá trình nghiên cứu có ảnh hưởng thế nào đối với

việc hoàn thiện chế định tài phán hành chính ở Việt Nam. Các kinh nghiệm trong

việc xây dựng mô hình tòa án, xác định thẩm quyền của tòa án ở Pháp và Đức,

hay việc chuyển đổi mô hình tòa án hành chính tại Nhật Bản, việc xác định thẩm

22

quyền của tòa án tại Trung Qu ốc… Từ những nghiên cứu này tác gi ả đưa ra đề

xuất cho việc định hướng hoàn thiện chế định tài phán hành chính Việt Nam như

việc hoàn thi ện mô hình c ơ quan tài phán hành chính, m ở rộng thẩm quyền của

Tòa hành chính và các chế định có liên quan.

- Nguyễn Văn Tú, Mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một số

nước trên th ế giới và vi ệc vận dụng vào điều kiện Việt Nam [110]. Tác gi ả luận

văn đã tìm hiểu nghiên cứu mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một số

nước điển hình cũng như những vấn đề tồn tại trong cơ chế giải quyết khiếu kiện

hành chính ở nước ta hiện nay. Tác giả dựa trên những phân tích, lý giải của mình

đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu kiện hành

chính ở Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả cũng đề cập tới thẩm quyền và những vấn

đề có liên quan đến nội dung tài phán hành chính.

1.2.2. Các công trình, tài liệu nghiên cứu của nước ngoài

- Adriaan Bedner, Administrative Courts in Indonesia: A Socio-legal Study,

Toà án hành chính ở Indonesia: Một nghiên cứu xã hội - pháp lý [131]. Cuốn sách

này đánh giá hi ệu su ất của hệ th ống tòa án hành chính Indonesia. N ăm 1991,

Indonesia đã thành lập một hệ thống tòa án hành chính cung c ấp kh ả năng cho

người dân chống lại hành vi hành chính trái pháp luật. Cuốn sách đã giải thích lý

do tại sao các tòa án đã được thành lập mặc dù bản chất mang nặng tính độc đoán

của nhà nước của Indonesia, và lý do t ại sao hệ thống đó là ch ịu ảnh hưởng của

pháp luật Hà Lan. Tác giả phân tích các thẩm quyền của các tòa án trong xử lý vụ

án hành chính và các tòa án đã sử dụng thẩm quyền đó như thế nào. Cu ốn sách

còn đưa ra các nội dung nói lên bản chất không công bằng của vụ án hành chính,

bằng cách phân tích các yếu tố bên trong và bên ngoài tổ chức tòa án hành chính

ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động. Các yếu tố này bao gồm thâm hụt ngân sách,

thiếu các cơ hội đào tạo, thao tác ngh ề nghiệp, tham nh ũng, thiếu sự hỗ trợ của

chính phủ, và nhiều vấn đề không hợp pháp khác. Cuối cùng, tác giả cung cấp một

số kiến nghị cho sự thay đổi, nhiều điều trong số đó cũng có thể được sử dụng cho

các nước đang phát triển khác như Việt Nam.

- Lionel Neville Brown, John Bell, French Administrative Law , Lu ật

Hành Chính Pháp [141]. Đây là phiên bản tiếng Anh cung cấp một cái nhìn tổng

23

quan hoàn ch ỉnh và hi ện đại của lu ật hành chính Pháp, cùng v ới Bộ lu ật

Napoleon, Luật hành chính Pháp được coi là thành tích đáng chú ý nhất của khoa

học pháp lý của Pháp. Cuốn sách có mười một phụ lục mở rộng với số liệu thống

kê, mô hình x ử lý, và các hình minh h ọa thông tin v ề các tòa án hành chính

Pháp, thủ tục tố tụng...

- Susan Rose- Ackerman, Peter L. Lindseth, Comparative Administrative

Law - Luật hành chính so sánh [145]. T ập nghiên cứu này là m ột cái nhìn t ổng

quan về lĩnh vực pháp luật hành chính so sánh. Nội dung của các chuyên đề là sự

so sánh pháp luật hành chính của Hoa Kỳ, châu Âu lục địa, và Khối thịnh vượng

chung và được bổ sung thêm bởi những nội dung của luật châu Mỹ La tinh, châu

Phi và châu Á. Phần nổi bật được quan tâm là những mâu thuẫn, xung đột có thể

có giữa thực thi công vụ và trách nhiệm công cộng, về ranh giới thay đổi của hành

chính nhà nước - cả hai sự phân biệt công-tư và các liên kết giữa các cơ quan quản

lý quốc gia và xuyên qu ốc gia nh ư Liên minh châu Âu. Cu ốn sách th ể hi ện sự

quan tâm của các tác giả tới cách các cá nhân và tổ chức trên các hệ thống pháp lý

khác nhau ứng xử với hoạt động, quyền hạn của cơ quan công quyền.

1.3. NHÓM NH ỮNG CÔNG TRÌNH BÀI VI ẾT NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN VI ỆC TH ỰC HI ỆN BẢO ĐẢM QUY ỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA TỔ

CHỨC, CÁ NHÂN TRONG CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

- Thanh tra Nhà n ước, Vi ệc gi ải quy ết khi ếu nại của công dân trong h ệ

thống các cơ quan hành chính Nhà n ước sau khi tòa án hành chính được thành

lập [91]. Đề tài đã nêu lên được quá trình hình thành và hoàn thi ện quyền khiếu

nại của công dân và các ch ế định bảo đảm quyền khiếu nại. Vai trò c ủa các cơ

quan hành chính Nhà nước, các tổ chức thanh tra Nhà nước trong việc giải quyết

các khiếu nại hành chính khi Tòa án nhân dân xét xử các vụ kiện hành chính, thực

trạng tình hình khi ếu nại và gi ải quyết khiếu nại, những tồn tại, nguyên nhân và

giải pháp. Nh ững vấn đề đề tài nghiên cứu có ý ngh ĩa tham kh ảo cho vi ệc hình

thành cơ chế đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia

vụ án hành chính tại tòa án.

- Tòa án nhân dân tối cao, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng

giải quyết khiếu kiện hành chính tại tòa án nhân dân theo tinh th ần cải cách tư

24

pháp [99]. Đề tài đưa ra những vấn đề chủ yếu trong quan điểm của Đảng và Nhà

nước về cải cách hành chính và c ải cách tư pháp trong lĩnh vực giải quyết khiếu

kiện hành chính. Nội dung chủ yếu của đề tài tập trung vào phân tích th ực trạng

năng lực, chất lương, hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án nhân

dân đồng thời đưa ra nguyên nhân và các giải pháp.

- Nguyễn Danh Tú , Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây

dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam [109]. Luận án đưa ra những đóng góp lý

luận về giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tòa án; phân tích, đánh giá thực trạng

các quy định của pháp lu ật và th ực trạng hoạt động giải quyết khiếu kiện hành

chính từ năm 1995, 1996 đến nay. Trên cơ sở đó đề xuất vấn đề cải cách tư pháp;

đề xu ất quan điểm, gi ải pháp nâng cao ch ất lượng gi ải quy ết khi ếu ki ện hành

chính tại Tòa án, đổi mới mô hình t ổ ch ức Tòa hành chính, t ổ ch ức theo th ẩm

quyền xét xử để tiếp tục hoàn thi ện pháp lu ật cũng như nâng cao hi ệu quả hoạt

động giải quyết khiếu kiện hành chính. Ph ạm vi nghiên c ứu của luận án là l ĩnh

vực giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tòa án th ể hiện ở phương diện lý lu ận,

pháp luật và th ực tiễn hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính t ại Tòa án ở

Việt Nam từ năm 1995, 1996 đến nay và đặc biệt trong giai đoạn xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp hiện nay. Luận án đưa ra

những kiến giải tương đối toàn diện trên phương diện lý luận về khiếu kiện hành

chính và giải quyết khiếu kiện hành chính đặt trong bối cảnh xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, luận án đã góp phần đặt cơ sở lý

luận cho việc nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu vấn đề giải quyết khiếu kiện hành

chính trong các lĩnh vực cụ thể. Các giải pháp mà luận án đưa ra có ý nghĩa quan

trọng, góp phần nâng cao ch ất lượng giải quyết các vụ án hành chính trong th ực

tiễn. Về mặt thực tiễn: qua phân tích th ực trạng pháp lu ật, thực trạng giải quyết

các vụ án hành chính, luận án cho thấy tính cấp thiết phải đổi mới, nâng cao hiệu

quả giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay. Đồng thời khẳng định,

giải quyết khiếu kiện hành chính bằng con đường Tòa hành chính là phù hợp với

yêu cầu của Nhà nước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đóng góp vào vi ệc

hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu kiện hành chính, nâng cao chất lượng của

công tác xét xử các tranh chấp hành chính tại Tòa án ở nước ta.

25

- Nguyễn Văn Động, Về mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở Việt Nam

[40]. Tác giả bài viết nêu bật bản chất về mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở

Việt Nam là sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Qua việc phân tích mối quan hệ

nhà nước - công dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa bài viết chỉ ra sự thể hiện của

mối quan hệ này dựa trên hai mặt: thái độ của nhà nước với công dân và thái độ của

công dân đối với nhà nước. Nhà nước vừa là tổ chức công quyền vừa là công cụ

hợp pháp của công dân. Công dân vừa là chủ thể của quyền lực nhà nước vừa là đối

tượng tác động của quyền lực này. Nhà nước và công dân đều có quyền và nghĩa vụ

đối với nhau. Sự bình đẳng giữa các quyền đó là tất yếu và dẫn đến yêu cầu phải

hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân.

- Nguyễn Thế Quyền, Một số vấn đề về hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu

kiện của công dân [85]. Việc giải tốt khiếu kiện của công dân đối với các quy ết

định hay hành vi hành chính là đảm bảo quyền của cá nhân và tổ chức đồng thời là

cơ chế hữu hiệu để cơ quan nhà n ước phát hi ện ra nh ững lỗi sai của mình. Một

trong những cơ chế giải quyết khiếu kiện là cơ chế tài phán của tòa án nhân dân.

Từ những nhận định của mình tác giả đề xuất xây dựng mô hình toàn hành chính

có sự độc lập cao, không quá lệ thuộc vào cơ quan hành chính.

- Hoàng Văn Sao, Cần làm rõ khái niệm khiếu nại, khiếu kiện để giải quyết

các quyền ấy của cá nhân cho đúng [86]. Tác gi ả phân tích, gi ải thích các khái

niệm khiếu nại, khiếu kiện dưới góc độ lịch sử, tự nhiên và pháp lý, từ đó làm cơ

sở để đưa ra nhận định về vai trò của khiếu kiện, khiếu nại hành chính đối với việc

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

- Nguyễn Hoàng Anh, Hoạt động xét xử hành chính ở nước ta [3]. Bài viết

nhận định sự yếu kém còn tồn tại trong việc xét xử các vụ án hành chính tại Việt

Nam từ năm 1996 đến 2006. Tác giả phân tích những hạn chế trong quy định của

pháp luật dẫn tới việc hạn chế quyền của người đi kiện và sự độc lập chưa cao của

thẩm phán trước cơ quan hành chính.

- Trương Thanh Đức, Luật tốt, dân không ngại đến tòa [42]. Trong bài viết

này tác gi ả dưới góc nhìn c ủa một luật sư đã đề cập đến vấn đề giải quyết mâu

thuẫn trong quan hệ hành chính bằng Tòa án là m ột cơ chế văn minh. Vấn đề là

làm sao để công dân sẵn sàng đưa tranh chấp ra tòa và tin vào c ơ chế xét xử của

26

Tòa án. Để làm được điều đó theo tác giả cẩn mở rộng thẩm quyền của tòa án đối

với các vụ việc tranh chấp liên quan đến quyết định hành chính. Tuy nhiên vi ệc

mở rộng này phải được thực hiện khoa học để bản thân Tòa án không bị lúng túng

khi thụ lý vụ án và ng ười dân th ấu hiểu được vấn đề. Đối với việc thụ lý vụ án

hành chính cũng cần thay đổi một số vấn đề về thủ tục. Về thời hiệu khởi kiện

cũng nên có quy định hợp lý để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Điểm mấu chốt tác giả nhấn mạnh là trong vụ án hành chính người dân là bên yếu

thế và bất bình đẳng trong quan hệ nhà nước và công dân do v ậy cần dành thêm

lợi thế trong các trình tự thủ tục cho công dân.

Ngoài ra, còn một số bài viết, công trình nghiên cứu khác cũng đã ít nhiều

đánh giá th ực tr ạng về tổ ch ức, th ực hi ện quy ền tài phán hành chính và d ưới

những góc độ khác nhau có đề cập đến vấn đề giải quyết án hành chính tại Tòa án

nhân dân ở nước ta.

Từ các công trình, tài li ệu trên cho th ấy tình hình nghiên c ứu các vấn đề

liên quan đến hoạt động xét xử hành chính c ủa Tòa án, liên quan đến bảo đảm

quyền lợi, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ. thông qua xét xử hành chính của Tòa

án… đã và đang là một lĩnh vực quan tâm ngày càng ca và b ức thiết của Nhà

nước, của nhân dân nhất là các nhà khoa học, chuyên gia pháp lý.

Một số công trình quan tr ọng đã hệ thống một cách cơ bản và chuyên sâu

về mặt lý luận về tài phán hành chính như: Thiết lập tài phán hành chính ở nước

ta [58], Tài phán hành chính ở Việt Nam của Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu

[87]… Bước đầu góp ph ần đặt nền móng cho vi ệc nghiên cứu và so ạn thảo các

văn bản Pháp luật trong lĩnh vực này.

Một số công trình tài liệu lại tập trung nghiên cứu chuyên sâu về một số nội

dung, một chế định cụ thể như các ấn phẩm của Nguyễn Thanh Bình chỉ tập trung

vào chế định thẩm quyền xét xử hành chính.

Một số công trình khác lại trình bày những vấn đề thực hiện về tài phán hành

chính hoặc kinh nghiệm hay so sánh nhằm rút ra bài học vận dụng, áp dụng…

Tuy nhiên, các bài viết và các công trình nói trên chỉ mới đề cập đến từng vấn

đề, từng khía cạnh hoặc tập trung giải quyết một số vấn đề riêng lẻ có tính bức xúc

mà chưa có một công trình nghiên cứu riêng nào nghiên cứu một cách có hệ thống về

27

vấn đề làm thế nào để hoàn thiện các chế định pháp luật tố tụng hành chính đảm bảo,

bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức bằng con đường Tòa án. Do đó, vấn đề

nghiên cứu các chế định về đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

bằng con đường xét xử hành chính tại Tòa án nhân dân vẫn còn là một vấn đề mới

mẻ và cấp thiết trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở quy mô toàn diện.

Trong lúc đó yêu cầu bảo đảm quy ền lợi, lợi ích hợp pháp của cá nhân

thông qua xét xử hành chính của Tòa án đặt ra là rất cấp thiết. Vì nếu vấn đề này

được nghiện cứu và xác định đầy đủ về giải quyết hành chính nh ững khó kh ăn

vướng mắc thường gặp phải trong các giai đoạn của quá trình tố tụng Hành chính.

Tiểu kết chương 1

Trên cơ sở nghiên cứu một số công trình khoa học về tổ chức bộ máy nhà

nước, mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và hệ thống tòa án hành chính, luận

án đã có cơ sở khoa học và thực tiễn cho các luận điểm đối với đề tài của nghiên

cứu sinh. Các công trình trên được chia thành ba nhóm chính: Nhóm một, các công

trình nghiên cứu mang tính lý luận định hướng về tổ chức bộ máy nhà nước và mối

quan hệ giữa nhà nước với công dân; Nhóm hai, những công trình bài viết nghiên

cứu có liên quan đến tố tụng hành chính; Nhóm ba, nh ững công trình bài vi ết

nghiên cứu liên quan đến việc thực hiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân trong các vụ án hành chính. Nội dung các công trình nghiên cứu đó,

trực tiếp hoặc gián tiếp đều có liên quan đến quá trình hình thành hệ thống tài phán

hành chính Việt Nam nói chung và việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân trong xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án nói riêng.

Xuất phát từ việc xác định được đối tượng, phạm vi, nội dung của các công

trình này đề cập tới, luận án nhận biết được khái quát tình hình nghiên cứu có liên

quan đến đề tài cả về lý lu ận và th ực tiễn, những vấn đề đã xem xét nh ưng phải

tiếp tục mở rộng nghiên cứu, những vấn đề các quan điểm còn khác nhau, những

vấn đề chưa được nghiên cứu để từ đó xác định được nội dung cần nghiên cứu cho

nội dung của luận án.

Như vậy, chưa có công trình nào nghiên c ứu một cách chuyên sâu, có h ệ

thống ở cấp độ luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước pháp luật.

28

Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP

CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

2.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức trong xét xử các vụ án hành chính

Việc nghiên cứu và đưa ra khái ni ệm khoa học và đúng đắn về bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính có vai trò

quan trọng trong việc xác định hình thức và nội dung của việc bảo đảm quyền, lợi

ích hợp pháp của công dân, tổ chức thông qua xét xử hành chính. Đồng thời là cơ

sở để xác định ranh giới giữa biện pháp bảo đảm trong xét xử hành chính với các

loại bảo đảm pháp lý khác.

Với ý nghĩa như vậy, xét về tổng thể khái niệm biện pháp bảo đảm này bao

hàm những vấn đề sau:

Thứ nh ất, về cơ sở lý lu ận của khái ni ệm: Khái ni ệm này ph ải được xác

định trên cơ sở tập hợp những tri th ức có giá tr ị được thừa nhận chung và ph ải

được đánh giá, lựa chọn, hệ thống có phân tích, phê phán từ các quan niệm, quan

điểm kết luận có ý nghĩa lý luận, thực tiễn cho việc xác định hình thức và nội hàm

của khái niệm.

Thứ hai, về cơ sở thực tiễn: Khái niệm này được xác định như là tấm gương

phản ánh th ực ti ễn thông qua so sánh, đối chi ếu tình hình ho ạt động bảo đảm

quyền lợi ích trong xét xử hành chính của Tòa án qua từng thời kỳ khác nhau cũng

như của các nước trên thế giới và ở Việt Nam.

Thứ ba, về mặt nội dung: Khái ni ệm phải làm rõ đặc điểm của biện pháp

bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp thông qua xét xử hành chính tại Tòa án.

Các đặc điểm này vừa phản ánh được các dấu hiệu chung của các biện pháp

bảo đảm pháp lý v ừa có đặc trưng riêng để tạo sự khác bi ệt giữa biện pháp bảo

đảm này với các biện pháp bảo đảm pháp lý nói chung.

29

Thứ tư, vi ệc xây d ựng khái ni ệm trên ph ải bảo đảm khái quát được các

nhóm (loại) các biện pháp cụ thể qua đó có điều kiện để làm sáng tỏ thực tiễn quá

trình tổ chức xét xử hành chính với từng giai đoạn, thủ tục (các khâu) khác nhau

có ý ngh ĩa làm căn cứ để đánh giá xem tác động của các bi ện pháp có hi ệu quả

hay không và đầy đủ hay chưa.

Thứ năm, khái niệm các biện pháp bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp thông

qua xét xử hành chính, vừa phản ánh tri thức chung, vừa đảm bảo yếu tố phù hợp

với quan niệm và thực tiễn tố tụng hành chính và giải quyết các vụ án hành chính

tại Việt Nam.

Một khái niệm chứa đựng đầy đủ các nội dung sẽ có ý nghĩa phương pháp

luận quan trọng cho việc nghiên cứu và thực hiện đề tài luận án.

2.1.1.1. Khái niệm bảo đảm

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường hay nói đến bảo đảm để hàm ý

một việc gì đó có tính chắc chắn do tự bản thân chúng ta hay người khác thực hiện.

Trong ti ếng Trung: “B ảo” có ngh ĩa là gi ữ gìn, ch ăm sóc hay ph ụ trách,

trông nom. Bảo còn là chế độ chòm xóm, liên gia đình hay tên gọi một chức quan

thời xưa (thái bảo). Từ “Đảm” mang nghĩa gánh vác một gánh nặng, hay thực hiện

nhiệm vụ, hoặc nói về thái độ điềm nhiên, điềm tĩnh; hoặc thể hiện là đồ vật dùng

để chuộc tội, cống tặng. Tiếng Trung khi vi ết chữ đảm bảo dùng hai ch ữ 担 保

[dān bǎo]. Các chữ khác cũng đọc bảo hay đảm nhưng mang các nghĩa khác. Theo

đó, bảo đảm nghĩa là “chăm sóc, giữ gìn nhiệm vụ”. Nghĩa rộng hơn là “đoán chắc

về điều gì đó”. Hiểu theo cách thông thường thì đảm bảo là “gánh vác hoặc nhiệm

vụ giữ gìn, chăm sóc”.

Trong tiếng Anh từ “Ensure” có nghĩa là để chắc chắn hay có các biện pháp

để đạt được các mục đích của sự cam kết, hoặc mang ý ngh ĩa làm cho an toàn

không bị hại.

Trong Từ điển tiếng Việt, thì “bảo đảm” nghĩa là tạo điều kiện để chắc chắn

giữ gìn được, hoặc thực hiện được, hoặc có được những gì cần thiết để thực hiện

một việc nào đó; bảo đảm còn có nghĩa cam đoan chịu trách nhiệm làm một việc

gì đó [127].

30

Như vậy “bảo đảm” có nghĩa là làm cho một việc, một vấn đề có khả năng

thực thi trong th ực tế bằng những biện pháp khác nhau do m ột chủ thể xác định

thực hiện.

2.1.1.2. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

cá nhân, tổ chức

Quyền và l ợi ích h ợp pháp c ủa cá nhân, t ổ ch ức xu ất phát t ừ nền tảng

quyền con người, quyền công dân. Để tìm hiểu sâu sắc và đưa ra những khái niệm

liên quan đến việc nội dung của luận án chúng ta cần tìm hiểu các vấn đề khái quát

về quyền con người, quyền công dân và sự bảo đảm thực hiện những quyền đó.

Quyền con ng ười là giá tr ị nhân văn cao quý, là tài s ản chung vô giá c ủa

nhân loại và mỗi quốc gia. Bảo đảm quyền con người, bảo vệ quyền, lợi ích của

công dân là một nguyên tắc cơ bản và tối cao của nhà nước pháp quyền và là một

trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong xã hội loài người hiện đại. Vấn đề

này hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm. Sự bảo đảm của một nền dân

chủ, hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân được th ể hiện qua vi ệc quy ền con ng ười được bảo đảm. Dân ch ủ, sự

thoả mãn và b ảo đảm quyền tự do cá nhân c ủa mỗi công dân là th ước đo ch ất

lượng cuộc sống, trình độ văn minh của các qu ốc gia. Vì v ậy việc bảo đảm các

quyền con ng ười được coi là m ột trong các chu ẩn mực đánh giá trình độ gi ải

phóng con người, sự phát triển xã hội ở mỗi quốc gia. Song để bảo vệ quyền, lợi

ích đó khỏi bị xâm phạm từ phía nhà nước, phía hành pháp thì rõ ràng cần phải có

thiết chế, cơ chế đặc biệt.

“Quyền” là: “điều mà pháp lu ật hoặc xã hội công nh ận cho được hưởng,

được làm, được đòi hỏi” [127, tr.215]. Chúng ta có thể hiểu quyền là những gì mà

pháp luật hoặc xã hội công nh ận cho con ng ười được hưởng. Bản chất của con

người là một thực thể tự nhiên - xã h ội, vì th ế quyền con ng ười cũng vừa mang

tính tự nhiên, vừa mang tính xã h ội. Đồng th ời quy ền của một con ng ười vừa

mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù.

Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở việc quyền con người được

áp dụng ph ổ bi ến về không gian, không h ạn ch ế đối tượng. Tính đặc thù c ủa

31

quyền con người thể hiện ở những đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện của mỗi

quốc gia, mỗi lãnh th ổ có trình độ phát triển khác nhau. Quy ền con ng ười mang

tính xã hội, vừa mang tính giai c ấp sâu sắc, vừa là một giá tr ị của nhân lo ại và

thống nhất với quyền dân tộc cơ bản..

Hành trình phát tri ển của nhân lo ại cũng chính là hành trình đấu tranh để

giải phóng loài ng ười khỏi nô lệ, áp bức, chế ngự thiên nhiên, vươn tới tự do và

hạnh phúc. Trong cu ộc đấu tranh lâu dài đó, mỗi thắng lợi, mỗi bước đi lên của

loài người là một bước tiến khẳng định những giá trị thiêng liêng về công bằng, về

tự do, v ề hạnh phúc, về nh ững quyền của con ng ười, cho con ng ười và vì con

người. Con ng ười là giá tr ị cao quý nh ất, là giá tr ị của mọi cuộc cách mạng và

những tư tưởng tiến bộ của loài người. Bảo vệ quyền con người là sứ mạng cao cả

của các quốc gia tiến bộ. Bởi đó là "những quyền tự nhiên không thể bị tước đoạt

và thiêng liêng của con ng ười" [54, tr.13]. Do v ậy, "sự không hi ểu biết, sự lãng

quên hay sự coi thường quyền của con người là những nguyên nhân duy nhất của

nỗi bất hạnh chung, của tệ hủ bại của các Chính phủ" [54, tr.13].

Các tư tưởng về quyền con người càng ngày càng được hoàn thiện và long

trọng ghi nh ận trong các b ản tuyên ngôn, trong các b ản Hi ến pháp c ủa các t ổ

chức quốc tế, các quốc gia trên thế giới như: Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng

quốc Hoa k ỳ (1776); Tuyên ngôn nhân quy ền và dân quy ền của Pháp (1789);

Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân ch ủ cộng hòa (1945); Tuyên ngôn

thế gi ới về nhân quy ền (1948); Tuyên ngôn v ề nhân quy ền Teheran (1968);

Công ước quốc tế về các quy ền dân sự và chính tr ị, kinh tế, xã hội và văn hóa

ngày 16-12-1966.

Kế thừa và phát triển các giá trị tư tưởng của loài người về tự do, về nhân

quyền, về vai trò tích cực của nhà nước, của Tòa án, của pháp luật trong việc bảo

vệ, bảo đảm quyền con ng ười, quyền tự do của công dân, các nhà kinh điển của

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã xác định vị trí trung tâm c ủa con ng ười, coi con ng ười

vừa là mục đích vừa là trung tâm của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sứ mệnh

vinh quang và cao c ả của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là nhà n ước của con

người, cho con người và vì con người, tự do của mỗi người là tự do của xã hội.

32

Mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân công dân, và các tổ chức khác trong

xã hội là mối quan hệ pháp lý có sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa hai bên chủ

thể. Một bên là Nhà nước (bao gồm các cơ quan Nhà nước, và các ch ủ thể được

Nhà nước trao quyền) và bên kia là cá nhân công dân, hay các t ổ chức. Việc bảo

đảm đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo được quyền con

người phụ thuộc vào nhi ều yếu tố như: pháp lu ật, kinh tế, chính tr ị, văn hoá, tư

tưởng… trong đó bảo đảm về mặt pháp luật là vấn đề rất quan trọng.

Ở Việt Nam vấn đề quyền con ng ười luôn được Đảng, Nhà nước và nhân

dân quan tâm, bảo vệ. Để thực sự có được quyền con người thì trước hết đất nước

phải được độc lập, không bị tác động, chi ph ối của bất kỳ thế lực nào, qu ốc gia

nào. Chính vì điều này mà Đảng ta, Nhà nước ta và nhân dân ta đã quyết tâm hy

sinh tất cả những gì mình có, kể cả xương máu và tính mạng để đánh đuổi các thế

lực thù địch và giặc ngoại xâm để giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thực hiện xây

dựng một ch ế độ mới tươi đẹp, ti ến bộ, công bằng và tôn tr ọng ph ẩm giá con

người. Từ khi nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do thì quyền con người

càng được quan tâm và b ảo đảm. Bằng nhiều văn bản pháp lu ật khác nhau nh ư

Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính…

Nhà nước đã chính thức ghi nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân,

coi đó như những chế định quan trọng và là mục tiêu hướng tới của việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Các cơ quan nhà nước khác do Qu ốc hội, Hội đồng nhân dân lập ra không

phải là những bộ phận độc lập của quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, để bảo đảm cho

các cơ quan này đủ điều kiện chủ động và tránh được tình trạng lẫn lộn chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, hiến pháp đã quy định cho các cơ quan này thực hiện chức

năng hành pháp, tư pháp. Chúng được phân công rành m ạch để tổ chức thực thi

quyền lực nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Nội

dung, chức năng, nhiệm vụ đó được thể hiện, được ghi nhận trong Hiến pháp, trong

các luật và các văn bản pháp luật khác.

Trong quá trình hoạt động của mình hay nói cách khác là trong quá trình tổ

chức thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan nhà nước phải tuân thủ nguyên

33

tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước và trong khuôn khổ của chế độ tập quyền nhà

nước xã hội chủ nghĩa.

Mục đích tối cao của mọi hoạt động của nhà nước là tất cả vì nhân dân mà

phục vụ. Để kiểm tra, kiểm soát các cơ quan nhà nước trong việc tôn tr ọng pháp

luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và để tránh lạm quyền, tình trạng

"lấn sân" giữa các cơ quan nhà nước, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều thiết

lập một bộ máy nhà nước trong đó có sự phân công cụ thể, theo quy định của pháp

luật. Đặc biệt là việc thiết lập các cơ chế kiểm tra, kiểm soát luôn luôn được đề cao

trong đó có các bi ện pháp cụ thể như khiếu nại, tố cáo và gi ải quyết khiếu nại, tố

cáo; hoạt động thanh tra của thanh tra nhà nước, hoạt động xét xử của Tòa án…

Trong bộ máy nhà n ước xã hội chủ nghĩa, hệ thống cơ quan Tòa án th ực

hiện ch ức năng xét xử, hay nói cách khác, xét x ử là ch ức năng cơ bản của hệ

thống Tòa án. Theo Lênin, Tòa án là cơ quan quyền lực, hoạt động của Tòa án là

hoạt động của nhà nước. Tòa án sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện chức

năng cơ bản của mình là chức năng xét xử [119].

Cũng như các chế độ chính trị khác, chế độ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ

quá độ cũng có nhiều biểu hiện vi phạm pháp luật, cũng có nhiều tranh chấp pháp

lý đòi hỏi phải có sự xét xử của Tòa án k ể cả những vi ph ạm pháp lu ật, những

mâu thuẫn, những tranh chấp pháp lý do các cơ quan hành pháp gây nên. Trong hệ

thống bộ máy nhà n ước, các cơ quan hành chính nhà n ước có một hệ thống sâu

rộng và đồ sộ. Hoạt động của hệ thống này thường xuyên, trực tiếp tác động lên

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, động chạm đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ của mọi

người dân - do vậy, khó có thể tránh được những "va chạm", những thiếu sót gây

tác hại đến quy ền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ ch ức gây nên nh ững tranh

chấp, những mâu thuẫn. Do đó, cần phải có sự xem xét khắc phục những vi phạm

đó. Cơ chế giải quyết bảo đảm khách quan các tranh chấp pháp lý nói chung, các

tranh chấp phát sinh giữa chính quyền với công dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa

cũng cần phải thông qua hoạt động tố tụng, hoạt động xét xử của Tòa án. Do vậy,

tất yếu dẫn tới sự xác lập thẩm quyền xét xử các khi ếu kiện hành chính cho h ệ

thống Tòa án. Nhu cầu này càng được đặt ra có tính cấp bách khi đòi hỏi phải có

34

sự phân công rành m ạch trong vi ệc th ực thi ba quy ền: lập pháp, hành pháp, t ư

pháp của quyền lực nhà nước tập trung và thống nhất.

Các luận điểm bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác-Lênin là phương hướng, là kim

chỉ nam cho việc xây dựng bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và hoàn

thiện hệ thống và ph ương thức hoạt động của ngành Tòa án nói riêng; trong đó

vấn đề xây dựng Tòa án nh ư là một trong nh ững phương thức hữu hiện để bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức.

Trên thế giới, phần lớn các nước đều giao chức năng này cho Tòa án hành

chính. Tổ chức Tòa án hành chính là một bộ phận (tổ chức nhỏ) chuyên biệt trong

hệ thống tư pháp chung (nh ất hệ tài phán) ho ặc do hệ thống Tòa án độc lập với

Tòa án thường, độc lập với hành pháp và lập pháp đảm nhiệm (lưỡng hệ tài phán).

Như vậy, ch ức năng tài phán hành chính, th ực hi ện th ẩm quy ền xét x ử

khiếu kiện hành chính của Tòa án, là m ột trong nh ững biện pháp bảo đảm quan

trọng nhất cho việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn giữa nhà nước với công

dân. Đó là phương pháp tối ưu và tích cực nhằm ngăn chặn các biểu hiện vi phạm

pháp luật gây xâm hại đến quyền con người, quyền, lợi ích, tự do của công dân từ

phía các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hành pháp. Tuy nhiên trên thực

tế tình hình mỗi quốc gia, quá trình hình thành hệ thống Tòa án hành chính là một

con đường với nhiều trở ngại phải vượt qua.

Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà

nước ta từ trước tới nay, nhất là trong th ời kỳ đổi mới, luôn coi tr ọng vấn đề con

người. Tư tưởng đó được thể chế hóa tại Điều 50 Hi ến pháp năm 1992: "Ở nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh

tế, văn hóa xã h ội được tôn tr ọng, thể hiện ở các quy ền công dân…" [60]. Hi ến

pháp 2013 cũng đã giành chương II ghi nhận “Quyền con người, nghĩa vụ cơ bản

của công dân”, trong đó phân biệt quyền con người, quyền công dân, nội dung về

quyền con người, quyền công dân càng được làm rõ, hàng lo ạt những quyền mới

của con người đã được ghi nhận. Đặc biệt Hiến pháp khẳng định “Ở nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân

sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm”.

35

Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng, Nhà nước ta

luôn luôn quan tâm và có bi ện pháp ghi nh ận và bảo vệ quyền con ng ười, có cơ

chế thực hiện và đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Với mục tiêu

xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực thuộc về

nhân dân, thông qua đó mà nhân dân th ực hiện quy ền làm ch ủ của mình, Nhà

nước ta thường xuyên được đổi mới và hoàn thiện, ngày càng xứng đáng là công

cụ hữu hiệu nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, th ực hiện dân

chủ hóa xã hội chủ nghĩa. Một trong những quyền của công dân được ghi nhận tại

điều 74 Hi ến pháp 2013 là “Công dân có quy ền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ

quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp lu ật của cơ quan nhà

nước… Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết

trong thời hạn pháp luật quy định…” [60]. Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định “mọi

người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức cá nhân, có thẩm quyền về

những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

Xem xét, gi ải quyết các khi ếu nại, tố cáo của công dân là nh ằm bảo đảm

các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cũng là bảo đảm thực hiện quyền con

người ở nước ta.

Với ý nghĩa như vậy, nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến việc tạo điều

kiện thuận lợi cho mọi công dân th ể hiện những ý ki ến, nguyện vọng và đưa ra

những kiến nghị đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, khiếu nại và tố cáo

các hành vi vi ph ạm pháp lu ật trong cơ quan nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các văn bản

pháp luật về khi ếu nại, tố cáo được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thi ện;

trách nhiệm của các cấp các ngành trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công

dân được đề cao, góp ph ần quan tr ọng trong việc giải quyết các tranh ch ấp giữa

công dân và các cơ quan nhà nước, thiết thực bảo vệ quyền lợi của công dân.

Tuy nhiên, cho đến trước tháng 7 năm 1996, vi ệc giải quyết các khi ếu nại

hành chính là thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước. Mặc dù các cơ

quan này đã có nhiều cố gắng nhưng cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính theo

kiểu "vừa đá bóng - vừa thổi còi" không thể tránh khỏi những hạn chế vốn có của nó.

36

Hoạt động giải quyết khiếu nại như vậy gần với giải quyết khiếu kiện hành

chính nhưng theo thủ tục hành chính lại không do một cơ quan độc lập đảm nhận.

Qua nhiều năm thực hiện cơ chế này cho thấy việc giải quyết các khiếu kiện hành

chính còn kém hi ệu quả, hiệu lực thấp và ch ưa thực sự dân ch ủ. Thực chất giải

quyết khiếu nại hành chính là giải quyết một loại tranh chấp, trong đó đối tượng bị

kiện luôn là c ơ quan nhà n ước hoặc cán bộ, công ch ức trong quá trình th ực thi

công vụ. Cơ quan hành chính ho ặc cán bộ, công chức bị kiện lại được giao thẩm

quyền gi ải quy ết tranh ch ấp (th ực hiện quyền tài phán), nh ư vậy cơ quan hành

chính nhà nước vừa là ng ười bị kiện vừa là ng ười xử kiện. Trong qu ản lý hành

chính nhà nước, công dân là đối tượng bị quản lý, vốn là một bên trong quan hệ có

tính chất bất bình đẳng với cơ quan hành chính nhà n ước (quan hệ quyền lực -

phục tùng) nên khi x ẩy ra tranh ch ấp lại càng tr ở lên yếu thế hơn và ch ỉ có th ể

trông chờ vào thiện ý của cơ quan hành chính nhà n ước, khiếu nại của công dân

chỉ có tính ch ất "kêu nài". Trong điều kiện như vậy cơ quan hành chính có th ẩm

quyền dễ rơi vào tình trạng thiếu vô tư, khách quan, dễ vi phạm pháp luật, dễ lạm

dụng quyền nên khó bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một trong những

nhiệm vụ to lớn có ý ngh ĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển

của đất nước và tiến bộ xã hội; xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh". Tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân đòi hỏi có một loạt các biện pháp đồng bộ mà trọng tâm là hoạt động của bộ

máy nhà nước, trong đó có các cơ quan giải quyết khiếu nại của công dân.

Nghị quy ết Hội ngh ị lần th ứ VIII Ban Ch ấp hành Trung ương Đảng về

"tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính…" [26] đã chỉ rõ cần thiết phải

xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà trong sạch có hiệu lực, hiệu quả, xây dựng Nhà

nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ

của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội. Để đạt được những mục tiêu trên, một

trong những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là đổi mới phương thức giải quyết các

khiếu kiện của công dân t ừ ch ỗ do các c ơ quan hành chính đảm nhiệm chuyển

37

sang các cơ quan tài phán độc lập, hoạt động theo một trình tự thủ tục tố tụng chặt

chẽ, bảo đảm gi ải quy ết nhanh chóng có hi ệu qu ả, hi ệu lực các v ụ ki ện hành

chính. Nghị quyết chỉ rõ "Đẩy mạnh giải quyết các khiếu kiện của dân… Xúc tiến

việc thiết lập hệ thống Tòa án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với

các quyết định hành chính…" [26].

Như vậy, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra các tiền

đề, điều kiện để cá nhân, con người thực hiện được các quyền của họ đã được ghi

nhận. Các bảo đảm đó trước hết là bảo đảm pháp lý, kinh tế, xã hội và tổ chức.

2.1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

trong xét xử các vụ án hành chính

Khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử

các vụ án hành chính tại Tòa án là một phạm trù khoa học pháp lý có vai trò vô cùng

quan trọng, có ý nghĩa là cơ sở lý luận cho việc xem xét nghiên cứu các vấn đề, các

nội dung liên quan đến xét xử hành chính, đối tượng xét xử hành chính tại Tòa án.

Thứ nhất, vấn đề liên quan tr ực tiếp đến nội hàm của bảo đảm quyền, lợi

ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính của Tòa án chính là

yếu tố bảo đảm. Theo từ điển phổ thông thì bảo đảm gồm bảo lĩnh và đảm nhận.

Nội dung bảo lĩnh và trong tr ường hợp này được hiểu là ch ức trách, nhi ệm vụ,

trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức của Tòa án. Chức

năng, nhiệm vụ của Tòa án được giới hạn trong phạm vi thẩm quyền hoạt động do

pháp luật quy định.

Như trên đã phân tích, sứ mệnh cao cả của Nhà nước nói chung và Tòa án -

một thiết chế quan trọng của Nhà nước nói riêng là bảo vệ công lý, bảo vệ giá trị

cao quý và thiêng liêng nh ất của xã hội, của loài ng ười chính là con ng ười, là

quyền con người, là nhân quyền.

Quyền con người, nhân quyền là gốc, là cơ sở của quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức. Do vậy, yếu tố trách nhiệm, chức năng, nhiệm vụ xét xử hành

chính của Tòa án chính là nét căn bản nhất của sự bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức trong xét xử của Tòa án. Yếu tố cơ bản này được hình thành

bởi sự ủy thác của xã hội, được Nhà nước giao quyền và đảm trách, sự nhận lĩnh

38

nghĩa vụ cao quý này của chính cơ quan tư pháp, của chính Tòa án là một nội dung

căn bản của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Với cách hi ểu như vậy, chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ, trách nhi ệm của

Tòa án trong xét xử hành chính, trong xem xét đánh giá quyền hành pháp khi quan

hệ với cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án hành chính của Tòa án được thực

hiện thông qua phạm vi thẩm quyền, thông qua hàng loạt các hoạt động khác nhau

mà chủ yếu là hoạt động tố tụng.

Như vậy, yếu tố bảo đảm, thông qua chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của

Tòa án trong xét xử, đánh giá quyền hành pháp khi quan hệ với cá nhân, tổ chức

chính là một nội dung cơ bản của khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án hành chính của Tòa án.

Yếu tố bảo đảm, thông qua ch ức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của Tòa án

luôn có mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố nội tại khác nh ư phương pháp, cách

thức tổ chức của Tòa án, giới hạn thẩm quyền và cách thức hoạt động của Tòa án.

Cũng chính vì vậy mà có quan niệm cho rằng, sự bảo đảm của Tòa án là sứ mệnh,

là nghĩa vụ, nhiệm vụ của Tòa án hoặc có quan niệm nữa lại cho rằng sự bảo đảm

của Tòa án chính là danh dự, là sự nhân danh công lý, nhân danh nhà nước để xem

xét và phán quy ết về tính h ợp pháp (hay b ất hợp pháp) của các hành vi công

quyền trong xét xử vụ án hành chính hành chính tại Tòa án.

Thứ hai, một nội dung khác của khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án hành chính t ại Tòa án là ho ạt động

xem xét tính h ợp pháp của các ho ạt động công quy ền (quy ết định hành chính,

hành vi hành chính…) b ị khởi kiện. Với nội dung này, để bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Tòa án phải tiến hành các hoạt động tố tụng khác

nhau để tìm ra các căn cứ, cơ sở, tìm ra chuẩn mực chân lý…để đánh giá tính trái

hay không trái pháp lu ật của hành vi công quy ền, đưa ra phán quy ết công nh ận

hay hủy (đình chỉ) hành vi công quy ền, qua đó mà bảo vệ công lý, b ảo vệ pháp

luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Hoạt động theo luật tố tụng của Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính của Tòa án, như vậy rõ ràng là một

nội dung, một yếu tố cốt lõi của bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức.

39

Hoạt động của Tòa án có nhiều loại khác nhau như công tác tổ chức nội bộ,

công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, công tác quản lý ngành, hoạt động kiểm

tra, thanh tra… nh ưng chỉ có lo ại hoạt động tố tụng thuộc chức năng xét xử của

Tòa án mới được coi là ph ương th ức bảo đảm quy ền, lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức. Cho nên, gắn với chức năng xét xử (yếu tố cơ bản của sự bảo đảm)

các hoạt động tố tụng của Tòa án được xem là yếu tố nội tại, cần thiết tham gia

cấu thành khái ni ệm của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ

chức trong xét xử hành chính tại Tòa án.

Thứ ba, một nội dung cơ bản trong quan hệ bên ngoài của yếu tố chức năng,

trách nhiệm, hoạt động của sự bảo đảm chính là mục đích của chính các yếu tố đó.

Mục đích xét xử hành chính của Tòa án là bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của tập

thể; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực hành pháp.

Để hướng tới mục đích này, thông qua ch ức năng xét xử, thông qua các

hoạt động tố tụng, Tòa án có trách nhi ệm xem xét và phán quy ết tính hợp pháp

của các hành vi công quyền (quyết định hành chính, hành vi hành chính).

Như vậy, chỉ tính riêng yếu tố mục đích của sự bảo đảm cũng đã liên quan

đến nhiều vấn đề, nhiều nội dung cụ thể và đều liên quan việc xác định khái niệm

của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành

chính của Tòa án.

Từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa sau:

“Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong hoạt động

xét xử hành chính của Tòa án là việc Tòa án trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ

và quyền hạn của mình tiến hành xem xét và phán quy ết tính hợp pháp (hay bất

hợp pháp) đối với các hành vi công quy ền (quyết định hành chính, hành vi hành

chính được ban hành, th ực hiện trong quá trình qu ản lý hành chính nhà n ước)

theo quy định của pháp luật tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức”.

2.1.2. Đặc điểm của bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức trong xét xử vụ án hành chính của tòa án

Đặc điểm của sự bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ ch ức

trong xét xử hành chính của Tòa án vừa có nh ững dấu hiệu chung của việc đảm

40

bảo quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức thông qua xét xử các vụ án Dân sự, Hình

sự, Kinh tế, Lao động… lại vừa có dấu hiệu riêng mang tính đặc thù.

Việc xác định đặc điểm của bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,

tổ chức trong xét xử vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng

mô hình, thiết chế xét xử hành chính cũng như xác định tính chất, nội dung, hình

thức hoạt động xét xử vụ án hành chính.

Trước hết, bảo đảm quyền, lợi ích h ợp pháp c ủa cá nhân, t ổ chức trong

xét xử hành chính t ại Tòa án là trên c ơ sở thẩm quyền xét x ử hành chính, Tòa

án có quy ền giải quyết khiếu kiện của cá nhân, t ổ chức mà ng ười bị kiện luôn

luôn là cơ quan nhà n ước hoặc cán bộ, công ch ức có th ẩm quyền trong các c ơ

quan nhà nước.

So với vi ệc xét x ử trong trong các v ụ án khác nh ư dân s ự, kinh t ế, lao

động… nếu có yếu tố nhà nước tham gia (c ơ quan nhà nước, cán bộ công chức)

thì họ có th ể là ng ười khởi kiện, người bị kiện hay người có quyền, lợi nghĩa vụ

liên quan. Nhưng trong vụ án hành chính ch ỉ có cơ quan nhà nước, cán bộ công

chức mới là người bị kiện vì chỉ có họ mới có thể có nh ững hành vi công quy ền

mà nếu trái pháp luật gây thiệt hại đến các đối tượng có liên quan thì mới bị công

dân phản ứng lại thông qua việc khởi kiện vụ án hành chính.

Thứ hai, bảo đảm quyền, lợi ích hợp thông qua xét x ử hành chính tại Tòa

án có đối tượng xét xử hành chính là quyết định hành chính, hành vi hành chính -

các hành vi công quyền.

Tùy vào điều kiện và truyền thống pháp lý của mỗi quốc gia mà người ta có

thể xác định những hành vi công quyền nào là thuộc đối tượng xét xử hành chính.

Tuy nhiên, phần lớn các nước trên thế giới đều có chung phạm vi đối tượng xét xử

hành chính của chính quyền, của cán bộ công chức khi thừa hành công vụ.

Ở nước ta, Luật tố tụng hành chính quy định các nhóm quyết định, hành vi

sau là đối tượng xét xử hành chính:

1. Khi ếu ki ện quy ết định hành chính, hành vi hành chính, tr ừ các quy ết

định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh

41

vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các

quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.

2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri

bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công ch ức giữ chức vụ từ

Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.

4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh.

Thứ ba, trong xét xử hành chính, người bị kiện không được quyền phản tố.

Khác với án dân sự, kinh doanh thương mại, người bị kiện có thể trở thành người

khởi ki ện, bị đơn thành nguyên đơn (ph ản tố). Nh ưng trong vụ án hành chính

không có hiện tượng đó đó vì Tòa án chỉ đánh giá xem hành vi công quyền là trái

hay không trái pháp luật. Nếu trái thì Tòa tuyên hủy, đình chỉ, nếu không thì tuyên

bác yêu cầu khởi kiện của người bị kiện.

Thứ tư, một điểm khá nổi bật là thông qua xét xử hành chính tại Tòa án để

bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa án đã thiết lập địa vị bình

đẳng trong quan hệ tố tụng hành chính mà tr ước đó trong quan hệ quản lý hành

chính, công dân bao giờ cũng là đối tượng bị quản lý. Quan hệ này được xác lập

trên mối quan hệ "quyền lực - ph ục tùng" tức là mối quan hệ không bình đẳng

giữa người quản lý và người bị quản lý.

Đây là đặc biệt quan tr ọng nhất xác định ranh gi ới giữa quan hệ tố tụng

hành chính, quan hệ tài phán hành chính với quan hệ quản lý hành chính.

2.2. VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI

ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

Sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền công dân ở nước ta đã đạt được những

thành tựu cơ bản và có ý nghĩa. Tuy vậy, ở một số lĩnh vực, quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân được pháp luật bảo vệ chưa được thực hiện nghiêm chỉnh và

đầy đủ, dẫn đến hậu quả là nhân quyền và dân quyền bị vi phạm. Có nơi, có lúc sự

vi phạm xảy ra là nghiêm trọng.

42

Nếu một công dân vi ph ạm các quy ền được ghi trong Hi ến pháp của một

công dân khác thì việc sử dụng pháp luật để bảo vệ cho công dân bị xâm phạm về

quyền và lợi ích đã được các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước thực hiện kịp

thời và có hiệu quả. Nhưng khi người vi phạm chính là cơ quan nhà nước hay bản

thân cán bộ, nhân viên nhà nước những người được nhà nước trao quyền vi phạm

trong khi thi hành công vụ thì sự việc lại trở nên khác đi.Những vi phạm này được

thể hiện dưới các hình th ức hành động như: lạm quyền, lộng quyền, vượt quyền,

lợi dụng quyền lực, chẳng hạn: tự đặt ra các kho ản thu bu ộc dân phải đóng góp,

ban hành những điều ngăn cấm ngang ngược và phi lý. Các vi phạm này cũng thể

hiện dưới dạng không hành động nh ư làm nh ững công vi ệc mà pháp lu ật bu ộc

phải làm như không cấp giấy phép, không áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành

vi côn đồ, hành vi phạm tội của bọn tội phạm, không thi hành án, không áp dụng

các biện pháp bảo vệ, phòng chống thiên tai, dịch bệnh…

Việc khiếu nại, khiếu kiện bị tồn đọng nhiều, phần chính và đa số là những

khiếu nại, khiếu kiện của nhân dân đối với các hành vi vi ph ạm pháp luật của cơ

quan nhà nước, của cán bộ, nhân viên nhà nước.

Trên thực tế, trong đấu tranh chống hành vi vi phạm của bản thân cơ quan

nhà nước, của cán bộ, nhân viên nhà nước, nhà nước đã tổ chức thành lập hệ thống

các cơ quan Thanh tra nh ư Thanh tra nhà n ước, Thanh tra chuyên ngành, Thanh

tra nhân dân. Đồng thời pháp luật cũng quy định các chế định giám sát như giám

sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, giám sát của Tổ chức Mặt trận tổ

quốc và của các đoàn thể quần chúng.

Luật khiếu nại, Luật Tố cáo đã được ban hành và có hiệu lực trong đời sống,

nhưng cho cho đến nay, công việc giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn chưa thu được

kết quả như mong muốn. Công tác thanh tra, giám sát rơi vào tình trạng phát hiện vi

phạm thì nhiều nhưng giải quyết được vi phạm thì rất ít, hoặc rất khó xử lý.

Bên cạnh các hình thức nêu trên, trong hệ thống pháp luật hành chính Việt

Nam cũng có những quy định nhiệm vụ cấp trên phải luôn kiểm tra, giám sát công

việc của cấp dưới. Tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát của cấp trên đối với

cấp dưới trong nhiều trường hợp tỏ ra hiệu lực hơn so với công tác thanh tra, giám

43

sát. Đó là đối với trường hợp khi cấp trên công tâm trong công vi ệc điều hành,

giám sát. Ngược lại, khi trong các hành vi vi phạm có mối liên quan nhân quả giữa

cấp trên với cấp dưới thì các hi ện tượng ô dù, bao che l ập tức xảy ra. Vi ệc đấu

tranh phát hiện và khắc phục các vi ph ạm của cơ quan và cán b ộ, nhân viên nhà

nước trong các trường hợp này thật sự là đã “húc vào bức tường đá”. Công tác đấu

tranh chống và ng ăn ng ừa các hành vi l ạm quy ền, lộng quy ền, vượt quy ền, lợi

dụng quy ền lực ho ặc dung túng, bao che ho ặc không hành động trong nh ững

trường hợp pháp luật bắt buộc phải hành động của các cơ quan quản lý nhà nước,

của cán bộ, nhân viên nhà nước gặp phải nhiều khó kh ăn, trở lực, là một vấn đề

nan giải xảy ra không chỉ ở nước ta. Nhiều nước trên thế giới có nền hành chính

quốc gia khá phát triển cũng gặp phải những vấn đề tương tự.

Chính vì lẽ đó phương thức bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,

tổ chức bằng con đường xét xử của Tòa án là một nội dung chính trị pháp lý có vai

trò vô cùng quan trọng. Vai trò đó thể hiện ở các điểm sau:

Thứ nh ất, Toà án là công c ụ có hi ệu lực và k ết qu ả cao trong b ảo đảm

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính và

trong đấu tranh ch ống và ng ăn ch ặn các hành vi vi ph ạm của các cơ quan nhà

nước và cán bộ, nhân viên nhà nước trong khi thi hành công vụ.

Có nhiều quan điểm cho rằng: Tòa án là một nhánh quyền lực có vị trí đặc

biệt quan tr ọng trong Nhà n ước pháp quy ền, nhưng đây chỉ là nhánh quy ền lực

yếu hơn so với hai nhánh quyền lực còn lại là lập pháp và hành pháp. Lập pháp là

cơ quan có ch ức năng làm lu ật. Lập pháp có quy ền ấn định các hành x ử của xã

hội. Hành pháp là cơ quan thi hành, thực hiện pháp luật nên hàng ngày, hàng giờ

tác động vào đời sống của con người hay nói như Hegel là "hành pháp có quan hệ

một cách trực tiếp hơn với cái đặc thù trong xã hội công dân và thực hiện lợi ích

phổ biến ở bên trong những mục đích đặc thù đó" [56, tr.367]. Hamilton thì nhận

xét rằng "Ngành hành pháp không những kiểm soát tài chính mà lại có quyền quy

định các lu ật lệ chi ph ối sự sinh ho ạt của các công dân", Hamilton l ập lu ận:

"Ngành tư pháp, trái lại, không có quyền sử dụng vũ lực hoặc quyền kiểm soát tài

chính, không có quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh của xã hội, và cũng không có

44

quyền quyết định tích cực nào cả. Có thể nói rằng nhánh tư pháp vừa không có lực

lượng lại không có ý chí, mà ch ỉ có phán đoán mà thôi, và cần dựa trên sự trợ tá

của ngành hành pháp mới có thể thi hành được quyết định của trí phán đoán của

mình". Điều đó cho thấy, với vị trí của mình, Tòa án ít có nguy c ơ lạm quyền và

cũng ít nguy hiểm đến các quyền, tự do của con người hơn so với quyền lập pháp

và hành pháp. Nói như vậy, không có nghĩa Tòa án là một ngành quyền lực vô hại

trong bộ máy nhà nước. Ngược lại, Tòa án vẫn có khả năng làm tổn hại cho nền

công lý quốc gia khi họ lạm dụng chính quyền lực của mình để mưu cầu lợi ích cá

nhân. Tuy đối tượng xâm ph ạm chỉ là một bộ phận đặc biệt trong xã h ội, đó là

những đương sự, bị can, bị cáo ra trước công đường nhưng hậu quả của việc lạm

quyền này lại vô cùng nghiêm trọng, bởi lẽ nó sẽ làm trật tự xã hội suy giảm, công

chúng sẽ đánh mất niềm tin vào công lý, vào bộ máy nhà nước.

Tác giả Nguyễn Đăng Dung cho rằng, thể chế Tòa án đã cung cấp cho xã

hội một phương pháp xác định sự thật và sự công bằng trong các hành động của tư

nhân và nhà n ước trên ba ph ương diện: một là, đảm bảo sự bình ổn cho xã h ội,

tránh sự trả thù dã man gi ữa con ng ười với con ng ười; hai là, cùng v ới sự phát

triển của kinh tế và sự phồn thịnh của xã hội, chẳng có cơ chế nào quan trọng hơn

hệ thống tư pháp để giải quyết các tranh ch ấp giữa các doanh nghi ệp, các công

dân và các c ơ quan nhà n ước, làm sáng t ỏ những điều mơ hồ của pháp lu ật và

những quy định buộc phải phục tùng; ba là, chỉ có hệ thống tư pháp mới có quyền

chính thức phán quyết sự hợp pháp của các hoạt động của hành pháp và lập pháp

cũng như hành vi của công dân. Tư pháp cũng chính là một trong những biện pháp

giới hạn quyền lực nhà nước, bảo vệ nhân quyền [17, tr.612].

Thực tế cho thấy khi người ta có quy ền lực trong tay, người ta luôn có xu

hướng lạm dụng quyền lực, vi phạm nhân quyền. Để chống lại mọi hành vi cưỡng

bức của công quyền, người ta nghĩ ra rất nhiều phương thức, trong đó có phương

thức trao cho Tòa án nh ững quyền năng đặc biệt. Dù ngành l ập pháp ban hành

những quy tắc hiến định và th ủ tục cho Tòa án, ngành hành pháp có quy ền chỉ

định các th ẩm phán nh ưng không một cá nhân, tổ chức nào kể cả Chính ph ủ và

Quốc hội có quyền chỉ thị cho thẩm phán hoặc bãi chức, miễn chức của thẩm phán

45

vì lý do bất đồng quan điểm. Trên tất cả các điều đó, nguyên tắc cao nhất là tính

độc lập của Tòa án. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của nền

tư pháp trong nhà n ước pháp quy ền. Tư pháp có độc lập thì mới đảm bảo được

tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo được nguyên tắc phân quyền và

có kh ả năng ki ểm soát, gi ới hạn quy ền lực nhà n ước và c ũng là b ảo đảm các

quyền con người.

Tòa án trong nhà nước pháp quy ền có nhiệm vụ bảo vệ địa vị tối cao của

Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ giá trị thiêng liêng và hiệu quả của pháp luật. Đó là

pháp luật của nhân dân chứ không phải của thiểu số người nắm quyền. Khi được

đa số công dân thừa nhận thì nó trở thành quy tắc xử sự chuẩn mực trong xã hội.

Điều đó đồng nghĩa với việc vi phạm các quy tắc đó là vi phạm nhân quyền. Bảo

vệ pháp lu ật là vai trò quan tr ọng của Tòa án. B ất cứ ai cho r ằng quyền lợi của

mình bị cơ quan công quy ền vi ph ạm đều có th ể kh ởi kiện ra tòa. V ới tư cách

công dân, người đó được pháp luật bảo hộ và họ có th ể giải quyết mọi xung đột

trước Tòa án. Bởi chỉ riêng có thiết chế này mới có quyền cưỡng chế các cơ quan

khác của nhà nước thông qua các cuộc phán xử và cũng chỉ duy nhất nó có quyền

chính thức phán quy ết về sự hợp pháp của những hoạt động của các ngành l ập

pháp và hành pháp. Chỉ có tư pháp là ngành quyền lực độc nhất giữ cho hai ngành

còn lại phải chịu trách nhiệm về những quyết định của họ đồng thời củng cố niềm

tin cho toàn xã hội.

Do vậy, từ trước tới nay, người ta đã nghiên cứu tìm ra nhiều biện pháp đảm

bảo cho Tòa án được hoạt động đúng với mục đích bảo vệ quyền con người, an ninh,

trật tự xã hội. Từ đó hình thành nên các quy định về luật thủ tục cho phép Tòa án có

quyền xét xử mọi hành vi phạm pháp và mọi tranh chấp phát sinh trong xã hội từ

những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động kinh tế, hành chính cho

đến các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Phán quyết của Tòa án không phải

là sự phán quy ết của cấp trên đối với cấp dưới trong qu ản lý hành chính và càng

không phải là hoạt động trung gian, hòa giải và dàn xếp là đặc trưng trong lĩnh vực

quan hệ hợp đồng kinh tế. Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh nhà

nước áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các tranh chấp, xét xử các vi phạm pháp

46

luật cụ thể. Hoạt động xét xử có thể dẫn đến kết quả công dân, pháp nhân, các tổ chức

được hưởng các quyền, lợi ích hoặc gánh chịu các nghĩa vụ nhất định.

Tòa án khi xét xử một vụ việc cụ thể phải tuân theo những trình tự, thủ tục

luật định một cách nghiêm ngặt, không được tùy tiện bỏ một thủ tục nào. Chính vì

vậy, phán quyết của Tòa án có hiệu lực bắt buộc, bản án và quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi

công dân tôn tr ọng. Mọi ch ủ th ể liên quan ph ải nghiêm ch ỉnh ch ấp hành phán

quyết của Tòa án. Không một cơ quan, tổ chức hay một cá nhân nào có quyền sửa

phán quyết đó. Ở Việt Nam, vấn đề này đã được ghi nh ận thành nguyên tắc tại

Điều 136 Hiến pháp năm 1992: “Các bản án và quy ết định của Toà án nhân dân

đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức

xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu

quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Thứ hai, Toà án là công cụ đấu tranh có hiệu quả trong việc nâng cao trình

độ và năng lực quản lý xã hội của các cơ quan và cán bộ, nhân viên nhà nước.

Tòa án có ch ức năng khác với cơ quan th ực hi ện quy ền lập pháp, hành

pháp, Tòa án là cơ quan bảo vệ pháp luật trước những hành vi vi phạm pháp luật,

góp phần bảo vệ tính thiêng liêng, hiệu lực và sức mạnh của luật pháp. Với chức

năng này, Tòa án cũng chính là cơ quan có khả năng cao nhất trong việc giới hạn

quyền lực nhà nước, bảo vệ nhân quyền.

Công lý là các chuẩn mực đạo đức xã hội mà pháp luật có nhiệm vụ duy trì

và bảo vệ. Hoạt động xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý. Tòa án không

chỉ phán xét tính hợp pháp mà còn cả tính đúng đắn của hành vi. Vì vậy, ngoài căn

cứ pháp luật, khi xét xử, tòa án có căn cứ vào công lý. Biểu hiện của công lý chính

là sự công bằng, khách quan, vô tư và tình người. Ở Anh quốc, một quốc gia theo

luật Common law, ngoài hệ thống luật án lệ thì họ còn xét xử theo luật công bình

(equity). Nguyên tắc xét xử là mọi phán quy ết đều phải nhân danh công lý. V ới

những quốc gia theo luật Châu Âu lục địa, tuy xét xử theo hệ thống luật thực định

nhưng công lý vẫn phải đảm bảo với mục đích với mọi phán quyết đều dẫn đến sự

công bằng, khách quan, vô tư. Quy phạm pháp luật có thể là cứng nhắc, máy móc

47

và không thể quy định hết cho các trường hợp cụ thể. Tòa án nhân danh công lý,

áp dụng pháp lu ật linh ho ạt để sao cho công b ằng không bị bóp méo theo điều

cứng nhắc, đóng khung của pháp lu ật. Pháp lu ật và công b ằng là hai khái ni ệm

không hoàn toàn đồng nhất. Pháp luật đôi khi chưa phải là công bằng nhưng trong

xét xử phải đảm bảo công bằng.

Sự khác nhau gi ữa Nhà nước pháp quyền và các hình th ức nhà nước khác

dưới chế độ độc tài, chuyên ch ế là các quy ền, lợi ích chính đáng của con ng ười

không thể bị xâm phạm dưới bất kỳ hình thức nào, ngược lại, nó còn được Tòa án

bảo vệ khỏi sự can thiệp không cần thiết của chính quyền.

Toà án bằng phán quyết của mình đưa ra sự phán xét về tính hợp hiến, hợp

pháp đối với các vấn đề trong vụ án hành chính. Sự phán xét này, cũng có thể coi

đó là nh ững đánh giá, nhận xét chính th ức về năng lực, trình độ trong th ực hiện

chức năng, nhiệm vụ của các ngành, các cấp trong bộ máy nhà nước.

Với các phán quyết của Toà án hành chính, các cơ quan quản lý nhân sự sẽ

có căn cứ rõ ràng hơn trong việc đánh giá năng lực, trình độ chuyên môn đối với

cán bộ, nhân viên nhà nước. Việc thay thế những cán bộ, nhân viên nhà nước kém

năng lực, kém trình độ sẽ có tính thuyết phục cao. Đồng thời, đó cũng là biện pháp

nâng cao tinh th ần trách nhi ệm, nâng cao trình độ, năng lực quản lý của các cơ

quan, cán bộ, nhân viên nhà nước trước nhân dân. Nhìn nhận ở phạm vi rộng hơn

cả về không gian và thời gian thì vai trò của Tòa án trong xét xử vụ án hành chính

không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích trực tiếp cá nhân, tổ chức trực tiếp có liên quan

trong vụ án, mà còn là c ăn cứ để xây dựng lòng tin c ủa xã hội vào sự nghiêm

minh, công bằng của pháp luật.

Có thể cho rằng: ở nơi nào Nhà n ước chưa hoặc chậm tổ chức, thành lập

các Toà án hành chính với đầy đủ những tính chất và đặc điểm của một loại Toà

án, chứ không phải là các Viện hành chính, thì việc đấu tranh chống tha hoá, biến

chất trong cán bộ, công nhân viên nhà nước, chống lại nạn hách dịch, tính trì trệ,

bảo thủ, ăn bám xã hội của bộ máy hành chính s ẽ còn gặp nhiều khó kh ăn. Bên

cạnh việc giáo dục đạo đức phẩm chất, nhất thiết phải áp dụng các biện pháp hành

chính, đặc biệt là biện pháp chế tài của Toà án. Sự thiếu vắng của các Toà án hành

48

chính trong hệ thống các Nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây chính là một trong

các nguyên tắc làm cho nhân dân thiếu lòng tin tưởng ở tinh thần phục vụ của bộ

máy nhà nước cách mạng do chính nhân dân tạo lập nên. Nó gây nên sự xa cách

giữa Nhà nước với nhân dân. Nhà nước do vậy không nhận được sự bảo vệ, ủng

hộ của nhân dân khi lâm vào cơn khủng hoảng.

Thứ ba, Toà án có vai trò to l ớn trong vi ệc tạo lập và duy trì m ột chế độ

kỷ cương, pháp chế nghiêm minh trong hoạt động của bản thân các cơ quan nhà

nước và góp ph ần vào vi ệc đổi mới và hoàn thi ện không ng ừng nền hành chính

quốc gia.

Sự nghiệp quản lý nhà nước, quản lý xã hội không thể tiến hành một cách

trôi chảy, có hiệu quả nếu bản thân nền hành chính quốc gia ở vào tình trạng yếu

kém. Khái niệm về nền hành chính quốc gia chứa đựng trong nó nhiều nội dung,

hoặc nói một cách khác là do nhi ều nhân tố tạo thành như tổ chức bộ máy hành

chính, quy chế, chế độ, trình tự, thủ tục hoạt động hành chính, chất lượng - trình

độ, năng lực, phẩm chất của cán bộ, viên chức nhà nước…

Một trong các biện pháp đấu tranh có hiệu quả làm cho nền hành chính trở

nên năng động, nhạy bén là phải kịp thời khắc phục và loại trừ các sai phạm trong

việc ra quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính. Chính vì vậy, việc

xét xử các vụ án hành chính của tòa án nếu khẩn trương, ngắn gọn sẽ có tác dụng to

lớn. Sự tuân thủ các quy tắc xét xử cũng là nhằm mục đích bảo vệ quyền con người

của công dân, tránh việc lợi dụng quyền lực của chính Tòa án, cũng như để cho bản

thân Tòa án tránh được mọi áp lực từ phía các quan chức nhà nước.

Để cho nền hành chính qu ốc gia hoàn thi ện, đủ sức đáp ứng đầy đủ các

yêu cầu quản lý hành chính trong thời đại có sự phát triển nhanh chóng và to lớn

về khoa học kỹ thuật, phải kịp thời đấu tranh ngăn ngừa và phòng chống có hiệu

quả các biểu hiện tha hoá mang tính quy luật của những con người khi được giao

nắm giữ và thi hành quy ền lực. Và vi ệc đó sẽ chỉ được thực hiện một cách tốt

nhất thông qua xét x ử vụ án hành chính t ại tòa án. T ừ bản án n ơi pháp đình,

những quyết định hành chính trái pháp lu ật, những cán bộ công chức, viên chức

nhà nước lộng quyền, lạm quyền, vượt quyền, lợi dụng quyền lực trong thi hành

49

công vụ gây thiệt hại cho cá nhân, t ổ chức sẽ bị xử lý nghiêm minh… xã h ội sẽ

được thuy ết ph ục về sự công b ằng của pháp lu ật thông qua nh ững hành động

thực tế.

2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN, CƠ CẤU VÀ NỘI DUNG BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI

ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

2.3.1. Các điều kiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức trong xét xử vụ án hành chính

Nhà nước Việt Nam là Nhà n ước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì

dân. Những quy định pháp luật bảo vệ quyền công dân đã được ban hành, áp dụng

từ ngày chính quy ền cách mạng được thành lập. Theo th ời gian và sự phát tri ển

mọi mặt của đất nước, quyền này được thực thi ngày càng rộng rãi về nội dung và

gia tăng sự chắc chắn của các biện pháp bảo vệ.

Hiến pháp sửa đổi năm 2013, trong Ch ương về "Quyền con người, quyền

và nghĩa vụ cơ bản của công dân" có nhi ều điểm mới về nhận thức và cách thức

thể hi ện (k ỹ thu ật lập hi ến). Chương "Quyền và Ngh ĩa vụ cơ bản của công

dân" từ Chương V trong Hiến pháp năm 1992 về Chương II trong Hiến pháp sửa

đổi năm 2013. Trách nhiệm của Nhà nước và những đảm bảo của Nhà nước trong

việc ghi nh ận, tôn tr ọng, thực hiện và bảo vệ quyền con ng ười, quyền công dân

được quy định đầy đủ trong các điều lu ật. Ngoài nguyên t ắc nh ư: “Quyền con

người, quyền công dân v ề chính tr ị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã h ội được công

nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp lu ật” (Điều 14); ở hầu

hết các điều đều quy định trách nhi ệm và đảm bảo của Nhà n ước nh ư Điều

17: “Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”; Điều 28: “Nhà nước tạo

mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh

bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”…

Hiến pháp năm 2013 khẳng định mạnh mẽ mọi công dân Việt Nam đều có

quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh

tế, văn hóa, xã hội. Bên cạnh các quyền khác, thì mọi người có quyền khiếu nại, tố

cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật

của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp

50

nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về

vật ch ất, tinh th ần và ph ục hồi danh dự theo quy định của pháp lu ật. Ng ười bị

buộc tội phải được Tòa án xét x ử kịp th ời trong th ời hạn lu ật định, công bằng,

công khai và được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự

luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt,

tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật

sư hoặc người khác bào chữa cho mình.

Từ các quy định trên, Hiến pháp 2013 đã quy định cơ chế thực hiện như sau:

- Quyền và ngh ĩa vụ cơ bản của công dân được hệ thống cơ quan quy ền

lực Nhà n ước đảm bảo th ực hi ện. Tại điều 6 Hi ến pháp 2013 đã quy định:

“Nhân dân th ực hiện quyền lực nhà nước bằng dân ch ủ trực tiếp, bằngdân chủ

đại di ện thông qua Qu ốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các c ơ quan

khác của Nhà nước”.

Quốc hội là cơ quan quy ền lực Nhà nước, cơ quan đại diện cao nh ất do

nhân dân bầu ra, là c ơ quan bảo đảm thực hiện các quy ền con ng ười, quyền và

nghĩa vụ công dân. Quốc hội bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản

của công dân bằng các phương thức sau:

+ Qu ốc hội xây dựng Hi ến pháp và pháp lu ật ghi nh ận, ph ản ánh ý chí,

nguyện vọng của nhân dân, th ể chế hoá các quy ền và ngh ĩa vụ cơ bản của công

dân. Đây là hoạt động xác lập mối quan hệ cơ bản hữu cơ gắn bó giữa Nhà nước

và công dân. Các mối quan hệ được Hiến pháp ghi nhận là cơ sở pháp lý cao nhất

cho sự ra đời của các mối quan hệ pháp lý cụ thể giữa Nhà nước và công dân.

+ Thực hiện giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của tất

cả các chủ thể. Nhất là các chủ thể nắm giữ quyền lực Nhà nước.

+ Là cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân thực hiện quyết định những

vấn đề quan trọng nhất của đất nước.

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương đại diện

cho ý chí, nguy ện vọng và quy ền làm ch ủ của nhân dân địa phương. Với vị trí

đó, Hội đồng nhân dân các cấp cũng là yếu tố rất quan trọng trong cơ chế pháp lý

đảm bảo th ực hi ện quy ền và ngh ĩa vụ pháp lý c ủa công dân trên lãnh th ổ địa

phương mình.

51

- Quyền và ngh ĩa vụ pháp lý c ủa con ng ười, của công dân được đảm bảo

thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành pháp. Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp

là cơ quan ch ấp hành và điều hành của cơ quan quy ền lực, là ch ủ th ể có trách

nhiệm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho quyền và nghĩa vụ của công dân

trở thành hiện thực. Là cơ quan tr ực tiếp thực hiện công tác qu ản lý Nhà nước -

điều hành xã hội trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn

hoá, xã hội, an ninh trật tự… Trong đó cơ quan công an (cơ quan điều tra) có vai

trò quan tr ọng trong việc bảo vệ trật tự pháp lu ật, pháp ch ế xã hội chủ nghĩa và

trong hoạt động tố tụng hình sự.

- Quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể được bảo đảm qua hệ thống cơ quan tư

pháp. Toà án và Vi ện kiểm sát là nh ững cơ quan có ch ức năng, nhiệm vụ khác

nhau (Toà án có chức năng xét xử và Viện kiểm sát có chức năng kiểm tra, giám

sát) nhưng đều là các cơ quan “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của

nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tập thể và tính mạng, danh dự, nhân phẩm

của mọi công dân”.

2.3.2. Cơ cấu và n ội dung b ảo đảm quy ền, lợi ích h ợp pháp c ủa cá

nhân, tổ chức trong xét xử hành chính của Tòa án

Các điều kiện bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong

xét xử hành chính c ủa Tòa án là nh ững bi ểu hi ện bên ngoài mà thông qua đó

chúng ta có thể kể tên từng biện pháp, hình thức bảo đảm, đồng thời qua đó để xác

định dấu hiệu, ranh giới và mối liên hệ của các biện pháp (hay sự) bảo đảm khác

nhau. Đây cũng là một nội dung rất quan trọng thuộc khái niệm.

Như chúng ta đều bi ết, tính ch ất, nội dung của xét xử hành chính, ch ức

năng xét xử hành chính (một yếu tố cơ bản, nội tại của bảo đảm, nội hàm của khái

niệm) được biểu hiện ra bên ngoài thông qua các hoạt động của nó - hoạt động tố

tụng của Tòa án.

Hoạt động tố tụng của Tòa án có nhiều loại và qua những giai đoạn (yếu tố

về mặt thời gian) khác nhau. Hoạt động tố tụng của Tòa án như đã phân tích ở trên

chính là cách th ức của sự bảo đảm. Cách thức là yếu tố, là mặt hình th ức khách

quan của sự bảo đảm, do vậy phải tách chúng trong t ư duy để phân tích, nghiên

52

cứu, để có căn cứ, xác định khái ni ệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức trong xét xử hành chính của Tòa án.

Với ý ngh ĩa như vậy, qua đúc kết lý lu ận và th ực tiễn, đồng thời dựa vào

phương pháp lu ận nêu trên chúng ta có th ể dựa vào các c ăn cứ sau đây để phân

loại biện pháp (ho ặc sự) bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ chức

trong xét xử hành chính của Tòa án:

Thứ nhất, căn cứ vào chức năng bảo vệ thông qua xét xử của Tòa án. Với

căn cứ này, biện pháp bảo đảm được thực hiện ở các loại sau:

- Bảo đảm quyền khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân, tổ chức: Đây là

loại bảo đảm có ý ngh ĩa tiền đề cho vi ệc xem xét tính h ợp pháp của hoạt động

công quyền, nhưng điều có ý nghĩa căn bản của loại bảo đảm này là sự thừa nhận,

tôn trọng và thực hiện một quyền hiến định của công dân - quy ền khiếu nại. Bảo

đảm cho quy ền này được thực hiện trong th ực tế cũng đồng thời hướng tới xây

dựng một nhà nước pháp quyền, một bảo đảm công lý hữu hiệu nhất trong quan

hệ giữa nhà nước với công dân.

- Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật giữa người khởi kiện và người

bị kiện trong vụ án hành chính. Đây là loại bảo đảm pháp lý vô cùng quan tr ọng

nhằm thừa nhận công lý, sự công bằng và tính khách quan trong xem xét, đánh giá

tính chất, nội dung của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân phát sinh khi có

mâu thuẫn trong quan hệ này và gắn với sự kiện vụ án hành chính của công dân.

- Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án hành chính

Đây là lo ại bảo đảm cho cá nhân, t ổ chức theo quy định của pháp lu ật tố

tụng hành chính quy ền quyết định tham gia vào các giai đoạn của quá trình gi ải

quyết vụ án hành chính. V ới loại bảo đảm này, cá nhân, t ổ chức có quy ền trình

bày những quan điểm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước các hành vi

công quyền (các đối tượng khởi kiện) bị coi là trái pháp luật xâm phạm, gây thiệt

hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

- Bảo đảm quyền của đương sự tự mình hoặc nhờ người khác đại diện hay

bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết vụ án.

- Bảo đảm quyền yêu cầu xem xét và giải quyết vụ án một cách chính xác,

khách quan, đúng pháp luật…

53

Thứ hai, căn cứ vào chức năng độc lập và tuân theo pháp luật

Với căn cứ ngày chúng ta thấy có một số biện pháp bảo đảm quyền, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức như bảo đảm, loại bỏ sự can thi ệp trái pháp lu ật,

biện pháp chủ động tuân theo và áp dụng pháp luật.

Thứ ba, căn cứ vào chức năng áp dụng pháp luật

Trên cơ sở căn cứ này, một số biện pháp bảo đảm được xác định như biện

pháp bảo đảm thông qua việc áp dụng pháp luật nội dung để bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua vi ệc xem xét quy ền, nghĩa vụ pháp lý

của cá nhân, tổ chức và các lợi ích hợp pháp của họ.

Một loại bảo đảm khác của căn cứ này là bảo đảm bằng việc áp dụng pháp

luật hình thức: pháp luật tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức trong xét xử hành chính của Tòa án.

2.4. BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC

TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC NGOÀI, GIÁ TRỊ KINH NGHIỆM

CÓ THỂ VẬN DỤNG CHO VIỆT NAM

Qua nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới và tài liệu có liên quan

đến bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án

hành chính của các tác gi ả trong và ngoài n ước, có th ể thấy rằng đây là vấn đề

được đa số các nước quan tâm, coi trọng. Trong phần này chúng ta cùng nhìn nhận

vấn đề dưới các góc độ khác nhau để từ đó rút ra được những vấn đề có giá trị vận

dụng ở Việt Nam.

2.4.1. Mô hình tổ chức tòa án hành chính

Các hệ thống pháp lu ật hiện đại thường thiết lập hai lo ại cơ quan xét x ử

chính nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp pháp lý - đó là tòa án tư pháp và

tòa án hành chính. Dù trong m ột số ngôn ngữ cả hai lo ại cơ quan trên đều được

gọi chung là tòa án, và dù cả hai loại đều giải quyết tranh chấp theo cách tập hợp

bằng chứng và áp d ụng các nguyên t ắc pháp lý, thì v ề cơ bản chúng cũng tách

biệt. Tòa án tư pháp thông thường được thiết lập theo hiến pháp của quốc gia. Vì

vậy chúng được được xem nh ư là c ấu thành c ủa một nhánh quy ền lực. Quy ết

định của tòa án ph ải đảm bảo sự độc lập với các nhánh hành pháp và l ập pháp.

54

Các tòa án hành chính, m ặt khác, lại hoạt động như là một cơ quan của nhánh

hành pháp. Trong tất cả các hệ thống pháp lu ật hiện đại, một số loại tranh ch ấp

chỉ có thể được giải quyết bằng các tòa án tư pháp. Tòa án hành chính không có

quyền xem xét ho ặc quyết định chúng, Trong nhi ều hệ thống pháp lu ật, một số

tranh ch ấp ch ỉ được xét xử bằng tòa hành chính. Ở một số hệ th ống pháp lu ật

khác, có những tranh chấp có thể được xem xét bởi tòa nào cũng được trong hai

loại tòa án nói trên.

Hệ thống pháp lu ật của Pháp là một ví dụ nguyên mẫu về sự tách bi ệt

hoàn toàn. Hiến pháp của Pháp thiết lập nên hai hệ thống tòa án, một trong số đó

lại được chia thành nhiều loại tòa khác nhau (dân s ự, hình sự, xã hội,…), còn hệ

thống kia thì hoàn toàn riêng biệt gồm các tòa hành chính. Hệ thống thứ nhất xem

xét các trường hợp thông qua các loại tòa tư pháp, trong khi đó ở hệ thống thứ hai

các cơ quan nhà n ước (Conseil d’État) xem xét các tr ường hợp nảy sinh thu ộc

quyền tài phán hành chính. Th ẩm quyền xét xử của các tòa án và tòa hành chính

loại trừ lẫn nhau. Nói cách khác, luật của Pháp thiết lập những cơ sở loại trừ thẩm

quyền đối với hai loại tòa án. Trong trường hợp có tranh chấp là liệu tòa tư pháp

hay tòa hành chính nên xét xử một vụ việc nào đó thì vấn đề thẩm quyền xét xử sẽ

được phân định bởi tòa giải quyết tranh chấp (Tribunal des Conflits).

Mô hình tòa án hành chính của Pháp được cấu trúc như sau:

Hội đồng Nhà nước là đỉnh chóp của hệ thống tòa án hành chính, được coi

là Tòa án hành chính t ối cao tồn tại song song với Tòa án tư pháp tối cao - đỉnh

chóp của hệ thống tòa án th ường. Cơ quan này vừa là cơ quan tư vấn cho Chính

phủ trong việc ban hành các dự án luật liên quan đến lĩnh vực hành pháp, đưa ra

những lời khuyên cho Chính ph ủ về những vấn đề xung đột với các nguyên t ắc

của Hiến pháp, cũng như các đạo luật trong nước và điều ước quốc tế, vừa là tòa

án hành chính tối cao xét xử các vụ án hành chính. Nhân sự có khoảng 300 thẩm

phán được chia làm ba cấp với cấp cao nhất là Hội đồng viên.

Dưới Hội đồng Nhà nước là các Tòa án hành chính Phúc thẩm, bao gồm 8

tòa án. 41 đơn vị Tòa án hành chính vùng là tòa án c ấp thấp nhất, trong đó có 30

55

tòa nằm trong lãnh th ổ chính của Pháp và 11 n ằm ở các khu v ực lãnh th ổ thuộc

Pháp rải rác khắp thế giới.

Hệ thống tòa án của Đức được tổ chức tại cấp Liên bang và cấp Bang. Đức có

05 hệ thống tòa án chuyên biệt, bao gồm: hệ thống tòa án thường xét xử các tranh chấp

về dân sự và các vụ án hình sự; hệ thống tòa án lao động; hệ thống tòa án hành chính;

hệ thống tòa án tài chính và hệ thống tòa án về bảo hiểm xã hội. Hệ thống tòa án hành

chính (Verwaltungsgerichtbarkeit), hệ thống này gồm 03 cấp là Tòa án hành chính

(Verwaltungsgericht), Tòa án hành chính của Bang (Landesverwaltungsgericht) và Tòa

án Hành chính Liên bang (Bundesverwaltungsgericht). Hệ thống Tòa án hành chính

có thẩm quyền xét xử các tranh ch ấp giữa một bên là cơ quan nhà nước và phía

bên kia là công dân, cụ thể, tòa án hành chính có thẩm quyền xét xử các khiếu nại

về các hành vi hành chính c ủa cơ quan nhà nước (ví dụ khiếu nại về quyết định

không cấp phép xây nhà về hạn chế quyền sử dụng bất động sản v.v...).

Mô hình tòa án hành chính của Đức độc lập tồn tại song song với hệ thống

tòa án thường. Tòa án hành chính tối cao chỉ có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện hành

chính mà không có chức năng tư vấn cho Chính phủ như mô hình của Pháp. Bên

cạnh đó, khác với tòa án hành chính Pháp có th ể xem xét các vụ việc bồi thường

thiệt hại, tòa án Đức chỉ xem xét tính hợp pháp của các quyết định, hành vi hành

chính, còn việc yêu cầu bồi thường sẽ do tòa án dân sự giải quyết.

Hệ thống xét xử của Mỹ khác rất nhiều so với các hệ thống xét xử ở dân

luật. Sự khác nhau này xuất phát từ quan niệm khác nhau về vai trò của nhà nước

trong hệ thống liên bang Mỹ. Hiến pháp Mỹ thiết lập nên một chính phủ liên bang

có quyền lực giới hạn. Người Mỹ luôn nghi ng ờ quyền lực của chính quy ền. Sự

tập trung hóa quyền lực trong hành pháp bị coi là sẽ dẫn đến chuyên chế. Hệ thống

tòa án của Mỹ, bởi vậy, đã khẳng định vai trò của người bảo vệ cho tự do cá nhân

chống lại khả năng lạm quyền của nhà nước.

Hệ thống tòa án của Mỹ khác với của Pháp, là một bộ máy xét xử nhất thể,

các tòa án liên bang không được phân chia theo thẩm quyền.

Trong khi hệ thống tòa án tư pháp liên bang được thiết lập theo hiến pháp

Mỹ thì các tòa hành chính lại được tạo ra bởi Quốc hội. Các tòa hành chính Mỹ có

56

cấu trúc rất khác nhau. Một số tòa có th ể có nhi ều hơn hoặc ít hơn một số chức

năng so với các tòa án thông thường. Ví dụ, tòa Thuế và tòa Khiếu nại. Một số tòa

hành chính thì được thành lập trong nội bộ các cơ quan hành chính, nh ư Ủy ban

Thương mại Liên bang. Sự khác nhau quan trọng giữa các tòa hành chính này có

liên quan đến sự bảo hộ được chấp thuận bởi thẩm phán liên bang, một đặc điểm

mà thoạt đầu có vẻ dường như là đặc điểm phụ của hệ thống.

Đối với Nhật Bản, một nước gần với chúng ta, đã xây dựng mô hình tòa án

giống như của Mỹ, theo đó tất cả các tranh chấp, bao gồm cả trong lĩnh vực hành

chính đều được giải quyết bởi hệ thống tòa án th ường. Điều 76 Hi ến pháp 1947

quy định: “toàn bộ quyền lực tư pháp đều được trao cho Toà án Tối cao và toà án

các cấp được thành lập theo quy định của pháp lu ật” và “Không được thành lập

bất kỳ một Toà án đặc biệt nào cũng như không một cơ quan Hành pháp được trao

quyền tư pháp cuối cùng” [63, tr.29-30].

Nhìn về bề ngoài, tòa án tư pháp giải quyết vụ án hành chính như quy định

của Hi ến pháp, nh ưng th ủ tục gi ải quy ết lại gi ống nh ư tòa án hành chính ảnh

hưởng mô hình từ Đức.

Hệ thống tòa án của Nhật Bản hiện nay bao gồm bốn cấp: 450 tòa án rút

gọn, 50 tòa án quận được đặt ở 47 đơn vị hành chính trong cả nước trong đó vùng

Hokkaido có 4 tòa án, 8 tòa án phúc th ẩm đặt tại Tokyo, Osaka, Nagoya,

Hiroshima, Fukuoka, Sendai, Sapporo, Takematsu, và tòa án tối cao đặt tại Tokyo.

Về nguyên tắc, tòa án tư pháp có nhiệm vụ giải quyết vụ án hành chính; tuy nhiên,

trong xu hướng cải cách hi ện nay, một số tòa qu ận như Tokyo, Osaka, Nagoya,

Yokohama, Saitama, Chiba, Kyoto và Kobe có thêm phân tòa đặc biệt chuyên xét

xử hành chính. Các tòa c ủa Nhật Bản không phân chia theo địa giới hành chính,

và Điều 12 Lu ật Kiện tụng hành chính c ủa Nhật Bản quy định, tòa án có th ẩm

quyền giải quyết thường là tòa án n ơi có bất động sản hay tr ụ sở của chủ thể bị

kiện, nhưng ở vị trí cao hơn, không phụ thuộc vào quyền quản lý địa phương của

cơ quan hành chính [82].

Chuyển sang Trung Qu ốc, Điều 41 Hi ến pháp 1982 của Cộng hòa nhân

dân Trung Hoa cho phép ng ười dân được quyền khởi kiện ra tòa các quy ết định,

57

hành vi của tổ chức và cá nhân công quyền và được kiện đòi bồi thường thiệt hại

bởi các quyết định và hành vi đó gây ra. Tòa hành chính n ằm trong hệ thống tòa

án nhân dân đã được thành lập ở bốn cấp, có thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành

chính [63, tr.89-90].

2.4.2. Những vấn đề về thẩm quyền của các tòa án hành chính

Trong hệ thống pháp luật của Pháp, tòa án hành chính chỉ có quyền xét xử

các trường hợp trong phạm vi thẩm quyền xét xử của mình. Tòa án hành chính xét

xử các tranh ch ấp phát sinh gi ữa các cá nhân và c ơ quan hành chính c ũng như

tranh chấp phát sinh giữa các cơ quan hành chính. Dù sự tách biệt là rõ ràng trong

từng hệ thống, nhưng việc phân định giữa hai loại vấn đề vẫn khó giải quyết.

Ở Pháp tòa án có th ể xem xét tính h ợp pháp của các quy ph ạm pháp lu ật

hành chính. Các tòa án có thể phán quyết từ những quyết định nhỏ nhất của chính

quyền địa phương đến các Ngh ị định được ban hành b ởi Tổng thống, ngoại trừ

những văn bản đặc biệt của Chính phủ. Ngoại lệ này xuất phát từ lý luận về đạo

luật của Chính phủ và sự phân biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý và chức năng

điều hành. Theo các học giả Pháp, một số đạo luật bảo vệ lợi ích công như chống

khủng bố, bạo loạn, thiên tai, dịch bệnh..., mặc dù có thể xâm hại đến quyền riêng

tư của cá nhân nhưng nhằm bảo vệ các lợi ích của quốc gia, cộng đồng, Chính phủ

vẫn có thể ban hành. Việc xem xét lại các đạo luật này chỉ có thể là Nghị viện mà

không thể là Hội đồng Nhà nước.

Tòa án không gi ới hạn xem xét các v ấn đề hành chính. V ề nguyên tắc,

người dân có thể kiện bất kỳ một quyết định hay hành vi công quyền nào ra tòa án

có thẩm quyền nếu không thuộc những trường hợp ngoại lệ. Luật hành chính Pháp

chỉ đưa ra một nguyên tắc ngoại lệ là tòa án sẽ không xem xét, giải quyết các vụ

việc liên quan đến quá trình lập pháp của cơ quan Nghị viện, các mối quan hệ luật

pháp quốc tế, các ho ạt động hành chính nh ưng mang bản ch ất dân sự nh ư hợp

đồng hành chính...

Tòa án hành chính Pháp có th ể giải quyết các vụ kiện đòi bồi thường thiệt

hại do hành chính gây ra, Tòa án Đức lại giao vụ việc này cho tòa án thường giải

quyết. Vì các học giả Đức cho rằng, đây là vụ kiện có tính dân sự phải do tòa án

58

thường giải quyết, mặc dù đối tượng bị kiện có thể là cán bộ công chức khi đang

đi thực thi công vụ.

Pháp luật Đức quy định rằng tòa án Hành chính có thẩm quyền xét xử các

tranh chấp theo luật công mà không liên quan đến các vấn đề về hiến pháp, trừ phi

pháp luật chuyển các vấn đề cụ thể sang tòa khác. Các vấn đề về luật tư, ngược lại,

được xét xử bởi các tòa án tư pháp. Các vấn đề về thẩm quyền trong pháp luật của

Đức là đặc biệt khó kh ăn bởi vì nhà n ước có th ể lựa chọn hành động hoặc theo

luật công hoặc theo luật tư. Các cơ quan nhà nước và công ch ức được tự do lựa

chọn hình th ức pháp lý c ủa hành động (Formenwahlfreiheit der Verwaltung).

Công chức có th ể th ực hiện các quy ết định theo lu ật công bằng các hành động

theo luật tư và sử dụng các quyền theo luật tư. Khi hành động được thực hiện theo

chiều hướng này để tận dụng lợi thế của cả luật công và luật tư, thì pháp luật Đức

sử dụng ph ương pháp hai b ước (Zweistufentheorie) để xác định tòa án nào có

thẩm quy ền pháp lý xét x ử. Nh ư đã th ấy, vi ệc sử dụng lý thuy ết này g ồm hai

bước. Bước thứ nhất là hỏi xem li ệu nhà nước đã hành động chưa. Câu hỏi này

được trả lời bằng cách tham chiếu đến luật công. Bước thứ hai là hỏi xem liệu các

phương tiện được sử dụng liên quan đến luật công hay luật tư. Bước này bao gồm

cả việc tham khảo các điều khoản có liên quan ở cả luật công và luật tư.

Về căn cứ để đưa ra phán quyết, luật của các nước này đều cho phép tòa án

phán quyết tính hợp pháp của các quyết định và hành vi hành chính b ị kiện. Tuy

nhiên, họ quy định rõ việc xem xét tính hợp pháp về hình thức và nội dung của đối

tượng khởi kiện, chẳng hạn: luật của Pháp quy định rõ hai căn cứ để xem xét về

hình thức là: 1) không đúng thẩm quyền; 2) vi ph ạm các quy định về thủ tục; và

hai căn cứ để xem xét về nội dung là: 1) vi ph ạm nội dung luật; 2) sự lạm dụng

quyền lực. Bên cạnh đó, xuất phát từ học thuyết về giới hạn quyền tự định đoạt,

hành chính có những quyền tự quyết định trong phạm vi của mình. Như vậy, trong

một số trường hợp, tòa án có thể xem xét các quyết định hay hành vi này có vượt

ngưỡng của quyền tự định đoạt hay không.

Tòa án có th ể xem xét tính h ợp pháp của các quy ết định, hành vi công

quyền bất kể khi nào khi có yêu c ầu khởi kiện. Quyền về bảo vệ pháp luật “triệt

59

để” của công dân tr ước quyền lực hành pháp phát sinh t ừ kho ản 4 điều 19 của

Hiến pháp. Tính triệt để này được thể hiện ở chỗ công dân được bảo vệ trước tất

cả các văn bản hành chính hay nói cách khác, các Tòa án phải bảo đảm sự bảo vệ

pháp luật về mặt nguyên tắc chống lại tất cả những hành vi vi phạm pháp luật của

cơ quan hành pháp.

Trong nội dung bản án hành chính, lu ật các n ước này quy định rõ th ẩm

quyền tòa án trong việc giải quyết từng vụ án cụ thể, không chỉ tuyên bố tính trái

pháp luật của các quy ết định, hành vi bị kiện. Chẳng hạn, Tòa án Pháp có th ẩm

quyền: hủy, giữ nguyên hay sửa những sai phạm trong các quyết định bị kiện; xác

định các quy ền được làm và không được làm của các đương sự; quyết định việc

bồi thường thiệt hại; giải thích việc áp dụng quyết định phù hợp với thực tiễn pháp

lý mặc dù quyết định quy phạm có thể bị tuyên là trái luật; áp đặt mức phạt hoặc

bổ sung khoản tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản công; áp dụng biện

pháp cưỡng chế bắt buộc đối với đối tượng bị kiện.

Còn theo luật Hoa Kỳ, các tòa hành chính được tạo ra bởi Quốc hội căn cứ

vào sự cần thiết và phù hợp với Điều I của Hiến pháp Hoa Kỳ. Tòa hành chính vì

thế được gọi là Tòa án Điều I, và thẩm phán được gọi là Thẩm phán Điều I. Thẩm

phán Điều I làm vi ệc ở các cơ quan hành chính và được xem như là Th ẩm phán

luật hành chính (Administrative Law Judges - ALJ). Qu ốc hội cũng thiết lập các

tòa án theo vùng lãnh thổ theo quy định tại Điều IV của Hiến pháp nước này.

Một điều khoản trong Hi ến pháp có tác động đến sự khác bi ệt giữa thẩm

quyền tư pháp và th ẩm quy ền hành chính ở Hoa K ỳ. Theo đó, các cá nhân có

quyền tham gia hội thẩm xét xử trong các vụ kiện tụng theo thông luật. Vì xét xử

bồi thẩm đoàn chỉ có trong hệ thống tư pháp nên quyền xét xử bồi thẩm đoàn giới

hạn một số loại nhất định các vụ việc được đưa ra tòa tư pháp. Theo luật Mỹ, đối

với phần lớn các tranh chấp pháp lý, Quốc hội có thể giao các vụ việc hoặc là cho

các tòa án tư pháp ho ặc cho các Toà án hành chính, ho ặc để cho cả hai. Vấn đề

thẩm quyền của tòa án hành chính Mỹ là rất phức tạp, khó hiểu.

Ở Nhật Bản, các quy định liên quan đến thẩm quyền và thủ tục giải quyết

được sửa đổi với nhiều điểm tiến bộ, góp phần bảo vệ triệt để các quyền tự do cá

60

nhân được ghi nh ận trong Lu ật Kiện tụng hành chính ban hành ngày 16/5/1962,

sửa đổi ngày 19/6/2004. Theo đó:

Tòa án Nhật Bản không bị giới hạn bởi các vụ việc hành chính mang tính

liệt kê. Tuy nhiên, các quy ết định hành chính có th ể được kiện ra tòa ph ải thỏa

mãn các đặc trưng của một quyết định hành chính như: tính quyền lực công; hiệu

lực pháp lý, có sự tác động trực tiếp và chính xác với người khởi kiện, mối quan

hệ không phụ thuộc giữa chủ thể và đối tượng quản lý. Tên gọi của các quyết định

này rất đa dạng trong các văn bản pháp luật khác nhau, như giấy phép, giấy đăng

ký, chấp thuận, cấm đoán hoặc xử phạt...

Việc phán quyết tính hợp pháp của các văn bản quy ph ạm pháp luật hành

chính, mặc dù trong lu ật không quy định rõ tòa án có th ẩm quyền hay không,

nhưng Điều 81 Hiến pháp Nhật Bản cũng khẳng định rõ: Tòa án tối cao là tòa án

có thẩm quyển cuối cùng có quy ền phán quy ết bất kể đạo luật, pháp lệnh, nghị

định hay quy định nào có hợp hiến hay không. Như vậy, mặc dù không có Tòa án

Hiến pháp, Nhật Bản cũng thừa nhận quyền tài phán hiến pháp được trao cho tòa

án tối cao. Về nguyên tắc, người dân không thể khởi kiện một quy phạm ra tòa án;

tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính cụ thể, tòa án có quyền xem

xét tính hợp hiến và hợp pháp của các quy phạm mà dựa vào đó quyết định bị kiện

được ban hành. Thẩm quyền phán quyết cuối cùng thuộc về Tòa án tối cao [63].

Thủ tục tố tụng về nguyên tắc, người dân có th ể kiện ra tòa án b ất kể lúc

nào. Tuy nhiên, một số luật đặc biệt cũng quy định ngoại lệ phải qua bước khiếu

nại, nhưng Luật Kiện tụng hành chính cho phép trong trường hợp quá ba tháng mà

quyết định giải quyết khiếu nại không được ban hành hoặc trong trường hợp khẩn

cấp nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra, người dân có thê kiện ra tòa án.

Theo tác gi ả Phạm Hồng Quang, các lo ại kiện tụng hành chính được quy

định rõ trong Lu ật Kiện tụng hành chính sửa đổi năm 2004: 1) Ki ện tụng các vụ

việc công; 2) Ki ện tụng về thẩm quyền giữa các cơ quan; 3) Ki ện tụng giữa các

bên và 4) Kiện tụng yêu cầu hủy bỏ, công nhận hay gắn liền với các nghĩa vụ nhất

định, trong đó hai loại kiện tụng đầu được gọi là kiện tụng mang tính khách quan,

và hai lo ại còn lại là ki ện tụng mang tính ch ủ quan. Ki ện tụng yêu cầu hủy bỏ,

61

công nhận hay gắn liền với các ngh ĩa vụ nhất định là lo ại kiện tụng phổ biến và

quan trọng nhất, trong đó tập trung nhiều nhất là kiện tụng hủy bỏ các quyết định

hoặc hành vi hành chính trái luật. Về điều kiện để khởi kiện yêu cầu cơ quan hành

chính phải dừng thực hiện một hành vi nhất định, người khởi kiện và tòa án ph ải

chứng minh được những thiệt hại lớn có thể xảy ra nếu cơ quan hành chính không

dừng thực hiện hành vi. Tuy nhiên, lu ật chưa quy định rõ thế nào là thiệt hại lớn

và trao quy ền tự quyết cho tòa án. Th ẩm quyền ra phán quy ết của tòa án trong

từng giai đoạn, Luật Kiện tụng hành chính Nhật Bản xác định rõ tòa án có quyền:

bác bỏ đơn khởi kiện (khi tiếp nhận đơn); bác bỏ yêu cầu (khi đã thụ lý giải quyết

và nghị án); chấp nhận yêu cầu (hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định trái pháp

luật). Về nguyên tắc, một quyết định trái pháp luật sẽ bị tòa án tuyên hủy và không

còn hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, Điều 31 của luật có tên g ọi “phán quy ết hoàn

cảnh” được coi như ngoại lệ. Theo đó, trong trường hợp quyết định hành chính rõ

ràng là trái pháp luật nhưng nếu sự hủy bỏ có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích công,

tòa án có quy ền bác bỏ việc khởi kiện mặc dầu phải tuyên bố tính bất hợp pháp

của quyết định bị kiện trong nội dung của bản án. Luật Nhật Bản còn cho phép tòa

án đang thụ lý, theo đơn kiện của người khởi kiện có quyền cho phép họ thay đổi

yêu cầu sang ki ện Nhà nước hay cơ quan công quy ền có liên quan đến vụ việc

đang giải quyết mà không cần thiết phải mở vụ án mới. Ở Nhật Bản, các vụ kiện

mà trong đó một bên đương sự yêu cầu Nhà nước hoặc chính quyền địa phương

bồi thường nếu gây ra nh ững thiệt hại nhất định dựa theo quy định của Luật Bồi

thường nhà nước, Luật Kiện tụng hành chính, Lu ật Tố tụng dân sự và nó c ũng

được xem như là một vụ kiện dân sự [82].

Tòa hành chính Trung Quốc về nguyên tắc, tòa chỉ phán quyết tính hợp

pháp của các quyết định, hành vi hành chính b ị kiện, cũng như chỉ giới hạn xem

xét vụ việc được liệt kê trong lu ật. Tuy nhiên, Lu ật Kiện tụng hành chính Trung

Quốc cho phép tòa án “ được sửa chữa lại các quy ết định xử phạt không hợp lý,

không công bằng thông qua bản án của tòa”. Như vậy, đây có thể coi là ngo ại lệ

trong việc tòa án có thể xem xét tính hợp lý của các quyết định xử phạt hay cưỡng

chế khi bị kiện.

62

Việc xác định đối tượng khởi kiện tại tòa án, luật của Trung Quốc không có

điều khoản quy định rõ ràng. Khái niệm quyết định hành chính là đối tượng khởi

kiện tại tòa án cũng chưa được quy định rõ ràng.

Việc xem xét quy ết định hành chính mang tính quy ph ạm, giống như việc

xem xét một văn bản quy ph ạm pháp lu ật. Việc này được Trung Quốc quy định

trao quyền cho Qu ốc hội, Ủy ban Th ường vụ Quốc hội, Chính ph ủ ho ặc chính

quyền địa phương cấp cao hơn xử lý. Tuy nhiên, trong Luật Kiện tụng hành chính

cho phép các tòa án, trong quá trình gi ải quyết các vụ án hành chính c ụ thể, có

quyền xem xét tính hợp pháp của các văn bản hành chính quy ph ạm của các cấp

vụ ở Trung ương, hay của chính quy ền địa ph ương. Điều đó có ngh ĩa, về mặt

nguyên tắc, không được khởi kiện quy phạm một cách độc lập, mà phải gắn liền

với một quyết định cá biệt bị kiện trên cơ sở dựa vào quy phạm pháp luật bị cho là

trái pháp luật đó. Khi phán quy ết, tòa án cũng không có quy ền tuyên bố vô hi ệu

hoặc hủy bỏ, mà quy ền này thu ộc về các cơ quan có th ẩm quyền theo quy định

của Hiến pháp.

Về quy ền kh ởi ki ện, Lu ật Ki ện tụng hành chính Trung Qu ốc cho phép

người dân được quyền khởi kiện ngay ra tòa án có thẩm quyền mà không cần phải

trải qua bước tiền tố tụng. Trung Quốc cho phép người dân quyền chọn lựa hoặc

khiếu nại tới cơ quan hành chính hoặc tới tòa án. Trong thực tiễn, khoảng 90% các

vụ án trước khi được đem ra tòa đều trải qua giai đoạn giải quyết khiếu nại.

Về nội dung của bản án hành chính, Luật của Trung Quốc quy định rõ bốn

loại quyết định tòa án có th ể tuyên: 1) gi ữ nguyên quyết định bị kiện; 2) hủy; 3)

sửa đổi; 4) buộc phải thực hiện một hành vi nhất định. Gần đây, Khoản 3, Điều 3

của Luật Bồi thường nhà nước cho phép người dân kiện cơ quan công quyền đòi

bồi thường thiệt hại ra tòa hành chính, vi ệc ban hành bản án có n ội dung là xác

nhận sự thiệt hại xảy ra được xem là điểm mới bổ sung cho phán quyết của tòa án.

Về việc đảm bảo thi hành án hành chính, Điều 65 của Luật Kiện tụng hành chính

cho phép tòa án áp dụng một số biện pháp cứng rắn bắt buộc cơ quan hành chính

hay cá nhân công quyền phải thực hiện nghiêm túc các nội dung của bản án. Các

biện pháp này bao g ồm: gửi yêu cầu tới ngân hàng đề nghị chuyển từ tài kho ản

63

của cơ quan hành chính số tiền phạt cần thu về hoặc số tiền thiệt hại phải trả; áp

đặt khoản tiền phạt từ 50 - 100 nhân dân tệ mỗi ngày đối với các chủ thể liên quan

cố tình không chấp hành bản án; yêu cầu cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên xử lý

các cơ quan hoặc cá nhân vi phạm việc thi hành án; đề nghị truy cứu trách nhiệm

hình sự đối với người đứng đầu cơ quan hoặc cán bộ vi phạm công tác thi hành án

để lại hậu quả nghiêm trọng [82].

2.4.3. Trình tự thủ tục tố tụng hành chính

Hàn Quốc là đất nước theo mô hình ch ỉ có một hệ thống Tòa án, có th ẩm

quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính…; không có một hệ thống tài

phán hành chính riêng chuyên xét xử các khiếu kiện hành chính.

Do không có Tòa án hành chính độc lập nên thủ tục xét xử các vụ án hành

chính ở Hàn Quốc có một số nét đặc thù. Theo Luật tố tụng hành chính của Hàn

Quốc, trình tự tố tụng hành chính chia làm ba giai đoạn: 1) Đơn khiếu nại về một

quyết định hành chính của một cơ quan quản lý trước tiên phải do chính cơ quan

đó giải quyết; 2)Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của cơ quan quản lý

hoặc đã quá hai tháng tính t ừ khi có đơn khiếu nại mà cơ quan bị khiếu nại vẫn

không giải quyết, bên khiếu kiện có quyền gửi đơn khởi kiện tới Tòa án có th ẩm

quyền xét xử để yêu cầu giải quyết. Theo quy định của pháp luật Hàn Quốc, Tòa

án có thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành chính là Tòa án cao cấp; 3) Bất cứ bên

nào không đồng ý với cách giải quyết của Tòa án cao cấp đều có quyền kháng án

lên Tòa án tối cao. Nói chung, thủ tục tố tụng phải qua giai đoạn giải quyết của cơ

quan hành chính nhà nước bị kiện là bắt buộc. Tuy nhiên, vụ kiện có thể được đưa

ra xét xử tại Tòa án mà không c ần có quy ết định giải quy ết của cơ quan đã ra

quyết định giải quyết của cơ quan đã ra quyết định hành chính bị kiện trong một

số trường hợp. Việc đưa vụ kiện ra xét xử nói chung không lo ại trừ hiệu lực thi

hành của quyết định hành chính bị kiện.

Ở Singapore: không có Tòa án hành chính riêng bi ệt. Thông th ường các

khiếu kiện hành chính được giải quyết ở Tòa thượng thẩm. Một số đặc điểm của

việc giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tòa án tư pháp: Chỉ có Tòa thượng thẩm

thuộc Tòa án tối cao mới có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính; còn

64

Tòa sơ cấp không được trao thẩm quyền này; Công dân có quyền khiếu kiện trực

tiếp đến Tòa án t ư pháp, không cần phải khiếu nại qua cơ quan hành chính nhà

nước; Không có th ủ tục hòa gi ải trong tố tụng đối với việc giải quyết các khi ếu

kiện hành chính. Để giải quyết một số vụ việc hành chính đặc biệt, ở Singapore có

thành lập các Hội đồng hành chính.

Một số kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam

Một là: Việc lựa chọn mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở mỗi

nước căn cứ vào nhiều yếu tố và hoàn cảnh cụ thể. Cách thức tổ chức có thể thích

hợp với nước này nhưng lại không thể áp dụng với nước khác hoặc ngược lại. Tuy

nhiên, qua khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử các vụ kiện về hành chính ở một số

nước, có thể nhận thấy rằng, mỗi mô hình tổ chức đều có những ưu điểm và hạn

chế của nó. Điểm chung dễ nhận thấy là: Tòa án hành chính được tổ chức theo

khu vực; Hệ thống tổ chức tòa án hành chính được tổ chức theo cấp xét xử;

Hai là: Quyền hạn của Toà án hành chính ở các nước có quy định khác

nhau, tuy nhiên đều cố gắng không vi phạm các nguyên tắc về sự phân chia (hay

phân công) quyền lực, tài phán hành chính không lấn sang hoạt động quản lý.

Ba là: Thủ tục tố tụng được quy định rõ ràng, ghi nhận quyền và nghĩa vụ

của các bên khi tham gia xét xử vụ án hành chính. Tùy thuộc điều kiện cụ thể từng

nước mà pháp lu ật của nước đó có th ể quy định thủ tục khiếu nại đến cơ quan

hành chính trước khi kh ởi kiện ra cơ quan tài phán hành chính là b ắt buộc hoặc

không bắt buộc (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác);

Trong tố tụng hành chính, cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong

cơ quan hành chính có ngh ĩa vụ chứng minh tính đúng đắn của quyết định hành

chính, hành vi hành chính; Nguyên tắc “điều tra” được áp dụng; Nhìn chung đều

quy định tòa án hành chính có thể tạm đình chỉ quyết định hành chính của cơ quan

hành chính;

Bốn là: Về thi hành án hành chính: Pháp luật tố tụng hành chính các nước

có nh ững quy định về vi ệc thi hành b ản án, quy ết định của tòa án hành chính,

trong đó có thể quy định biện pháp phạt tiền đối với cơ quan hành chính không thi

hành bản án, quyết định của tòa án hành chính. Bên cạnh đó, còn có các quy định

65

về trách nhiệm công vụ cũng bảo đảm sự thi hành các bản án, quyết định của tòa

án hành chính. Theo đó, nếu một công chức không thi hành bản án, quyết định của

tòa án hành chính thì người này đã vi phạm trách nhiệm công vụ và điều đó có thể

dẫn đến việc phải bồi thường thiệt hại cho đương sự. Khi phải bồi thường, cơ quan

hành chính sẽ đứng ra thanh toán, sau đó công chức nói trên phải bồi hoàn khoản

đã thanh toán đó.

Nghiên cứu hoạt động xét xử vụ án hành chính ở các nước có nền tài phán

hành chính phát triển như Pháp, Đức hay Nhật Bản, hay tham khảo mô hình Trung

Quốc, chúng ta nhận thấy Việt Nam còn chưa có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn

để hoàn thiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét

xử các vụ án hành chính tại tòa án.

Những kinh nghiệm đã phân tích ở trên cho th ấy sự cần thiết phải học tập

kinh nghiệm nước ngoài theo h ướng mô hình tòa hành chính c ần ti ếp tục hoàn

thiện để đảm bảo tính độc lập của tòa án, chẳng hạn giải pháp thành lập mô hình

tòa hành chính vùng như của Pháp, Nhật Bản là đảm bảo tính khả thi. Thẩm quyền

xét xử cũng nên được mở rộng một cách tối đa, đồng thời cũng xác định rõ trách

nhiệm của cơ quan hành chính trong việc tham gia xét xử tại tòa án.

Tiểu kết chương 2

Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong giải quyết

các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân là m ột nội dung quan tr ọng, liên quan

đến vấn đề quản lý nhà nước, đến sự phân công, tổ chức thực hiện quyền lực nhà

nước, đến bảo vệ quyền, tự do và lợi ích của công dân…

Về lý luận, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

bằng Tòa án có ngu ồn gốc sâu xa t ừ các quan ni ệm, tư tưởng ti ến bộ của loài

người trong các học thuyết chính trị, pháp lý cổ xưa, thể hiện khát vọng của con

người về tự do, bình đẳng, công bằng và mong muốn về một nhà nước pháp quyền

với xã hội công dân mà trong đó, nhà nước và pháp lu ật là bảo đảm quan tr ọng

nhất của con người với đầy đủ các quyền tự nhiên, phù hợp với quy luật của đời

sống và sự phát triển của xã hội loài người.

66

Sự phát triển các học thuyết trên đây trong thời kỳ cách mạng tư sản là cơ

sở lý luận khoa học cho việc xây dựng, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước

tư sản. Các giá trị tích cực của chúng đang ngày càng phát huy vai trò, tác d ụng,

được đề cao và áp dụng rộng rãi trong thời đại hiện nay.

Là một bộ ph ận lý lu ận rất cơ bản, các quan ni ệm, quan điểm, các h ọc

thuyết về tổ chức và hoạt động của Tòa án nói chung, về vấn đề bảo đảm quyền và

lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bằng Tòa án nói riêng của hệ thống tư pháp,

hệ thống Tòa án chính là nh ững điểm tựa khoa học cho vi ệc xây dựng các thi ết

chế tài phán hành chính và đặc biệt là việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt

động bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ chức bằng con đường

Tòa án tại Việt Nam.

Chính vì vậy, nghiên cứu và hệ thống được các quan niệm, quan điểm khoa

học về các nội dung trên có tác dụng vê cùng to lớn, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc

trong việc bổ sung và hoàn thiện các chế định bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức bằng con đường Tòa án ở nước ta.

67

Chương 3 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG

HÀNH CHÍNH - CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP

PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM

Như đã trình bày, thang giá trị cao nhất của trào lưu giải phóng con người,

cho con người và vì con người chính là hướng tới xây dựng, củng cố và hoàn thiện

nhà nước pháp quyền. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật luôn luôn được đề

cao. Pháp luật vừa là chuẩn mực cho các bên trong m ọi quan hệ của một xã hội

công dân; nó xác lập rõ nguyên tắc "công dân được làm tất cả những gì pháp luật

không cấm" và "Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp lu ật quy định". Pháp

luật cũng chính là c ơ sở để Nhà nước th ực hiện vai trò, trách nhi ệm của mình

trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Nhìn lại thực trạng pháp lu ật về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công

dân, tổ chức thông qua hoạt động của Nhà nước, đặc biệt là thông qua xét xử hành

chính của Tòa án, chúng ta có thể thấy có các giai đoạn phát triển sau đây:

3.1.1. Giai đoạn trước tháng 7/1996

Như chúng ta đều biết, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà

nước là của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,

mọi hoạt động của bộ máy nhà n ước phải phù hợp với ý chí, nguy ện vọng của

nhân dân, vì nhân dân ph ục vụ. Sứ mệnh của Nhà nước là "b ảo đảm và không

ngừng phát huy quy ền làm ch ủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm tr ị mọi hành

động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân" [45].

Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo có tác d ụng to lớn trong vi ệc mở

rộng dân chủ để nhân dân th ực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia giám sát

hoạt động của cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, loại

trừ những biểu hiện quan liêu hách dịch, sách nhiễu quần chúng của cán bộ, công

chức, tạo sự ổn định chính tr ị, xã hội, phát huy s ức mạnh nội lực của nhân dân

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

68

Nhìn lại toàn bộ nh ững văn bản pháp lu ật quy định về quy ền khiếu nại,

quyền tố cáo của công dân, trách nhi ệm của các cơ quan giải quyết khiếu nại, tố

cáo, chúng ta thấy rõ sự phát triển của hệ thống pháp luật về vấn đề này. Nội dung

của những văn bản này theo thời gian càng cụ thể, đầy đủ hơn, tạo cơ sở pháp lý

vững chắc để bảo vệ quyền dân chủ của công dân. Việc thi hành pháp lu ật khiếu

nại, tố cáo của công dân cũng cho thấy, cùng với việc đổi mới có chế chính sách,

hoạt động của các cơ quan có th ẩm quyền giải quyết khiếu nại phần nào đã đáp

ứng được yêu cầu chính đáng của nhân dân.

Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 mặc dù đã có nh ững

quy định về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại song chưa có sự phân định rành

mạch cho từng cấp giải quyết. Trong khi đó th ực tiễn cho th ấy, việc giải quyết

khiếu nại ở từng cấp có sự khác nhau về thủ tục. Việc quy định thủ tục ra quyết

định giải quyết cuối cùng của Thủ trưởng các cơ quan hành chính cũng giống với

thủ tục giải quyết lần đầu của cơ quan bị khi ếu nại và lần th ứ hai của cơ quan

thanh tra là không hợp lý và khó thực hiện. Chính vì thế, trình tự thủ tục thẩm tra,

xác minh, ra quyết định giải quyết khiếu nại hầu như không thể thực hiện được đối

với các cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu. Đó là chưa kể đến các luật, pháp lệnh

khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng

tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong thực tế,

trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được áp dụng thiếu thống nhất ở mỗi

ngành, mỗi địa phương. Có trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo được áp dụng

thiếu thống nhất ở mỗi ngành, mỗi địa phương. Có tr ường hợp giải quyết khiếu

nại, tố cáo nhưng lại bỏ qua giai đoạn thẩm tra xác minh.

Trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo quy định trong Pháp lệnh khiếu nại, tố

cáo của công dân năm 1991 về cơ bản chỉ phù hợp với hoạt động của Thanh tra

nhà nước. Tình trạng ba cấp giải quyết bị nhập làm một và đều do cơ quan thanh

tra tiến hành (cơ quan bị khiếu nại giải quyết lần đầu, cơ quan thanh tra giải quyết

lần 2, cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp với cơ quan thanh tra giải quyết lần

cuối cùng). Thực tế công tác giải quyết khiếu nại trong những năm qua cho thấy,

bản thân cơ quan hành chính không quan tâm đúng mực đến việc giải quyết khiếu

nại đối với quyết định của chính mình. Tình tr ạng trì hoãn vi ệc giải quyết, giải

69

quyết không đúng pháp luật chưa được khắc phục. Qua khảo sát thấy có 80% các

khiếu nại phát sinh từ cơ sở nhưng không được giải quyết kịp thời.

Từ khoản 1 Điều 1 Pháp l ệnh khiếu nại, tố cáo của công dân n ăm 1991

quy định "Công dân có quy ền khiếu nại với cơ quan nhà n ước có th ẩm quyền

về quyết định ho ặc việc làm trái pháp lu ật thu ộc ph ạm vi qu ản lý hành chính

của cơ quan nhà n ước hoặc nhân viên nhà n ước, xâm ph ạm quyền, lợi ích hợp

pháp của mình".

Để làm rõ phạm vi của quyền khiếu nại thông thường và để phân biệt với

khiếu nại về hoạt động tư pháp đã được quy định trong pháp lu ật tố tụng, đoạn

2 kho ản 1 Điều 1 trên còn gi ải thích: "Quy ền khi ếu nại của công dân đối với

quyết định của cơ quan ti ến hành t ố tụng hình s ự, dân s ự… do pháp lu ật tố

tụng… quy định".

3.1.2. Giai đoạn từ tháng 7/1996 đến tháng 7/2011

Sự ra đời của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996

(đã được sửa đổi, bổ sung các năm 1998 và 2006 đánh một dấu mốc quan trọng

trong sự phát triển pháp luật về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ

chức thông qua xét x ử hành chính t ại Tòa án. Đồng thời, hàng lo ạt các văn bản

luật, pháp lệnh đều ghi nh ận quyền khiếu nại, khởi kiện đối với các quy ết định

hành chính, hành vi hành chính trong m ột số lĩnh vực pháp lu ật cụ thể và ngày

càng mở rộng quyền khiếu nại, khởi kiện, và cơ chế đảm bảo thực hiện quyền và

lợi ích hợp pháp của các đương sự khi quyết định mang vụ việc khiếu kiện hành

chính của họ ra Tòa án để giải quyết. Từ 9 nhóm việc thuộc thẩm quyền giải quyết

của Tòa án theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

năm 1996, đến 11 nhóm vi ệc theo Pháp l ệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành

chính năm 1998 và 22 nhóm việc theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành

chính năm 2006.

Ngày 05-4-2006, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh sửa

đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

(gọi tắt là Pháp lệnh sửa đổi năm 2006) và pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ

ngày 01-6-2006. Pháp lệnh này có những điểm đáng chú ý sau đây:

70

Thứ nhất: Về điều kiện khởi kiện vụ án hành chính

Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo sửa đổi năm 2005, thì sau khi

khiếu nại lên người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của

pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khi ếu nại không được giải quyết hoặc đã được

giải quyết, nhưng không đồng ý thì h ọ có quy ền khởi kiện vụ án hành chính t ại

Tòa án. Vì v ậy, Pháp lệnh sửa đổi năm 2006 đã bổ sung quy định về điều kiện

khởi kiện đối với trường hợp này là " đã khiếu nại lên người có thẩm quyền giải

quyết khiếu nại lần hai, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật

về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết

nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai", đồng thời Pháp

lệnh sửa đổi năm 2006 cũng sửa đổi, bổ sung về điều kiện khởi kiện đối với các

loại khiếu kiện cụ thể thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại điều 11

của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cho phù h ợp với quy định

của Luật khiếu nại, tố cáo.

Việc quy định như vậy có nghĩa là bắt buộc các cá nhân, tổ chức phải thực

hiện việc khiếu nại đến cơ quan hành chính nhà n ước trước khi kh ởi kiện vụ án

hành chính ra tòa án, dù muốn hay không.

Thứ hai: Về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Pháp lệnh sửa đổi năm 2006, đã bổ sung và quy định thêm các loại “khiếu

kiện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Nh ư vậy, thì chỉ những khiếu kiện đã

liệt kê, “đóng khung” tại các kho ản từ khoản 1 đến khoản 21 Điều 11 của pháp

lệnh, mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Các loại khiếu kiện mới ngoài

những khiếu kiện tại 21 khoản của Điều 11 đã quy định, phải có quy định do pháp

luật Việt Nam ho ặc điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên tham gia sau ngày

5/4/2006, có quy định do Tòa án giải quyết thì Tòa án mới giải quyết.

Thứ ba: Về phân bi ệt thẩm quyền trong tr ường hợp vừa kh ởi kiện vụ án

hành chính tại Tòa án vừa khiếu nại lên người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

lần hai

Về cơ bản, việc phân bi ệt thẩm quyền giải quyết đối với trường hợp vừa

khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án, vừa khiếu nại lên người có thẩm quyền giải

71

quyết khiếu nại lần hai đã quy định về quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa

án đối với trường hợp việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền

giải quyết khiếu nại lần hai: "Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản này,

nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của pháp luật về khiếu

nại, tố cáo mà khi ếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng

người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì có

quyền khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục chung, trừ trường hợp pháp luật có

quy định khác".

Điều 13 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính n ăm 1998

không quy định về quyền khiếu nại của đương sự, kiến nghị của Viện kiểm sát đối

với quyết định chuyển hồ sơ vụ án của Tòa án và gi ải quyết khiếu nại, kiến nghị

trong trường hợp này; do đó, đã hạn chế quyền khiếu nại, kiến nghị đối với quyết

định chuyển hồ sơ vụ án của Tòa án. Vì vậy, trong trường hợp có khiếu nại, kiến

nghị, Tòa án không biết căn cứ vào quy định nào của pháp luật để giải quyết. Tuy

nhiên, Pháp lệnh sửa đổi năm 2006, đã bổ sung về quyền khiếu nại, kiến nghị của

đương sự, Viện kiểm sát đối với quyết định của Tòa án về việc chuyển hồ sơ vụ án

cho Tòa án có th ẩm quyền và việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với trường

hợp này.

Để kh ắc ph ục vi ệc quy định quá chung chung v ề vi ệc gi ải quy ết tranh

chấp về thẩm quyền giữa các tòa án, Pháp l ệnh sửa đổi năm 2006 quy định cụ

thể như sau:

Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án

cấp huyện trong cùng m ột tỉnh, thành ph ố trực thuộc Trung ương do

Chánh án Tòa án cấp tỉnh giải quyết.

Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án

cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau

hoặc giữa các Tòa án c ấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân t ối cao

giải quyết.

Thứ tư: Về thời hiệu khởi kiện

Pháp lệnh sửa đổi năm 2006, đã bổ sung thêm quy định về thời hiệu khởi

kiện tại điều 30 và quy định về thời hiệu khởi kiện đối với loại khiếu kiện khác

72

theo quy định của pháp lu ật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là thành viên tham gia. Cụ thể: "đối với trường hợp quy định

tại khoản 7 điều 2 của Pháp lệnh này thì th ời hiệu khởi kiện theo quy định của

pháp luật Việt Nam và và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là thành viên về trường hợp đó; nếu pháp luật Việt Nam và và điều ước quốc

tế không có quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện là ba mươi ngày,

kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai hay kể từ ngày

nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai".

Ngoài ra, những vấn đề pháp luật khác tạo nên một khung pháp lý tương đối

hoàn chỉnh cho một hệ pháp lu ật tố tụng như th ẩm quyền của những người tiến

hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, các quy định pháp luật

bắt buộc để tiến hành vận hành một quy trình xét xử một vụ án hành chính đã và

đang được hoàn thiện và bổ sung dần. Như vậy, xét ở góc độ xây dựng pháp luật,

những quy định của tố tụng hành chính đã có những tiến bộ nhất định.

3.1.3. Giai đoạn từ 01/07/2011 trở đi

Kế thừa và phát triển tinh thần của pháp luật về bảo đảm quyền, lợi ích hợp

pháp của công dân, tổ chức của các giai đoạn trước, đặc biệt là trên cơ sở tổng kết

thực ti ễn thi hành Pháp l ệnh th ủ tục gi ải quy ết các v ụ án hành chính. Ngày

24/11/2010, Quốc hội đã ban hành Lu ật Tố tụng hành chính, thay th ế cho Pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

3.1.3.1. Các văn bản pháp luật áp dụng

Để quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức tham gia tố tụng được đảm bảo

thông qua việc thực hiện các quy trình tố tụng tại Toà án một cách minh bạch, rõ

ràng và thông su ốt, bên cạnh Luật Tố tụng hành chính, còn ph ải kể đến các văn

bản pháp luật sau:

- Nghị quyết 56/2010/QH12 ngày 224/11/2010 của Quốc hội về thi hành

Luật Tố tụng hành chính

- Nghị quy ết 01/2011/NQ-HĐTP ngày 27/7/2011 hướng dẫn Nghị quy ết

56/2010/QH12 ngày 224/11/2010 của Qu ốc hội về thi hành Lu ật Tố tụng hành

chính do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành.

73

- Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 27/7/2011 hướng dẫn thi hành Luật

Tố tụng hành chính do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành.

- Nghị quyết 01/2015/NQ-HĐTP ngày 27/7/2015 hướng dẫn thi hành Luật

Tố tụng hành chính do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành.

- Nghị quyết 01/2012/NQ- HĐTP ngày 13/6/2012 hướng dẫn áp dụng một

số quy định pháp luật về lệ phí, án phí của Tòa án.

- Thông tư liên t ịch số 01/2012/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày

18/9/2012 hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt

động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.

- Thông tư 03/2012/ TANDTC-VKSNDTC ngày 1/8/2012 hướng dẫn thi

hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính v ề ki ểm sát vi ệc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hành chính

3.1.3.2. Những nội dung quan trọng của Luật Tố tụng hành chính trong

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

Luật Tố tụng hành chính được thông qua với 18 chương và 265 Điều, quy

định nhiều nội dung mới cũng như bãi bỏ nhiều nội dung quan tr ọng trong Pháp

lệnh, theo hướng mở rộng quyền dân chủ của công dân khi khởi kiện vụ án hành

chính. So với Pháp lệnh, Luật tố tụng hành chính có những điểm đáng chú ý là:

Với dung lượng có 18 chương 265 điều quy định về những vấn đề trong tố

tụng hành chính, Lu ật tố tụng hành chính đã đánh dấu một bước nh ảy khá dài

trong kỹ thuật xây dựng pháp lu ật và các v ấn đề bảo đảm quyền lợi ích của các

đương sự trong tố tụng theo nguyên tắc pháp chế tương đối rõ ràng. Cụ thể là:

Thứ nhất: Những đảm bảo trong quy định pháp luật tố tụng liên quan đến

quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của đương sự trong các vụ án hành chính

- Về quyết định hành chính, hành vi hành chính - đối tượng khởi kiện trong

các vụ án hành chính.

Theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì

"quyết định hành chính" là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà

nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp

dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong

hoạt động quản lý hành chính.

74

Do quy định về việc giải thích thuật ngữ "quyết định hành chính" như trên

của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nên d ẫn đến th ực tế có

nhiều cách hiểu khác nhau về "quyết định hành chính". Có ý kiến cho rằng quyết

định hành chính ph ải là văn bản thể hiện dưới hình th ức Quyết định do cơ quan

hành chính nhà n ước hoặc người có th ẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà

nước ban hành được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về

một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước; các loại văn bản

thể hiện dưới hình thức khác như kết luận, thông báo, công văn... thì không được

coi là quy ết định hành chính và không thu ộc đối tượng kh ởi ki ện vụ án hành

chính. Ý ki ến khác lại cho rằng quyết định hành chính bao g ồm cả văn bản thể

hiện dưới hình th ức Quyết định và văn bản thể hiện dưới hình th ức khác do c ơ

quan nhà nước ban hành, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng

về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Cũng có ý kiến cho rằng

đối với văn bản của cơ quan nhà nước không được thể hiện dưới hình thức Quyết

định nhưng có chứa đựng nội dung quản lý hành chính nhà nước thì không coi là

quyết định hành chính mà coi đó là hành vi hành chính. T ừ các cách hi ểu khác

nhau này, nên việc thi hành trên thực tế là chưa được thống nhất.

Để khắc phục tồn tại nêu trên, Luật tố tụng hành chính đã quy định rất cụ

thể thế nào là quy ết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại

Tòa án: "Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà n ước, cơ

quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban

hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được

áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể" (khoản 1 Điều 3).

Người khởi kiện trong vụ án hành chính có th ể khởi kiện khi có các quyết

định hành chính, hành vi hành chính, quy ết định kỷ luật buộc thôi vi ệc xâm hại

đến quyền và lợi ích của họ. Cụ thể là:

Quyết định hành chính là v ăn bản do c ơ quan hành chính nhà n ước, cơ

quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban

hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được

áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

75

Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,

tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện

hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết

định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi

việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.

- Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trải pháp luật

gây ra và giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính:

Điều 5 Luật Tố tụng hành chính quy định hết sức rõ ràng: cá nhân, cơ quan,

tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này.

Về giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính Điều 6 luật này

quy định: Người khởi kiện, người có quy ền lợi, nghĩa vụ liên quan trong v ụ án

hành chính có th ể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này

các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật

về tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Trường hợp trong vụ án hành chính có yêu c ầu bồi th ường thiệt hại mà

chưa có điều kiện để chứng minh thì Tòa án có th ể tách yêu cầu bồi thường thiệt

hại để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

Trong tố tụng hành chính, cá nhân, c ơ quan, tổ chức có quy ền quyết định

việc khởi kiện vụ án hành chính. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi

có đơn kh ởi ki ện của ng ười kh ởi ki ện. Trong quá trình gi ải quy ết vụ án hành

chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình

theo quy định của Luật này.

Đặc biệt, Luật Tố tụng hành chính quy định: Cá nhân, cơ quan, tổ chức nếu

không đồng ý với quyết định hành chính, hành vi hành chính thì có quy ền khởi

kiện vụ án hành chính ra Tòa án, không đặt ra điều kiện phải khiếu nại đến cơ

quan có th ẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu rồi mới có quy ền khởi kiện ra

Tòa án như quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

76

Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức lựa chọn việc khiếu nại tại cơ quan

hành chính thì khi h ết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khi ếu

nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với

việc giải quyết khiếu nại lần đầu (hoặc lần hai) thì họ vẫn có quyền khởi kiện vụ

án hành chính t ại Tòa án. Tr ường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án

hành chính tại Tòa án có th ẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có

thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì th ẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của

người khởi kiện. Với quy định này, việc tự lựa chọn của người khởi kiện, bảo đảm

quyền và lợi ích cho ng ười khởi kiện được tônn trọng, người khởi kiện quyền tự

do lựa chọn khiếu nại tại cơ quan hành chính hay kh ởi kiện vụ án tại Tòa án mà

không bắt buộc phải qua th ủ tục khiếu nại (thủ tục tiền tố tụng) trước khi kh ởi

kiện. Quy định này được coi là b ước đổi mới căn bản về điều kiện, cơ chế giải

quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta theo tinh th ần Nghị quyết số 49-NQ/TW

của Bộ Chính trị là: "... đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành

chính tại Tòa án; tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng…".

- Vấn đề bảo đảm quyền bảo vệ và tự bảo vệ quyền lợi của đương sự, đảm

bảo hoạt động đối thoại trong tố tụng

Luật Tố tụng hành chính quy định: đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật

sư hay ng ười khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án có trách

nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của họ. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án tạo điều kiện để các

đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án. Rõ ràng, đây là một điểm khá khác

biệt so với các quy định trước đây. Dù vậy, nó ph ản ánh một thực tế trong cu ộc

sống, đó là, cá nhân, cơ quan, tổ chức (dân) và cơ quan hành chính, người có thẩm

quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (quan) thường ít gặp nhau về mặt quan

điểm trong xử lý vụ việc hành chính. Kể cả trong trường hợp một trong hai bên có

thiện chí trong thỏa thuận giải quyết vụ việc thì những bất lợi thường nghiêng về

phía người dân. Với quy định này, đối thoại được thực hiện giữa hai bên, có s ự

tham gia điều khiển các vấn đề đối thoại, hòa giải giữa các bên của Tòa án. Điều

này có thể làm cho vụ việc được thúc đẩy nhanh chóng hơn. Tuy vậy, đáng tiếc là

77

các quy định về vấn đề này còn nửa vời, chưa triệt để về phương thức, quy trình

và nội dung được thực hiện tại phiên đối thoại trong tố tụng do Tòa án tổ chức.

- Về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Điều 28 Lu ật tố tụng hành chính quy định nh ững khiếu kiện thu ộc th ẩm

quyền giải quyết của Tòa án theo hướng loại trừ, cụ thể là, Tòa án có thẩm quyền

giải quyết các khiếu kiện sau đây:

1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, tr ừ các quy ết

định hành chính, hành vi hành chính thu ộc phạm vi bí m ật nhà nước

trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngo ại giao theo danh m ục do

Chính phủ quy định và các quy ết định hành chính, hành vi hành chính

mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.

2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử

tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ

Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.

4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh.

Việc quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết các khiếu kiện hành chính

theo phương án lo ại trừ là phù h ợp với tinh th ần của Nghị quyết số 49-NQ/TW

ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó

là "Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khi ếu kiện hành chính";

đồng thời, cũng phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo; bảo đảm quyền,

lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là điểm đổi mới quan trọng của Luật tố tụng hành

chính so với Pháp lệnh. Đồng thời, đảm bảo tính linh hoạt trong áp dụng pháp luật

tố tụng hành chính để xử lý các tình huống pháp luật mới phát sinh mà không cần

đợi phải cập nhật một cách máy móc vào pháp lu ật tố tụng mới được giải quyết

như trước đây nữa.

- Về thời hiệu khởi kiện

Theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành

chính thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là 30 ngày ho ặc 45 ngày tùy theo

78

từng trường hợp. Có thể nói, quy định thời hiệu như Pháp lệnh thủ tục giải quyết

các vụ án hành chính là quá ngắn, cá nhân, cơ quan, tổ chức không có đủ thời gian

để chuẩn bị chứng cứ, lựa chọn, nhờ tư vấn trước khi khởi kiện... Tuy nhiên, nếu

quy định như thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự (02 năm) thì lại quá dài, không phù

hợp với tính ch ất đặc thù của việc giải quyết các khi ếu kiện hành chính. Vì vậy,

thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định

kỷ luật buộc thôi việc là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định

hành chính, hành vi hành chính, quy ết định kỷ luật buộc thôi việc. Quy định này

cũng bảo đảm cho cá nhân, c ơ quan, tổ chức có th ời gian chu ẩn bị tốt cho vi ệc

khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án và phù hợp với tính chất đặc thù của khiếu

kiện hành chính.

- Về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự

Luật tố tụng hành chính quy định đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp

chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp;

nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì ph ải chịu hậu quả của việc

không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn

của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn các tài liệu, chứng cứ

mà mình đang lưu giữ, quản lư khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện Kiểm

sát; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương

sự, Tòa án, Viện Kiểm sát biết và nêu rõ lý do c ủa việc không cung cấp được tài

liệu, ch ứng cứ. Th ời hạn cung cấp ch ứng cứ cho Tòa án, Vi ện Ki ểm sát là 15

ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện Kiểm sát.

Nếu đương sự không th ể tự mình thu th ập được chứng cứ và có yêu c ầu

hoặc xét th ấy cần thiết, Tòa án có th ể tự mình ho ặc ủy thác ti ến hành xác minh,

thu thập chứng cứ để làm rõ các tình ti ết của vụ án. Các biện pháp xác minh, thu

thập chứng cứ bao gồm: Lấy lời khai của đương sự; lấy lời khai người làm chứng;

đối chất; xem xét, thẩm định tại chỗ; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài

sản, thẩm định giá tài sản; ủy thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ

chức cung cấp chứng cứ.

79

Nếu đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà

không thể tự mình thu th ập được thì có th ể yêu cầu Tòa án ti ến hành thu th ập

chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính đúng đắn. Đương

sự yêu cầu Tòa án ti ến hành thu th ập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ v ấn đề cần

chứng minh, chứng cứ cần thu thập và lý do vì sao tự mình không thu thập được.

Tòa án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang

quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.

Rõ ràng, các quy định này rất cần thiết, ràng buộc trách nhiệm của cá nhân,

cơ quan, tổ chức, tạo điều kiện cho Tòa án s ớm thu th ập được chứng cứ để giải

quyết nhanh và chính xác v ụ án hành chính. Đồng thời, tháo gỡ rất nhiều những

vướng mắc cho cá nhân, t ổ ch ức là ng ười bị ki ện trong quá trình tìm ki ếm các

thông tin, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình, trong khi, đa phần các tài liệu,

chứng cứ đó được lưu trữ tại các cơ quan hành chính.

- Về việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Trong quá trình gi ải quy ết vụ án, bi ện pháp kh ẩn cấp tạm th ời được áp

dụng để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo

toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm

việc thi hành án.

Như vậy, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không phải

thực hi ện bi ện pháp bảo đảm. Vê nguyên t ắc, khi đã ra tr ước Tòa án, các bên

đương sự đều bình đẳng trước pháp luật. Nếu quy định người dân khi yêu cầu Tòa

án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì đối

với người bị kiện là cơ quan nhà nước, người có th ẩm quyền trong cơ quan nhà

nước khi yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng phải thực hiện

biện pháp bảo đảm. Với tính chất đặc thù của khiếu kiện hành chính - bên kh ởi

kiện là cá nhân, c ơ quan, tổ chức, còn bên b ị kiện là cơ quan nhà n ước, người

có th ẩm quy ền trong c ơ quan nhà n ước thì có th ể th ấy rằng bên kh ởi ki ện

thường có phần yếu thế hơn so với bên bị kiện. Vì vậy, nếu quy định người yêu

cầu áp dụng biện pháp kh ẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì

có phần hạn chế quyền của người dân được yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi

80

ích hợp pháp c ủa họ, đặc biệt là đối với đương sự thuộc diện nghèo, điều kiện

kinh tế khó khăn...

Thứ hai: Những đảm bảo trong quy định pháp luật tố tụng về nghĩa vụ của

các bên đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng

- Về trách nhi ệm của cơ quan ti ến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

hành chính luật quy định

Cơ quan ti ến hành tố tụng, ng ười ti ến hành tố tụng hành chính ph ải tôn

trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; chịu trách nhiệm trước pháp luật

về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố

tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử

lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; phải

giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thu ần

phong mỹ tục của dân tộc; giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời

tư của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.

Người tiến hành tố tụng hành chính có hành vi trái pháp lu ật gây thiệt hại

cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì cơ quan có người tiến hành tố tụng đó phải bồi

thường cho ng ười bị thi ệt hại theo quy định của pháp lu ật về trách nhi ệm bồi

thường của Nhà nước.

- Về sự tham gia tố tụng hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân

Tố tụng hành chính không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính c ủa

Viện Kiểm sát nhân dân. Việc không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của

Viện Kiểm sát nhân dân trong Lu ật tố tụng hành chính xuất phát từ những lý do:

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân thì Viện Kiểm sát nhân

dân là cơ quan tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân là người

tiến hành tố tụng tại phiên tòa; do đó, nếu quy định Viện Kiểm sát nhân dân có

quyền khởi tố vụ án hành chính v ới vai trò của người tham gia tố tụng là không

phù hợp với chức năng của Viện Kiểm sát. Mặt khác, mặc dù Pháp lệnh thủ tục

giải quyết các vụ án hành chính đã quy định thẩm quyền này cho Viện Kiểm sát,

nhưng thực tiễn trong những năm qua, Viện Kiểm sát nhân dân chưa khởi tố vụ án

hành chính nào.

81

Dù không quy định quy ền kh ởi tố vụ án hành chính c ủa Vi ện Ki ểm sát

nhân dân, nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một số đối tượng nhất

định, nhưng Viện Kiểm sát nhân dân trong vi ệc kiến nghị với cơ quan nhà nước

có thẩm quyền cử người giám hộ đứng ra kh ởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ

quyền và lợi ích cho các đối tượng đó; cụ thể là: Đối với quyết định hành chính,

hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành

niên, người mất năng lực hành vi dân s ự, nếu họ không có ng ười khởi kiện thì

Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người

đó cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp cho người đó.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không phát bi ểu

quan điểm của Viện Kiểm sát về việc giải quyết vụ án mà chỉ sau khi những người

tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý

kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm

phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành

chính, kể từ khi th ụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Như vậy vừa bảo đảm Viện Kiểm sát th ực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của

mình trong tố tụng hành chính, phù h ợp với từng giai đoạn tố tụng, vừa bảo vệ

được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

- Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm

Theo quy định của Lu ật tố tụng hành chính, khi gi ải quy ết vụ án hành

chính, Hội đồng xét xử sơ thẩm có quyền quyết định:

- Bác yêu cầu khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật;

- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần

hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp lu ật; buộc cơ quan nhà nước hoặc

người có th ẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo

quy định của pháp luật;

- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên bố một số hoặc

toàn bộ các hành vi hành chính là trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người

có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật;

82

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc

trái pháp luật; buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ

theo quy định của pháp luật;

- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần

hoặc toàn bộ quy ết định giải quyết khiếu nại về quy ết định xử lý vụ vi ệc cạnh

tranh trái pháp luật; buộc cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết

khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh giải quyết lại vụ việc theo quy

định của Luật Cạnh tranh;

- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; buộc cơ quan lập

danh sách cử tri sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri theo quy định của pháp luật;

- Buộc cơ quan, tổ chức bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp

pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành

vi hành chính, quy ết định kỷ luật buộc thôi vi ệc, quyết định xử lý vụ việc cạnh

tranh trái pháp luật gây ra;

- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người đứng đầu của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người

có thẩm quyền của cơ quan nhà nước.

Việc quy định cụ thể thẩm quyền của Hội đồng xét xử như vậy là bảo đảm

cho bản án, quyết định của Tòa án được cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho việc thi

hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thuận lợi, có hiệu

quả; đồng thời, giúp cho việc xác định trách nhiệm đối với người không chấp hành

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được dễ dàng hơn.

3.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA

TỔ CH ỨC, CÁ NHÂN THÔNG QUA HO ẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA

TÒA ÁN

3.2.1. Tình hình về xét xử án hành chính tại Tòa án nhân dân

3.2.1.1. Tình hình chung

Sau khi thành lập và hoạt động, theo Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân

dân các năm về kết qu ả gi ải quy ết các v ụ án hành chính (v ề số lượng và ch ất

lượng) của Tòa án nhân dân các cấp được thể hiện như sau:

83

- Năm 1998: Tổng số các vụ án đã thụ lý 282 vụ, đạt tỷ lệ 80,5%.

- Năm 1999: Tổng số các vụ án đã thụ lý 408 vụ, đã xét xử 319 vụ, đạt tỷ

lệ 78,1%.

- Năm 2000: Tổng số các vụ án đã thụ lý 539 vụ, đã giải quyết được 419 vụ

đạt tỷ lệ 77,7%.

- Năm 2001: Tổng số các vụ án đã thụ lý 803 vụ, đã giải quyết 564 vụ, đạt 70,2%.

- Năm 2002: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.308 vụ, đã giải quyết 770 vụ,

đạt tỷ lệ 72,3%.

- Năm 2003: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.458 v ụ, đã giải quyết được

1.247 vụ, đạt tỷ lệ 86,6%.

- Năm 2004: Tổng số các vụ án đã thụ lý 1.746 vụ, đã giải quyết 1.524 vụ,

đạt tỷ lệ 87,3%.

So với năm trước, các Tòa án đã xét xử nhiều hơn 277 vụ, cao hơn 22% và

vượt 2,3% so với chỉ tiêu đề ra đầu năm.

Tỷ lệ các vụ án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy là 3,22%, bị sửa

là 5,97%.

Tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy là 0,45%, bị

sửa là 0,85%.

- Năm 2005: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.361 v ụ, đã giải quyết được

1.201 vụ, đạt 88,2% cao hơn năm trước 0,9% và vượt 2,2% so với chỉ tiêu đề ra từ

đầu năm.

Tỷ lệ các b ản án, quy ết định gi ải quy ết các v ụ án hành chính b ị hủy là

6,8%, bị sửa là 5,7%. So v ới năm 2004, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy tăng

3,1%, bị sửa giảm 0,9%.

- Năm 2006: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.232 v ụ, đã giải quyết được

1.081 vụ, đạt 87,7%, vượt 1,7% so với chỉ tiêu đề ra từ đầu năm.

Tỷ lệ các b ản án, quy ết định gi ải quy ết các v ụ án hành chính b ị hủy là

6,2%, bị sửa là 4,7%. So với năm 2005, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy giảm

0,2%, bị sửa giảm 1%. Trong đó, tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ

thẩm bị hủy để giải quyết lại chiếm 9,3%, sửa chiếm 7%, tỷ lệ các bản án, quyết

định của Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy chiếm 2,3%, sửa chiếm 0,3%.

84

- Năm 2007: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.686 v ụ, đã giải quyết 1.546

vụ án, đạt 91,7%, tăng hơn cùng kỳ năm trước 6,2% và vượt 6,7% so với chỉ tiêu

đề ra.

Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết án hành chính bị hủy là 6,27%, bị

sửa là 3,75%. So v ới năm 2006, tỷ lệ các bản án, quy ết định về hành chính hủy

tăng 0,07%, bị sửa giảm 0,95%.

- Năm 2008: Tổng số vụ án đã thụ lý là 1.399 v ụ án hành chính, đã giải

quyết 1.234 vụ, đạt tỷ lệ 88% vượt chỉ tiêu đề ra là 1%.

Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết án hành chính bị hủy là 4,62%, bị

sửa là 6% [102].

- Năm 2009: Tổng số vụ án đã thụ lý là 1.092 v ụ án hành chính, đã giải

quyết 869 vụ, đạt tỷ lệ 80%.

Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết án hành chính bị hủy là 6,92%, bị

sửa là 4,77% [100].

- Năm 2010: Tổng số vụ án đã thụ lý là 1.194 v ụ án hành chính, đã giải

quyết 976 vụ, đạt tỷ lệ 82%.

Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết án hành chính bị hủy là 6,15%, bị

sửa là 6,22% [101].

- Năm 2011: Tổng số vụ án đã thụ lý là 1.706 v ụ án hành chính, đã giải

quyết 1.236 vụ, đạt tỷ lệ 72%.

Tỷ lệ các bản án, quy ết định giải quyết án hành chính b ị hủy là 4,5%, b ị

sửa là 8,5% [103].

- Năm 2012: Toà án nhân dân các c ấp đã thụ lý 6.177 v ụ án hành chính,

tăng 3.854 vụ (bằng 166%) so với cùng kỳ năm 2011; đã giải quyết, xét xử được

4.742 vụ (đạt 77%), tăng 2.952 vụ. Trong đó, giải quyết, xét xử theo th ủ tục sơ

thẩm 3.834 vụ; theo thủ tục phúc thẩm 878 vụ và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm 30 vụ.

Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 3,5% (do nguyên nhân chủ quan 3%

và do nguyên nhân khách quan 0,5%); bị sửa là 3,1% (do nguyên nhân ch ủ quan

2,7% và do nguyên nhân khách quan 0,4%). So v ới cùng kỳ năm 2011, tỷ lệ các

bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan giảm 1,6% [104].

85

- Năm 2013: Tổng số vụ án đã thụ lý 5.858 vụ án hành chính, đã giải quyết

4.671 vụ, đạt tỷ lệ 79%. Tỷ lệ các bản án, quy ết định bị huỷ là 3,4%, b ị sửa là

4,2%; năm 2014 tỷ lệ các bản án, quyết định bị huỷ là 4,64%, bị sửa là 4,3%.

Tỷ lệ các bản án, quy ết định giải quyết án hành chính b ị hủy là 3,4%, b ị

sửa là 4,2% [105].

Đánh giá chung: số liệu tổng kết công tác xét xử các vụ án hành chính của

ngành Toà án, chúng ta nh ận thấy số vụ án hành chính t ừ năm 2011 tăng mạnh

mẽ. Sở dĩ nh ư vậy là vì Lu ật tố tụng hành chính b ắt đầu có hi ệu lực từ ngày

01/7/2011 thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. So với Pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì Lu ật tố tụng hành chính có r ất

nhiều điểm mới, trong đó đã mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các

khiếu kiện hành chính và nới lỏng toàn bộ các điều kiện khởi kiện, tạo điều kiện

thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa người khởi

kiện (người dân) với người bị kiện (cơ quan quản lý hành chính nhà nước và các

cơ quan, tổ chức khác trong hoạt động quản lý hành chính trước Toà án. Khi luật

đi vào cuộc sống, nhận thức của người dân được nâng cao nên đã khởi kiện vụ án

hành chính tại Toà án khi cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của

cơ quan hành chính ho ặc người có th ẩm quyền trong cơ quan hành chính là trái

luật, gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

3.2.1.2. Đánh giá chung về chất lượng giải quyết các vụ án hành chính

- Sau 18 năm (từ 1996 đến 2014) giải quyết các vụ án hành chính, Tòa án

các cấp góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Nếu như trước đây, trong

quá trình quản lý, điều hành Nhà nước, cơ quan hành chính chỉ căn cứ vào Luật tổ

chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân một cách chung chung để ban hành

các quyết định hành chính, thì nay đã căn cứ cụ thể vào các v ăn bản quy ph ạm

pháp luật có liên quan để ban hành quyết định hành chính theo đúng trình tự, thủ

tục, thẩm quyền mà pháp luật đã quy định. Việc thành lập Tòa hành chính đã góp

phần thúc đẩy quá trình cải cách nền hành chính nhà nước, buộc các cơ quan nhà

nước phải tự nâng cao n ăng lực quản lý và ý th ức trách nhi ệm; làm cho các c ơ

quan quản lý hành chính ph ải thận trọng, cân nh ắc hơn khi ban hành m ột quyết

định hành chính hay có hành vi hành chính. Nh ư vậy, việc đảm bảo quyền và lợi

86

ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đã được cơ quan hành pháp ý thức ngay từ ban

đầu trong quá trình tiếp xúc và giải quyết các nhu cầu của công dân trong các mối

quan hệ hành chính.

Tòa Hành chính các cấp đã khẳng định được vị trí của mình trong đời sống

xã hội và là công cụ không thể thiếu được trong công cuộc đổi mới đất nước, xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kết quả giải quyết các vụ án hành

chính của Tòa án các c ấp đã khẳng định vai trò to l ớn của quá trình gi ải quyết

khiếu kiện hành chính bằng con đường tư pháp.

Thông qua ho ạt động của Tòa Hành chính các c ấp, về phía ng ười dân đã

quan tâm và tin t ưởng vào sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới tư pháp nói

riêng, xem đây là bước phát triển của cải cách tư pháp phục vụ công cuộc đổi mới

của đất nước. Sau khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hi ệu

lực thi hành, người dân rất hy vọng và tin tưởng vào phán xét của Tòa Hành chính.

Nhân dân và công luận quan tâm đến tính công khai, minh bạch của phiên tòa xét

xử. Các quyết định của cơ quan hành chính được ban hành không đúng trình tự,

thủ tục, thẩm quyền, nội dung mà pháp luật quy định khi bị Tòa án tuyên xử hủy

bỏ là thực tế minh chứng cho sự cần thiết của phán quyết hành chính. Ngược lại,

khi các yêu cầu khởi kiện của công dân không được Tòa án chấp nhận cũng giúp

cho người khởi kiện hiểu biết và nắm vững hơn pháp luật, thông suốt những quyết

định của cơ quan qu ản lý hành chính nhà n ước, từ đó tự nguyện thực hiện trách

nhiệm, nghĩa vụ của mình. Mặt khác đó cũng là sự cân nhắc, thận trọng của những

người khiếu kiện khác.

Qua rà soát các v ăn bản pháp lu ật liên quan đến thẩm quyền xét xử hành

chính cũng như tình hình giải quyết các vụ án hành chính trong th ời gian qua kể

từ khi Tòa án th ực hiện chức năng xét xử hành chính, vi ệc bảo đảm quyền, lợi

ích hợp pháp của công dân, tổ chức đã chuyển biến tích cực, đánh dấu một bước

phát triển mạnh mẽ cả về số lượng cũng như chất lượng. Đây cũng là một nội

dung rất cơ bản và quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam, đồng

thời thể hiện một bước vai trò tích c ực của nhà nước, của Tòa án trong vi ệc bảo

vệ quyền con người, của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công

dân ở nước ta.

87

Tuy nhiên, do đây là một loại hình tư pháp mới ở Việt Nam nên qua th ực

trạng xét x ử hành chính c ủa Tòa án, v ấn đề bảo đảm quyền, lợi ích h ợp pháp

của cá nhân, t ổ ch ức còn g ặp ph ải một số vướng mắc, nhi ều sai sót c ần ph ải

khắc phục.

3.2.2. Những vướng mắc trong vi ệc áp dụng pháp lu ật Tố tụng hành

chính và pháp luật Hành chính tại Tòa án

Như trên đã trình bày, ngày 21/5/1996, Ủy ban Th ường vụ Qu ốc hội đã

thông qua Pháp l ệnh Th ủ tục gi ải quy ết các v ụ án hành chính (có hi ệu lực từ

01/7/1996, được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và 2006) và Luật Tố tụng hành chính

năm 2011. Dù đã có rất nhiều tiến bộ trong công tác lập pháp, nhưng để đáp ứng

tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhiều quy định của Luật Tố tụng

hành chính còn có nh ững bất cập, chưa rõ ràng, c ụ thể hoặc chưa đầy đủ, chưa

hoàn thiện, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng vào thực tiễn giải quyết các vụ án

hành chính có sự khác nhau, làm ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề bảo đảm quyền

lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng.

3.2.2.1. Những vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của Luật

tố tụng hành chính

Một số vướng mắc trong quá trình áp d ụng Pháp lệnh Thủ tục giải quyết

các vụ án hành chính đã được giải quyết bởi các quy định mới, chặt chẽ hơn theo

hướng có lợi cho đương sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tham

gia tố tụng. Tuy nhiên, Luật tố tụng hành chính vẫn có những điểm còn thiếu sót,

quy định chưa rõ ràng, dẫn đến qúa trình áp dụng, thực thi pháp luật còn có những

lúng túng, vướng mắc không tránh khỏi.

Thứ nhất: Vấn đề thẩm quyền theo loại việc của Tòa án

- "Các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ

quan, tổ chức" không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là những loại quyết

định, hành vi nào? Hi ện nay, nhiều quan điểm chưa thống nhất thuật ngữ "quyết

định mang tính nội bộ", bởi vậy còn có những vụ việc dân chưa dám kiện đến tòa

vì băn khoăn không biết vụ việc của mình có ph ải là vụ việc nội bộ hay không?

Hoặc ngược lại, cá nhân, tổ chức đã nộp đơn khởi kiện đến tòa án nhưng bị từ chối

thụ lý với lý do không vụ án không thuộc thẩm quyền.

88

So với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Hành chính trước đây loại việc

thuộc thẩm quyền giải quy ết của Tòa án ch ỉ được quy định tại điều 11 gồm 22

khoản. Nay Lu ật Tố tụng hành chính quy định về th ẩm quy ền của Tòa án theo

phương pháp loại trừ như quy định ở trên thì phạm vi thẩm quyền được mở rộng, do

vậy có rất nhiều loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy nhiên, khi

xem xét thẩm quyền của Tòa án theo loại việc cần chú ý một số vấn đề sau đây:

Ví dụ 1: Việc không ban hành quy ết định bố trí tuyển dụng công chức có

thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng hành chính không?

Bà Nguyễn Thị Huyền My, xã Quảng Thọ, Quảng Trạch, Quảng Bình vừa

có đơn gửi các cơ quan ch ức năng phản ánh vi ệc bà đã trúng tuy ển công ch ức

nhưng Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch không ra quyết định bố trí tuyển dụng.

Theo nội dung đơn, tháng 12.2012, Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch ra

thông báo tuyển dụng một số chức danh tại các phòng ban thuộc Ủy ban nhân dân

huyện. Th ấy mình có đủ điều ki ện dự tuy ển, bà My đã nộp hồ sơ đăng ký xét

tuyển. Ngày 02.3.2013, Hội đồng xét tuy ển viên ch ức các phòng, ban đơn vị sự

nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân huy ện Quảng Trạch đã tiến hành phiên họp lần 2

xét tuyển hồ sơ đăng ký dự tuyển và kết quả có 7 người trúng tuyển vào các chức

danh Ủy ban nhân dân huyện cần tuyển dụng, trong đó có bà My. Ngày 8.3.2013,

Chủ tịch Ủy ban nhân dân huy ện Quảng Trạch có quyết định công nhận kết quả

xét tuyển công chức sự nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân huy ện năm 2013 đối

với 7 tr ường hợp nói trên, trong đó có bà My. Đến nay, 6 tr ường hợp trong số 7

người nói trên đều có quyết định tuyển dụng công chức của Chủ tịch Ủy ban nhân

dân huyện và được bố trí về làm việc tại các phòng, ban, đơn vị sự nghiệp thuộc

Ủy ban nhân dân huy ện. Riêng đối với bà My v ẫn ch ưa nhận được quy ết định

tuyển dụng và bố trí công việc.

Trong trường hợp này, để trả lời câu hỏi: Nếu bà My khởi kiện vụ án hành

chính tại Tòa án, thì vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa không? Hiện

đang có hai quan điểm:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Đây là một hành vi hành chính (không hành

động) của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch về việc không ban hành

quyết định công nhận kết quả tuyển dụng công chức và bố trí việc làm cho bà My.

89

Hành vi hành chính này th ỏa mãn toàn b ộ các d ấu hi ệu của một hành vi hành

chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Và quan trọng hơn nữa nó xâm

phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà My. Do đó, khiếu kiện này

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án c ủa Tòa án theo quy định tại khoản 1

Điều 28.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Nếu bà My khiếu kiện thì Tòa án không được

thụ lý để giải quyết vì rằng việc nhận người vào làm việc tại cơ quan, tổ chức và

bố trí việc làm cho các thành viên cơ quan, tổ chức là thuộc nội bộ của cơ quan, tổ

chức đó. Điều này thuộc phạm vi loại trừ theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật

tố tụng hành chính.

- Tại khoản 3 Điều 28 Lu ật tố tụng hành chính quy định loại việc thuộc

thẩm quyền giải quyết của Tòa án là "Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc

công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống". Trong số các

loại hình thức kỷ luật mà Luật Cán bộ, công chức quy định thì hình th ức kỷ luật

buộc thôi việc là chế tài nặng nề nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sự

nghiệp của người bị kỷ luật, do đó cần được quyền khởi kiện đến Tòa án nếu cho

rằng việc kỷ luật đó là trái pháp luật. Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức,

việc buộc một người thôi vi ệc không ch ỉ duy nh ất bằng hình th ức kỷ luật do có

hành vi vi ph ạm kỷ lu ật mà còn có nhi ều căn cứ khác nữa. Ch ẳng hạn nh ư tại

khoản 3 Điều 58 của Luật Cán bộ, công ch ức thì "Công ch ức 02 năm liên ti ếp

không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết

buộc thôi vi ệc". Hoặc là, tại khoản 1 Điều 59 Lu ật Cán bộ, công ch ức còn quy

định: công chức thôi việc "do sắp xếp tổ chức". Trên thực tế còn xảy ra nhiều hình

thức buộc thôi việc khác nữa.

Ví dụ 2: Quy ết định hủy bỏ kết quả trúng tuy ển công ch ức có được khởi

kiện không?

Việc bà Trần Thị Diệu Hương khởi kiện Trung tâm Y tế Dự phòng huyện

Bố Tr ạch và Sở Nội vụ tỉnh Qu ảng Bình. Bà H ương là ng ười trúng tuy ển viên

chức sự nghiệp do Sở Y tế Quảng Bình tổ chức xét tuyển và đã được Sở Nội vụ

duyệt kết quả tuyển dụng. Tuy nhiên, sau khi bà H ương được bố trí làm vi ệc tại

Trung tâm Y tế Dự phòng huyện Bố Trạch chưa được bao lâu thì Sở Nội vụ tỉnh

90

Quảng Bình ban hành quy ết định hủy bỏ quyết định phê duyệt kết quả xét tuyển

nên Trung tâm Y tế Dự phòng huyện Bố Trạch ban hành quyết định chấm dứt hợp

đồng lao động (hợp đồng thử việc theo quy định) đối với bà Hương. Vụ kiện được

Tòa án nhân dân t ỉnh Quảng Bình xét x ử sơ thẩm tuyên hủy quyết định của Sở

Nội vụ và buộc Trung tâm Y tế Dự phòng huyện Bố Trạch bố trí lại công việc cho

bà Hương. Theo kháng cáo của bên bị kiện, Tòa phúc th ẩm Tòa án nhân dân t ối

cao tại Đà Nẵng đã xử hủy bản án sơ thẩm vì cho rằng vụ việc không thuộc thẩm

quyền giải quyết của Tòa án, bởi đây không phải là "quyết định kỷ luật buộc thôi

việc" nên theo quy định của Luật tố tụng hành chính hi ện hành thì không thu ộc

thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điêu 28.

Ví dụ 3: Quyết định cho cho thôi vi ệc đối với công chức trái pháp luật có

phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?

Trường hợp của bà Nguyễn Thị Hoạt là giáo viên bị Ủy ban nhân dân thành

phố Đ. ban hành quy ết định "cho thôi vi ệc" trong khi bà Ho ạt không có nguy ện

vọng xin thôi việc để "cho thôi việc". Không đồng ý với quyết định này, bà Hoạt

đã khởi kiện vụ án hành chính nhưng Tòa án không thụ lý vì cho rằng đây là quyết

định "cho thôi việc" chứ không phải là "quyết định kỷ luật buộc thôi việc".

Trên thực tế có nhiều cơ quan nhà nước, người đứng đầu trong các cơ quan

hành chính nhà n ước ban hành quy định cho công ch ức ngh ỉ hưu sớm, nh ững

người không đủ điều kiện nghỉ hưu phải nghỉ hưu làm ảnh hưởng đến quyền lợi

của công chức. Như vậy, quyết định kỷ luật cho thôi việc chỉ là một dạng của hình

thức bu ộc thôi vi ệc, quy ết định cho công ch ức ngh ỉ hưu trái pháp lu ật… dù ở

trong trường hợp nào cũng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sự nghiệp

của người phải thôi việc. Do đó, nếu họ cho rằng việc cơ quan, tổ chức buộc họ

thôi việc là trái pháp luật thì đều phải được quyền khởi kiện đến Tòa án.

Tại khoản 3 Điều 28 Luật tố tụng hành chính quy định loại việc thuộc thẩm

quyền giải quyết của Tòa án là "Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công

chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống". Trong số các loại hình

thức kỷ luật mà Luật Cán bộ, công chức quy định thì hình thức kỷ luật buộc thôi

việc là chế tài nặng nề nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sự nghiệp của

người bị kỷ luật, do đó cần được quyền khởi kiện đến Tòa án nếu cho rằng việc kỷ

91

luật đó là trái pháp lu ật. Theo quy định của Luật Cán bộ, công ch ức, việc buộc

một người thôi việc không ch ỉ duy nh ất bằng hình thức kỷ luật do có hành vi vi

phạm kỷ luật mà còn có nhiều căn cứ khác nữa. Chẳng hạn như tại khoản 3 Điều

58 của Luật Cán bộ, công chức thì "Công chức 02 năm liên tiếp không hoàn thành

nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có th ẩm quyền giải quyết buộc thôi việc".

Hoặc là, tại khoản 1 Điều 59 Lu ật Cán bộ, công ch ức còn quy định: công ch ức

thôi việc "do sắp xếp tổ chức". Trên thực tế còn xảy ra nhiều hình thức buộc thôi

việc khác nữa. Vậy nếu có yêu cầu khởi kiện đối với quyết định cho thôi việc trái

pháp luật thì Tòa án có thụ lý để giải quyết không?

- Lu ật Cán bộ, công ch ức hiện nay ch ỉ điều ch ỉnh đối tượng là "cán b ộ,

công chức" còn đối tượng là "viên chức" sẽ được điều chỉnh bởi Luật Viên chức.

Theo quy định như hiện nay thì viên ch ức bị buộc thôi vi ệc trái pháp lu ật họ sẽ

khởi kiện theo th ủ tục tố tụng nào (vì đối tượng này không thu ộc sự điều chỉnh

của Bộ luật Lao động nên không thể giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự)?

Thứ hai: Phân định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án

- Theo quy định tại Điều 29 Luật Tố tụng hành chính quy định:Tòa án cấp

huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những:

… khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính c ủa cơ quan

nhà nước từ cấp huy ện tr ở xu ống trên cùng ph ạm vi địa gi ới hành

chính với Tòa án ho ặc của người có th ẩm quyền trong cơ quan hành

chính đó…

Điều 30 Luật tố tụng hành chính quy định:

Tòa án nhân dân t ỉnh, thành ph ố tr ực thuộc trung ương (sau đây gọi

chung là Tòa án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những "khiếu

kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang

bộ, cơ quan thu ộc Chính ph ủ, Văn phòng Ch ủ tịch nước, Văn phòng

Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát

nhân dân tối cao và quy ết định hành chính, hành vi hành chính c ủa

người có th ẩm quyền trong cơ quan đó mà ng ười khởi kiện có nơi cư

trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với

Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc

92

hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa

án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành

vi hành chính";

Điều 1 của Nghị quyết 02 h ướng dẫn thi hành Lu ật Tố tụng hành chính

quy định:

Quyết định hành chính thu ộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án

giải quyết vụ án hành chính… bao gồm:

a) Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,

tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban

hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản

lý hành chính;

b) Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội

dung sửa đổi, bổ sung, thay th ế,hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết

định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản này.

Vậy với các quy định trên sẽ dẫn đến vướng mắc: một người có đơn khởi

kiện vừa có yêu cầu đề nghị Tòa án hủy quyết định hành chính của Ủy ban nhân

dân cấp huyện, đồng thời đề nghị hủy quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (có cùng một nội dung xâm hại) thì Tòa án cấp nào sẽ

giải quyết?

- Theo Lu ật Tố tụng hành chính, quy ết định hành chính thu ộc đối tượng

khởi kiện là:

Văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc

người có th ẩm quyền trong các c ơ quan, tổ ch ức đó ban hành, quy ết

định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính... Hành

vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ

chức khác ho ặc người có th ẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực

hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định pháp luật.

Tại khoản 3 Điều 5 thông tư số 19/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn tập sự

hành nghề luật sư có quy định:

Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ban chủ

nhiệm Đoàn luật sư ra quyết định về việc đăng ký tập sự hành nghề luật

93

sư và ghi tên người tập sự hành nghề luật sư vào danh sách người tập sự

của Đoàn luật sư; trong tr ường hợp từ ch ối phải thông báo b ằng văn

bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định

tại Điều 37 của Thông tư này.

Đoàn luật sư không ph ải là cơ quan nhà n ước mà là m ột tổ ch ức xã hội

nghề nghiệp, khi Ban chủ nhiệm của Đoàn luật sư không thực hiện hành vi mang

tính chất quản lý hành chính là: “ghi tên người tập sự hành nghề luật sư vào danh

sách người tập sự của Đoàn luật sư” theo quy định tại quy định trên thì không tìm

thấy cơ sở pháp lý t ương ứng được quy định tại Điều 29, Điều 30 Lu ật tố tụng

hành chính về thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ. Do đó, dù ở Tòa án

cấp huyện hay cấp tỉnh thì cũng không có tòa nào th ụ lý, bởi vì tại các điều luật

này chỉ quy định việc Tòa án thụ lý giải quyết đối với các quyết định hành chính,

hành vi hành chính của cơ quan nhà nước mà thôi. Điều này cho thấy vướng mắc

này tương đối là điển hình về việc các quy định pháp luật tố tụng của hành chính

chưa đảm bảo được quyền và lợi ích của công dân, khi mà chính các luật sư - một

trong các yếu tố đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án

hành chính - vẫn chưa tìm thấy căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho chính họ

ngay từ đầu khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại.

Thứ ba: Về thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong vụ án hành chính

Khoản 5 điều 103 Hi ến pháp năm 2013 quy định “nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được đảm bảo”, tuy nhiên, hi ện nay, trong Lu ật tố tụng hành chính

vẫn chưa có bất kỳ một điều luật nào quy định rõ ràng về vấn đề này. Nguyên tắc

tranh tụng đòi hỏi hoạt động xét xử hành chính phải bảo đảm tranh tụng giữa giữa

các đương sự với nhau và những người này có quyền bình đẳng trong việc đưa ra

chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh lu ận dân chủ trước tòa án. Tòa án có

trách nhiệm bảo đảm các điều kiện theo quy định của luật để họ thực hiện đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ trong việc tranh tụng. Bản án, quyết định của Tòa án phải

căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh

giá tại phiên tòa. Do vậy, còn có nhiều rào cản trong tố tụng.

- Về thủ tục hành chính của Tòa án trong xác định, triệu tập người tham gia

tố tụng:

94

Hiện nay, trong t ố tụng hành chính, th ủ tục tòa án c ấp gi ấy ch ứng nh ận

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhiều khi thủ tục này còn

có những cản trở cho lu ật sư khi tham gia b ảo vệ quyền và lợi ích cho thân ch ủ

của mình. Thật ra, quy ền mời luật sư bảo vệ cho mình thu ộc quyền tự định đoạt

của đương sự. Vậy, khi đương sự có yêu c ầu, luật sư xuất trình th ẻ luật sư, văn

bản yêu cầu nhờ luật sư là đã thể hiện ý chí của đương sự, tòa án chỉ làm thủ tục

đăng ký và tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng.

Bên cạnh đó, nhằm đề cao vai trò và trách nhi ệm bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của các chủ thể xã hội trong tố tụng hành chính, người bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm

khi được đương sự yêu cầu. Tòa án cần triệu tập luật sư và những người tham gia

tố tụng khác có liên quan vi ệc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái

thẩm để trình bày nh ững vấn đề liên quan v ụ án ch ứ không ph ải “có th ể” hoặc

“xét thấy cần thiết” như quy định của pháp luật hiện hành.

- Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong hoạt động chứng minh

So với Pháp lệnh thì Luật tố tụng hành chính đã có những quy định cụ thể

và chi tiết về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Điều này có ý

nghĩa thiết thực trong việc đảm bảo cá nhân, tổ chức trong việc bảo vệ lợi ích của

khách hàng, góp ph ần giải quyết vụ án hành chính khách quan, đúng đắn. Đồng

thời, thể hiện sự tiến bộ trong tư duy lập pháp, ví dụ như quy định người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp được "nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao

chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án…", "được biết, đọc, ghi chép, sao ch ụp

và xem những tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp hoặc do Tòa án thu

thập", "yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý chứng cứ cung cấp

chứng cứ đó cho mình"… Song song với những quy định này, Luật cũng quy định

về "trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền" (Điều 9), nếu không cung cấp được phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý

do. Tuy nhiên, Luật tố tụng hành chính lại chưa hề có quy định về thời hạn để các

chủ thể này thực hiện trách nhiệm khi được yêu cầu và cũng không có chế tài đối

với trường hợp họ không thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ. Do đó

sẽ gây khó khăn cho đương sự khi thực hiện các quyền tố tụng của họ.

95

- Vấn đề thực hiện thủ tục "thỏa thuận về việc giải quyết vụ án" tại Tòa án

Khác với quy định tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

và Bộ luật Tố tụng dân sự, trong Lu ật Tố tụng hành chính không quy định thủ

tục "hòa giải" hay "thỏa thuận" với nhau về giải quyết vụ án mà có quy định về

việc "đối thoại" giữa các bên. Tuy nhiên, th ủ tục này chỉ được quy định hết sức

chung chung, ng ắn gọn tại Điều 12 Lu ật Tố tụng hành chính: "Trong quá trình

giải quyết vụ án hành chính, Tòa án t ạo điều kiện để các đương sự đối thoại về

việc giải quyết vụ án". Với quy định như vậy, sẽ tạo ra nhiều điểm không thống

nhất, tùy ti ện trong quá trình th ực hiện, các v ướng mắc được đề cập đến sẽ là:

đối tho ại trong t ố tụng hành chính có b ắt bu ộc với các bên đương sự hay

không? Đối tho ại gi ữa các bên được th ực hi ện vào th ời điểm nào trong quá

trình giải quyết vụ án? Ch ủ thể tham gia đối thoại gồm những ai? Nguyên t ắc,

cách thức tổ chức như thế nào và các hoạt động tố tụng do Tòa án ti ến hành sau

khi có kết quả đối thoại ra sao?

Thứ tư: Vấn đề thuật ngữ trong Luật Tố tụng hành chính

- Dù Luật Tố tụng hành chính đã có nhiều tiến bộ trong việc minh bạch, rõ

ràng hơn các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quy ết các vụ án hành chính

nhưng vẫn còn sử dụng nhiều cụm từ dễ làm cho ng ười thực hiện cho rằng thiếu

tính rõ ràng, minh bạch như "trừ trường hợp có lý do chính đáng" hoặc "có lý do

khách quan khác"…

- Xét xử hành chính là v ấn đề mới mẻ và pháp lu ật điều chỉnh hoạt động

này không đơn thuần chỉ là những quy định tố tụng hành chính và còn c ả những

quy định pháp luật về nội dung đặc thù. Để đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, Luật

Tố tụng hành chính cần phải quy định cả những nội dung đặc thù này. Ví dụ, trong

xét xử các vụ án hành chính, nh ững quy định về căn cứ đánh giá tính hợp pháp

của các quy ết định hành chính, hành vi hành chính là c ần thi ết; bởi lẽ, căn cứ

những quy định này, các thẩm phán mới có khung cơ sở để đưa ra các phán quyết

của mình. Luật Tố tụng hành chính 2010 chưa có những quy định này và tên gọi

"Luật Tố tụng hành chính" khó có thể bao hàm hết các khía cạnh của vấn đề cần

điều chỉnh. Chính vì l ẽ đó, việc tham kh ảo kinh nghi ệm của một số nước trong

xây dựng pháp lu ật về vấn đề này cần được lưu ý. Ch ẳng hạn, tên gọi "Luật về

96

kiện tụng hành chính" ho ặc "Luật về xét xử hành chính" nh ư một số nước đã sử

dụng có lẽ cũng đáng được suy ngẫm.

3.2.2.2. Những sai sót th ường gặp khi áp d ụng pháp lu ật tố tụng hành

chính trong giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án

Trước tình hình s ố lượng án tăng đột bi ến, đồng th ời Lu ật tố tụng hành

chính cũng có nhiều quy định mới so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành

chính trước kia. Do đó, mặc dù Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã

có các Nghị quyết hướng dẫn thi hành, hướng dẫn áp dụng thủ tục giải quyết các

vụ án hành chính, tuy nhiên thông qua theo dõi công tác thụ lý giải quyết án hành

chính theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm; qua theo dõi tình hình thi hành án

hành chính trong những năm qua, thì những sai sót phổ biến và những vướng mắc,

khó khăn làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức

tham gia giải quyết vụ án hành chính tại Toà án như sau:

Thứ nhất: Xác định không đúng đối tượng khởi kiện vụ án hành chính

- Một số Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm còn nh ầm lẫn và ch ưa phân biệt

được trong tr ường hợp nào thì quy ết định hành chính được ban hành sau khi có

khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ

quyết định hành chính nh ư quy định tại điểm b Điều 1 Ngh ị quyết 02/2011/NQ-

HĐTP. Quyết định hành chính bị khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà

án nhưng khi gi ải quyết lại cho rằng quyết định hành chính đó là quy định tổng

thể, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án để ra quyết định đình chỉ việc

giải quyết vụ án. Các Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án hành chính cần phải nhận

thức rõ rằng: Nếu quyết định mang tính tổng thể, nhưng có danh sách kèm theo

hoặc có bản quy định chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân kèm theo, qua đó

xác định được cụ thể quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, hộ

gia đình như thế nào thì học có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với phần xác

định cụ thể đó.

- Sau khi có quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính, thì văn

bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm

quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có ch ứa đựng nội dung như quyết

97

định được xác định là quyết định hành chính. Tuy nhiên, có Toà án vẫn xác định

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hành vi hành chính.

- Một số Toà án còn khó kh ăn, không phân bi ệt trường hợp nào là quy ết

định hành chính được ban hành là quyết định mang tính nội bộ, không phải là đối

tượng khởi kiện vụ án hành chính.

Thứ hai: Xác định tư cách đương sự trong vụ án hành chính

Một số Toà án còn các định người bị kiện là Uỷ ban nhân dân tỉnh, nhưng

đưa Uỷ ban nhân dân huy ện, Uỷ ban nhân dân xã, các c ơ quan chuyên môn c ủa

Uỷ ban nhân dân… vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan là không đúng, vì quy ền lợi, nghĩa vụ của họ là đồng nhất (quyền và

nghĩa vụ của cơ quan hành chính nhà n ước) và Uỷ ban nhân dân tỉnh là cơ quan

đại diện cho quyền lợi, nghĩa vụ đó đã tham gia tố tụng.

- Về vi ệc xác định tư cách tham gia t ố tụng hành chính c ủa các thành

viên trong h ộ gia đình: Tại Công v ăn số 194/TANDTC-VKHXX ngày

11/9/2013 của Chánh án Toà án nhân dân t ối cáo gửi Toà án nhân dân t ỉnh Bắc

Ninh, có nội dung:

Theo quy định tại Điều 106 và 107 của Bộ luật dân sự thì hộ gia đình

mà các thành viên có tài s ản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt

động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số

lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác cho pháp lu ật quy định là ch ủ thể

khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này. Hộ gia đình tham

gia các giao dịch dân sự thông qua đại diện là chủ hộ. Giao dịch dân sự

do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung

của hộ là phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình.

Theo quy định của điểm d khoản 3 Điều 54 của Luật tố tụng hành chính thì

chủ hộ là người đại diện theo pháp luật của hộ gia đình. Người đại diện theo pháp

luật trong tố tụng hành chính th ực hiện các quy ền, nghĩa vụ tố tụng hành chính

của đương sự mà mình là đại diện.

Như vậy, người đứng tên chủ hộ với tư cách là ng ười đại diện hộ gia đình

khởi kiện vụ án hành chính thì không phải đưa các thành viên trong hộ gia đình đó

vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong

98

trường hợp, người đứng tên chủ hộ là người khởi kiện để bảo vệ với tư cách là cá

nhân, không phải là người đại diện của hộ gia đình hoặc hộ đó đã được tách thành

nhiều hộ (mà chủ hộ không đứng ra khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho cả hộ), thì

cần đưa các thành viên trong hộ gia đình tham gia tố tụng với tư cách là người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Thứ ba: Chưa xác định phạm vi ủy quyền của người được ủy quyền

Trong vụ án hành chính mà ng ười bị kiện là cá nhân có th ẩm quyền ban

hành các quyết định hành chính như: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Giám đốc

các Sở cấp tỉnh… không tr ực ti ếp tham dự phiên tòa mà ủy quy ền cho nh ững

người khác tham dự thay mình. Tòa án đã không xác định phạm vi ủy quyền mà

người được ủy quyền tham dự. Do đó, khi người được ủy quyền có những hành vi

vượt quá phạm vi được ủy quyền thì tòa án đã không phát hiện ra.

Ví dụ: Ông D là giáo viên tr ường tiểu học T, huyện Đ, tỉnh L. Ngày 27-3-

2013, ông D đến trường trung học cơ sở T xin gặp Đoàn thanh tra nhờ can thiệp

với trường trung học cơ sở T xem lại bài kiểm tra học kỳ một về môn lịch sử của

con gái ông vì theo con gái ông cho biết là giáo viên chấm sai.

Trong khi Đoàn thanh tra giáo dục huyện Đ tiếp ông D thì b ảo vệ trường

Trung học cơ sở T mở đài to nên ông D và bảo vệ đã xô xát. Theo ông D và b ảo

vệ xô xát một số giáo viên của trường trung học cơ sở T đã ra can thiệp dẫn đến

xô xát giữa các giáo viên can thiệp với ông D. ông D đã đánh bảo vệ, chửi bới ầm

ĩ, lãnh đạo trường trung học đã báo công an huyện D. Công an đến làm việc, ông

D đã gây sự với công an, đập mũ của công an. Công an đã lập biên bản vi phạm

hành chính đối với ông D.

Ngày 06-5-2013, hi ệu tr ưởng tr ường trung h ọc T yêu c ầu ông D làm

kiểm điểm.

Ngày 08-5-2013, ông D đã bị kiểm điểm trước cơ quan.

Ngày 14-7-2013, Hội đồng kỷ luật huyện Đ họp xét kỷ luật ông D, có mặt

ông D. kết quả 100% phi ếu biểu quyết kỷ luật ông D v ới ông D v ới hình th ức

buộc thôi việc.

Ngày 05-8-2013, Ủy ban nhân dân huy ện Đ ban hành quy ết định số

326/QĐ-UB, kỷ luật ông D với hình thức buộc thôi việc.

99

Ông D đã khiếu nại quyết định 326/QĐ-UB ngày 05-8-2013 của Ủy ban

nhân dân huyện Đ về việc buộc ông thôi việc.

Ngày 19-8-2013, Ch ủ tịch Ủy ban nhân dân huy ện Đ đã ban hành quy ết

định số 339/QĐ-UB giải quyết khiếu nại với nội dung: Bác khiếu nại của ông D,

giữ nguyên quy ết định số 326/QĐ-UB ngày 05-8-2013. Ông D kh ởi kiện vụ án

hành chính đối với quyết định số 326/QĐ-UB ngày 05-8-2013 của Ủy ban nhân

dân huyện Đ.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 04-11-2014, Tòa án nhân

dân huyện Đ, tỉnh L đã quyết định: Bác đơn kiện của ông D; gi ữ nguyên quy ết

định số 326/QĐ-UB ngày 05-8-2013 của Ủy ban nhân dân huyện Đ.

Tại bản án hành chính phúc th ẩm số 03/2005/HCPT ngày 29-9-2013 c ủa

Tòa án nhân dân tỉnh L đã quyết định: Hủy bản án sơ thẩm số 01/HCST ngày 04-

11-2014 của Tòa án nhân dân huyện Đ và đình chỉ giải quyết vụ án.

Ngày 30-12-2013, Ủy ban nhân dân huyện Đ có đơn khiếu nại với nội dung

chủ tịch Ủy ban nhân dân huy ện Đ ch ỉ ủy quyền cho ông L thay m ặt Chủ tịch

tham dự phiên tòa phúc thẩm và trả lời các nội dung có liên quan đến quyết định

số 326/QĐ-UB; không ủy quyền việc thay đổi quyết định 326/QĐ-UB ngày 05-8-

2003 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ.

Tại giấy ủy quyền số 435/GUQ-UB ngày 11-8-2014 của Ủy ban nhân dân

huyện Đ, chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ chỉ ủy quyền cho ông L dự các phiên

tòa hành chính và trả lời những vấn đề liên quan đến quyết định kỷ luật với hình

thức "buộc thôi việc" của Ủy ban nhân dân huyện đối với ông D. Như vậy, ông L

không được Ủy ban nhân dân huyện Đ ủy quyền về việc thay đổi quyết định buộc

thôi việc của Ủy ban nhân dân huy ện Đ đối với ông D. nhưng tại phiên tòa phúc

thẩm, ông L thỏa thuận với ông D với nội dung: "nếu ông D rút đơn khởi kiện thì

Ủy ban thay đổi quyết định buộc thôi việc bằng quyết định cho thôi việc chờ nghỉ

chế độ", nên ông D đã rút đơn khởi kiện vụ án hành chính. Việc ông L thỏa thuận

tại phiên tòa phúc th ẩm với nội dung trên là đã vượt quá ph ạm vi ủy quyền. Do

đó, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của ông D, quyết định

hủy án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

100

3.2.2.3. Những vướng mắc trong quá trình áp d ụng các quy định của

pháp luật nội dung trong giải quyết Luật tố tụng hành chính

Thứ nhất: Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Những kết qu ả đã đạt được trong vi ệc xây d ựng các v ăn bản quy ph ạm

pháp luật xử lý vi ph ạm hành chính th ời gian qua không ch ỉ góp phần nâng cao

hiệu lực, hi ệu qu ả qu ản lý nhà n ước mà còn đáp ứng yêu c ầu phòng ng ừa vi

phạm pháp lu ật và phòng ng ừa tội phạm. Tuy nhiên, khi áp d ụng vào th ực tiễn,

một số văn bản này đã bộc lộ những bất cập, thiếu sót, vướng mắc và mâu thuẫn

lẫn nhau như: Một số vấn đề chưa thống nhất về thẩm quyền của một số chủ thể

xử phạt và chế tài xử phạt hành chính (mức phạt tiền) quy định trong một số văn

bản quy phạm hiện hành, đồng thời đưa ra một số ý kiến hoàn thiện pháp luật xử

lý vi ph ạm hành chính nh ằm góp ph ần bảo đảm an ninh chính tr ị và tr ật tự an

toàn xã hội.

- Một số bất cập về thẩm quyền và chế tài xử phạt hành chính

+ Các quy định về mức xử ph ạt hành chính, v ề th ẩm quy ền của một số

chủ thể xử lý vi ph ạm hành chính trong m ột số lĩnh vực chưa có sự thống nhất

giữa Luật xử lý vi ph ạm hành chính v ới văn bản pháp lu ật quản lý hành chính

chuyên ngành.

Về mặt nguyên tắc, việc xây dựng hệ thống các văn bản quy ph ạm pháp

luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính phải bảo

đảm tính th ống nh ất nội tại trong một văn bản cũng như gi ữa các v ăn bản với

nhau, đồng thời phải rõ ràng về thứ bậc, chính xác, minh bạch và dễ hiểu, dễ thực

hiện, có tính khả thi cao. Nhưng thực tế cho thấy, thẩm quyền của một số chủ thể

và chế tài xử phạt hành chính quy định trong Luật xử lý vi ph ạm hành chính vẫn

còn mâu thuẫn với quy định trong một số văn bản luật chuyên ngành.

+ Nhiều chế tài hành chính quy định ở các văn bản quy phạm pháp luật Xử

lý vi ph ạm hành chính do các c ơ quan qu ản lý khác nhau so ạn th ảo cùng điều

chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định không có sự quy định thống nhất, dẫn

đến sự chồng chéo, làm cho ch ủ thể áp dụng văn bản quy phạm pháp luật không

biết hiểu và áp dụng chế tài của văn bản nào cho đúng.

101

Ví dụ, Nghị định số 73/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực an ninh và tr ật tự an toàn xã h ội, tại khoản 1, Điều 24 quy định:

Hành vi vi ph ạm quy định về bán, sử dụng rượu, bia: "Ph ạt cảnh cáo ho ặc phạt

tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi say rượu, bia ở công sở, nơi

làm việc, trong các khách sạn, nhà hàng, quán ăn, trên các phương tiện giao thông

và nh ững nơi công c ộng". Trong khi đó Ngh ị định số 158/2013/N Đ-CP ngày

12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực văn hóa thông tin,

tại khoản 1, Điều 34 quy định: Vi phạm các quy định về nếp sống: "Phạt cảnh cáo

hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi: say rượu, bia ở

công sở, nơi làm việc, khách sạn, nhà hàng, quán ăn, vũ trường, nơi khiêu vũ công

cộng, phòng hát karaoke, nơi hoạt động văn hóa, kinh doanh dịch vụ văn hóa, trên

các phương tiện giao thông và những nơi công cộng khác".

Như vậy, nhìn vào hai quy định trên, chúng ta thấy: cùng một hành vi say

rượu, bia ở công sở, nơi làm việc, khách sạn, và nơi công cộng khác nhưng có quy

định hai chế tài xử phạt tiền với mức khác nhau từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng

và từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Vấn đề đặt ra ở đây là cả hai văn bản này

hiện đều đang có hiệu lực thi hành, vậy hành vi say r ượu, bia tại những nơi nêu

trên nên áp dụng theo chế tài của văn bản nào? Theo tinh th ần của khoản 3 Điều

83 của Luật Ban hành văn bản quy ph ạm pháp lu ật năm 2008 quy định: "Trong

trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề do cùng một cơ

quan ban hành mà có quy định khác nhau thì áp dụng quy định của văn bản được

ban hành sau". Mặc dù hai văn bản này đều do Chính phủ ban hành (cùng một cơ

quan ban hành), nh ưng trong tr ường hợp này với hai quy định nêu trên có th ể

được hi ểu là cùng v ề một vấn đề hay không? Trong khi Ngh ị định số

150/2005/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh

và trật tự an toàn xã h ội, còn Ngh ị định 158/2013/NĐ-CP quy định về xử ph ạt

hành chính trong lĩnh vực văn hóa thông tin. Rõ ràng đây là hai lĩnh vực quản lý

khác nhau, nhưng lại đều có quy định chế tài về xử phạt hành chính về hành vi vi

say rượu, bia nơi làm việc và nơi công cộng với những mức phạt khác nhau. Vậy

có được coi là trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 83 Luật Ban hành văn

102

bản quy phạm pháp luật hay không? An ninh và trật tự an toàn xã hội và nếp sống

văn hóa là hai v ấn đề khác nhau, không th ể hi ểu và áp d ụng theo quy định tại

khoản 3 Điều 83 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 được.

Thứ hai: Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về quản lý nhà nước về đất đai

- Việc xử lý các "d ự án treo" là m ột trong nh ững điểm nóng của án hành

chính. Vấn đề này cũng được đề cập trong lu ật sửa đổi. Luật Đất đai 2013 quy

định "tr ường hợp không đưa đất vào sử dụng (trong th ời hạn 12 tháng liên t ục

hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ

khi nhận bàn giao đất trên thực địa) thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng

và phải nộp cho Nhà n ước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền

thuê đất đối với thời gian ch ậm tiến độ thực hiện dự án trong th ời gian này; hết

thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước

thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp

do bất khả kháng".

Đánh giá chung thì Luật đất đai sửa đổi có nhiều điểm rõ ràng hơn nhưng

có một số điều sau khi được điều chỉnh, sửa đổi lại được nhiều luật gia đánh giá là

chưa giải quyết vướng mắc cũ, chưa thể hiện được đầy đủ nguyện vọng của nhân

dân dẫn đến sự hoài nghi về tính khả thi của nó.

- Về thu h ồi đất, Hiến pháp 2013 v ừa được Quốc hội thông qua kh ẳng

định Nhà n ước chỉ thu h ồi đất trong tr ường hợp thật cần thi ết vì mục đích an

ninh, qu ốc phòng, để phát tri ển kinh t ế - xã h ội vì l ợi ích qu ốc gia, l ợi ích

công cộng.

Đây là sự thay đổi quan tr ọng làm rõ được phạm vi thu h ồi đất cho phát

triển kinh tế - xã hội chỉ được chấp nhận khi đó là vì lợi ích quốc gia, lợi ích công.

Nó cũng làm rõ được thu hồi đất cho phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,

lợi ích công cộng cũng chỉ được thực hiện khi “thật sự cần thiết”.

Cho dù Hiến pháp chỉ rõ như vậy, và Luật đất đai 2013 khẳng định rõ các

dự án quan trọng cấp quốc gia phải do Thủ tướng và Quốc hội quyết định, cấp tỉnh

sẽ có thêm sự tham gia của HĐND, Luật đất đai 2013 chưa làm rõ được giới hạn

của “thật sự cần thiết” đã chỉ ra trong Hi ến pháp. Trong lu ật đã cụ thể hóa một

phạm vi quá rộng các trường hợp được phép thu hồi đất.

103

Trong mục 3 của điều 62 về chính sách thu h ồi đất do cấp tỉnh thực hiện

quy định thu hồi đất cho c) Dự án xây dựng công trình ph ục vụ sinh hoạt chung

của cộng đồng dân cư; dự án tái định cư, nhà ở cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở

công vụ; xây dựng công trình của cơ sở tôn giáo; khu văn hóa, thể thao, vui chơi

giải trí phục vụ công cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng;

và d) Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô

thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến nông sản, lâm

sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án phát tri ển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.

Quy định như vậy không thể hạn chế tình trạng thu hồi đất tràn lan như trước đây,

việc thu hồi đất có phạm vi quá rộng nhưng lại không làm rõ khái ni ệm “thật sự

cần thiết” sẽ có thể tiếp tục dẫn tới lạm dụng trong thu hồi đất.

- Về bồi th ường, hỗ tr ợ, tái định cư, trong Lu ật Đất đai 2013 không có

nhiều đổi mới về các cơ chế thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, mặc dù thực

tế đang có nhiều bức xúc, kể cả trong bồi thường có giá trị bồi thường cao lẫn bồi

thường có giá tr ị thấp hơn giá tr ị thị trường. Luật chủ yếu được bổ sung một số

quy định của nghị định 69/2009/NĐ-CP. Cách tiếp cận này không th ể giải quyết

được những bất cập đang tồn tại. Xét về góc độ kinh tế - xã hội, là một chủ thể sử

dụng đất, thực chất Nhà nước chỉ là một pháp nhân công sử dụng đất như bất kỳ tổ

chức khác. Nhưng luật sửa đổi đã quá thiên về mệnh lệnh hành chính khi đề xuất

bỏ cơ chế tự thỏa thuận giữa doanh nghiệp với người sử dụng đất và thay vào đó

là cơ chế "nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế trong tất cả các trường hợp".

Quyền sử dụng đất là một quyền tài sản của chủ thể, nên ch ủ thể có quy ền tiến

hành thương lượng với những chủ thể có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích kinh

tế, nhằm đảm bảo lợi ích cho cả hai bên.

Ví dụ, Nhà nước thu hồi đất để xây dựng, phát triển khu công nghi ệp, sau

đó cho các nhà đầu tư thuê để thu ti ền (bổ sung vào ngân sách). Nh ưng con cái

của những người nông dân b ị mất đất lại không được hưởng lợi trong khu công

nghiệp. Dường như bản thân ng ười bị thu hồi đất không có ch ỗ đứng trong ti ến

trình phát triển kinh tế - xã hội ngay tại quê hương mình. Thu hồi đất, đền bù bằng

mức giá quá thấp, không lo được sinh kế cho người bị mất đất. Khu công nghiệp

104

cứ phát triển, người lao động tại chỗ, người nông dân, con em của họ, vẫn bị bần

cùng hóa vì mất đất sản xuất. Đó thực sự là một nghịch lý lớn. Gây nên những hệ

lụy trong xã hội, tạo bức xúc và là động lực chính thúc đẩy những khiếu nại, khiếu

kiện hành chính trong nhân dân.

- Liên quan đến việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, Luật sửa đổi bỏ "bản

đồ quy hoạch đất của xã, phường, thị trấn được lập trên bản đồ địa chính". Theo

nhiều chuyên gia, nếu bỏ đi như vậy chắc chắn sẽ phát sinh nhiều tiêu cực hơn nữa

ở cấp xã phường, thị trấn vì sẽ mất đi một căn cứ quan trọng để kiểm tra, giám sát

việc sử dụng đất tại những địa phương này.

- Cũng liên quan đến việc xác định giá đất, thẩm quyền quyết định giá đất

vẫn không có gì thay đổi so với pháp luật đất đai hiện hành (Chính phủ quyết định

khung giá đất, Uỷ ban nhân dân c ấp tỉnh quyết định bảng giá đất và giá đất cụ

thể). Chúng ta chưa xây dựng một cơ quan xác định giá đất để bồi thường độc lập.

Thay vào đó, là cách thức giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền thu

hồi đất, ti ếp tục có th ẩm quy ền xây d ựng bảng giá đất làm căn cứ để tính bồi

thường cho những người bị ra quyết định thu hồi đất. Đây chính là tình trạng "vừa

đá bóng, vừa thổi còi": Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quá nhiều quyền - khó đảm

bảo sự bình đẳng và dễ sinh ra tùy tiện.

3.2.3. Những khó khăn, vướng mắc bước đầu về tổ chức thi hành Luật

tố tụng hành chính

Sau khi Luật tố tụng hành chính được Quốc hội thông qua, Hội đồng Thẩm

phán Toà án nhân dân tối cao đã có ba Nghị quyết là Nghị quyết số 01/2011/NQ-

HĐTP ngày 29/7/2011 hướng dẫn thi hành m ột số quy định của Nghị quy ết số

56/2010/QH12 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính, Nghị quyết

số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 và Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày

29/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính, tuy

nhiên trong qúa trình th ụ lý gi ải quyết các vụ án hành chính, nhi ều Toà án nhân

dân các cấp ở địa phương còn gặp nhiều lúng túng vì:

- Chưa có hướng dẫn thống nhất về các quyết định hành chính, hành vi hành

chính nào thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng,

ngoại giao và mang tính nội bộ của cơ quan, nhà nước (quy định tại Điều 28).

105

- Chưa có hướng dẫn về trình tự, thủ tục tiến hành việc đối thoại trong tố

tụng hành chính (quy định tại Điều 12).

- Chưa có hướng dẫn về thẩm quyền của Hội đồng xét xử (được quy định

tại Điều 163) về việc đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi

hành chính và quy ết định giải quyết khiếu nại (Tiêu chí nh ấp nhận ho ặc không

chấp nh ận yêu cầu kh ởi ki ện hay h ủy ho ặc không hủy quy ết định hành chính,

buộc ch ấm dứt hành vi hành chính; Th ế nào là quy ết định hành chính, hành vi

hành chính có liên quan?).

- Có nh ững khó kh ăn, bất cập về th ời hạn vi ệc ra quy ết định gi ải quy ết

khiếu nại của Chán án Toà án nhân dân cấp trên trực tiếp đối với quyết định trả lại

đơn khởi kiện của Chánh án Toà án nhân dân c ấp dưới (được quy định tại Điều

110). Cụ thể: Theo quy định của khoản 3 Điều 110 thì trong thời hạn 7 ngày kể từ

khi nhận được khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định giải quyết khiếu nại về việc

trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Toà án nhân dân t ỉnh, Chánh án Toà án nhân

dân tối cao phải ra quyết định giải quyết.

- Chưa có mẫu văn bản tố tụng hành chính để Toà án nhân dân các c ấp

thống nhất việc áp dụng trong toàn ngành.

- Chưa có Ngh ị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân t ối cao

hướng dẫn viết bản án hành chính.

Những vướng mắc về mặt thể chế sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu

quả làm việc của ngành Toà án, và không tránh kh ỏi việc áp dụng, xử lý tùy ti ện

làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.

3.3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

VÀO THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN

Án hành chính là lo ại án khó, ph ức tạp, và kinh nghi ệm giải quyết các vụ

án hành chính chưa nhiều. Công tác giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến

việc áp dụng nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực quản

lý nhà nước. Mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước lại có nhiều văn bản quy phạm pháp

luật điều chỉnh và mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật lại chưa có các văn bản

hướng dẫn th ực hiện đầy đủ của cơ quan nhà n ước có th ẩm quyền ho ặc đã có

106

hướng dẫn, nhưng các văn bản hướng dẫn còn có sự chồng chéo nhau, th ậm chí

nhiều nội dung có s ự xung đột pháp lu ật. Mặt khác, các v ăn bản hướng dẫn

thường xuyên có sửa đổi, bổ sung, thay thế. Do vậy, việc áp dụng các văn bản quy

phạm pháp luật để giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án các cấp gặp nhiều

khó khăn.

Bên cạnh đó, một số thẩm phán của các Tòa án địa phương khi được giao

vụ án hành chính ch ưa nâng cao tinh th ần trách nhiệm trong việc nghiên cứu, áp

dụng pháp luật giải quyết các vụ án hành chính.

Trong thời gian qua, từ thực tiễn xét xử các vụ án hành chính tại Ṭa án, có

những sai sót thường gặp sau đây:

Thứ nhất, nhiều quan điểm khác nhau về áp dụng pháp luật

Trong quá trình th ụ lý, gi ải quyết vụ án hành chính, Tòa án nhân dân các

cấp còn hi ểu khác nhau trong vi ệc áp dụng các quy định của pháp lu ật để gi ải

quyết một vụ án cụ thể.

Để đánh giá và xem xét tính hợp pháp của Quyết định hành hành chính bị

khiếu kiện, Tòa án cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố như thẩm quyền ban hành,

căn cứ pháp lu ật để ban hành… đặc bi ệt đối với các quy ết định xử ph ạt hành

chính, xử phạt vi phạm hành chính còn phải xem xét nội dung xác định người khởi

kiện có hành vi vi ph ạm hành chính hay không. Do vậy, khi giải quyết vụ án cần

chú ý việc áp dụng các quy định của pháp luật.

Ví dụ: Năm 2012, gia đình ông T là Vi ệt kiều sinh sống tại nước A (có

đường biên giới chung với Việt Nam) được phép hồi hương về nước. Ngày 13-12-

2012, trên đường hồi hương về nước ông T có mang theo m ột số tài sản mà gia

đình ông đang sử dụng, trong đó có một chiếc xe ô tô bốn chỗ ngồi, sản xuất năm

2008, khi về tới cửa khẩu hải quan X, tỉnh B, ông T có làm th ủ tục nhập cảnh và

kê khai xin nhập khẩu chiếc xe ô tô nói trên.

Sau khi xem xét hồ sơ, Chi cục Hải quan X đã làm thủ tục cho ông T nhập

cảnh. Đối với chiếc xe ô tô, do ch ưa đủ thủ tục và các gi ấy tờ cần thiết, Chi cục

Hải quan X chưa cấp tờ khai nhập khẩu xe nên đã yêu cầu ông T tiếp tục bổ sung

các giấy tờ cần thiết và đồng ý cho ông T tạm gửi xe lại cửa khẩu cùng các giấy tờ

107

xe kèm theo để giải quyết sau. Sau khi ông T thực hiện theo yêu cầu của Chi cục

hải quan X và chuyển một số tài sản khác về nơi cư trú tại tỉnh B, thì Chi cục hải

quan X đã chủ động chuyển chiếc xe ô tô cùng toàn bộ giấy tờ có liên quan về cục

Hải quan tỉnh B.

Ngày 19-12-2012, Cục Hải quan tỉnh B đã cấp tờ khai nh ập khẩu xe ô tô

cho ông T.

Ngày 30-01-2013, Cục Hải quan tỉnh B đã giao chiếc xe ô tô nói trên cho

ông T đưa về nhà để bảo quản và trông giữ.

Ngày 12-3-2013, Cục Hải quan tỉnh B đã yêu cầu ông T mang xe ô tô đến

Cục Hải quan để giải quyết. Cùng ngày, khi ông T thực hiện yêu cầu trên, Cục Hải

quan tỉnh B đã lập biên bản vi ph ạm hành chính số 02/BB-HC1 ngày 12-3-2013

với lý do: Việc ông T nhập khẩu chiếc xe ô tô đã vi phạm điểm 3, mục 2 Thông tư

liên tịch số 27/2001/BTM-TCHQ ngày 06-12-2001 của Bộ Thương mại và Tổng

cục Hải quan hướng dẫn việc nhập khẩu xe ô tô của một số đối tượng theo đường

phi mậu dịch và đưa chiếc xe ô tô vào kho niêm phong.

Ngày 08-12-2013, Chi cục trưởng Cục Hải quan tỉnh B đã ban hành quyết

định số 116/QĐ-XP-HC9 xử phạt vi phạm hành chính về hải quan đối với ông T

với nội dung tịch thu chiếc xe ô tô nói trên (vì xe c ủa ông T sản xuất năm 2008,

tính đến ngày nhập khẩu đã quá 5 năm theo quy định tại Thông tư nói trên). Ông T

có đơn khiếu nại.

Ngày 19-01 -2014, Cục Hải quan tỉnh B ban hành quy ết định số 02/QĐ-

HC17 giải quyết khiếu nại với nội dung vẫn giữ nguyên quy ết định số 116/QĐ-

XP-HC9 ngày 08-12-2013 của Cục trưởng Cục hải quan tỉnh B.

Ngày 18-2-2014, Tòa án nhân dân tỉnh B đã thụ lý vụ án để giải quyết.

Sau khi nghiên cứu đơn khởi kiện và các tài liệu đã thu thập trong hồ sơ vụ

án, có hai quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Chiếc xe ô tô này là tài s ản di chuy ển của ông T, Vi ệt kiều nước A (có

đường biên giới chung với Việt Nam) được phép hồi hương (không phải là trường

hợp buôn bán xe ô tô). Mặt khác, theo chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án thì

khi hồi hương xe về đến cửa khẩu X, ông T mới kê khai hồ sơ xin nhập khẩu chiếc

108

xe ô tô là tài s ản di chuy ển, nhưng do chưa đủ thủ tục nên hải quan cửa khẩu X

chưa giải quyết mà đồng ý cho ông Trí được tạm gửi xe ô tô tại cửa khẩu (có biên

bản tạm gửi), sau đó, chính Hải quan cửa khẩu X đã tự động đưa xe ô tô của ông T

về Cục hải quan tỉnh B và lại đồng ý cho ông T đến tạm nhận về để bảo quản chờ

giải quyết.

Như vậy, ông T chưa có hành vi nhập khẩu hoặc gian dối nhập khẩu xe ô tô

không đúng quy định nhập khẩu. Trong tr ường hợp này, nếu xe ô tô c ủa ông T

không đủ điều kiện để được nhập khẩu thì hải quan cửa khẩu X phải từ chối nhập

khẩu, nếu hải quan cửa khẩu X tự ý đưa xe về cục hải quan để giải quyết thì phải

làm thủ tục đưa ra khỏi lãnh thổ Việt nam. Việc Cục Hải quan tỉnh B quyết định

tịch thu xe ô tô của ông T là không đúng pháp luật. Do vậy, cần hủy quyết định số

116/QĐ-XP-HC9 ngày 08-12-2013 của Cục trưởng Cục hải quan tỉnh B.

- Theo các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, khi hồi hương về nước,

ông T đã thực hiện việc xin phép cơ quan chức năng của nước A cho phép được

xuất chiếc xe ô tô nói trên khỏi lãnh thổ nước A để mang về Việt Nam tiếp tục sử

dụng. Khi về đến cửa khẩu X, ông T m ới kê khai hồ sơ để xin cấp tờ khai nh ập

khẩu chiếc xe ô tô là tài sản di chuyển. Nhưng do chưa đủ thủ tục, giấy tờ nên cửa

khẩu hải quan chưa giải quyết, chưa cấp tờ khai nhập khẩu, hướng dẫn và đồng ý

cho ông T t ạm gửi xe ô tô t ại cửa khẩu. Tuy ông T không có hành vi gian d ối,

nhưng ông T đã có hành vi nh ập khẩu xe ô tô không đủ điều kiện để được nhập

khẩu. Việc Cục hải quan tỉnh B quyết định tịch thu xe ô tô của ông T là đúng pháp

luật. Do vậy cần giữ nguyên quyết định số 116/QĐ-XP-HC9 ngày 08-12-2013 của

Cục trưởng Cục hải quan tỉnh B.

(Trích Thông tư liên tịch số 27/2001/BTM-TCHQ ngày 6-12-2001 của Bộ

Thương mại và Tổng cục Hải quan hướng dẫn việc nhập khẩu ô tô của một số đối

tượng theo đường phi mậu dịch; tại điểm 3, Mục II quy định: "ô tô nhập khẩu phải

có tay lái bên trái, tay lái thuận, được sản xuất trong thời hạn tối đa là 5 năm tính

đến thời điểm nhập khẩu và là động cơ sử dụng được xăng không pha chì". T ại

điểm 1, Mục III quy định: "ô tô nh ập khẩu không phù hợp với các quy định tại

mục II thông tư này sẽ bị xử lý bằng hình thức phạt tiền và tịch thu").

109

Thứ hai, đánh giá ch ứng cứ và áp d ụng pháp lu ật để gi ải quy ết vụ án

không đúng

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án hành chính, một số Tòa án do đánh

giá chứng cứ và áp d ụng pháp lu ật để giải quyết không đúng; nên bản án đã bị

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và Tòa án cấp giám đốc thẩm đã sửa toàn

bộ bản án.

Ví dụ: căn nhà s ố 70/75/1 và 70/75/5 đường Cách m ạng Tháng Tám,

phường K thành ph ố C (c ũ) có ngu ồn gốc của vợ chồng ông N và C, được xây

dựng từ năm 1966, trên đất thuê mượn của người dân tộc Chà. Căn nhà xây một

lầu, một trệt kiên cố. Tầng lầu có ban công đu ra 1,2m. kích thước căn nhà: ngang

8m x dài 8m. Căn nhà được chia làm hai căn có vách tường chung ở giữa.

Năm 1997, ông N và bà C lập " Tờ bán nhà" 70/75/1 cho vợ chồng ông V bà T.

Ngày 10-3-1977, bà T bán nhà số 70/75/1 cho ông H.

Ngày 02-8-1977, ông H bán nhà s ố 70/75/1 cho ông K, s ố đo: ngang 4m, dài 8,2m, di ện tích xây d ựng 63m2. Hợp đồng mua bán được Ủy ban nhân dân

phường C chứng thực ngày 20-9-1979.

Ngày 29-3-1995, Ủy ban nhân dân thành phố C cấp giấy chứng nhận quyền

sở hữu nhà 70/75/1 đường Cách mạng Tháng Tám cho ông K và v ợ là N được

quyền sở hữu căn hữu căn nhà 70/75/1 đường Cách mạng Tháng Tám v ới diện tích xây dựng là 50,70m2 kèm bản vẽ sơ đồ vị trí và lược đồ giải thửa.

Do có tranh ch ấp gi ữa ông K v ới bà Th v ề di ện tích dưới ban công nên

ngày 26/5/2008, Thanh tra thành ph ố C có v ăn bản số 29/BC-TTr-2008 báo kết

quả thẩm tra đơn khiếu nại của ông K v ề việc ông K tranh ch ấp quyền sử dụng 8,12m2 đất dưới ban công nhà ông K với bà Th. Trên cơ sở đề nghị của Thanh tra

thành phố C, ngày 19/7/2008, ch ủ tịch Ủy ban nhân dân thành ph ố C có quy ết

định số 2110/QĐ-CT.UB chấp thu ận đơn khiếu nại của ông K công nh ận ph ần diện tích đất dưới ban công nhà có di ện tích 1,2m x 6,77m = 8,12m 2 tọa lạc số

70/75 đường Cách mạng Tháng Tám, phường Cái Khế, thành phố C cho ông K:

Buộc bà Th ng ụ ở 70/75/1 đường Cách mạng Tháng Tám, phường C phải tháo dỡ vật kiến trúc và vật dụng có trên phần diện tích 8,12m2 để giao trả cho ông

K sử dụng.

110

Ngày 03-8-2008, bà Th có đơn khiếu nại, yêu cầu Ủy ban nhân dân thành

phố C xem xét quyết định số 2110/QĐ-CT/UB ngày 19-7-2008. Ngày 22-8-2008,

bà Th nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại.

Ngày 24-8-2008, bà Th có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân

dân thành phố C.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 07/HCST ngày 29-7-2009, Tòa án nhân

dân thành phố C quyết định:

- Bác đơn khi ếu nại của bà Th "yêu c ầu hủy Quy ết định số 2110/Q Đ-

CT.UB ngày 19-7-2008 của chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố C".

- Giữ nguyên quyết định số 2110/QĐ-CT.UB ngày 19-7-2008 của chủ tịch

Ủy ban nhân dân thành phố C.

Ngày 05/8/2009, bà Th có đơn kháng cáo đối với bản án hành chính s ơ

thẩm số 07/HCST ngày 29-7-2009 của Tòa án nhân dân thành phố C (cũ).

Tại bản án hành chính phúc th ẩm số 01/HCPT ngày 23-9-2010, Tòa án

nhân dân thành phố C (mới) quyết định sửa án sơ thẩm; chấp nhận kháng cáo của

bà Th và h ủy Quyết định số 2110/QĐ-CT.UB ngày 19-7-2008 của chủ tịch Ủy

ban nhân dân thành phố C (cũ).

Ngày 30-11-2010, ông K có đơn gửi Tòa án nhân dân tối cao đề nghị xem

xét bản án hành chính phúc thẩm số 01/HCPT ngày 23 tháng 9 năm 2010 của Tòa

án nhân dân thành phố C theo thủ tục giám đốc thẩm.

Việc mua bán, chuy ển nhượng căn nhà 70/75/1 đường Cách mạng Tháng

Tám, phường C, quận N, thành phố C đã qua ba chủ nhưng chỉ có một hợp đồng đề ngày 02/8/1977 giữa ông H bán cho ông K, di ện tích xây dựng 63m2 trên đất

chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo hợp đồng này, việc mua

bán là toàn bộ diện tích và cấu trúc sử dụng nhà.

Căn cứ nhu cầu sử dụng đất và đơn của ông K khiếu nại xin được sử dụng diện tích 8,12m2 đất dưới ban công nhà, hi ện do bà Th chi ếm hữu, sử dụng kinh

doanh bán quán gi ải khát; Ủy ban nhân dân thành ph ố C ra quy ết định số 2110/ QĐ-CT/UB ngày 19-7-2008 công nhận cho ông K sử dụng 8,12m-2 đất và buộc bà

111

Th phải tháo dỡ vật kiến trúc và vật dụng có trên phần đất nói trên để giao trả cho

ông K sử dụng là có căn cứ.

Bà Th không xu ất trình được giấy bán nhà của ông N (là b ố) cho cụ T để

chứng minh chỉ có ban công mà không bán phần đất dưới ban công

Phần đất tranh chấp 8m2 này ch ưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

của Ủy ban nhân dân có th ẩm quyền. Việc tranh chấp đất nay, Ủy ban nhân dân quận N chấp nhận cho ông K sử dụng 8m2 dưới ban công là hợp tình, hợp lý. Phần

đất còn lại dùng lợi ích công là thẩm quyền của Ủy ban nhân dân.

Căn cứ kết cấu nhà, sơ đồ giải thửa, địa thế ban công giáp đường hẻm thì

Quyết định 2110/QĐ-CT.UB ngày 19-7-2008 của Ủy ban nhân dân là có c ăn cứ.

bản án sơ thẩm số 07/HCST ngày 29-7-2010 của Tòa án nhân dân thành ph ố C

(cũ) xử là đúng.

Vụ án này đã được Chánh án Tòa án nhân dân t ối cao kháng ngh ị. Tại

quyết định số 03/HC-KT ngày 13-3-2011 và t ại quy ết định giám đốc th ẩm của

Tòa án nhân dân t ối cao đã quy ết định sửa bản án hành chính phúc th ẩm số

01/HCPT ngày 23-9-2010 của Tòa án nhân dân thành ph ố C; gi ữ nguyên quy ết

định 2110/QĐ-CT.UB ngày 19-7-2008 của Ủy ban nhân dân thành phố C.

Thứ ba, đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khiếu kiện

Nhiều vụ án hành chính, do đánh giá ch ứng cứ không đúng, nên tại phần

quyết định của bản án Hội đồng xét xử đã quyết định không chính xác.

Ví dụ: ngày 11-10-2013, đội qu ản lý th ị tr ường tỉnh ĐN lập biên bản vi

phạm hành chính đối với Công ty TNHH TL có hành vi vi phạm hành chính.

Ngày 15-10-2013, Chi cục trưởng Chi cục quản lý thị trường tỉnh ĐN ban

hành quyết định số 0107622/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính đối với Công

ty TNHH TL với các hình thức sau:

- Hình thức xử ph ạt chính: ph ạt ti ền 10.000.000 đồng (5.000.000 đồng

đối với hành vi không có giấy phép, 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm làm

hàng giả);

- Hình thức phạt bổ sung: Đình chỉ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh

tại thành phố BH.

112

Ngày 11-11-2013, Công ty TNHH TL khi ếu nại quy ết định xử ph ạt vi

phạm hành chính số 0107622/QĐ-XPHC của Chi cục trưởng Chi cục quản lý thị

trường tỉnh ĐN.

Ngày 24-11-2013, Công ty TNHH TL khởi kiện vụ án.

Ngày 16-12-2013, Tòa án nhân dân t ỉnh ĐN th ụ lý vụ án. Ngày 27 -01-

2014, Chi cục trưởng Chi cục quản lý thị trường tỉnh ĐN ban hành quyết định số

04/QĐXP điều ch ỉnh quy ết định xử ph ạt vi ph ạm hành chính s ố 0107622/QĐ-

XPHC ngày 15-10 -2013 nh ư sau: không x ử ph ạt 15.000.000 đồng hành vi vi

phạm không có giấy chứng nhận đăng ký thành lập chi nhánh của Công ty và hủy

bỏ hình th ức ph ạt bổ sung: đình ch ỉ ho ạt động kinh doanh c ủa Chi nhánh t ại

phường TP, thành phố BH đã ghi trong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số

0107622/QĐ-XPHC ngày 15-10 -2013.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 17-3-2014, Tòa án nhân

dân tỉnh ĐN đã quy ết định bác yêu c ầu kh ởi kiện của Công ty TNHH TL; gi ữ

nguyên mức phạt 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm làm hàng giả của Quyết

định xử ph ạt vi ph ạm hành chính s ố 0107622/QĐ-XPHC ngày 15-10 -2013 và

Quyết định số 04/QĐXP ngày 27-1-2014 của Chi cục quản lý thị trường tỉnh ĐN.

Vấn đề cần rút kinh nghi ệm trong vụ án này là cách ti ếp cận và đánh giá

chứng cứ có ảnh hưởng đến đường lối giải quyết vụ án. Cũng với chứng cứ ấy,

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định bác yêu c ầu khởi kiện của Công ty TNHH, gi ữ

nguyên mức phạt 15.000.000 đồng đối với hành vi vi ph ạm làm hàng giả, nhưng

Tòa án phúc th ẩm quy ết định hủy điều 2 và đoạn 2 c ủa điều 3 Quy ết định số

04/QĐXP ngày 27-1-2014 của Chi cục quản lý th ị trường tỉnh ĐN (phần nói về

hành vi vi phạm làm hàng giả với mức phạt 15.000.000 đồng)

Sau khi ki ểm tra các ch ứng cứ tại hồ sơ vụ án th ấy rằng: Quyết định số

0107622/QĐ-XPHC xử phạt vi ph ạm hành chính ngày 15-10 -2013 c ủa Chi cục

quản lý thị trường tỉnh ĐN phạt Công ty TNHH TL hai kho ản (15.000.000 đồng

đối với hành vi không có giấy phép, 5.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm làm

hàng giả) đã được điều chỉnh bởi quyết định số 04/QĐXP ngày 27-1-2014, chỉ còn

phạt Công ty TNHH TL 15.000.000 đồng đối với hành vi làm hàng giả.

113

Về hành vi vi phạm làm hàng giả mà bản án phúc thẩm đã hủy có căn cứ vì:

- Tại công văn số 704 ngày 09-5-2014, Cục Sở hữu trí tuệ có nội dung: xuất

xứ nước mắm Phú Quốc mới đăng bạ chứ hiện nay chưa cấp giấy chứng nhận cho

bất cứ tổ ch ức, cá nhân nào. Nhi ều doanh nghi ệp ở địa ph ương khác vẫn mua

nước mắm Phú Quốc được sản xuất tại Phú Quốc về đóng chai và bán lại không

làm thay đổi sản phẩm; chưa đủ cơ sở pháp luật và thực tiễn để kết luận Công ty

TNHH TL đã có hành vi làm hàng giả.

- Tại công văn số 2828 ngày 06-12-2013, B ộ Thủy sản có nội dung: Sau

năm 2007 thì ch ỉ có s ản ph ẩm nước mắm được sản xu ất và đóng chai tại Phú

Quốc, tỉnh Kiên Giang mới được sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa "n ước mắm

Phú Quốc" trên bao bì.

Với căn cứ nêu trên, Tòa hành chính đã trả lời Chi cục trưởng Chi cục quản

lý thị trường tỉnh ĐN là án phúc thẩm số 17/HCPT ngày 13-6-2014 của Tòa phúc

thẩm Tòa án nhân dân TC tại TP.H là xử đúng và có căn cứ.

Vấn đề rút ra từ vụ án này là Tòa án cấp sơ thẩm cần thận trọng trong việc

đánh giá chứng cứ. Rõ ràng quyết định của bản án hành chính phúc th ẩm đã góp

phần nâng cao hiệu lực của cơ quan nhà nước, khuyến khích mọi thành phần kinh

tế phát triển.

Thứ tư, áp dụng pháp luật để giải quyết không đúng

Trong quá trình thụ lý, gi ải quyết vụ án hành chính, do không nghiên c ứu

kỹ các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án, do vậy, một

số Tòa án đã áp dụng pháp luật không đúng nên quyết định tại bản án không có

căn cứ pháp luật.

Ví dụ: sau khi ki ểm tra quy ết toán thu ế của doanh nghi ệp. Chi cục thu ế

thành phố Q thuộc tỉnh B đã lập biên bản kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế

ngày 07/6/2012 đối với Doanh nghiệp. Tại biên bản này Chi cục thuế đã phát hiện

trong năm 2007 Doanh nghiệp Đ đã khai các khoản chi phí thực tế không hợp lý,

không phát sinh nh ư ti ền lương 26.035.000 đ, nguyên v ật li ệu sản xu ất

23.412.730đ, khai báo doanh thu không đầy đủ, thiếu 22.217.306đ.

114

Căn cứ vào biên bản nói trên, Chi cục trưởng Chi cục thuế ký quyết định số

342/QĐ-CCT ngày 08-6-2012 v ề vi ệc xử lý vi ph ạm pháp lu ật về thu ế đối với

Doanh nghiệp Đ như sau: "Truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 với số

tiền là 111.121.330 đ, phạt 1,5 lần ti ền thu ế Thu nh ập doanh nghi ệp năm 2012:

26.682.000đ, tổng số tiền truy thu và phạt là 137.803.330đ".

Không đồng ý với quyết định trên, Doanh nghi ệp Đ đã khiếu nại và kh ởi

kiện vụ án hành chính tại Tòa án.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 29-9-2014, Tòa án nhân

dân TP Q, tỉnh B đã xét xử: " Bác yêu cầu khởi kiện của doanh nghiệp Đ, yêu cầu

hủy Quyết định số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2012 của chi cục trưởng Chi cục thuế.

Ngày 02-10-2014, Doanh nghiệp Đ đã kháng cáo.

Tại bản án hành chính phúc th ẩm số 03 ngày 15-5-2012. Tòa án nhân dân

tỉnh B đã xét xử: Chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, sửa bản án sơ thẩm,

hủy toàn bộ quyết số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2012 của Chi cục trưởng Chi cục

thuế trả lại cho Doanh nghi ệp Đ số tiền đã thu theo Quy ết định số 342/QĐ-CCT

ngày 08-6-2012 là 137.803.330đ

Tòa án cấp phúc thẩm xét xử hủy quyết định trên vì cho rằng tại Luật xử lý

vi phạm hành chính quy định Chi cục trưởng Chị cục thuế chỉ có thẩm quyền phạt

tiến đến 20.000.000đ, nhưng tại quyết định lại xử phạt đến 26.682.000đ là không

đúng thẩm quyền.

Tuy nhiên cũng về vấn đề này, Lu ật Xử lý vi ph ạm hành chính quy định

thẩm quyền Xử lý vi phạm hành chính của cơ quan thuế như sau: Trừ trường hợp

luật có quy định khác về mức phạt, Chi cục trưởng Chi cục thuế có quy ền phạt

đến 20.000.000đ.

Tòa án cấp phúc th ẩm khi xét xử đã không để ý đến cụm từ của điều luật

này là "Trừ trường hợp luật có quy định khác về mức phạt”, việc Tòa án cấp phúc

thẩm nhận định như trên là không đúng, vì thẩm quyền xử phạt của cơ quan thuế

trong trường hợp này được quy định tại thuế thu nhập doanh nghiệp.

Tại khoản 3 điều 23 luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định việc xử lý vi

phạm về thuế đối với đối tượng nộp thuế như sau: "Khai man, trốn thuế thì ngoài

115

việc phải nộp đủ số thuế theo quy định của luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi

phạm, còn bị phạt tiền từ một đến năm lần số thuế gian lận.

Tại khoản 1 Điều 24 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định thẩm quyền

của cơ quan thuế trong việc xử lý vi ph ạm về thuế như sau: Thủ trưởng cơ quan

thuế tr ực ti ếp qu ản lý thu thu ế được quy ền xử lý đối với các vi ph ạm của đối

tượng nộp thuế quy định tại khoản 1, khoản 2 và phạt tiền từ một đến 5 lần số tiền

gian lận theo quy định tại khoản 3 điều 23 của Luật này.

Theo quy định của Luật thuế thu nh ập doanh nghiệp, việc chi cục thuế có

quyền xử phạt từ một đến năm lần số tiền mà doanh nghiệp khai man, trốn thế và

số tiền đó có thể lớn hơn nhiều lần số tiền 20.000.000đ, tùy thuộc vào số tiến trốn

lậu thuế.

Do vậy, việc Tòa án c ấp phúc th ẩm sửa toàn bộ bản án sơ th ẩm và hủy

quyết định số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2012 của Chi cục trưởng chi cục thuế là

không đúng quy định pháp luật.

Tiểu kết chương 3

Có thể khẳng định lại một lần nữa rằng: đối tượng xét xử trong vụ án hành

chính là quyết định hành chính, là hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của

người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà n ước. Và nhiệm vụ của Tòa

án khi xét xử vụ án hành chính là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,

tổ chức thông qua xem xét tính hợp pháp hay bất hợp pháp của các đối tượng này.

Tuy nhiên hi ện nay, chúng ta m ới chỉ có Lu ật ban hành các v ăn bản quy ph ạm

pháp luật mà vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về việc ban hành

các văn bản áp dụng pháp luật. Do đó, cơ quan hành chính nhà nước có phần nào

tùy tiện trong việc ban hành các văn bản cá biệt trong quá trình thực thi quyền lực

của mình làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng

bị áp dụng là các cá nhân, tổ chức. Đồng thời, khi các đối tượng đó bị khiếu kiện,

thì Tòa án, các Thẩm phán cũng như các cơ quan giải quyết khiếu kiện, các cán bộ

thụ lý giải quyết cũng rất lúng túng trong việc xác định được các quyết định, hành

116

vi đó có đúng hay không bởi các tiêu chí để đánh giá tính hợp pháp của một quyết

định hành chính thì không chỉ nằm trong các văn bản pháp luật chuyên ngành của

lĩnh vực đó mà còn nằm rải rác trong các văn bản pháp luật hành chính khác nhau,

mà trên th ực tế, hiện tượng xung đột pháp lu ật giữa các văn bản pháp lu ật của

chúng ta hiện nay tương đối phổ biến.

Thực tiễn cho thấy bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật tố tụng hành chính

còn nhiều khiếm khuyết là một hệ thống văn bản pháp luật nội dung chồng chéo

và phức tạp, có thể hiểu một nội dung điều luật dưới nhiều cách khác nhau ho ặc

chưa có những quy định cụ thể đủ để giải quyết kín kẽ các vụ án hành chính làm

cho các Thẩm phán gặp nhiều lúng túng khi áp d ụng pháp luật, làm hạn chế tính

thuyết phục đối với các phán quyết của Tòa án.

Việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng và nguyên nhân của thực

trạng được phân tích ở chương này của luận án, vấn đề nghiên cứu việc giải quyết

các vụ án hành chính t ại tòa án nh ư một phương thức hữu hiệu nhất để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, cơ quan tổ chức là một đòi hỏi có tính

cấp bách, qua đó có thể mạnh dạn đưa ra các giải pháp để đổi mới và hoàn thiện

các chế định này nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả xét xử các vụ án hành chính

tại Tòa án nhân dân để việc bảo vệ quyền lợi cho người dân được triệt để.

Các số liệu về tình hình giải quyết án hành chính tại Tòa án các cấp, phân

tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng là Tòa án ch ưa giải quyết tốt các vụ án

hành chính, chưa thực sự trở thành một phương thức hữu hiệu để bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của các cá nhân, công dân, c ơ quan, tổ chức bị xâm hại bởi các

quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đồng th ời, nêu lên nh ững sai sót

thường gặp trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính thông qua việc đưa ra

các vụ án cụ thể để làm tài liệu chứng minh.

Việc tìm ra các khuy ết tật của hệ th ống pháp lu ật tố tụng hành chính,

nghiên cứu về các trình tự tố tụng hành chính, trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám

đốc thẩm, quyền kháng nghị của đương sự, như thế nào, để bảo đảm việc xét xử

được công minh, vô tư, nhanh chóng, không bị nhiễu và không bị cản trở bởi bản

thân những thế lực hành chính. Đây là một vấn đề phải tính đến do đặc điểm của

117

pháp luật hành chính thu ộc lĩnh vực tranh ch ấp có sự tham gia của hệ thống cơ

quan công quyền, cụ thể là tài phán hành chính là xử lý tranh chấp giữa một bên là

cơ quan hay nhà chức trách mang tính công quyền và một bên là người công dân,

người dân thường, người tư nhân hoặc giữa hai cơ quan hành chính nhà nước cấp

trên và cấp dưới vốn nằm trong một hệ thống thứ bậc hành chính rất nghiêm túc,

và luôn luôn mang nặng tính chất của quan hệ bất bình đẳng, "mệnh lệnh - phục

tùng". Trên th ực tế thì quy ền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong nhi ều

trường hợp còn chưa được bảo vệ một cách triệt để. Bởi không tránh khỏi việc còn

có nhiều quy định của pháp luật có thể làm cho hệ cơ quan hành chính và Tòa án

đùn đẩy trách nhiệm cho nhau trong việc lên tiếng tới cùng để bảo vệ cho đương

sự trong các vụ việc khiếu nại, khiếu kiện. Từ đó, đẩy các cá nhân, tổ chức bị các

mệnh lệnh hành chính xâm hại lại phải lao vào vòng xoáy luẩn quẩn của khiếu nại,

khởi kiện, hầu kiện... Việc nghiên cứu thực trạng dưới góc độ này sẽ tạo tiền đề

cho việc đưa ra những giải pháp về mặt pháp luật cũng như thực tiễn để Tòa án có

được "thực quyền" trong việc giải quyết một tranh chấp hành chính, tạo cơ sở thực

tiễn vững chắc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham

gia giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa.

118

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO

CHẤT LƯỢNG BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP

CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ

HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN

4.1. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NỘI DUNG HÀNH CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT

TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

4.1.1. Hoàn thiện pháp luật nội dung hành chính

Pháp luật hành chính là h ệ thống các văn bản pháp lu ật mà các c ơ quan

nhà nước có th ẩm quyền ban hành để tác động, điều chỉnh lên mọi mặt của đời

sống xã hội trong lĩnh vực hành pháp.

Hệ thống văn bản pháp luật hành chính có pháp luật nội dung và pháp luật

hình th ức. Hai bộ phận này của pháp lu ật hành chính có m ối quan h ệ hữu cơ,

trong đó pháp lu ật nội dung hành chính là "c ốt lõi", là "c ơ bắp" và các thành t ố

bên trong. Còn pháp lu ật hình th ức là "ki ểu dáng" bên ngoài, là "ph ương th ức

sống" của pháp luật nội dung. Chính vì vậy, pháp luật nội dung và pháp luật hình

thức hành chính luôn có s ự gắn bó mật thiết không thể tách rời và phải phù hợp

với nhau.

Dưới góc nhìn lý lu ận và ở tầm vĩ mô, mu ốn hoàn thi ện pháp lu ật nói

chung và pháp lu ật hành chính nói riêng, tr ước hết là phải rà soát, chỉnh sửa, bổ

sung… để đảm bảo mối quan hệ hữu cơ và sự phù hợp giữa pháp luật nội dung

và pháp luật hình thức hành chính.

Trong lĩnh vực hành pháp, có 2 nhóm pháp lu ật cơ bản là nhóm hệ thống

pháp luật liên quan đến thiết chế hành pháp (c ơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn, cơ chế vận hành và hoạt động của công quyền) và nhóm hệ thống

pháp luật tác động đến quyền, nghĩa vụ và cơ chế, cách thức thực hiện quyền của

cá nhân, tổ chức trong quá trình quản lý hành chính nhà nước.

Pháp luật hành chính liên quan đến thiết chế công quy ền là tổng thể các

quy phạm pháp luật điều chỉnh từ các quan hệ xã hội liên quan đến quá trình xây

119

dựng, tổ chức và ho ạt động của các cơ quan qu ản lý hành chính nhà n ước đến

đội ngũ cán bộ, công chức.

Việc hoàn thiện các quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực này có ý

nghĩa vô cùng quan tr ọng. Một mặt, loại văn bản pháp luật này là cơ sở pháp lý

cho việc hình thành các c ơ quan qu ản lý nhà n ước, cơ sở xác định ch ức năng,

nhiệm vụ, quy ền hạn của chúng, mặt khác chúng có ý ngh ĩa quan tr ọng trong

việc xác định và đánh giá mới quan hệ giữa các thiết chế công quyền hành chính

và cá nhân, tổ chức trong hoạt động quản lý hành chính.

Do lĩnh vực hành chính là bao trùm trên m ọi mặt của đời sống xã hội nên

số lượng, quy mô của hệ thống văn bản pháp luật, loại này một khối lượng đồ sộ,

phức tạp về tính ch ất và đa dạng về thể loại. Trong khuôn kh ổ giới hạn luận án

chỉ nghiên c ứu, đề ngh ị hoàn thi ện pháp lu ật hành chính hai trong m ột số rất

nhiều các lĩnh vực quan tr ọng của án hành chính, chi ếm tỉ lệ lớn trong các lo ại

án hành chính được xét xử tại Tòa, đó là pháp lu ật về đất đai và pháp luật về xử

lý vi phạm hành chính.

4.1.1.1. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật đất đai

Một trong những điểm nổi bật của Luật Đất đai 2013 là các yếu tố trụ cột

của hệ thống quản trị đất đai đã được tiếp thu để đưa vào Lu ật Đất đai, vấn đề

quy ho ạch, kế ho ạch sử dụng đất cũng là n ội dung có nhi ều đổi mới nh ất, cơ

chế Nhà nước thu hồi đất trong lu ật sửa đổi cũng được quy định cụ thể hơn và

tiến bộ hơn. Hi ến pháp đã quy định về tiêu chí "Nhà n ước thu h ồi đất do t ổ

chức, cá nhân đang sử dụng trong tr ường hợp thật cần thiết do luật định vì mục

đích quốc phòng, an ninh; phát tri ển kinh t ế - xã h ội vì lợi ích qu ốc gia, công

cộng". Tiêu chí chung v ề phạm vi áp dụng chỉ vì lợi ích quốc gia, công c ộng là

đổi mới quan tr ọng nh ất. Lu ật Đất đai 2013 đưa ra nguyên t ắc th ực hiện th ực

hiện thu hồi đất theo quy ho ạch là ch ủ yếu, để từ đó có đất sạch thực hiện đấu

giá đất, hạn chế việc áp dụng cơ chế thu hồi đất theo dự án để giao đất cho nhà

đầu tư đã được ch ỉ định nh ằm lo ại bỏ nguy c ơ tham nh ũng trong thu h ồi đất,

giao đất, cho thuê đất.

Luật sửa đổi chuyển hóa nhiều quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP thành các quy định của Luật. Thuật ngữ "Nhà

120

nước giao đất" ch ỉ áp d ụng đối với đất được sử dụng vô th ời hạn và đất nông

nghiệp giao cho h ộ gia đình, cá nhân. Đối với các lo ại các tr ường hợp đất sử

dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh phi nông nghi ệp đều chuyển sang hình

thức Nhà n ước cho thuê đất, hoặc trả tiền một lần hoặc trả tiền hàng n ăm, đối

với cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đối với vấn đề định giá đất, Luật

Đất đai 2013 quy định là bảng giá đất chỉ áp dụng cho một số trường hợp; các

trường hợp liên quan đến thu ti ền sử dụng đất, thu ti ền thuê đất, tính ti ền bồi

thường khi thu h ồi đất và tính giá tr ị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà n ước đều phải quyết định giá đất cụ thể. Khung giá đất của Chính

phủ và bảng giá đất của UBND cấp tỉnh được ban hành 5 n ăm một lần, khi có

biến động lên hoặc xuống 20% thì ph ải điều chỉnh. Luật Đất đai 2013 quy định

việc thành l ập Hội đồng th ẩm định giá đất để thẩm định giá tr ước khi UBND

cấp tỉnh quyết định giá đất trong các tr ường hợp cụ thể, Chủ tịch Hội đồng là

Chủ tịch UBND cấp tỉnh và trong H ội đồng bắt buộc có thành viên là đại diện

của tổ chức có ch ức năng tư vấn định giá đất độc lập. Kết quả của dịch vụ tư

vấn giá đất độc lập là căn cứ để cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng

thẩm định giá đất xem. Thời hạn và hạn mức sử dụng đất sản xuất nông nghiệp,

đất rừng sản xuất, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho nông dân được nới

rộng hơn. Lu ật Đất đai 2013 quy định kéo dài th ời hạn sử dụng đối với đất

nông nghi ệp thành 50 n ăm và nông dân được ti ếp tục sử dụng theo th ời hạn

mới mà không c ần bất kỳ một th ủ tục nào. H ạn mức nh ận chuy ển quy ền sử

dụng đất được giao cho Chính ph ủ quy định cụ thể nhưng không v ượt quá 10

lần hạn mức giao đất của Nhà nước.

Tuy nhiên, ngoài nh ững đề xuất, sửa đổi được cho là tích c ực, khắc phục

được những nhược điểm trong hệ thống pháp luật đất đai hiện hành. Sự thay đổi

của lu ật cho th ấy nh ận th ức của Chính ph ủ trong vi ệc thay đổi nhằm đảm bảo

nền kinh tế tiếp tục phát triển chưa đúng hướng.

Lẽ ra Lu ật nên thi ết kế thu hồi đất trong 2 tr ường hợp để tránh tiêu c ực,

tham nhũng và lợi ích nhóm. Một là, trường hợp Nhà nước thu hồi đất như một

chế tài đối với lỗi của người sử dụng đất gây ra trong quá trình s ử dụng. Hai là,

121

Nhà nước dùng cơ chế hành chính để thu hồi đất theo quy định của Pháp luật, để

sử dụng vào 3 tr ường hợp: qu ốc phòng an ninh, l ợi ích qu ốc gia, lợi ích công

cộng. Ở tất cả các nước khác đều thiết kế luật như vậy, bao gồm cả những quốc

gia có chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, Nhà nước vẫn có quyền can thiệp bằng

biện pháp hành chính, n ếu vì lợi ích chung. Đối với những trường hợp còn lại

(dự án phát tri ển kinh tế - xã h ội), áp dụng cơ chế dân sự - tr ưng mua quyền sử

dụng đất.

Nghị quyết 19, Hội nghị trung ương VI, khóa 11 ghi rõ: "Quy ền sử dụng

đất là tài s ản được pháp lu ật bảo hộ". Như vậy, đã là tài s ản, không th ể bị tước

đoạt một cách d ễ dàng nh ư tr ước đây. Tr ừ nh ững tr ường hợp vì l ợi ích công,

mới được dùng biện pháp hành chính. Còn không, trong n ền kinh tế thị trường,

quyền sử dụng đất phải được mua bán sòng ph ẳng. Do đó, trong Lu ật Đất đai

và Hi ến pháp s ửa đổi đến nay v ẫn ch ưa th ể ch ế hóa chính xác được tư duy

Nghị quyết 19.

Luật Đất đai mới cũng nên tách độc lập cơ quan có th ẩm quyền thu hồi

đất và cơ quan có th ẩm quyền quyết định giá đất để làm cơ sở bồi thường. Như

vậy, sẽ khắc phục được sự vô lý về giá đất lâu nay.

4.1.1.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính

Một là, các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật

xử lý vi ph ạm hành chính (ngh ị định, thông tư) cần bám sát th ực tiễn nảy sinh

các quan hệ pháp lý hi ện thực trong xây d ựng các văn bản quy ph ạm pháp luật,

có ngh ĩa rằng, cần ph ải có nh ững nghiên c ứu đánh giá th ực ti ễn. Nh ững ngh ị

định, thông tư hướng dẫn xử lý vi ph ạm hành chính c ần phải được nghiên cứu,

được xây dựng từ những căn cứ đánh giá đúng yêu cầu thực sự của thực tiễn trên

các phương diện: sự cần thiết, mức độ điều chỉnh... để quyết định.

Hai là, phải có quy trình báo cáo đánh giá toàn b ộ các quy định có liên

quan tr ước khi xây d ựng các ngh ị định, thông tư mới. Cần ph ải xác định hình

thức văn bản phù hợp, tầm quan trọng, tính chất phức tạp của các quan hệ pháp

lý đến đâu thì xác định hình thức văn bản pháp lý đến đó, tránh sử dụng các hình

thức văn bản quá thẩm quyền trong lĩnh vực ngành quản lý. Triệt để tuân thủ các

122

nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.

Ba là, cơ quan ch ức năng cần thường xuyên rà soát các ngh ị định, thông

tư hướng dẫn xử lý vi ph ạm, kịp th ời phát hi ện để lo ại bỏ những quy định đã

không còn hi ệu lực, hoặc không còn phù h ợp với thực tiễn; sửa chữa, bổ sung

các quy định cho rõ; hạn chế tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản

trong lĩnh vực ngành quản lý và với ngành khác, tránh tình tr ạng một hành vi vi

phạm nhưng nhiều quy phạm khác nhau điều chỉnh, đồng thời khắc phục kịp thời

những sơ hở.

Bốn là, chú trọng vai trò chuyên gia, các nhà khoa học trong việc xây dựng

các văn bản quy ph ạm pháp lu ật Xử lý vi ph ạm hành chính để nâng cao ch ất

lượng văn bản. Nâng cao năng lực của các chuyên gia và chuyên viên so ạn thảo

pháp lệnh, nghị định, thông tư. Đẩy mạnh công tác phối hợp các bộ, ban, ngành sẽ

bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán của nghị định, thông tư hướng dẫn xử lý vi phạm

hành chính được soạn thảo. Mở rộng sự tham gia đông đảo của xã hội, nhất là của

các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn bảo vệ pháp luật;

có cơ chế bắt buộc để các nhà hoạch định chính sách phải tiếp thu các ý kiến đóng

góp của người dân, xã hội, nhất là của những đối tượng bị điều chỉnh, để văn bản

xử lý vi ph ạm hành chính sát với thực tế, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các

văn bản quy phạm xử lý vi phạm hành chính được ban hành.

Năm là, thực hiện việc thẩm định các dự thảo nghị định, thông tư hướng

dẫn về việc xử lý vi ph ạm hành chính m ột cách ch ặt chẽ, kỹ lưỡng. Có cơ chế

nâng cao trách nhiệm của các cơ quan được hỏi ý kiến để những ý kiến đóng góp

thực sự vào việc xây dựng các văn bản trình các cấp có thẩm quyền quyết định.

Các cơ quan thẩm định cần hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật xử lý vi

phạm hành chính từ nội dung đến ngôn ngữ pháp lý trước khi trình Chính phủ và

phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định này. Về mặt nguyên tắc, các văn bản

xử lý vi phạm hành chính dù cấp thiết đến đâu cũng phải được xây dựng đạt chất

lượng tốt nhất mới trình Chính phủ thông qua, nếu chuẩn bị chưa tốt, chất lượng

kém thì dù cấp thiết đến đâu cũng nên để lại tiếp tục hoàn chỉnh.

123

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hành chính

Luật Tố tụng hành chính Vi ệt Nam ra đời đánh dấu bước phát triển quan

trọng trong quá trình hoàn thi ện pháp lu ật tố tụng hành chính Vi ệt Nam. Kể từ

đây, các chế định trong Luật tố tụng hành chính có hiệu lực pháp lý cao nhất chỉ

sau Hiến pháp, do đó nó trở thành cơ sở pháp lý mang tính bắt buộc cao cho các

thiết chế tài phán hành chính ở nước ta nói chung và c ơ chế bảo đảm quyền, lợi

ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính.

Tuy nhiên, vi ệc ban hành Lu ật tố tụng hành chính ch ỉ mới đặt nền móng

pháp lý cho tổ chức và hoạt động tố tụng hành chính. Phần lớn các quy định của

Luật tố tụng hành chính ch ỉ có những nội dung mang tính nguyên t ắc, khái quát

và chung nhất chứ chưa thật sự chi tiết, cụ thể.

Để pháp luật tố tụng hành chính có sức sống và đi vào thực tế đời sống có

hiệu lực, hiệu quả và để phù hợp với điều kiện của Việt Nam, căn cứ vào Hi ến

pháp, Lu ật Tố tụng hành chính và các quy định có liên quan, các c ơ quan nhà

nước trong ph ạm vi ch ức năng, nhiệm vụ, quy ền hạn của mình cần ti ếp tục rà

soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thi ện ở mức độ chi ti ết, cụ thể các quy định của

Luật Tố tụng hành chính.

Trước hết, Tòa án nhân dân t ối cao, thông qua H ội đồng thẩm phán Tòa

án nhân dân t ối cao cần sớm ban hành ngh ị quyết hướng dẫn chi ti ết và th ống

nhất công tác xét x ử hành chính theo Lu ật Tố tụng hành chính Vi ệt Nam, c ụ

thể là:

- Gi ải thích, h ướng dẫn cụ th ể ph ạm vi xét x ử hành chính thu ộc th ẩm

quyền của Tòa án được quy định tại Đ28 Luật Tố tụng hành chính, trong đó cần

giải thích rõ và li ệt kê các quy ết định hành chính, hành vi hành chính thu ộc

phạm vi bí mật nhà nước trong các l ĩnh vực quốc phòng an ninh, ngo ại giao và

các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính n ội bộ của cơ quan,

tổ chức.

Nếu nội dung này được quy định cụ thể, chi tiết và được giải thích sáng tỏ

sẽ vừa góp ph ần hoàn thi ện pháp lu ật tố tụng hành chính v ừa kh ắc ph ục tính

thiếu minh bạch trong quản lý hành chính, lợi dụng bí mật nhà nước hoặc mang

124

tính nội bộ để phục vụ lợi ích cá nhân, l ợi ích nhóm, nguy h ại đến lợi ích qu ốc

gia, lợi ích cá nhân, tổ chức.

- Cần quy định và h ướng dẫn th ống nh ất quan ni ệm cụ th ể về tính trái

pháp luật, tính bất hợp pháp của các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính (quyết

định hành chính, hành vi hành chính). Ở nội dung này, Tòa án nhân dân t ối cao

cần xác định rõ căn cứ để đánh giá tính bất hợp pháp của đối tượng xét xử hành

chính, cụ thể là:

+ Tính trái pháp luật về thẩm quyền;

+ Tính trái pháp luật về trình tự, thủ tục;

+ Tính trái pháp luật về thời hạn, thời hiệu;

+ Tính trái pháp luật về đối tượng áp dụng;

+ Tính trái pháp luật về cơ sở pháp lý;

+ Tính trái pháp lu ật khi n ội dung quy ết định hành chính, hành vi hành

chính không phù hợp với tình tiết khách quan;

+ Tính trái pháp lu ật trong các điều khoản chính của nội dung quyết định

hành chính, hành vi hành chính…

Việc đưa ra các quy định cụ thể trên là một bước tiếp tục hoàn thiện pháp

luật tố tụng hành chính, đồng thời có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khắc

phục tính "l ười biếng, trễ nải", hoặc "nể sợ" rất phổ biến hiện nay của đội ngũ

thẩm phán khi được giao xét xử các vụ án hành chính.

- Cần quy định rõ hơn vai trò của Luật sư trong tố tụng hành chính

Tòa án nhân dân t ối cao cần có nh ững quy định đảm bảo sự tham gia t ố

tụng để đại diện hoặc bảo vệ cho người khởi kiện mang tính bắt của Luật sư khi:

+ Vụ án có tính chất phức tạp;

+ Vụ án có tính chất xâm hại nghiêm trọng;

+ Vụ án có mức thiệt hại lớn;

+ Vụ án mà người khởi kiện trong các trường hợp sau:

- Đối tượng chính sách, người nghèo;

- Người dân tộc, người vùng sâu, vùng xa…;

- Người có trình độ văn hóa thấp (từ lớp 7 trở xuống).

125

+ Vụ án có ng ười bị kiện là tập thể cơ quan ho ặc người có ch ức vụ quan

trọng (Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện trở lên)…

Nội dung cần được quy định và cụ thể hóa là để phù hợp với tính đặc thù

của vụ án hành chính mà m ột trong các đặc thù đó là trong v ụ án hành chính,

người bị ki ện (m ột bên đương sự) luôn luôn là công quy ền. Vi ệc tham gia t ố

tụng hành chính c ủa Luật sư là nh ằm góp ph ần làm gi ảm sự chênh lệch về mọi

phương diện giữa một bên là Nhà nước (có đủ mọi điều kiện, phương tiện, năng

lực và các nguồn lực vật chất vô cùng to lớn…) và một bên là cá nhân, thể nhân.

Quy định về bảo đảm sự tham gia của Luật sư đại diện hoặc bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính tại Tòa án.

4.2. HOÀN THIỆN TỔ CHỨC XÉT XỬ HÀNH CHÍNH

Xét xử các khiếu nại hành chính là một chức năng của Tòa án. Đây là một

loại án phức tạp, đặc biệt và có tính đặc thù là một bên trong các đương sự luôn

luôn là cơ quan nhà n ước hoặc cán bộ, công ch ức có th ẩm quyền trong các c ơ

quan đó. Những cơ quan này lại là "người bị kiện". Đây là điểm mấu chốt có thể

làm nảy sinh một số khuyết tật ảnh hưởng lớn, thậm chí có kh ả năng hình th ức

hóa, vô hiệu hóa thẩm quyền xét xử khiếu nại hành chính của Tòa án. Một trong

những phương thức hữu hiệu và cơ bản để hạn chế các khuyết tật trên là phải có

sự đổi mới một cách mạnh mẽ về tổ chức, sắp xếp lại hệ thống Tòa hành chính

tạo điều kiện cho việc phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các cấp.

Thực hi ện Ngh ị quy ết Đại hội đại bi ểu toàn qu ốc Đảng Cộng sản Vi ệt

Nam lần thứ IX, đảm bảo tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư

pháp thật sự có hiệu lực và hiệu quả, việc cải cách tổ chức hệ thống Tòa án phải

được tiến hành một cách đồng bộ bao gồm cải cách tổ chức bộ máy và nhân s ự;

cải cách sắp xếp lại hệ thống và cải cách tổ chức hoạt động xét xử. Trong khuôn

khổ của cuốn chuyên kh ảo này, ch ỉ bàn đến những vấn đề cải cách tổ chức có

liên quan đến thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án. Xin nêu một

số phương án sau:

Phương án thứ nhất:

Thiết lập hệ th ống Tòa án hành chính theo ph ương th ức tr ực tuy ến bao

gồm: Tòa án hành chính trung ương thuộc Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án hành

126

chính vùng và Tòa án hành chính khu v ực. Nếu theo h ệ th ống này thì chuy ển

thẩm quyền xét xử khiếu nại hành chính t ừ hệ thống Tòa án nh ư hiện nay sang

cho hệ thống Tòa án hành chính. Đồng thời bỏ Tòa hành chính Tòa án nhân dân

cấp cao và Tòa hành chính Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Cụ thể là:

a) Tòa án hành chính Trung ương thuộc cơ cấu của Tòa hành chính c ủa

Tòa án nhân dân cấp cao có các thẩm quyền sau:

- Sơ th ẩm những vụ án khi ếu kiện quy ết định hành chính, hành vi hành

chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan

ngang bộ; của Chủ nhiệm Văn phòng Qu ốc hội, Văn phòng Ch ủ tịch nước; của

Chánh án Tòa án nhân dân t ối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân t ối cao

và các quy ết định hành chính, hành vi hành chính, quy ết định kỷ lu ật cán b ộ,

công chức của những cán bộ, công ch ức có th ẩm quyền ký theo ủy quyền hoặc

ký thay theo s ự phân công c ủa những người trên đây; những vụ án thu ộc thẩm

quyền của Tòa án hành chính vùng nh ưng Tòa án hành chính trung ương lấy lên

để xét xử;

- Phúc th ẩm những vụ án mà b ản án, quy ết định ch ưa có hi ệu lực pháp

luật của Tòa án hành chính cấp dưới trực tiếp kháng cáo, kháng nghị;

- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của Tòa án hành chính cấp dưới trực tiếp bị kháng nghị;

- Tòa án hành chính trung ương giám đốc việc xét xử của các Tòa án hành

chính cấp dưới;

- Tòa án hành chính trung ương có Ủy ban Thẩm phán.

b) Tòa án hành chính vùng

- Tòa án hành chính vùng được thành lập và có phạm vi thẩm quyền trong

một vùng lãnh thổ nhất định (ví dụ: một số tỉnh liền kề lập thành một vùng…).

- Các Tòa án hành chính vùng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án về

khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật của các

cơ quan nhà n ước cấp tỉnh, thành ph ố tr ực thu ộc trung ương và cán b ộ, công

chức có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước đó; sơ thẩm những vụ án thuộc

thẩm quyền của Tòa án hành chính c ấp dưới mà mình l ấy lên để xét x ử; phúc

127

thẩm những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án

hành chính cấp dưới bị kháng cáo, kháng ngh ị; giám đốc thẩm, tái th ẩm những

vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hành chính cấp

dưới bị kháng nghị.

- Tòa án hành chính vùng có Ủy ban Thẩm phán.

c) Tòa án hành chính khu v ực ở một số huyện liền kề (kể cả số huyện đó

thuộc các tỉnh khác nhau) được coi là một khu vực

- Các Tòa án hành chính khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ

án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, quy ết định kỷ luật

cán bộ, chức của các cơ quan nhà n ước từ cấp huyện trở xuống và của cán bộ,

công chức

Phương án thứ hai:

Thiết lập tổ ch ức xét x ử hành chính thành hai c ấp: cấp sơ th ẩm và c ấp

phúc th ẩm. Theo ph ương án này, nên thành l ập hệ th ống tổ ch ức xét x ử hành

chính như sau:

- Tòa hành chính sơ thẩm (hoặc Tòa hành chính sơ cấp);

- Tòa hành chính phúc thẩm (hoặc Tòa hành chính trung cấp);

- Tòa hành chính trung ương thuộc Tòa án nhân dân cấp cao.

Về thẩm quyền, nên phân định như sau:

Tòa hành chính s ơ th ẩm được tổ ch ức theo khu v ực (2-3 huy ện li ền kề

thành một khu v ực, có th ể có nh ững huy ện trong khu v ực thuộc các tỉnh khác

nhau) các Tòa hành chính s ơ thẩm có th ẩm quyền xét xử sơ thẩm mọi vụ kiện

hành chính có người bị kiện thuộc lãnh thổ khu vực.

Tòa hành chính phúc th ẩm được thành l ập theo t ừng vùng nh ất định (3

đến 4 t ỉnh lập thành m ột vùng) có th ẩm quy ền xét x ử phúc th ẩm các b ản án,

quyết định sơ thẩm của các Tòa hành chính khu vực thuộc vùng chưa có hiệu lực

pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.

Tòa hành chính trung ương thuộc Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền

xét xử phúc th ẩm, giám đốc thẩm, tái th ẩm các bản án, quy ết định của Tòa án

128

hành chính cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, thực hiện chức năng

giám đốc và hướng dẫn công tác xét xử…

Thực hiện phương án này s ẽ góp ph ần bảo đảm tối đa vai trò, v ị trí độc

lập và tích cực, khách quan và chính xác trong xét x ử khiếu kiện hành chính của

Tòa án.

Phương án thứ ba:

Xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án là trên nguyên tắc xét xử trên một

cấp. Với phương án này, th ẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính được phân

định như sau:

a) Tòa xử lý hành chính của Tòa án nhân dân huyện có thẩm quyền xét xử

các khiếu kiện hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của

Ủy ban nhân dân xã, ph ường, thị trấn và của cán bộ có thẩm quyền trong các cơ

quan đó.

b) Tòa hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Tòa hành chính c ủa Tòa án nhân dân c ấp tỉnh có th ẩm quy ền xét x ử sơ

thẩm các khi ếu ki ện hành chính đối với quy ết định hành chính, hành vi hành

chính, quy ết định kỷ lu ật cán bộ, công ch ức của các cơ quan nhà n ước từ cấp

huyện trở xuống và của cán bộ, công chức trong các cơ quan đó; xét xử sơ thẩm

những vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân c ấp huyện mà phân tòa

Tòa hành chính lấy lên để xét xử hoặc những vụ án mà Thẩm phán Tòa án nhân

dân huyện phải từ chối.

- Xét xử phúc th ẩm những vụ án mà b ản án, quyết định chưa có hiệu lực

pháp luật thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị;

- Sơ thẩm những vụ án thu ộc thẩm quyền của Tòa án c ấp huyện mà Tòa

hành chính Tòa án nhân dân t ỉnh lấy lên để xét xử; những vụ án liên quan đến

các cơ quan nhà nước cấp tỉnh.

c) Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân cấp cao có phạm vi thẩm quyền

địa hạt đối với một hoặc một số tỉnh liền kề:

- Xét xử sơ thẩm các khi ếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành

chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước cấp tỉnh hoặc

129

của cán bộ, công chức có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước đó; các vụ án

thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh mà phân tòa Tòa hành chính Tòa

hành chính Tòa án nhân dân cấp cao lấy lên để xét xử…

- Xét xử sơ thẩm các khi ếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành

chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan

ngang bộ (gọi chung là Bộ trưởng) và các cơ quan thuộc cấp bộ của Văn phòng

Quốc hội, Văn phòng Ch ủ tịch nước, Tòa án nhân dân t ối cao, Vi ện ki ểm sát

nhân dân tối cao.

- Xét x ử phúc th ẩm các v ụ án mà b ản án, quy ết định ch ưa có hi ệu lực

pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị.

d) Tòa án nhân dân cấp cao

- Phúc th ẩm các vụ án mà b ản án, quy ết định chưa có hi ệu lực pháp lu ật

của Tòa hành chính thu ộc Tòa hành chính Tòa án nhân dân c ấp cao b ị kháng

cáo, kháng nghị.

- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị.

e) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử các

vụ án hành chính như quy định hiện hành

- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị.

Cần mạnh dạn thực hiện những cải cách có tính đột phá nh ư vậy mới có

thể tạo ra bước chuyển biến mới và tích c ực cho vi ệc nâng cao n ăng lực xét xử

hành chính, làm cho Tòa án có vai trò th ật sự tham gia vào c ơ ch ế gi ải quy ết

khiếu kiện hành chính c ủa công dân, t ổ chức; góp ph ần nâng cao hi ệu lực quản

lý nhà nước của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.

Trong các phương án nêu trên, ph ương án thứ nhất là có ý ngh ĩa tích cực

và khả thi nh ất cho việc bảo đảm sử dụng và th ực hiện có hiệu quả thẩm quyền

của Tòa án trong vi ệc xét xử các khiếu kiện hành chính. Đây là phương án đúng

đắn và tối ưu vì những lý do sau:

130

Thứ nh ất, ph ương án này phù h ợp với quan điểm của Đảng về tính h ệ

thống của Tòa án hành chính các c ấp được ghi nh ận trong Ngh ị quy ết 08-

NQ/TW Ban Ch ấp hành Trung ương Đảng khóa VII: "…xúc ti ến việc thiết lập

hệ thống Tòa án hành chính để xét xử các khiếu kiện hành chính của dân đối với

các quyết định hành chính".

Trên thực tế hiện nay, chúng ta ch ưa có hệ thống các Tòa án hành chính

các cấp. Tòa hành chính c ủa Tòa án nhân dân t ối cao và Tòa án nhân dân c ấp

tỉnh hiện nay ch ỉ là các tòa chuyên trách gi ống như các tòa chuyên trách c ủa tư

pháp th ưởng (hình sự, dân s ự, kinh tế, lao động) không th ể gọi đó là hệ thống

Tòa án hành chính được.

(1) Việc thiết lập hệ thống Tòa án hành chính theo phương án thứ nhất vừa

có tác dụng củng cố, kiện toàn hệ thống Tòa án, v ừa có tác d ụng phân định lại

thẩm quyền xét xử của Tòa án. Vấn đề này cũng được Đảng ta chỉ rõ trong Nghị

quyết Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần thứ IX là: "C ủng cố, kiện toàn bộ máy cơ

quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân" [22, tr.132].

(2) Theo ph ương án này c ũng đồng th ời là t ừng bước th ực hi ện ch ủ

trương cải cách tư pháp của Đảng là: "Xác định mô hình t ổ chức và th ủ tục tố tụng phù hợp với đặc điểm của các vụ kiện hành chính" [19, tr.143], góp phần

"cải cách tổ chức, nâng cao ch ất lượng và hoạt động của cơ quan tư pháp… sắp

xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các

cấp" [19, tr.132].

Thứ hai, thực hiện phương án này sẽ nhằm đảm bảo củng cố, tăng cường

việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc: khi xét x ử Tòa án độc lập và ch ỉ tuân theo

pháp luật, khắc phục tình tr ạng ngại va chạm, tình trạng lo ngại của Thẩm phán

khi phải đối diện với các cơ quan hành chính ở địa phương.

Khi thi ết lập hệ th ống Tòa án hành chính theo ph ương án này c ũng sẽ

khắc phục tình trạng phụ thuộc, lệ thuộc của Thẩm phán vào cơ chế tổ chức ở địa

phương nh ư hi ện nay. Hi ện nay, s ự ph ụ thu ộc của Th ẩm phán th ể hi ện ở ch ỗ

Thẩm phán được bổ nhiệm, tái bổ nhiệm phải thông qua Hội đồng tuyển chọn ở

địa phương mà đa số các thành viên trong H ội đồng tuyển chọn đều là cán b ộ,

131

công chức trong các c ơ quan chính quy ền địa phương. Nếu theo ph ương án th ứ

nhất thì Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán phải là một Hội

đồng khác.

Thứ ba, người trực tiếp thực hiện thẩm quyền của Tòa án để xét xử khiếu

kiện hành chính là các Th ẩm phán. N ếu th ực hi ện theo ph ương án này thì đội

ngũ Thẩm phán trong Tòa án hành chính các c ấp có điều kiện tập trung vào xét

xử, khi ếu ki ện hành chính. Do đó có điều ki ện và b ắt bu ộc Th ẩm phán hành

chính phải chuyên tâm, trau dồi nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng xét xử các khiếu

kiện hành chính; qua đó đảm bảo ch ất lượng, hi ệu qu ả xét x ử, nâng cao th ẩm

quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án.

Thứ tư, theo phương án này, vi ệc thực hiện thẩm quyền của Tòa án trong

việc xét xử khiếu kiện hành chính sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác, t ự tin

khi th ụ lý để xét x ử các khi ếu ki ện hành chính v ề các quy ết định hành chính,

hành vi hành chính, quy ết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công ch ức của cơ

quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó tại địa phương.

Thứ năm, việc thực hiện phương án này s ẽ tạo sự phù hợp giữa hệ thống

tổ chức với thẩm quyền, phù hợp giữa hình thức với nội dung. Nhờ có hình thức

tổ chức thích hợp, thông qua hình th ức đó mà nội dung thẩm quyền mới có điều

kiện, cơ hội tồn tại và phát huy các giá tr ị tích c ực, bảo đảm vi ệc xét x ử các

khiếu kiện hành chính được khách quan, chính xác; b ảo vệ có hi ệu quả quyền,

lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; góp phần nâng cao hiệu lực của quản lý

hành chính nhà nước

4.3. HOÀN THIỆN NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH

Nhân tố con người trong xét xử hành chính là một phạm trù tư pháp hành

chính cụ thể và được hiểu theo những nghĩa khác nhau.

Theo nghĩa rộng, nhân tố con ng ười trong xét x ử hành chính là n ội dung

pháp lý để chỉ những cá nhân, t ổ chức tham gia vào quá trình Tòa án th ụ lý và

giải quyết vụ án hành chính và cá nhân,tổ chức liên quan đến quá trình đó.

Theo nghĩa này, nhân tố con người trong xét xử hành chính bao gồm:

132

+ Cơ quan và ng ười ti ến hành t ố tụng trong hành chính (Tòa án, Vi ện

kiếm sát, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên)

+ Đương sự và nh ững người tham gia t ố tụng (người khởi kiện, người bị

kiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư, người bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định…)

+ Cá nhân, tổ chức quan tâm, theo dõi vụ án hành chính…

+ Theo ngh ĩa hẹp, nhân t ố con ng ười trong xét x ử hành chính là các cá

nhân tham gia quá trình xét xử hành chính với tư cách là người tiến hành tố tụng

và người tham gia tố tụng.

Tuy nhiên lu ận án này, trong ph ạm vi hạn chế, chỉ tập trung vào v ấn đề

hoàn thiện vai trò, trách nhiệm người Thẩm phán.

Bởi vì trong xét x ử hành chính c ủa nền tư pháp xét h ỏi, chất lượng, hiệu

quả và giá tr ị công lý của phán quyết hành chính là ph ụ thuộc vào vai trò quy ết

định của thẩm phán.

4.3.1. Vấn đề đạo đức và trách nhiệm Thẩm phán trong hoạt động xét

xử các khiếu kiện hành chính

4.3.1.1. Khái quát chung

Hoạt động xét xử nói chung và xét x ử vụ án hành chính nói riêng, pháp

luật xác định cho Th ẩm phán một vị trí đặc biệt đó là "độc lập và ch ỉ tuân th ủ

theo pháp lu ật". Và để đảm bảo vị trí pháp lý quan tr ọng này, trong h ệ th ống

pháp luật Việt Nam - Nhà n ước ta quy định rất nhiều các biện pháp bảo đảm cả

về mặt thể chế, thủ tục cũng như quá trình tố tụng.

Vị trí pháp lý, các biện pháp bảo đảm trên lại được đặt trong điều kiện của

một nền tố tụng xét hỏi - loại tố tụng mà ưu quyền trong các quan hệ pháp luật là

lệ thuộc các cơ quan và người tiến hành tố tụng - nếu không có tác động tích cực

của các yếu tố xã hội khác mà tr ước hết là yếu tố đạo đức - thì d ễ dẫn đến tình

trạng người tiến hành tố tụng (trong đó có Th ẩm phán) sẽ dựa dẫm, lạm quyền

mà hạn chế tính đúng đắn, khách quan trong hoạt động xét xử.

Trên thế giới, trải qua các thời kỳ khác nhau, dưới bất kỳ chế độ chính trị

nào, vấn đề đạo đức người Thẩm phán luôn đặc biệt coi trọng, góp phần tích cực

133

nhất chi phối hành vi ứng xử của người Thẩm phán trong các quan hệ xã hội nói

chung, trong hoạt động xét xử nói riêng.

Đạo đức vốn là một hình thái ý th ức xã hội được hình thành t ừ rất sớm

trong lịch sử xã hội loài ng ười. Đó chính là nh ững quy định, những chuẩn mực

ứng xử trong quan h ệ của con ng ười. Đạo đức giúp con ng ười hướng tới chân,

thiện, mỹ. Đạo đức người Thẩm phán, tr ước hết cũng không ngoài đạo đức xã

hội, nó là các chu ẩn mực đạo đức xã hội được hình thành và phù h ợp với hoạt

động xét xử của người Thẩm phán. Hầu hết các quốc gia có nền tư pháp tiên tiến

trên thế giới đều có nh ững quy chu ẩn nhất định về đạo đức nghề nghiệp. Điển

hình như: Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Tòa án hình s ự quốc tế (Code of

Judicial Ethics of Internatinal Criminal Court), Bộ nguyên tắc đạo đức cho thẩm

phán của Hội đồng tư pháp Canada (Ethical Principles for Judges – Canadian

Judicial Council), Bộ quy tắc hành vi cho th ẩm phán Hoa K ỳ (Judicial Code of

Conduct for United States Judges)…

Với ý ngh ĩa như vậy, đạo đức Thẩm phán trong ho ạt động xét xử vụ án

hành chính là các giá tr ị về chân, thiện, mỹ trong quá trình ti ến hành tố tụng mà

người Thẩm phán cần hướng tới để ra một phán quy ết công minh, khách quan,

đúng pháp luật.

Điều đặc biệt trong hoạt động xét xử các khiếu kiện hành chính là xem xé

và giải quyết các mâu thu ẫn, tranh chấp giữa Nhà nước (cơ quan nhà nước, cán

bộ, công chức trong cơ quan nhà nước) với công dân hay tổ chức. Do đó, người

Thẩm phán xem xét gi ải quyết sao cho v ừa phải đảm bảo hiệu lực của quản lý

hành chính nhà nước vừa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

Trong bài chuyên luật này không bàn về khía cạnh đạo đức học của người Thẩm

phán mà chỉ nêu và phân tích các biểu hiện, giá trị và ý nghĩa của đạo đức người

Thẩm phán trong quá trình được phân công, th ụ lý, điều tra, xác minh, thu th ập

chứng cứ và xét xử vụ án hành chính.

Để có cơ sơ nghiên cứu, xem xét các bi ểu hiện đạo đức Thẩm phán trong

các giai đoạn của quá trình xét xử khiếu kiện hành chính một cách toàn diện đầy

đủ, cần khái quát các yếu tố tạo nên đạo đức Thẩm phán trong xét xử hành chính.

134

Trước hết, người Thẩm phán có đạo đức phải là người có trình độ chuyên

môn nghiệp vụ cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "Có tài mà không có đức

là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm vi ệc gì cũng khó". Rõ ràng tài

và đức là hai yếu tố chất của đạo đức nghề nghiệp. Hai tố chất này có mối liên hệ

mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong ho ạt động xét xử các khiếu

kiện hành chính, hai y ếu tố này được thể hiện ở kỹ năng, nghiệp vụ xé xử của

người Thẩm phán. Không th ể nói Thẩm phán có đạo đức nghề nghiệp nhưng do

nghiệp vụ kỹ năng non kém mà ra m ột phán quy ết gây thi ệt hại đến quyền, lợi

ích hợp pháp cho công dân, tổ chức được.

Thứ hai, lương tâm ngh ề nghi ệp, lòng nhân đạo của Th ẩm phán, đây là

một tố chất quan trọng thể hiện ở lòng nhân hậu, tính vị tha, bao dung của người

Thẩm phán trong quá trình gi ải quyết vụ án hành chính. N ếu không có s ự cảm

thông sâu sắc đến các tr ường hợp cụ thể của các vụ khiếu kiện thì dễ dẫn đến

tình trạng làm việc qua loa, đại khái, thiếu chặt chẽ, thiếu khách quan, ảnh hưởng

đến quy ền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện hoặc làm gi ảm uy tín c ủa cơ

quan nhà n ước hay cán b ộ, công ch ức trong các c ơ quan nhà n ước (Ng ười bị

kiện). Đây chính là lo ại tình c ảm trong sáng, không làm m ất đi sự công tâm,

minh bạch của Thẩm phán.

Thứ ba, bản lĩnh nghề nghiệp. Yếu tố này thể hiện tính tự quyết, khả năng,

độc lập và lòng dũng cảm của Thẩm phán. Bản lĩnh được hình thành và củng cố

trên cơ sở của tính tự tin vào kh ả năng chuyên môn, thái độ công bằng, khách

quan vô tư. Đặc biệt, trong xét x ử hành chính (xét x ử quyết định, hành vi c ủa

chính quyền), nếu không có bản lĩnh vững vàng thì người Thẩm phán dễ bị nể sợ

chính quyền, sợ lãnh đạo trù dập dẫn đến thiếu khách quan vô tư, ảnh hưởng đến

chất lượng xét xử.

Thứ tư, tính trung th ực. Trong ho ạt động giải quyết các khi ếu kiện hành

chính, tính trung th ực cũng là một yếu tố vô cùng quan tr ọng. Tính trung th ực

trước hết thể hiện ở sự tôn tr ọng sự thật khách quan, nhìn nh ận và xét đoán sự

vật, hi ện tượng đúng nh ư bản ch ất vốn có c ủa nó, không suy đoán ch ủ quan,

thiếu căn cứ, thiếu cơ sở. Tính trung th ực ở đây còn th ể hiện ở sự cương tr ực

135

nhưng chân tình trong công tác c ũng như quan hệ ứng xử hàng ngày tại cơ quan

trong sinh hoạt xã hội của người Thẩm phán.

Thứ năm, tinh th ần trách nhiệm, yếu tố này biểu hiện qua sự tận tụy, tính

tự giác trong quá trình th ực thi công vụ. Tinh thần trách nhiệm còn thể hiện ở sự

thận trọng, tỉ mỉ, chu đáo khi lựa chọn các tình ti ết, các cơ sở pháp luật áp dụng

để ra phán quyết giải quyết vụ án.

Thứ sáu, tính khiêm t ốn. Đây là đức tính rất quan tr ọng của người Thẩm

phán. Với đức tính này, đòi hỏi mỗi Thẩm phán có thái độ đúng mực trong đánh

giá trình độ, năng lực... của bản thân mình, không kiêu căng, tự mãn và phải biết

tôn trọng trình độ, năng lực, phẩm chất, công lao và thành tích c ủa người khác

nhất là đối với đồng nghiệp.

Những yếu tố gắn kết, tác động qua l ại lẫn nhau t ạo nên đạo đức con

người Thẩm phán nói chung và đạo đức trong ho ạt động xét xử các khi ếu kiện

hành chính nói riêng - đạo đức Thẩm phán trong hoạt động xét xử các khiếu kiện

hành chính.

4.3.1.2. Biểu hiện của đạo đức Thẩm phán trong hoạt động giải quyết các

khiếu kiện hành chính

Đạo đức Thẩm phán được biểu hiện trong suốt quá trình gi ải quyết vụ án

mà trước hết là việc thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án hành chính là hoạt động tiến hành

tố tụng đầu tiên của Tòa án nhân dân trong đó Thẩm phán căn cứ vào các quy

định của pháp luật chấp nhận đơn khởi kiện vụ án hành chính của đương sự, hay

quyết định khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân vào sổ thụ lý.

Việc thụ lý vụ án hành chính có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác

định trách nhi ệm xem xét gi ải quyết vụ án và các quan h ệ tố tụng giữa Tòa án

với các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia quá trình giải quyết vụ án hành chính.

Khi xem xét đơn kh ởi ki ện hay quy ết định kh ởi tố vụ án hành chính đòi hỏi

Thẩm phán ph ải th ận tr ọng và kh ẩn tr ương. Nếu không th ận tr ọng thì có th ể

thiếu chính xác, nh ầm lẫn về vụ việc, thẩm quyền hoặc xác định không đầy đủ

các điều ki ện kh ởi ki ện, kh ởi tố… dẫn đến th ụ lý sai v ụ án. N ếu không kh ẩn

136

trương thì có th ể ảnh hưởng đến thời hiệu, thời gian kh ởi kiện, khởi tố dẫn đến

làm mất quyền khởi kiện của đương sự.

Sau khi đã thụ lý, Thẩm phán được phân công gi ải quyết vụ án phải đọc

kỹ các tài liệu do người khởi kiện xuất trình, ví dụ: Đơn khởi kiện, bản sao quyết

định hành chính, b ản sao quy ết định trả lời khiếu nại lần đầu…hoặc các tài li ệu

khác. Sau đó, Thẩm phán vi ết tóm tắt nội dung đơn kiện, yêu cầu khởi kiện để

thông báo cho ng ười bị kiện và ng ười có quy ền lợi, nghĩa vụ liên quan bi ết nội

dung đơn kiện.

Tiếp theo, Thẩm phán tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Hoạt động,

xác minh, thu th ập chứng cứ trong vụ án hành chính có vai trò vô cùng to l ớn

trong quá trình gi ải quyết vụ án hành chính. Đây là ho ạt động chiếm một khối

lượng công việc lớn nhất, nhiều thời gian nhất so với các loại công việc khác của

quá trình giải quyết vụ án hành chính. Xác minh, thu th ập chứng cứ trong vụ án

hành chính là t ổng thể các ho ạt động tố tụng của Tòa án nh ằm làm rõ các tình

tiết của vụ án, qua đó xác l ập các c ăn cứ cần thi ết, khách quan cho vi ệc gi ải

quyết đúng đắn vụ án hành chính.

Hoạt động xác minh, thu th ập ch ứng cứ là một lo ại ho ạt động cần thi ết,

vừa có ý ngh ĩa bắt bu ộc đối với ng ười ti ến hành t ố tụng nói chung và đối với

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án nói riêng, vừa là biện pháp đảm bảo

cho các hoạt động tố tụng khác của quá trình giải quyết vụ án hành chính, nhất là

hoạt động xét xử tại phiên tòa và việc ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Về

mặt pháp lý, ho ạt động xác minh, thu th ập ch ứng cứ trong v ụ án hành chính

được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật, nhất là Luật tố tụng hành chính.

Như vậy, mặc dù yêu cầu của việc xác minh, thu thập chứng cứ phát sinh

từ rất sớm nhưng với tư cách là hành vi tố tụng thì các hoạt động này được chính

thức tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Giai đoạn chuẩn bị xét xử còn được thể hiện ở nhiều yêu cầu, công vi ệc

và thời hạn khác liên quan mật thiết đến hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ.

Những nội dung này có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong việc xác định phạm

137

vi đối tượng điều tra cụ thể, xác định biện pháp, kế hoạch và hướng điều tra, xác

định thời gian hoàn thành nhiệm vụ điều tra.

Như vậy, nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính là một loại hoạt động tố tụng

mang tính ch ất chuyên môn, nghi ệp vụ cụ thể và cần thiết nhằm góp ph ần nắm

vững nội dung, tính ch ất diễn biến của vụ án, phát hiện những thiếu sót, sai lầm

của các ho ạt động tố tụng có liên quan nh ằm bổ sung, hoàn thi ện các tình ti ết

và hệ thống chứng cứ, đủ căn cứ và cơ sở cho việc giải quyết vụ án.

Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính là m ột hoạt động tố tụng mang

tính chuyên môn nghi ệp vụ có ý ngh ĩa bắt buộc đối với bất cứ Thẩm phán nào

được phân công giải quyết vụ án. Kết quả nghiên cứu hồ sơ vừa là cơ sở cho việc

ra các quyết định về giải quyết vụ án vừa là điều kiện thiết yếu để thực hiện các

giải đoạn tố tụng tiếp theo như mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, tạo điều kiện thuận

lợi cho việc viết bản án hành chính hoặc ra các quyết định giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án áp dụng mọi biện pháp do lu ật quy định để

kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án nhằm xác định tính hợp pháp của

quyết định hành chính, hành vi hành chính ho ặc quy ết định kỷ luật bu ộc thôi

việc bị khiếu kiện; xác định có hay không có thi ệt hại do quyết định hành chính,

hành vi hành chính ho ặc quyết định kỷ luật buộc thôi vi ệc trái pháp lu ật gây ra

để bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án. Như vậy, việc tiến hành phiên tòa sơ

thẩm vụ án hành chính là th ủ tục bắt buộc trong trình t ự tố tụng hành chính để

giải quyết vụ án khi không có lý do quy ết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc

giải quyết vụ án. Sau phiên tòa sơ thẩm còn có những bước tiếp theo của tố tụng

hành chính như xét xử phúc thẩm, thi hành án… Vì vậy, bản án hoặc quyết định

sơ th ẩm ch ưa có hi ệu lực pháp lu ật trong th ời hạn kháng cáo, kháng ngh ị do

pháp luật quy định. Nếu có kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm

phải được xét x ử lại theo th ủ tục phúc th ẩm. Nếu không có kháng cáo, kháng

nghị thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành.

Từ phân tích trên có th ể hiểu rằng, phiên tòa hành chính s ơ thẩm là một

khâu quan trọng của giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong đó Tòa án tiến hành xét xử,

138

kiểm tra các ch ứng cứ của vụ án, làm cơ sở cho vi ệc ra bản án ho ặc quyết định

giải quyết vụ án.

Hoạt động xét xử của Tòa án được thể hiện thông qua nhi ều giai đoạn tố

tụng kế tiếp nhau, từ khi th ụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét x ử và k ết thúc

bằng vi ệc tuyên m ột bản án. Trong các giai đoạn tố tụng thì phiên tòa là giai

đoạn thể hiện sự đặc trưng, điển hình nhất của giai đoạn xét.

Các Thẩm phán dù đã làm quen và thành th ạo trong vi ệc điều khiển các

loại phiên tòa v ề hình s ự, dân s ự, nhưng vi ệc điều khi ển phiên tòa m ột cách

"xuất sắc", nhất là đối với những vụ án ph ức tạp không ph ải dễ dàng và không

phải Thẩm phán nào c ũng thực hiện được. Đối với phiên tòa hành chính là lo ại

việc mới lại có nh ững điểm đặc thù riêng, vì v ậy rất cần có th ời gian và th ực

hành vừa tổng kết rút kinh nghi ệm để xây dựng một quy trình điều khiển phiên

tòa thích hợp, có hiệu quả, trong đó phải đạt được những yêu cầu sau đây:

- Một phiên tòa nghiêm minh không ch ỉ căn cứ vào việc Hội đồng xét xử

tuyên một bản án có đúng pháp lu ật hay không, mà còn đòi hỏi phiên tòa có

được một hình th ức nghiêm trang v ừa thể hiện được nguyên tắc tuân th ủ pháp

luật và m ọi ng ười đều bình đẳng tr ước pháp lu ật. Hình th ức phiên tòa ph ải

nghiêm trang, dân chủ, không tạo ra khoảng cách không gian quá xa và cảm giác

"ngôi thứ" cao thấp giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia

tố tụng. Hình th ức phiên tòa được th ể hiện thông qua các bài trí phòng x ử án,

trang phục, tác phong, lời nói của người tiến hành tố tụng và đặc biệt là sự điều

khiển của Ch ủ tọa phiên tòa, theo đúng trình t ự, nh ạy bén, n ăng động, ch ững

chạc, chính xác từ khi khai mạc đến khi kết thúc.

- Việc điều khiển phiên tòa của Chủ tọa phiên tòa phải đúng trình tự, rành

mạch, ch ặt ch ẽ, ng ắn gọn, không n ặng nề phong thái "ch ỉ huy", truy xét

như phiên tòa hình s ự, mà cần bình tĩnh lắng nghe các bên đương sự xuất trình

tài liệu chứng minh và trình bày ý kiến tranh luận; thể hiện vai trò trung gian, tạo

điều kiện cho hai bên đương sự thỏa thuận và nếu thỏa thuận không được thì Hội

đồng xét xử mới quyết định theo pháp luật.

139

Trong trình tự tố tụng hành chính, xét x ử tại phiên tòa có m ột vị trí quan

trọng. Thông qua vi ệc ki ểm tra, đánh giá các ch ứng cứ đã thu th ập trong giai

đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án xác minh được sự thật khách quan, bản chất của vụ

án để rút ra những kết luận làm cơ sở cho các quyết định của bản án. Bản án của

Tòa án ghi nh ận toàn bộ quá trình gi ải quyết của vụ án, buộc các bên đương sự

và các cơ quan, tổ chức có liên ph ải chấp hành. Vi ệc ra bản án ph ải thông qua

xét xử, nếu không có hoạt động xét xử thì không thể ra bản án hành chính được.

Vì sau khi xét x ử sơ thẩm, vụ án còn có th ể được xét x ử theo trình t ự

phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái th ẩm nên vi ệc xét xử sơ thẩm còn là c ơ sở

cho việc tiến hành các thủ tục này. Xét xử theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm có được thuận lợi hay không cũng phụ thuộc một phần quan

trọng vào chất lượng của xét xử sơ thẩm vụ án.

Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính thường được tiến hành công khai nên

nhân dân có điều kiện tham dự phiên tòa, vừa chứng kiến vừa giám sát hoạt động

xét xử của Tòa án. Bằng việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án và áp dụng pháp luật

để gi ải quy ết vụ án có lý, có tình, ho ạt động xét x ử của Tòa án giúp cho các

đương sự và quần chúng nhân dân hiểu biết hơn về pháp luật, từ đó nâng cao hơn

ý th ức tôn tr ọng và ch ấp hành pháp lu ật Nhà n ước cũng nh ư các quy t ắc của

cuộc sống xã hội.

Trong kỹ năng th ực hành phiên tòa s ơ thẩm, ph ần xét h ỏi là khó kh ăn

nhất, đòi hỏi Th ẩm phán Ch ủ tọa phiên tòa và H ội đồng xét x ử ph ải có m ột

phương pháp làm vi ệc khoa h ọc, nh ạy bén trong vi ệc xử lý từng tình hu ống

cụ thể để đạt được mục đích là xác định được sự thật khách quan và nh ững tình

tiết liên quan đến vi ệc gi ải quy ết vụ án được đúng pháp lu ật. Th ẩm phán Ch ủ

tọa phiên tòa là ng ười ch ịu trách nhi ệm chính trong vi ệc tổ ch ức không khí

tranh lu ận dân ch ủ khách quan, bình đẳng; tránh định ki ến thiên v ị, tránh thái

độ võ đoán.

Tóm lại, vấn đề tranh tụng tại phiên tòa hành chính là vi ệc tranh cãi, bàn

luận của các bên tham gia tranh t ụng về tính h ợp pháp c ủa quy ết hành chính,

hành vi hành chính… b ị kh ởi ki ện. Bi ểu hi ện của tranh t ụng được th ể hi ện ở

140

những mức độ khác nhau qua các n ội dung, các th ủ tục tại phiên tòa nh ưng tập

trung và ch ủ yếu được thể hiện tại phần tranh lu ận của phiên tòa, nh ất là phiên

tòa sơ thẩm.

Mặt khác, do tranh tụng tại phiên tòa được coi là căn cứ chủ yếu của việc

ra phán quy ết của Tòa án. Do vậy, để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa

hành chính cần phải có những biện pháp bảo đảm thì mới phát huy được vai trò

là cơ sở, là căn cứ để ra phán quyết.

Qua trình bày trên cho th ấy, tranh tụng hành chính có vai trò vô cùng to

lớn, thông qua tranh t ụng và lấy tranh tụng tại phiên tòa làm c ăn cứ chủ yếu để

Tòa án ra phán quyết về tính hợp pháp hay bất hợp pháp của các quyết định hành

chính, hành vi hành chính b ị khởi kiện. do vậy chất lượng của phán quy ết phụ

thuộc rất lớn vào ch ất lượng của việc tranh tụng tại phiên tòa. Xem nh ẹ vấn đề

tranh tụng tại phiên tòa hành chính, Tòa án s ẽ rơi vào tình tr ạng chủ quan, tùy

tiện trong ho ạt động xét xử, tùy ti ện, chủ quan trong vi ệc ra phán quy ết để giải

quyết vụ án. Thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa hành chính s ẽ góp ph ần

khắc ph ục tình tr ạng "án b ỏ túi", kh ắc ph ục tình tr ạng "võ đoán", qua loa đại

khái của Tòa án trong ho ạt động xét xử hành chính, hơn nữa việc mở rộng tranh

tụng nói chung và tranh tụng hành chính nói riêng sẽ góp phần xóa bỏ dần sự lạc

hậu của nền tư pháp, tiến tới xây dựng một nền tư pháp tiến bộ, hiện đại.

4.3.1.3. Kết luận và một số kiến nghị

Đạo đức Thẩm phán là một phạm trù, một vấn đề xã hội quan tr ọng liên

quan đến tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, liên quan đến mối quan hệ và

sự đảm bảo công lý gi ữa nhà nước với công dân, t ổ chức, đến tự do, ti ến bộ và

đặc biệt là vai trò đảm bảo, bảo vệ của nhà nước về phát tri ển kinh tế - xã h ội.

Việc quan tâm đến đạo đức Thẩm phán nói chung, đạo đức của Thẩm phán trong

quá trình xét xử, giải quyết vụ án hành chính nói riêng có ý ngh ĩa vô cùng quan

trọng trong cải cách kinh t ế - xã h ội, nhất là cải cách tư pháp. Chính vì v ậy, để

đảm bảo sao cho hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và của Thẩm phán trong

giải quyết các khiếu kiện hành chính nói riêng - ngoài việc thấm nhuần nội dung,

141

yêu cầu, ý nghĩa của vấn đề đạo đức người Thẩm phán trong hoạt động tư pháp -

Nhà nước và xã hội cần luôn đề cao vai trò đạo đức của người Thẩm phán. Đặc

biệt là đạo đức Thẩm phán trong xét xử các khiếu kiện hành chính - một loại đạo

đức đặc thù. Do đó, muốn đề cao vai trò đạo đức trong ho ạt động xét xử hành

chính cần có những biện pháp bảo đảm như sau:

Một là, cần sớm ban hành quy ch ế đạo đức người Thẩm phán, các chu ẩn

mực và yêu c ầu cụ thể của Th ẩm phán trong ho ạt động xét x ử, gi ải quy ết các

khiếu kiện hành chính. Vi ệc ban hành quy ch ế đạo đức như vậy sẽ có tác d ụng

chuẩn mực hóa các hành vi ứng xử của Th ẩm phán mà Nhà n ước ch ưa quy

chuẩn hóa dưới dạng các quy phạm pháp luật. Cần coi đó như là một tác động xã

hội tích cực giúp hình thành và hoàn thi ện năng lực, phẩm chất của người Thẩm

phán trong hoạt động xét xử hành chính.

Hai là, cần có những biện pháp tôn vinh, đề cao danh dự và bảo vệ những

giá trị đạo đức của Thẩm phán trong gi ải quyết các khi ếu kiện hành chính. Đặc

biệt là những phẩm chất như tính khách quan, trung th ực, lòng dũng cảm bảo vệ

công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của công dân, tổ chức

trước các vi ph ạm pháp luật của chính các hành vi, quy ết định của chính quyền,

của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.

Quá trình hình thành đạo đức, nhân cách ng ười Th ẩm phán; quá trình

nâng cao năng lực của người Thẩm phán có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện

vai trò tích cực của nền tư pháp nước nhà đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội.

Với ý nghĩa như vậy - đạo đức Thẩm phán có vai trò tích cực trong việc cải cách

nền tư pháp và c ũng góp ph ần quan tr ọng vào sự nghiệp công nghi ệp hóa, hi ện

đại hóa đất nước.

4.3.2. Cần quy định rõ thái độ và trách nhi ệm tham gia t ố tụng của

người bị kiện để bảo đảm thẩm quy ền xét x ử khi ếu ki ện hành chính c ủa

Tòa án

Mặc dù pháp lu ật đã quy định rõ quy ền, nghĩa vụ, xác định vị trí pháp lý

của người bị kiện trong tố tụng hành chính nh ưng cũng cần phải có nh ững quy

142

định rất cụ thể và th ực hiện để buộc người bị kiện sử dụng đúng đắn và đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm công vụ của người bị kiện cho từng

giai đoạn của quá trình tố tụng. Các quy định này cần được ghi nhận trong Luật

hoặc Pháp l ệnh về tố tụng hành chính. Các th ủ tục bắt bu ộc nếu không có s ự

ràng buộc sẽ làm giảm ý nghĩa của việc thực hiện thẩm quyền xét xử khiếu kiện

hành chính. M ột số ngh ĩa vụ, th ủ tục bắt bu ộc đáng chú ý c ần ph ải có trách

nhiệm ràng buộc như:

- Nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác, k ịp thời, khách quan các tài li ệu,

chứng cứ, trong đó tài liệu, chứng cứ nào thuộc phạm vi bắt buộc;

- Cử người đại diện có năng lực, có trách nhi ệm và có tinh th ần, thái độ

đúng đắn, tránh tình tr ạng bàng quan, th ờ ơ, đùn đẩy. Người bị kiện, người đại

diện, người được ủy quyền phải có sự thống nhất và nh ất quán trong quá trình

tham gia gi ải quyết vụ án tránh tình tr ạng ng ười đại diện được ủy quy ền th ỏa

thuận một đường còn ng ười đứng đầu cơ quan t ổ ch ức bị ki ện lại quy ết định

một nẻo;

- Cần xem sự "bội ước" của người bị kiện trong việc thỏa thuận giải quyết

vụ khi ếu ki ện với ng ười kh ởi ki ện là m ột hành vi ph ạm pháp c ần ph ải xử lý

nghiêm minh; cần có những quy định "phục hồi" tố tụng trong những trường hợp

người bị kiện "bội ước";

- Người bị kiện phải có trách nhi ệm chấp hành bản án, quy ết định đã có

hiệu lực của Tòa án trong th ời hạn do pháp lu ật quy định nh ư hủy, sửa quy ết

định hành chính trái pháp lu ật, chấm dứt hành vi hành chính trái pháp lu ật, khắc

phục và bồi thường thiệt hại.

Đặc biệt cần phải có nh ững quy định cụ thể về trách nhi ệm pháp lý cho

người bị kiện và các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác. Cụ thể là:

- Trách nhiệm pháp lý: Hình sự, dân sự, hành chính và kỷ luật;

- Các bi ện pháp cưỡng chế: Khấu trừ tài kho ản ở ngân hàng, kho b ạc, để

khắc ph ục ho ặc bồi th ường thi ệt hại; th ủ tục bồi th ường ph ải đơn gi ản, nhanh

gọn; buộc khôi ph ục lại tình tr ạng ban đầu bị thay đổi bị thiệt hại do th ực hiện

quyết định hành chính hay hành vi hành chính trái pháp luật gây nên.

143

Ngoài ra, c ần làm rõ trách nhi ệm của cá nhân (cá th ể hóa trách nhi ệm)

trong việc ra quyết định hoặc tham gia ra quyết định hành chính, thực hiện hành

vi hành chính trái pháp luật.

4.4. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN, NGHĨA

VỤ CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH

CỦA TÒA ÁN

4.4.1. Cần hoàn thi ện cơ ch ế bảo đảm thi hành các phán quy ết của

Tòa án hành chính

Luật Tố tụng hành chính được QH XII thông qua t ại kỳ họp thứ 8, sẽ có

hiệu lực từ ngày 1.7.2011 được đánh giá là m ột bước ti ến lớn trong xây d ựng

Nhà nước pháp quy ền, tăng cường quyền dân ch ủ của công dân và trách nhi ệm

của Nhà nước. Tuy nhiên, để Luật Tố tụng hành chính đi vào cu ộc sống cần có

cơ chế bảo đảm thi hành các phán quyết của Tòa án hành chính.

Luật Tố tụng hành chính có nhi ều quy định th ể hiện tinh th ần của Nghị

quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính tr ị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, đặc biệt đã mở rộng những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa

án. Cụ thể là tòa án có thẩm quyền giải quyết có khiếu kiện sau: khiếu kiện quyết

định hành chính, hành vi hành chính, tr ừ các quy ết định hành chính, hành vi

hành chính thu ộc phạm vi bí m ật nhà n ước trong các l ĩnh vực quốc phòng, an

ninh, ngoại giao và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội

bộ của cơ quan, tổ chức; khiếu kiện về danh sách c ử tri b ầu cử đại biểu Quốc

hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; khi ếu kiện quyết định

kỷ lu ật bu ộc thôi vi ệc công ch ức gi ữ ch ức vụ từ Tổng cục tr ưởng và t ương

đương trở xuống; khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý

vụ việc cạnh tranh.

Việc quy định như trên là đúng hướng tinh th ần của Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ Chính tr ị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đồng

thời cũng phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo; đáp ứng được nhu

cầu cải cách t ư pháp h ội nh ập kinh qu ốc tế và là điểm đổi mới quan tr ọng

của Luật Tố tụng hành chính so v ới Pháp l ệnh th ủ tục gi ải quy ết các v ụ án

hành chính.

144

4.4.2. Tồn tại và nh ững giải pháp bảo đảm thi hành phán quy ết của

Tòa án hành chính

Được đánh giá là m ột bước ti ến lớn trong xây d ựng Nhà n ước pháp

quyền, tăng cường quyền dân ch ủ của công dân và trách nhi ệm của Nhà nước.

Tuy nhiên, vi ệc th ực thi b ộ lu ật quan tr ọng này s ẽ còn nhi ều vấn đề cần ph ải

nghiên cứu, bổ sung cho phù h ợp với từng giai đoạn phát tri ển kinh tế - xã h ội

cũng như quá trình hoàn thi ện pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở nước ta.

Để bảo đảm thi hành phán quy ết của Tòa án hành chính c ần nhiều yếu tố

khác nhau nh ư tổ chức, nhân sự, tài chính, ki ểm tra, thanh tra gi ải quyết khiếu

nại, tố cáo, việc thi hành các pháp quy ết của Tòa án hành chính, x ử lý các hành

vi vi phạm pháp luật... Số vụ việc còn tồn chủ yếu là hoàn trả án phí hành chính,

cơ quan thi hành đã thông báo nhiều lần nhưng đương sự không tới hoặc Ủy ban

nhân dân là bên phải thi hành án bồi thường với số tiền lớn chưa có điều kiện thi

hành. Hầu hết các b ản án, quy ết định về hành chính c ủa Tòa án ch ỉ tuyên x ử

công nhận, hủy bỏ hoặc sửa một phần quyết định của cơ quan hành chính, không

tuyên cụ th ể quy ền và ngh ĩa vụ về tài s ản nh ư quy ết định hành chính đã ban

hành. Thực tế việc thi hành b ản án hành chính ch ưa giao cho c ơ quan nào theo

dõi, báo cáo hàng năm, thông thường cơ quan cấp trên của cơ quan ra quyết định

hành chính theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính.

Khắc phục tình trạng này, Luật Tố tụng hành chính đã được bổ sung nhiều

quy định mới so với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nh ằm

xây dựng cơ chế bảo đảm thi hành án hành chính chặt chẽ, cụ thể. Theo đó, trong

trường hợp ng ười kh ởi ki ện bị thua thì c ơ quan đã ban hành quy ết định hành

chính bị kiện sẽ tự tổ chức thi hành quyết định hành chính và tổ chức việc cưỡng

chế thi hành quy ết định hành chính c ủa mình theo quy định của pháp lu ật. Bên

cạnh đó, Lu ật cũng bảo đảm thi hành án hành chính b ằng cơ chế qu ản lý Nhà

nước về thi hành án v ới quy định giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính ph ủ quản lý

nhà nước về công tác thi hành án hành chính; c ơ chế kiểm sát thi hành án c ủa

145

viện kiểm sát. Đồng thời giao việc theo dõi, đôn đốc thi hành án hành chính cho

cơ quan Thi hành án dân sự.

Thiết nghĩ bên cạnh những bảo đảm về mặt pháp lý v ới những quy định

mang tinh thần cải cách tư pháp thì cần nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử đối

với các v ụ án hành chính, xét x ử công tâm, vô t ư, khách quan, th ể hi ện tính

thuyết phục cao nhằm bảo đảm cho bản án quyết định được thực thi trên thực tế.

Trường hợp bản án, quyết định hành chính của Tòa án tuyên hủy quy định hành

chính của cơ quan hành chính thì c ần tuyên rõ ràng khi b ản án có hi ệu lực pháp

luật thì quyết định hành chính đương nhiên bị hủy. Tòa hành chính phải tống đạt

các bản án, quy ết định do mình xét x ử kịp thời, bảo đảm thời gian cho các bên

thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị của mình.

Ngoài ra, cần tăng cường công tác ki ểm sát thi hành án đối với đối tượng

phải thi hành án là c ơ quan hành chính nhà n ước trong việc thực thi các bản án,

quyết định của Tòa án hành chính, b ảo đảm cho vi ệc thi hành án được kịp thời

và đúng quy định của pháp luật.

Kể từ ngày 1/7/1996, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có

thêm một thể chế mới là giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng con đường tố

tụng hành chính do Tòa án nhân dân th ực hi ện, phân bi ệt với ho ạt động gi ải

quyết khiếu nại bằng con đường thủ tục hành chính do các c ơ quan hành pháp

thực hiện.

Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính trong thời gian qua của các cấp Tòa

án nhân dân đã chứng minh được giá trị tích cực của nó, làm thúc đẩy tinh thần,

thái độ, trách nhi ệm của các cơ quan nhà n ước trong vi ệc tăng cường sự quan

tâm, giải quyết có hiệu quả các khiếu kiện của các công dân, t ổ chức, đồng thời

góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động hành pháp, xây dựng một

nền hành chính lành mạnh để phục vụ nhân dân. Như vậy, trong nền hành chính

quốc gia nói riêng, n ền tư pháp nói chung ở nước ta, vi ệc thiết lập một thể chế

Tòa hành chính thu ộc Tòa án nhân dân là m ột nội dung quan tr ọng của cải cách

tư pháp, cải cách bộ máy Nhà nước, tạo thêm một nấc thang mới trong việc xây

146

dựng nên một phương thức đặc thù để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các

tổ chức, cá nhân.

Để nắm bắt được một cách toàn di ện, sâu s ắc về vi ệc gi ải quy ết vụ án

hành chính tại Tòa án nhân dân, luận án đã tập trung phân tích các hoạt động của

Tòa án trong c ả quá trình t ố tụng giải quyết các vụ án hành chính để nhìn nh ận

và phân tích th ấu đáo thực trạng của việc áp dụng pháp luật nội dung và tố tụng

trong giải quyết án hành chính. T ừ đó, so sánh và đối chiếu giữa các vấn đề lý

luận khoa học với các chế định pháp lý, giữa các quy định của pháp luật với việc

vận dụng, áp dụng nó trong th ực tiễn giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta

hiện nay.

Để giải quyết những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc do th ực tiễn đặt ra

trong quá trình áp d ụng pháp lu ật, trên c ơ sở nghiên c ứu các lu ận điểm khoa

học về vấn đề gi ải quy ết các v ụ án hành chính t ại Tòa án nhân dân và th ực

trạng của tình hình gi ải quyết, xét x ử án hành chính t ại Tòa án và đặc biệt là

xuất phát t ừ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam v ề thiết lập, hoàn thi ện

thẩm quyền tài phán hành chính, hoàn thi ện bộ máy Nhà n ước trong ti ến trình

xây dựng Nhà nước pháp quy ền; luận án cũng đã mạnh dạn nêu ra m ột số giải

pháp, ki ến ngh ị nhằm hoàn thi ện pháp lu ật tố tụng hành chính đồng th ời cải

tiến và t ổ chức lại và h ệ thống tài phán hành chính, góp ph ần bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp c ủa công dân, c ủa con ng ười trong một nhà nước pháp quy ền

xã hội chủ nghĩa.

Tiểu kết chương 4

Trên cơ sở đánh giá thực trạng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức thông qua con đường xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án trong

thời gian quan, phân tích nh ững nguyên nhân c ủa th ực tr ạng đó và phân tích

những vướng mắc trong vi ệc áp dụng một số những quy định của Luật đất đai,

Pháp lệnh xử lý vi ph ạm hành chính, Lu ật Tố tụng hành chính và các v ăn bản

khác có liên quan, luận án cố gắng đưa ra những giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ

147

sung hoặc đưa ra phương án áp dụng một số quy định của các văn bản pháp luật

nói trên, nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả giải

quyết các vụ án hành chính. Vấn đề này bao gồm những nội dung như:

Thứ nh ất, hoàn thi ện hệ th ống văn bản pháp lu ật hành chính, xây d ựng

nền tảng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức từ chính ho ạt

động quản lý hành chính nhà n ước thông qua vi ệc ban hành các v ăn bản pháp

luật phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá

nhân, tổ chức trong xã hội.

Thứ hai, cải cách tổ chức, sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân để đảm

bảo thực hiện việc xét xử hành chính vừa độc lập, vừa khách quan và hiệu quả.

Thứ ba, hoàn thi ện các quy định, các bi ện pháp b ảo đảm thực hiện việc

giải quy ết khi ếu ki ện hành chính c ủa Tòa án nhân dân nh ư xác định thái độ,

trách nhiệm tham gia t ố tụng của người bị kiện, cải cách trình t ự tố tụng hành

chính cho phù hợp với đặc điểm của vụ kiện hành chính.

Thứ tư, cần phải cải tiến hình th ức tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán,

cải tiến ph ương thức lãnh đạo và sự tham gia tuy ển chọn Th ẩm phán. Kéo dài

nhiệm kỳ Thẩm phán hành chính. Đồng thời, đổi mới phương pháp và nội dung

đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ

Thẩm phán và cán bộ Tòa án nói chung và Thẩm phán hành chính nói riêng.

Mạnh dạn triển khai và th ực hiện phương hướng và nh ững giải pháp trên

là những đóng góp vô cùng thi ết thực cho vi ệc nâng cao n ăng lực xét xử hành

chính của Tòa án nhân dân.

148

KẾT LUẬN

Nghiên cứu thực tiễn bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức thông qua con đường xét xử các vụ án hành chính t ại Tòa án trong nh ững

năm qua cho chúng ta th ấy được sự tham gia vào c ơ ch ế giải quyết khiếu kiện

hành chính của Tòa án là rất cần thiết và không thể đảo ngược. Điều này phù hợp

với xu thế đổi mới và phát triển của đất nước, phù hợp với nhịp bước chung của

thời đại.

Giá trị pháp lý c ơ bản, thiết yếu của việc bảo đảm quy ền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức thông qua con đường xét xử các vụ án hành chính t ại

Tòa án khẳng định địa vị của tư pháp, của Tòa án về vấn đề bảo đảm quyền tự do

của công dân, quyền con người, thực hiện dân chủ hóa, con đường trọng tâm của

sự nghiệp đổi mới đất nước. Các giá trị tích cực đó cũng là những biểu hiện rõ nét

được đúc kết từ những luận điểm khoa học của nhân loại mà nổi bật nhất là quan

điểm của chỉ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về

sự cần thiết, về vai trò của nhà nước về bảo vệ quyền con người, vai trò của Tòa

án về giải quyết các mâu thuẫn giữa nhà nước và công dân, bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính trong thời gian qua của các cấp Tòa

án ở nước ta đã chứng minh được giá trị tích cực đó. Bằng hoạt động thực hiện các

biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong việc giải

quyết các vụ án hành chính, nhà n ước ta đã tạo ra th ế "đối ứng" tích cực có tác

động thúc đẩy tinh thần, thái độ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc

tăng cường sự quan tâm, gi ải quyết có hi ệu qu ả các khi ếu kiện của cá nhân, t ổ

chức. Đồng thời, các cơ quan hành pháp, trong quá trình quản lý hành chính thận

trọng hơn khi ra các quy ết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến

công dân, từ đó, nâng cao ch ất lượng, hiệu qu ả của ho ạt động hành pháp, xây

dựng nền hành chính trong sạch để phục vụ nhân dân.

Trong các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, bước đầu nhà nước ta

đã xác lập tương đối đầy đủ các định chế cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án

149

hành chính. Hầu hết các chế định đó hoặc liên quan mật thiết hoặc là một bộ phận

hữu cơ của nhiệm vụ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ chức.

Như vậy, trong nền tài phán hành chính quốc gia nói riêng, nền tư pháp nói chung

ở nước ta, việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét

xử vụ án hành chính, giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án là một nội dung, một

vấn đề vô cùng quan trọng của cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước.

Việc thiết lập tài phán hành chính thu ộc nền tư pháp ở nước ta cùng v ới

mục tiêu nâng cao chất lượng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức trong xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân đánh dấu một bước tiến

quan trọng và cần thiết trong quá trình tăng cường, hoàn thiện bộ máy nhà nước,

đánh dấu sự đổi mới về vị trí vai trò c ủa nhà nước, một nhà nước phục vụ nhân

dân, hoạt động của bộ máy nhà nước là nhằm bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền và

lợi ích của công dân, bảo đảm quyền con người ở nước ta.

Từ các k ết lu ận nêu trên cho phép chúng ta rút ra m ột số kết lu ận về

thực tr ạng, th ực tiễn hoạt động gi ải quyết các khi ếu kiện hành chính c ủa Tòa

án như sau:

Thứ nhất, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

trong xét xử vụ án hành chính t ại Tòa án nhân dân v ẫn là một lĩnh vực mới mẻ,

đánh dấu bước phát triển mới trên con đường hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của

bộ máy nhà nước. Tòa án thực sự trở thành một địa chỉ đáng tin cậy, tiếp tục song

hành với cá cá nhân, tổ chức trong việc xử lý các khiếu kiện hành chính.

Thứ hai, do là m ột lĩnh vực mới mẻ cho nên kinh nghi ệm giải quyết của

Tòa án còn h ạn ch ế, ch ất lượng, hi ệu qu ả của vi ệc th ực hi ện vấn đề bảo đảm

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính tại

Tòa án nhân dân còn ch ưa cao, sự sai sót th ậm chí vi ph ạm cả về tố tụng lẫn áp

dụng pháp luật nội dung còn nhiều. Tỷ lệ án xử sai, thiếu sót, phải xem xét lại và

giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm còn lớn.

Thứ ba, đặc biệt quan trọng là các quy định của pháp luật liên quan đến vấn

đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ chức trong xét x ử vụ án

hành chính còn thiếu, chưa tập trung, chưa đồng bộ, nhiều quy định còn bất hợp lý

150

đã làm hạn chế khía cạnh tích cực và tiến bộ của Tòa án, của nhà nước trong việc

giải quyết các mâu thuẫn hành chính giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan nhà nước.

Thứ tư, các h ạn ch ế từ chính các quy định của pháp lu ật không ch ỉ ảnh

hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án về giải quyết khiếu kiện hành

chính mà còn tạo môi trường tốt cho sự chủ quan, xem thường pháp luật của các

cơ quan hành pháp, v ừa gây cản trở đến quá trình c ải cách hành chính v ừa tạo

nên tình tr ạng nể, sợ của các cơ quan nhà n ước khác, của Tòa án đối với quyền

hành pháp.

Để khắc phục các nh ược điểm nêu trên, lu ận án cũng đã mạnh dạn nêu ra

một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính, góp ph ần làm cho h ệ thống tài

phán hành chính th ực sự là ch ỗ dựa của công là, là bi ện pháp hi ệu qu ả bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp và tự do của công dân, của con người.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Vũ Thị Hòa (2007), “V ề vấn đề xác định tư cách đương sự trong vụ án hành

chính”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (9), tr.4-10.

2. Vũ Thị Hòa (2007), “Một số vấn đề cần lưu ý khi xem xét việc ủy quyền tham gia

tố tụng trong vụ án hành chính”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (10), tr.34-36.

3. Vũ Thị Hòa (2011), “Đối tượng khởi kiện và thẩm quyền xét xử theo Luật tố

tụng hành chính năm 2010”, Tạp chí Nghề Luật, (04), tr.9-13.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội.

2. Nguyễn Hoàng Anh (2005), "Nh ững căn cứ đánh giá tính hợp pháp của quyết

định hành chính trong xét xử hành chính ở Cộng hòa Pháp và Vương quốc

Bỉ", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (7), tr.11-13.

3. Nguyễn Hoàng Anh (2006), "Hoạt động xét xử hành chính ở nước ta", Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 01(67), tr.15-17.

4. Nguyễn Thanh Bình (2002), Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải

quyết các khiếu kiện hành chính, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật

Hà Nội.

5. Nguyễn Thanh Bình (Chủ biên) (2004), Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án hành

chính, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

6. Nguyễn Thanh Bình (2004), Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của tòa án

- sự đảm bảo công lý trong quan hệ Nhà nước và Công dân, Nxb Tư Pháp.

7. Nguyễn Mạnh Bình (2010), Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc

thực hiện quyền lực Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học,

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp (2006), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ

tục tư pháp, nâng cao hi ệu quả và hi ệu lực xét xử của Tòa án trong nhà

nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, Đề tài cấp nhà nước mã

số KX.04.06, Hà Nội.

9. C.Mác, Ph.Ănghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. C.Mác, Ph.Ănghen (1981), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.

11. Lê Văn Cảm (1997), Học thuyết về Nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở

Liên bang Nga, Nxb Sáng tạo Hội khoa học - Kỹ thuật Việt Nam tại Liên

bang Nga, Mát-xcơ-va.

12. Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp (2002), Triết học pháp quyền của Hêghen,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

153

13. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập III, Khoa mục chí,

Quốc dụng chí, Hình Luật chí, Nxb Sử học, Hà Nội.

14. Vũ Hoàng Công (Chủ biên) (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

15. Hà Hùng Cường (2009), "Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp, (139 + 140), tr.7-9.

16. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

17. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

18. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước

pháp quyền (Sách chuyên khảo), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Nguyễn Sĩ Dũng, Hoàng Minh Hiếu (2010), "Việc tổ chức thực hiện pháp luật

trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta", Tạp chí Nghiên

cứu lập pháp, (13), tr.21-24.

20. Nguyễn Chí D ũng (2009), Cơ ch ế pháp lý giám sát ho ạt động tư pháp ở

Việt Nam, Luận án ti ến sĩ Luật học, Học viện Chính tr ị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần

thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành

Trung ương khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa

nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Ch ấp

hành Trung ương Khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

154

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quy ết Hội nghị lần thứ 3 Ban Ch ấp

hành Trung ương Khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 2001 -

2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ

Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thi ện hệ thống pháp lu ật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đặng Xuân Đào (2002), "Về quyền hạn của Tòa án khi gi ải quyết một vụ án

hành chính cụ thể", Tập san Người bảo vệ công lý, (6), tr.23-27.

36. Đêvít Âuxbót và Tét Gheblơ (1997), Đổi mới hoạt động của Chính phủ, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Nguyễn Minh Đoan (2002), Hiệu quả pháp luật những vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Minh Đoan (2009), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Nguyễn Minh Đoan (2009), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Động (2005), "V ề mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở

Việt Nam", Tạp chí Luật học, (5), tr.7-11.

155

41. Nguyễn Văn Động (2008), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, dùng

cho đào tạo luật học và sau đại học luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Trương Thanh Đức (2010), "Luật tốt, dân không ngại đến tòa", Tạp chí Nghiên

cứu lập pháp, (21), tr.12-14.

43. Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân

công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Trần Ngọc Đường, Nguyễn Văn Mạnh (Chủ biên) (1999), Lý luận chung về nhà

nước và pháp luật, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Trần Ngọc Đường (2004), "Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức

thực hiện pháp luật - Nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nhà nước pháp quyền

Việt Nam Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân", Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, 7(195), tr.15-19.

46. Trần Ngọc Đường (2010), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân và vì dân", Báo Nhân dân, ngày 30/8.

47. Trần Ng ọc Đường (2011), Bàn về quy ền con ng ười quyền công dân trong

xây dựng Nhà nước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính tr ị quốc

gia, Hà Nội.

48. Trần Ngọc Đường (Chủ biên) (2011), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền

lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Gorshunov D.N. (2006), "Những yếu tố tâm lý xã hội trong thực thi pháp luật",

Nghiên cứu lập pháp, (79), tr.9-10.

50. G.W.F. Heghel (1934), Toàn tập, tập VII, Nxb Kinh tế - xã hội, Mátxcơva.

51. G.W.F. Heghel (2010), Các nguyên lý của triết học pháp quyền (Grundlinien

Der philosophie des rechts), Bùi Văn Nam Sơn (dịch và chú giải), Nxb Tri

thức, Hà Nội.

52. Trần Quang Hiển (2013), Cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành

chính ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

53. Vũ Đình Hòe (2005), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, Thành

phố Hồ Chí Minh.

156

54. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con

người (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

55. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật (2007),

Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp

luật, tập 1, (Tái bản lần thứ ba), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

56. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình Luật hành chính và tài phán hành

chính Việt Nam, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

57. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình Hành chính công, Nxb Khoa học kỹ

thuật, Hà Nội.

58. Học viện Hành chính quốc gia (2012), Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta,

Hà Nội.

59. Lê Văn Hưu (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội.

60. Quốc hội (2014), Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013 và Nghị

quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992), Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Phạm Khiêm Ích, Hoàng V ăn Hảo (1995), Quyền con ng ười trong th ế gi ới

hiện đại - nghiên cứu và thông tin, Tài liệu tham khảo nội bộ, Hà Nội.

62. Jean - Jacques Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

63. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số

quốc gia trên thế giới, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

64. Phan Huy Lê (2010), Lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

65. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm) (2006), Cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống

các thủ tục tư pháp, nâng cao hi ệu quả và hi ệu lực xét xử của Tòa án

trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa

học cấp Nhà nước, Hà Nội.

66. Nguyễn Văn Mạnh (2005), Nhận thức và thực tiễn vận dụng quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi

mới (từ 1986 đến nay), Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

157

67. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và Pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

68. Hồ Chí Minh (1985), Về công tác tư tưởng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

69. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Đinh Văn Minh (1995), Tài phán hành chính so sánh , Nxb Chính tr ị quốc

gia, Hà Nội.

71. Montesquieu S.L (1967), Tinh thần pháp lu ật, Nxb Sài Gòn, Thành ph ố Hồ

Chí Minh.

72. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

73. Phạm Duy Nghĩa (2004), Pháp luật và những nhân tố tích cực của Nho giáo,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995), Tìm hiểu về xét xử hành chính ở một

số nước và lãnh thổ trên thế giới, Hà Nội.

75. Nhà xuất bản Chính tr ị quốc gia (2000), Quyền con ng ười trong qu ản lý tư

pháp, Hà Nội.

76. Nhà xuất bản Pháp lý (1992), Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền, Hà Nội.

77. Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương (Đồng chủ biên) (2010), Tài phán

hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quy ền và hội nhập

quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

78. Hoàng Phê (Chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm

Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

79. Hàn Phi (2001), Hàn Phi Tử (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

80. Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường (1992), Xây dựng nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội.

81. Pierre Jacquet, Roland Hureaux, Vincent Denby - Wilkes (2004), Báo cáo

tổng kết: Vì một sự tăng trưởng và một xã hội công bằng, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

82. Phạm Hồng Quang (2005), "Luật kiện tụng hành chính ở Nhật Bản và một số

vấn đề cải cách tố tụng hành chính ở Nhật Bản hiện nay", Tạp chí Luật

học, (3), tr.8-9.

158

83. Phạm Hồng Quang (2009), Hoàn thiện chế định tài phán hành chính Việt Nam

trong tiến trình hội nhập và phát triển: một vài kinh nghiệm từ hệ thống

luật Châu âu lục địa, Nhật Bản và Trung Quốc, Luận án Tiến sĩ Luật học,

Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

84. Hoàng Thị Kim Qu ế (Ch ủ biên) (2007), Giáo trình Lý lu ận chung về Nhà

nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

85. Nguyễn Thế Quyền (2005), "Một số vấn đề về hoàn thiện cơ chế giải quyết

khiếu kiện của công dân", Tạp chí Luật học, (3), tr.12-15.

86. Hoàng Văn Sao (2005), "Cần làm rõ khái ni ệm khiếu nại, khiếu kiện để giải

quyết các quyền ấy của cá nhân cho đúng", Tạp chí Luật học, (3), tr.6-8.

87. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (1996), Tài phán hành chính ở Việt Nam,

Nxb thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

88. Phạm Hồng Thái (Ch ủ biên) (2001), Quyết định hành chính, hành vi hành

chính - Đối tượng xét x ử của Tòa án, Nxb Thành ph ố Hồ Chí Minh,

Thành phố Hồ Chí Minh.

89. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb

Giao thông vận tải, Hà Nội.

90. Thanh tra Chính phủ (2010), Báo cáo số 2280/BC-TTCP ngày 04/8 tổng kết

việc thi hành Lu ật khi ếu nại, tố cáo (t ừ năm 2005 đến tháng 6/2009) ,

Hà Nội.

91. Thanh tra Nhà nước (1996), Việc giải quyết khiếu nại của công dân trong hệ

thống các cơ quan hành chính Nhà nước sau khi tòa án hành chính được

thành lập, Hà Nội.

92. Nguyễn Văn Thanh, Đinh Văn Minh (2004), Một số vấn đề về đổi mới cơ

chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

93. Vũ Viết Thiệu (2007), "M ối quan hệ giữa xây dựng pháp lu ật và th ực hiện

pháp luật", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (107), tr.21-23.

94. Lê Minh Thông (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện

nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

159

95. Ngô Mạnh Toan (2008), Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học,

Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

96. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 1998 và phương hướng nhiệm vụ năm 1999, Hà Nội.

97. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 1999 và phương hướng nhiệm vụ năm 2000, Hà Nội.

98. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ năm 2001, Hà Nội.

99. Tòa án nhân dân t ối cao (2005), Một số giải pháp nâng cao hi ệu quả, chất

lượng giải quyết khiếu kiện hành chính tại tòa án nhân dân theo tinh thần

cải cách tư pháp, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.

100. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009, Hà Nội.

101. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010, Hà Nội.

102. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết thực tiễn 12 năm hoạt động

giải quyết vụ án hành chính của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.

103. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011, Hà Nội.

104. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012, Hà Nội.

105. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013, Hà Nội.

106. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án

nhân dân năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014, Hà Nội.

107. Nguyễn Phú Tr ọng (2011), Phát huy dân ch ủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

108. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp

luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

160

109. Nguyễn Danh Tú (2013), Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây

dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa

học xã hội, Hà Nội.

110. Nguyễn Văn Tú (2006), Mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một

số nước trên thế giới và việc vận dụng vào điều kiện Việt Nam, luận văn

thạc sỹ, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

111. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

112. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi

mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

113. Đào Trí Úc (2000), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việ Nam hiện nay,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Đào Trí Úc (Ch ủ biên) (2005), Xây dựng nhà nước pháp quy ền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

115. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

116. Đào Trí Úc, Ph ạm Hữu Nghị (Chủ biên) (2009), Xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay một số vấn đề

lý luận và thực tiễn, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

117. Đào Trí Úc (Ch ủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt

động của bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

118. UNDP (2007), Báo cáo phát tri ển con ng ười 2007 - 2012, tại trang

http://www.undp.org/content/vietnam/vi/home/presscenter/articles/2013/0

7/03/global-report-praises-viet-nam-s-progress-on-human-

development.html, [truy cập ngày 12/4/2013].

119. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

120. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.

121. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

122. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

161

123. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

124. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 53, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

125. Võ Khánh Vinh (2003), Quyền tư pháp trong Nhà n ước pháp quy ền xã hội

chủ ngh ĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, Nxb Khoa h ọc xã h ội,

Hà Nội.

126. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2010), Quyền con ng ười, tiếp cận đa ngành và

liên ngành luật học. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

127. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

128. Viện Sử học (2012), Quốc triều hình luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

129. Nguyễn Nh ư Ý (Ch ủ biên) (1998), Đại từ điển Ti ếng Vi ệt, Nxb V ăn hóa

Thông tin, Hà Nội.

130. Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

* Tài liệu tiếng Anh

131. Adriaan Bedner (2001), Administrative Courts in Indonesia: A Socio-legal

Study, Martinus Nijhoff Publishers.

132. AM Polinsky (1980), Private Versus Public Enforcement of Fines , Journal

of Legal.

133. Canadian Judicial Council (2005) , Ethical Principles for Judges, tại trang

https://www.cjc-ccm.gc.ca/cmslib/general/news_pub_judicialconduct_

Principles_en.pdf, [truy cập ngày 26/8/2015]

134. Ellen Wratten (1995), Conceptualizing Urban Povety Enviroment and

Urbanization. Vol.7.No 1. April.

135. Gillian Bull, John Seargean (1996), The various methods of providing legal

services, Policy Studies Institute Publishers, London.

136. I.Ehrlich, The Optimum, Enforcement of Laws and the Concept of Justice ,

http://www.idea.repec.org.

137. Internatinal Criminal Court (2005), Code of Judicial Ethics of Internatinal

Criminal Court, ICC-BD/02-01-05 , tại trang https://www.icc-

cpi.int/NR/rdonlyres/A62EBC0F-D534-438F-A128-D3AC4CFDD644

/140141/ICCBD020105_En.pdf, [truy cập ngày 25/8/2015].

162

138. Joh T.Johnsen, (1978), Innovations in the Legal Services. OG &H Publishers,

Germany.

139. Joseph S. Nye, Philip Zelikow, David C. King (1997), Why People Don't Trust

Government, Harvard University Press.

140. Kaban Galing, (2001), Promoting excellence in urban governace.

141. Lionel Neville Brown, John Bell (1998), French Administrative Law, Oxford

University Press.

142. Melvin Urofsky, Individual Freedom and Bill of Rights , P. 64. U.S.

Department of State Bureau of international information programs;

http://usinfo.state.gov.

143. Richard C.Schroeder (1990), An outline of American Government , a

publication of the U.S. Information Agency

144. S.Shavell, Specific Versus general Economic Enforcement of Law ,

http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstractact_id=851689.

145. Susan Rose-Ackerman, Peter L. Lindseth, (2010), Comparative Administrative

Law, Edward Elgar Publishing.

146. U.S.Court (2004), Judicial Code of Conduct for United States Judges , tại

trang http://www.uscourts.gov/judges-judgeships/code-conduct-united-

states-judges, [truy cập ngày 27/8/2015].