HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THỊ HÒA
B¶O §¶M QUYÒN Vµ LîI ÝCH HîP PH¸P CñA C¸ NH¢N, Tæ CHøC TRONG XÐT Xö C¸C Vô ¸N HµNH CHÝNH ë VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THỊ HÒA
B¶O §¶M QUYÒN Vµ LîI ÝCH HîP PH¸P CñA C¸ NH¢N, Tæ CHøC TRONG XÐT Xö C¸C Vô ¸N HµNH CHÝNH ë VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI
2. TS. NGUYỄN THANH BÌNH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên c ứu khoa
học của riêng tôi, các s ố liệu và kết quả nghiên cứu của luận
án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GI
Ả LUẬN ÁN
V
Ũ THỊ HÒA
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 9 1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu mang tính lý luận định hướng về tổ chức
bộ máy nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước với công dân 9
1.2. Nhóm những công trình bài viết nghiên cứu có liên quan đến tố tụng hành chính 15 1.3. Nhóm những công trình bài viết nghiên cứu liên quan đến việc thực hiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong các vụ án hành chính 23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LU ẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, T Ổ CH ỨC THÔNG QUA HO ẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN 28 2.1. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức trong xét xử các vụ án hành chính 28
2.2. Vai trò của Tòa án nhân dân trong bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính 41
2.3. Các điều kiện, cơ cấu và nội dung bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính 49
2.4. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính trong xét xử của nước ngoài, giá tr ị kinh nghi ệm có th ể vận dụng ở Việt Nam 53
Chương 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC THÔNG QUA XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 67 3.1. Sự hình thành và phát triển hệ thống pháp luật tố tụng hành chính - cơ sở pháp lý của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua hoạt động xét xử hành chính của Tòa án 67
3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân thông qua hoạt động xét xử hành chính của Tòa án 82
3.3. Thực trạng áp dụng hệ thống các văn bản pháp luật hành chính vào thực tiễn
giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án 105
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GI ẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CH ẤT LƯỢNG CỦA VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN 118 4.1. Hoàn thiện pháp luật nội dung hành chính và pháp luật tố tụng hành chính 118 4.2. Hoàn thiện tổ chức xét xử hành chính 125 4.3. Hoàn thiện nhân tố con người trong xét xử hành chính 131 4.4. Hoàn thiện cơ chế về các biện pháp bảo đảm quyền, nghĩa vụ của cá nhân,
tổ chức thông qua hoạt động xét xử hành chính của Tòa án 143
KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài
Lịch sử loài người đã trải qua nhiều hình thức nhà nước và pháp luật khác
nhau, sự phát tri ển có xu h ướng ngày càng ti ến bộ, hướng tới trung tâm là con
người và có sự cân bằng lợi ích của các bộ phận trong xã hội. Trong quá trình xây
dựng và tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước, người ta thường cho rằng về nguyên
tắc thì các chính sách pháp lu ật của nhà nước đều phải xuất phát từ lợi ích của
người dân. Nhưng nếu chỉ nói đến “lợi ích” thôi thì chưa đủ, mà còn phải nói đến
quyền của các cá nhân công dân c ũng như các tổ chức. Đây chính là m ột trong
những điểm khác bi ệt căn bản giữa một nhà nước phong kiến với một nhà nước
pháp quyền hiện đại. Một quốc vương thời phong kiến có thể chăm lo cho lợi ích
của muôn dân vì lòng thương dân, hay chỉ đơn giản muốn chứng tỏ mình là một vị
minh quân, nh ưng với một nhà nước pháp quy ền thì vi ệc ch ăm sóc lợi ích của
công dân, hoàn toàn không phải do tình thương hay sự tốt bụng mà trên hết đó là
vì nghĩa vụ tôn tr ọng các quy ền dân sinh và dân ch ủ của công dân mà nhà n ước
này đã cam kết bảo vệ thông qua bản hiến pháp.
Ở Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra một thời kỳ mới,
có tính bước ngoặt cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung
và phát triển năm 2011); Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2020; Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là những dấu mốc
lớn mang tính b ước ngo ặt trong nh ận th ức lý lu ận của Đảng ta v ề con ng ười,
quyền con người. Mặt khác, Hiến pháp năm 2013 đã giành Chương II ghi nhận về
“Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Như vậy, quan điểm
nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định con người ở vị trí trung tâm
của các chính sách kinh tế - xã hội, là nhân tố quan trọng để phát triển bền vững,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một trong các nội dung về củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề được đặc biệt coi trọng là việc tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước trên quan điểm “Quyền lực nhà nước là th ống nh ất, có sự
2
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Trong đó việc thực thi quyền tư pháp là
một nội dung có ý ngh ĩa đặc biệt quan tr ọng trong vi ệc hoàn thi ện, tăng cường
hiệu lực của bộ máy nhà n ước, thúc đẩy sự phát tri ển kinh tế - xã h ội, bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Khi thực thi hoạt động hành pháp,
các cơ quan nhà n ước (hoặc người có th ẩm quyền trong cơ quan nhà n ước) với
những lý do khác nhau có th ể ban hành nh ững quyết định hành chính, hành vi
hành chính gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Những
thiệt hại này là cơ sở tạo nên nh ững mâu thu ẫn giữa cơ quan công quy ền với cá
nhân, công dân, tổ chức. Từ đó, sẽ dẫn đến việc công dân, tổ chức khiếu nại đến
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc Tòa án nhân dân để khiếu nại, khiếu kiện
các quyết định hành chính, hành vi hành chính đó. Để giải quyết các khi ếu kiện
hành chính, cá nhân, tổ chức bị các quyết định hành chính, hành vi hành chính làm
xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích của mình có th ể lựa chọn nhiều phương
thức giải quyết khác nhau nh ư giải quyết theo trình tự thủ tục hành chính thông
qua việc khiếu nại tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án nhân dân theo trình t ự, thủ tục tư pháp. Trong hai ph ương
thức trên thì việc giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân có một vị trí và
vai trò đặc biệt quan trọng, bởi nó thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, thể hiện
sự nghiêm túc trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, và đặc biệt là liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức...
Thực tế nước ta với xu ất phát điểm từ kinh tế đa phần dân cư sống nhờ
nông nghiệp, từ một xã hội phong kiến, nửa thuộc địa, trải qua một thời gian rất
dài với hai cuộc chiến tranh lớn, chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa nên những yếu tố lạc hậu còn ảnh hưởng rất nhiều. Nhìn nhận của
xã hội nói chung đối với hoạt động của nhà nước và mối quan hệ giữa nhà nước
với công dân đó là quan hệ mang nặng tính xin, cho; mệnh lệnh một chiều. Người
dân thường có quan niệm những việc liên quan đến tòa án giải quyết chỉ là những
vụ việc có tính ch ất hình sự, là mang tính quy ền lực trấn áp, và có s ự đồng nhất
không phân biệt các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đối với người dân, cơ quan
3
công an, viện kiểm sát, tòa án là m ột, việc khiếu kiện các cơ quan nhà nước đối
với công dân là một việc bất khả thi ngay từ trong suy nghĩ.
Về phía các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước cũng có tâm lý
như vậy, nhiều năm thực hiện chế độ quản lý thời chiến tạo thành một thói quen
mệnh lệnh hành chính - quân s ự trong tất cả các quan h ệ phát sinh. T ừ sau khi
thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986, tư duy này mới dần thay đổi. Các tranh
chấp được giải quyết bằng tòa án d ần mở rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Người dân đã bớt đi sự e ngại khi mang vụ việc tranh chấp ra tòa án
để giải quyết, và trong nh ận thức đã có sự phân biệt được sự khác nhau về chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trên thực tế, các vụ việc được đưa ra tòa án giải quyết vẫn chỉ tập trung ở
các vụ việc dân sự với các tranh chấp phát sinh giữa các cá nhân tổ chức với nhau,
còn việc người dân đưa các vụ tranh chấp hành chính ra tòa án giải quyết vẫn còn
rất hạn chế. Hình thức giải quyết được ưa thích vẫn là khiếu nại ở các cơ quan nhà
nước mà theo họ là có thẩm quyền. Vấn đề này tạo ra khiếu nại vượt cấp, sai thẩm
quyền, thời gian kéo dài dai dẳng gây bức xúc xã hội. Nguyên nhân xuất phát từ
tâm lý và sự hiểu biết về quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và của
cả những cơ quan trong bộ máy nhà nước còn hạn chế.
Để giải quyết vấn đề đó, Nghị quyết 8 Ban Ch ấp hành Trung ương khóa
VII đã đặt ra yêu cầu cấp bách là: "Đẩy mạnh giải quyết các khiếu kiện của dân...
xúc tiến việc thiết lập hệ thống Tòa án hành chính để xét xử các khi ếu kiện của
dân đối với các quy ết định hành chính" [25, tr.34]. Đại hội đại bi ểu toàn qu ốc
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII tiếp tục khẳng định "xúc tiến thành lập Tòa
hành chính trong Tòa án nhân dân, b ổ sung th ể chế làm căn cứ cho vi ệc xét xử.
Xác định mô hình tổ chức và thủ tục tố tụng phù hợp với đặc điểm của các vụ kiện
hành chính" [27, tr.18].
Thể chế hóa các quan điểm, các nhiệm vụ nêu trên của Đảng, đã có nhiều
văn bản pháp lu ật quan tr ọng để thiết lập thể chế tài phán hành chính góp ph ần
hoàn thiện các chế định giải quyết khiếu kiện hành chính của dân. Kết quả nổi bật
là đã hình thành t ổ chức và th ực hiện hoạt động xét xử hành chính c ủa Tòa án
nhân dân.
4
Từ năm 1996 đến nay, các Tòa án nhân dân đã giải quyết được hàng ngàn
vụ khiếu kiện hành chính, góp phần ổn định các quan hệ hành chính, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Bước đầu, xã hội đã phần nào có sự nhìn
nhận, đánh giá việc xét xử các vụ án hành chính là ph ương thức bảo đảm quyền,
lợi ích của cá nhân, tổ chức một cách có hiệu quả khi họ đặt niềm tin pháp lý vào
việc khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án.
Tuy vậy, nhìn chung vẫn còn không ít nh ững tồn tại. Tình tr ạng án hành
chính bị cải, sửa vẫn thường xuyên xảy ra dẫn đến việc bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính còn nhi ều hạn chế, đồng
thời gây bức xúc xã hội. Có rất nhiều nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng
đến việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành
chính hành chính, nh ưng tập trung ch ủ yếu vào một số vấn đề như: hệ thống tổ
chức Tòa hành chính ch ưa được hoàn thi ện; trình độ chuyên môn c ủa đội ng ũ
Thẩm phán trực tiếp làm công tác giải quyết án hành chính chưa cao, bản lĩnh và
đạo đức nghề nghiệp còn hạn chế. Đặc biệt là hệ thống pháp luật hành chính và tố
tụng hành chính của nước ta còn khá nhi ều những vướng mắc, bất cập, không rõ
ràng. Bên cạnh đó, việc tổ chức hệ thống Toà hành chính nằm trong hệ thống Tòa
án nhân dân với thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ như hiện nay thì việc xét xử án
hành chính ch ưa th ể đạt được kỳ vọng trong vi ệc bảo đảm, bảo vệ quy ền con
người, bảo vệ pháp chế.
Trên bình diện quốc tế, hiện nay Việt Nam là thành viên tích cực của Hiệp
hội các qu ốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đang nỗ lực cùng tất cả các thành
viên khác để xây dựng cộng đồng này với mục tiêu lấy con người làm trung tâm,
có trách nhiệm xã hội nhằm xây dựng tình đoàn kết, thống nhất bền lâu giữa các
quốc gia và dân tộc ASEAN. Việt Nam còn tham gia còn tham gia một số các điều
ước quốc tế có liên quan đến quyền con người. Do đó yêu cầu sự minh bạch, bảo
đảm quyền, lợi ích của công dân trong t ố tụng nói chung và xét x ử vụ án hành
chính nói chung lại càng trở thành vấn đề cấp thiết.
Những vấn đề trong nước và quốc tế, những yếu tố chủ quan và khách quan
liên quan đến nhà nước và các cá nhân t ổ chức trong xã hội đặt ra yêu cầu phải
nghiên cứu một cách toàn diện, sâu rộng vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
5
của cá nhân và tổ chức đặc biệt trong các vụ án hành chính. Tuy nhiên, qua khảo
sát các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, vấn đề này chưa được chú ý
nghiên cứu chuyên sâu, còn nhi ều ý ki ến khác nhau và ch ưa có s ự tập trung.
Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống về vấn đề giải quyết
các vụ án hành chính theo trình tự thủ tục tư pháp dưới góc nhìn xét xử vụ án hành
chính là một phương thức để thực hiện việc bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ
chức và làm thế nào để nâng cao hiệu quả, chất lượng của phương thức này là một
công việc có ý nghĩa thiết thực.
Xuất phát từ những yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, nghiên cứu sinh lựa
chọn đề tài: "Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét
xử các vụ án hành chính ở Việt Nam" làm luận án tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là làm sáng tỏ bản chất của việc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân tổ chức thông qua việc luận giải cơ sở lý lu ận và thực
tiễn xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án thông qua các quy định của pháp luật;
cơ sở việc nghiên cứu các quan điểm về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, rút ra
các đặc điểm cũng như mối quan hệ với các khái niệm có liên quan để làm sáng tỏ
bản chất của vấn đề.
Thông qua việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về giải quyết
các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân, lu ận án có nhi ệm vụ phân tích nh ững
ưu điểm và những tồn tại của các quy định của pháp luật cũng như những kết quả
đạt được và nh ững sai sót, vướng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án hành
chính trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra những kiến nghị khoa học
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án
nhân dân nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao ch ất lượng xét xử, bảo đảm công
bằng xã hội thông qua ho ạt động tài phán, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các
bên khi tham gia tố tụng.
Thực hiện mục tiêu trên luận án có nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận, ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật.
6
- Nghiên cứu những qui định của pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề
để làm rõ và có nhận thức đúng đắn về vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân,
tổ chức trong trong xét xử vụ án hành chính, vụ án hành chính.
- Phân tích thực trạng và những thách thức đối với việc thực thi sự bảo đảm
quyền và lợi ích của công dân, tổ chức. Xác định rõ quan điểm, nhận thức và đề
xuất các giải pháp tăng cường sự bảo đảm trong thực tế.
Như vậy, song song với việc phân tích, đánh giá và tìm ra ph ương hướng
để hoàn thi ện pháp lu ật, lu ận án c ũng hướng tới mục tiêu làm th ế nào để bảo
đảm quy ền, lợi ích h ợp pháp c ủa công dân, t ổ ch ức trong xét x ử vụ án hành
chính hành chính.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề bảo đảm quyền lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức thông qua quá trình ti ến hành và tham gia t ố tụng để
giải quyết vụ án hành chính tại Ṭa án nhân dân theo quy định của pháp luật hiện
hành và thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án là những vấn đề khác nhau liên quan tới
quá trình giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân. Đồng thời, trong quá
trình trình bày những vấn đề pháp lý của pháp luật nước ta liên quan đến quá trình
giải quyết án hành chính, tác giả luận án cũng trình bày thêm một số quy định của
pháp luật nước ngoài có liên quan.
Tuy nhiên, trong khuôn kh ổ của một luận án, tác gi ả không có điều kiện
trình bày một cách chi ti ết mọi vấn đề liên quan mà ch ỉ tập trung trình bày m ột
cách có hệ thống những vấn đề có tính nguyên tắc, luận giải khoa học về các quy
định của pháp luật và thực tiễn thực hiện để làm tiền đề cho những kiến nghị khoa
học để hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ
án hành chính tại Toà án, nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức ngày một hiệu quả hơn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được th ực hi ện trên cơ sở vận dụng nh ững quan điểm của ch ủ
nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; quan điểm chính trị của Đảng Cộng
sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới và phát triển các quan điểm về
7
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam nhằm xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Luận án áp dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào việc phân tích, lý giải các vấn đề thuộc đối tượng và phạm
vi nghiên cứu. Luận án sử dụng những phương án nghiên cứu chủ yếu sau:
- Ph ương pháp phân tích, t ổng hợp: đây là ph ương pháp được áp d ụng
trong hầu hết các phần và nội dung của luận án như phân tích các quan niệm, quan
điểm về một vấn đề, rút ra các y ếu tố, các bộ phận có mối liên hệ mật thiết với
nhau để xác lập một quan điểm, một vấn đề gồm các yếu tố cần và đủ cho một kết
luận, một quan niệm đầy đủ hơn.
- Phương pháp so sánh: Ph ương pháp này được sử dụng nhằm tìm ra các
điểm chung, các nét đặc trưng của các vấn đề, các hiện tượng hoặc cùng một hiện
tượng nhưng cần phải so sánh trong các giai đoạn (thời gian) khác nhau hay trong
những không gian (giữa vùng này với vùng khác, nước này với nước khác) khác
nhau... để rút ra các điểm tích cực, tiến bộ.
- Phương pháp lịch sử: là phương pháp nghiên cứu một vấn đề trong cả quá
trình phát sinh, tồn tại và phát tri ển của nó thông qua các giai đoạn, các mốc về
thời gian gắn với các sự kiện tương ứng.
- Phương pháp thống kê: Để ghi chép, cập nhật các số liệu, các thông tin, sự
kiện... theo trình t ự, cách th ức nh ất định. Ph ương pháp này được áp d ụng cho
những vấn đề cần chứng minh từ các số liệu, sự kiện được tập hợp và có độ tin cậy
xác định.
Luận án sẽ sử dụng tập hợp tất các các ph ương pháp nói trên để thực hiện
những nội dung đã đặt ra.
5. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án là công trình nghiên c ứu đầu tiên, toàn di ện về vấn đề bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính.
- Làm rõ được cơ sở khoa học, các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp. Đưa ra và làm rõ được nội hàm của khái ni ệm quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính.
8
- Luận án khái quát được nội dung, bản chất của vấn đề bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức dưới góc độ pháp lý nhằm tạo ra khuôn khổ cho
hoạt động của tố tụng của những người tiến hành tố tụng cũng như tham gia t ố
tụng hành chính.
- Phân tích đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ về th ực
trạng cũng như những hạn chế và thách thức đối với việc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính trên cả phương diện
pháp luật và thực tiễn, đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm thể hiện rõ
quan điểm, đường lối của Nhà nước về vấn đề này, góp phần hoàn thiện pháp luật
tố tụng hành chính.
Những kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo cho việc nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thi ện pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính. Luận án cũng có thể làm
tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và học tập ở các trường đại học, các
học viện có chuyên ngành v ề lu ật học, quyền con ng ười. Lu ận án cũng là một
nguồn tư liệu để cán bộ làm công tác th ực tiễn tham kh ảo vận dung trong ho ạt
động thực tiễn nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong
xét xử vụ án hành chính. Tác gi ả mong mu ốn đóng góp một phần công sức vào
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết vụ án hành chính và nâng
cao chất lượng xét xử hành chính c ủa Tòa án, t ừ đó góp ph ần giải quyết nhanh
chóng, dứt điểm các khiếu kiện hành chính phát sinh trong thực tế, đảm bảo quyền
và lợi ích của công dân, tổ chức trong xã hội đặc biệt trong bối cảnh xây dựng nhà
nước pháp quyền, hội nhập quốc tế ngày một sâu, rộng.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công
bố liên quan đến luận án và danh m ục tài li ệu tham kh ảo, nội dung của luận án
gồm 4 chương, 14 tiết.
9
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Trong tiến trình đổi mới đất nước như hiện nay, một loạt vấn đề nảy sinh từ
thực tiễn về mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, về vai trò tích cực của Nhà
nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xây d ựng một xã
hội dân giàu, nước mạnh... cần phải được nghiên cứu, tổng kết nhằm luận giải cho
các quan điểm đổi mới đất nước, xác định những luận cứ khoa học tạo cơ sở vững
chắc để xây dựng các ch ế định pháp lý, góp ph ần hoàn thiện bộ máy Nhà nước,
bảo vệ quyền lợi của công dân. Trong đó, việc nghiên cứu các quy định, các cơ
chế gi ải quy ết khi ếu nại, tố cáo c ủa công dân, gi ải quy ết các tranh ch ấp, mâu
thuẫn giữa Nhà nước với công dân để nhà nước thực sự là công cụ chủ yếu, bảo vệ
và thực hiện quyền làm chủ của công dân ngày càng thu hút đông đảo sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều cơ quan, tổ chức, nhiều nhà khoa học. Nghiên cứu về vấn đề
này có một số công trình, bài viết tiêu biểu sau:
1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU MANG TÍNH LÝ LUẬN ĐỊNH
HƯỚNG VỀ TỔ CH ỨC BỘ MÁY NHÀ N ƯỚC VÀ M ỐI QUAN HỆ GI ỮA NHÀ
NƯỚC VỚI CÔNG DÂN
1.1.1. Các công trình, tài liệu nghiên cứu trong nước
- Nguyễn Văn Mạnh, Nhận th ức và th ực ti ễn vận dụng quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới (từ
1986 đến nay) [66]. Nội dung đề tài được chia làm ba ph ần. Ph ần th ứ nh ất là
những quan điểm, chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước. Các tác giả tập trung làm rõ cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức, hoạt động
của bộ máy nhà nước trong đó có Tòa án. Thực trạng thể chế hóa vận dụng quan
điểm của Đảng về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước được các
tác giả đánh giá chi ti ết trong phần thứ hai của đề tài. Phần thứ ba, đề tài đưa ra
phương hướng vận dụng quan điểm của Đảng trong đổi mới tổng thế tổ chức bộ
máy nhà nước và các gi ải pháp để kiện toàn, đổi mới tổ chức bộ máy nhà n ước
theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền theo thực thế Việt Nam.
10
- Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới [130]. Với nội dung nhìn lại 20 năm đổi
mới tư duy về Nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam các tác giả làm rõ nh ững luận điểm khoa học về nhà nước pháp quyền, dân
chủ và mối quan hệ gi ữa Đảng và Nhà n ước, sự phân công quy ền lực trong tổ
chức bộ máy nhà nước, mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các tác giả cũng đưa ra các vấn đề cần
tiếp tục đổi mới trong ho ạt động lập pháp, hành pháp, c ải cách hành chính nhà
nước, hoàn thiện tổ chức bộ máy Tòa án và xét xử vụ án hành chính.
- Đào Trí Úc, Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy
Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [117]. Từ sự phân tích nền
tảng lý lu ận của việc xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của bộ máy Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự tổng kết hơn 20 năm thực hiện các
cơ chế dân ch ủ, cơ chế và hình th ức giám sát của nhân dân, k ết hợp với những
nghiên cứu, đánh giá kinh nghiệm của nước ngoài. Các tác gi ả đưa ra các yếu tố
tích cực hợp lý với việc xây dựng, đổi mới các cơ chế kiểm tra giám sát từ phía
nhân dân đối với bộ máy công quyền. Đồng thời cuốn sách đưa ra đề xuất mô hình
cả về lý luận và thực tiễn cho các cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với
các thiết chế bộ máy của Đảng và Nhà nước. Mô hình đó cần đảm bảo mục đích
kiểm tra hữu hiệu, vừa bảo đảm tính khả thi phù hợp với tình hình thực tế của hệ
thống chính trị Việt Nam
- Nguyễn Chí Dũng, Cơ ch ế pháp lý giám sát ho ạt động tư pháp ở Vi ệt
Nam [20]. Trong luận án này, tác giả phân tích các khái niệm có ý nghĩa làm cơ sở
lý luận cho cơ ch ế giám sát ho ạt động tư pháp. Có th ể kể đến đó là khái ni ệm
quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, giám sát; mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố
tạo nên hệ thống cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp. Các yếu tố cấu thành
cơ chế này bao gồm: phương thức tổ chức giám sát; yếu tố pháp lý; mối quan hệ
tương tác gi ữa chủ thể giám sát có tác động đến đối tượng giám sát. Các y ếu tố
này là tiền đề của nhau, bổ xung cho nhau và để hoàn thiện cơ chế pháp lý. Khi
nghiên cứu cần xác định rõ vai trò của các yếu tố này một cách độc lập tương đối
và vai trò c ủa chúng trong mối quan hệ là các y ếu tố hợp thành tạo nên cơ chế
11
pháp lý giám sát. Từ những cơ sở lý luận luận án phân tích thực trang cơ chế pháp
lý giám sát hoạt động tư pháp. Xem xét các yêu cầu khách quan, quan điểm và các
giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện
nay. Một số vấn đề lý luận về cơ chế giám sát của luận án có ý ngh ĩa tham khảo
đối với đề tài của nghiên cứu sinh trong việc xác định các vấn đề bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức khi tham gia vụ án hành chính
- Nguyễn Mạnh Bình, Hoàn thi ện cơ chế pháp lý giám sát xã h ội đối với
việc th ực hiện quy ền lực Nhà nước ở Vi ệt Nam hi ện nay [7]. Tác gi ả cho r ằng
trong hệ thống cơ chế pháp lý giám sát xã h ội đối với thực hiện quyền lực Nhà
nước bao gồm 5 yếu tố cấu thành. Đó là: hệ thống thiết chế; hệ thống thể chế; hình
thức và ph ương pháp giám sát; trình t ự và th ủ tục giám sát; hậu quả giám sát xã
hội. Cơ chế pháp lý vận hành được tạo nên từ các yếu tố này. Các yếu tố này có
vai trò nh ất định, là ti ền đề và b ổ xung cho nhau để tạo nên một cơ ch ế hoàn
chỉnh. Dựa trên những phân tích cơ sở lý luận của cơ chế giám sát xã hội đối với
việc thực hiện quyền lực Nhà nước luận án phân tích th ực trạng các yếu tố cấu
thành cơ chế pháp lý giám sát xã h ội. Từ thực tế tìm ra nh ững nguyên nhân, bài
học từ đó rút ra yêu cầu khách qua và các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp
lý giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực Nhà nước trong điều kiện Việt
Nam hiện nay. Luận án chỉ dừng ở phạm vi cơ chế pháp lý giám sát nên ch ưa đi
sâu vào từng lĩnh vực cụ thể, tuy nhiên nh ững vấn đề lý lu ận nêu ra có ý ngh ĩa
tham khảo cho nghiên cứu sinh.
- Bộ Tư pháp, Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ
tục tư pháp, nâng cao hi ệu quả và hi ệu lực xét xử của Tòa án trong nhà n ước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân [8]. Công trình chuyên
khảo, nghiên cứu đánh giá về cơ sở lý luận, chính trị, pháp lý và th ực tiễn về cải
cách tư pháp ở Việt Nam. Đề tài lu ận giải cơ sở lý lu ận và quá trình hình thành
quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp từ năm 1986 đến 2006; th ực tiễn việc
triển khai các nghị quyết về cải cách tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
phạm vi các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án, thi hành án và các cơ quan, tổ chức
bổ trợ tư pháp. Nội dung đề tài cũng xác định những vấn đề lý luận và thực tiễn
của nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án; vấn đề tranh tụng và hiệu quả xét xử
12
của Tòa án. Đề tài cũng đưa ra mô hình tổ chức của cơ quan tư pháp và bổ trợ tư
pháp như Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, thi hành án, các tổ chức luật sư,
tư vấn pháp luật, giám định tư pháp, công chứng.
- Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam [115]. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khái niệm
tuy đã được hình thành từ rất lâu nh ưng trong thực tế mới đang được định hình.
Các tác giả tập trung xác định mô hình lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam để giúp có thêm những điều kiện nhận thức cho tiến trình cải cách
về lập pháp, hành pháp và tư pháp đang được thực thi mạnh mẽ. Với các cơ quan
xét xử, các tác gi ả đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ
quan này, đưa ra các nguyên tắc thiết kế tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề xuất mô hình tổng thể về tổ chức
và hoạt động của hệ thống Tòa án.
- Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước và trách nhi ệm của nhà nước [17]. Nhà
nước phải chịu trách nhi ệm về những hành vi ho ạt động của mình. Bảo đảm sự
độc lập của tòa án là biểu hiện của sự chịu trách nhiệm của nhà nước. Hiệu quả xét
xử của tòa án phụ thuộc rất nhiều vào sự độc lập này.
- Nguyễn Phú Trọng, Phát huy dân ch ủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân [107]. Cuốn sách
là tập hợp những bài nói, bài viết và trả lời phỏng vấn báo chí về vấn đề phát huy
dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền. Tác giả khẳng định: Nhà nước ta là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là
nhà nước đại đoàn kết toàn dân, d ựa trên nền tảng của khối liên minh giai c ấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
được đặt ra như một tất yếu khách quan. Đây là cách thức cơ bản để phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực nhà
nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Vi ệt Nam. Cu ốn sách cho ng ười đọc th ấy được một cách h ệ th ống
những quan điểm, nguyên tắc, cách thức và bước đi trong việc phát huy dân chủ,
13
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cuốn sách nêu bật 5
quan điểm cơ bản trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Thứ
nhất: Nhà nước ta là nhà n ước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa của dân do dân, vì
dân, dựa trên nền tảng của khối liên minh giai c ấp công nhân v ới giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công
nhân; thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Thứ hai: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ ba: quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của trung
ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính ch ủ động, năng động, sáng tạo của
từng địa phương, từng cơ sở, từng tổ chức, từng cá nhân và toàn hệ thống. Thứ tư:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức xã
hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng. Thứ
năm: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
- Uông Chu L ưu, Cái cách tư pháp, hoàn thi ện hệ th ống các th ủ tục tư
pháp, nâng cao hi ệu qu ả và hi ệu lực xét x ử của Tòa án trong nhà n ước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân [65]. Trong cuốn sách này làm rõ
các vấn đề lý luận và thực tiễn, khái niệm, vị trí, vai trò, bản chất, đặc trưng của
các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp; quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó đề tài đã đưa ra khái
quát về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong các khoảng thời gian
trước và sau năm 1986. Đề tài đánh giá những thành tựu đưa ra những hạn chế và
nguyên nhân để từ đó hình thành những quan điểm, những tiền đề và các yêu cầu
cải cách tư pháp. Đề tài nghiên cứu hệ thống tòa án trong hệ thống các cơ quan tư
pháp và việc thực hiện quyền của tòa án với vị trí quan tr ọng trong hệ thống cơ
quan tố tụng. Đề tài cũng đưa ra một số vấn đề liên quan đến cải cách tổ chức và
hoạt động của tòa án trong tiến trình cái cách tư pháp.
- Lê Minh Thông, Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay [94]. Tác
14
giả nêu và phân tích các nội dung liên quan đến việc đổi mới, hoàn thiện bộ máy
nhà nước pháp quy ền theo các n ội dung cơ bản: Yêu cầu đổi mới bộ máy nhà
nước; quá trình đổi mới mô hình b ộ máy nhà n ước trong lịch sử; thực trạng mô
hình bộ máy nhà nước Việt nam từ 1992 đến nay; phương hướng đổi mới tổ chức
bộ máy nhà nước. Theo tác giả hiện nay còn nhiều vấn đề cần có sự thống nhất về
mặt lý lu ận như quyền tư pháp và các c ơ quan tư pháp. Sự thiếu thống nhất này
dẫn tới khái niệm các cơ quan tư pháp chưa được hiểu một cách chính xác, đầy đủ
tạo nên sự khó khăn trong nhận thức lý luận và cả thực tế hoạt động đối với việc
phân định giữa hành pháp và tư pháp.
1.1.2. Các công trình, tài liệu nghiên cứu của nước ngoài
Joseph S. Nye, Philip Zelikow, David C. King, Why People Don't Trust
Government, Tại sao nhân dân không tin t ưởng Chính ph ủ, Harvard University
Press [139]. Niềm tin đối với chính ph ủ Mỹ đã giảm trong ba th ập kỷ qua. Ba
phần tư dân Mỹ khi được hỏi cho biết họ tin tưởng chính phủ liên bang làm đúng
trong năm 1964. Hiện nay, chỉ một phần tư còn có lòng tin. Lý do tại sao lại có sự
suy giảm đó? Sự không tin tưởng này phản ánh thái độ hoài nghi lâu dài của người
dân Mỹ đối với một nhà nước mạnh mẽ? Hay sự thiếu tin cậy là một vấn đề cho
tương lai của việc lãnh đạo?
Với tập hợp các bài tiểu luận của các học giả hàng đầu Harvard, cuốn sách
này tìm hiểu gốc rễ của sự thiếu tin cậy. Nó đầu tiên xem xét ph ạm vi hoạt động
của chính phủ hiện nay, hiệu suất thực tế của nó, và nh ận thức của người dân về
hiệu quả của nó. Sau đó các tác giả đánh giá những giải thích có thể cho là nguyên
nhân cho sự suy giảm lòng tin, bao gồm cả sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, kỳ
vọng cao sau Thế chiến II, một nền kinh tế suy yếu, ảnh hưởng của toàn cầu hóa,
sự tức giận trong các vụ bê bối chính trị, và sự bất lực của các quan ch ức. Cuốn
sách làm rõ suy nghĩ về nguồn gốc của sự bất mãn công khai. Xuất phát từ đó, các
tác giả đã đưa ra nhi ều nguyên nhân, ph ần lớn là không liên quan đến điều kiện
kinh tế quốc gia, những thách thức của nền kinh tế toàn cầu, chiến tranh lạnh, hoặc
cách hành sử sai lầm của các quan ch ức và chính tr ị gia. Thay vào đó, họ chỉ ra
rằng thủ phạm rất có thể là tất cả những điều tồn tại trong xã hội - một sự pha trộn
15
tương tác của các cuộc xung đột văn hóa và chính trị khuấy động bởi một hệ thống
phương tiện truyền thông.
1.2. NHÓM NHỮNG CÔNG TRÌNH BÀI VIẾT NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.2.1. Các công trình, tài liệu nghiên cứu trong nước
- Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương, Tài phán hành chính trong
bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quy ền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hi ện
nay [77]. Cuốn sách này là s ự tập hợp ý ki ến của một số tác gi ả xoay quanh
những vấn đề lý lu ận và th ực tiễn cấp bách nh ất về nền tài phán hành chính ở
Việt Nam. Các tác gi ả tập trung làm rõ c ơ sở lý lu ận và kinh nghi ệm xây dựng
nền hành chính ở nước ta. Cùng v ới đó là sự phân tích, đánh giá về nhà n ước
pháp quyền, về việc bảo vệ quyền con người, các vấn đề liên quan đến tài phán
hành chính.
Nhà nước pháp quyền, từ trong bản chất của nó, đặt ra yêu cầu về sự giới
hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó điểm nhấn quan trọng là sự kiểm
soát và kiềm chế quyền lực hành pháp - bộ phận quyền lực có nhiều khả năng nhất
trong việc lấn quyền và lạm quyền. Vì vậy, thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng các cơ chế
đảm bảo quyền lực nhân dân trên cơ sở hạn chế tối đa khả năng lạm quyền từ phía
các cơ quan hành pháp. Điều này trực tiếp đặt ra yêu cầu về một nền tài phán hành
chính hữu hiệu ở Việt Nam hiện nay.
Tài phán hành chính là m ột vấn đề phức tạp, liên quan đến và ph ụ thuộc
vào nhiều yếu tố chính trị - xã hội trong các không gian và thời gian khác nhau. Ở
Việt Nam, tài phán hành chính xu ất hiện sớm và th ực sự tr ở thành một cơ ch ế
pháp lý nhằm giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước hướng tới mục tiêu bảo
vệ quyền con người, chỉ từ sau khi Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân được
ban hành năm 1991 và đặc biệt là sau năm 1995 - khi Quốc hội Việt Nam sửa đổi
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, trao cho Tòa án nhân dân ch ức năng xét xử hành
chính và thiết lập trong hệ thống tòa án nhân dân các tòa chuyên trách th ực hiện
chức năng này (gọi chung là Tòa hành chính). Từ đó đến nay, mặc dù về bản chất,
tài phán hành chính là hoạt động xem xét và ra phán quyết có giá trị pháp lý nhằm
16
giải quyết các tranh chấp hành chính hay các tranh ch ấp nảy sinh trong quá trình
điều hành, quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó chủ yếu là việc
xem xét, phán quyết về tính đúng đắn của các quyết định hay hành vi hành chính
của các cơ quan qu ản lý nhà n ước, nhưng trên th ực tế đang tồn tại những cách
quan niệm khác nhau về tài phán hành chính. Sự phức tạp trong nhận thức lý luận
về tài phán hành chính kéo theo những lúng túng và thiếu hiệu quả trong thực tiễn
xây dựng và th ực thi cơ chế tài phán hành chính. H ệ quả đương nhiên của tình
hình đó là quy ền khiếu nại, tố cáo của công dân b ị xâm hại, vai trò c ủa các cơ
quan tài phán hành chính bị suy giảm, đi đôi với hiện tượng gia tăng sự tùy tiện,
vô cảm, thiếu trách nhiệm của một bộ phận công chức hành chính nhà nước. Đó là
thực trạng không tương thích với đòi hỏi của quá trình tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Nguyễn Thanh Bình, Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong vi ệc giải
quyết các khiếu kiện hành chính [4]. Tác giả tập trung làm rõ cơ sở lý luận về sự
cần thiết và tính tất yếu của việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết khiếu kiện hành chính, lu ận án xây dựng được khái niệm thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính của tòa án góp ph ần tạo nên sự thống nhất về nhận
thức cho vi ệc xác định thẩm quyền của tòa án. Qua vi ệc đánh giá th ực trạng về
thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân, tác giả cho thấy những yếu tố
tích cực và cả những khó khăn, bất hợp lý trong việc xác định thẩm quyền xét xử
các vụ án hành chính của Tòa án. Đó cũng chính là nguyên nhân làm hạn chế vai
trò của Tòa án tham gia vào gi ải quyết khiếu kiện hành chính. Luận án cũng đưa
ra những kiến nghị, những giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm quyền của Tòa Hành
chính và xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, thống nhất đồng bộ và hoàn thiện
môi trường pháp lý về thủ tục giải quyết vụ án hành chính.
- Nguyễn Thanh Bình, Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của tòa án
- sự đảm bảo công lý trong quan h ệ Nhà nước và Công dân [6]. Cuốn sách gồm
ba phần: Phần thứ nhất đưa ra cơ sở lý luận về xác định, phân định thẩm quyền xét
xử khiếu kiện hành chính của Tòa án. Trong phần này tác giả tập trung làm rõ các
vấn đề lý lu ận về thẩm quyền xét xử của tòa án đối với khiếu kiện hành chính.
Đưa ra các khái niệm về khiếu kiện hành chính, thẩm quyền của tòa án, đặc điểm
17
về thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử các khiếu kiện hành chính, đồng thời
nêu các nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án.
Phần thứ hai, cuốn sách đánh giá thực tiễn về thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành
chính của Tòa án. Cụ thể là nêu ra các c ơ sở để xác lập thẩm quyền của Tòa án,
xác định đối tượng xét xử là các quy ết định hành chính, hành vi hành chính. Ở
phần này tác gi ả cũng nêu các v ấn đề về thẩm quyền của tòa án theo lo ại việc,
theo lãnh th ổ, theo cấp tòa án xét x ử. Bên cạnh đó tác gi ả đi sâu vào phân tích
thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của tòa án trong các giai đoạn tố tụng và
áp dụng pháp lu ật dân sự và t ố tụng dân sự trong xét x ử các khi ếu ki ện hành
chính, thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và trong việc ra bản
án, quyết định xét xử khiếu kiện hành chính. Ph ần thứ ba, trên c ơ sở lý lu ận và
thực tiễn, tác giả đưa ra phương hướng và các bi ện pháp hoàn thiện thiết chế xét
xử khiếu kiện hành chính của tòa án để đảm bảo công lý trong quan h ệ giữa nhà
nước với công dân. Tại phần này tác giả đề cập đến vấn đề mở rộng thẩm quyền
của Tòa án trong việc xét xử các khiếu kiện hành chính, việc hoàn thiện hệ thống
các quy định pháp luật nhằm mở rộng thẩm quyền của Tòa án, hoàn thiện sự phân
định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp, hoàn thiện các quy định và biện pháp
bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền xét xử. Bên cạnh đó tác giả cũng đưa ra
vấn đề cải cách trình tự thủ tục tố tụng hành chính cho phù hợp đặc điểm của việc
khiếu ki ện hành chính c ũng nh ư các đề xu ất liên quan t ới th ẩm quy ền ra phán
quyết và quan niệm về đối tượng xét xử của toàn án là quyết định hành chính.
- Nguyễn Văn Thanh, Đinh Văn Minh, Một số vấn đề về đổi mới cơ chế
giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam [92]. Nội dung cu ốn sách này t ập
trung phân tích những vấn đề về khiếu kiện hành chính và cơ chế giải quyết khiếu
kiện hành chính. Các khái ni ệm được các tác gi ả làm rõ nh ư khi ếu ki ện hành
chính, giải quyết khiếu kiện hành chính, quan điểm về giải quyết khiếu kiện hành
chính trong giai đoạn 1998 - 2003. Các vấn đề về đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu kiện hành chính trong th ời gian tới. Với nội dung giới
hạn trong một khoảng thời gian nên những vấn đề cuốn sách mang lại có ý nghĩa
tham khảo đối với đề tài.
18
- Trần Quang Hi ển, Cơ chế pháp lý b ảo đảm giải quyết tranh ch ấp hành
chính ở Việt Nam [52]. Luận án làm rõ c ơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh
chấp hành chính là t ổng hợp các yếu tố cấu thành và ph ương thức tổ chức, hoạt
động của các chủ thể theo những nguyên tắc, quy định của pháp luật, với các hình
thức, công cụ, phương tiện pháp lý có m ối liên hệ chặt chẽ với nhau, vận hành
trong một thể đồng bộ, thống nhất thông qua các chủ thể có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp hành chính nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh
chấp được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Các yếu tố cấu thành của cơ
chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính gồm: các nguyên tắc pháp
lý cơ bản; những quy định của pháp luật thực định về giải quyết tranh chấp hành
chính; yếu tố thủ tục, phương thức pháp lý giải quyết tranh chấp hành chính; yếu
tố ch ủ th ể pháp lu ật trong cơ ch ế pháp lý b ảo đảm gi ải quy ết tranh ch ấp hành
chính. Luận án đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp
hành chính ở Việt Nam trên những nội dung như: các nguyên tắc pháp lý cơ bản;
những quy định pháp lu ật về giải quyết tranh ch ấp hành chính; th ủ tục, phương
thức pháp lý gi ải quyết tranh chấp hành chính; yếu tố chủ thể pháp luật trong cơ
chế pháp lý b ảo đảm giải quyết tranh ch ấp hành chính. Quan điểm chỉ đạo việc
xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính
gồm: Xây dựng và hoàn thi ện cơ ch ế pháp lý gi ải quyết tranh ch ấp hành chính
phải bảo đảm cho các tranh chấp hành chính được giải quyết nhanh, kịp thời, đúng
pháp luật và có hiệu quả nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức trong xã h ội; Xây dựng và hoàn thi ện cơ ch ế pháp lý b ảo đảm giải quyết
tranh chấp hành chính trên cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; Xây dựng và
hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính phải phù hợp
với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách hành chính, cải cách tư
pháp; Xây dựng và hoàn thi ện cơ chế pháp lý gi ải quyết tranh ch ấp hành chính
bảo đảm không làm cản trở việc thực hiện các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên; Xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp
hành chính phải bảo đảm tính đồng bộ, tính ổn định, nhất quán của các yếu tố cấu
thành cơ chế; Xây dựng và hoàn thi ện cơ chế pháp lý b ảo đảm giải quyết tranh
19
chấp hành chính trên c ơ sở tổng kết thực tiễn giải quyết tranh ch ấp hành chính,
vận dụng sáng tạo kinh nghi ệm nước ngoài vào hoàn c ảnh Việt Nam hi ện nay.
Các giải pháp nh ằm xây dựng và hoàn thi ện cơ chế pháp lý b ảo đảm giải quyết
tranh chấp hành chính ở Việt Nam trong thời gian tới như: Đổi mới về điều kiện
khiếu kiện hành chính b ảo đảm quyền lựa chọn của người khiếu kiện khi khi ếu
kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính; Thể chế hóa những nguyên tắc cơ
bản về giải quyết tranh chấp hành chính thành các quy phạm pháp luật cụ thể; Xây
dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật trong cơ chế pháp lý bảo đảm giải
quyết tranh chấp hành chính; Gi ải pháp đổi mới thủ tục và ph ương thức pháp lý
giải quyết tranh ch ấp hành chính; Gi ải pháp hoàn thi ện yếu tố chủ thể pháp lu ật
trong cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành chính.
- Ngô Mạnh Toan, Hoàn thi ện pháp lu ật về khiếu nại, tố cáo trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam [95]. Tác giả xem xét phân tích
những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo, các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo,
trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo. Trên cơ sở những phân tích đó luận án
phân tích sự hình thành, phát tri ển và th ực trạng pháp lu ật khiếu nại tố cáo hi ện
nay ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra yêu cầu khách quan, những quan điểm đổi mới
trong thời gian tới.
- Phạm Hồng Thái, Quyết định hành chính, hành vi hành chính - Đối tượng
xét xử của Tòa án [88]. Cuốn sách chủ yếu phân tích các khía cạnh khoa học, pháp
lý về quyết định hành chính, hành vi hành chính - đối tượng xét xử của Tòa án,
thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân các c ấp. Tuy vậy, cuốn sách
không đề cập tới tố tụng hành chính và việc bảo đảm quyền của cá nhân, tố chức
trong xét xử hành chính.
- Ph ạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu, Tài phán hành chính ở Vi ệt Nam
[87], cuốn sách chủ yếu tập trung luận giải về tài phán hành chính như là một bộ
phận, một mặt của quản lý hành chính nhà nước và phân tích sự tác động giữa hai
mặt hoạt động này. Đồng thời chỉ ra th ẩm quyền của tài phán hành chính - phán
xét về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Cu ốn sách
đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về tài phán hành chính và xét xử hành chính.
20
- Học viện Hành chính, Giáo trình Luật hành chính và tài phán hành chính
Việt Nam [56]. Giáo trình này gồm các phần: Phần thứ nhất, Khái quát chung về
Luật hành chính Việt Nam; Phần thứ hai: Chủ thể của Luật hành chính Việt Nam;
Phần thứ ba: Cưỡng chế hành chính và trách nhiệm hành chính; Phần thứ tư: Kiểm
soát đối với hoạt động hành chính nhà nước; Phần thứ năm: Tài phán hành chính.
Nội dung giáo trình đưa ra các khái ni ệm về lu ật hành chính và tài phán hành
chính Việt Nam tạo tiền đề nghiên cứu các vấn đề chuyên sâu.
- Học viện Hành chính, Giáo trình Hành chính công [57]. Cuốn giáo trình
này cung cấp những kiến thức cơ bản về hoạt động quả lý của bộ máy hành chính
nhà nước và những cách thức phối hợp sử dụng nguồn lực để hành chính nhà nước
đạt được những mục tiêu của mình. Hành chính công có mối liên hệ mật thiết với
các môn khoa học khác như quản trị học, quản trị nhân sự, luật, kinh tế vĩ mô…
Cuốn sách mang tới cho người đọc sự tiếp cận một cách có hệ thống những kiến
thức về nhà nước và ho ạt động quản trị của một quốc gia gắn liền với hệ thống
những công cụ, phương pháp, nguyên tắc quản lý và trong đó có công cụ pháp luật
mà chủ yếu là Luật hành chính.
- Nguy ễn Hoàng Anh, Nh ững căn cứ đánh giá tính h ợp pháp của quy ết
định hành chính trong xét xử hành chính ở Cộng hòa Pháp và Vương quốc Bỉ [2].
Bài viết của tác giả đưa ra và phân tích vấn đề về tiêu chí đánh giá tính hợp pháp
của quyết định hành chính theo quy định của pháp luật Bỉ và Pháp là đúng thẩm
quyền, tuân th ủ yêu cầu về hình th ức, thủ tục và trình tự ban hành. Tác gi ả giới
thiệu và phân tích các căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế để đánh giá tính hợp pháp
của quyết định hành chính. Từ thực tế áp dụng luật của các nước trên rút ra bài
học kinh nghiệm cho việc vận dụng ở Việt Nam.
- Phạm Hồng Quang, Luật kiện tụng hành chính ở Nhật Bản và một số vấn
đề cải cách tố tụng hành chính ở Nhật Bản hiện nay [82]. Tác giả bài vi ết giới
thiệu về quá trình hình thành, đưa ra nội dung và đặc điểm của luật kiện tụng hành
chính Nhật Bản. Bên cạnh việc giới thiệu sơ bộ về những đặc điểm cần quan tâm
của luật kiện tụng hành chính, bài viết còn nêu ra những hạn chế còn tồn tại trong
luật của Nhật Bản. Cùng với những con số thống kê cụ thể về thực tiễn xét xử của
21
tòa án tác giả bài viết đưa ra một số phương hướng và các biện pháp cải cách chủ
yếu đối tố tụng hành chính.
- Tìm hiểu xét xử hành chính một số nước và lãnh thổ trên thế giới [74], Tài
liệu tham khảo bao gồm các tài liệu được dịch, ghi chép qua các bài viết trình bày
tại các hội thảo khoa học, các đợt khảo sát nghiên cứu của các chuyên gia Vi ệt
Nam tại một số nước. Cuốn sách đề cập đến cách th ức tổ chức cơ quan tài phán
hành chính ở một số nước trên thế giới, trong đó tập trung sâu vào tìm hiểu về Tòa
án hành chính ở Cộng hòa Pháp; tòa án hành chính trong h ệ th ống cơ quan tài
phán Cộng hòa liên bang Đức; Tòa án hành chính t ại Thụy Điển, tính lưỡng hệ
trong tài phán ở Phần Lan và Thụy Điển. Cuốn sách đưa ra sơ bộ về lịch sử hình
thành, chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của hệ thống tòa án hành chính ở
các quốc gia này. Bên cạnh đó cuốn sách còn đề cập đến tổ chức và hoạt động của
hệ thống tòa án hành chính và việc giải quyết các khiếu kiện hành chính ở một số
nước và vùng lãnh th ổ lân cận với Việt Nam nh ư Trung Qu ốc, Đài Loan, Hàn
Quốc, Malaysia, Singapore. Cuốn sách cũng đề cập tới sự ảnh hưởng của hệ thống
tòa án hành chính ở các nước phương Tây tới việc hình thành c ơ quan tài phán
hành chính của các nước trong khu vực Đông Nam Á.
- Đinh Văn Minh, Tài phán hành chính so sánh [70]. Cuốn sách làm rõ mô
hình tổ ch ức cơ quan tài phán hành chính c ủa một số nước trên th ế gi ới, quan
điểm của các nước về tài phán hành chính, một số vấn đề tố tụng hành chính, đối
tượng xét xử của tòa án hành chính.
- Phạm Hồng Quang, Hoàn thi ện chế định tài phán hành chính Vi ệt Nam
trong tiến trình hội nhập và phát triển: một vài kinh nghiệm từ hệ thống luật Châu
âu lục địa, Nhật Bản và Trung Quốc [83]. Tác giả nêu rõ hoàn thi ện chế định tài
phán hành chính ở Việt Nam cần xem xét nh ững động lực nội tại và sự tác động
của bên ngoài. Những kinh nghiệm của nước ngoài cần được vận dụng một cách
khéo léo hợp lý. Những kinh nghiệm từ hệ thống luật châu Âu lục địa, Nhật Bản
và Trung Quốc được rút ra từ quá trình nghiên cứu có ảnh hưởng thế nào đối với
việc hoàn thiện chế định tài phán hành chính ở Việt Nam. Các kinh nghiệm trong
việc xây dựng mô hình tòa án, xác định thẩm quyền của tòa án ở Pháp và Đức,
hay việc chuyển đổi mô hình tòa án hành chính tại Nhật Bản, việc xác định thẩm
22
quyền của tòa án tại Trung Qu ốc… Từ những nghiên cứu này tác gi ả đưa ra đề
xuất cho việc định hướng hoàn thiện chế định tài phán hành chính Việt Nam như
việc hoàn thi ện mô hình c ơ quan tài phán hành chính, m ở rộng thẩm quyền của
Tòa hành chính và các chế định có liên quan.
- Nguyễn Văn Tú, Mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một số
nước trên th ế giới và vi ệc vận dụng vào điều kiện Việt Nam [110]. Tác gi ả luận
văn đã tìm hiểu nghiên cứu mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một số
nước điển hình cũng như những vấn đề tồn tại trong cơ chế giải quyết khiếu kiện
hành chính ở nước ta hiện nay. Tác giả dựa trên những phân tích, lý giải của mình
đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu kiện hành
chính ở Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả cũng đề cập tới thẩm quyền và những vấn
đề có liên quan đến nội dung tài phán hành chính.
1.2.2. Các công trình, tài liệu nghiên cứu của nước ngoài
- Adriaan Bedner, Administrative Courts in Indonesia: A Socio-legal Study,
Toà án hành chính ở Indonesia: Một nghiên cứu xã hội - pháp lý [131]. Cuốn sách
này đánh giá hi ệu su ất của hệ th ống tòa án hành chính Indonesia. N ăm 1991,
Indonesia đã thành lập một hệ thống tòa án hành chính cung c ấp kh ả năng cho
người dân chống lại hành vi hành chính trái pháp luật. Cuốn sách đã giải thích lý
do tại sao các tòa án đã được thành lập mặc dù bản chất mang nặng tính độc đoán
của nhà nước của Indonesia, và lý do t ại sao hệ thống đó là ch ịu ảnh hưởng của
pháp luật Hà Lan. Tác giả phân tích các thẩm quyền của các tòa án trong xử lý vụ
án hành chính và các tòa án đã sử dụng thẩm quyền đó như thế nào. Cu ốn sách
còn đưa ra các nội dung nói lên bản chất không công bằng của vụ án hành chính,
bằng cách phân tích các yếu tố bên trong và bên ngoài tổ chức tòa án hành chính
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động. Các yếu tố này bao gồm thâm hụt ngân sách,
thiếu các cơ hội đào tạo, thao tác ngh ề nghiệp, tham nh ũng, thiếu sự hỗ trợ của
chính phủ, và nhiều vấn đề không hợp pháp khác. Cuối cùng, tác giả cung cấp một
số kiến nghị cho sự thay đổi, nhiều điều trong số đó cũng có thể được sử dụng cho
các nước đang phát triển khác như Việt Nam.
- Lionel Neville Brown, John Bell, French Administrative Law , Lu ật
Hành Chính Pháp [141]. Đây là phiên bản tiếng Anh cung cấp một cái nhìn tổng
23
quan hoàn ch ỉnh và hi ện đại của lu ật hành chính Pháp, cùng v ới Bộ lu ật
Napoleon, Luật hành chính Pháp được coi là thành tích đáng chú ý nhất của khoa
học pháp lý của Pháp. Cuốn sách có mười một phụ lục mở rộng với số liệu thống
kê, mô hình x ử lý, và các hình minh h ọa thông tin v ề các tòa án hành chính
Pháp, thủ tục tố tụng...
- Susan Rose- Ackerman, Peter L. Lindseth, Comparative Administrative
Law - Luật hành chính so sánh [145]. T ập nghiên cứu này là m ột cái nhìn t ổng
quan về lĩnh vực pháp luật hành chính so sánh. Nội dung của các chuyên đề là sự
so sánh pháp luật hành chính của Hoa Kỳ, châu Âu lục địa, và Khối thịnh vượng
chung và được bổ sung thêm bởi những nội dung của luật châu Mỹ La tinh, châu
Phi và châu Á. Phần nổi bật được quan tâm là những mâu thuẫn, xung đột có thể
có giữa thực thi công vụ và trách nhiệm công cộng, về ranh giới thay đổi của hành
chính nhà nước - cả hai sự phân biệt công-tư và các liên kết giữa các cơ quan quản
lý quốc gia và xuyên qu ốc gia nh ư Liên minh châu Âu. Cu ốn sách th ể hi ện sự
quan tâm của các tác giả tới cách các cá nhân và tổ chức trên các hệ thống pháp lý
khác nhau ứng xử với hoạt động, quyền hạn của cơ quan công quyền.
1.3. NHÓM NH ỮNG CÔNG TRÌNH BÀI VI ẾT NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN VI ỆC TH ỰC HI ỆN BẢO ĐẢM QUY ỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA TỔ
CHỨC, CÁ NHÂN TRONG CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
- Thanh tra Nhà n ước, Vi ệc gi ải quy ết khi ếu nại của công dân trong h ệ
thống các cơ quan hành chính Nhà n ước sau khi tòa án hành chính được thành
lập [91]. Đề tài đã nêu lên được quá trình hình thành và hoàn thi ện quyền khiếu
nại của công dân và các ch ế định bảo đảm quyền khiếu nại. Vai trò c ủa các cơ
quan hành chính Nhà nước, các tổ chức thanh tra Nhà nước trong việc giải quyết
các khiếu nại hành chính khi Tòa án nhân dân xét xử các vụ kiện hành chính, thực
trạng tình hình khi ếu nại và gi ải quyết khiếu nại, những tồn tại, nguyên nhân và
giải pháp. Nh ững vấn đề đề tài nghiên cứu có ý ngh ĩa tham kh ảo cho vi ệc hình
thành cơ chế đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia
vụ án hành chính tại tòa án.
- Tòa án nhân dân tối cao, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng
giải quyết khiếu kiện hành chính tại tòa án nhân dân theo tinh th ần cải cách tư
24
pháp [99]. Đề tài đưa ra những vấn đề chủ yếu trong quan điểm của Đảng và Nhà
nước về cải cách hành chính và c ải cách tư pháp trong lĩnh vực giải quyết khiếu
kiện hành chính. Nội dung chủ yếu của đề tài tập trung vào phân tích th ực trạng
năng lực, chất lương, hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành chính của Tòa án nhân
dân đồng thời đưa ra nguyên nhân và các giải pháp.
- Nguyễn Danh Tú , Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam [109]. Luận án đưa ra những đóng góp lý
luận về giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tòa án; phân tích, đánh giá thực trạng
các quy định của pháp lu ật và th ực trạng hoạt động giải quyết khiếu kiện hành
chính từ năm 1995, 1996 đến nay. Trên cơ sở đó đề xuất vấn đề cải cách tư pháp;
đề xu ất quan điểm, gi ải pháp nâng cao ch ất lượng gi ải quy ết khi ếu ki ện hành
chính tại Tòa án, đổi mới mô hình t ổ ch ức Tòa hành chính, t ổ ch ức theo th ẩm
quyền xét xử để tiếp tục hoàn thi ện pháp lu ật cũng như nâng cao hi ệu quả hoạt
động giải quyết khiếu kiện hành chính. Ph ạm vi nghiên c ứu của luận án là l ĩnh
vực giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tòa án th ể hiện ở phương diện lý lu ận,
pháp luật và th ực tiễn hoạt động giải quyết khiếu kiện hành chính t ại Tòa án ở
Việt Nam từ năm 1995, 1996 đến nay và đặc biệt trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp hiện nay. Luận án đưa ra
những kiến giải tương đối toàn diện trên phương diện lý luận về khiếu kiện hành
chính và giải quyết khiếu kiện hành chính đặt trong bối cảnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, luận án đã góp phần đặt cơ sở lý
luận cho việc nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu vấn đề giải quyết khiếu kiện hành
chính trong các lĩnh vực cụ thể. Các giải pháp mà luận án đưa ra có ý nghĩa quan
trọng, góp phần nâng cao ch ất lượng giải quyết các vụ án hành chính trong th ực
tiễn. Về mặt thực tiễn: qua phân tích th ực trạng pháp lu ật, thực trạng giải quyết
các vụ án hành chính, luận án cho thấy tính cấp thiết phải đổi mới, nâng cao hiệu
quả giải quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay. Đồng thời khẳng định,
giải quyết khiếu kiện hành chính bằng con đường Tòa hành chính là phù hợp với
yêu cầu của Nhà nước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đóng góp vào vi ệc
hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu kiện hành chính, nâng cao chất lượng của
công tác xét xử các tranh chấp hành chính tại Tòa án ở nước ta.
25
- Nguyễn Văn Động, Về mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở Việt Nam
[40]. Tác giả bài viết nêu bật bản chất về mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở
Việt Nam là sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Qua việc phân tích mối quan hệ
nhà nước - công dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa bài viết chỉ ra sự thể hiện của
mối quan hệ này dựa trên hai mặt: thái độ của nhà nước với công dân và thái độ của
công dân đối với nhà nước. Nhà nước vừa là tổ chức công quyền vừa là công cụ
hợp pháp của công dân. Công dân vừa là chủ thể của quyền lực nhà nước vừa là đối
tượng tác động của quyền lực này. Nhà nước và công dân đều có quyền và nghĩa vụ
đối với nhau. Sự bình đẳng giữa các quyền đó là tất yếu và dẫn đến yêu cầu phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Nguyễn Thế Quyền, Một số vấn đề về hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu
kiện của công dân [85]. Việc giải tốt khiếu kiện của công dân đối với các quy ết
định hay hành vi hành chính là đảm bảo quyền của cá nhân và tổ chức đồng thời là
cơ chế hữu hiệu để cơ quan nhà n ước phát hi ện ra nh ững lỗi sai của mình. Một
trong những cơ chế giải quyết khiếu kiện là cơ chế tài phán của tòa án nhân dân.
Từ những nhận định của mình tác giả đề xuất xây dựng mô hình toàn hành chính
có sự độc lập cao, không quá lệ thuộc vào cơ quan hành chính.
- Hoàng Văn Sao, Cần làm rõ khái niệm khiếu nại, khiếu kiện để giải quyết
các quyền ấy của cá nhân cho đúng [86]. Tác gi ả phân tích, gi ải thích các khái
niệm khiếu nại, khiếu kiện dưới góc độ lịch sử, tự nhiên và pháp lý, từ đó làm cơ
sở để đưa ra nhận định về vai trò của khiếu kiện, khiếu nại hành chính đối với việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
- Nguyễn Hoàng Anh, Hoạt động xét xử hành chính ở nước ta [3]. Bài viết
nhận định sự yếu kém còn tồn tại trong việc xét xử các vụ án hành chính tại Việt
Nam từ năm 1996 đến 2006. Tác giả phân tích những hạn chế trong quy định của
pháp luật dẫn tới việc hạn chế quyền của người đi kiện và sự độc lập chưa cao của
thẩm phán trước cơ quan hành chính.
- Trương Thanh Đức, Luật tốt, dân không ngại đến tòa [42]. Trong bài viết
này tác gi ả dưới góc nhìn c ủa một luật sư đã đề cập đến vấn đề giải quyết mâu
thuẫn trong quan hệ hành chính bằng Tòa án là m ột cơ chế văn minh. Vấn đề là
làm sao để công dân sẵn sàng đưa tranh chấp ra tòa và tin vào c ơ chế xét xử của
26
Tòa án. Để làm được điều đó theo tác giả cẩn mở rộng thẩm quyền của tòa án đối
với các vụ việc tranh chấp liên quan đến quyết định hành chính. Tuy nhiên vi ệc
mở rộng này phải được thực hiện khoa học để bản thân Tòa án không bị lúng túng
khi thụ lý vụ án và ng ười dân th ấu hiểu được vấn đề. Đối với việc thụ lý vụ án
hành chính cũng cần thay đổi một số vấn đề về thủ tục. Về thời hiệu khởi kiện
cũng nên có quy định hợp lý để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Điểm mấu chốt tác giả nhấn mạnh là trong vụ án hành chính người dân là bên yếu
thế và bất bình đẳng trong quan hệ nhà nước và công dân do v ậy cần dành thêm
lợi thế trong các trình tự thủ tục cho công dân.
Ngoài ra, còn một số bài viết, công trình nghiên cứu khác cũng đã ít nhiều
đánh giá th ực tr ạng về tổ ch ức, th ực hi ện quy ền tài phán hành chính và d ưới
những góc độ khác nhau có đề cập đến vấn đề giải quyết án hành chính tại Tòa án
nhân dân ở nước ta.
Từ các công trình, tài li ệu trên cho th ấy tình hình nghiên c ứu các vấn đề
liên quan đến hoạt động xét xử hành chính c ủa Tòa án, liên quan đến bảo đảm
quyền lợi, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ. thông qua xét xử hành chính của Tòa
án… đã và đang là một lĩnh vực quan tâm ngày càng ca và b ức thiết của Nhà
nước, của nhân dân nhất là các nhà khoa học, chuyên gia pháp lý.
Một số công trình quan tr ọng đã hệ thống một cách cơ bản và chuyên sâu
về mặt lý luận về tài phán hành chính như: Thiết lập tài phán hành chính ở nước
ta [58], Tài phán hành chính ở Việt Nam của Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu
[87]… Bước đầu góp ph ần đặt nền móng cho vi ệc nghiên cứu và so ạn thảo các
văn bản Pháp luật trong lĩnh vực này.
Một số công trình tài liệu lại tập trung nghiên cứu chuyên sâu về một số nội
dung, một chế định cụ thể như các ấn phẩm của Nguyễn Thanh Bình chỉ tập trung
vào chế định thẩm quyền xét xử hành chính.
Một số công trình khác lại trình bày những vấn đề thực hiện về tài phán hành
chính hoặc kinh nghiệm hay so sánh nhằm rút ra bài học vận dụng, áp dụng…
Tuy nhiên, các bài viết và các công trình nói trên chỉ mới đề cập đến từng vấn
đề, từng khía cạnh hoặc tập trung giải quyết một số vấn đề riêng lẻ có tính bức xúc
mà chưa có một công trình nghiên cứu riêng nào nghiên cứu một cách có hệ thống về
27
vấn đề làm thế nào để hoàn thiện các chế định pháp luật tố tụng hành chính đảm bảo,
bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức bằng con đường Tòa án. Do đó, vấn đề
nghiên cứu các chế định về đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
bằng con đường xét xử hành chính tại Tòa án nhân dân vẫn còn là một vấn đề mới
mẻ và cấp thiết trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở quy mô toàn diện.
Trong lúc đó yêu cầu bảo đảm quy ền lợi, lợi ích hợp pháp của cá nhân
thông qua xét xử hành chính của Tòa án đặt ra là rất cấp thiết. Vì nếu vấn đề này
được nghiện cứu và xác định đầy đủ về giải quyết hành chính nh ững khó kh ăn
vướng mắc thường gặp phải trong các giai đoạn của quá trình tố tụng Hành chính.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở nghiên cứu một số công trình khoa học về tổ chức bộ máy nhà
nước, mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và hệ thống tòa án hành chính, luận
án đã có cơ sở khoa học và thực tiễn cho các luận điểm đối với đề tài của nghiên
cứu sinh. Các công trình trên được chia thành ba nhóm chính: Nhóm một, các công
trình nghiên cứu mang tính lý luận định hướng về tổ chức bộ máy nhà nước và mối
quan hệ giữa nhà nước với công dân; Nhóm hai, những công trình bài viết nghiên
cứu có liên quan đến tố tụng hành chính; Nhóm ba, nh ững công trình bài vi ết
nghiên cứu liên quan đến việc thực hiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân trong các vụ án hành chính. Nội dung các công trình nghiên cứu đó,
trực tiếp hoặc gián tiếp đều có liên quan đến quá trình hình thành hệ thống tài phán
hành chính Việt Nam nói chung và việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân trong xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án nói riêng.
Xuất phát từ việc xác định được đối tượng, phạm vi, nội dung của các công
trình này đề cập tới, luận án nhận biết được khái quát tình hình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài cả về lý lu ận và th ực tiễn, những vấn đề đã xem xét nh ưng phải
tiếp tục mở rộng nghiên cứu, những vấn đề các quan điểm còn khác nhau, những
vấn đề chưa được nghiên cứu để từ đó xác định được nội dung cần nghiên cứu cho
nội dung của luận án.
Như vậy, chưa có công trình nào nghiên c ứu một cách chuyên sâu, có h ệ
thống ở cấp độ luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước pháp luật.
28
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
2.1.1. Khái niệm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức trong xét xử các vụ án hành chính
Việc nghiên cứu và đưa ra khái ni ệm khoa học và đúng đắn về bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính có vai trò
quan trọng trong việc xác định hình thức và nội dung của việc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức thông qua xét xử hành chính. Đồng thời là cơ
sở để xác định ranh giới giữa biện pháp bảo đảm trong xét xử hành chính với các
loại bảo đảm pháp lý khác.
Với ý nghĩa như vậy, xét về tổng thể khái niệm biện pháp bảo đảm này bao
hàm những vấn đề sau:
Thứ nh ất, về cơ sở lý lu ận của khái ni ệm: Khái ni ệm này ph ải được xác
định trên cơ sở tập hợp những tri th ức có giá tr ị được thừa nhận chung và ph ải
được đánh giá, lựa chọn, hệ thống có phân tích, phê phán từ các quan niệm, quan
điểm kết luận có ý nghĩa lý luận, thực tiễn cho việc xác định hình thức và nội hàm
của khái niệm.
Thứ hai, về cơ sở thực tiễn: Khái niệm này được xác định như là tấm gương
phản ánh th ực ti ễn thông qua so sánh, đối chi ếu tình hình ho ạt động bảo đảm
quyền lợi ích trong xét xử hành chính của Tòa án qua từng thời kỳ khác nhau cũng
như của các nước trên thế giới và ở Việt Nam.
Thứ ba, về mặt nội dung: Khái ni ệm phải làm rõ đặc điểm của biện pháp
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp thông qua xét xử hành chính tại Tòa án.
Các đặc điểm này vừa phản ánh được các dấu hiệu chung của các biện pháp
bảo đảm pháp lý v ừa có đặc trưng riêng để tạo sự khác bi ệt giữa biện pháp bảo
đảm này với các biện pháp bảo đảm pháp lý nói chung.
29
Thứ tư, vi ệc xây d ựng khái ni ệm trên ph ải bảo đảm khái quát được các
nhóm (loại) các biện pháp cụ thể qua đó có điều kiện để làm sáng tỏ thực tiễn quá
trình tổ chức xét xử hành chính với từng giai đoạn, thủ tục (các khâu) khác nhau
có ý ngh ĩa làm căn cứ để đánh giá xem tác động của các bi ện pháp có hi ệu quả
hay không và đầy đủ hay chưa.
Thứ năm, khái niệm các biện pháp bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp thông
qua xét xử hành chính, vừa phản ánh tri thức chung, vừa đảm bảo yếu tố phù hợp
với quan niệm và thực tiễn tố tụng hành chính và giải quyết các vụ án hành chính
tại Việt Nam.
Một khái niệm chứa đựng đầy đủ các nội dung sẽ có ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng cho việc nghiên cứu và thực hiện đề tài luận án.
2.1.1.1. Khái niệm bảo đảm
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường hay nói đến bảo đảm để hàm ý
một việc gì đó có tính chắc chắn do tự bản thân chúng ta hay người khác thực hiện.
Trong ti ếng Trung: “B ảo” có ngh ĩa là gi ữ gìn, ch ăm sóc hay ph ụ trách,
trông nom. Bảo còn là chế độ chòm xóm, liên gia đình hay tên gọi một chức quan
thời xưa (thái bảo). Từ “Đảm” mang nghĩa gánh vác một gánh nặng, hay thực hiện
nhiệm vụ, hoặc nói về thái độ điềm nhiên, điềm tĩnh; hoặc thể hiện là đồ vật dùng
để chuộc tội, cống tặng. Tiếng Trung khi vi ết chữ đảm bảo dùng hai ch ữ 担 保
[dān bǎo]. Các chữ khác cũng đọc bảo hay đảm nhưng mang các nghĩa khác. Theo
đó, bảo đảm nghĩa là “chăm sóc, giữ gìn nhiệm vụ”. Nghĩa rộng hơn là “đoán chắc
về điều gì đó”. Hiểu theo cách thông thường thì đảm bảo là “gánh vác hoặc nhiệm
vụ giữ gìn, chăm sóc”.
Trong tiếng Anh từ “Ensure” có nghĩa là để chắc chắn hay có các biện pháp
để đạt được các mục đích của sự cam kết, hoặc mang ý ngh ĩa làm cho an toàn
không bị hại.
Trong Từ điển tiếng Việt, thì “bảo đảm” nghĩa là tạo điều kiện để chắc chắn
giữ gìn được, hoặc thực hiện được, hoặc có được những gì cần thiết để thực hiện
một việc nào đó; bảo đảm còn có nghĩa cam đoan chịu trách nhiệm làm một việc
gì đó [127].
30
Như vậy “bảo đảm” có nghĩa là làm cho một việc, một vấn đề có khả năng
thực thi trong th ực tế bằng những biện pháp khác nhau do m ột chủ thể xác định
thực hiện.
2.1.1.2. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức
Quyền và l ợi ích h ợp pháp c ủa cá nhân, t ổ ch ức xu ất phát t ừ nền tảng
quyền con người, quyền công dân. Để tìm hiểu sâu sắc và đưa ra những khái niệm
liên quan đến việc nội dung của luận án chúng ta cần tìm hiểu các vấn đề khái quát
về quyền con người, quyền công dân và sự bảo đảm thực hiện những quyền đó.
Quyền con ng ười là giá tr ị nhân văn cao quý, là tài s ản chung vô giá c ủa
nhân loại và mỗi quốc gia. Bảo đảm quyền con người, bảo vệ quyền, lợi ích của
công dân là một nguyên tắc cơ bản và tối cao của nhà nước pháp quyền và là một
trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong xã hội loài người hiện đại. Vấn đề
này hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm. Sự bảo đảm của một nền dân
chủ, hiệu quả, hiệu lực của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân được th ể hiện qua vi ệc quy ền con ng ười được bảo đảm. Dân ch ủ, sự
thoả mãn và b ảo đảm quyền tự do cá nhân c ủa mỗi công dân là th ước đo ch ất
lượng cuộc sống, trình độ văn minh của các qu ốc gia. Vì v ậy việc bảo đảm các
quyền con ng ười được coi là m ột trong các chu ẩn mực đánh giá trình độ gi ải
phóng con người, sự phát triển xã hội ở mỗi quốc gia. Song để bảo vệ quyền, lợi
ích đó khỏi bị xâm phạm từ phía nhà nước, phía hành pháp thì rõ ràng cần phải có
thiết chế, cơ chế đặc biệt.
“Quyền” là: “điều mà pháp lu ật hoặc xã hội công nh ận cho được hưởng,
được làm, được đòi hỏi” [127, tr.215]. Chúng ta có thể hiểu quyền là những gì mà
pháp luật hoặc xã hội công nh ận cho con ng ười được hưởng. Bản chất của con
người là một thực thể tự nhiên - xã h ội, vì th ế quyền con ng ười cũng vừa mang
tính tự nhiên, vừa mang tính xã h ội. Đồng th ời quy ền của một con ng ười vừa
mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù.
Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở việc quyền con người được
áp dụng ph ổ bi ến về không gian, không h ạn ch ế đối tượng. Tính đặc thù c ủa
31
quyền con người thể hiện ở những đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện của mỗi
quốc gia, mỗi lãnh th ổ có trình độ phát triển khác nhau. Quy ền con ng ười mang
tính xã hội, vừa mang tính giai c ấp sâu sắc, vừa là một giá tr ị của nhân lo ại và
thống nhất với quyền dân tộc cơ bản..
Hành trình phát tri ển của nhân lo ại cũng chính là hành trình đấu tranh để
giải phóng loài ng ười khỏi nô lệ, áp bức, chế ngự thiên nhiên, vươn tới tự do và
hạnh phúc. Trong cu ộc đấu tranh lâu dài đó, mỗi thắng lợi, mỗi bước đi lên của
loài người là một bước tiến khẳng định những giá trị thiêng liêng về công bằng, về
tự do, v ề hạnh phúc, về nh ững quyền của con ng ười, cho con ng ười và vì con
người. Con ng ười là giá tr ị cao quý nh ất, là giá tr ị của mọi cuộc cách mạng và
những tư tưởng tiến bộ của loài người. Bảo vệ quyền con người là sứ mạng cao cả
của các quốc gia tiến bộ. Bởi đó là "những quyền tự nhiên không thể bị tước đoạt
và thiêng liêng của con ng ười" [54, tr.13]. Do v ậy, "sự không hi ểu biết, sự lãng
quên hay sự coi thường quyền của con người là những nguyên nhân duy nhất của
nỗi bất hạnh chung, của tệ hủ bại của các Chính phủ" [54, tr.13].
Các tư tưởng về quyền con người càng ngày càng được hoàn thiện và long
trọng ghi nh ận trong các b ản tuyên ngôn, trong các b ản Hi ến pháp c ủa các t ổ
chức quốc tế, các quốc gia trên thế giới như: Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa k ỳ (1776); Tuyên ngôn nhân quy ền và dân quy ền của Pháp (1789);
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân ch ủ cộng hòa (1945); Tuyên ngôn
thế gi ới về nhân quy ền (1948); Tuyên ngôn v ề nhân quy ền Teheran (1968);
Công ước quốc tế về các quy ền dân sự và chính tr ị, kinh tế, xã hội và văn hóa
ngày 16-12-1966.
Kế thừa và phát triển các giá trị tư tưởng của loài người về tự do, về nhân
quyền, về vai trò tích cực của nhà nước, của Tòa án, của pháp luật trong việc bảo
vệ, bảo đảm quyền con ng ười, quyền tự do của công dân, các nhà kinh điển của
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã xác định vị trí trung tâm c ủa con ng ười, coi con ng ười
vừa là mục đích vừa là trung tâm của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sứ mệnh
vinh quang và cao c ả của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là nhà n ước của con
người, cho con người và vì con người, tự do của mỗi người là tự do của xã hội.
32
Mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân công dân, và các tổ chức khác trong
xã hội là mối quan hệ pháp lý có sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa hai bên chủ
thể. Một bên là Nhà nước (bao gồm các cơ quan Nhà nước, và các ch ủ thể được
Nhà nước trao quyền) và bên kia là cá nhân công dân, hay các t ổ chức. Việc bảo
đảm đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo được quyền con
người phụ thuộc vào nhi ều yếu tố như: pháp lu ật, kinh tế, chính tr ị, văn hoá, tư
tưởng… trong đó bảo đảm về mặt pháp luật là vấn đề rất quan trọng.
Ở Việt Nam vấn đề quyền con ng ười luôn được Đảng, Nhà nước và nhân
dân quan tâm, bảo vệ. Để thực sự có được quyền con người thì trước hết đất nước
phải được độc lập, không bị tác động, chi ph ối của bất kỳ thế lực nào, qu ốc gia
nào. Chính vì điều này mà Đảng ta, Nhà nước ta và nhân dân ta đã quyết tâm hy
sinh tất cả những gì mình có, kể cả xương máu và tính mạng để đánh đuổi các thế
lực thù địch và giặc ngoại xâm để giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thực hiện xây
dựng một ch ế độ mới tươi đẹp, ti ến bộ, công bằng và tôn tr ọng ph ẩm giá con
người. Từ khi nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do thì quyền con người
càng được quan tâm và b ảo đảm. Bằng nhiều văn bản pháp lu ật khác nhau nh ư
Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính…
Nhà nước đã chính thức ghi nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân,
coi đó như những chế định quan trọng và là mục tiêu hướng tới của việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước khác do Qu ốc hội, Hội đồng nhân dân lập ra không
phải là những bộ phận độc lập của quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, để bảo đảm cho
các cơ quan này đủ điều kiện chủ động và tránh được tình trạng lẫn lộn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, hiến pháp đã quy định cho các cơ quan này thực hiện chức
năng hành pháp, tư pháp. Chúng được phân công rành m ạch để tổ chức thực thi
quyền lực nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Nội
dung, chức năng, nhiệm vụ đó được thể hiện, được ghi nhận trong Hiến pháp, trong
các luật và các văn bản pháp luật khác.
Trong quá trình hoạt động của mình hay nói cách khác là trong quá trình tổ
chức thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan nhà nước phải tuân thủ nguyên
33
tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước và trong khuôn khổ của chế độ tập quyền nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Mục đích tối cao của mọi hoạt động của nhà nước là tất cả vì nhân dân mà
phục vụ. Để kiểm tra, kiểm soát các cơ quan nhà nước trong việc tôn tr ọng pháp
luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và để tránh lạm quyền, tình trạng
"lấn sân" giữa các cơ quan nhà nước, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều thiết
lập một bộ máy nhà nước trong đó có sự phân công cụ thể, theo quy định của pháp
luật. Đặc biệt là việc thiết lập các cơ chế kiểm tra, kiểm soát luôn luôn được đề cao
trong đó có các bi ện pháp cụ thể như khiếu nại, tố cáo và gi ải quyết khiếu nại, tố
cáo; hoạt động thanh tra của thanh tra nhà nước, hoạt động xét xử của Tòa án…
Trong bộ máy nhà n ước xã hội chủ nghĩa, hệ thống cơ quan Tòa án th ực
hiện ch ức năng xét xử, hay nói cách khác, xét x ử là ch ức năng cơ bản của hệ
thống Tòa án. Theo Lênin, Tòa án là cơ quan quyền lực, hoạt động của Tòa án là
hoạt động của nhà nước. Tòa án sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện chức
năng cơ bản của mình là chức năng xét xử [119].
Cũng như các chế độ chính trị khác, chế độ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ cũng có nhiều biểu hiện vi phạm pháp luật, cũng có nhiều tranh chấp pháp
lý đòi hỏi phải có sự xét xử của Tòa án k ể cả những vi ph ạm pháp lu ật, những
mâu thuẫn, những tranh chấp pháp lý do các cơ quan hành pháp gây nên. Trong hệ
thống bộ máy nhà n ước, các cơ quan hành chính nhà n ước có một hệ thống sâu
rộng và đồ sộ. Hoạt động của hệ thống này thường xuyên, trực tiếp tác động lên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, động chạm đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ của mọi
người dân - do vậy, khó có thể tránh được những "va chạm", những thiếu sót gây
tác hại đến quy ền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ ch ức gây nên nh ững tranh
chấp, những mâu thuẫn. Do đó, cần phải có sự xem xét khắc phục những vi phạm
đó. Cơ chế giải quyết bảo đảm khách quan các tranh chấp pháp lý nói chung, các
tranh chấp phát sinh giữa chính quyền với công dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
cũng cần phải thông qua hoạt động tố tụng, hoạt động xét xử của Tòa án. Do vậy,
tất yếu dẫn tới sự xác lập thẩm quyền xét xử các khi ếu kiện hành chính cho h ệ
thống Tòa án. Nhu cầu này càng được đặt ra có tính cấp bách khi đòi hỏi phải có
34
sự phân công rành m ạch trong vi ệc th ực thi ba quy ền: lập pháp, hành pháp, t ư
pháp của quyền lực nhà nước tập trung và thống nhất.
Các luận điểm bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác-Lênin là phương hướng, là kim
chỉ nam cho việc xây dựng bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và hoàn
thiện hệ thống và ph ương thức hoạt động của ngành Tòa án nói riêng; trong đó
vấn đề xây dựng Tòa án nh ư là một trong nh ững phương thức hữu hiện để bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ chức.
Trên thế giới, phần lớn các nước đều giao chức năng này cho Tòa án hành
chính. Tổ chức Tòa án hành chính là một bộ phận (tổ chức nhỏ) chuyên biệt trong
hệ thống tư pháp chung (nh ất hệ tài phán) ho ặc do hệ thống Tòa án độc lập với
Tòa án thường, độc lập với hành pháp và lập pháp đảm nhiệm (lưỡng hệ tài phán).
Như vậy, ch ức năng tài phán hành chính, th ực hi ện th ẩm quy ền xét x ử
khiếu kiện hành chính của Tòa án, là m ột trong nh ững biện pháp bảo đảm quan
trọng nhất cho việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn giữa nhà nước với công
dân. Đó là phương pháp tối ưu và tích cực nhằm ngăn chặn các biểu hiện vi phạm
pháp luật gây xâm hại đến quyền con người, quyền, lợi ích, tự do của công dân từ
phía các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hành pháp. Tuy nhiên trên thực
tế tình hình mỗi quốc gia, quá trình hình thành hệ thống Tòa án hành chính là một
con đường với nhiều trở ngại phải vượt qua.
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà
nước ta từ trước tới nay, nhất là trong th ời kỳ đổi mới, luôn coi tr ọng vấn đề con
người. Tư tưởng đó được thể chế hóa tại Điều 50 Hi ến pháp năm 1992: "Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa xã h ội được tôn tr ọng, thể hiện ở các quy ền công dân…" [60]. Hi ến
pháp 2013 cũng đã giành chương II ghi nhận “Quyền con người, nghĩa vụ cơ bản
của công dân”, trong đó phân biệt quyền con người, quyền công dân, nội dung về
quyền con người, quyền công dân càng được làm rõ, hàng lo ạt những quyền mới
của con người đã được ghi nhận. Đặc biệt Hiến pháp khẳng định “Ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm”.
35
Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng, Nhà nước ta
luôn luôn quan tâm và có bi ện pháp ghi nh ận và bảo vệ quyền con ng ười, có cơ
chế thực hiện và đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Với mục tiêu
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực thuộc về
nhân dân, thông qua đó mà nhân dân th ực hiện quy ền làm ch ủ của mình, Nhà
nước ta thường xuyên được đổi mới và hoàn thiện, ngày càng xứng đáng là công
cụ hữu hiệu nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, th ực hiện dân
chủ hóa xã hội chủ nghĩa. Một trong những quyền của công dân được ghi nhận tại
điều 74 Hi ến pháp 2013 là “Công dân có quy ền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp lu ật của cơ quan nhà
nước… Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết
trong thời hạn pháp luật quy định…” [60]. Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định “mọi
người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức cá nhân, có thẩm quyền về
những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Xem xét, gi ải quyết các khi ếu nại, tố cáo của công dân là nh ằm bảo đảm
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cũng là bảo đảm thực hiện quyền con
người ở nước ta.
Với ý nghĩa như vậy, nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến việc tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi công dân th ể hiện những ý ki ến, nguyện vọng và đưa ra
những kiến nghị đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, khiếu nại và tố cáo
các hành vi vi ph ạm pháp lu ật trong cơ quan nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các văn bản
pháp luật về khi ếu nại, tố cáo được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thi ện;
trách nhiệm của các cấp các ngành trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân được đề cao, góp ph ần quan tr ọng trong việc giải quyết các tranh ch ấp giữa
công dân và các cơ quan nhà nước, thiết thực bảo vệ quyền lợi của công dân.
Tuy nhiên, cho đến trước tháng 7 năm 1996, vi ệc giải quyết các khi ếu nại
hành chính là thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước. Mặc dù các cơ
quan này đã có nhiều cố gắng nhưng cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính theo
kiểu "vừa đá bóng - vừa thổi còi" không thể tránh khỏi những hạn chế vốn có của nó.
36
Hoạt động giải quyết khiếu nại như vậy gần với giải quyết khiếu kiện hành
chính nhưng theo thủ tục hành chính lại không do một cơ quan độc lập đảm nhận.
Qua nhiều năm thực hiện cơ chế này cho thấy việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính còn kém hi ệu quả, hiệu lực thấp và ch ưa thực sự dân ch ủ. Thực chất giải
quyết khiếu nại hành chính là giải quyết một loại tranh chấp, trong đó đối tượng bị
kiện luôn là c ơ quan nhà n ước hoặc cán bộ, công ch ức trong quá trình th ực thi
công vụ. Cơ quan hành chính ho ặc cán bộ, công chức bị kiện lại được giao thẩm
quyền gi ải quy ết tranh ch ấp (th ực hiện quyền tài phán), nh ư vậy cơ quan hành
chính nhà nước vừa là ng ười bị kiện vừa là ng ười xử kiện. Trong qu ản lý hành
chính nhà nước, công dân là đối tượng bị quản lý, vốn là một bên trong quan hệ có
tính chất bất bình đẳng với cơ quan hành chính nhà n ước (quan hệ quyền lực -
phục tùng) nên khi x ẩy ra tranh ch ấp lại càng tr ở lên yếu thế hơn và ch ỉ có th ể
trông chờ vào thiện ý của cơ quan hành chính nhà n ước, khiếu nại của công dân
chỉ có tính ch ất "kêu nài". Trong điều kiện như vậy cơ quan hành chính có th ẩm
quyền dễ rơi vào tình trạng thiếu vô tư, khách quan, dễ vi phạm pháp luật, dễ lạm
dụng quyền nên khó bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một trong những
nhiệm vụ to lớn có ý ngh ĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
của đất nước và tiến bộ xã hội; xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh". Tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân đòi hỏi có một loạt các biện pháp đồng bộ mà trọng tâm là hoạt động của bộ
máy nhà nước, trong đó có các cơ quan giải quyết khiếu nại của công dân.
Nghị quy ết Hội ngh ị lần th ứ VIII Ban Ch ấp hành Trung ương Đảng về
"tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính…" [26] đã chỉ rõ cần thiết phải
xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà trong sạch có hiệu lực, hiệu quả, xây dựng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội. Để đạt được những mục tiêu trên, một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là đổi mới phương thức giải quyết các
khiếu kiện của công dân t ừ ch ỗ do các c ơ quan hành chính đảm nhiệm chuyển
37
sang các cơ quan tài phán độc lập, hoạt động theo một trình tự thủ tục tố tụng chặt
chẽ, bảo đảm gi ải quy ết nhanh chóng có hi ệu qu ả, hi ệu lực các v ụ ki ện hành
chính. Nghị quyết chỉ rõ "Đẩy mạnh giải quyết các khiếu kiện của dân… Xúc tiến
việc thiết lập hệ thống Tòa án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với
các quyết định hành chính…" [26].
Như vậy, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra các tiền
đề, điều kiện để cá nhân, con người thực hiện được các quyền của họ đã được ghi
nhận. Các bảo đảm đó trước hết là bảo đảm pháp lý, kinh tế, xã hội và tổ chức.
2.1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
trong xét xử các vụ án hành chính
Khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử
các vụ án hành chính tại Tòa án là một phạm trù khoa học pháp lý có vai trò vô cùng
quan trọng, có ý nghĩa là cơ sở lý luận cho việc xem xét nghiên cứu các vấn đề, các
nội dung liên quan đến xét xử hành chính, đối tượng xét xử hành chính tại Tòa án.
Thứ nhất, vấn đề liên quan tr ực tiếp đến nội hàm của bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính của Tòa án chính là
yếu tố bảo đảm. Theo từ điển phổ thông thì bảo đảm gồm bảo lĩnh và đảm nhận.
Nội dung bảo lĩnh và trong tr ường hợp này được hiểu là ch ức trách, nhi ệm vụ,
trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức của Tòa án. Chức
năng, nhiệm vụ của Tòa án được giới hạn trong phạm vi thẩm quyền hoạt động do
pháp luật quy định.
Như trên đã phân tích, sứ mệnh cao cả của Nhà nước nói chung và Tòa án -
một thiết chế quan trọng của Nhà nước nói riêng là bảo vệ công lý, bảo vệ giá trị
cao quý và thiêng liêng nh ất của xã hội, của loài ng ười chính là con ng ười, là
quyền con người, là nhân quyền.
Quyền con người, nhân quyền là gốc, là cơ sở của quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức. Do vậy, yếu tố trách nhiệm, chức năng, nhiệm vụ xét xử hành
chính của Tòa án chính là nét căn bản nhất của sự bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức trong xét xử của Tòa án. Yếu tố cơ bản này được hình thành
bởi sự ủy thác của xã hội, được Nhà nước giao quyền và đảm trách, sự nhận lĩnh
38
nghĩa vụ cao quý này của chính cơ quan tư pháp, của chính Tòa án là một nội dung
căn bản của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Với cách hi ểu như vậy, chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ, trách nhi ệm của
Tòa án trong xét xử hành chính, trong xem xét đánh giá quyền hành pháp khi quan
hệ với cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án hành chính của Tòa án được thực
hiện thông qua phạm vi thẩm quyền, thông qua hàng loạt các hoạt động khác nhau
mà chủ yếu là hoạt động tố tụng.
Như vậy, yếu tố bảo đảm, thông qua chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của
Tòa án trong xét xử, đánh giá quyền hành pháp khi quan hệ với cá nhân, tổ chức
chính là một nội dung cơ bản của khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án hành chính của Tòa án.
Yếu tố bảo đảm, thông qua ch ức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của Tòa án
luôn có mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố nội tại khác nh ư phương pháp, cách
thức tổ chức của Tòa án, giới hạn thẩm quyền và cách thức hoạt động của Tòa án.
Cũng chính vì vậy mà có quan niệm cho rằng, sự bảo đảm của Tòa án là sứ mệnh,
là nghĩa vụ, nhiệm vụ của Tòa án hoặc có quan niệm nữa lại cho rằng sự bảo đảm
của Tòa án chính là danh dự, là sự nhân danh công lý, nhân danh nhà nước để xem
xét và phán quy ết về tính h ợp pháp (hay b ất hợp pháp) của các hành vi công
quyền trong xét xử vụ án hành chính hành chính tại Tòa án.
Thứ hai, một nội dung khác của khái niệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án hành chính t ại Tòa án là ho ạt động
xem xét tính h ợp pháp của các ho ạt động công quy ền (quy ết định hành chính,
hành vi hành chính…) b ị khởi kiện. Với nội dung này, để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Tòa án phải tiến hành các hoạt động tố tụng khác
nhau để tìm ra các căn cứ, cơ sở, tìm ra chuẩn mực chân lý…để đánh giá tính trái
hay không trái pháp lu ật của hành vi công quy ền, đưa ra phán quy ết công nh ận
hay hủy (đình chỉ) hành vi công quy ền, qua đó mà bảo vệ công lý, b ảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Hoạt động theo luật tố tụng của Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính của Tòa án, như vậy rõ ràng là một
nội dung, một yếu tố cốt lõi của bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức.
39
Hoạt động của Tòa án có nhiều loại khác nhau như công tác tổ chức nội bộ,
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, công tác quản lý ngành, hoạt động kiểm
tra, thanh tra… nh ưng chỉ có lo ại hoạt động tố tụng thuộc chức năng xét xử của
Tòa án mới được coi là ph ương th ức bảo đảm quy ền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức. Cho nên, gắn với chức năng xét xử (yếu tố cơ bản của sự bảo đảm)
các hoạt động tố tụng của Tòa án được xem là yếu tố nội tại, cần thiết tham gia
cấu thành khái ni ệm của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ
chức trong xét xử hành chính tại Tòa án.
Thứ ba, một nội dung cơ bản trong quan hệ bên ngoài của yếu tố chức năng,
trách nhiệm, hoạt động của sự bảo đảm chính là mục đích của chính các yếu tố đó.
Mục đích xét xử hành chính của Tòa án là bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của tập
thể; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực hành pháp.
Để hướng tới mục đích này, thông qua ch ức năng xét xử, thông qua các
hoạt động tố tụng, Tòa án có trách nhi ệm xem xét và phán quy ết tính hợp pháp
của các hành vi công quyền (quyết định hành chính, hành vi hành chính).
Như vậy, chỉ tính riêng yếu tố mục đích của sự bảo đảm cũng đã liên quan
đến nhiều vấn đề, nhiều nội dung cụ thể và đều liên quan việc xác định khái niệm
của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành
chính của Tòa án.
Từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa sau:
“Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong hoạt động
xét xử hành chính của Tòa án là việc Tòa án trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của mình tiến hành xem xét và phán quy ết tính hợp pháp (hay bất
hợp pháp) đối với các hành vi công quy ền (quyết định hành chính, hành vi hành
chính được ban hành, th ực hiện trong quá trình qu ản lý hành chính nhà n ước)
theo quy định của pháp luật tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức”.
2.1.2. Đặc điểm của bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức trong xét xử vụ án hành chính của tòa án
Đặc điểm của sự bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ ch ức
trong xét xử hành chính của Tòa án vừa có nh ững dấu hiệu chung của việc đảm
40
bảo quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức thông qua xét xử các vụ án Dân sự, Hình
sự, Kinh tế, Lao động… lại vừa có dấu hiệu riêng mang tính đặc thù.
Việc xác định đặc điểm của bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức trong xét xử vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng
mô hình, thiết chế xét xử hành chính cũng như xác định tính chất, nội dung, hình
thức hoạt động xét xử vụ án hành chính.
Trước hết, bảo đảm quyền, lợi ích h ợp pháp c ủa cá nhân, t ổ chức trong
xét xử hành chính t ại Tòa án là trên c ơ sở thẩm quyền xét x ử hành chính, Tòa
án có quy ền giải quyết khiếu kiện của cá nhân, t ổ chức mà ng ười bị kiện luôn
luôn là cơ quan nhà n ước hoặc cán bộ, công ch ức có th ẩm quyền trong các c ơ
quan nhà nước.
So với vi ệc xét x ử trong trong các v ụ án khác nh ư dân s ự, kinh t ế, lao
động… nếu có yếu tố nhà nước tham gia (c ơ quan nhà nước, cán bộ công chức)
thì họ có th ể là ng ười khởi kiện, người bị kiện hay người có quyền, lợi nghĩa vụ
liên quan. Nhưng trong vụ án hành chính ch ỉ có cơ quan nhà nước, cán bộ công
chức mới là người bị kiện vì chỉ có họ mới có thể có nh ững hành vi công quy ền
mà nếu trái pháp luật gây thiệt hại đến các đối tượng có liên quan thì mới bị công
dân phản ứng lại thông qua việc khởi kiện vụ án hành chính.
Thứ hai, bảo đảm quyền, lợi ích hợp thông qua xét x ử hành chính tại Tòa
án có đối tượng xét xử hành chính là quyết định hành chính, hành vi hành chính -
các hành vi công quyền.
Tùy vào điều kiện và truyền thống pháp lý của mỗi quốc gia mà người ta có
thể xác định những hành vi công quyền nào là thuộc đối tượng xét xử hành chính.
Tuy nhiên, phần lớn các nước trên thế giới đều có chung phạm vi đối tượng xét xử
hành chính của chính quyền, của cán bộ công chức khi thừa hành công vụ.
Ở nước ta, Luật tố tụng hành chính quy định các nhóm quyết định, hành vi
sau là đối tượng xét xử hành chính:
1. Khi ếu ki ện quy ết định hành chính, hành vi hành chính, tr ừ các quy ết
định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh
41
vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các
quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công ch ức giữ chức vụ từ
Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh.
Thứ ba, trong xét xử hành chính, người bị kiện không được quyền phản tố.
Khác với án dân sự, kinh doanh thương mại, người bị kiện có thể trở thành người
khởi ki ện, bị đơn thành nguyên đơn (ph ản tố). Nh ưng trong vụ án hành chính
không có hiện tượng đó đó vì Tòa án chỉ đánh giá xem hành vi công quyền là trái
hay không trái pháp luật. Nếu trái thì Tòa tuyên hủy, đình chỉ, nếu không thì tuyên
bác yêu cầu khởi kiện của người bị kiện.
Thứ tư, một điểm khá nổi bật là thông qua xét xử hành chính tại Tòa án để
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa án đã thiết lập địa vị bình
đẳng trong quan hệ tố tụng hành chính mà tr ước đó trong quan hệ quản lý hành
chính, công dân bao giờ cũng là đối tượng bị quản lý. Quan hệ này được xác lập
trên mối quan hệ "quyền lực - ph ục tùng" tức là mối quan hệ không bình đẳng
giữa người quản lý và người bị quản lý.
Đây là đặc biệt quan tr ọng nhất xác định ranh gi ới giữa quan hệ tố tụng
hành chính, quan hệ tài phán hành chính với quan hệ quản lý hành chính.
2.2. VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền công dân ở nước ta đã đạt được những
thành tựu cơ bản và có ý nghĩa. Tuy vậy, ở một số lĩnh vực, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân được pháp luật bảo vệ chưa được thực hiện nghiêm chỉnh và
đầy đủ, dẫn đến hậu quả là nhân quyền và dân quyền bị vi phạm. Có nơi, có lúc sự
vi phạm xảy ra là nghiêm trọng.
42
Nếu một công dân vi ph ạm các quy ền được ghi trong Hi ến pháp của một
công dân khác thì việc sử dụng pháp luật để bảo vệ cho công dân bị xâm phạm về
quyền và lợi ích đã được các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước thực hiện kịp
thời và có hiệu quả. Nhưng khi người vi phạm chính là cơ quan nhà nước hay bản
thân cán bộ, nhân viên nhà nước những người được nhà nước trao quyền vi phạm
trong khi thi hành công vụ thì sự việc lại trở nên khác đi.Những vi phạm này được
thể hiện dưới các hình th ức hành động như: lạm quyền, lộng quyền, vượt quyền,
lợi dụng quyền lực, chẳng hạn: tự đặt ra các kho ản thu bu ộc dân phải đóng góp,
ban hành những điều ngăn cấm ngang ngược và phi lý. Các vi phạm này cũng thể
hiện dưới dạng không hành động nh ư làm nh ững công vi ệc mà pháp lu ật bu ộc
phải làm như không cấp giấy phép, không áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành
vi côn đồ, hành vi phạm tội của bọn tội phạm, không thi hành án, không áp dụng
các biện pháp bảo vệ, phòng chống thiên tai, dịch bệnh…
Việc khiếu nại, khiếu kiện bị tồn đọng nhiều, phần chính và đa số là những
khiếu nại, khiếu kiện của nhân dân đối với các hành vi vi ph ạm pháp luật của cơ
quan nhà nước, của cán bộ, nhân viên nhà nước.
Trên thực tế, trong đấu tranh chống hành vi vi phạm của bản thân cơ quan
nhà nước, của cán bộ, nhân viên nhà nước, nhà nước đã tổ chức thành lập hệ thống
các cơ quan Thanh tra nh ư Thanh tra nhà n ước, Thanh tra chuyên ngành, Thanh
tra nhân dân. Đồng thời pháp luật cũng quy định các chế định giám sát như giám
sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, giám sát của Tổ chức Mặt trận tổ
quốc và của các đoàn thể quần chúng.
Luật khiếu nại, Luật Tố cáo đã được ban hành và có hiệu lực trong đời sống,
nhưng cho cho đến nay, công việc giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn chưa thu được
kết quả như mong muốn. Công tác thanh tra, giám sát rơi vào tình trạng phát hiện vi
phạm thì nhiều nhưng giải quyết được vi phạm thì rất ít, hoặc rất khó xử lý.
Bên cạnh các hình thức nêu trên, trong hệ thống pháp luật hành chính Việt
Nam cũng có những quy định nhiệm vụ cấp trên phải luôn kiểm tra, giám sát công
việc của cấp dưới. Tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát của cấp trên đối với
cấp dưới trong nhiều trường hợp tỏ ra hiệu lực hơn so với công tác thanh tra, giám
43
sát. Đó là đối với trường hợp khi cấp trên công tâm trong công vi ệc điều hành,
giám sát. Ngược lại, khi trong các hành vi vi phạm có mối liên quan nhân quả giữa
cấp trên với cấp dưới thì các hi ện tượng ô dù, bao che l ập tức xảy ra. Vi ệc đấu
tranh phát hiện và khắc phục các vi ph ạm của cơ quan và cán b ộ, nhân viên nhà
nước trong các trường hợp này thật sự là đã “húc vào bức tường đá”. Công tác đấu
tranh chống và ng ăn ng ừa các hành vi l ạm quy ền, lộng quy ền, vượt quy ền, lợi
dụng quy ền lực ho ặc dung túng, bao che ho ặc không hành động trong nh ững
trường hợp pháp luật bắt buộc phải hành động của các cơ quan quản lý nhà nước,
của cán bộ, nhân viên nhà nước gặp phải nhiều khó kh ăn, trở lực, là một vấn đề
nan giải xảy ra không chỉ ở nước ta. Nhiều nước trên thế giới có nền hành chính
quốc gia khá phát triển cũng gặp phải những vấn đề tương tự.
Chính vì lẽ đó phương thức bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
tổ chức bằng con đường xét xử của Tòa án là một nội dung chính trị pháp lý có vai
trò vô cùng quan trọng. Vai trò đó thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nh ất, Toà án là công c ụ có hi ệu lực và k ết qu ả cao trong b ảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính và
trong đấu tranh ch ống và ng ăn ch ặn các hành vi vi ph ạm của các cơ quan nhà
nước và cán bộ, nhân viên nhà nước trong khi thi hành công vụ.
Có nhiều quan điểm cho rằng: Tòa án là một nhánh quyền lực có vị trí đặc
biệt quan tr ọng trong Nhà n ước pháp quy ền, nhưng đây chỉ là nhánh quy ền lực
yếu hơn so với hai nhánh quyền lực còn lại là lập pháp và hành pháp. Lập pháp là
cơ quan có ch ức năng làm lu ật. Lập pháp có quy ền ấn định các hành x ử của xã
hội. Hành pháp là cơ quan thi hành, thực hiện pháp luật nên hàng ngày, hàng giờ
tác động vào đời sống của con người hay nói như Hegel là "hành pháp có quan hệ
một cách trực tiếp hơn với cái đặc thù trong xã hội công dân và thực hiện lợi ích
phổ biến ở bên trong những mục đích đặc thù đó" [56, tr.367]. Hamilton thì nhận
xét rằng "Ngành hành pháp không những kiểm soát tài chính mà lại có quyền quy
định các lu ật lệ chi ph ối sự sinh ho ạt của các công dân", Hamilton l ập lu ận:
"Ngành tư pháp, trái lại, không có quyền sử dụng vũ lực hoặc quyền kiểm soát tài
chính, không có quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh của xã hội, và cũng không có
44
quyền quyết định tích cực nào cả. Có thể nói rằng nhánh tư pháp vừa không có lực
lượng lại không có ý chí, mà ch ỉ có phán đoán mà thôi, và cần dựa trên sự trợ tá
của ngành hành pháp mới có thể thi hành được quyết định của trí phán đoán của
mình". Điều đó cho thấy, với vị trí của mình, Tòa án ít có nguy c ơ lạm quyền và
cũng ít nguy hiểm đến các quyền, tự do của con người hơn so với quyền lập pháp
và hành pháp. Nói như vậy, không có nghĩa Tòa án là một ngành quyền lực vô hại
trong bộ máy nhà nước. Ngược lại, Tòa án vẫn có khả năng làm tổn hại cho nền
công lý quốc gia khi họ lạm dụng chính quyền lực của mình để mưu cầu lợi ích cá
nhân. Tuy đối tượng xâm ph ạm chỉ là một bộ phận đặc biệt trong xã h ội, đó là
những đương sự, bị can, bị cáo ra trước công đường nhưng hậu quả của việc lạm
quyền này lại vô cùng nghiêm trọng, bởi lẽ nó sẽ làm trật tự xã hội suy giảm, công
chúng sẽ đánh mất niềm tin vào công lý, vào bộ máy nhà nước.
Tác giả Nguyễn Đăng Dung cho rằng, thể chế Tòa án đã cung cấp cho xã
hội một phương pháp xác định sự thật và sự công bằng trong các hành động của tư
nhân và nhà n ước trên ba ph ương diện: một là, đảm bảo sự bình ổn cho xã h ội,
tránh sự trả thù dã man gi ữa con ng ười với con ng ười; hai là, cùng v ới sự phát
triển của kinh tế và sự phồn thịnh của xã hội, chẳng có cơ chế nào quan trọng hơn
hệ thống tư pháp để giải quyết các tranh ch ấp giữa các doanh nghi ệp, các công
dân và các c ơ quan nhà n ước, làm sáng t ỏ những điều mơ hồ của pháp lu ật và
những quy định buộc phải phục tùng; ba là, chỉ có hệ thống tư pháp mới có quyền
chính thức phán quyết sự hợp pháp của các hoạt động của hành pháp và lập pháp
cũng như hành vi của công dân. Tư pháp cũng chính là một trong những biện pháp
giới hạn quyền lực nhà nước, bảo vệ nhân quyền [17, tr.612].
Thực tế cho thấy khi người ta có quy ền lực trong tay, người ta luôn có xu
hướng lạm dụng quyền lực, vi phạm nhân quyền. Để chống lại mọi hành vi cưỡng
bức của công quyền, người ta nghĩ ra rất nhiều phương thức, trong đó có phương
thức trao cho Tòa án nh ững quyền năng đặc biệt. Dù ngành l ập pháp ban hành
những quy tắc hiến định và th ủ tục cho Tòa án, ngành hành pháp có quy ền chỉ
định các th ẩm phán nh ưng không một cá nhân, tổ chức nào kể cả Chính ph ủ và
Quốc hội có quyền chỉ thị cho thẩm phán hoặc bãi chức, miễn chức của thẩm phán
45
vì lý do bất đồng quan điểm. Trên tất cả các điều đó, nguyên tắc cao nhất là tính
độc lập của Tòa án. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của nền
tư pháp trong nhà n ước pháp quy ền. Tư pháp có độc lập thì mới đảm bảo được
tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo được nguyên tắc phân quyền và
có kh ả năng ki ểm soát, gi ới hạn quy ền lực nhà n ước và c ũng là b ảo đảm các
quyền con người.
Tòa án trong nhà nước pháp quy ền có nhiệm vụ bảo vệ địa vị tối cao của
Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ giá trị thiêng liêng và hiệu quả của pháp luật. Đó là
pháp luật của nhân dân chứ không phải của thiểu số người nắm quyền. Khi được
đa số công dân thừa nhận thì nó trở thành quy tắc xử sự chuẩn mực trong xã hội.
Điều đó đồng nghĩa với việc vi phạm các quy tắc đó là vi phạm nhân quyền. Bảo
vệ pháp lu ật là vai trò quan tr ọng của Tòa án. B ất cứ ai cho r ằng quyền lợi của
mình bị cơ quan công quy ền vi ph ạm đều có th ể kh ởi kiện ra tòa. V ới tư cách
công dân, người đó được pháp luật bảo hộ và họ có th ể giải quyết mọi xung đột
trước Tòa án. Bởi chỉ riêng có thiết chế này mới có quyền cưỡng chế các cơ quan
khác của nhà nước thông qua các cuộc phán xử và cũng chỉ duy nhất nó có quyền
chính thức phán quy ết về sự hợp pháp của những hoạt động của các ngành l ập
pháp và hành pháp. Chỉ có tư pháp là ngành quyền lực độc nhất giữ cho hai ngành
còn lại phải chịu trách nhiệm về những quyết định của họ đồng thời củng cố niềm
tin cho toàn xã hội.
Do vậy, từ trước tới nay, người ta đã nghiên cứu tìm ra nhiều biện pháp đảm
bảo cho Tòa án được hoạt động đúng với mục đích bảo vệ quyền con người, an ninh,
trật tự xã hội. Từ đó hình thành nên các quy định về luật thủ tục cho phép Tòa án có
quyền xét xử mọi hành vi phạm pháp và mọi tranh chấp phát sinh trong xã hội từ
những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động kinh tế, hành chính cho
đến các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Phán quyết của Tòa án không phải
là sự phán quy ết của cấp trên đối với cấp dưới trong qu ản lý hành chính và càng
không phải là hoạt động trung gian, hòa giải và dàn xếp là đặc trưng trong lĩnh vực
quan hệ hợp đồng kinh tế. Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh nhà
nước áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các tranh chấp, xét xử các vi phạm pháp
46
luật cụ thể. Hoạt động xét xử có thể dẫn đến kết quả công dân, pháp nhân, các tổ chức
được hưởng các quyền, lợi ích hoặc gánh chịu các nghĩa vụ nhất định.
Tòa án khi xét xử một vụ việc cụ thể phải tuân theo những trình tự, thủ tục
luật định một cách nghiêm ngặt, không được tùy tiện bỏ một thủ tục nào. Chính vì
vậy, phán quyết của Tòa án có hiệu lực bắt buộc, bản án và quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi
công dân tôn tr ọng. Mọi ch ủ th ể liên quan ph ải nghiêm ch ỉnh ch ấp hành phán
quyết của Tòa án. Không một cơ quan, tổ chức hay một cá nhân nào có quyền sửa
phán quyết đó. Ở Việt Nam, vấn đề này đã được ghi nh ận thành nguyên tắc tại
Điều 136 Hiến pháp năm 1992: “Các bản án và quy ết định của Toà án nhân dân
đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Thứ hai, Toà án là công cụ đấu tranh có hiệu quả trong việc nâng cao trình
độ và năng lực quản lý xã hội của các cơ quan và cán bộ, nhân viên nhà nước.
Tòa án có ch ức năng khác với cơ quan th ực hi ện quy ền lập pháp, hành
pháp, Tòa án là cơ quan bảo vệ pháp luật trước những hành vi vi phạm pháp luật,
góp phần bảo vệ tính thiêng liêng, hiệu lực và sức mạnh của luật pháp. Với chức
năng này, Tòa án cũng chính là cơ quan có khả năng cao nhất trong việc giới hạn
quyền lực nhà nước, bảo vệ nhân quyền.
Công lý là các chuẩn mực đạo đức xã hội mà pháp luật có nhiệm vụ duy trì
và bảo vệ. Hoạt động xét xử là hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý. Tòa án không
chỉ phán xét tính hợp pháp mà còn cả tính đúng đắn của hành vi. Vì vậy, ngoài căn
cứ pháp luật, khi xét xử, tòa án có căn cứ vào công lý. Biểu hiện của công lý chính
là sự công bằng, khách quan, vô tư và tình người. Ở Anh quốc, một quốc gia theo
luật Common law, ngoài hệ thống luật án lệ thì họ còn xét xử theo luật công bình
(equity). Nguyên tắc xét xử là mọi phán quy ết đều phải nhân danh công lý. V ới
những quốc gia theo luật Châu Âu lục địa, tuy xét xử theo hệ thống luật thực định
nhưng công lý vẫn phải đảm bảo với mục đích với mọi phán quyết đều dẫn đến sự
công bằng, khách quan, vô tư. Quy phạm pháp luật có thể là cứng nhắc, máy móc
47
và không thể quy định hết cho các trường hợp cụ thể. Tòa án nhân danh công lý,
áp dụng pháp lu ật linh ho ạt để sao cho công b ằng không bị bóp méo theo điều
cứng nhắc, đóng khung của pháp lu ật. Pháp lu ật và công b ằng là hai khái ni ệm
không hoàn toàn đồng nhất. Pháp luật đôi khi chưa phải là công bằng nhưng trong
xét xử phải đảm bảo công bằng.
Sự khác nhau gi ữa Nhà nước pháp quyền và các hình th ức nhà nước khác
dưới chế độ độc tài, chuyên ch ế là các quy ền, lợi ích chính đáng của con ng ười
không thể bị xâm phạm dưới bất kỳ hình thức nào, ngược lại, nó còn được Tòa án
bảo vệ khỏi sự can thiệp không cần thiết của chính quyền.
Toà án bằng phán quyết của mình đưa ra sự phán xét về tính hợp hiến, hợp
pháp đối với các vấn đề trong vụ án hành chính. Sự phán xét này, cũng có thể coi
đó là nh ững đánh giá, nhận xét chính th ức về năng lực, trình độ trong th ực hiện
chức năng, nhiệm vụ của các ngành, các cấp trong bộ máy nhà nước.
Với các phán quyết của Toà án hành chính, các cơ quan quản lý nhân sự sẽ
có căn cứ rõ ràng hơn trong việc đánh giá năng lực, trình độ chuyên môn đối với
cán bộ, nhân viên nhà nước. Việc thay thế những cán bộ, nhân viên nhà nước kém
năng lực, kém trình độ sẽ có tính thuyết phục cao. Đồng thời, đó cũng là biện pháp
nâng cao tinh th ần trách nhi ệm, nâng cao trình độ, năng lực quản lý của các cơ
quan, cán bộ, nhân viên nhà nước trước nhân dân. Nhìn nhận ở phạm vi rộng hơn
cả về không gian và thời gian thì vai trò của Tòa án trong xét xử vụ án hành chính
không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích trực tiếp cá nhân, tổ chức trực tiếp có liên quan
trong vụ án, mà còn là c ăn cứ để xây dựng lòng tin c ủa xã hội vào sự nghiêm
minh, công bằng của pháp luật.
Có thể cho rằng: ở nơi nào Nhà n ước chưa hoặc chậm tổ chức, thành lập
các Toà án hành chính với đầy đủ những tính chất và đặc điểm của một loại Toà
án, chứ không phải là các Viện hành chính, thì việc đấu tranh chống tha hoá, biến
chất trong cán bộ, công nhân viên nhà nước, chống lại nạn hách dịch, tính trì trệ,
bảo thủ, ăn bám xã hội của bộ máy hành chính s ẽ còn gặp nhiều khó kh ăn. Bên
cạnh việc giáo dục đạo đức phẩm chất, nhất thiết phải áp dụng các biện pháp hành
chính, đặc biệt là biện pháp chế tài của Toà án. Sự thiếu vắng của các Toà án hành
48
chính trong hệ thống các Nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây chính là một trong
các nguyên tắc làm cho nhân dân thiếu lòng tin tưởng ở tinh thần phục vụ của bộ
máy nhà nước cách mạng do chính nhân dân tạo lập nên. Nó gây nên sự xa cách
giữa Nhà nước với nhân dân. Nhà nước do vậy không nhận được sự bảo vệ, ủng
hộ của nhân dân khi lâm vào cơn khủng hoảng.
Thứ ba, Toà án có vai trò to l ớn trong vi ệc tạo lập và duy trì m ột chế độ
kỷ cương, pháp chế nghiêm minh trong hoạt động của bản thân các cơ quan nhà
nước và góp ph ần vào vi ệc đổi mới và hoàn thi ện không ng ừng nền hành chính
quốc gia.
Sự nghiệp quản lý nhà nước, quản lý xã hội không thể tiến hành một cách
trôi chảy, có hiệu quả nếu bản thân nền hành chính quốc gia ở vào tình trạng yếu
kém. Khái niệm về nền hành chính quốc gia chứa đựng trong nó nhiều nội dung,
hoặc nói một cách khác là do nhi ều nhân tố tạo thành như tổ chức bộ máy hành
chính, quy chế, chế độ, trình tự, thủ tục hoạt động hành chính, chất lượng - trình
độ, năng lực, phẩm chất của cán bộ, viên chức nhà nước…
Một trong các biện pháp đấu tranh có hiệu quả làm cho nền hành chính trở
nên năng động, nhạy bén là phải kịp thời khắc phục và loại trừ các sai phạm trong
việc ra quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính. Chính vì vậy, việc
xét xử các vụ án hành chính của tòa án nếu khẩn trương, ngắn gọn sẽ có tác dụng to
lớn. Sự tuân thủ các quy tắc xét xử cũng là nhằm mục đích bảo vệ quyền con người
của công dân, tránh việc lợi dụng quyền lực của chính Tòa án, cũng như để cho bản
thân Tòa án tránh được mọi áp lực từ phía các quan chức nhà nước.
Để cho nền hành chính qu ốc gia hoàn thi ện, đủ sức đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu quản lý hành chính trong thời đại có sự phát triển nhanh chóng và to lớn
về khoa học kỹ thuật, phải kịp thời đấu tranh ngăn ngừa và phòng chống có hiệu
quả các biểu hiện tha hoá mang tính quy luật của những con người khi được giao
nắm giữ và thi hành quy ền lực. Và vi ệc đó sẽ chỉ được thực hiện một cách tốt
nhất thông qua xét x ử vụ án hành chính t ại tòa án. T ừ bản án n ơi pháp đình,
những quyết định hành chính trái pháp lu ật, những cán bộ công chức, viên chức
nhà nước lộng quyền, lạm quyền, vượt quyền, lợi dụng quyền lực trong thi hành
49
công vụ gây thiệt hại cho cá nhân, t ổ chức sẽ bị xử lý nghiêm minh… xã h ội sẽ
được thuy ết ph ục về sự công b ằng của pháp lu ật thông qua nh ững hành động
thực tế.
2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN, CƠ CẤU VÀ NỘI DUNG BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
2.3.1. Các điều kiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức trong xét xử vụ án hành chính
Nhà nước Việt Nam là Nhà n ước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì
dân. Những quy định pháp luật bảo vệ quyền công dân đã được ban hành, áp dụng
từ ngày chính quy ền cách mạng được thành lập. Theo th ời gian và sự phát tri ển
mọi mặt của đất nước, quyền này được thực thi ngày càng rộng rãi về nội dung và
gia tăng sự chắc chắn của các biện pháp bảo vệ.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013, trong Ch ương về "Quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân" có nhi ều điểm mới về nhận thức và cách thức
thể hi ện (k ỹ thu ật lập hi ến). Chương "Quyền và Ngh ĩa vụ cơ bản của công
dân" từ Chương V trong Hiến pháp năm 1992 về Chương II trong Hiến pháp sửa
đổi năm 2013. Trách nhiệm của Nhà nước và những đảm bảo của Nhà nước trong
việc ghi nh ận, tôn tr ọng, thực hiện và bảo vệ quyền con ng ười, quyền công dân
được quy định đầy đủ trong các điều lu ật. Ngoài nguyên t ắc nh ư: “Quyền con
người, quyền công dân v ề chính tr ị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã h ội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp lu ật” (Điều 14); ở hầu
hết các điều đều quy định trách nhi ệm và đảm bảo của Nhà n ước nh ư Điều
17: “Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”; Điều 28: “Nhà nước tạo
mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh
bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”…
Hiến pháp năm 2013 khẳng định mạnh mẽ mọi công dân Việt Nam đều có
quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Bên cạnh các quyền khác, thì mọi người có quyền khiếu nại, tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp
50
nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về
vật ch ất, tinh th ần và ph ục hồi danh dự theo quy định của pháp lu ật. Ng ười bị
buộc tội phải được Tòa án xét x ử kịp th ời trong th ời hạn lu ật định, công bằng,
công khai và được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự
luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa cho mình.
Từ các quy định trên, Hiến pháp 2013 đã quy định cơ chế thực hiện như sau:
- Quyền và ngh ĩa vụ cơ bản của công dân được hệ thống cơ quan quy ền
lực Nhà n ước đảm bảo th ực hi ện. Tại điều 6 Hi ến pháp 2013 đã quy định:
“Nhân dân th ực hiện quyền lực nhà nước bằng dân ch ủ trực tiếp, bằngdân chủ
đại di ện thông qua Qu ốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các c ơ quan
khác của Nhà nước”.
Quốc hội là cơ quan quy ền lực Nhà nước, cơ quan đại diện cao nh ất do
nhân dân bầu ra, là c ơ quan bảo đảm thực hiện các quy ền con ng ười, quyền và
nghĩa vụ công dân. Quốc hội bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân bằng các phương thức sau:
+ Qu ốc hội xây dựng Hi ến pháp và pháp lu ật ghi nh ận, ph ản ánh ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, th ể chế hoá các quy ền và ngh ĩa vụ cơ bản của công
dân. Đây là hoạt động xác lập mối quan hệ cơ bản hữu cơ gắn bó giữa Nhà nước
và công dân. Các mối quan hệ được Hiến pháp ghi nhận là cơ sở pháp lý cao nhất
cho sự ra đời của các mối quan hệ pháp lý cụ thể giữa Nhà nước và công dân.
+ Thực hiện giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của tất
cả các chủ thể. Nhất là các chủ thể nắm giữ quyền lực Nhà nước.
+ Là cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân thực hiện quyết định những
vấn đề quan trọng nhất của đất nước.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương đại diện
cho ý chí, nguy ện vọng và quy ền làm ch ủ của nhân dân địa phương. Với vị trí
đó, Hội đồng nhân dân các cấp cũng là yếu tố rất quan trọng trong cơ chế pháp lý
đảm bảo th ực hi ện quy ền và ngh ĩa vụ pháp lý c ủa công dân trên lãnh th ổ địa
phương mình.
51
- Quyền và ngh ĩa vụ pháp lý c ủa con ng ười, của công dân được đảm bảo
thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành pháp. Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp
là cơ quan ch ấp hành và điều hành của cơ quan quy ền lực, là ch ủ th ể có trách
nhiệm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho quyền và nghĩa vụ của công dân
trở thành hiện thực. Là cơ quan tr ực tiếp thực hiện công tác qu ản lý Nhà nước -
điều hành xã hội trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh trật tự… Trong đó cơ quan công an (cơ quan điều tra) có vai
trò quan tr ọng trong việc bảo vệ trật tự pháp lu ật, pháp ch ế xã hội chủ nghĩa và
trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể được bảo đảm qua hệ thống cơ quan tư
pháp. Toà án và Vi ện kiểm sát là nh ững cơ quan có ch ức năng, nhiệm vụ khác
nhau (Toà án có chức năng xét xử và Viện kiểm sát có chức năng kiểm tra, giám
sát) nhưng đều là các cơ quan “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của
nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tập thể và tính mạng, danh dự, nhân phẩm
của mọi công dân”.
2.3.2. Cơ cấu và n ội dung b ảo đảm quy ền, lợi ích h ợp pháp c ủa cá
nhân, tổ chức trong xét xử hành chính của Tòa án
Các điều kiện bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong
xét xử hành chính c ủa Tòa án là nh ững bi ểu hi ện bên ngoài mà thông qua đó
chúng ta có thể kể tên từng biện pháp, hình thức bảo đảm, đồng thời qua đó để xác
định dấu hiệu, ranh giới và mối liên hệ của các biện pháp (hay sự) bảo đảm khác
nhau. Đây cũng là một nội dung rất quan trọng thuộc khái niệm.
Như chúng ta đều bi ết, tính ch ất, nội dung của xét xử hành chính, ch ức
năng xét xử hành chính (một yếu tố cơ bản, nội tại của bảo đảm, nội hàm của khái
niệm) được biểu hiện ra bên ngoài thông qua các hoạt động của nó - hoạt động tố
tụng của Tòa án.
Hoạt động tố tụng của Tòa án có nhiều loại và qua những giai đoạn (yếu tố
về mặt thời gian) khác nhau. Hoạt động tố tụng của Tòa án như đã phân tích ở trên
chính là cách th ức của sự bảo đảm. Cách thức là yếu tố, là mặt hình th ức khách
quan của sự bảo đảm, do vậy phải tách chúng trong t ư duy để phân tích, nghiên
52
cứu, để có căn cứ, xác định khái ni ệm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức trong xét xử hành chính của Tòa án.
Với ý ngh ĩa như vậy, qua đúc kết lý lu ận và th ực tiễn, đồng thời dựa vào
phương pháp lu ận nêu trên chúng ta có th ể dựa vào các c ăn cứ sau đây để phân
loại biện pháp (ho ặc sự) bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ chức
trong xét xử hành chính của Tòa án:
Thứ nhất, căn cứ vào chức năng bảo vệ thông qua xét xử của Tòa án. Với
căn cứ này, biện pháp bảo đảm được thực hiện ở các loại sau:
- Bảo đảm quyền khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân, tổ chức: Đây là
loại bảo đảm có ý ngh ĩa tiền đề cho vi ệc xem xét tính h ợp pháp của hoạt động
công quyền, nhưng điều có ý nghĩa căn bản của loại bảo đảm này là sự thừa nhận,
tôn trọng và thực hiện một quyền hiến định của công dân - quy ền khiếu nại. Bảo
đảm cho quy ền này được thực hiện trong th ực tế cũng đồng thời hướng tới xây
dựng một nhà nước pháp quyền, một bảo đảm công lý hữu hiệu nhất trong quan
hệ giữa nhà nước với công dân.
- Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật giữa người khởi kiện và người
bị kiện trong vụ án hành chính. Đây là loại bảo đảm pháp lý vô cùng quan tr ọng
nhằm thừa nhận công lý, sự công bằng và tính khách quan trong xem xét, đánh giá
tính chất, nội dung của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân phát sinh khi có
mâu thuẫn trong quan hệ này và gắn với sự kiện vụ án hành chính của công dân.
- Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án hành chính
Đây là lo ại bảo đảm cho cá nhân, t ổ chức theo quy định của pháp lu ật tố
tụng hành chính quy ền quyết định tham gia vào các giai đoạn của quá trình gi ải
quyết vụ án hành chính. V ới loại bảo đảm này, cá nhân, t ổ chức có quy ền trình
bày những quan điểm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước các hành vi
công quyền (các đối tượng khởi kiện) bị coi là trái pháp luật xâm phạm, gây thiệt
hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
- Bảo đảm quyền của đương sự tự mình hoặc nhờ người khác đại diện hay
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết vụ án.
- Bảo đảm quyền yêu cầu xem xét và giải quyết vụ án một cách chính xác,
khách quan, đúng pháp luật…
53
Thứ hai, căn cứ vào chức năng độc lập và tuân theo pháp luật
Với căn cứ ngày chúng ta thấy có một số biện pháp bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức như bảo đảm, loại bỏ sự can thi ệp trái pháp lu ật,
biện pháp chủ động tuân theo và áp dụng pháp luật.
Thứ ba, căn cứ vào chức năng áp dụng pháp luật
Trên cơ sở căn cứ này, một số biện pháp bảo đảm được xác định như biện
pháp bảo đảm thông qua việc áp dụng pháp luật nội dung để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua vi ệc xem xét quy ền, nghĩa vụ pháp lý
của cá nhân, tổ chức và các lợi ích hợp pháp của họ.
Một loại bảo đảm khác của căn cứ này là bảo đảm bằng việc áp dụng pháp
luật hình thức: pháp luật tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức trong xét xử hành chính của Tòa án.
2.4. BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC NGOÀI, GIÁ TRỊ KINH NGHIỆM
CÓ THỂ VẬN DỤNG CHO VIỆT NAM
Qua nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới và tài liệu có liên quan
đến bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án
hành chính của các tác gi ả trong và ngoài n ước, có th ể thấy rằng đây là vấn đề
được đa số các nước quan tâm, coi trọng. Trong phần này chúng ta cùng nhìn nhận
vấn đề dưới các góc độ khác nhau để từ đó rút ra được những vấn đề có giá trị vận
dụng ở Việt Nam.
2.4.1. Mô hình tổ chức tòa án hành chính
Các hệ thống pháp lu ật hiện đại thường thiết lập hai lo ại cơ quan xét x ử
chính nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp pháp lý - đó là tòa án tư pháp và
tòa án hành chính. Dù trong m ột số ngôn ngữ cả hai lo ại cơ quan trên đều được
gọi chung là tòa án, và dù cả hai loại đều giải quyết tranh chấp theo cách tập hợp
bằng chứng và áp d ụng các nguyên t ắc pháp lý, thì v ề cơ bản chúng cũng tách
biệt. Tòa án tư pháp thông thường được thiết lập theo hiến pháp của quốc gia. Vì
vậy chúng được được xem nh ư là c ấu thành c ủa một nhánh quy ền lực. Quy ết
định của tòa án ph ải đảm bảo sự độc lập với các nhánh hành pháp và l ập pháp.
54
Các tòa án hành chính, m ặt khác, lại hoạt động như là một cơ quan của nhánh
hành pháp. Trong tất cả các hệ thống pháp lu ật hiện đại, một số loại tranh ch ấp
chỉ có thể được giải quyết bằng các tòa án tư pháp. Tòa án hành chính không có
quyền xem xét ho ặc quyết định chúng, Trong nhi ều hệ thống pháp lu ật, một số
tranh ch ấp ch ỉ được xét xử bằng tòa hành chính. Ở một số hệ th ống pháp lu ật
khác, có những tranh chấp có thể được xem xét bởi tòa nào cũng được trong hai
loại tòa án nói trên.
Hệ thống pháp lu ật của Pháp là một ví dụ nguyên mẫu về sự tách bi ệt
hoàn toàn. Hiến pháp của Pháp thiết lập nên hai hệ thống tòa án, một trong số đó
lại được chia thành nhiều loại tòa khác nhau (dân s ự, hình sự, xã hội,…), còn hệ
thống kia thì hoàn toàn riêng biệt gồm các tòa hành chính. Hệ thống thứ nhất xem
xét các trường hợp thông qua các loại tòa tư pháp, trong khi đó ở hệ thống thứ hai
các cơ quan nhà n ước (Conseil d’État) xem xét các tr ường hợp nảy sinh thu ộc
quyền tài phán hành chính. Th ẩm quyền xét xử của các tòa án và tòa hành chính
loại trừ lẫn nhau. Nói cách khác, luật của Pháp thiết lập những cơ sở loại trừ thẩm
quyền đối với hai loại tòa án. Trong trường hợp có tranh chấp là liệu tòa tư pháp
hay tòa hành chính nên xét xử một vụ việc nào đó thì vấn đề thẩm quyền xét xử sẽ
được phân định bởi tòa giải quyết tranh chấp (Tribunal des Conflits).
Mô hình tòa án hành chính của Pháp được cấu trúc như sau:
Hội đồng Nhà nước là đỉnh chóp của hệ thống tòa án hành chính, được coi
là Tòa án hành chính t ối cao tồn tại song song với Tòa án tư pháp tối cao - đỉnh
chóp của hệ thống tòa án th ường. Cơ quan này vừa là cơ quan tư vấn cho Chính
phủ trong việc ban hành các dự án luật liên quan đến lĩnh vực hành pháp, đưa ra
những lời khuyên cho Chính ph ủ về những vấn đề xung đột với các nguyên t ắc
của Hiến pháp, cũng như các đạo luật trong nước và điều ước quốc tế, vừa là tòa
án hành chính tối cao xét xử các vụ án hành chính. Nhân sự có khoảng 300 thẩm
phán được chia làm ba cấp với cấp cao nhất là Hội đồng viên.
Dưới Hội đồng Nhà nước là các Tòa án hành chính Phúc thẩm, bao gồm 8
tòa án. 41 đơn vị Tòa án hành chính vùng là tòa án c ấp thấp nhất, trong đó có 30
55
tòa nằm trong lãnh th ổ chính của Pháp và 11 n ằm ở các khu v ực lãnh th ổ thuộc
Pháp rải rác khắp thế giới.
Hệ thống tòa án của Đức được tổ chức tại cấp Liên bang và cấp Bang. Đức có
05 hệ thống tòa án chuyên biệt, bao gồm: hệ thống tòa án thường xét xử các tranh chấp
về dân sự và các vụ án hình sự; hệ thống tòa án lao động; hệ thống tòa án hành chính;
hệ thống tòa án tài chính và hệ thống tòa án về bảo hiểm xã hội. Hệ thống tòa án hành
chính (Verwaltungsgerichtbarkeit), hệ thống này gồm 03 cấp là Tòa án hành chính
(Verwaltungsgericht), Tòa án hành chính của Bang (Landesverwaltungsgericht) và Tòa
án Hành chính Liên bang (Bundesverwaltungsgericht). Hệ thống Tòa án hành chính
có thẩm quyền xét xử các tranh ch ấp giữa một bên là cơ quan nhà nước và phía
bên kia là công dân, cụ thể, tòa án hành chính có thẩm quyền xét xử các khiếu nại
về các hành vi hành chính c ủa cơ quan nhà nước (ví dụ khiếu nại về quyết định
không cấp phép xây nhà về hạn chế quyền sử dụng bất động sản v.v...).
Mô hình tòa án hành chính của Đức độc lập tồn tại song song với hệ thống
tòa án thường. Tòa án hành chính tối cao chỉ có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện hành
chính mà không có chức năng tư vấn cho Chính phủ như mô hình của Pháp. Bên
cạnh đó, khác với tòa án hành chính Pháp có th ể xem xét các vụ việc bồi thường
thiệt hại, tòa án Đức chỉ xem xét tính hợp pháp của các quyết định, hành vi hành
chính, còn việc yêu cầu bồi thường sẽ do tòa án dân sự giải quyết.
Hệ thống xét xử của Mỹ khác rất nhiều so với các hệ thống xét xử ở dân
luật. Sự khác nhau này xuất phát từ quan niệm khác nhau về vai trò của nhà nước
trong hệ thống liên bang Mỹ. Hiến pháp Mỹ thiết lập nên một chính phủ liên bang
có quyền lực giới hạn. Người Mỹ luôn nghi ng ờ quyền lực của chính quy ền. Sự
tập trung hóa quyền lực trong hành pháp bị coi là sẽ dẫn đến chuyên chế. Hệ thống
tòa án của Mỹ, bởi vậy, đã khẳng định vai trò của người bảo vệ cho tự do cá nhân
chống lại khả năng lạm quyền của nhà nước.
Hệ thống tòa án của Mỹ khác với của Pháp, là một bộ máy xét xử nhất thể,
các tòa án liên bang không được phân chia theo thẩm quyền.
Trong khi hệ thống tòa án tư pháp liên bang được thiết lập theo hiến pháp
Mỹ thì các tòa hành chính lại được tạo ra bởi Quốc hội. Các tòa hành chính Mỹ có
56
cấu trúc rất khác nhau. Một số tòa có th ể có nhi ều hơn hoặc ít hơn một số chức
năng so với các tòa án thông thường. Ví dụ, tòa Thuế và tòa Khiếu nại. Một số tòa
hành chính thì được thành lập trong nội bộ các cơ quan hành chính, nh ư Ủy ban
Thương mại Liên bang. Sự khác nhau quan trọng giữa các tòa hành chính này có
liên quan đến sự bảo hộ được chấp thuận bởi thẩm phán liên bang, một đặc điểm
mà thoạt đầu có vẻ dường như là đặc điểm phụ của hệ thống.
Đối với Nhật Bản, một nước gần với chúng ta, đã xây dựng mô hình tòa án
giống như của Mỹ, theo đó tất cả các tranh chấp, bao gồm cả trong lĩnh vực hành
chính đều được giải quyết bởi hệ thống tòa án th ường. Điều 76 Hi ến pháp 1947
quy định: “toàn bộ quyền lực tư pháp đều được trao cho Toà án Tối cao và toà án
các cấp được thành lập theo quy định của pháp lu ật” và “Không được thành lập
bất kỳ một Toà án đặc biệt nào cũng như không một cơ quan Hành pháp được trao
quyền tư pháp cuối cùng” [63, tr.29-30].
Nhìn về bề ngoài, tòa án tư pháp giải quyết vụ án hành chính như quy định
của Hi ến pháp, nh ưng th ủ tục gi ải quy ết lại gi ống nh ư tòa án hành chính ảnh
hưởng mô hình từ Đức.
Hệ thống tòa án của Nhật Bản hiện nay bao gồm bốn cấp: 450 tòa án rút
gọn, 50 tòa án quận được đặt ở 47 đơn vị hành chính trong cả nước trong đó vùng
Hokkaido có 4 tòa án, 8 tòa án phúc th ẩm đặt tại Tokyo, Osaka, Nagoya,
Hiroshima, Fukuoka, Sendai, Sapporo, Takematsu, và tòa án tối cao đặt tại Tokyo.
Về nguyên tắc, tòa án tư pháp có nhiệm vụ giải quyết vụ án hành chính; tuy nhiên,
trong xu hướng cải cách hi ện nay, một số tòa qu ận như Tokyo, Osaka, Nagoya,
Yokohama, Saitama, Chiba, Kyoto và Kobe có thêm phân tòa đặc biệt chuyên xét
xử hành chính. Các tòa c ủa Nhật Bản không phân chia theo địa giới hành chính,
và Điều 12 Lu ật Kiện tụng hành chính c ủa Nhật Bản quy định, tòa án có th ẩm
quyền giải quyết thường là tòa án n ơi có bất động sản hay tr ụ sở của chủ thể bị
kiện, nhưng ở vị trí cao hơn, không phụ thuộc vào quyền quản lý địa phương của
cơ quan hành chính [82].
Chuyển sang Trung Qu ốc, Điều 41 Hi ến pháp 1982 của Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa cho phép ng ười dân được quyền khởi kiện ra tòa các quy ết định,
57
hành vi của tổ chức và cá nhân công quyền và được kiện đòi bồi thường thiệt hại
bởi các quyết định và hành vi đó gây ra. Tòa hành chính n ằm trong hệ thống tòa
án nhân dân đã được thành lập ở bốn cấp, có thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành
chính [63, tr.89-90].
2.4.2. Những vấn đề về thẩm quyền của các tòa án hành chính
Trong hệ thống pháp luật của Pháp, tòa án hành chính chỉ có quyền xét xử
các trường hợp trong phạm vi thẩm quyền xét xử của mình. Tòa án hành chính xét
xử các tranh ch ấp phát sinh gi ữa các cá nhân và c ơ quan hành chính c ũng như
tranh chấp phát sinh giữa các cơ quan hành chính. Dù sự tách biệt là rõ ràng trong
từng hệ thống, nhưng việc phân định giữa hai loại vấn đề vẫn khó giải quyết.
Ở Pháp tòa án có th ể xem xét tính h ợp pháp của các quy ph ạm pháp lu ật
hành chính. Các tòa án có thể phán quyết từ những quyết định nhỏ nhất của chính
quyền địa phương đến các Ngh ị định được ban hành b ởi Tổng thống, ngoại trừ
những văn bản đặc biệt của Chính phủ. Ngoại lệ này xuất phát từ lý luận về đạo
luật của Chính phủ và sự phân biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý và chức năng
điều hành. Theo các học giả Pháp, một số đạo luật bảo vệ lợi ích công như chống
khủng bố, bạo loạn, thiên tai, dịch bệnh..., mặc dù có thể xâm hại đến quyền riêng
tư của cá nhân nhưng nhằm bảo vệ các lợi ích của quốc gia, cộng đồng, Chính phủ
vẫn có thể ban hành. Việc xem xét lại các đạo luật này chỉ có thể là Nghị viện mà
không thể là Hội đồng Nhà nước.
Tòa án không gi ới hạn xem xét các v ấn đề hành chính. V ề nguyên tắc,
người dân có thể kiện bất kỳ một quyết định hay hành vi công quyền nào ra tòa án
có thẩm quyền nếu không thuộc những trường hợp ngoại lệ. Luật hành chính Pháp
chỉ đưa ra một nguyên tắc ngoại lệ là tòa án sẽ không xem xét, giải quyết các vụ
việc liên quan đến quá trình lập pháp của cơ quan Nghị viện, các mối quan hệ luật
pháp quốc tế, các ho ạt động hành chính nh ưng mang bản ch ất dân sự nh ư hợp
đồng hành chính...
Tòa án hành chính Pháp có th ể giải quyết các vụ kiện đòi bồi thường thiệt
hại do hành chính gây ra, Tòa án Đức lại giao vụ việc này cho tòa án thường giải
quyết. Vì các học giả Đức cho rằng, đây là vụ kiện có tính dân sự phải do tòa án
58
thường giải quyết, mặc dù đối tượng bị kiện có thể là cán bộ công chức khi đang
đi thực thi công vụ.
Pháp luật Đức quy định rằng tòa án Hành chính có thẩm quyền xét xử các
tranh chấp theo luật công mà không liên quan đến các vấn đề về hiến pháp, trừ phi
pháp luật chuyển các vấn đề cụ thể sang tòa khác. Các vấn đề về luật tư, ngược lại,
được xét xử bởi các tòa án tư pháp. Các vấn đề về thẩm quyền trong pháp luật của
Đức là đặc biệt khó kh ăn bởi vì nhà n ước có th ể lựa chọn hành động hoặc theo
luật công hoặc theo luật tư. Các cơ quan nhà nước và công ch ức được tự do lựa
chọn hình th ức pháp lý c ủa hành động (Formenwahlfreiheit der Verwaltung).
Công chức có th ể th ực hiện các quy ết định theo lu ật công bằng các hành động
theo luật tư và sử dụng các quyền theo luật tư. Khi hành động được thực hiện theo
chiều hướng này để tận dụng lợi thế của cả luật công và luật tư, thì pháp luật Đức
sử dụng ph ương pháp hai b ước (Zweistufentheorie) để xác định tòa án nào có
thẩm quy ền pháp lý xét x ử. Nh ư đã th ấy, vi ệc sử dụng lý thuy ết này g ồm hai
bước. Bước thứ nhất là hỏi xem li ệu nhà nước đã hành động chưa. Câu hỏi này
được trả lời bằng cách tham chiếu đến luật công. Bước thứ hai là hỏi xem liệu các
phương tiện được sử dụng liên quan đến luật công hay luật tư. Bước này bao gồm
cả việc tham khảo các điều khoản có liên quan ở cả luật công và luật tư.
Về căn cứ để đưa ra phán quyết, luật của các nước này đều cho phép tòa án
phán quyết tính hợp pháp của các quyết định và hành vi hành chính b ị kiện. Tuy
nhiên, họ quy định rõ việc xem xét tính hợp pháp về hình thức và nội dung của đối
tượng khởi kiện, chẳng hạn: luật của Pháp quy định rõ hai căn cứ để xem xét về
hình thức là: 1) không đúng thẩm quyền; 2) vi ph ạm các quy định về thủ tục; và
hai căn cứ để xem xét về nội dung là: 1) vi ph ạm nội dung luật; 2) sự lạm dụng
quyền lực. Bên cạnh đó, xuất phát từ học thuyết về giới hạn quyền tự định đoạt,
hành chính có những quyền tự quyết định trong phạm vi của mình. Như vậy, trong
một số trường hợp, tòa án có thể xem xét các quyết định hay hành vi này có vượt
ngưỡng của quyền tự định đoạt hay không.
Tòa án có th ể xem xét tính h ợp pháp của các quy ết định, hành vi công
quyền bất kể khi nào khi có yêu c ầu khởi kiện. Quyền về bảo vệ pháp luật “triệt
59
để” của công dân tr ước quyền lực hành pháp phát sinh t ừ kho ản 4 điều 19 của
Hiến pháp. Tính triệt để này được thể hiện ở chỗ công dân được bảo vệ trước tất
cả các văn bản hành chính hay nói cách khác, các Tòa án phải bảo đảm sự bảo vệ
pháp luật về mặt nguyên tắc chống lại tất cả những hành vi vi phạm pháp luật của
cơ quan hành pháp.
Trong nội dung bản án hành chính, lu ật các n ước này quy định rõ th ẩm
quyền tòa án trong việc giải quyết từng vụ án cụ thể, không chỉ tuyên bố tính trái
pháp luật của các quy ết định, hành vi bị kiện. Chẳng hạn, Tòa án Pháp có th ẩm
quyền: hủy, giữ nguyên hay sửa những sai phạm trong các quyết định bị kiện; xác
định các quy ền được làm và không được làm của các đương sự; quyết định việc
bồi thường thiệt hại; giải thích việc áp dụng quyết định phù hợp với thực tiễn pháp
lý mặc dù quyết định quy phạm có thể bị tuyên là trái luật; áp đặt mức phạt hoặc
bổ sung khoản tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản công; áp dụng biện
pháp cưỡng chế bắt buộc đối với đối tượng bị kiện.
Còn theo luật Hoa Kỳ, các tòa hành chính được tạo ra bởi Quốc hội căn cứ
vào sự cần thiết và phù hợp với Điều I của Hiến pháp Hoa Kỳ. Tòa hành chính vì
thế được gọi là Tòa án Điều I, và thẩm phán được gọi là Thẩm phán Điều I. Thẩm
phán Điều I làm vi ệc ở các cơ quan hành chính và được xem như là Th ẩm phán
luật hành chính (Administrative Law Judges - ALJ). Qu ốc hội cũng thiết lập các
tòa án theo vùng lãnh thổ theo quy định tại Điều IV của Hiến pháp nước này.
Một điều khoản trong Hi ến pháp có tác động đến sự khác bi ệt giữa thẩm
quyền tư pháp và th ẩm quy ền hành chính ở Hoa K ỳ. Theo đó, các cá nhân có
quyền tham gia hội thẩm xét xử trong các vụ kiện tụng theo thông luật. Vì xét xử
bồi thẩm đoàn chỉ có trong hệ thống tư pháp nên quyền xét xử bồi thẩm đoàn giới
hạn một số loại nhất định các vụ việc được đưa ra tòa tư pháp. Theo luật Mỹ, đối
với phần lớn các tranh chấp pháp lý, Quốc hội có thể giao các vụ việc hoặc là cho
các tòa án tư pháp ho ặc cho các Toà án hành chính, ho ặc để cho cả hai. Vấn đề
thẩm quyền của tòa án hành chính Mỹ là rất phức tạp, khó hiểu.
Ở Nhật Bản, các quy định liên quan đến thẩm quyền và thủ tục giải quyết
được sửa đổi với nhiều điểm tiến bộ, góp phần bảo vệ triệt để các quyền tự do cá
60
nhân được ghi nh ận trong Lu ật Kiện tụng hành chính ban hành ngày 16/5/1962,
sửa đổi ngày 19/6/2004. Theo đó:
Tòa án Nhật Bản không bị giới hạn bởi các vụ việc hành chính mang tính
liệt kê. Tuy nhiên, các quy ết định hành chính có th ể được kiện ra tòa ph ải thỏa
mãn các đặc trưng của một quyết định hành chính như: tính quyền lực công; hiệu
lực pháp lý, có sự tác động trực tiếp và chính xác với người khởi kiện, mối quan
hệ không phụ thuộc giữa chủ thể và đối tượng quản lý. Tên gọi của các quyết định
này rất đa dạng trong các văn bản pháp luật khác nhau, như giấy phép, giấy đăng
ký, chấp thuận, cấm đoán hoặc xử phạt...
Việc phán quyết tính hợp pháp của các văn bản quy ph ạm pháp luật hành
chính, mặc dù trong lu ật không quy định rõ tòa án có th ẩm quyền hay không,
nhưng Điều 81 Hiến pháp Nhật Bản cũng khẳng định rõ: Tòa án tối cao là tòa án
có thẩm quyển cuối cùng có quy ền phán quy ết bất kể đạo luật, pháp lệnh, nghị
định hay quy định nào có hợp hiến hay không. Như vậy, mặc dù không có Tòa án
Hiến pháp, Nhật Bản cũng thừa nhận quyền tài phán hiến pháp được trao cho tòa
án tối cao. Về nguyên tắc, người dân không thể khởi kiện một quy phạm ra tòa án;
tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính cụ thể, tòa án có quyền xem
xét tính hợp hiến và hợp pháp của các quy phạm mà dựa vào đó quyết định bị kiện
được ban hành. Thẩm quyền phán quyết cuối cùng thuộc về Tòa án tối cao [63].
Thủ tục tố tụng về nguyên tắc, người dân có th ể kiện ra tòa án b ất kể lúc
nào. Tuy nhiên, một số luật đặc biệt cũng quy định ngoại lệ phải qua bước khiếu
nại, nhưng Luật Kiện tụng hành chính cho phép trong trường hợp quá ba tháng mà
quyết định giải quyết khiếu nại không được ban hành hoặc trong trường hợp khẩn
cấp nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra, người dân có thê kiện ra tòa án.
Theo tác gi ả Phạm Hồng Quang, các lo ại kiện tụng hành chính được quy
định rõ trong Lu ật Kiện tụng hành chính sửa đổi năm 2004: 1) Ki ện tụng các vụ
việc công; 2) Ki ện tụng về thẩm quyền giữa các cơ quan; 3) Ki ện tụng giữa các
bên và 4) Kiện tụng yêu cầu hủy bỏ, công nhận hay gắn liền với các nghĩa vụ nhất
định, trong đó hai loại kiện tụng đầu được gọi là kiện tụng mang tính khách quan,
và hai lo ại còn lại là ki ện tụng mang tính ch ủ quan. Ki ện tụng yêu cầu hủy bỏ,
61
công nhận hay gắn liền với các ngh ĩa vụ nhất định là lo ại kiện tụng phổ biến và
quan trọng nhất, trong đó tập trung nhiều nhất là kiện tụng hủy bỏ các quyết định
hoặc hành vi hành chính trái luật. Về điều kiện để khởi kiện yêu cầu cơ quan hành
chính phải dừng thực hiện một hành vi nhất định, người khởi kiện và tòa án ph ải
chứng minh được những thiệt hại lớn có thể xảy ra nếu cơ quan hành chính không
dừng thực hiện hành vi. Tuy nhiên, lu ật chưa quy định rõ thế nào là thiệt hại lớn
và trao quy ền tự quyết cho tòa án. Th ẩm quyền ra phán quy ết của tòa án trong
từng giai đoạn, Luật Kiện tụng hành chính Nhật Bản xác định rõ tòa án có quyền:
bác bỏ đơn khởi kiện (khi tiếp nhận đơn); bác bỏ yêu cầu (khi đã thụ lý giải quyết
và nghị án); chấp nhận yêu cầu (hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định trái pháp
luật). Về nguyên tắc, một quyết định trái pháp luật sẽ bị tòa án tuyên hủy và không
còn hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, Điều 31 của luật có tên g ọi “phán quy ết hoàn
cảnh” được coi như ngoại lệ. Theo đó, trong trường hợp quyết định hành chính rõ
ràng là trái pháp luật nhưng nếu sự hủy bỏ có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích công,
tòa án có quy ền bác bỏ việc khởi kiện mặc dầu phải tuyên bố tính bất hợp pháp
của quyết định bị kiện trong nội dung của bản án. Luật Nhật Bản còn cho phép tòa
án đang thụ lý, theo đơn kiện của người khởi kiện có quyền cho phép họ thay đổi
yêu cầu sang ki ện Nhà nước hay cơ quan công quy ền có liên quan đến vụ việc
đang giải quyết mà không cần thiết phải mở vụ án mới. Ở Nhật Bản, các vụ kiện
mà trong đó một bên đương sự yêu cầu Nhà nước hoặc chính quyền địa phương
bồi thường nếu gây ra nh ững thiệt hại nhất định dựa theo quy định của Luật Bồi
thường nhà nước, Luật Kiện tụng hành chính, Lu ật Tố tụng dân sự và nó c ũng
được xem như là một vụ kiện dân sự [82].
Tòa hành chính Trung Quốc về nguyên tắc, tòa chỉ phán quyết tính hợp
pháp của các quyết định, hành vi hành chính b ị kiện, cũng như chỉ giới hạn xem
xét vụ việc được liệt kê trong lu ật. Tuy nhiên, Lu ật Kiện tụng hành chính Trung
Quốc cho phép tòa án “ được sửa chữa lại các quy ết định xử phạt không hợp lý,
không công bằng thông qua bản án của tòa”. Như vậy, đây có thể coi là ngo ại lệ
trong việc tòa án có thể xem xét tính hợp lý của các quyết định xử phạt hay cưỡng
chế khi bị kiện.
62
Việc xác định đối tượng khởi kiện tại tòa án, luật của Trung Quốc không có
điều khoản quy định rõ ràng. Khái niệm quyết định hành chính là đối tượng khởi
kiện tại tòa án cũng chưa được quy định rõ ràng.
Việc xem xét quy ết định hành chính mang tính quy ph ạm, giống như việc
xem xét một văn bản quy ph ạm pháp lu ật. Việc này được Trung Quốc quy định
trao quyền cho Qu ốc hội, Ủy ban Th ường vụ Quốc hội, Chính ph ủ ho ặc chính
quyền địa phương cấp cao hơn xử lý. Tuy nhiên, trong Luật Kiện tụng hành chính
cho phép các tòa án, trong quá trình gi ải quyết các vụ án hành chính c ụ thể, có
quyền xem xét tính hợp pháp của các văn bản hành chính quy ph ạm của các cấp
vụ ở Trung ương, hay của chính quy ền địa ph ương. Điều đó có ngh ĩa, về mặt
nguyên tắc, không được khởi kiện quy phạm một cách độc lập, mà phải gắn liền
với một quyết định cá biệt bị kiện trên cơ sở dựa vào quy phạm pháp luật bị cho là
trái pháp luật đó. Khi phán quy ết, tòa án cũng không có quy ền tuyên bố vô hi ệu
hoặc hủy bỏ, mà quy ền này thu ộc về các cơ quan có th ẩm quyền theo quy định
của Hiến pháp.
Về quy ền kh ởi ki ện, Lu ật Ki ện tụng hành chính Trung Qu ốc cho phép
người dân được quyền khởi kiện ngay ra tòa án có thẩm quyền mà không cần phải
trải qua bước tiền tố tụng. Trung Quốc cho phép người dân quyền chọn lựa hoặc
khiếu nại tới cơ quan hành chính hoặc tới tòa án. Trong thực tiễn, khoảng 90% các
vụ án trước khi được đem ra tòa đều trải qua giai đoạn giải quyết khiếu nại.
Về nội dung của bản án hành chính, Luật của Trung Quốc quy định rõ bốn
loại quyết định tòa án có th ể tuyên: 1) gi ữ nguyên quyết định bị kiện; 2) hủy; 3)
sửa đổi; 4) buộc phải thực hiện một hành vi nhất định. Gần đây, Khoản 3, Điều 3
của Luật Bồi thường nhà nước cho phép người dân kiện cơ quan công quyền đòi
bồi thường thiệt hại ra tòa hành chính, vi ệc ban hành bản án có n ội dung là xác
nhận sự thiệt hại xảy ra được xem là điểm mới bổ sung cho phán quyết của tòa án.
Về việc đảm bảo thi hành án hành chính, Điều 65 của Luật Kiện tụng hành chính
cho phép tòa án áp dụng một số biện pháp cứng rắn bắt buộc cơ quan hành chính
hay cá nhân công quyền phải thực hiện nghiêm túc các nội dung của bản án. Các
biện pháp này bao g ồm: gửi yêu cầu tới ngân hàng đề nghị chuyển từ tài kho ản
63
của cơ quan hành chính số tiền phạt cần thu về hoặc số tiền thiệt hại phải trả; áp
đặt khoản tiền phạt từ 50 - 100 nhân dân tệ mỗi ngày đối với các chủ thể liên quan
cố tình không chấp hành bản án; yêu cầu cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên xử lý
các cơ quan hoặc cá nhân vi phạm việc thi hành án; đề nghị truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người đứng đầu cơ quan hoặc cán bộ vi phạm công tác thi hành án
để lại hậu quả nghiêm trọng [82].
2.4.3. Trình tự thủ tục tố tụng hành chính
Hàn Quốc là đất nước theo mô hình ch ỉ có một hệ thống Tòa án, có th ẩm
quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính…; không có một hệ thống tài
phán hành chính riêng chuyên xét xử các khiếu kiện hành chính.
Do không có Tòa án hành chính độc lập nên thủ tục xét xử các vụ án hành
chính ở Hàn Quốc có một số nét đặc thù. Theo Luật tố tụng hành chính của Hàn
Quốc, trình tự tố tụng hành chính chia làm ba giai đoạn: 1) Đơn khiếu nại về một
quyết định hành chính của một cơ quan quản lý trước tiên phải do chính cơ quan
đó giải quyết; 2)Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của cơ quan quản lý
hoặc đã quá hai tháng tính t ừ khi có đơn khiếu nại mà cơ quan bị khiếu nại vẫn
không giải quyết, bên khiếu kiện có quyền gửi đơn khởi kiện tới Tòa án có th ẩm
quyền xét xử để yêu cầu giải quyết. Theo quy định của pháp luật Hàn Quốc, Tòa
án có thẩm quyền xét xử các vụ kiện hành chính là Tòa án cao cấp; 3) Bất cứ bên
nào không đồng ý với cách giải quyết của Tòa án cao cấp đều có quyền kháng án
lên Tòa án tối cao. Nói chung, thủ tục tố tụng phải qua giai đoạn giải quyết của cơ
quan hành chính nhà nước bị kiện là bắt buộc. Tuy nhiên, vụ kiện có thể được đưa
ra xét xử tại Tòa án mà không c ần có quy ết định giải quy ết của cơ quan đã ra
quyết định giải quyết của cơ quan đã ra quyết định hành chính bị kiện trong một
số trường hợp. Việc đưa vụ kiện ra xét xử nói chung không lo ại trừ hiệu lực thi
hành của quyết định hành chính bị kiện.
Ở Singapore: không có Tòa án hành chính riêng bi ệt. Thông th ường các
khiếu kiện hành chính được giải quyết ở Tòa thượng thẩm. Một số đặc điểm của
việc giải quyết khiếu kiện hành chính tại Tòa án tư pháp: Chỉ có Tòa thượng thẩm
thuộc Tòa án tối cao mới có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính; còn
64
Tòa sơ cấp không được trao thẩm quyền này; Công dân có quyền khiếu kiện trực
tiếp đến Tòa án t ư pháp, không cần phải khiếu nại qua cơ quan hành chính nhà
nước; Không có th ủ tục hòa gi ải trong tố tụng đối với việc giải quyết các khi ếu
kiện hành chính. Để giải quyết một số vụ việc hành chính đặc biệt, ở Singapore có
thành lập các Hội đồng hành chính.
Một số kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam
Một là: Việc lựa chọn mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở mỗi
nước căn cứ vào nhiều yếu tố và hoàn cảnh cụ thể. Cách thức tổ chức có thể thích
hợp với nước này nhưng lại không thể áp dụng với nước khác hoặc ngược lại. Tuy
nhiên, qua khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử các vụ kiện về hành chính ở một số
nước, có thể nhận thấy rằng, mỗi mô hình tổ chức đều có những ưu điểm và hạn
chế của nó. Điểm chung dễ nhận thấy là: Tòa án hành chính được tổ chức theo
khu vực; Hệ thống tổ chức tòa án hành chính được tổ chức theo cấp xét xử;
Hai là: Quyền hạn của Toà án hành chính ở các nước có quy định khác
nhau, tuy nhiên đều cố gắng không vi phạm các nguyên tắc về sự phân chia (hay
phân công) quyền lực, tài phán hành chính không lấn sang hoạt động quản lý.
Ba là: Thủ tục tố tụng được quy định rõ ràng, ghi nhận quyền và nghĩa vụ
của các bên khi tham gia xét xử vụ án hành chính. Tùy thuộc điều kiện cụ thể từng
nước mà pháp lu ật của nước đó có th ể quy định thủ tục khiếu nại đến cơ quan
hành chính trước khi kh ởi kiện ra cơ quan tài phán hành chính là b ắt buộc hoặc
không bắt buộc (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác);
Trong tố tụng hành chính, cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính có ngh ĩa vụ chứng minh tính đúng đắn của quyết định hành
chính, hành vi hành chính; Nguyên tắc “điều tra” được áp dụng; Nhìn chung đều
quy định tòa án hành chính có thể tạm đình chỉ quyết định hành chính của cơ quan
hành chính;
Bốn là: Về thi hành án hành chính: Pháp luật tố tụng hành chính các nước
có nh ững quy định về vi ệc thi hành b ản án, quy ết định của tòa án hành chính,
trong đó có thể quy định biện pháp phạt tiền đối với cơ quan hành chính không thi
hành bản án, quyết định của tòa án hành chính. Bên cạnh đó, còn có các quy định
65
về trách nhiệm công vụ cũng bảo đảm sự thi hành các bản án, quyết định của tòa
án hành chính. Theo đó, nếu một công chức không thi hành bản án, quyết định của
tòa án hành chính thì người này đã vi phạm trách nhiệm công vụ và điều đó có thể
dẫn đến việc phải bồi thường thiệt hại cho đương sự. Khi phải bồi thường, cơ quan
hành chính sẽ đứng ra thanh toán, sau đó công chức nói trên phải bồi hoàn khoản
đã thanh toán đó.
Nghiên cứu hoạt động xét xử vụ án hành chính ở các nước có nền tài phán
hành chính phát triển như Pháp, Đức hay Nhật Bản, hay tham khảo mô hình Trung
Quốc, chúng ta nhận thấy Việt Nam còn chưa có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn
để hoàn thiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét
xử các vụ án hành chính tại tòa án.
Những kinh nghiệm đã phân tích ở trên cho th ấy sự cần thiết phải học tập
kinh nghiệm nước ngoài theo h ướng mô hình tòa hành chính c ần ti ếp tục hoàn
thiện để đảm bảo tính độc lập của tòa án, chẳng hạn giải pháp thành lập mô hình
tòa hành chính vùng như của Pháp, Nhật Bản là đảm bảo tính khả thi. Thẩm quyền
xét xử cũng nên được mở rộng một cách tối đa, đồng thời cũng xác định rõ trách
nhiệm của cơ quan hành chính trong việc tham gia xét xử tại tòa án.
Tiểu kết chương 2
Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong giải quyết
các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân là m ột nội dung quan tr ọng, liên quan
đến vấn đề quản lý nhà nước, đến sự phân công, tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước, đến bảo vệ quyền, tự do và lợi ích của công dân…
Về lý luận, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
bằng Tòa án có ngu ồn gốc sâu xa t ừ các quan ni ệm, tư tưởng ti ến bộ của loài
người trong các học thuyết chính trị, pháp lý cổ xưa, thể hiện khát vọng của con
người về tự do, bình đẳng, công bằng và mong muốn về một nhà nước pháp quyền
với xã hội công dân mà trong đó, nhà nước và pháp lu ật là bảo đảm quan tr ọng
nhất của con người với đầy đủ các quyền tự nhiên, phù hợp với quy luật của đời
sống và sự phát triển của xã hội loài người.
66
Sự phát triển các học thuyết trên đây trong thời kỳ cách mạng tư sản là cơ
sở lý luận khoa học cho việc xây dựng, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
tư sản. Các giá trị tích cực của chúng đang ngày càng phát huy vai trò, tác d ụng,
được đề cao và áp dụng rộng rãi trong thời đại hiện nay.
Là một bộ ph ận lý lu ận rất cơ bản, các quan ni ệm, quan điểm, các h ọc
thuyết về tổ chức và hoạt động của Tòa án nói chung, về vấn đề bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bằng Tòa án nói riêng của hệ thống tư pháp,
hệ thống Tòa án chính là nh ững điểm tựa khoa học cho vi ệc xây dựng các thi ết
chế tài phán hành chính và đặc biệt là việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt
động bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ chức bằng con đường
Tòa án tại Việt Nam.
Chính vì vậy, nghiên cứu và hệ thống được các quan niệm, quan điểm khoa
học về các nội dung trên có tác dụng vê cùng to lớn, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc
trong việc bổ sung và hoàn thiện các chế định bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức bằng con đường Tòa án ở nước ta.
67
Chương 3 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH - CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM
Như đã trình bày, thang giá trị cao nhất của trào lưu giải phóng con người,
cho con người và vì con người chính là hướng tới xây dựng, củng cố và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật luôn luôn được đề
cao. Pháp luật vừa là chuẩn mực cho các bên trong m ọi quan hệ của một xã hội
công dân; nó xác lập rõ nguyên tắc "công dân được làm tất cả những gì pháp luật
không cấm" và "Nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp lu ật quy định". Pháp
luật cũng chính là c ơ sở để Nhà nước th ực hiện vai trò, trách nhi ệm của mình
trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Nhìn lại thực trạng pháp lu ật về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức thông qua hoạt động của Nhà nước, đặc biệt là thông qua xét xử hành
chính của Tòa án, chúng ta có thể thấy có các giai đoạn phát triển sau đây:
3.1.1. Giai đoạn trước tháng 7/1996
Như chúng ta đều biết, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà
nước là của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
mọi hoạt động của bộ máy nhà n ước phải phù hợp với ý chí, nguy ện vọng của
nhân dân, vì nhân dân ph ục vụ. Sứ mệnh của Nhà nước là "b ảo đảm và không
ngừng phát huy quy ền làm ch ủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm tr ị mọi hành
động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân" [45].
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo có tác d ụng to lớn trong vi ệc mở
rộng dân chủ để nhân dân th ực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước, loại
trừ những biểu hiện quan liêu hách dịch, sách nhiễu quần chúng của cán bộ, công
chức, tạo sự ổn định chính tr ị, xã hội, phát huy s ức mạnh nội lực của nhân dân
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
68
Nhìn lại toàn bộ nh ững văn bản pháp lu ật quy định về quy ền khiếu nại,
quyền tố cáo của công dân, trách nhi ệm của các cơ quan giải quyết khiếu nại, tố
cáo, chúng ta thấy rõ sự phát triển của hệ thống pháp luật về vấn đề này. Nội dung
của những văn bản này theo thời gian càng cụ thể, đầy đủ hơn, tạo cơ sở pháp lý
vững chắc để bảo vệ quyền dân chủ của công dân. Việc thi hành pháp lu ật khiếu
nại, tố cáo của công dân cũng cho thấy, cùng với việc đổi mới có chế chính sách,
hoạt động của các cơ quan có th ẩm quyền giải quyết khiếu nại phần nào đã đáp
ứng được yêu cầu chính đáng của nhân dân.
Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 mặc dù đã có nh ững
quy định về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại song chưa có sự phân định rành
mạch cho từng cấp giải quyết. Trong khi đó th ực tiễn cho th ấy, việc giải quyết
khiếu nại ở từng cấp có sự khác nhau về thủ tục. Việc quy định thủ tục ra quyết
định giải quyết cuối cùng của Thủ trưởng các cơ quan hành chính cũng giống với
thủ tục giải quyết lần đầu của cơ quan bị khi ếu nại và lần th ứ hai của cơ quan
thanh tra là không hợp lý và khó thực hiện. Chính vì thế, trình tự thủ tục thẩm tra,
xác minh, ra quyết định giải quyết khiếu nại hầu như không thể thực hiện được đối
với các cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu. Đó là chưa kể đến các luật, pháp lệnh
khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong thực tế,
trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được áp dụng thiếu thống nhất ở mỗi
ngành, mỗi địa phương. Có trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo được áp dụng
thiếu thống nhất ở mỗi ngành, mỗi địa phương. Có tr ường hợp giải quyết khiếu
nại, tố cáo nhưng lại bỏ qua giai đoạn thẩm tra xác minh.
Trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo quy định trong Pháp lệnh khiếu nại, tố
cáo của công dân năm 1991 về cơ bản chỉ phù hợp với hoạt động của Thanh tra
nhà nước. Tình trạng ba cấp giải quyết bị nhập làm một và đều do cơ quan thanh
tra tiến hành (cơ quan bị khiếu nại giải quyết lần đầu, cơ quan thanh tra giải quyết
lần 2, cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp với cơ quan thanh tra giải quyết lần
cuối cùng). Thực tế công tác giải quyết khiếu nại trong những năm qua cho thấy,
bản thân cơ quan hành chính không quan tâm đúng mực đến việc giải quyết khiếu
nại đối với quyết định của chính mình. Tình tr ạng trì hoãn vi ệc giải quyết, giải
69
quyết không đúng pháp luật chưa được khắc phục. Qua khảo sát thấy có 80% các
khiếu nại phát sinh từ cơ sở nhưng không được giải quyết kịp thời.
Từ khoản 1 Điều 1 Pháp l ệnh khiếu nại, tố cáo của công dân n ăm 1991
quy định "Công dân có quy ền khiếu nại với cơ quan nhà n ước có th ẩm quyền
về quyết định ho ặc việc làm trái pháp lu ật thu ộc ph ạm vi qu ản lý hành chính
của cơ quan nhà n ước hoặc nhân viên nhà n ước, xâm ph ạm quyền, lợi ích hợp
pháp của mình".
Để làm rõ phạm vi của quyền khiếu nại thông thường và để phân biệt với
khiếu nại về hoạt động tư pháp đã được quy định trong pháp lu ật tố tụng, đoạn
2 kho ản 1 Điều 1 trên còn gi ải thích: "Quy ền khi ếu nại của công dân đối với
quyết định của cơ quan ti ến hành t ố tụng hình s ự, dân s ự… do pháp lu ật tố
tụng… quy định".
3.1.2. Giai đoạn từ tháng 7/1996 đến tháng 7/2011
Sự ra đời của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996
(đã được sửa đổi, bổ sung các năm 1998 và 2006 đánh một dấu mốc quan trọng
trong sự phát triển pháp luật về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức thông qua xét x ử hành chính t ại Tòa án. Đồng thời, hàng lo ạt các văn bản
luật, pháp lệnh đều ghi nh ận quyền khiếu nại, khởi kiện đối với các quy ết định
hành chính, hành vi hành chính trong m ột số lĩnh vực pháp lu ật cụ thể và ngày
càng mở rộng quyền khiếu nại, khởi kiện, và cơ chế đảm bảo thực hiện quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự khi quyết định mang vụ việc khiếu kiện hành
chính của họ ra Tòa án để giải quyết. Từ 9 nhóm việc thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
năm 1996, đến 11 nhóm vi ệc theo Pháp l ệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính năm 1998 và 22 nhóm việc theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính năm 2006.
Ngày 05-4-2006, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
(gọi tắt là Pháp lệnh sửa đổi năm 2006) và pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ
ngày 01-6-2006. Pháp lệnh này có những điểm đáng chú ý sau đây:
70
Thứ nhất: Về điều kiện khởi kiện vụ án hành chính
Theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo sửa đổi năm 2005, thì sau khi
khiếu nại lên người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khi ếu nại không được giải quyết hoặc đã được
giải quyết, nhưng không đồng ý thì h ọ có quy ền khởi kiện vụ án hành chính t ại
Tòa án. Vì v ậy, Pháp lệnh sửa đổi năm 2006 đã bổ sung quy định về điều kiện
khởi kiện đối với trường hợp này là " đã khiếu nại lên người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật
về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết
nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai", đồng thời Pháp
lệnh sửa đổi năm 2006 cũng sửa đổi, bổ sung về điều kiện khởi kiện đối với các
loại khiếu kiện cụ thể thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại điều 11
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cho phù h ợp với quy định
của Luật khiếu nại, tố cáo.
Việc quy định như vậy có nghĩa là bắt buộc các cá nhân, tổ chức phải thực
hiện việc khiếu nại đến cơ quan hành chính nhà n ước trước khi kh ởi kiện vụ án
hành chính ra tòa án, dù muốn hay không.
Thứ hai: Về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Pháp lệnh sửa đổi năm 2006, đã bổ sung và quy định thêm các loại “khiếu
kiện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Nh ư vậy, thì chỉ những khiếu kiện đã
liệt kê, “đóng khung” tại các kho ản từ khoản 1 đến khoản 21 Điều 11 của pháp
lệnh, mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Các loại khiếu kiện mới ngoài
những khiếu kiện tại 21 khoản của Điều 11 đã quy định, phải có quy định do pháp
luật Việt Nam ho ặc điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên tham gia sau ngày
5/4/2006, có quy định do Tòa án giải quyết thì Tòa án mới giải quyết.
Thứ ba: Về phân bi ệt thẩm quyền trong tr ường hợp vừa kh ởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án vừa khiếu nại lên người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
lần hai
Về cơ bản, việc phân bi ệt thẩm quyền giải quyết đối với trường hợp vừa
khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án, vừa khiếu nại lên người có thẩm quyền giải
71
quyết khiếu nại lần hai đã quy định về quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa
án đối với trường hợp việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần hai: "Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản này,
nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của pháp luật về khiếu
nại, tố cáo mà khi ếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng
người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì có
quyền khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục chung, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác".
Điều 13 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính n ăm 1998
không quy định về quyền khiếu nại của đương sự, kiến nghị của Viện kiểm sát đối
với quyết định chuyển hồ sơ vụ án của Tòa án và gi ải quyết khiếu nại, kiến nghị
trong trường hợp này; do đó, đã hạn chế quyền khiếu nại, kiến nghị đối với quyết
định chuyển hồ sơ vụ án của Tòa án. Vì vậy, trong trường hợp có khiếu nại, kiến
nghị, Tòa án không biết căn cứ vào quy định nào của pháp luật để giải quyết. Tuy
nhiên, Pháp lệnh sửa đổi năm 2006, đã bổ sung về quyền khiếu nại, kiến nghị của
đương sự, Viện kiểm sát đối với quyết định của Tòa án về việc chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án có th ẩm quyền và việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với trường
hợp này.
Để kh ắc ph ục vi ệc quy định quá chung chung v ề vi ệc gi ải quy ết tranh
chấp về thẩm quyền giữa các tòa án, Pháp l ệnh sửa đổi năm 2006 quy định cụ
thể như sau:
Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án
cấp huyện trong cùng m ột tỉnh, thành ph ố trực thuộc Trung ương do
Chánh án Tòa án cấp tỉnh giải quyết.
Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án
cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau
hoặc giữa các Tòa án c ấp tỉnh do Chánh án Tòa án nhân dân t ối cao
giải quyết.
Thứ tư: Về thời hiệu khởi kiện
Pháp lệnh sửa đổi năm 2006, đã bổ sung thêm quy định về thời hiệu khởi
kiện tại điều 30 và quy định về thời hiệu khởi kiện đối với loại khiếu kiện khác
72
theo quy định của pháp lu ật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên tham gia. Cụ thể: "đối với trường hợp quy định
tại khoản 7 điều 2 của Pháp lệnh này thì th ời hiệu khởi kiện theo quy định của
pháp luật Việt Nam và và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên về trường hợp đó; nếu pháp luật Việt Nam và và điều ước quốc
tế không có quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện là ba mươi ngày,
kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai hay kể từ ngày
nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai".
Ngoài ra, những vấn đề pháp luật khác tạo nên một khung pháp lý tương đối
hoàn chỉnh cho một hệ pháp lu ật tố tụng như th ẩm quyền của những người tiến
hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, các quy định pháp luật
bắt buộc để tiến hành vận hành một quy trình xét xử một vụ án hành chính đã và
đang được hoàn thiện và bổ sung dần. Như vậy, xét ở góc độ xây dựng pháp luật,
những quy định của tố tụng hành chính đã có những tiến bộ nhất định.
3.1.3. Giai đoạn từ 01/07/2011 trở đi
Kế thừa và phát triển tinh thần của pháp luật về bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức của các giai đoạn trước, đặc biệt là trên cơ sở tổng kết
thực ti ễn thi hành Pháp l ệnh th ủ tục gi ải quy ết các v ụ án hành chính. Ngày
24/11/2010, Quốc hội đã ban hành Lu ật Tố tụng hành chính, thay th ế cho Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
3.1.3.1. Các văn bản pháp luật áp dụng
Để quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức tham gia tố tụng được đảm bảo
thông qua việc thực hiện các quy trình tố tụng tại Toà án một cách minh bạch, rõ
ràng và thông su ốt, bên cạnh Luật Tố tụng hành chính, còn ph ải kể đến các văn
bản pháp luật sau:
- Nghị quyết 56/2010/QH12 ngày 224/11/2010 của Quốc hội về thi hành
Luật Tố tụng hành chính
- Nghị quy ết 01/2011/NQ-HĐTP ngày 27/7/2011 hướng dẫn Nghị quy ết
56/2010/QH12 ngày 224/11/2010 của Qu ốc hội về thi hành Lu ật Tố tụng hành
chính do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành.
73
- Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 27/7/2011 hướng dẫn thi hành Luật
Tố tụng hành chính do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành.
- Nghị quyết 01/2015/NQ-HĐTP ngày 27/7/2015 hướng dẫn thi hành Luật
Tố tụng hành chính do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành.
- Nghị quyết 01/2012/NQ- HĐTP ngày 13/6/2012 hướng dẫn áp dụng một
số quy định pháp luật về lệ phí, án phí của Tòa án.
- Thông tư liên t ịch số 01/2012/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
18/9/2012 hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.
- Thông tư 03/2012/ TANDTC-VKSNDTC ngày 1/8/2012 hướng dẫn thi
hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính v ề ki ểm sát vi ệc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hành chính
3.1.3.2. Những nội dung quan trọng của Luật Tố tụng hành chính trong
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
Luật Tố tụng hành chính được thông qua với 18 chương và 265 Điều, quy
định nhiều nội dung mới cũng như bãi bỏ nhiều nội dung quan tr ọng trong Pháp
lệnh, theo hướng mở rộng quyền dân chủ của công dân khi khởi kiện vụ án hành
chính. So với Pháp lệnh, Luật tố tụng hành chính có những điểm đáng chú ý là:
Với dung lượng có 18 chương 265 điều quy định về những vấn đề trong tố
tụng hành chính, Lu ật tố tụng hành chính đã đánh dấu một bước nh ảy khá dài
trong kỹ thuật xây dựng pháp lu ật và các v ấn đề bảo đảm quyền lợi ích của các
đương sự trong tố tụng theo nguyên tắc pháp chế tương đối rõ ràng. Cụ thể là:
Thứ nhất: Những đảm bảo trong quy định pháp luật tố tụng liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ của đương sự trong các vụ án hành chính
- Về quyết định hành chính, hành vi hành chính - đối tượng khởi kiện trong
các vụ án hành chính.
Theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì
"quyết định hành chính" là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà
nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp
dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong
hoạt động quản lý hành chính.
74
Do quy định về việc giải thích thuật ngữ "quyết định hành chính" như trên
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nên d ẫn đến th ực tế có
nhiều cách hiểu khác nhau về "quyết định hành chính". Có ý kiến cho rằng quyết
định hành chính ph ải là văn bản thể hiện dưới hình th ức Quyết định do cơ quan
hành chính nhà n ước hoặc người có th ẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước ban hành được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về
một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước; các loại văn bản
thể hiện dưới hình thức khác như kết luận, thông báo, công văn... thì không được
coi là quy ết định hành chính và không thu ộc đối tượng kh ởi ki ện vụ án hành
chính. Ý ki ến khác lại cho rằng quyết định hành chính bao g ồm cả văn bản thể
hiện dưới hình th ức Quyết định và văn bản thể hiện dưới hình th ức khác do c ơ
quan nhà nước ban hành, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng
về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Cũng có ý kiến cho rằng
đối với văn bản của cơ quan nhà nước không được thể hiện dưới hình thức Quyết
định nhưng có chứa đựng nội dung quản lý hành chính nhà nước thì không coi là
quyết định hành chính mà coi đó là hành vi hành chính. T ừ các cách hi ểu khác
nhau này, nên việc thi hành trên thực tế là chưa được thống nhất.
Để khắc phục tồn tại nêu trên, Luật tố tụng hành chính đã quy định rất cụ
thể thế nào là quy ết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại
Tòa án: "Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà n ước, cơ
quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban
hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể" (khoản 1 Điều 3).
Người khởi kiện trong vụ án hành chính có th ể khởi kiện khi có các quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quy ết định kỷ luật buộc thôi vi ệc xâm hại
đến quyền và lợi ích của họ. Cụ thể là:
Quyết định hành chính là v ăn bản do c ơ quan hành chính nhà n ước, cơ
quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban
hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
75
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện
hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết
định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi
việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trải pháp luật
gây ra và giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính:
Điều 5 Luật Tố tụng hành chính quy định hết sức rõ ràng: cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này.
Về giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính Điều 6 luật này
quy định: Người khởi kiện, người có quy ền lợi, nghĩa vụ liên quan trong v ụ án
hành chính có th ể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này
các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật
về tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trường hợp trong vụ án hành chính có yêu c ầu bồi th ường thiệt hại mà
chưa có điều kiện để chứng minh thì Tòa án có th ể tách yêu cầu bồi thường thiệt
hại để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.
Trong tố tụng hành chính, cá nhân, c ơ quan, tổ chức có quy ền quyết định
việc khởi kiện vụ án hành chính. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi
có đơn kh ởi ki ện của ng ười kh ởi ki ện. Trong quá trình gi ải quy ết vụ án hành
chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình
theo quy định của Luật này.
Đặc biệt, Luật Tố tụng hành chính quy định: Cá nhân, cơ quan, tổ chức nếu
không đồng ý với quyết định hành chính, hành vi hành chính thì có quy ền khởi
kiện vụ án hành chính ra Tòa án, không đặt ra điều kiện phải khiếu nại đến cơ
quan có th ẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu rồi mới có quy ền khởi kiện ra
Tòa án như quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
76
Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức lựa chọn việc khiếu nại tại cơ quan
hành chính thì khi h ết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khi ếu
nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với
việc giải quyết khiếu nại lần đầu (hoặc lần hai) thì họ vẫn có quyền khởi kiện vụ
án hành chính t ại Tòa án. Tr ường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án
hành chính tại Tòa án có th ẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì th ẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của
người khởi kiện. Với quy định này, việc tự lựa chọn của người khởi kiện, bảo đảm
quyền và lợi ích cho ng ười khởi kiện được tônn trọng, người khởi kiện quyền tự
do lựa chọn khiếu nại tại cơ quan hành chính hay kh ởi kiện vụ án tại Tòa án mà
không bắt buộc phải qua th ủ tục khiếu nại (thủ tục tiền tố tụng) trước khi kh ởi
kiện. Quy định này được coi là b ước đổi mới căn bản về điều kiện, cơ chế giải
quyết khiếu kiện hành chính ở nước ta theo tinh th ần Nghị quyết số 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị là: "... đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành
chính tại Tòa án; tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng…".
- Vấn đề bảo đảm quyền bảo vệ và tự bảo vệ quyền lợi của đương sự, đảm
bảo hoạt động đối thoại trong tố tụng
Luật Tố tụng hành chính quy định: đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật
sư hay ng ười khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án có trách
nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án tạo điều kiện để các
đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án. Rõ ràng, đây là một điểm khá khác
biệt so với các quy định trước đây. Dù vậy, nó ph ản ánh một thực tế trong cu ộc
sống, đó là, cá nhân, cơ quan, tổ chức (dân) và cơ quan hành chính, người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (quan) thường ít gặp nhau về mặt quan
điểm trong xử lý vụ việc hành chính. Kể cả trong trường hợp một trong hai bên có
thiện chí trong thỏa thuận giải quyết vụ việc thì những bất lợi thường nghiêng về
phía người dân. Với quy định này, đối thoại được thực hiện giữa hai bên, có s ự
tham gia điều khiển các vấn đề đối thoại, hòa giải giữa các bên của Tòa án. Điều
này có thể làm cho vụ việc được thúc đẩy nhanh chóng hơn. Tuy vậy, đáng tiếc là
77
các quy định về vấn đề này còn nửa vời, chưa triệt để về phương thức, quy trình
và nội dung được thực hiện tại phiên đối thoại trong tố tụng do Tòa án tổ chức.
- Về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Điều 28 Lu ật tố tụng hành chính quy định nh ững khiếu kiện thu ộc th ẩm
quyền giải quyết của Tòa án theo hướng loại trừ, cụ thể là, Tòa án có thẩm quyền
giải quyết các khiếu kiện sau đây:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, tr ừ các quy ết
định hành chính, hành vi hành chính thu ộc phạm vi bí m ật nhà nước
trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngo ại giao theo danh m ục do
Chính phủ quy định và các quy ết định hành chính, hành vi hành chính
mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử
tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ
Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh.
Việc quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết các khiếu kiện hành chính
theo phương án lo ại trừ là phù h ợp với tinh th ần của Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó
là "Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khi ếu kiện hành chính";
đồng thời, cũng phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo; bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là điểm đổi mới quan trọng của Luật tố tụng hành
chính so với Pháp lệnh. Đồng thời, đảm bảo tính linh hoạt trong áp dụng pháp luật
tố tụng hành chính để xử lý các tình huống pháp luật mới phát sinh mà không cần
đợi phải cập nhật một cách máy móc vào pháp lu ật tố tụng mới được giải quyết
như trước đây nữa.
- Về thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là 30 ngày ho ặc 45 ngày tùy theo
78
từng trường hợp. Có thể nói, quy định thời hiệu như Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính là quá ngắn, cá nhân, cơ quan, tổ chức không có đủ thời gian
để chuẩn bị chứng cứ, lựa chọn, nhờ tư vấn trước khi khởi kiện... Tuy nhiên, nếu
quy định như thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự (02 năm) thì lại quá dài, không phù
hợp với tính ch ất đặc thù của việc giải quyết các khi ếu kiện hành chính. Vì vậy,
thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định
kỷ luật buộc thôi việc là 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định
hành chính, hành vi hành chính, quy ết định kỷ luật buộc thôi việc. Quy định này
cũng bảo đảm cho cá nhân, c ơ quan, tổ chức có th ời gian chu ẩn bị tốt cho vi ệc
khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án và phù hợp với tính chất đặc thù của khiếu
kiện hành chính.
- Về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự
Luật tố tụng hành chính quy định đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp;
nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì ph ải chịu hậu quả của việc
không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn các tài liệu, chứng cứ
mà mình đang lưu giữ, quản lư khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện Kiểm
sát; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương
sự, Tòa án, Viện Kiểm sát biết và nêu rõ lý do c ủa việc không cung cấp được tài
liệu, ch ứng cứ. Th ời hạn cung cấp ch ứng cứ cho Tòa án, Vi ện Ki ểm sát là 15
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, Viện Kiểm sát.
Nếu đương sự không th ể tự mình thu th ập được chứng cứ và có yêu c ầu
hoặc xét th ấy cần thiết, Tòa án có th ể tự mình ho ặc ủy thác ti ến hành xác minh,
thu thập chứng cứ để làm rõ các tình ti ết của vụ án. Các biện pháp xác minh, thu
thập chứng cứ bao gồm: Lấy lời khai của đương sự; lấy lời khai người làm chứng;
đối chất; xem xét, thẩm định tại chỗ; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài
sản, thẩm định giá tài sản; ủy thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp chứng cứ.
79
Nếu đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà
không thể tự mình thu th ập được thì có th ể yêu cầu Tòa án ti ến hành thu th ập
chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính đúng đắn. Đương
sự yêu cầu Tòa án ti ến hành thu th ập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ v ấn đề cần
chứng minh, chứng cứ cần thu thập và lý do vì sao tự mình không thu thập được.
Tòa án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang
quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.
Rõ ràng, các quy định này rất cần thiết, ràng buộc trách nhiệm của cá nhân,
cơ quan, tổ chức, tạo điều kiện cho Tòa án s ớm thu th ập được chứng cứ để giải
quyết nhanh và chính xác v ụ án hành chính. Đồng thời, tháo gỡ rất nhiều những
vướng mắc cho cá nhân, t ổ ch ức là ng ười bị ki ện trong quá trình tìm ki ếm các
thông tin, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình, trong khi, đa phần các tài liệu,
chứng cứ đó được lưu trữ tại các cơ quan hành chính.
- Về việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trong quá trình gi ải quy ết vụ án, bi ện pháp kh ẩn cấp tạm th ời được áp
dụng để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo
toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm
việc thi hành án.
Như vậy, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không phải
thực hi ện bi ện pháp bảo đảm. Vê nguyên t ắc, khi đã ra tr ước Tòa án, các bên
đương sự đều bình đẳng trước pháp luật. Nếu quy định người dân khi yêu cầu Tòa
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm, thì đối
với người bị kiện là cơ quan nhà nước, người có th ẩm quyền trong cơ quan nhà
nước khi yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng phải thực hiện
biện pháp bảo đảm. Với tính chất đặc thù của khiếu kiện hành chính - bên kh ởi
kiện là cá nhân, c ơ quan, tổ chức, còn bên b ị kiện là cơ quan nhà n ước, người
có th ẩm quy ền trong c ơ quan nhà n ước thì có th ể th ấy rằng bên kh ởi ki ện
thường có phần yếu thế hơn so với bên bị kiện. Vì vậy, nếu quy định người yêu
cầu áp dụng biện pháp kh ẩn cấp tạm thời phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì
có phần hạn chế quyền của người dân được yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
80
ích hợp pháp c ủa họ, đặc biệt là đối với đương sự thuộc diện nghèo, điều kiện
kinh tế khó khăn...
Thứ hai: Những đảm bảo trong quy định pháp luật tố tụng về nghĩa vụ của
các bên đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng
- Về trách nhi ệm của cơ quan ti ến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
hành chính luật quy định
Cơ quan ti ến hành tố tụng, ng ười ti ến hành tố tụng hành chính ph ải tôn
trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; chịu trách nhiệm trước pháp luật
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố
tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử
lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; phải
giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thu ần
phong mỹ tục của dân tộc; giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời
tư của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.
Người tiến hành tố tụng hành chính có hành vi trái pháp lu ật gây thiệt hại
cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì cơ quan có người tiến hành tố tụng đó phải bồi
thường cho ng ười bị thi ệt hại theo quy định của pháp lu ật về trách nhi ệm bồi
thường của Nhà nước.
- Về sự tham gia tố tụng hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân
Tố tụng hành chính không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính c ủa
Viện Kiểm sát nhân dân. Việc không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của
Viện Kiểm sát nhân dân trong Lu ật tố tụng hành chính xuất phát từ những lý do:
Theo quy định của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân thì Viện Kiểm sát nhân
dân là cơ quan tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân là người
tiến hành tố tụng tại phiên tòa; do đó, nếu quy định Viện Kiểm sát nhân dân có
quyền khởi tố vụ án hành chính v ới vai trò của người tham gia tố tụng là không
phù hợp với chức năng của Viện Kiểm sát. Mặt khác, mặc dù Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính đã quy định thẩm quyền này cho Viện Kiểm sát,
nhưng thực tiễn trong những năm qua, Viện Kiểm sát nhân dân chưa khởi tố vụ án
hành chính nào.
81
Dù không quy định quy ền kh ởi tố vụ án hành chính c ủa Vi ện Ki ểm sát
nhân dân, nhưng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một số đối tượng nhất
định, nhưng Viện Kiểm sát nhân dân trong vi ệc kiến nghị với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cử người giám hộ đứng ra kh ởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ
quyền và lợi ích cho các đối tượng đó; cụ thể là: Đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân s ự, nếu họ không có ng ười khởi kiện thì
Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người
đó cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho người đó.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không phát bi ểu
quan điểm của Viện Kiểm sát về việc giải quyết vụ án mà chỉ sau khi những người
tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành
chính, kể từ khi th ụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Như vậy vừa bảo đảm Viện Kiểm sát th ực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của
mình trong tố tụng hành chính, phù h ợp với từng giai đoạn tố tụng, vừa bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm
Theo quy định của Lu ật tố tụng hành chính, khi gi ải quy ết vụ án hành
chính, Hội đồng xét xử sơ thẩm có quyền quyết định:
- Bác yêu cầu khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật;
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần
hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp lu ật; buộc cơ quan nhà nước hoặc
người có th ẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo
quy định của pháp luật;
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên bố một số hoặc
toàn bộ các hành vi hành chính là trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật;
82
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc
trái pháp luật; buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ
theo quy định của pháp luật;
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần
hoặc toàn bộ quy ết định giải quyết khiếu nại về quy ết định xử lý vụ vi ệc cạnh
tranh trái pháp luật; buộc cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh giải quyết lại vụ việc theo quy
định của Luật Cạnh tranh;
- Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; buộc cơ quan lập
danh sách cử tri sửa đổi, bổ sung danh sách cử tri theo quy định của pháp luật;
- Buộc cơ quan, tổ chức bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành
vi hành chính, quy ết định kỷ luật buộc thôi vi ệc, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh trái pháp luật gây ra;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người đứng đầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền của cơ quan nhà nước.
Việc quy định cụ thể thẩm quyền của Hội đồng xét xử như vậy là bảo đảm
cho bản án, quyết định của Tòa án được cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho việc thi
hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thuận lợi, có hiệu
quả; đồng thời, giúp cho việc xác định trách nhiệm đối với người không chấp hành
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được dễ dàng hơn.
3.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA
TỔ CH ỨC, CÁ NHÂN THÔNG QUA HO ẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH CỦA
TÒA ÁN
3.2.1. Tình hình về xét xử án hành chính tại Tòa án nhân dân
3.2.1.1. Tình hình chung
Sau khi thành lập và hoạt động, theo Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân
dân các năm về kết qu ả gi ải quy ết các v ụ án hành chính (v ề số lượng và ch ất
lượng) của Tòa án nhân dân các cấp được thể hiện như sau:
83
- Năm 1998: Tổng số các vụ án đã thụ lý 282 vụ, đạt tỷ lệ 80,5%.
- Năm 1999: Tổng số các vụ án đã thụ lý 408 vụ, đã xét xử 319 vụ, đạt tỷ
lệ 78,1%.
- Năm 2000: Tổng số các vụ án đã thụ lý 539 vụ, đã giải quyết được 419 vụ
đạt tỷ lệ 77,7%.
- Năm 2001: Tổng số các vụ án đã thụ lý 803 vụ, đã giải quyết 564 vụ, đạt 70,2%.
- Năm 2002: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.308 vụ, đã giải quyết 770 vụ,
đạt tỷ lệ 72,3%.
- Năm 2003: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.458 v ụ, đã giải quyết được
1.247 vụ, đạt tỷ lệ 86,6%.
- Năm 2004: Tổng số các vụ án đã thụ lý 1.746 vụ, đã giải quyết 1.524 vụ,
đạt tỷ lệ 87,3%.
So với năm trước, các Tòa án đã xét xử nhiều hơn 277 vụ, cao hơn 22% và
vượt 2,3% so với chỉ tiêu đề ra đầu năm.
Tỷ lệ các vụ án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy là 3,22%, bị sửa
là 5,97%.
Tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy là 0,45%, bị
sửa là 0,85%.
- Năm 2005: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.361 v ụ, đã giải quyết được
1.201 vụ, đạt 88,2% cao hơn năm trước 0,9% và vượt 2,2% so với chỉ tiêu đề ra từ
đầu năm.
Tỷ lệ các b ản án, quy ết định gi ải quy ết các v ụ án hành chính b ị hủy là
6,8%, bị sửa là 5,7%. So v ới năm 2004, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy tăng
3,1%, bị sửa giảm 0,9%.
- Năm 2006: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.232 v ụ, đã giải quyết được
1.081 vụ, đạt 87,7%, vượt 1,7% so với chỉ tiêu đề ra từ đầu năm.
Tỷ lệ các b ản án, quy ết định gi ải quy ết các v ụ án hành chính b ị hủy là
6,2%, bị sửa là 4,7%. So với năm 2005, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy giảm
0,2%, bị sửa giảm 1%. Trong đó, tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm bị hủy để giải quyết lại chiếm 9,3%, sửa chiếm 7%, tỷ lệ các bản án, quyết
định của Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy chiếm 2,3%, sửa chiếm 0,3%.
84
- Năm 2007: Tổng số các vụ án đã thụ lý là 1.686 v ụ, đã giải quyết 1.546
vụ án, đạt 91,7%, tăng hơn cùng kỳ năm trước 6,2% và vượt 6,7% so với chỉ tiêu
đề ra.
Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết án hành chính bị hủy là 6,27%, bị
sửa là 3,75%. So v ới năm 2006, tỷ lệ các bản án, quy ết định về hành chính hủy
tăng 0,07%, bị sửa giảm 0,95%.
- Năm 2008: Tổng số vụ án đã thụ lý là 1.399 v ụ án hành chính, đã giải
quyết 1.234 vụ, đạt tỷ lệ 88% vượt chỉ tiêu đề ra là 1%.
Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết án hành chính bị hủy là 4,62%, bị
sửa là 6% [102].
- Năm 2009: Tổng số vụ án đã thụ lý là 1.092 v ụ án hành chính, đã giải
quyết 869 vụ, đạt tỷ lệ 80%.
Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết án hành chính bị hủy là 6,92%, bị
sửa là 4,77% [100].
- Năm 2010: Tổng số vụ án đã thụ lý là 1.194 v ụ án hành chính, đã giải
quyết 976 vụ, đạt tỷ lệ 82%.
Tỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết án hành chính bị hủy là 6,15%, bị
sửa là 6,22% [101].
- Năm 2011: Tổng số vụ án đã thụ lý là 1.706 v ụ án hành chính, đã giải
quyết 1.236 vụ, đạt tỷ lệ 72%.
Tỷ lệ các bản án, quy ết định giải quyết án hành chính b ị hủy là 4,5%, b ị
sửa là 8,5% [103].
- Năm 2012: Toà án nhân dân các c ấp đã thụ lý 6.177 v ụ án hành chính,
tăng 3.854 vụ (bằng 166%) so với cùng kỳ năm 2011; đã giải quyết, xét xử được
4.742 vụ (đạt 77%), tăng 2.952 vụ. Trong đó, giải quyết, xét xử theo th ủ tục sơ
thẩm 3.834 vụ; theo thủ tục phúc thẩm 878 vụ và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm 30 vụ.
Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 3,5% (do nguyên nhân chủ quan 3%
và do nguyên nhân khách quan 0,5%); bị sửa là 3,1% (do nguyên nhân ch ủ quan
2,7% và do nguyên nhân khách quan 0,4%). So v ới cùng kỳ năm 2011, tỷ lệ các
bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan giảm 1,6% [104].
85
- Năm 2013: Tổng số vụ án đã thụ lý 5.858 vụ án hành chính, đã giải quyết
4.671 vụ, đạt tỷ lệ 79%. Tỷ lệ các bản án, quy ết định bị huỷ là 3,4%, b ị sửa là
4,2%; năm 2014 tỷ lệ các bản án, quyết định bị huỷ là 4,64%, bị sửa là 4,3%.
Tỷ lệ các bản án, quy ết định giải quyết án hành chính b ị hủy là 3,4%, b ị
sửa là 4,2% [105].
Đánh giá chung: số liệu tổng kết công tác xét xử các vụ án hành chính của
ngành Toà án, chúng ta nh ận thấy số vụ án hành chính t ừ năm 2011 tăng mạnh
mẽ. Sở dĩ nh ư vậy là vì Lu ật tố tụng hành chính b ắt đầu có hi ệu lực từ ngày
01/7/2011 thay thế Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. So với Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì Lu ật tố tụng hành chính có r ất
nhiều điểm mới, trong đó đã mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các
khiếu kiện hành chính và nới lỏng toàn bộ các điều kiện khởi kiện, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa người khởi
kiện (người dân) với người bị kiện (cơ quan quản lý hành chính nhà nước và các
cơ quan, tổ chức khác trong hoạt động quản lý hành chính trước Toà án. Khi luật
đi vào cuộc sống, nhận thức của người dân được nâng cao nên đã khởi kiện vụ án
hành chính tại Toà án khi cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan hành chính ho ặc người có th ẩm quyền trong cơ quan hành chính là trái
luật, gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3.2.1.2. Đánh giá chung về chất lượng giải quyết các vụ án hành chính
- Sau 18 năm (từ 1996 đến 2014) giải quyết các vụ án hành chính, Tòa án
các cấp góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Nếu như trước đây, trong
quá trình quản lý, điều hành Nhà nước, cơ quan hành chính chỉ căn cứ vào Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân một cách chung chung để ban hành
các quyết định hành chính, thì nay đã căn cứ cụ thể vào các v ăn bản quy ph ạm
pháp luật có liên quan để ban hành quyết định hành chính theo đúng trình tự, thủ
tục, thẩm quyền mà pháp luật đã quy định. Việc thành lập Tòa hành chính đã góp
phần thúc đẩy quá trình cải cách nền hành chính nhà nước, buộc các cơ quan nhà
nước phải tự nâng cao n ăng lực quản lý và ý th ức trách nhi ệm; làm cho các c ơ
quan quản lý hành chính ph ải thận trọng, cân nh ắc hơn khi ban hành m ột quyết
định hành chính hay có hành vi hành chính. Nh ư vậy, việc đảm bảo quyền và lợi
86
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đã được cơ quan hành pháp ý thức ngay từ ban
đầu trong quá trình tiếp xúc và giải quyết các nhu cầu của công dân trong các mối
quan hệ hành chính.
Tòa Hành chính các cấp đã khẳng định được vị trí của mình trong đời sống
xã hội và là công cụ không thể thiếu được trong công cuộc đổi mới đất nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kết quả giải quyết các vụ án hành
chính của Tòa án các c ấp đã khẳng định vai trò to l ớn của quá trình gi ải quyết
khiếu kiện hành chính bằng con đường tư pháp.
Thông qua ho ạt động của Tòa Hành chính các c ấp, về phía ng ười dân đã
quan tâm và tin t ưởng vào sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới tư pháp nói
riêng, xem đây là bước phát triển của cải cách tư pháp phục vụ công cuộc đổi mới
của đất nước. Sau khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hi ệu
lực thi hành, người dân rất hy vọng và tin tưởng vào phán xét của Tòa Hành chính.
Nhân dân và công luận quan tâm đến tính công khai, minh bạch của phiên tòa xét
xử. Các quyết định của cơ quan hành chính được ban hành không đúng trình tự,
thủ tục, thẩm quyền, nội dung mà pháp luật quy định khi bị Tòa án tuyên xử hủy
bỏ là thực tế minh chứng cho sự cần thiết của phán quyết hành chính. Ngược lại,
khi các yêu cầu khởi kiện của công dân không được Tòa án chấp nhận cũng giúp
cho người khởi kiện hiểu biết và nắm vững hơn pháp luật, thông suốt những quyết
định của cơ quan qu ản lý hành chính nhà n ước, từ đó tự nguyện thực hiện trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình. Mặt khác đó cũng là sự cân nhắc, thận trọng của những
người khiếu kiện khác.
Qua rà soát các v ăn bản pháp lu ật liên quan đến thẩm quyền xét xử hành
chính cũng như tình hình giải quyết các vụ án hành chính trong th ời gian qua kể
từ khi Tòa án th ực hiện chức năng xét xử hành chính, vi ệc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức đã chuyển biến tích cực, đánh dấu một bước
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng cũng như chất lượng. Đây cũng là một nội
dung rất cơ bản và quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam, đồng
thời thể hiện một bước vai trò tích c ực của nhà nước, của Tòa án trong vi ệc bảo
vệ quyền con người, của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công
dân ở nước ta.
87
Tuy nhiên, do đây là một loại hình tư pháp mới ở Việt Nam nên qua th ực
trạng xét x ử hành chính c ủa Tòa án, v ấn đề bảo đảm quyền, lợi ích h ợp pháp
của cá nhân, t ổ ch ức còn g ặp ph ải một số vướng mắc, nhi ều sai sót c ần ph ải
khắc phục.
3.2.2. Những vướng mắc trong vi ệc áp dụng pháp lu ật Tố tụng hành
chính và pháp luật Hành chính tại Tòa án
Như trên đã trình bày, ngày 21/5/1996, Ủy ban Th ường vụ Qu ốc hội đã
thông qua Pháp l ệnh Th ủ tục gi ải quy ết các v ụ án hành chính (có hi ệu lực từ
01/7/1996, được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và 2006) và Luật Tố tụng hành chính
năm 2011. Dù đã có rất nhiều tiến bộ trong công tác lập pháp, nhưng để đáp ứng
tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhiều quy định của Luật Tố tụng
hành chính còn có nh ững bất cập, chưa rõ ràng, c ụ thể hoặc chưa đầy đủ, chưa
hoàn thiện, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng vào thực tiễn giải quyết các vụ án
hành chính có sự khác nhau, làm ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề bảo đảm quyền
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng.
3.2.2.1. Những vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của Luật
tố tụng hành chính
Một số vướng mắc trong quá trình áp d ụng Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính đã được giải quyết bởi các quy định mới, chặt chẽ hơn theo
hướng có lợi cho đương sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tham
gia tố tụng. Tuy nhiên, Luật tố tụng hành chính vẫn có những điểm còn thiếu sót,
quy định chưa rõ ràng, dẫn đến qúa trình áp dụng, thực thi pháp luật còn có những
lúng túng, vướng mắc không tránh khỏi.
Thứ nhất: Vấn đề thẩm quyền theo loại việc của Tòa án
- "Các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ
quan, tổ chức" không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là những loại quyết
định, hành vi nào? Hi ện nay, nhiều quan điểm chưa thống nhất thuật ngữ "quyết
định mang tính nội bộ", bởi vậy còn có những vụ việc dân chưa dám kiện đến tòa
vì băn khoăn không biết vụ việc của mình có ph ải là vụ việc nội bộ hay không?
Hoặc ngược lại, cá nhân, tổ chức đã nộp đơn khởi kiện đến tòa án nhưng bị từ chối
thụ lý với lý do không vụ án không thuộc thẩm quyền.
88
So với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Hành chính trước đây loại việc
thuộc thẩm quyền giải quy ết của Tòa án ch ỉ được quy định tại điều 11 gồm 22
khoản. Nay Lu ật Tố tụng hành chính quy định về th ẩm quy ền của Tòa án theo
phương pháp loại trừ như quy định ở trên thì phạm vi thẩm quyền được mở rộng, do
vậy có rất nhiều loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy nhiên, khi
xem xét thẩm quyền của Tòa án theo loại việc cần chú ý một số vấn đề sau đây:
Ví dụ 1: Việc không ban hành quy ết định bố trí tuyển dụng công chức có
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng hành chính không?
Bà Nguyễn Thị Huyền My, xã Quảng Thọ, Quảng Trạch, Quảng Bình vừa
có đơn gửi các cơ quan ch ức năng phản ánh vi ệc bà đã trúng tuy ển công ch ức
nhưng Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch không ra quyết định bố trí tuyển dụng.
Theo nội dung đơn, tháng 12.2012, Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch ra
thông báo tuyển dụng một số chức danh tại các phòng ban thuộc Ủy ban nhân dân
huyện. Th ấy mình có đủ điều ki ện dự tuy ển, bà My đã nộp hồ sơ đăng ký xét
tuyển. Ngày 02.3.2013, Hội đồng xét tuy ển viên ch ức các phòng, ban đơn vị sự
nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân huy ện Quảng Trạch đã tiến hành phiên họp lần 2
xét tuyển hồ sơ đăng ký dự tuyển và kết quả có 7 người trúng tuyển vào các chức
danh Ủy ban nhân dân huyện cần tuyển dụng, trong đó có bà My. Ngày 8.3.2013,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huy ện Quảng Trạch có quyết định công nhận kết quả
xét tuyển công chức sự nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân huy ện năm 2013 đối
với 7 tr ường hợp nói trên, trong đó có bà My. Đến nay, 6 tr ường hợp trong số 7
người nói trên đều có quyết định tuyển dụng công chức của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện và được bố trí về làm việc tại các phòng, ban, đơn vị sự nghiệp thuộc
Ủy ban nhân dân huy ện. Riêng đối với bà My v ẫn ch ưa nhận được quy ết định
tuyển dụng và bố trí công việc.
Trong trường hợp này, để trả lời câu hỏi: Nếu bà My khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án, thì vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa không? Hiện
đang có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Đây là một hành vi hành chính (không hành
động) của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch về việc không ban hành
quyết định công nhận kết quả tuyển dụng công chức và bố trí việc làm cho bà My.
89
Hành vi hành chính này th ỏa mãn toàn b ộ các d ấu hi ệu của một hành vi hành
chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Và quan trọng hơn nữa nó xâm
phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà My. Do đó, khiếu kiện này
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án c ủa Tòa án theo quy định tại khoản 1
Điều 28.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Nếu bà My khiếu kiện thì Tòa án không được
thụ lý để giải quyết vì rằng việc nhận người vào làm việc tại cơ quan, tổ chức và
bố trí việc làm cho các thành viên cơ quan, tổ chức là thuộc nội bộ của cơ quan, tổ
chức đó. Điều này thuộc phạm vi loại trừ theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật
tố tụng hành chính.
- Tại khoản 3 Điều 28 Lu ật tố tụng hành chính quy định loại việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án là "Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc
công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống". Trong số các
loại hình thức kỷ luật mà Luật Cán bộ, công chức quy định thì hình th ức kỷ luật
buộc thôi việc là chế tài nặng nề nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sự
nghiệp của người bị kỷ luật, do đó cần được quyền khởi kiện đến Tòa án nếu cho
rằng việc kỷ luật đó là trái pháp luật. Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức,
việc buộc một người thôi vi ệc không ch ỉ duy nh ất bằng hình th ức kỷ luật do có
hành vi vi ph ạm kỷ lu ật mà còn có nhi ều căn cứ khác nữa. Ch ẳng hạn nh ư tại
khoản 3 Điều 58 của Luật Cán bộ, công ch ức thì "Công ch ức 02 năm liên ti ếp
không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết
buộc thôi vi ệc". Hoặc là, tại khoản 1 Điều 59 Lu ật Cán bộ, công ch ức còn quy
định: công chức thôi việc "do sắp xếp tổ chức". Trên thực tế còn xảy ra nhiều hình
thức buộc thôi việc khác nữa.
Ví dụ 2: Quy ết định hủy bỏ kết quả trúng tuy ển công ch ức có được khởi
kiện không?
Việc bà Trần Thị Diệu Hương khởi kiện Trung tâm Y tế Dự phòng huyện
Bố Tr ạch và Sở Nội vụ tỉnh Qu ảng Bình. Bà H ương là ng ười trúng tuy ển viên
chức sự nghiệp do Sở Y tế Quảng Bình tổ chức xét tuyển và đã được Sở Nội vụ
duyệt kết quả tuyển dụng. Tuy nhiên, sau khi bà H ương được bố trí làm vi ệc tại
Trung tâm Y tế Dự phòng huyện Bố Trạch chưa được bao lâu thì Sở Nội vụ tỉnh
90
Quảng Bình ban hành quy ết định hủy bỏ quyết định phê duyệt kết quả xét tuyển
nên Trung tâm Y tế Dự phòng huyện Bố Trạch ban hành quyết định chấm dứt hợp
đồng lao động (hợp đồng thử việc theo quy định) đối với bà Hương. Vụ kiện được
Tòa án nhân dân t ỉnh Quảng Bình xét x ử sơ thẩm tuyên hủy quyết định của Sở
Nội vụ và buộc Trung tâm Y tế Dự phòng huyện Bố Trạch bố trí lại công việc cho
bà Hương. Theo kháng cáo của bên bị kiện, Tòa phúc th ẩm Tòa án nhân dân t ối
cao tại Đà Nẵng đã xử hủy bản án sơ thẩm vì cho rằng vụ việc không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án, bởi đây không phải là "quyết định kỷ luật buộc thôi
việc" nên theo quy định của Luật tố tụng hành chính hi ện hành thì không thu ộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điêu 28.
Ví dụ 3: Quyết định cho cho thôi vi ệc đối với công chức trái pháp luật có
phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?
Trường hợp của bà Nguyễn Thị Hoạt là giáo viên bị Ủy ban nhân dân thành
phố Đ. ban hành quy ết định "cho thôi vi ệc" trong khi bà Ho ạt không có nguy ện
vọng xin thôi việc để "cho thôi việc". Không đồng ý với quyết định này, bà Hoạt
đã khởi kiện vụ án hành chính nhưng Tòa án không thụ lý vì cho rằng đây là quyết
định "cho thôi việc" chứ không phải là "quyết định kỷ luật buộc thôi việc".
Trên thực tế có nhiều cơ quan nhà nước, người đứng đầu trong các cơ quan
hành chính nhà n ước ban hành quy định cho công ch ức ngh ỉ hưu sớm, nh ững
người không đủ điều kiện nghỉ hưu phải nghỉ hưu làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của công chức. Như vậy, quyết định kỷ luật cho thôi việc chỉ là một dạng của hình
thức bu ộc thôi vi ệc, quy ết định cho công ch ức ngh ỉ hưu trái pháp lu ật… dù ở
trong trường hợp nào cũng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sự nghiệp
của người phải thôi việc. Do đó, nếu họ cho rằng việc cơ quan, tổ chức buộc họ
thôi việc là trái pháp luật thì đều phải được quyền khởi kiện đến Tòa án.
Tại khoản 3 Điều 28 Luật tố tụng hành chính quy định loại việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án là "Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công
chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống". Trong số các loại hình
thức kỷ luật mà Luật Cán bộ, công chức quy định thì hình thức kỷ luật buộc thôi
việc là chế tài nặng nề nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sự nghiệp của
người bị kỷ luật, do đó cần được quyền khởi kiện đến Tòa án nếu cho rằng việc kỷ
91
luật đó là trái pháp lu ật. Theo quy định của Luật Cán bộ, công ch ức, việc buộc
một người thôi việc không ch ỉ duy nh ất bằng hình thức kỷ luật do có hành vi vi
phạm kỷ luật mà còn có nhiều căn cứ khác nữa. Chẳng hạn như tại khoản 3 Điều
58 của Luật Cán bộ, công chức thì "Công chức 02 năm liên tiếp không hoàn thành
nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có th ẩm quyền giải quyết buộc thôi việc".
Hoặc là, tại khoản 1 Điều 59 Lu ật Cán bộ, công ch ức còn quy định: công ch ức
thôi việc "do sắp xếp tổ chức". Trên thực tế còn xảy ra nhiều hình thức buộc thôi
việc khác nữa. Vậy nếu có yêu cầu khởi kiện đối với quyết định cho thôi việc trái
pháp luật thì Tòa án có thụ lý để giải quyết không?
- Lu ật Cán bộ, công ch ức hiện nay ch ỉ điều ch ỉnh đối tượng là "cán b ộ,
công chức" còn đối tượng là "viên chức" sẽ được điều chỉnh bởi Luật Viên chức.
Theo quy định như hiện nay thì viên ch ức bị buộc thôi vi ệc trái pháp lu ật họ sẽ
khởi kiện theo th ủ tục tố tụng nào (vì đối tượng này không thu ộc sự điều chỉnh
của Bộ luật Lao động nên không thể giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự)?
Thứ hai: Phân định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án
- Theo quy định tại Điều 29 Luật Tố tụng hành chính quy định:Tòa án cấp
huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những:
… khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính c ủa cơ quan
nhà nước từ cấp huy ện tr ở xu ống trên cùng ph ạm vi địa gi ới hành
chính với Tòa án ho ặc của người có th ẩm quyền trong cơ quan hành
chính đó…
Điều 30 Luật tố tụng hành chính quy định:
Tòa án nhân dân t ỉnh, thành ph ố tr ực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là Tòa án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những "khiếu
kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thu ộc Chính ph ủ, Văn phòng Ch ủ tịch nước, Văn phòng
Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và quy ết định hành chính, hành vi hành chính c ủa
người có th ẩm quyền trong cơ quan đó mà ng ười khởi kiện có nơi cư
trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với
Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc
92
hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa
án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành
vi hành chính";
Điều 1 của Nghị quyết 02 h ướng dẫn thi hành Lu ật Tố tụng hành chính
quy định:
Quyết định hành chính thu ộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ án hành chính… bao gồm:
a) Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban
hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản
lý hành chính;
b) Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội
dung sửa đổi, bổ sung, thay th ế,hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết
định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản này.
Vậy với các quy định trên sẽ dẫn đến vướng mắc: một người có đơn khởi
kiện vừa có yêu cầu đề nghị Tòa án hủy quyết định hành chính của Ủy ban nhân
dân cấp huyện, đồng thời đề nghị hủy quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (có cùng một nội dung xâm hại) thì Tòa án cấp nào sẽ
giải quyết?
- Theo Lu ật Tố tụng hành chính, quy ết định hành chính thu ộc đối tượng
khởi kiện là:
Văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc
người có th ẩm quyền trong các c ơ quan, tổ ch ức đó ban hành, quy ết
định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính... Hành
vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác ho ặc người có th ẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực
hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định pháp luật.
Tại khoản 3 Điều 5 thông tư số 19/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn tập sự
hành nghề luật sư có quy định:
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ban chủ
nhiệm Đoàn luật sư ra quyết định về việc đăng ký tập sự hành nghề luật
93
sư và ghi tên người tập sự hành nghề luật sư vào danh sách người tập sự
của Đoàn luật sư; trong tr ường hợp từ ch ối phải thông báo b ằng văn
bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định
tại Điều 37 của Thông tư này.
Đoàn luật sư không ph ải là cơ quan nhà n ước mà là m ột tổ ch ức xã hội
nghề nghiệp, khi Ban chủ nhiệm của Đoàn luật sư không thực hiện hành vi mang
tính chất quản lý hành chính là: “ghi tên người tập sự hành nghề luật sư vào danh
sách người tập sự của Đoàn luật sư” theo quy định tại quy định trên thì không tìm
thấy cơ sở pháp lý t ương ứng được quy định tại Điều 29, Điều 30 Lu ật tố tụng
hành chính về thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ. Do đó, dù ở Tòa án
cấp huyện hay cấp tỉnh thì cũng không có tòa nào th ụ lý, bởi vì tại các điều luật
này chỉ quy định việc Tòa án thụ lý giải quyết đối với các quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan nhà nước mà thôi. Điều này cho thấy vướng mắc
này tương đối là điển hình về việc các quy định pháp luật tố tụng của hành chính
chưa đảm bảo được quyền và lợi ích của công dân, khi mà chính các luật sư - một
trong các yếu tố đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án
hành chính - vẫn chưa tìm thấy căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho chính họ
ngay từ đầu khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại.
Thứ ba: Về thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong vụ án hành chính
Khoản 5 điều 103 Hi ến pháp năm 2013 quy định “nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được đảm bảo”, tuy nhiên, hi ện nay, trong Lu ật tố tụng hành chính
vẫn chưa có bất kỳ một điều luật nào quy định rõ ràng về vấn đề này. Nguyên tắc
tranh tụng đòi hỏi hoạt động xét xử hành chính phải bảo đảm tranh tụng giữa giữa
các đương sự với nhau và những người này có quyền bình đẳng trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh lu ận dân chủ trước tòa án. Tòa án có
trách nhiệm bảo đảm các điều kiện theo quy định của luật để họ thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ trong việc tranh tụng. Bản án, quyết định của Tòa án phải
căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh
giá tại phiên tòa. Do vậy, còn có nhiều rào cản trong tố tụng.
- Về thủ tục hành chính của Tòa án trong xác định, triệu tập người tham gia
tố tụng:
94
Hiện nay, trong t ố tụng hành chính, th ủ tục tòa án c ấp gi ấy ch ứng nh ận
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhiều khi thủ tục này còn
có những cản trở cho lu ật sư khi tham gia b ảo vệ quyền và lợi ích cho thân ch ủ
của mình. Thật ra, quy ền mời luật sư bảo vệ cho mình thu ộc quyền tự định đoạt
của đương sự. Vậy, khi đương sự có yêu c ầu, luật sư xuất trình th ẻ luật sư, văn
bản yêu cầu nhờ luật sư là đã thể hiện ý chí của đương sự, tòa án chỉ làm thủ tục
đăng ký và tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng.
Bên cạnh đó, nhằm đề cao vai trò và trách nhi ệm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể xã hội trong tố tụng hành chính, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
khi được đương sự yêu cầu. Tòa án cần triệu tập luật sư và những người tham gia
tố tụng khác có liên quan vi ệc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm để trình bày nh ững vấn đề liên quan v ụ án ch ứ không ph ải “có th ể” hoặc
“xét thấy cần thiết” như quy định của pháp luật hiện hành.
- Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong hoạt động chứng minh
So với Pháp lệnh thì Luật tố tụng hành chính đã có những quy định cụ thể
và chi tiết về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Điều này có ý
nghĩa thiết thực trong việc đảm bảo cá nhân, tổ chức trong việc bảo vệ lợi ích của
khách hàng, góp ph ần giải quyết vụ án hành chính khách quan, đúng đắn. Đồng
thời, thể hiện sự tiến bộ trong tư duy lập pháp, ví dụ như quy định người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp được "nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao
chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án…", "được biết, đọc, ghi chép, sao ch ụp
và xem những tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp hoặc do Tòa án thu
thập", "yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý chứng cứ cung cấp
chứng cứ đó cho mình"… Song song với những quy định này, Luật cũng quy định
về "trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền" (Điều 9), nếu không cung cấp được phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý
do. Tuy nhiên, Luật tố tụng hành chính lại chưa hề có quy định về thời hạn để các
chủ thể này thực hiện trách nhiệm khi được yêu cầu và cũng không có chế tài đối
với trường hợp họ không thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ. Do đó
sẽ gây khó khăn cho đương sự khi thực hiện các quyền tố tụng của họ.
95
- Vấn đề thực hiện thủ tục "thỏa thuận về việc giải quyết vụ án" tại Tòa án
Khác với quy định tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
và Bộ luật Tố tụng dân sự, trong Lu ật Tố tụng hành chính không quy định thủ
tục "hòa giải" hay "thỏa thuận" với nhau về giải quyết vụ án mà có quy định về
việc "đối thoại" giữa các bên. Tuy nhiên, th ủ tục này chỉ được quy định hết sức
chung chung, ng ắn gọn tại Điều 12 Lu ật Tố tụng hành chính: "Trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính, Tòa án t ạo điều kiện để các đương sự đối thoại về
việc giải quyết vụ án". Với quy định như vậy, sẽ tạo ra nhiều điểm không thống
nhất, tùy ti ện trong quá trình th ực hiện, các v ướng mắc được đề cập đến sẽ là:
đối tho ại trong t ố tụng hành chính có b ắt bu ộc với các bên đương sự hay
không? Đối tho ại gi ữa các bên được th ực hi ện vào th ời điểm nào trong quá
trình giải quyết vụ án? Ch ủ thể tham gia đối thoại gồm những ai? Nguyên t ắc,
cách thức tổ chức như thế nào và các hoạt động tố tụng do Tòa án ti ến hành sau
khi có kết quả đối thoại ra sao?
Thứ tư: Vấn đề thuật ngữ trong Luật Tố tụng hành chính
- Dù Luật Tố tụng hành chính đã có nhiều tiến bộ trong việc minh bạch, rõ
ràng hơn các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quy ết các vụ án hành chính
nhưng vẫn còn sử dụng nhiều cụm từ dễ làm cho ng ười thực hiện cho rằng thiếu
tính rõ ràng, minh bạch như "trừ trường hợp có lý do chính đáng" hoặc "có lý do
khách quan khác"…
- Xét xử hành chính là v ấn đề mới mẻ và pháp lu ật điều chỉnh hoạt động
này không đơn thuần chỉ là những quy định tố tụng hành chính và còn c ả những
quy định pháp luật về nội dung đặc thù. Để đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, Luật
Tố tụng hành chính cần phải quy định cả những nội dung đặc thù này. Ví dụ, trong
xét xử các vụ án hành chính, nh ững quy định về căn cứ đánh giá tính hợp pháp
của các quy ết định hành chính, hành vi hành chính là c ần thi ết; bởi lẽ, căn cứ
những quy định này, các thẩm phán mới có khung cơ sở để đưa ra các phán quyết
của mình. Luật Tố tụng hành chính 2010 chưa có những quy định này và tên gọi
"Luật Tố tụng hành chính" khó có thể bao hàm hết các khía cạnh của vấn đề cần
điều chỉnh. Chính vì l ẽ đó, việc tham kh ảo kinh nghi ệm của một số nước trong
xây dựng pháp lu ật về vấn đề này cần được lưu ý. Ch ẳng hạn, tên gọi "Luật về
96
kiện tụng hành chính" ho ặc "Luật về xét xử hành chính" nh ư một số nước đã sử
dụng có lẽ cũng đáng được suy ngẫm.
3.2.2.2. Những sai sót th ường gặp khi áp d ụng pháp lu ật tố tụng hành
chính trong giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án
Trước tình hình s ố lượng án tăng đột bi ến, đồng th ời Lu ật tố tụng hành
chính cũng có nhiều quy định mới so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành
chính trước kia. Do đó, mặc dù Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã
có các Nghị quyết hướng dẫn thi hành, hướng dẫn áp dụng thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính, tuy nhiên thông qua theo dõi công tác thụ lý giải quyết án hành
chính theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm; qua theo dõi tình hình thi hành án
hành chính trong những năm qua, thì những sai sót phổ biến và những vướng mắc,
khó khăn làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức
tham gia giải quyết vụ án hành chính tại Toà án như sau:
Thứ nhất: Xác định không đúng đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
- Một số Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm còn nh ầm lẫn và ch ưa phân biệt
được trong tr ường hợp nào thì quy ết định hành chính được ban hành sau khi có
khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ
quyết định hành chính nh ư quy định tại điểm b Điều 1 Ngh ị quyết 02/2011/NQ-
HĐTP. Quyết định hành chính bị khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án nhưng khi gi ải quyết lại cho rằng quyết định hành chính đó là quy định tổng
thể, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án để ra quyết định đình chỉ việc
giải quyết vụ án. Các Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án hành chính cần phải nhận
thức rõ rằng: Nếu quyết định mang tính tổng thể, nhưng có danh sách kèm theo
hoặc có bản quy định chi tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân kèm theo, qua đó
xác định được cụ thể quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, hộ
gia đình như thế nào thì học có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với phần xác
định cụ thể đó.
- Sau khi có quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính, thì văn
bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm
quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có ch ứa đựng nội dung như quyết
97
định được xác định là quyết định hành chính. Tuy nhiên, có Toà án vẫn xác định
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hành vi hành chính.
- Một số Toà án còn khó kh ăn, không phân bi ệt trường hợp nào là quy ết
định hành chính được ban hành là quyết định mang tính nội bộ, không phải là đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Thứ hai: Xác định tư cách đương sự trong vụ án hành chính
Một số Toà án còn các định người bị kiện là Uỷ ban nhân dân tỉnh, nhưng
đưa Uỷ ban nhân dân huy ện, Uỷ ban nhân dân xã, các c ơ quan chuyên môn c ủa
Uỷ ban nhân dân… vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là không đúng, vì quy ền lợi, nghĩa vụ của họ là đồng nhất (quyền và
nghĩa vụ của cơ quan hành chính nhà n ước) và Uỷ ban nhân dân tỉnh là cơ quan
đại diện cho quyền lợi, nghĩa vụ đó đã tham gia tố tụng.
- Về vi ệc xác định tư cách tham gia t ố tụng hành chính c ủa các thành
viên trong h ộ gia đình: Tại Công v ăn số 194/TANDTC-VKHXX ngày
11/9/2013 của Chánh án Toà án nhân dân t ối cáo gửi Toà án nhân dân t ỉnh Bắc
Ninh, có nội dung:
Theo quy định tại Điều 106 và 107 của Bộ luật dân sự thì hộ gia đình
mà các thành viên có tài s ản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt
động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác cho pháp lu ật quy định là ch ủ thể
khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này. Hộ gia đình tham
gia các giao dịch dân sự thông qua đại diện là chủ hộ. Giao dịch dân sự
do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung
của hộ là phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình.
Theo quy định của điểm d khoản 3 Điều 54 của Luật tố tụng hành chính thì
chủ hộ là người đại diện theo pháp luật của hộ gia đình. Người đại diện theo pháp
luật trong tố tụng hành chính th ực hiện các quy ền, nghĩa vụ tố tụng hành chính
của đương sự mà mình là đại diện.
Như vậy, người đứng tên chủ hộ với tư cách là ng ười đại diện hộ gia đình
khởi kiện vụ án hành chính thì không phải đưa các thành viên trong hộ gia đình đó
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong
98
trường hợp, người đứng tên chủ hộ là người khởi kiện để bảo vệ với tư cách là cá
nhân, không phải là người đại diện của hộ gia đình hoặc hộ đó đã được tách thành
nhiều hộ (mà chủ hộ không đứng ra khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho cả hộ), thì
cần đưa các thành viên trong hộ gia đình tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thứ ba: Chưa xác định phạm vi ủy quyền của người được ủy quyền
Trong vụ án hành chính mà ng ười bị kiện là cá nhân có th ẩm quyền ban
hành các quyết định hành chính như: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Giám đốc
các Sở cấp tỉnh… không tr ực ti ếp tham dự phiên tòa mà ủy quy ền cho nh ững
người khác tham dự thay mình. Tòa án đã không xác định phạm vi ủy quyền mà
người được ủy quyền tham dự. Do đó, khi người được ủy quyền có những hành vi
vượt quá phạm vi được ủy quyền thì tòa án đã không phát hiện ra.
Ví dụ: Ông D là giáo viên tr ường tiểu học T, huyện Đ, tỉnh L. Ngày 27-3-
2013, ông D đến trường trung học cơ sở T xin gặp Đoàn thanh tra nhờ can thiệp
với trường trung học cơ sở T xem lại bài kiểm tra học kỳ một về môn lịch sử của
con gái ông vì theo con gái ông cho biết là giáo viên chấm sai.
Trong khi Đoàn thanh tra giáo dục huyện Đ tiếp ông D thì b ảo vệ trường
Trung học cơ sở T mở đài to nên ông D và bảo vệ đã xô xát. Theo ông D và b ảo
vệ xô xát một số giáo viên của trường trung học cơ sở T đã ra can thiệp dẫn đến
xô xát giữa các giáo viên can thiệp với ông D. ông D đã đánh bảo vệ, chửi bới ầm
ĩ, lãnh đạo trường trung học đã báo công an huyện D. Công an đến làm việc, ông
D đã gây sự với công an, đập mũ của công an. Công an đã lập biên bản vi phạm
hành chính đối với ông D.
Ngày 06-5-2013, hi ệu tr ưởng tr ường trung h ọc T yêu c ầu ông D làm
kiểm điểm.
Ngày 08-5-2013, ông D đã bị kiểm điểm trước cơ quan.
Ngày 14-7-2013, Hội đồng kỷ luật huyện Đ họp xét kỷ luật ông D, có mặt
ông D. kết quả 100% phi ếu biểu quyết kỷ luật ông D v ới ông D v ới hình th ức
buộc thôi việc.
Ngày 05-8-2013, Ủy ban nhân dân huy ện Đ ban hành quy ết định số
326/QĐ-UB, kỷ luật ông D với hình thức buộc thôi việc.
99
Ông D đã khiếu nại quyết định 326/QĐ-UB ngày 05-8-2013 của Ủy ban
nhân dân huyện Đ về việc buộc ông thôi việc.
Ngày 19-8-2013, Ch ủ tịch Ủy ban nhân dân huy ện Đ đã ban hành quy ết
định số 339/QĐ-UB giải quyết khiếu nại với nội dung: Bác khiếu nại của ông D,
giữ nguyên quy ết định số 326/QĐ-UB ngày 05-8-2013. Ông D kh ởi kiện vụ án
hành chính đối với quyết định số 326/QĐ-UB ngày 05-8-2013 của Ủy ban nhân
dân huyện Đ.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 04-11-2014, Tòa án nhân
dân huyện Đ, tỉnh L đã quyết định: Bác đơn kiện của ông D; gi ữ nguyên quy ết
định số 326/QĐ-UB ngày 05-8-2013 của Ủy ban nhân dân huyện Đ.
Tại bản án hành chính phúc th ẩm số 03/2005/HCPT ngày 29-9-2013 c ủa
Tòa án nhân dân tỉnh L đã quyết định: Hủy bản án sơ thẩm số 01/HCST ngày 04-
11-2014 của Tòa án nhân dân huyện Đ và đình chỉ giải quyết vụ án.
Ngày 30-12-2013, Ủy ban nhân dân huyện Đ có đơn khiếu nại với nội dung
chủ tịch Ủy ban nhân dân huy ện Đ ch ỉ ủy quyền cho ông L thay m ặt Chủ tịch
tham dự phiên tòa phúc thẩm và trả lời các nội dung có liên quan đến quyết định
số 326/QĐ-UB; không ủy quyền việc thay đổi quyết định 326/QĐ-UB ngày 05-8-
2003 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ.
Tại giấy ủy quyền số 435/GUQ-UB ngày 11-8-2014 của Ủy ban nhân dân
huyện Đ, chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ chỉ ủy quyền cho ông L dự các phiên
tòa hành chính và trả lời những vấn đề liên quan đến quyết định kỷ luật với hình
thức "buộc thôi việc" của Ủy ban nhân dân huyện đối với ông D. Như vậy, ông L
không được Ủy ban nhân dân huyện Đ ủy quyền về việc thay đổi quyết định buộc
thôi việc của Ủy ban nhân dân huy ện Đ đối với ông D. nhưng tại phiên tòa phúc
thẩm, ông L thỏa thuận với ông D với nội dung: "nếu ông D rút đơn khởi kiện thì
Ủy ban thay đổi quyết định buộc thôi việc bằng quyết định cho thôi việc chờ nghỉ
chế độ", nên ông D đã rút đơn khởi kiện vụ án hành chính. Việc ông L thỏa thuận
tại phiên tòa phúc th ẩm với nội dung trên là đã vượt quá ph ạm vi ủy quyền. Do
đó, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của ông D, quyết định
hủy án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
100
3.2.2.3. Những vướng mắc trong quá trình áp d ụng các quy định của
pháp luật nội dung trong giải quyết Luật tố tụng hành chính
Thứ nhất: Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
Những kết qu ả đã đạt được trong vi ệc xây d ựng các v ăn bản quy ph ạm
pháp luật xử lý vi ph ạm hành chính th ời gian qua không ch ỉ góp phần nâng cao
hiệu lực, hi ệu qu ả qu ản lý nhà n ước mà còn đáp ứng yêu c ầu phòng ng ừa vi
phạm pháp lu ật và phòng ng ừa tội phạm. Tuy nhiên, khi áp d ụng vào th ực tiễn,
một số văn bản này đã bộc lộ những bất cập, thiếu sót, vướng mắc và mâu thuẫn
lẫn nhau như: Một số vấn đề chưa thống nhất về thẩm quyền của một số chủ thể
xử phạt và chế tài xử phạt hành chính (mức phạt tiền) quy định trong một số văn
bản quy phạm hiện hành, đồng thời đưa ra một số ý kiến hoàn thiện pháp luật xử
lý vi ph ạm hành chính nh ằm góp ph ần bảo đảm an ninh chính tr ị và tr ật tự an
toàn xã hội.
- Một số bất cập về thẩm quyền và chế tài xử phạt hành chính
+ Các quy định về mức xử ph ạt hành chính, v ề th ẩm quy ền của một số
chủ thể xử lý vi ph ạm hành chính trong m ột số lĩnh vực chưa có sự thống nhất
giữa Luật xử lý vi ph ạm hành chính v ới văn bản pháp lu ật quản lý hành chính
chuyên ngành.
Về mặt nguyên tắc, việc xây dựng hệ thống các văn bản quy ph ạm pháp
luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính phải bảo
đảm tính th ống nh ất nội tại trong một văn bản cũng như gi ữa các v ăn bản với
nhau, đồng thời phải rõ ràng về thứ bậc, chính xác, minh bạch và dễ hiểu, dễ thực
hiện, có tính khả thi cao. Nhưng thực tế cho thấy, thẩm quyền của một số chủ thể
và chế tài xử phạt hành chính quy định trong Luật xử lý vi ph ạm hành chính vẫn
còn mâu thuẫn với quy định trong một số văn bản luật chuyên ngành.
+ Nhiều chế tài hành chính quy định ở các văn bản quy phạm pháp luật Xử
lý vi ph ạm hành chính do các c ơ quan qu ản lý khác nhau so ạn th ảo cùng điều
chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định không có sự quy định thống nhất, dẫn
đến sự chồng chéo, làm cho ch ủ thể áp dụng văn bản quy phạm pháp luật không
biết hiểu và áp dụng chế tài của văn bản nào cho đúng.
101
Ví dụ, Nghị định số 73/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh và tr ật tự an toàn xã h ội, tại khoản 1, Điều 24 quy định:
Hành vi vi ph ạm quy định về bán, sử dụng rượu, bia: "Ph ạt cảnh cáo ho ặc phạt
tiền từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi say rượu, bia ở công sở, nơi
làm việc, trong các khách sạn, nhà hàng, quán ăn, trên các phương tiện giao thông
và nh ững nơi công c ộng". Trong khi đó Ngh ị định số 158/2013/N Đ-CP ngày
12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực văn hóa thông tin,
tại khoản 1, Điều 34 quy định: Vi phạm các quy định về nếp sống: "Phạt cảnh cáo
hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi: say rượu, bia ở
công sở, nơi làm việc, khách sạn, nhà hàng, quán ăn, vũ trường, nơi khiêu vũ công
cộng, phòng hát karaoke, nơi hoạt động văn hóa, kinh doanh dịch vụ văn hóa, trên
các phương tiện giao thông và những nơi công cộng khác".
Như vậy, nhìn vào hai quy định trên, chúng ta thấy: cùng một hành vi say
rượu, bia ở công sở, nơi làm việc, khách sạn, và nơi công cộng khác nhưng có quy
định hai chế tài xử phạt tiền với mức khác nhau từ 60.000 đồng đến 100.000 đồng
và từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Vấn đề đặt ra ở đây là cả hai văn bản này
hiện đều đang có hiệu lực thi hành, vậy hành vi say r ượu, bia tại những nơi nêu
trên nên áp dụng theo chế tài của văn bản nào? Theo tinh th ần của khoản 3 Điều
83 của Luật Ban hành văn bản quy ph ạm pháp lu ật năm 2008 quy định: "Trong
trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề do cùng một cơ
quan ban hành mà có quy định khác nhau thì áp dụng quy định của văn bản được
ban hành sau". Mặc dù hai văn bản này đều do Chính phủ ban hành (cùng một cơ
quan ban hành), nh ưng trong tr ường hợp này với hai quy định nêu trên có th ể
được hi ểu là cùng v ề một vấn đề hay không? Trong khi Ngh ị định số
150/2005/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh
và trật tự an toàn xã h ội, còn Ngh ị định 158/2013/NĐ-CP quy định về xử ph ạt
hành chính trong lĩnh vực văn hóa thông tin. Rõ ràng đây là hai lĩnh vực quản lý
khác nhau, nhưng lại đều có quy định chế tài về xử phạt hành chính về hành vi vi
say rượu, bia nơi làm việc và nơi công cộng với những mức phạt khác nhau. Vậy
có được coi là trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 83 Luật Ban hành văn
102
bản quy phạm pháp luật hay không? An ninh và trật tự an toàn xã hội và nếp sống
văn hóa là hai v ấn đề khác nhau, không th ể hi ểu và áp d ụng theo quy định tại
khoản 3 Điều 83 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 được.
Thứ hai: Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về quản lý nhà nước về đất đai
- Việc xử lý các "d ự án treo" là m ột trong nh ững điểm nóng của án hành
chính. Vấn đề này cũng được đề cập trong lu ật sửa đổi. Luật Đất đai 2013 quy
định "tr ường hợp không đưa đất vào sử dụng (trong th ời hạn 12 tháng liên t ục
hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ
khi nhận bàn giao đất trên thực địa) thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng 24 tháng
và phải nộp cho Nhà n ước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất đối với thời gian ch ậm tiến độ thực hiện dự án trong th ời gian này; hết
thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước
thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp
do bất khả kháng".
Đánh giá chung thì Luật đất đai sửa đổi có nhiều điểm rõ ràng hơn nhưng
có một số điều sau khi được điều chỉnh, sửa đổi lại được nhiều luật gia đánh giá là
chưa giải quyết vướng mắc cũ, chưa thể hiện được đầy đủ nguyện vọng của nhân
dân dẫn đến sự hoài nghi về tính khả thi của nó.
- Về thu h ồi đất, Hiến pháp 2013 v ừa được Quốc hội thông qua kh ẳng
định Nhà n ước chỉ thu h ồi đất trong tr ường hợp thật cần thi ết vì mục đích an
ninh, qu ốc phòng, để phát tri ển kinh t ế - xã h ội vì l ợi ích qu ốc gia, l ợi ích
công cộng.
Đây là sự thay đổi quan tr ọng làm rõ được phạm vi thu h ồi đất cho phát
triển kinh tế - xã hội chỉ được chấp nhận khi đó là vì lợi ích quốc gia, lợi ích công.
Nó cũng làm rõ được thu hồi đất cho phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng cũng chỉ được thực hiện khi “thật sự cần thiết”.
Cho dù Hiến pháp chỉ rõ như vậy, và Luật đất đai 2013 khẳng định rõ các
dự án quan trọng cấp quốc gia phải do Thủ tướng và Quốc hội quyết định, cấp tỉnh
sẽ có thêm sự tham gia của HĐND, Luật đất đai 2013 chưa làm rõ được giới hạn
của “thật sự cần thiết” đã chỉ ra trong Hi ến pháp. Trong lu ật đã cụ thể hóa một
phạm vi quá rộng các trường hợp được phép thu hồi đất.
103
Trong mục 3 của điều 62 về chính sách thu h ồi đất do cấp tỉnh thực hiện
quy định thu hồi đất cho c) Dự án xây dựng công trình ph ục vụ sinh hoạt chung
của cộng đồng dân cư; dự án tái định cư, nhà ở cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở
công vụ; xây dựng công trình của cơ sở tôn giáo; khu văn hóa, thể thao, vui chơi
giải trí phục vụ công cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng;
và d) Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô
thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến nông sản, lâm
sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án phát tri ển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
Quy định như vậy không thể hạn chế tình trạng thu hồi đất tràn lan như trước đây,
việc thu hồi đất có phạm vi quá rộng nhưng lại không làm rõ khái ni ệm “thật sự
cần thiết” sẽ có thể tiếp tục dẫn tới lạm dụng trong thu hồi đất.
- Về bồi th ường, hỗ tr ợ, tái định cư, trong Lu ật Đất đai 2013 không có
nhiều đổi mới về các cơ chế thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, mặc dù thực
tế đang có nhiều bức xúc, kể cả trong bồi thường có giá trị bồi thường cao lẫn bồi
thường có giá tr ị thấp hơn giá tr ị thị trường. Luật chủ yếu được bổ sung một số
quy định của nghị định 69/2009/NĐ-CP. Cách tiếp cận này không th ể giải quyết
được những bất cập đang tồn tại. Xét về góc độ kinh tế - xã hội, là một chủ thể sử
dụng đất, thực chất Nhà nước chỉ là một pháp nhân công sử dụng đất như bất kỳ tổ
chức khác. Nhưng luật sửa đổi đã quá thiên về mệnh lệnh hành chính khi đề xuất
bỏ cơ chế tự thỏa thuận giữa doanh nghiệp với người sử dụng đất và thay vào đó
là cơ chế "nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế trong tất cả các trường hợp".
Quyền sử dụng đất là một quyền tài sản của chủ thể, nên ch ủ thể có quy ền tiến
hành thương lượng với những chủ thể có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích kinh
tế, nhằm đảm bảo lợi ích cho cả hai bên.
Ví dụ, Nhà nước thu hồi đất để xây dựng, phát triển khu công nghi ệp, sau
đó cho các nhà đầu tư thuê để thu ti ền (bổ sung vào ngân sách). Nh ưng con cái
của những người nông dân b ị mất đất lại không được hưởng lợi trong khu công
nghiệp. Dường như bản thân ng ười bị thu hồi đất không có ch ỗ đứng trong ti ến
trình phát triển kinh tế - xã hội ngay tại quê hương mình. Thu hồi đất, đền bù bằng
mức giá quá thấp, không lo được sinh kế cho người bị mất đất. Khu công nghiệp
104
cứ phát triển, người lao động tại chỗ, người nông dân, con em của họ, vẫn bị bần
cùng hóa vì mất đất sản xuất. Đó thực sự là một nghịch lý lớn. Gây nên những hệ
lụy trong xã hội, tạo bức xúc và là động lực chính thúc đẩy những khiếu nại, khiếu
kiện hành chính trong nhân dân.
- Liên quan đến việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, Luật sửa đổi bỏ "bản
đồ quy hoạch đất của xã, phường, thị trấn được lập trên bản đồ địa chính". Theo
nhiều chuyên gia, nếu bỏ đi như vậy chắc chắn sẽ phát sinh nhiều tiêu cực hơn nữa
ở cấp xã phường, thị trấn vì sẽ mất đi một căn cứ quan trọng để kiểm tra, giám sát
việc sử dụng đất tại những địa phương này.
- Cũng liên quan đến việc xác định giá đất, thẩm quyền quyết định giá đất
vẫn không có gì thay đổi so với pháp luật đất đai hiện hành (Chính phủ quyết định
khung giá đất, Uỷ ban nhân dân c ấp tỉnh quyết định bảng giá đất và giá đất cụ
thể). Chúng ta chưa xây dựng một cơ quan xác định giá đất để bồi thường độc lập.
Thay vào đó, là cách thức giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền thu
hồi đất, ti ếp tục có th ẩm quy ền xây d ựng bảng giá đất làm căn cứ để tính bồi
thường cho những người bị ra quyết định thu hồi đất. Đây chính là tình trạng "vừa
đá bóng, vừa thổi còi": Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quá nhiều quyền - khó đảm
bảo sự bình đẳng và dễ sinh ra tùy tiện.
3.2.3. Những khó khăn, vướng mắc bước đầu về tổ chức thi hành Luật
tố tụng hành chính
Sau khi Luật tố tụng hành chính được Quốc hội thông qua, Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao đã có ba Nghị quyết là Nghị quyết số 01/2011/NQ-
HĐTP ngày 29/7/2011 hướng dẫn thi hành m ột số quy định của Nghị quy ết số
56/2010/QH12 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính, Nghị quyết
số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 và Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày
29/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính, tuy
nhiên trong qúa trình th ụ lý gi ải quyết các vụ án hành chính, nhi ều Toà án nhân
dân các cấp ở địa phương còn gặp nhiều lúng túng vì:
- Chưa có hướng dẫn thống nhất về các quyết định hành chính, hành vi hành
chính nào thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng,
ngoại giao và mang tính nội bộ của cơ quan, nhà nước (quy định tại Điều 28).
105
- Chưa có hướng dẫn về trình tự, thủ tục tiến hành việc đối thoại trong tố
tụng hành chính (quy định tại Điều 12).
- Chưa có hướng dẫn về thẩm quyền của Hội đồng xét xử (được quy định
tại Điều 163) về việc đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi
hành chính và quy ết định giải quyết khiếu nại (Tiêu chí nh ấp nhận ho ặc không
chấp nh ận yêu cầu kh ởi ki ện hay h ủy ho ặc không hủy quy ết định hành chính,
buộc ch ấm dứt hành vi hành chính; Th ế nào là quy ết định hành chính, hành vi
hành chính có liên quan?).
- Có nh ững khó kh ăn, bất cập về th ời hạn vi ệc ra quy ết định gi ải quy ết
khiếu nại của Chán án Toà án nhân dân cấp trên trực tiếp đối với quyết định trả lại
đơn khởi kiện của Chánh án Toà án nhân dân c ấp dưới (được quy định tại Điều
110). Cụ thể: Theo quy định của khoản 3 Điều 110 thì trong thời hạn 7 ngày kể từ
khi nhận được khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định giải quyết khiếu nại về việc
trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Toà án nhân dân t ỉnh, Chánh án Toà án nhân
dân tối cao phải ra quyết định giải quyết.
- Chưa có mẫu văn bản tố tụng hành chính để Toà án nhân dân các c ấp
thống nhất việc áp dụng trong toàn ngành.
- Chưa có Ngh ị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân t ối cao
hướng dẫn viết bản án hành chính.
Những vướng mắc về mặt thể chế sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu
quả làm việc của ngành Toà án, và không tránh kh ỏi việc áp dụng, xử lý tùy ti ện
làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
3.3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
VÀO THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN
Án hành chính là lo ại án khó, ph ức tạp, và kinh nghi ệm giải quyết các vụ
án hành chính chưa nhiều. Công tác giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến
việc áp dụng nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực quản
lý nhà nước. Mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước lại có nhiều văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh và mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật lại chưa có các văn bản
hướng dẫn th ực hiện đầy đủ của cơ quan nhà n ước có th ẩm quyền ho ặc đã có
106
hướng dẫn, nhưng các văn bản hướng dẫn còn có sự chồng chéo nhau, th ậm chí
nhiều nội dung có s ự xung đột pháp lu ật. Mặt khác, các v ăn bản hướng dẫn
thường xuyên có sửa đổi, bổ sung, thay thế. Do vậy, việc áp dụng các văn bản quy
phạm pháp luật để giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án các cấp gặp nhiều
khó khăn.
Bên cạnh đó, một số thẩm phán của các Tòa án địa phương khi được giao
vụ án hành chính ch ưa nâng cao tinh th ần trách nhiệm trong việc nghiên cứu, áp
dụng pháp luật giải quyết các vụ án hành chính.
Trong thời gian qua, từ thực tiễn xét xử các vụ án hành chính tại Ṭa án, có
những sai sót thường gặp sau đây:
Thứ nhất, nhiều quan điểm khác nhau về áp dụng pháp luật
Trong quá trình th ụ lý, gi ải quyết vụ án hành chính, Tòa án nhân dân các
cấp còn hi ểu khác nhau trong vi ệc áp dụng các quy định của pháp lu ật để gi ải
quyết một vụ án cụ thể.
Để đánh giá và xem xét tính hợp pháp của Quyết định hành hành chính bị
khiếu kiện, Tòa án cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố như thẩm quyền ban hành,
căn cứ pháp lu ật để ban hành… đặc bi ệt đối với các quy ết định xử ph ạt hành
chính, xử phạt vi phạm hành chính còn phải xem xét nội dung xác định người khởi
kiện có hành vi vi ph ạm hành chính hay không. Do vậy, khi giải quyết vụ án cần
chú ý việc áp dụng các quy định của pháp luật.
Ví dụ: Năm 2012, gia đình ông T là Vi ệt kiều sinh sống tại nước A (có
đường biên giới chung với Việt Nam) được phép hồi hương về nước. Ngày 13-12-
2012, trên đường hồi hương về nước ông T có mang theo m ột số tài sản mà gia
đình ông đang sử dụng, trong đó có một chiếc xe ô tô bốn chỗ ngồi, sản xuất năm
2008, khi về tới cửa khẩu hải quan X, tỉnh B, ông T có làm th ủ tục nhập cảnh và
kê khai xin nhập khẩu chiếc xe ô tô nói trên.
Sau khi xem xét hồ sơ, Chi cục Hải quan X đã làm thủ tục cho ông T nhập
cảnh. Đối với chiếc xe ô tô, do ch ưa đủ thủ tục và các gi ấy tờ cần thiết, Chi cục
Hải quan X chưa cấp tờ khai nhập khẩu xe nên đã yêu cầu ông T tiếp tục bổ sung
các giấy tờ cần thiết và đồng ý cho ông T tạm gửi xe lại cửa khẩu cùng các giấy tờ
107
xe kèm theo để giải quyết sau. Sau khi ông T thực hiện theo yêu cầu của Chi cục
hải quan X và chuyển một số tài sản khác về nơi cư trú tại tỉnh B, thì Chi cục hải
quan X đã chủ động chuyển chiếc xe ô tô cùng toàn bộ giấy tờ có liên quan về cục
Hải quan tỉnh B.
Ngày 19-12-2012, Cục Hải quan tỉnh B đã cấp tờ khai nh ập khẩu xe ô tô
cho ông T.
Ngày 30-01-2013, Cục Hải quan tỉnh B đã giao chiếc xe ô tô nói trên cho
ông T đưa về nhà để bảo quản và trông giữ.
Ngày 12-3-2013, Cục Hải quan tỉnh B đã yêu cầu ông T mang xe ô tô đến
Cục Hải quan để giải quyết. Cùng ngày, khi ông T thực hiện yêu cầu trên, Cục Hải
quan tỉnh B đã lập biên bản vi ph ạm hành chính số 02/BB-HC1 ngày 12-3-2013
với lý do: Việc ông T nhập khẩu chiếc xe ô tô đã vi phạm điểm 3, mục 2 Thông tư
liên tịch số 27/2001/BTM-TCHQ ngày 06-12-2001 của Bộ Thương mại và Tổng
cục Hải quan hướng dẫn việc nhập khẩu xe ô tô của một số đối tượng theo đường
phi mậu dịch và đưa chiếc xe ô tô vào kho niêm phong.
Ngày 08-12-2013, Chi cục trưởng Cục Hải quan tỉnh B đã ban hành quyết
định số 116/QĐ-XP-HC9 xử phạt vi phạm hành chính về hải quan đối với ông T
với nội dung tịch thu chiếc xe ô tô nói trên (vì xe c ủa ông T sản xuất năm 2008,
tính đến ngày nhập khẩu đã quá 5 năm theo quy định tại Thông tư nói trên). Ông T
có đơn khiếu nại.
Ngày 19-01 -2014, Cục Hải quan tỉnh B ban hành quy ết định số 02/QĐ-
HC17 giải quyết khiếu nại với nội dung vẫn giữ nguyên quy ết định số 116/QĐ-
XP-HC9 ngày 08-12-2013 của Cục trưởng Cục hải quan tỉnh B.
Ngày 18-2-2014, Tòa án nhân dân tỉnh B đã thụ lý vụ án để giải quyết.
Sau khi nghiên cứu đơn khởi kiện và các tài liệu đã thu thập trong hồ sơ vụ
án, có hai quan điểm giải quyết vụ án như sau:
- Chiếc xe ô tô này là tài s ản di chuy ển của ông T, Vi ệt kiều nước A (có
đường biên giới chung với Việt Nam) được phép hồi hương (không phải là trường
hợp buôn bán xe ô tô). Mặt khác, theo chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án thì
khi hồi hương xe về đến cửa khẩu X, ông T mới kê khai hồ sơ xin nhập khẩu chiếc
108
xe ô tô là tài s ản di chuy ển, nhưng do chưa đủ thủ tục nên hải quan cửa khẩu X
chưa giải quyết mà đồng ý cho ông Trí được tạm gửi xe ô tô tại cửa khẩu (có biên
bản tạm gửi), sau đó, chính Hải quan cửa khẩu X đã tự động đưa xe ô tô của ông T
về Cục hải quan tỉnh B và lại đồng ý cho ông T đến tạm nhận về để bảo quản chờ
giải quyết.
Như vậy, ông T chưa có hành vi nhập khẩu hoặc gian dối nhập khẩu xe ô tô
không đúng quy định nhập khẩu. Trong tr ường hợp này, nếu xe ô tô c ủa ông T
không đủ điều kiện để được nhập khẩu thì hải quan cửa khẩu X phải từ chối nhập
khẩu, nếu hải quan cửa khẩu X tự ý đưa xe về cục hải quan để giải quyết thì phải
làm thủ tục đưa ra khỏi lãnh thổ Việt nam. Việc Cục Hải quan tỉnh B quyết định
tịch thu xe ô tô của ông T là không đúng pháp luật. Do vậy, cần hủy quyết định số
116/QĐ-XP-HC9 ngày 08-12-2013 của Cục trưởng Cục hải quan tỉnh B.
- Theo các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, khi hồi hương về nước,
ông T đã thực hiện việc xin phép cơ quan chức năng của nước A cho phép được
xuất chiếc xe ô tô nói trên khỏi lãnh thổ nước A để mang về Việt Nam tiếp tục sử
dụng. Khi về đến cửa khẩu X, ông T m ới kê khai hồ sơ để xin cấp tờ khai nh ập
khẩu chiếc xe ô tô là tài sản di chuyển. Nhưng do chưa đủ thủ tục, giấy tờ nên cửa
khẩu hải quan chưa giải quyết, chưa cấp tờ khai nhập khẩu, hướng dẫn và đồng ý
cho ông T t ạm gửi xe ô tô t ại cửa khẩu. Tuy ông T không có hành vi gian d ối,
nhưng ông T đã có hành vi nh ập khẩu xe ô tô không đủ điều kiện để được nhập
khẩu. Việc Cục hải quan tỉnh B quyết định tịch thu xe ô tô của ông T là đúng pháp
luật. Do vậy cần giữ nguyên quyết định số 116/QĐ-XP-HC9 ngày 08-12-2013 của
Cục trưởng Cục hải quan tỉnh B.
(Trích Thông tư liên tịch số 27/2001/BTM-TCHQ ngày 6-12-2001 của Bộ
Thương mại và Tổng cục Hải quan hướng dẫn việc nhập khẩu ô tô của một số đối
tượng theo đường phi mậu dịch; tại điểm 3, Mục II quy định: "ô tô nhập khẩu phải
có tay lái bên trái, tay lái thuận, được sản xuất trong thời hạn tối đa là 5 năm tính
đến thời điểm nhập khẩu và là động cơ sử dụng được xăng không pha chì". T ại
điểm 1, Mục III quy định: "ô tô nh ập khẩu không phù hợp với các quy định tại
mục II thông tư này sẽ bị xử lý bằng hình thức phạt tiền và tịch thu").
109
Thứ hai, đánh giá ch ứng cứ và áp d ụng pháp lu ật để gi ải quy ết vụ án
không đúng
Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án hành chính, một số Tòa án do đánh
giá chứng cứ và áp d ụng pháp lu ật để giải quyết không đúng; nên bản án đã bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và Tòa án cấp giám đốc thẩm đã sửa toàn
bộ bản án.
Ví dụ: căn nhà s ố 70/75/1 và 70/75/5 đường Cách m ạng Tháng Tám,
phường K thành ph ố C (c ũ) có ngu ồn gốc của vợ chồng ông N và C, được xây
dựng từ năm 1966, trên đất thuê mượn của người dân tộc Chà. Căn nhà xây một
lầu, một trệt kiên cố. Tầng lầu có ban công đu ra 1,2m. kích thước căn nhà: ngang
8m x dài 8m. Căn nhà được chia làm hai căn có vách tường chung ở giữa.
Năm 1997, ông N và bà C lập " Tờ bán nhà" 70/75/1 cho vợ chồng ông V bà T.
Ngày 10-3-1977, bà T bán nhà số 70/75/1 cho ông H.
Ngày 02-8-1977, ông H bán nhà s ố 70/75/1 cho ông K, s ố đo: ngang 4m, dài 8,2m, di ện tích xây d ựng 63m2. Hợp đồng mua bán được Ủy ban nhân dân
phường C chứng thực ngày 20-9-1979.
Ngày 29-3-1995, Ủy ban nhân dân thành phố C cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà 70/75/1 đường Cách mạng Tháng Tám cho ông K và v ợ là N được
quyền sở hữu căn hữu căn nhà 70/75/1 đường Cách mạng Tháng Tám v ới diện tích xây dựng là 50,70m2 kèm bản vẽ sơ đồ vị trí và lược đồ giải thửa.
Do có tranh ch ấp gi ữa ông K v ới bà Th v ề di ện tích dưới ban công nên
ngày 26/5/2008, Thanh tra thành ph ố C có v ăn bản số 29/BC-TTr-2008 báo kết
quả thẩm tra đơn khiếu nại của ông K v ề việc ông K tranh ch ấp quyền sử dụng 8,12m2 đất dưới ban công nhà ông K với bà Th. Trên cơ sở đề nghị của Thanh tra
thành phố C, ngày 19/7/2008, ch ủ tịch Ủy ban nhân dân thành ph ố C có quy ết
định số 2110/QĐ-CT.UB chấp thu ận đơn khiếu nại của ông K công nh ận ph ần diện tích đất dưới ban công nhà có di ện tích 1,2m x 6,77m = 8,12m 2 tọa lạc số
70/75 đường Cách mạng Tháng Tám, phường Cái Khế, thành phố C cho ông K:
Buộc bà Th ng ụ ở 70/75/1 đường Cách mạng Tháng Tám, phường C phải tháo dỡ vật kiến trúc và vật dụng có trên phần diện tích 8,12m2 để giao trả cho ông
K sử dụng.
110
Ngày 03-8-2008, bà Th có đơn khiếu nại, yêu cầu Ủy ban nhân dân thành
phố C xem xét quyết định số 2110/QĐ-CT/UB ngày 19-7-2008. Ngày 22-8-2008,
bà Th nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại.
Ngày 24-8-2008, bà Th có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân
dân thành phố C.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 07/HCST ngày 29-7-2009, Tòa án nhân
dân thành phố C quyết định:
- Bác đơn khi ếu nại của bà Th "yêu c ầu hủy Quy ết định số 2110/Q Đ-
CT.UB ngày 19-7-2008 của chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố C".
- Giữ nguyên quyết định số 2110/QĐ-CT.UB ngày 19-7-2008 của chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố C.
Ngày 05/8/2009, bà Th có đơn kháng cáo đối với bản án hành chính s ơ
thẩm số 07/HCST ngày 29-7-2009 của Tòa án nhân dân thành phố C (cũ).
Tại bản án hành chính phúc th ẩm số 01/HCPT ngày 23-9-2010, Tòa án
nhân dân thành phố C (mới) quyết định sửa án sơ thẩm; chấp nhận kháng cáo của
bà Th và h ủy Quyết định số 2110/QĐ-CT.UB ngày 19-7-2008 của chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố C (cũ).
Ngày 30-11-2010, ông K có đơn gửi Tòa án nhân dân tối cao đề nghị xem
xét bản án hành chính phúc thẩm số 01/HCPT ngày 23 tháng 9 năm 2010 của Tòa
án nhân dân thành phố C theo thủ tục giám đốc thẩm.
Việc mua bán, chuy ển nhượng căn nhà 70/75/1 đường Cách mạng Tháng
Tám, phường C, quận N, thành phố C đã qua ba chủ nhưng chỉ có một hợp đồng đề ngày 02/8/1977 giữa ông H bán cho ông K, di ện tích xây dựng 63m2 trên đất
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo hợp đồng này, việc mua
bán là toàn bộ diện tích và cấu trúc sử dụng nhà.
Căn cứ nhu cầu sử dụng đất và đơn của ông K khiếu nại xin được sử dụng diện tích 8,12m2 đất dưới ban công nhà, hi ện do bà Th chi ếm hữu, sử dụng kinh
doanh bán quán gi ải khát; Ủy ban nhân dân thành ph ố C ra quy ết định số 2110/ QĐ-CT/UB ngày 19-7-2008 công nhận cho ông K sử dụng 8,12m-2 đất và buộc bà
111
Th phải tháo dỡ vật kiến trúc và vật dụng có trên phần đất nói trên để giao trả cho
ông K sử dụng là có căn cứ.
Bà Th không xu ất trình được giấy bán nhà của ông N (là b ố) cho cụ T để
chứng minh chỉ có ban công mà không bán phần đất dưới ban công
Phần đất tranh chấp 8m2 này ch ưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của Ủy ban nhân dân có th ẩm quyền. Việc tranh chấp đất nay, Ủy ban nhân dân quận N chấp nhận cho ông K sử dụng 8m2 dưới ban công là hợp tình, hợp lý. Phần
đất còn lại dùng lợi ích công là thẩm quyền của Ủy ban nhân dân.
Căn cứ kết cấu nhà, sơ đồ giải thửa, địa thế ban công giáp đường hẻm thì
Quyết định 2110/QĐ-CT.UB ngày 19-7-2008 của Ủy ban nhân dân là có c ăn cứ.
bản án sơ thẩm số 07/HCST ngày 29-7-2010 của Tòa án nhân dân thành ph ố C
(cũ) xử là đúng.
Vụ án này đã được Chánh án Tòa án nhân dân t ối cao kháng ngh ị. Tại
quyết định số 03/HC-KT ngày 13-3-2011 và t ại quy ết định giám đốc th ẩm của
Tòa án nhân dân t ối cao đã quy ết định sửa bản án hành chính phúc th ẩm số
01/HCPT ngày 23-9-2010 của Tòa án nhân dân thành ph ố C; gi ữ nguyên quy ết
định 2110/QĐ-CT.UB ngày 19-7-2008 của Ủy ban nhân dân thành phố C.
Thứ ba, đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khiếu kiện
Nhiều vụ án hành chính, do đánh giá ch ứng cứ không đúng, nên tại phần
quyết định của bản án Hội đồng xét xử đã quyết định không chính xác.
Ví dụ: ngày 11-10-2013, đội qu ản lý th ị tr ường tỉnh ĐN lập biên bản vi
phạm hành chính đối với Công ty TNHH TL có hành vi vi phạm hành chính.
Ngày 15-10-2013, Chi cục trưởng Chi cục quản lý thị trường tỉnh ĐN ban
hành quyết định số 0107622/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính đối với Công
ty TNHH TL với các hình thức sau:
- Hình thức xử ph ạt chính: ph ạt ti ền 10.000.000 đồng (5.000.000 đồng
đối với hành vi không có giấy phép, 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm làm
hàng giả);
- Hình thức phạt bổ sung: Đình chỉ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
tại thành phố BH.
112
Ngày 11-11-2013, Công ty TNHH TL khi ếu nại quy ết định xử ph ạt vi
phạm hành chính số 0107622/QĐ-XPHC của Chi cục trưởng Chi cục quản lý thị
trường tỉnh ĐN.
Ngày 24-11-2013, Công ty TNHH TL khởi kiện vụ án.
Ngày 16-12-2013, Tòa án nhân dân t ỉnh ĐN th ụ lý vụ án. Ngày 27 -01-
2014, Chi cục trưởng Chi cục quản lý thị trường tỉnh ĐN ban hành quyết định số
04/QĐXP điều ch ỉnh quy ết định xử ph ạt vi ph ạm hành chính s ố 0107622/QĐ-
XPHC ngày 15-10 -2013 nh ư sau: không x ử ph ạt 15.000.000 đồng hành vi vi
phạm không có giấy chứng nhận đăng ký thành lập chi nhánh của Công ty và hủy
bỏ hình th ức ph ạt bổ sung: đình ch ỉ ho ạt động kinh doanh c ủa Chi nhánh t ại
phường TP, thành phố BH đã ghi trong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
0107622/QĐ-XPHC ngày 15-10 -2013.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 17-3-2014, Tòa án nhân
dân tỉnh ĐN đã quy ết định bác yêu c ầu kh ởi kiện của Công ty TNHH TL; gi ữ
nguyên mức phạt 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm làm hàng giả của Quyết
định xử ph ạt vi ph ạm hành chính s ố 0107622/QĐ-XPHC ngày 15-10 -2013 và
Quyết định số 04/QĐXP ngày 27-1-2014 của Chi cục quản lý thị trường tỉnh ĐN.
Vấn đề cần rút kinh nghi ệm trong vụ án này là cách ti ếp cận và đánh giá
chứng cứ có ảnh hưởng đến đường lối giải quyết vụ án. Cũng với chứng cứ ấy,
Tòa án cấp sơ thẩm quyết định bác yêu c ầu khởi kiện của Công ty TNHH, gi ữ
nguyên mức phạt 15.000.000 đồng đối với hành vi vi ph ạm làm hàng giả, nhưng
Tòa án phúc th ẩm quy ết định hủy điều 2 và đoạn 2 c ủa điều 3 Quy ết định số
04/QĐXP ngày 27-1-2014 của Chi cục quản lý th ị trường tỉnh ĐN (phần nói về
hành vi vi phạm làm hàng giả với mức phạt 15.000.000 đồng)
Sau khi ki ểm tra các ch ứng cứ tại hồ sơ vụ án th ấy rằng: Quyết định số
0107622/QĐ-XPHC xử phạt vi ph ạm hành chính ngày 15-10 -2013 c ủa Chi cục
quản lý thị trường tỉnh ĐN phạt Công ty TNHH TL hai kho ản (15.000.000 đồng
đối với hành vi không có giấy phép, 5.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm làm
hàng giả) đã được điều chỉnh bởi quyết định số 04/QĐXP ngày 27-1-2014, chỉ còn
phạt Công ty TNHH TL 15.000.000 đồng đối với hành vi làm hàng giả.
113
Về hành vi vi phạm làm hàng giả mà bản án phúc thẩm đã hủy có căn cứ vì:
- Tại công văn số 704 ngày 09-5-2014, Cục Sở hữu trí tuệ có nội dung: xuất
xứ nước mắm Phú Quốc mới đăng bạ chứ hiện nay chưa cấp giấy chứng nhận cho
bất cứ tổ ch ức, cá nhân nào. Nhi ều doanh nghi ệp ở địa ph ương khác vẫn mua
nước mắm Phú Quốc được sản xuất tại Phú Quốc về đóng chai và bán lại không
làm thay đổi sản phẩm; chưa đủ cơ sở pháp luật và thực tiễn để kết luận Công ty
TNHH TL đã có hành vi làm hàng giả.
- Tại công văn số 2828 ngày 06-12-2013, B ộ Thủy sản có nội dung: Sau
năm 2007 thì ch ỉ có s ản ph ẩm nước mắm được sản xu ất và đóng chai tại Phú
Quốc, tỉnh Kiên Giang mới được sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa "n ước mắm
Phú Quốc" trên bao bì.
Với căn cứ nêu trên, Tòa hành chính đã trả lời Chi cục trưởng Chi cục quản
lý thị trường tỉnh ĐN là án phúc thẩm số 17/HCPT ngày 13-6-2014 của Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân TC tại TP.H là xử đúng và có căn cứ.
Vấn đề rút ra từ vụ án này là Tòa án cấp sơ thẩm cần thận trọng trong việc
đánh giá chứng cứ. Rõ ràng quyết định của bản án hành chính phúc th ẩm đã góp
phần nâng cao hiệu lực của cơ quan nhà nước, khuyến khích mọi thành phần kinh
tế phát triển.
Thứ tư, áp dụng pháp luật để giải quyết không đúng
Trong quá trình thụ lý, gi ải quyết vụ án hành chính, do không nghiên c ứu
kỹ các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án, do vậy, một
số Tòa án đã áp dụng pháp luật không đúng nên quyết định tại bản án không có
căn cứ pháp luật.
Ví dụ: sau khi ki ểm tra quy ết toán thu ế của doanh nghi ệp. Chi cục thu ế
thành phố Q thuộc tỉnh B đã lập biên bản kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế
ngày 07/6/2012 đối với Doanh nghiệp. Tại biên bản này Chi cục thuế đã phát hiện
trong năm 2007 Doanh nghiệp Đ đã khai các khoản chi phí thực tế không hợp lý,
không phát sinh nh ư ti ền lương 26.035.000 đ, nguyên v ật li ệu sản xu ất
23.412.730đ, khai báo doanh thu không đầy đủ, thiếu 22.217.306đ.
114
Căn cứ vào biên bản nói trên, Chi cục trưởng Chi cục thuế ký quyết định số
342/QĐ-CCT ngày 08-6-2012 v ề vi ệc xử lý vi ph ạm pháp lu ật về thu ế đối với
Doanh nghiệp Đ như sau: "Truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 với số
tiền là 111.121.330 đ, phạt 1,5 lần ti ền thu ế Thu nh ập doanh nghi ệp năm 2012:
26.682.000đ, tổng số tiền truy thu và phạt là 137.803.330đ".
Không đồng ý với quyết định trên, Doanh nghi ệp Đ đã khiếu nại và kh ởi
kiện vụ án hành chính tại Tòa án.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 29-9-2014, Tòa án nhân
dân TP Q, tỉnh B đã xét xử: " Bác yêu cầu khởi kiện của doanh nghiệp Đ, yêu cầu
hủy Quyết định số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2012 của chi cục trưởng Chi cục thuế.
Ngày 02-10-2014, Doanh nghiệp Đ đã kháng cáo.
Tại bản án hành chính phúc th ẩm số 03 ngày 15-5-2012. Tòa án nhân dân
tỉnh B đã xét xử: Chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, sửa bản án sơ thẩm,
hủy toàn bộ quyết số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2012 của Chi cục trưởng Chi cục
thuế trả lại cho Doanh nghi ệp Đ số tiền đã thu theo Quy ết định số 342/QĐ-CCT
ngày 08-6-2012 là 137.803.330đ
Tòa án cấp phúc thẩm xét xử hủy quyết định trên vì cho rằng tại Luật xử lý
vi phạm hành chính quy định Chi cục trưởng Chị cục thuế chỉ có thẩm quyền phạt
tiến đến 20.000.000đ, nhưng tại quyết định lại xử phạt đến 26.682.000đ là không
đúng thẩm quyền.
Tuy nhiên cũng về vấn đề này, Lu ật Xử lý vi ph ạm hành chính quy định
thẩm quyền Xử lý vi phạm hành chính của cơ quan thuế như sau: Trừ trường hợp
luật có quy định khác về mức phạt, Chi cục trưởng Chi cục thuế có quy ền phạt
đến 20.000.000đ.
Tòa án cấp phúc th ẩm khi xét xử đã không để ý đến cụm từ của điều luật
này là "Trừ trường hợp luật có quy định khác về mức phạt”, việc Tòa án cấp phúc
thẩm nhận định như trên là không đúng, vì thẩm quyền xử phạt của cơ quan thuế
trong trường hợp này được quy định tại thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tại khoản 3 điều 23 luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định việc xử lý vi
phạm về thuế đối với đối tượng nộp thuế như sau: "Khai man, trốn thuế thì ngoài
115
việc phải nộp đủ số thuế theo quy định của luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm, còn bị phạt tiền từ một đến năm lần số thuế gian lận.
Tại khoản 1 Điều 24 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định thẩm quyền
của cơ quan thuế trong việc xử lý vi ph ạm về thuế như sau: Thủ trưởng cơ quan
thuế tr ực ti ếp qu ản lý thu thu ế được quy ền xử lý đối với các vi ph ạm của đối
tượng nộp thuế quy định tại khoản 1, khoản 2 và phạt tiền từ một đến 5 lần số tiền
gian lận theo quy định tại khoản 3 điều 23 của Luật này.
Theo quy định của Luật thuế thu nh ập doanh nghiệp, việc chi cục thuế có
quyền xử phạt từ một đến năm lần số tiền mà doanh nghiệp khai man, trốn thế và
số tiền đó có thể lớn hơn nhiều lần số tiền 20.000.000đ, tùy thuộc vào số tiến trốn
lậu thuế.
Do vậy, việc Tòa án c ấp phúc th ẩm sửa toàn bộ bản án sơ th ẩm và hủy
quyết định số 342/QĐ-CCT ngày 08-6-2012 của Chi cục trưởng chi cục thuế là
không đúng quy định pháp luật.
Tiểu kết chương 3
Có thể khẳng định lại một lần nữa rằng: đối tượng xét xử trong vụ án hành
chính là quyết định hành chính, là hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà n ước. Và nhiệm vụ của Tòa
án khi xét xử vụ án hành chính là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức thông qua xem xét tính hợp pháp hay bất hợp pháp của các đối tượng này.
Tuy nhiên hi ện nay, chúng ta m ới chỉ có Lu ật ban hành các v ăn bản quy ph ạm
pháp luật mà vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về việc ban hành
các văn bản áp dụng pháp luật. Do đó, cơ quan hành chính nhà nước có phần nào
tùy tiện trong việc ban hành các văn bản cá biệt trong quá trình thực thi quyền lực
của mình làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng
bị áp dụng là các cá nhân, tổ chức. Đồng thời, khi các đối tượng đó bị khiếu kiện,
thì Tòa án, các Thẩm phán cũng như các cơ quan giải quyết khiếu kiện, các cán bộ
thụ lý giải quyết cũng rất lúng túng trong việc xác định được các quyết định, hành
116
vi đó có đúng hay không bởi các tiêu chí để đánh giá tính hợp pháp của một quyết
định hành chính thì không chỉ nằm trong các văn bản pháp luật chuyên ngành của
lĩnh vực đó mà còn nằm rải rác trong các văn bản pháp luật hành chính khác nhau,
mà trên th ực tế, hiện tượng xung đột pháp lu ật giữa các văn bản pháp lu ật của
chúng ta hiện nay tương đối phổ biến.
Thực tiễn cho thấy bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật tố tụng hành chính
còn nhiều khiếm khuyết là một hệ thống văn bản pháp luật nội dung chồng chéo
và phức tạp, có thể hiểu một nội dung điều luật dưới nhiều cách khác nhau ho ặc
chưa có những quy định cụ thể đủ để giải quyết kín kẽ các vụ án hành chính làm
cho các Thẩm phán gặp nhiều lúng túng khi áp d ụng pháp luật, làm hạn chế tính
thuyết phục đối với các phán quyết của Tòa án.
Việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng và nguyên nhân của thực
trạng được phân tích ở chương này của luận án, vấn đề nghiên cứu việc giải quyết
các vụ án hành chính t ại tòa án nh ư một phương thức hữu hiệu nhất để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, cơ quan tổ chức là một đòi hỏi có tính
cấp bách, qua đó có thể mạnh dạn đưa ra các giải pháp để đổi mới và hoàn thiện
các chế định này nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả xét xử các vụ án hành chính
tại Tòa án nhân dân để việc bảo vệ quyền lợi cho người dân được triệt để.
Các số liệu về tình hình giải quyết án hành chính tại Tòa án các cấp, phân
tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng là Tòa án ch ưa giải quyết tốt các vụ án
hành chính, chưa thực sự trở thành một phương thức hữu hiệu để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, công dân, c ơ quan, tổ chức bị xâm hại bởi các
quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đồng th ời, nêu lên nh ững sai sót
thường gặp trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính thông qua việc đưa ra
các vụ án cụ thể để làm tài liệu chứng minh.
Việc tìm ra các khuy ết tật của hệ th ống pháp lu ật tố tụng hành chính,
nghiên cứu về các trình tự tố tụng hành chính, trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, quyền kháng nghị của đương sự, như thế nào, để bảo đảm việc xét xử
được công minh, vô tư, nhanh chóng, không bị nhiễu và không bị cản trở bởi bản
thân những thế lực hành chính. Đây là một vấn đề phải tính đến do đặc điểm của
117
pháp luật hành chính thu ộc lĩnh vực tranh ch ấp có sự tham gia của hệ thống cơ
quan công quyền, cụ thể là tài phán hành chính là xử lý tranh chấp giữa một bên là
cơ quan hay nhà chức trách mang tính công quyền và một bên là người công dân,
người dân thường, người tư nhân hoặc giữa hai cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên và cấp dưới vốn nằm trong một hệ thống thứ bậc hành chính rất nghiêm túc,
và luôn luôn mang nặng tính chất của quan hệ bất bình đẳng, "mệnh lệnh - phục
tùng". Trên th ực tế thì quy ền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong nhi ều
trường hợp còn chưa được bảo vệ một cách triệt để. Bởi không tránh khỏi việc còn
có nhiều quy định của pháp luật có thể làm cho hệ cơ quan hành chính và Tòa án
đùn đẩy trách nhiệm cho nhau trong việc lên tiếng tới cùng để bảo vệ cho đương
sự trong các vụ việc khiếu nại, khiếu kiện. Từ đó, đẩy các cá nhân, tổ chức bị các
mệnh lệnh hành chính xâm hại lại phải lao vào vòng xoáy luẩn quẩn của khiếu nại,
khởi kiện, hầu kiện... Việc nghiên cứu thực trạng dưới góc độ này sẽ tạo tiền đề
cho việc đưa ra những giải pháp về mặt pháp luật cũng như thực tiễn để Tòa án có
được "thực quyền" trong việc giải quyết một tranh chấp hành chính, tạo cơ sở thực
tiễn vững chắc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham
gia giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa.
118
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN
4.1. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NỘI DUNG HÀNH CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật nội dung hành chính
Pháp luật hành chính là h ệ thống các văn bản pháp lu ật mà các c ơ quan
nhà nước có th ẩm quyền ban hành để tác động, điều chỉnh lên mọi mặt của đời
sống xã hội trong lĩnh vực hành pháp.
Hệ thống văn bản pháp luật hành chính có pháp luật nội dung và pháp luật
hình th ức. Hai bộ phận này của pháp lu ật hành chính có m ối quan h ệ hữu cơ,
trong đó pháp lu ật nội dung hành chính là "c ốt lõi", là "c ơ bắp" và các thành t ố
bên trong. Còn pháp lu ật hình th ức là "ki ểu dáng" bên ngoài, là "ph ương th ức
sống" của pháp luật nội dung. Chính vì vậy, pháp luật nội dung và pháp luật hình
thức hành chính luôn có s ự gắn bó mật thiết không thể tách rời và phải phù hợp
với nhau.
Dưới góc nhìn lý lu ận và ở tầm vĩ mô, mu ốn hoàn thi ện pháp lu ật nói
chung và pháp lu ật hành chính nói riêng, tr ước hết là phải rà soát, chỉnh sửa, bổ
sung… để đảm bảo mối quan hệ hữu cơ và sự phù hợp giữa pháp luật nội dung
và pháp luật hình thức hành chính.
Trong lĩnh vực hành pháp, có 2 nhóm pháp lu ật cơ bản là nhóm hệ thống
pháp luật liên quan đến thiết chế hành pháp (c ơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, cơ chế vận hành và hoạt động của công quyền) và nhóm hệ thống
pháp luật tác động đến quyền, nghĩa vụ và cơ chế, cách thức thực hiện quyền của
cá nhân, tổ chức trong quá trình quản lý hành chính nhà nước.
Pháp luật hành chính liên quan đến thiết chế công quy ền là tổng thể các
quy phạm pháp luật điều chỉnh từ các quan hệ xã hội liên quan đến quá trình xây
119
dựng, tổ chức và ho ạt động của các cơ quan qu ản lý hành chính nhà n ước đến
đội ngũ cán bộ, công chức.
Việc hoàn thiện các quy định pháp luật hành chính trong lĩnh vực này có ý
nghĩa vô cùng quan tr ọng. Một mặt, loại văn bản pháp luật này là cơ sở pháp lý
cho việc hình thành các c ơ quan qu ản lý nhà n ước, cơ sở xác định ch ức năng,
nhiệm vụ, quy ền hạn của chúng, mặt khác chúng có ý ngh ĩa quan tr ọng trong
việc xác định và đánh giá mới quan hệ giữa các thiết chế công quyền hành chính
và cá nhân, tổ chức trong hoạt động quản lý hành chính.
Do lĩnh vực hành chính là bao trùm trên m ọi mặt của đời sống xã hội nên
số lượng, quy mô của hệ thống văn bản pháp luật, loại này một khối lượng đồ sộ,
phức tạp về tính ch ất và đa dạng về thể loại. Trong khuôn kh ổ giới hạn luận án
chỉ nghiên c ứu, đề ngh ị hoàn thi ện pháp lu ật hành chính hai trong m ột số rất
nhiều các lĩnh vực quan tr ọng của án hành chính, chi ếm tỉ lệ lớn trong các lo ại
án hành chính được xét xử tại Tòa, đó là pháp lu ật về đất đai và pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính.
4.1.1.1. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật đất đai
Một trong những điểm nổi bật của Luật Đất đai 2013 là các yếu tố trụ cột
của hệ thống quản trị đất đai đã được tiếp thu để đưa vào Lu ật Đất đai, vấn đề
quy ho ạch, kế ho ạch sử dụng đất cũng là n ội dung có nhi ều đổi mới nh ất, cơ
chế Nhà nước thu hồi đất trong lu ật sửa đổi cũng được quy định cụ thể hơn và
tiến bộ hơn. Hi ến pháp đã quy định về tiêu chí "Nhà n ước thu h ồi đất do t ổ
chức, cá nhân đang sử dụng trong tr ường hợp thật cần thiết do luật định vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát tri ển kinh t ế - xã h ội vì lợi ích qu ốc gia, công
cộng". Tiêu chí chung v ề phạm vi áp dụng chỉ vì lợi ích quốc gia, công c ộng là
đổi mới quan tr ọng nh ất. Lu ật Đất đai 2013 đưa ra nguyên t ắc th ực hiện th ực
hiện thu hồi đất theo quy ho ạch là ch ủ yếu, để từ đó có đất sạch thực hiện đấu
giá đất, hạn chế việc áp dụng cơ chế thu hồi đất theo dự án để giao đất cho nhà
đầu tư đã được ch ỉ định nh ằm lo ại bỏ nguy c ơ tham nh ũng trong thu h ồi đất,
giao đất, cho thuê đất.
Luật sửa đổi chuyển hóa nhiều quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP thành các quy định của Luật. Thuật ngữ "Nhà
120
nước giao đất" ch ỉ áp d ụng đối với đất được sử dụng vô th ời hạn và đất nông
nghiệp giao cho h ộ gia đình, cá nhân. Đối với các lo ại các tr ường hợp đất sử
dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh phi nông nghi ệp đều chuyển sang hình
thức Nhà n ước cho thuê đất, hoặc trả tiền một lần hoặc trả tiền hàng n ăm, đối
với cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đối với vấn đề định giá đất, Luật
Đất đai 2013 quy định là bảng giá đất chỉ áp dụng cho một số trường hợp; các
trường hợp liên quan đến thu ti ền sử dụng đất, thu ti ền thuê đất, tính ti ền bồi
thường khi thu h ồi đất và tính giá tr ị quyền sử dụng đất khi cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà n ước đều phải quyết định giá đất cụ thể. Khung giá đất của Chính
phủ và bảng giá đất của UBND cấp tỉnh được ban hành 5 n ăm một lần, khi có
biến động lên hoặc xuống 20% thì ph ải điều chỉnh. Luật Đất đai 2013 quy định
việc thành l ập Hội đồng th ẩm định giá đất để thẩm định giá tr ước khi UBND
cấp tỉnh quyết định giá đất trong các tr ường hợp cụ thể, Chủ tịch Hội đồng là
Chủ tịch UBND cấp tỉnh và trong H ội đồng bắt buộc có thành viên là đại diện
của tổ chức có ch ức năng tư vấn định giá đất độc lập. Kết quả của dịch vụ tư
vấn giá đất độc lập là căn cứ để cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng
thẩm định giá đất xem. Thời hạn và hạn mức sử dụng đất sản xuất nông nghiệp,
đất rừng sản xuất, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho nông dân được nới
rộng hơn. Lu ật Đất đai 2013 quy định kéo dài th ời hạn sử dụng đối với đất
nông nghi ệp thành 50 n ăm và nông dân được ti ếp tục sử dụng theo th ời hạn
mới mà không c ần bất kỳ một th ủ tục nào. H ạn mức nh ận chuy ển quy ền sử
dụng đất được giao cho Chính ph ủ quy định cụ thể nhưng không v ượt quá 10
lần hạn mức giao đất của Nhà nước.
Tuy nhiên, ngoài nh ững đề xuất, sửa đổi được cho là tích c ực, khắc phục
được những nhược điểm trong hệ thống pháp luật đất đai hiện hành. Sự thay đổi
của lu ật cho th ấy nh ận th ức của Chính ph ủ trong vi ệc thay đổi nhằm đảm bảo
nền kinh tế tiếp tục phát triển chưa đúng hướng.
Lẽ ra Lu ật nên thi ết kế thu hồi đất trong 2 tr ường hợp để tránh tiêu c ực,
tham nhũng và lợi ích nhóm. Một là, trường hợp Nhà nước thu hồi đất như một
chế tài đối với lỗi của người sử dụng đất gây ra trong quá trình s ử dụng. Hai là,
121
Nhà nước dùng cơ chế hành chính để thu hồi đất theo quy định của Pháp luật, để
sử dụng vào 3 tr ường hợp: qu ốc phòng an ninh, l ợi ích qu ốc gia, lợi ích công
cộng. Ở tất cả các nước khác đều thiết kế luật như vậy, bao gồm cả những quốc
gia có chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, Nhà nước vẫn có quyền can thiệp bằng
biện pháp hành chính, n ếu vì lợi ích chung. Đối với những trường hợp còn lại
(dự án phát tri ển kinh tế - xã h ội), áp dụng cơ chế dân sự - tr ưng mua quyền sử
dụng đất.
Nghị quyết 19, Hội nghị trung ương VI, khóa 11 ghi rõ: "Quy ền sử dụng
đất là tài s ản được pháp lu ật bảo hộ". Như vậy, đã là tài s ản, không th ể bị tước
đoạt một cách d ễ dàng nh ư tr ước đây. Tr ừ nh ững tr ường hợp vì l ợi ích công,
mới được dùng biện pháp hành chính. Còn không, trong n ền kinh tế thị trường,
quyền sử dụng đất phải được mua bán sòng ph ẳng. Do đó, trong Lu ật Đất đai
và Hi ến pháp s ửa đổi đến nay v ẫn ch ưa th ể ch ế hóa chính xác được tư duy
Nghị quyết 19.
Luật Đất đai mới cũng nên tách độc lập cơ quan có th ẩm quyền thu hồi
đất và cơ quan có th ẩm quyền quyết định giá đất để làm cơ sở bồi thường. Như
vậy, sẽ khắc phục được sự vô lý về giá đất lâu nay.
4.1.1.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
Một là, các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
xử lý vi ph ạm hành chính (ngh ị định, thông tư) cần bám sát th ực tiễn nảy sinh
các quan hệ pháp lý hi ện thực trong xây d ựng các văn bản quy ph ạm pháp luật,
có ngh ĩa rằng, cần ph ải có nh ững nghiên c ứu đánh giá th ực ti ễn. Nh ững ngh ị
định, thông tư hướng dẫn xử lý vi ph ạm hành chính c ần phải được nghiên cứu,
được xây dựng từ những căn cứ đánh giá đúng yêu cầu thực sự của thực tiễn trên
các phương diện: sự cần thiết, mức độ điều chỉnh... để quyết định.
Hai là, phải có quy trình báo cáo đánh giá toàn b ộ các quy định có liên
quan tr ước khi xây d ựng các ngh ị định, thông tư mới. Cần ph ải xác định hình
thức văn bản phù hợp, tầm quan trọng, tính chất phức tạp của các quan hệ pháp
lý đến đâu thì xác định hình thức văn bản pháp lý đến đó, tránh sử dụng các hình
thức văn bản quá thẩm quyền trong lĩnh vực ngành quản lý. Triệt để tuân thủ các
122
nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
Ba là, cơ quan ch ức năng cần thường xuyên rà soát các ngh ị định, thông
tư hướng dẫn xử lý vi ph ạm, kịp th ời phát hi ện để lo ại bỏ những quy định đã
không còn hi ệu lực, hoặc không còn phù h ợp với thực tiễn; sửa chữa, bổ sung
các quy định cho rõ; hạn chế tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản
trong lĩnh vực ngành quản lý và với ngành khác, tránh tình tr ạng một hành vi vi
phạm nhưng nhiều quy phạm khác nhau điều chỉnh, đồng thời khắc phục kịp thời
những sơ hở.
Bốn là, chú trọng vai trò chuyên gia, các nhà khoa học trong việc xây dựng
các văn bản quy ph ạm pháp lu ật Xử lý vi ph ạm hành chính để nâng cao ch ất
lượng văn bản. Nâng cao năng lực của các chuyên gia và chuyên viên so ạn thảo
pháp lệnh, nghị định, thông tư. Đẩy mạnh công tác phối hợp các bộ, ban, ngành sẽ
bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán của nghị định, thông tư hướng dẫn xử lý vi phạm
hành chính được soạn thảo. Mở rộng sự tham gia đông đảo của xã hội, nhất là của
các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn bảo vệ pháp luật;
có cơ chế bắt buộc để các nhà hoạch định chính sách phải tiếp thu các ý kiến đóng
góp của người dân, xã hội, nhất là của những đối tượng bị điều chỉnh, để văn bản
xử lý vi ph ạm hành chính sát với thực tế, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các
văn bản quy phạm xử lý vi phạm hành chính được ban hành.
Năm là, thực hiện việc thẩm định các dự thảo nghị định, thông tư hướng
dẫn về việc xử lý vi ph ạm hành chính m ột cách ch ặt chẽ, kỹ lưỡng. Có cơ chế
nâng cao trách nhiệm của các cơ quan được hỏi ý kiến để những ý kiến đóng góp
thực sự vào việc xây dựng các văn bản trình các cấp có thẩm quyền quyết định.
Các cơ quan thẩm định cần hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật xử lý vi
phạm hành chính từ nội dung đến ngôn ngữ pháp lý trước khi trình Chính phủ và
phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định này. Về mặt nguyên tắc, các văn bản
xử lý vi phạm hành chính dù cấp thiết đến đâu cũng phải được xây dựng đạt chất
lượng tốt nhất mới trình Chính phủ thông qua, nếu chuẩn bị chưa tốt, chất lượng
kém thì dù cấp thiết đến đâu cũng nên để lại tiếp tục hoàn chỉnh.
123
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hành chính
Luật Tố tụng hành chính Vi ệt Nam ra đời đánh dấu bước phát triển quan
trọng trong quá trình hoàn thi ện pháp lu ật tố tụng hành chính Vi ệt Nam. Kể từ
đây, các chế định trong Luật tố tụng hành chính có hiệu lực pháp lý cao nhất chỉ
sau Hiến pháp, do đó nó trở thành cơ sở pháp lý mang tính bắt buộc cao cho các
thiết chế tài phán hành chính ở nước ta nói chung và c ơ chế bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính.
Tuy nhiên, vi ệc ban hành Lu ật tố tụng hành chính ch ỉ mới đặt nền móng
pháp lý cho tổ chức và hoạt động tố tụng hành chính. Phần lớn các quy định của
Luật tố tụng hành chính ch ỉ có những nội dung mang tính nguyên t ắc, khái quát
và chung nhất chứ chưa thật sự chi tiết, cụ thể.
Để pháp luật tố tụng hành chính có sức sống và đi vào thực tế đời sống có
hiệu lực, hiệu quả và để phù hợp với điều kiện của Việt Nam, căn cứ vào Hi ến
pháp, Lu ật Tố tụng hành chính và các quy định có liên quan, các c ơ quan nhà
nước trong ph ạm vi ch ức năng, nhiệm vụ, quy ền hạn của mình cần ti ếp tục rà
soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thi ện ở mức độ chi ti ết, cụ thể các quy định của
Luật Tố tụng hành chính.
Trước hết, Tòa án nhân dân t ối cao, thông qua H ội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân t ối cao cần sớm ban hành ngh ị quyết hướng dẫn chi ti ết và th ống
nhất công tác xét x ử hành chính theo Lu ật Tố tụng hành chính Vi ệt Nam, c ụ
thể là:
- Gi ải thích, h ướng dẫn cụ th ể ph ạm vi xét x ử hành chính thu ộc th ẩm
quyền của Tòa án được quy định tại Đ28 Luật Tố tụng hành chính, trong đó cần
giải thích rõ và li ệt kê các quy ết định hành chính, hành vi hành chính thu ộc
phạm vi bí mật nhà nước trong các l ĩnh vực quốc phòng an ninh, ngo ại giao và
các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính n ội bộ của cơ quan,
tổ chức.
Nếu nội dung này được quy định cụ thể, chi tiết và được giải thích sáng tỏ
sẽ vừa góp ph ần hoàn thi ện pháp lu ật tố tụng hành chính v ừa kh ắc ph ục tính
thiếu minh bạch trong quản lý hành chính, lợi dụng bí mật nhà nước hoặc mang
124
tính nội bộ để phục vụ lợi ích cá nhân, l ợi ích nhóm, nguy h ại đến lợi ích qu ốc
gia, lợi ích cá nhân, tổ chức.
- Cần quy định và h ướng dẫn th ống nh ất quan ni ệm cụ th ể về tính trái
pháp luật, tính bất hợp pháp của các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính (quyết
định hành chính, hành vi hành chính). Ở nội dung này, Tòa án nhân dân t ối cao
cần xác định rõ căn cứ để đánh giá tính bất hợp pháp của đối tượng xét xử hành
chính, cụ thể là:
+ Tính trái pháp luật về thẩm quyền;
+ Tính trái pháp luật về trình tự, thủ tục;
+ Tính trái pháp luật về thời hạn, thời hiệu;
+ Tính trái pháp luật về đối tượng áp dụng;
+ Tính trái pháp luật về cơ sở pháp lý;
+ Tính trái pháp lu ật khi n ội dung quy ết định hành chính, hành vi hành
chính không phù hợp với tình tiết khách quan;
+ Tính trái pháp lu ật trong các điều khoản chính của nội dung quyết định
hành chính, hành vi hành chính…
Việc đưa ra các quy định cụ thể trên là một bước tiếp tục hoàn thiện pháp
luật tố tụng hành chính, đồng thời có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khắc
phục tính "l ười biếng, trễ nải", hoặc "nể sợ" rất phổ biến hiện nay của đội ngũ
thẩm phán khi được giao xét xử các vụ án hành chính.
- Cần quy định rõ hơn vai trò của Luật sư trong tố tụng hành chính
Tòa án nhân dân t ối cao cần có nh ững quy định đảm bảo sự tham gia t ố
tụng để đại diện hoặc bảo vệ cho người khởi kiện mang tính bắt của Luật sư khi:
+ Vụ án có tính chất phức tạp;
+ Vụ án có tính chất xâm hại nghiêm trọng;
+ Vụ án có mức thiệt hại lớn;
+ Vụ án mà người khởi kiện trong các trường hợp sau:
- Đối tượng chính sách, người nghèo;
- Người dân tộc, người vùng sâu, vùng xa…;
- Người có trình độ văn hóa thấp (từ lớp 7 trở xuống).
125
+ Vụ án có ng ười bị kiện là tập thể cơ quan ho ặc người có ch ức vụ quan
trọng (Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện trở lên)…
Nội dung cần được quy định và cụ thể hóa là để phù hợp với tính đặc thù
của vụ án hành chính mà m ột trong các đặc thù đó là trong v ụ án hành chính,
người bị ki ện (m ột bên đương sự) luôn luôn là công quy ền. Vi ệc tham gia t ố
tụng hành chính c ủa Luật sư là nh ằm góp ph ần làm gi ảm sự chênh lệch về mọi
phương diện giữa một bên là Nhà nước (có đủ mọi điều kiện, phương tiện, năng
lực và các nguồn lực vật chất vô cùng to lớn…) và một bên là cá nhân, thể nhân.
Quy định về bảo đảm sự tham gia của Luật sư đại diện hoặc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử hành chính tại Tòa án.
4.2. HOÀN THIỆN TỔ CHỨC XÉT XỬ HÀNH CHÍNH
Xét xử các khiếu nại hành chính là một chức năng của Tòa án. Đây là một
loại án phức tạp, đặc biệt và có tính đặc thù là một bên trong các đương sự luôn
luôn là cơ quan nhà n ước hoặc cán bộ, công ch ức có th ẩm quyền trong các c ơ
quan đó. Những cơ quan này lại là "người bị kiện". Đây là điểm mấu chốt có thể
làm nảy sinh một số khuyết tật ảnh hưởng lớn, thậm chí có kh ả năng hình th ức
hóa, vô hiệu hóa thẩm quyền xét xử khiếu nại hành chính của Tòa án. Một trong
những phương thức hữu hiệu và cơ bản để hạn chế các khuyết tật trên là phải có
sự đổi mới một cách mạnh mẽ về tổ chức, sắp xếp lại hệ thống Tòa hành chính
tạo điều kiện cho việc phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các cấp.
Thực hi ện Ngh ị quy ết Đại hội đại bi ểu toàn qu ốc Đảng Cộng sản Vi ệt
Nam lần thứ IX, đảm bảo tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư
pháp thật sự có hiệu lực và hiệu quả, việc cải cách tổ chức hệ thống Tòa án phải
được tiến hành một cách đồng bộ bao gồm cải cách tổ chức bộ máy và nhân s ự;
cải cách sắp xếp lại hệ thống và cải cách tổ chức hoạt động xét xử. Trong khuôn
khổ của cuốn chuyên kh ảo này, ch ỉ bàn đến những vấn đề cải cách tổ chức có
liên quan đến thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án. Xin nêu một
số phương án sau:
Phương án thứ nhất:
Thiết lập hệ th ống Tòa án hành chính theo ph ương th ức tr ực tuy ến bao
gồm: Tòa án hành chính trung ương thuộc Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án hành
126
chính vùng và Tòa án hành chính khu v ực. Nếu theo h ệ th ống này thì chuy ển
thẩm quyền xét xử khiếu nại hành chính t ừ hệ thống Tòa án nh ư hiện nay sang
cho hệ thống Tòa án hành chính. Đồng thời bỏ Tòa hành chính Tòa án nhân dân
cấp cao và Tòa hành chính Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Cụ thể là:
a) Tòa án hành chính Trung ương thuộc cơ cấu của Tòa hành chính c ủa
Tòa án nhân dân cấp cao có các thẩm quyền sau:
- Sơ th ẩm những vụ án khi ếu kiện quy ết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ; của Chủ nhiệm Văn phòng Qu ốc hội, Văn phòng Ch ủ tịch nước; của
Chánh án Tòa án nhân dân t ối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân t ối cao
và các quy ết định hành chính, hành vi hành chính, quy ết định kỷ lu ật cán b ộ,
công chức của những cán bộ, công ch ức có th ẩm quyền ký theo ủy quyền hoặc
ký thay theo s ự phân công c ủa những người trên đây; những vụ án thu ộc thẩm
quyền của Tòa án hành chính vùng nh ưng Tòa án hành chính trung ương lấy lên
để xét xử;
- Phúc th ẩm những vụ án mà b ản án, quy ết định ch ưa có hi ệu lực pháp
luật của Tòa án hành chính cấp dưới trực tiếp kháng cáo, kháng nghị;
- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án hành chính cấp dưới trực tiếp bị kháng nghị;
- Tòa án hành chính trung ương giám đốc việc xét xử của các Tòa án hành
chính cấp dưới;
- Tòa án hành chính trung ương có Ủy ban Thẩm phán.
b) Tòa án hành chính vùng
- Tòa án hành chính vùng được thành lập và có phạm vi thẩm quyền trong
một vùng lãnh thổ nhất định (ví dụ: một số tỉnh liền kề lập thành một vùng…).
- Các Tòa án hành chính vùng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án về
khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật của các
cơ quan nhà n ước cấp tỉnh, thành ph ố tr ực thu ộc trung ương và cán b ộ, công
chức có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước đó; sơ thẩm những vụ án thuộc
thẩm quyền của Tòa án hành chính c ấp dưới mà mình l ấy lên để xét x ử; phúc
127
thẩm những vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án
hành chính cấp dưới bị kháng cáo, kháng ngh ị; giám đốc thẩm, tái th ẩm những
vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hành chính cấp
dưới bị kháng nghị.
- Tòa án hành chính vùng có Ủy ban Thẩm phán.
c) Tòa án hành chính khu v ực ở một số huyện liền kề (kể cả số huyện đó
thuộc các tỉnh khác nhau) được coi là một khu vực
- Các Tòa án hành chính khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ
án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, quy ết định kỷ luật
cán bộ, chức của các cơ quan nhà n ước từ cấp huyện trở xuống và của cán bộ,
công chức
Phương án thứ hai:
Thiết lập tổ ch ức xét x ử hành chính thành hai c ấp: cấp sơ th ẩm và c ấp
phúc th ẩm. Theo ph ương án này, nên thành l ập hệ th ống tổ ch ức xét x ử hành
chính như sau:
- Tòa hành chính sơ thẩm (hoặc Tòa hành chính sơ cấp);
- Tòa hành chính phúc thẩm (hoặc Tòa hành chính trung cấp);
- Tòa hành chính trung ương thuộc Tòa án nhân dân cấp cao.
Về thẩm quyền, nên phân định như sau:
Tòa hành chính s ơ th ẩm được tổ ch ức theo khu v ực (2-3 huy ện li ền kề
thành một khu v ực, có th ể có nh ững huy ện trong khu v ực thuộc các tỉnh khác
nhau) các Tòa hành chính s ơ thẩm có th ẩm quyền xét xử sơ thẩm mọi vụ kiện
hành chính có người bị kiện thuộc lãnh thổ khu vực.
Tòa hành chính phúc th ẩm được thành l ập theo t ừng vùng nh ất định (3
đến 4 t ỉnh lập thành m ột vùng) có th ẩm quy ền xét x ử phúc th ẩm các b ản án,
quyết định sơ thẩm của các Tòa hành chính khu vực thuộc vùng chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa hành chính trung ương thuộc Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền
xét xử phúc th ẩm, giám đốc thẩm, tái th ẩm các bản án, quy ết định của Tòa án
128
hành chính cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, thực hiện chức năng
giám đốc và hướng dẫn công tác xét xử…
Thực hiện phương án này s ẽ góp ph ần bảo đảm tối đa vai trò, v ị trí độc
lập và tích cực, khách quan và chính xác trong xét x ử khiếu kiện hành chính của
Tòa án.
Phương án thứ ba:
Xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án là trên nguyên tắc xét xử trên một
cấp. Với phương án này, th ẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính được phân
định như sau:
a) Tòa xử lý hành chính của Tòa án nhân dân huyện có thẩm quyền xét xử
các khiếu kiện hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của
Ủy ban nhân dân xã, ph ường, thị trấn và của cán bộ có thẩm quyền trong các cơ
quan đó.
b) Tòa hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Tòa hành chính c ủa Tòa án nhân dân c ấp tỉnh có th ẩm quy ền xét x ử sơ
thẩm các khi ếu ki ện hành chính đối với quy ết định hành chính, hành vi hành
chính, quy ết định kỷ lu ật cán bộ, công ch ức của các cơ quan nhà n ước từ cấp
huyện trở xuống và của cán bộ, công chức trong các cơ quan đó; xét xử sơ thẩm
những vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân c ấp huyện mà phân tòa
Tòa hành chính lấy lên để xét xử hoặc những vụ án mà Thẩm phán Tòa án nhân
dân huyện phải từ chối.
- Xét xử phúc th ẩm những vụ án mà b ản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị;
- Sơ thẩm những vụ án thu ộc thẩm quyền của Tòa án c ấp huyện mà Tòa
hành chính Tòa án nhân dân t ỉnh lấy lên để xét xử; những vụ án liên quan đến
các cơ quan nhà nước cấp tỉnh.
c) Tòa hành chính thuộc Tòa án nhân dân cấp cao có phạm vi thẩm quyền
địa hạt đối với một hoặc một số tỉnh liền kề:
- Xét xử sơ thẩm các khi ếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước cấp tỉnh hoặc
129
của cán bộ, công chức có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước đó; các vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh mà phân tòa Tòa hành chính Tòa
hành chính Tòa án nhân dân cấp cao lấy lên để xét xử…
- Xét xử sơ thẩm các khi ếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ (gọi chung là Bộ trưởng) và các cơ quan thuộc cấp bộ của Văn phòng
Quốc hội, Văn phòng Ch ủ tịch nước, Tòa án nhân dân t ối cao, Vi ện ki ểm sát
nhân dân tối cao.
- Xét x ử phúc th ẩm các v ụ án mà b ản án, quy ết định ch ưa có hi ệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị.
d) Tòa án nhân dân cấp cao
- Phúc th ẩm các vụ án mà b ản án, quy ết định chưa có hi ệu lực pháp lu ật
của Tòa hành chính thu ộc Tòa hành chính Tòa án nhân dân c ấp cao b ị kháng
cáo, kháng nghị.
- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị.
e) Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử các
vụ án hành chính như quy định hiện hành
- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị.
Cần mạnh dạn thực hiện những cải cách có tính đột phá nh ư vậy mới có
thể tạo ra bước chuyển biến mới và tích c ực cho vi ệc nâng cao n ăng lực xét xử
hành chính, làm cho Tòa án có vai trò th ật sự tham gia vào c ơ ch ế gi ải quy ết
khiếu kiện hành chính c ủa công dân, t ổ chức; góp ph ần nâng cao hi ệu lực quản
lý nhà nước của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Trong các phương án nêu trên, ph ương án thứ nhất là có ý ngh ĩa tích cực
và khả thi nh ất cho việc bảo đảm sử dụng và th ực hiện có hiệu quả thẩm quyền
của Tòa án trong vi ệc xét xử các khiếu kiện hành chính. Đây là phương án đúng
đắn và tối ưu vì những lý do sau:
130
Thứ nh ất, ph ương án này phù h ợp với quan điểm của Đảng về tính h ệ
thống của Tòa án hành chính các c ấp được ghi nh ận trong Ngh ị quy ết 08-
NQ/TW Ban Ch ấp hành Trung ương Đảng khóa VII: "…xúc ti ến việc thiết lập
hệ thống Tòa án hành chính để xét xử các khiếu kiện hành chính của dân đối với
các quyết định hành chính".
Trên thực tế hiện nay, chúng ta ch ưa có hệ thống các Tòa án hành chính
các cấp. Tòa hành chính c ủa Tòa án nhân dân t ối cao và Tòa án nhân dân c ấp
tỉnh hiện nay ch ỉ là các tòa chuyên trách gi ống như các tòa chuyên trách c ủa tư
pháp th ưởng (hình sự, dân s ự, kinh tế, lao động) không th ể gọi đó là hệ thống
Tòa án hành chính được.
(1) Việc thiết lập hệ thống Tòa án hành chính theo phương án thứ nhất vừa
có tác dụng củng cố, kiện toàn hệ thống Tòa án, v ừa có tác d ụng phân định lại
thẩm quyền xét xử của Tòa án. Vấn đề này cũng được Đảng ta chỉ rõ trong Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần thứ IX là: "C ủng cố, kiện toàn bộ máy cơ
quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân" [22, tr.132].
(2) Theo ph ương án này c ũng đồng th ời là t ừng bước th ực hi ện ch ủ
trương cải cách tư pháp của Đảng là: "Xác định mô hình t ổ chức và th ủ tục tố tụng phù hợp với đặc điểm của các vụ kiện hành chính" [19, tr.143], góp phần
"cải cách tổ chức, nâng cao ch ất lượng và hoạt động của cơ quan tư pháp… sắp
xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các
cấp" [19, tr.132].
Thứ hai, thực hiện phương án này sẽ nhằm đảm bảo củng cố, tăng cường
việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc: khi xét x ử Tòa án độc lập và ch ỉ tuân theo
pháp luật, khắc phục tình tr ạng ngại va chạm, tình trạng lo ngại của Thẩm phán
khi phải đối diện với các cơ quan hành chính ở địa phương.
Khi thi ết lập hệ th ống Tòa án hành chính theo ph ương án này c ũng sẽ
khắc phục tình trạng phụ thuộc, lệ thuộc của Thẩm phán vào cơ chế tổ chức ở địa
phương nh ư hi ện nay. Hi ện nay, s ự ph ụ thu ộc của Th ẩm phán th ể hi ện ở ch ỗ
Thẩm phán được bổ nhiệm, tái bổ nhiệm phải thông qua Hội đồng tuyển chọn ở
địa phương mà đa số các thành viên trong H ội đồng tuyển chọn đều là cán b ộ,
131
công chức trong các c ơ quan chính quy ền địa phương. Nếu theo ph ương án th ứ
nhất thì Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm, tái bổ nhiệm Thẩm phán phải là một Hội
đồng khác.
Thứ ba, người trực tiếp thực hiện thẩm quyền của Tòa án để xét xử khiếu
kiện hành chính là các Th ẩm phán. N ếu th ực hi ện theo ph ương án này thì đội
ngũ Thẩm phán trong Tòa án hành chính các c ấp có điều kiện tập trung vào xét
xử, khi ếu ki ện hành chính. Do đó có điều ki ện và b ắt bu ộc Th ẩm phán hành
chính phải chuyên tâm, trau dồi nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng xét xử các khiếu
kiện hành chính; qua đó đảm bảo ch ất lượng, hi ệu qu ả xét x ử, nâng cao th ẩm
quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án.
Thứ tư, theo phương án này, vi ệc thực hiện thẩm quyền của Tòa án trong
việc xét xử khiếu kiện hành chính sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác, t ự tin
khi th ụ lý để xét x ử các khi ếu ki ện hành chính v ề các quy ết định hành chính,
hành vi hành chính, quy ết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công ch ức của cơ
quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó tại địa phương.
Thứ năm, việc thực hiện phương án này s ẽ tạo sự phù hợp giữa hệ thống
tổ chức với thẩm quyền, phù hợp giữa hình thức với nội dung. Nhờ có hình thức
tổ chức thích hợp, thông qua hình th ức đó mà nội dung thẩm quyền mới có điều
kiện, cơ hội tồn tại và phát huy các giá tr ị tích c ực, bảo đảm vi ệc xét x ử các
khiếu kiện hành chính được khách quan, chính xác; b ảo vệ có hi ệu quả quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; góp phần nâng cao hiệu lực của quản lý
hành chính nhà nước
4.3. HOÀN THIỆN NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH
Nhân tố con người trong xét xử hành chính là một phạm trù tư pháp hành
chính cụ thể và được hiểu theo những nghĩa khác nhau.
Theo nghĩa rộng, nhân tố con ng ười trong xét x ử hành chính là n ội dung
pháp lý để chỉ những cá nhân, t ổ chức tham gia vào quá trình Tòa án th ụ lý và
giải quyết vụ án hành chính và cá nhân,tổ chức liên quan đến quá trình đó.
Theo nghĩa này, nhân tố con người trong xét xử hành chính bao gồm:
132
+ Cơ quan và ng ười ti ến hành t ố tụng trong hành chính (Tòa án, Vi ện
kiếm sát, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên)
+ Đương sự và nh ững người tham gia t ố tụng (người khởi kiện, người bị
kiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư, người bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định…)
+ Cá nhân, tổ chức quan tâm, theo dõi vụ án hành chính…
+ Theo ngh ĩa hẹp, nhân t ố con ng ười trong xét x ử hành chính là các cá
nhân tham gia quá trình xét xử hành chính với tư cách là người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng.
Tuy nhiên lu ận án này, trong ph ạm vi hạn chế, chỉ tập trung vào v ấn đề
hoàn thiện vai trò, trách nhiệm người Thẩm phán.
Bởi vì trong xét x ử hành chính c ủa nền tư pháp xét h ỏi, chất lượng, hiệu
quả và giá tr ị công lý của phán quyết hành chính là ph ụ thuộc vào vai trò quy ết
định của thẩm phán.
4.3.1. Vấn đề đạo đức và trách nhiệm Thẩm phán trong hoạt động xét
xử các khiếu kiện hành chính
4.3.1.1. Khái quát chung
Hoạt động xét xử nói chung và xét x ử vụ án hành chính nói riêng, pháp
luật xác định cho Th ẩm phán một vị trí đặc biệt đó là "độc lập và ch ỉ tuân th ủ
theo pháp lu ật". Và để đảm bảo vị trí pháp lý quan tr ọng này, trong h ệ th ống
pháp luật Việt Nam - Nhà n ước ta quy định rất nhiều các biện pháp bảo đảm cả
về mặt thể chế, thủ tục cũng như quá trình tố tụng.
Vị trí pháp lý, các biện pháp bảo đảm trên lại được đặt trong điều kiện của
một nền tố tụng xét hỏi - loại tố tụng mà ưu quyền trong các quan hệ pháp luật là
lệ thuộc các cơ quan và người tiến hành tố tụng - nếu không có tác động tích cực
của các yếu tố xã hội khác mà tr ước hết là yếu tố đạo đức - thì d ễ dẫn đến tình
trạng người tiến hành tố tụng (trong đó có Th ẩm phán) sẽ dựa dẫm, lạm quyền
mà hạn chế tính đúng đắn, khách quan trong hoạt động xét xử.
Trên thế giới, trải qua các thời kỳ khác nhau, dưới bất kỳ chế độ chính trị
nào, vấn đề đạo đức người Thẩm phán luôn đặc biệt coi trọng, góp phần tích cực
133
nhất chi phối hành vi ứng xử của người Thẩm phán trong các quan hệ xã hội nói
chung, trong hoạt động xét xử nói riêng.
Đạo đức vốn là một hình thái ý th ức xã hội được hình thành t ừ rất sớm
trong lịch sử xã hội loài ng ười. Đó chính là nh ững quy định, những chuẩn mực
ứng xử trong quan h ệ của con ng ười. Đạo đức giúp con ng ười hướng tới chân,
thiện, mỹ. Đạo đức người Thẩm phán, tr ước hết cũng không ngoài đạo đức xã
hội, nó là các chu ẩn mực đạo đức xã hội được hình thành và phù h ợp với hoạt
động xét xử của người Thẩm phán. Hầu hết các quốc gia có nền tư pháp tiên tiến
trên thế giới đều có nh ững quy chu ẩn nhất định về đạo đức nghề nghiệp. Điển
hình như: Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Tòa án hình s ự quốc tế (Code of
Judicial Ethics of Internatinal Criminal Court), Bộ nguyên tắc đạo đức cho thẩm
phán của Hội đồng tư pháp Canada (Ethical Principles for Judges – Canadian
Judicial Council), Bộ quy tắc hành vi cho th ẩm phán Hoa K ỳ (Judicial Code of
Conduct for United States Judges)…
Với ý ngh ĩa như vậy, đạo đức Thẩm phán trong ho ạt động xét xử vụ án
hành chính là các giá tr ị về chân, thiện, mỹ trong quá trình ti ến hành tố tụng mà
người Thẩm phán cần hướng tới để ra một phán quy ết công minh, khách quan,
đúng pháp luật.
Điều đặc biệt trong hoạt động xét xử các khiếu kiện hành chính là xem xé
và giải quyết các mâu thu ẫn, tranh chấp giữa Nhà nước (cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức trong cơ quan nhà nước) với công dân hay tổ chức. Do đó, người
Thẩm phán xem xét gi ải quyết sao cho v ừa phải đảm bảo hiệu lực của quản lý
hành chính nhà nước vừa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Trong bài chuyên luật này không bàn về khía cạnh đạo đức học của người Thẩm
phán mà chỉ nêu và phân tích các biểu hiện, giá trị và ý nghĩa của đạo đức người
Thẩm phán trong quá trình được phân công, th ụ lý, điều tra, xác minh, thu th ập
chứng cứ và xét xử vụ án hành chính.
Để có cơ sơ nghiên cứu, xem xét các bi ểu hiện đạo đức Thẩm phán trong
các giai đoạn của quá trình xét xử khiếu kiện hành chính một cách toàn diện đầy
đủ, cần khái quát các yếu tố tạo nên đạo đức Thẩm phán trong xét xử hành chính.
134
Trước hết, người Thẩm phán có đạo đức phải là người có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "Có tài mà không có đức
là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm vi ệc gì cũng khó". Rõ ràng tài
và đức là hai yếu tố chất của đạo đức nghề nghiệp. Hai tố chất này có mối liên hệ
mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong ho ạt động xét xử các khiếu
kiện hành chính, hai y ếu tố này được thể hiện ở kỹ năng, nghiệp vụ xé xử của
người Thẩm phán. Không th ể nói Thẩm phán có đạo đức nghề nghiệp nhưng do
nghiệp vụ kỹ năng non kém mà ra m ột phán quy ết gây thi ệt hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp cho công dân, tổ chức được.
Thứ hai, lương tâm ngh ề nghi ệp, lòng nhân đạo của Th ẩm phán, đây là
một tố chất quan trọng thể hiện ở lòng nhân hậu, tính vị tha, bao dung của người
Thẩm phán trong quá trình gi ải quyết vụ án hành chính. N ếu không có s ự cảm
thông sâu sắc đến các tr ường hợp cụ thể của các vụ khiếu kiện thì dễ dẫn đến
tình trạng làm việc qua loa, đại khái, thiếu chặt chẽ, thiếu khách quan, ảnh hưởng
đến quy ền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện hoặc làm gi ảm uy tín c ủa cơ
quan nhà n ước hay cán b ộ, công ch ức trong các c ơ quan nhà n ước (Ng ười bị
kiện). Đây chính là lo ại tình c ảm trong sáng, không làm m ất đi sự công tâm,
minh bạch của Thẩm phán.
Thứ ba, bản lĩnh nghề nghiệp. Yếu tố này thể hiện tính tự quyết, khả năng,
độc lập và lòng dũng cảm của Thẩm phán. Bản lĩnh được hình thành và củng cố
trên cơ sở của tính tự tin vào kh ả năng chuyên môn, thái độ công bằng, khách
quan vô tư. Đặc biệt, trong xét x ử hành chính (xét x ử quyết định, hành vi c ủa
chính quyền), nếu không có bản lĩnh vững vàng thì người Thẩm phán dễ bị nể sợ
chính quyền, sợ lãnh đạo trù dập dẫn đến thiếu khách quan vô tư, ảnh hưởng đến
chất lượng xét xử.
Thứ tư, tính trung th ực. Trong ho ạt động giải quyết các khi ếu kiện hành
chính, tính trung th ực cũng là một yếu tố vô cùng quan tr ọng. Tính trung th ực
trước hết thể hiện ở sự tôn tr ọng sự thật khách quan, nhìn nh ận và xét đoán sự
vật, hi ện tượng đúng nh ư bản ch ất vốn có c ủa nó, không suy đoán ch ủ quan,
thiếu căn cứ, thiếu cơ sở. Tính trung th ực ở đây còn th ể hiện ở sự cương tr ực
135
nhưng chân tình trong công tác c ũng như quan hệ ứng xử hàng ngày tại cơ quan
trong sinh hoạt xã hội của người Thẩm phán.
Thứ năm, tinh th ần trách nhiệm, yếu tố này biểu hiện qua sự tận tụy, tính
tự giác trong quá trình th ực thi công vụ. Tinh thần trách nhiệm còn thể hiện ở sự
thận trọng, tỉ mỉ, chu đáo khi lựa chọn các tình ti ết, các cơ sở pháp luật áp dụng
để ra phán quyết giải quyết vụ án.
Thứ sáu, tính khiêm t ốn. Đây là đức tính rất quan tr ọng của người Thẩm
phán. Với đức tính này, đòi hỏi mỗi Thẩm phán có thái độ đúng mực trong đánh
giá trình độ, năng lực... của bản thân mình, không kiêu căng, tự mãn và phải biết
tôn trọng trình độ, năng lực, phẩm chất, công lao và thành tích c ủa người khác
nhất là đối với đồng nghiệp.
Những yếu tố gắn kết, tác động qua l ại lẫn nhau t ạo nên đạo đức con
người Thẩm phán nói chung và đạo đức trong ho ạt động xét xử các khi ếu kiện
hành chính nói riêng - đạo đức Thẩm phán trong hoạt động xét xử các khiếu kiện
hành chính.
4.3.1.2. Biểu hiện của đạo đức Thẩm phán trong hoạt động giải quyết các
khiếu kiện hành chính
Đạo đức Thẩm phán được biểu hiện trong suốt quá trình gi ải quyết vụ án
mà trước hết là việc thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án hành chính là hoạt động tiến hành
tố tụng đầu tiên của Tòa án nhân dân trong đó Thẩm phán căn cứ vào các quy
định của pháp luật chấp nhận đơn khởi kiện vụ án hành chính của đương sự, hay
quyết định khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân vào sổ thụ lý.
Việc thụ lý vụ án hành chính có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác
định trách nhi ệm xem xét gi ải quyết vụ án và các quan h ệ tố tụng giữa Tòa án
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Khi xem xét đơn kh ởi ki ện hay quy ết định kh ởi tố vụ án hành chính đòi hỏi
Thẩm phán ph ải th ận tr ọng và kh ẩn tr ương. Nếu không th ận tr ọng thì có th ể
thiếu chính xác, nh ầm lẫn về vụ việc, thẩm quyền hoặc xác định không đầy đủ
các điều ki ện kh ởi ki ện, kh ởi tố… dẫn đến th ụ lý sai v ụ án. N ếu không kh ẩn
136
trương thì có th ể ảnh hưởng đến thời hiệu, thời gian kh ởi kiện, khởi tố dẫn đến
làm mất quyền khởi kiện của đương sự.
Sau khi đã thụ lý, Thẩm phán được phân công gi ải quyết vụ án phải đọc
kỹ các tài liệu do người khởi kiện xuất trình, ví dụ: Đơn khởi kiện, bản sao quyết
định hành chính, b ản sao quy ết định trả lời khiếu nại lần đầu…hoặc các tài li ệu
khác. Sau đó, Thẩm phán vi ết tóm tắt nội dung đơn kiện, yêu cầu khởi kiện để
thông báo cho ng ười bị kiện và ng ười có quy ền lợi, nghĩa vụ liên quan bi ết nội
dung đơn kiện.
Tiếp theo, Thẩm phán tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Hoạt động,
xác minh, thu th ập chứng cứ trong vụ án hành chính có vai trò vô cùng to l ớn
trong quá trình gi ải quyết vụ án hành chính. Đây là ho ạt động chiếm một khối
lượng công việc lớn nhất, nhiều thời gian nhất so với các loại công việc khác của
quá trình giải quyết vụ án hành chính. Xác minh, thu th ập chứng cứ trong vụ án
hành chính là t ổng thể các ho ạt động tố tụng của Tòa án nh ằm làm rõ các tình
tiết của vụ án, qua đó xác l ập các c ăn cứ cần thi ết, khách quan cho vi ệc gi ải
quyết đúng đắn vụ án hành chính.
Hoạt động xác minh, thu th ập ch ứng cứ là một lo ại ho ạt động cần thi ết,
vừa có ý ngh ĩa bắt bu ộc đối với ng ười ti ến hành t ố tụng nói chung và đối với
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án nói riêng, vừa là biện pháp đảm bảo
cho các hoạt động tố tụng khác của quá trình giải quyết vụ án hành chính, nhất là
hoạt động xét xử tại phiên tòa và việc ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Về
mặt pháp lý, ho ạt động xác minh, thu th ập ch ứng cứ trong v ụ án hành chính
được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật, nhất là Luật tố tụng hành chính.
Như vậy, mặc dù yêu cầu của việc xác minh, thu thập chứng cứ phát sinh
từ rất sớm nhưng với tư cách là hành vi tố tụng thì các hoạt động này được chính
thức tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử còn được thể hiện ở nhiều yêu cầu, công vi ệc
và thời hạn khác liên quan mật thiết đến hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ.
Những nội dung này có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong việc xác định phạm
137
vi đối tượng điều tra cụ thể, xác định biện pháp, kế hoạch và hướng điều tra, xác
định thời gian hoàn thành nhiệm vụ điều tra.
Như vậy, nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính là một loại hoạt động tố tụng
mang tính ch ất chuyên môn, nghi ệp vụ cụ thể và cần thiết nhằm góp ph ần nắm
vững nội dung, tính ch ất diễn biến của vụ án, phát hiện những thiếu sót, sai lầm
của các ho ạt động tố tụng có liên quan nh ằm bổ sung, hoàn thi ện các tình ti ết
và hệ thống chứng cứ, đủ căn cứ và cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính là m ột hoạt động tố tụng mang
tính chuyên môn nghi ệp vụ có ý ngh ĩa bắt buộc đối với bất cứ Thẩm phán nào
được phân công giải quyết vụ án. Kết quả nghiên cứu hồ sơ vừa là cơ sở cho việc
ra các quyết định về giải quyết vụ án vừa là điều kiện thiết yếu để thực hiện các
giải đoạn tố tụng tiếp theo như mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc viết bản án hành chính hoặc ra các quyết định giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án áp dụng mọi biện pháp do lu ật quy định để
kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án nhằm xác định tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính ho ặc quy ết định kỷ luật bu ộc thôi
việc bị khiếu kiện; xác định có hay không có thi ệt hại do quyết định hành chính,
hành vi hành chính ho ặc quyết định kỷ luật buộc thôi vi ệc trái pháp lu ật gây ra
để bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án. Như vậy, việc tiến hành phiên tòa sơ
thẩm vụ án hành chính là th ủ tục bắt buộc trong trình t ự tố tụng hành chính để
giải quyết vụ án khi không có lý do quy ết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc
giải quyết vụ án. Sau phiên tòa sơ thẩm còn có những bước tiếp theo của tố tụng
hành chính như xét xử phúc thẩm, thi hành án… Vì vậy, bản án hoặc quyết định
sơ th ẩm ch ưa có hi ệu lực pháp lu ật trong th ời hạn kháng cáo, kháng ngh ị do
pháp luật quy định. Nếu có kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm
phải được xét x ử lại theo th ủ tục phúc th ẩm. Nếu không có kháng cáo, kháng
nghị thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành.
Từ phân tích trên có th ể hiểu rằng, phiên tòa hành chính s ơ thẩm là một
khâu quan trọng của giai đoạn xét xử sơ thẩm, trong đó Tòa án tiến hành xét xử,
138
kiểm tra các ch ứng cứ của vụ án, làm cơ sở cho vi ệc ra bản án ho ặc quyết định
giải quyết vụ án.
Hoạt động xét xử của Tòa án được thể hiện thông qua nhi ều giai đoạn tố
tụng kế tiếp nhau, từ khi th ụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét x ử và k ết thúc
bằng vi ệc tuyên m ột bản án. Trong các giai đoạn tố tụng thì phiên tòa là giai
đoạn thể hiện sự đặc trưng, điển hình nhất của giai đoạn xét.
Các Thẩm phán dù đã làm quen và thành th ạo trong vi ệc điều khiển các
loại phiên tòa v ề hình s ự, dân s ự, nhưng vi ệc điều khi ển phiên tòa m ột cách
"xuất sắc", nhất là đối với những vụ án ph ức tạp không ph ải dễ dàng và không
phải Thẩm phán nào c ũng thực hiện được. Đối với phiên tòa hành chính là lo ại
việc mới lại có nh ững điểm đặc thù riêng, vì v ậy rất cần có th ời gian và th ực
hành vừa tổng kết rút kinh nghi ệm để xây dựng một quy trình điều khiển phiên
tòa thích hợp, có hiệu quả, trong đó phải đạt được những yêu cầu sau đây:
- Một phiên tòa nghiêm minh không ch ỉ căn cứ vào việc Hội đồng xét xử
tuyên một bản án có đúng pháp lu ật hay không, mà còn đòi hỏi phiên tòa có
được một hình th ức nghiêm trang v ừa thể hiện được nguyên tắc tuân th ủ pháp
luật và m ọi ng ười đều bình đẳng tr ước pháp lu ật. Hình th ức phiên tòa ph ải
nghiêm trang, dân chủ, không tạo ra khoảng cách không gian quá xa và cảm giác
"ngôi thứ" cao thấp giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia
tố tụng. Hình th ức phiên tòa được th ể hiện thông qua các bài trí phòng x ử án,
trang phục, tác phong, lời nói của người tiến hành tố tụng và đặc biệt là sự điều
khiển của Ch ủ tọa phiên tòa, theo đúng trình t ự, nh ạy bén, n ăng động, ch ững
chạc, chính xác từ khi khai mạc đến khi kết thúc.
- Việc điều khiển phiên tòa của Chủ tọa phiên tòa phải đúng trình tự, rành
mạch, ch ặt ch ẽ, ng ắn gọn, không n ặng nề phong thái "ch ỉ huy", truy xét
như phiên tòa hình s ự, mà cần bình tĩnh lắng nghe các bên đương sự xuất trình
tài liệu chứng minh và trình bày ý kiến tranh luận; thể hiện vai trò trung gian, tạo
điều kiện cho hai bên đương sự thỏa thuận và nếu thỏa thuận không được thì Hội
đồng xét xử mới quyết định theo pháp luật.
139
Trong trình tự tố tụng hành chính, xét x ử tại phiên tòa có m ột vị trí quan
trọng. Thông qua vi ệc ki ểm tra, đánh giá các ch ứng cứ đã thu th ập trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án xác minh được sự thật khách quan, bản chất của vụ
án để rút ra những kết luận làm cơ sở cho các quyết định của bản án. Bản án của
Tòa án ghi nh ận toàn bộ quá trình gi ải quyết của vụ án, buộc các bên đương sự
và các cơ quan, tổ chức có liên ph ải chấp hành. Vi ệc ra bản án ph ải thông qua
xét xử, nếu không có hoạt động xét xử thì không thể ra bản án hành chính được.
Vì sau khi xét x ử sơ thẩm, vụ án còn có th ể được xét x ử theo trình t ự
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái th ẩm nên vi ệc xét xử sơ thẩm còn là c ơ sở
cho việc tiến hành các thủ tục này. Xét xử theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm có được thuận lợi hay không cũng phụ thuộc một phần quan
trọng vào chất lượng của xét xử sơ thẩm vụ án.
Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính thường được tiến hành công khai nên
nhân dân có điều kiện tham dự phiên tòa, vừa chứng kiến vừa giám sát hoạt động
xét xử của Tòa án. Bằng việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án và áp dụng pháp luật
để gi ải quy ết vụ án có lý, có tình, ho ạt động xét x ử của Tòa án giúp cho các
đương sự và quần chúng nhân dân hiểu biết hơn về pháp luật, từ đó nâng cao hơn
ý th ức tôn tr ọng và ch ấp hành pháp lu ật Nhà n ước cũng nh ư các quy t ắc của
cuộc sống xã hội.
Trong kỹ năng th ực hành phiên tòa s ơ thẩm, ph ần xét h ỏi là khó kh ăn
nhất, đòi hỏi Th ẩm phán Ch ủ tọa phiên tòa và H ội đồng xét x ử ph ải có m ột
phương pháp làm vi ệc khoa h ọc, nh ạy bén trong vi ệc xử lý từng tình hu ống
cụ thể để đạt được mục đích là xác định được sự thật khách quan và nh ững tình
tiết liên quan đến vi ệc gi ải quy ết vụ án được đúng pháp lu ật. Th ẩm phán Ch ủ
tọa phiên tòa là ng ười ch ịu trách nhi ệm chính trong vi ệc tổ ch ức không khí
tranh lu ận dân ch ủ khách quan, bình đẳng; tránh định ki ến thiên v ị, tránh thái
độ võ đoán.
Tóm lại, vấn đề tranh tụng tại phiên tòa hành chính là vi ệc tranh cãi, bàn
luận của các bên tham gia tranh t ụng về tính h ợp pháp c ủa quy ết hành chính,
hành vi hành chính… b ị kh ởi ki ện. Bi ểu hi ện của tranh t ụng được th ể hi ện ở
140
những mức độ khác nhau qua các n ội dung, các th ủ tục tại phiên tòa nh ưng tập
trung và ch ủ yếu được thể hiện tại phần tranh lu ận của phiên tòa, nh ất là phiên
tòa sơ thẩm.
Mặt khác, do tranh tụng tại phiên tòa được coi là căn cứ chủ yếu của việc
ra phán quy ết của Tòa án. Do vậy, để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa
hành chính cần phải có những biện pháp bảo đảm thì mới phát huy được vai trò
là cơ sở, là căn cứ để ra phán quyết.
Qua trình bày trên cho th ấy, tranh tụng hành chính có vai trò vô cùng to
lớn, thông qua tranh t ụng và lấy tranh tụng tại phiên tòa làm c ăn cứ chủ yếu để
Tòa án ra phán quyết về tính hợp pháp hay bất hợp pháp của các quyết định hành
chính, hành vi hành chính b ị khởi kiện. do vậy chất lượng của phán quy ết phụ
thuộc rất lớn vào ch ất lượng của việc tranh tụng tại phiên tòa. Xem nh ẹ vấn đề
tranh tụng tại phiên tòa hành chính, Tòa án s ẽ rơi vào tình tr ạng chủ quan, tùy
tiện trong ho ạt động xét xử, tùy ti ện, chủ quan trong vi ệc ra phán quy ết để giải
quyết vụ án. Thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa hành chính s ẽ góp ph ần
khắc ph ục tình tr ạng "án b ỏ túi", kh ắc ph ục tình tr ạng "võ đoán", qua loa đại
khái của Tòa án trong ho ạt động xét xử hành chính, hơn nữa việc mở rộng tranh
tụng nói chung và tranh tụng hành chính nói riêng sẽ góp phần xóa bỏ dần sự lạc
hậu của nền tư pháp, tiến tới xây dựng một nền tư pháp tiến bộ, hiện đại.
4.3.1.3. Kết luận và một số kiến nghị
Đạo đức Thẩm phán là một phạm trù, một vấn đề xã hội quan tr ọng liên
quan đến tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, liên quan đến mối quan hệ và
sự đảm bảo công lý gi ữa nhà nước với công dân, t ổ chức, đến tự do, ti ến bộ và
đặc biệt là vai trò đảm bảo, bảo vệ của nhà nước về phát tri ển kinh tế - xã h ội.
Việc quan tâm đến đạo đức Thẩm phán nói chung, đạo đức của Thẩm phán trong
quá trình xét xử, giải quyết vụ án hành chính nói riêng có ý ngh ĩa vô cùng quan
trọng trong cải cách kinh t ế - xã h ội, nhất là cải cách tư pháp. Chính vì v ậy, để
đảm bảo sao cho hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và của Thẩm phán trong
giải quyết các khiếu kiện hành chính nói riêng - ngoài việc thấm nhuần nội dung,
141
yêu cầu, ý nghĩa của vấn đề đạo đức người Thẩm phán trong hoạt động tư pháp -
Nhà nước và xã hội cần luôn đề cao vai trò đạo đức của người Thẩm phán. Đặc
biệt là đạo đức Thẩm phán trong xét xử các khiếu kiện hành chính - một loại đạo
đức đặc thù. Do đó, muốn đề cao vai trò đạo đức trong ho ạt động xét xử hành
chính cần có những biện pháp bảo đảm như sau:
Một là, cần sớm ban hành quy ch ế đạo đức người Thẩm phán, các chu ẩn
mực và yêu c ầu cụ thể của Th ẩm phán trong ho ạt động xét x ử, gi ải quy ết các
khiếu kiện hành chính. Vi ệc ban hành quy ch ế đạo đức như vậy sẽ có tác d ụng
chuẩn mực hóa các hành vi ứng xử của Th ẩm phán mà Nhà n ước ch ưa quy
chuẩn hóa dưới dạng các quy phạm pháp luật. Cần coi đó như là một tác động xã
hội tích cực giúp hình thành và hoàn thi ện năng lực, phẩm chất của người Thẩm
phán trong hoạt động xét xử hành chính.
Hai là, cần có những biện pháp tôn vinh, đề cao danh dự và bảo vệ những
giá trị đạo đức của Thẩm phán trong gi ải quyết các khi ếu kiện hành chính. Đặc
biệt là những phẩm chất như tính khách quan, trung th ực, lòng dũng cảm bảo vệ
công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của công dân, tổ chức
trước các vi ph ạm pháp luật của chính các hành vi, quy ết định của chính quyền,
của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.
Quá trình hình thành đạo đức, nhân cách ng ười Th ẩm phán; quá trình
nâng cao năng lực của người Thẩm phán có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện
vai trò tích cực của nền tư pháp nước nhà đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Với ý nghĩa như vậy - đạo đức Thẩm phán có vai trò tích cực trong việc cải cách
nền tư pháp và c ũng góp ph ần quan tr ọng vào sự nghiệp công nghi ệp hóa, hi ện
đại hóa đất nước.
4.3.2. Cần quy định rõ thái độ và trách nhi ệm tham gia t ố tụng của
người bị kiện để bảo đảm thẩm quy ền xét x ử khi ếu ki ện hành chính c ủa
Tòa án
Mặc dù pháp lu ật đã quy định rõ quy ền, nghĩa vụ, xác định vị trí pháp lý
của người bị kiện trong tố tụng hành chính nh ưng cũng cần phải có nh ững quy
142
định rất cụ thể và th ực hiện để buộc người bị kiện sử dụng đúng đắn và đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm công vụ của người bị kiện cho từng
giai đoạn của quá trình tố tụng. Các quy định này cần được ghi nhận trong Luật
hoặc Pháp l ệnh về tố tụng hành chính. Các th ủ tục bắt bu ộc nếu không có s ự
ràng buộc sẽ làm giảm ý nghĩa của việc thực hiện thẩm quyền xét xử khiếu kiện
hành chính. M ột số ngh ĩa vụ, th ủ tục bắt bu ộc đáng chú ý c ần ph ải có trách
nhiệm ràng buộc như:
- Nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác, k ịp thời, khách quan các tài li ệu,
chứng cứ, trong đó tài liệu, chứng cứ nào thuộc phạm vi bắt buộc;
- Cử người đại diện có năng lực, có trách nhi ệm và có tinh th ần, thái độ
đúng đắn, tránh tình tr ạng bàng quan, th ờ ơ, đùn đẩy. Người bị kiện, người đại
diện, người được ủy quyền phải có sự thống nhất và nh ất quán trong quá trình
tham gia gi ải quyết vụ án tránh tình tr ạng ng ười đại diện được ủy quy ền th ỏa
thuận một đường còn ng ười đứng đầu cơ quan t ổ ch ức bị ki ện lại quy ết định
một nẻo;
- Cần xem sự "bội ước" của người bị kiện trong việc thỏa thuận giải quyết
vụ khi ếu ki ện với ng ười kh ởi ki ện là m ột hành vi ph ạm pháp c ần ph ải xử lý
nghiêm minh; cần có những quy định "phục hồi" tố tụng trong những trường hợp
người bị kiện "bội ước";
- Người bị kiện phải có trách nhi ệm chấp hành bản án, quy ết định đã có
hiệu lực của Tòa án trong th ời hạn do pháp lu ật quy định nh ư hủy, sửa quy ết
định hành chính trái pháp lu ật, chấm dứt hành vi hành chính trái pháp lu ật, khắc
phục và bồi thường thiệt hại.
Đặc biệt cần phải có nh ững quy định cụ thể về trách nhi ệm pháp lý cho
người bị kiện và các biện pháp cưỡng chế cần thiết khác. Cụ thể là:
- Trách nhiệm pháp lý: Hình sự, dân sự, hành chính và kỷ luật;
- Các bi ện pháp cưỡng chế: Khấu trừ tài kho ản ở ngân hàng, kho b ạc, để
khắc ph ục ho ặc bồi th ường thi ệt hại; th ủ tục bồi th ường ph ải đơn gi ản, nhanh
gọn; buộc khôi ph ục lại tình tr ạng ban đầu bị thay đổi bị thiệt hại do th ực hiện
quyết định hành chính hay hành vi hành chính trái pháp luật gây nên.
143
Ngoài ra, c ần làm rõ trách nhi ệm của cá nhân (cá th ể hóa trách nhi ệm)
trong việc ra quyết định hoặc tham gia ra quyết định hành chính, thực hiện hành
vi hành chính trái pháp luật.
4.4. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN, NGHĨA
VỤ CỦA CÁ NHÂN, TỔ CHỨC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH
CỦA TÒA ÁN
4.4.1. Cần hoàn thi ện cơ ch ế bảo đảm thi hành các phán quy ết của
Tòa án hành chính
Luật Tố tụng hành chính được QH XII thông qua t ại kỳ họp thứ 8, sẽ có
hiệu lực từ ngày 1.7.2011 được đánh giá là m ột bước ti ến lớn trong xây d ựng
Nhà nước pháp quy ền, tăng cường quyền dân ch ủ của công dân và trách nhi ệm
của Nhà nước. Tuy nhiên, để Luật Tố tụng hành chính đi vào cu ộc sống cần có
cơ chế bảo đảm thi hành các phán quyết của Tòa án hành chính.
Luật Tố tụng hành chính có nhi ều quy định th ể hiện tinh th ần của Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính tr ị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, đặc biệt đã mở rộng những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa
án. Cụ thể là tòa án có thẩm quyền giải quyết có khiếu kiện sau: khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính, tr ừ các quy ết định hành chính, hành vi
hành chính thu ộc phạm vi bí m ật nhà n ước trong các l ĩnh vực quốc phòng, an
ninh, ngoại giao và các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội
bộ của cơ quan, tổ chức; khiếu kiện về danh sách c ử tri b ầu cử đại biểu Quốc
hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; khi ếu kiện quyết định
kỷ lu ật bu ộc thôi vi ệc công ch ức gi ữ ch ức vụ từ Tổng cục tr ưởng và t ương
đương trở xuống; khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh.
Việc quy định như trên là đúng hướng tinh th ần của Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính tr ị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đồng
thời cũng phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo; đáp ứng được nhu
cầu cải cách t ư pháp h ội nh ập kinh qu ốc tế và là điểm đổi mới quan tr ọng
của Luật Tố tụng hành chính so v ới Pháp l ệnh th ủ tục gi ải quy ết các v ụ án
hành chính.
144
4.4.2. Tồn tại và nh ững giải pháp bảo đảm thi hành phán quy ết của
Tòa án hành chính
Được đánh giá là m ột bước ti ến lớn trong xây d ựng Nhà n ước pháp
quyền, tăng cường quyền dân ch ủ của công dân và trách nhi ệm của Nhà nước.
Tuy nhiên, vi ệc th ực thi b ộ lu ật quan tr ọng này s ẽ còn nhi ều vấn đề cần ph ải
nghiên cứu, bổ sung cho phù h ợp với từng giai đoạn phát tri ển kinh tế - xã h ội
cũng như quá trình hoàn thi ện pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Để bảo đảm thi hành phán quy ết của Tòa án hành chính c ần nhiều yếu tố
khác nhau nh ư tổ chức, nhân sự, tài chính, ki ểm tra, thanh tra gi ải quyết khiếu
nại, tố cáo, việc thi hành các pháp quy ết của Tòa án hành chính, x ử lý các hành
vi vi phạm pháp luật... Số vụ việc còn tồn chủ yếu là hoàn trả án phí hành chính,
cơ quan thi hành đã thông báo nhiều lần nhưng đương sự không tới hoặc Ủy ban
nhân dân là bên phải thi hành án bồi thường với số tiền lớn chưa có điều kiện thi
hành. Hầu hết các b ản án, quy ết định về hành chính c ủa Tòa án ch ỉ tuyên x ử
công nhận, hủy bỏ hoặc sửa một phần quyết định của cơ quan hành chính, không
tuyên cụ th ể quy ền và ngh ĩa vụ về tài s ản nh ư quy ết định hành chính đã ban
hành. Thực tế việc thi hành b ản án hành chính ch ưa giao cho c ơ quan nào theo
dõi, báo cáo hàng năm, thông thường cơ quan cấp trên của cơ quan ra quyết định
hành chính theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính.
Khắc phục tình trạng này, Luật Tố tụng hành chính đã được bổ sung nhiều
quy định mới so với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, nh ằm
xây dựng cơ chế bảo đảm thi hành án hành chính chặt chẽ, cụ thể. Theo đó, trong
trường hợp ng ười kh ởi ki ện bị thua thì c ơ quan đã ban hành quy ết định hành
chính bị kiện sẽ tự tổ chức thi hành quyết định hành chính và tổ chức việc cưỡng
chế thi hành quy ết định hành chính c ủa mình theo quy định của pháp lu ật. Bên
cạnh đó, Lu ật cũng bảo đảm thi hành án hành chính b ằng cơ chế qu ản lý Nhà
nước về thi hành án v ới quy định giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính ph ủ quản lý
nhà nước về công tác thi hành án hành chính; c ơ chế kiểm sát thi hành án c ủa
145
viện kiểm sát. Đồng thời giao việc theo dõi, đôn đốc thi hành án hành chính cho
cơ quan Thi hành án dân sự.
Thiết nghĩ bên cạnh những bảo đảm về mặt pháp lý v ới những quy định
mang tinh thần cải cách tư pháp thì cần nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử đối
với các v ụ án hành chính, xét x ử công tâm, vô t ư, khách quan, th ể hi ện tính
thuyết phục cao nhằm bảo đảm cho bản án quyết định được thực thi trên thực tế.
Trường hợp bản án, quyết định hành chính của Tòa án tuyên hủy quy định hành
chính của cơ quan hành chính thì c ần tuyên rõ ràng khi b ản án có hi ệu lực pháp
luật thì quyết định hành chính đương nhiên bị hủy. Tòa hành chính phải tống đạt
các bản án, quy ết định do mình xét x ử kịp thời, bảo đảm thời gian cho các bên
thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị của mình.
Ngoài ra, cần tăng cường công tác ki ểm sát thi hành án đối với đối tượng
phải thi hành án là c ơ quan hành chính nhà n ước trong việc thực thi các bản án,
quyết định của Tòa án hành chính, b ảo đảm cho vi ệc thi hành án được kịp thời
và đúng quy định của pháp luật.
Kể từ ngày 1/7/1996, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có
thêm một thể chế mới là giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng con đường tố
tụng hành chính do Tòa án nhân dân th ực hi ện, phân bi ệt với ho ạt động gi ải
quyết khiếu nại bằng con đường thủ tục hành chính do các c ơ quan hành pháp
thực hiện.
Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính trong thời gian qua của các cấp Tòa
án nhân dân đã chứng minh được giá trị tích cực của nó, làm thúc đẩy tinh thần,
thái độ, trách nhi ệm của các cơ quan nhà n ước trong vi ệc tăng cường sự quan
tâm, giải quyết có hiệu quả các khiếu kiện của các công dân, t ổ chức, đồng thời
góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động hành pháp, xây dựng một
nền hành chính lành mạnh để phục vụ nhân dân. Như vậy, trong nền hành chính
quốc gia nói riêng, n ền tư pháp nói chung ở nước ta, vi ệc thiết lập một thể chế
Tòa hành chính thu ộc Tòa án nhân dân là m ột nội dung quan tr ọng của cải cách
tư pháp, cải cách bộ máy Nhà nước, tạo thêm một nấc thang mới trong việc xây
146
dựng nên một phương thức đặc thù để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các
tổ chức, cá nhân.
Để nắm bắt được một cách toàn di ện, sâu s ắc về vi ệc gi ải quy ết vụ án
hành chính tại Tòa án nhân dân, luận án đã tập trung phân tích các hoạt động của
Tòa án trong c ả quá trình t ố tụng giải quyết các vụ án hành chính để nhìn nh ận
và phân tích th ấu đáo thực trạng của việc áp dụng pháp luật nội dung và tố tụng
trong giải quyết án hành chính. T ừ đó, so sánh và đối chiếu giữa các vấn đề lý
luận khoa học với các chế định pháp lý, giữa các quy định của pháp luật với việc
vận dụng, áp dụng nó trong th ực tiễn giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta
hiện nay.
Để giải quyết những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc do th ực tiễn đặt ra
trong quá trình áp d ụng pháp lu ật, trên c ơ sở nghiên c ứu các lu ận điểm khoa
học về vấn đề gi ải quy ết các v ụ án hành chính t ại Tòa án nhân dân và th ực
trạng của tình hình gi ải quyết, xét x ử án hành chính t ại Tòa án và đặc biệt là
xuất phát t ừ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam v ề thiết lập, hoàn thi ện
thẩm quyền tài phán hành chính, hoàn thi ện bộ máy Nhà n ước trong ti ến trình
xây dựng Nhà nước pháp quy ền; luận án cũng đã mạnh dạn nêu ra m ột số giải
pháp, ki ến ngh ị nhằm hoàn thi ện pháp lu ật tố tụng hành chính đồng th ời cải
tiến và t ổ chức lại và h ệ thống tài phán hành chính, góp ph ần bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp c ủa công dân, c ủa con ng ười trong một nhà nước pháp quy ền
xã hội chủ nghĩa.
Tiểu kết chương 4
Trên cơ sở đánh giá thực trạng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức thông qua con đường xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án trong
thời gian quan, phân tích nh ững nguyên nhân c ủa th ực tr ạng đó và phân tích
những vướng mắc trong vi ệc áp dụng một số những quy định của Luật đất đai,
Pháp lệnh xử lý vi ph ạm hành chính, Lu ật Tố tụng hành chính và các v ăn bản
khác có liên quan, luận án cố gắng đưa ra những giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ
147
sung hoặc đưa ra phương án áp dụng một số quy định của các văn bản pháp luật
nói trên, nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả giải
quyết các vụ án hành chính. Vấn đề này bao gồm những nội dung như:
Thứ nh ất, hoàn thi ện hệ th ống văn bản pháp lu ật hành chính, xây d ựng
nền tảng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức từ chính ho ạt
động quản lý hành chính nhà n ước thông qua vi ệc ban hành các v ăn bản pháp
luật phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá
nhân, tổ chức trong xã hội.
Thứ hai, cải cách tổ chức, sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân để đảm
bảo thực hiện việc xét xử hành chính vừa độc lập, vừa khách quan và hiệu quả.
Thứ ba, hoàn thi ện các quy định, các bi ện pháp b ảo đảm thực hiện việc
giải quy ết khi ếu ki ện hành chính c ủa Tòa án nhân dân nh ư xác định thái độ,
trách nhiệm tham gia t ố tụng của người bị kiện, cải cách trình t ự tố tụng hành
chính cho phù hợp với đặc điểm của vụ kiện hành chính.
Thứ tư, cần phải cải tiến hình th ức tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán,
cải tiến ph ương thức lãnh đạo và sự tham gia tuy ển chọn Th ẩm phán. Kéo dài
nhiệm kỳ Thẩm phán hành chính. Đồng thời, đổi mới phương pháp và nội dung
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ
Thẩm phán và cán bộ Tòa án nói chung và Thẩm phán hành chính nói riêng.
Mạnh dạn triển khai và th ực hiện phương hướng và nh ững giải pháp trên
là những đóng góp vô cùng thi ết thực cho vi ệc nâng cao n ăng lực xét xử hành
chính của Tòa án nhân dân.
148
KẾT LUẬN
Nghiên cứu thực tiễn bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức thông qua con đường xét xử các vụ án hành chính t ại Tòa án trong nh ững
năm qua cho chúng ta th ấy được sự tham gia vào c ơ ch ế giải quyết khiếu kiện
hành chính của Tòa án là rất cần thiết và không thể đảo ngược. Điều này phù hợp
với xu thế đổi mới và phát triển của đất nước, phù hợp với nhịp bước chung của
thời đại.
Giá trị pháp lý c ơ bản, thiết yếu của việc bảo đảm quy ền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức thông qua con đường xét xử các vụ án hành chính t ại
Tòa án khẳng định địa vị của tư pháp, của Tòa án về vấn đề bảo đảm quyền tự do
của công dân, quyền con người, thực hiện dân chủ hóa, con đường trọng tâm của
sự nghiệp đổi mới đất nước. Các giá trị tích cực đó cũng là những biểu hiện rõ nét
được đúc kết từ những luận điểm khoa học của nhân loại mà nổi bật nhất là quan
điểm của chỉ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về
sự cần thiết, về vai trò của nhà nước về bảo vệ quyền con người, vai trò của Tòa
án về giải quyết các mâu thuẫn giữa nhà nước và công dân, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính trong thời gian qua của các cấp Tòa
án ở nước ta đã chứng minh được giá trị tích cực đó. Bằng hoạt động thực hiện các
biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong việc giải
quyết các vụ án hành chính, nhà n ước ta đã tạo ra th ế "đối ứng" tích cực có tác
động thúc đẩy tinh thần, thái độ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc
tăng cường sự quan tâm, gi ải quyết có hi ệu qu ả các khi ếu kiện của cá nhân, t ổ
chức. Đồng thời, các cơ quan hành pháp, trong quá trình quản lý hành chính thận
trọng hơn khi ra các quy ết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến
công dân, từ đó, nâng cao ch ất lượng, hiệu qu ả của ho ạt động hành pháp, xây
dựng nền hành chính trong sạch để phục vụ nhân dân.
Trong các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, bước đầu nhà nước ta
đã xác lập tương đối đầy đủ các định chế cần thiết cho quá trình giải quyết vụ án
149
hành chính. Hầu hết các chế định đó hoặc liên quan mật thiết hoặc là một bộ phận
hữu cơ của nhiệm vụ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ chức.
Như vậy, trong nền tài phán hành chính quốc gia nói riêng, nền tư pháp nói chung
ở nước ta, việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét
xử vụ án hành chính, giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án là một nội dung, một
vấn đề vô cùng quan trọng của cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước.
Việc thiết lập tài phán hành chính thu ộc nền tư pháp ở nước ta cùng v ới
mục tiêu nâng cao chất lượng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức trong xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân đánh dấu một bước tiến
quan trọng và cần thiết trong quá trình tăng cường, hoàn thiện bộ máy nhà nước,
đánh dấu sự đổi mới về vị trí vai trò c ủa nhà nước, một nhà nước phục vụ nhân
dân, hoạt động của bộ máy nhà nước là nhằm bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền và
lợi ích của công dân, bảo đảm quyền con người ở nước ta.
Từ các k ết lu ận nêu trên cho phép chúng ta rút ra m ột số kết lu ận về
thực tr ạng, th ực tiễn hoạt động gi ải quyết các khi ếu kiện hành chính c ủa Tòa
án như sau:
Thứ nhất, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
trong xét xử vụ án hành chính t ại Tòa án nhân dân v ẫn là một lĩnh vực mới mẻ,
đánh dấu bước phát triển mới trên con đường hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của
bộ máy nhà nước. Tòa án thực sự trở thành một địa chỉ đáng tin cậy, tiếp tục song
hành với cá cá nhân, tổ chức trong việc xử lý các khiếu kiện hành chính.
Thứ hai, do là m ột lĩnh vực mới mẻ cho nên kinh nghi ệm giải quyết của
Tòa án còn h ạn ch ế, ch ất lượng, hi ệu qu ả của vi ệc th ực hi ện vấn đề bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính tại
Tòa án nhân dân còn ch ưa cao, sự sai sót th ậm chí vi ph ạm cả về tố tụng lẫn áp
dụng pháp luật nội dung còn nhiều. Tỷ lệ án xử sai, thiếu sót, phải xem xét lại và
giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm còn lớn.
Thứ ba, đặc biệt quan trọng là các quy định của pháp luật liên quan đến vấn
đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, t ổ chức trong xét x ử vụ án
hành chính còn thiếu, chưa tập trung, chưa đồng bộ, nhiều quy định còn bất hợp lý
150
đã làm hạn chế khía cạnh tích cực và tiến bộ của Tòa án, của nhà nước trong việc
giải quyết các mâu thuẫn hành chính giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan nhà nước.
Thứ tư, các h ạn ch ế từ chính các quy định của pháp lu ật không ch ỉ ảnh
hưởng đến việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án về giải quyết khiếu kiện hành
chính mà còn tạo môi trường tốt cho sự chủ quan, xem thường pháp luật của các
cơ quan hành pháp, v ừa gây cản trở đến quá trình c ải cách hành chính v ừa tạo
nên tình tr ạng nể, sợ của các cơ quan nhà n ước khác, của Tòa án đối với quyền
hành pháp.
Để khắc phục các nh ược điểm nêu trên, lu ận án cũng đã mạnh dạn nêu ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức trong xét xử vụ án hành chính, góp ph ần làm cho h ệ thống tài
phán hành chính th ực sự là ch ỗ dựa của công là, là bi ện pháp hi ệu qu ả bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp và tự do của công dân, của con người.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Thị Hòa (2007), “V ề vấn đề xác định tư cách đương sự trong vụ án hành
chính”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (9), tr.4-10.
2. Vũ Thị Hòa (2007), “Một số vấn đề cần lưu ý khi xem xét việc ủy quyền tham gia
tố tụng trong vụ án hành chính”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (10), tr.34-36.
3. Vũ Thị Hòa (2011), “Đối tượng khởi kiện và thẩm quyền xét xử theo Luật tố
tụng hành chính năm 2010”, Tạp chí Nghề Luật, (04), tr.9-13.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
2. Nguyễn Hoàng Anh (2005), "Nh ững căn cứ đánh giá tính hợp pháp của quyết
định hành chính trong xét xử hành chính ở Cộng hòa Pháp và Vương quốc
Bỉ", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (7), tr.11-13.
3. Nguyễn Hoàng Anh (2006), "Hoạt động xét xử hành chính ở nước ta", Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 01(67), tr.15-17.
4. Nguyễn Thanh Bình (2002), Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải
quyết các khiếu kiện hành chính, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật
Hà Nội.
5. Nguyễn Thanh Bình (Chủ biên) (2004), Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án hành
chính, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
6. Nguyễn Thanh Bình (2004), Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của tòa án
- sự đảm bảo công lý trong quan hệ Nhà nước và Công dân, Nxb Tư Pháp.
7. Nguyễn Mạnh Bình (2010), Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc
thực hiện quyền lực Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2006), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ
tục tư pháp, nâng cao hi ệu quả và hi ệu lực xét xử của Tòa án trong nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, Đề tài cấp nhà nước mã
số KX.04.06, Hà Nội.
9. C.Mác, Ph.Ănghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. C.Mác, Ph.Ănghen (1981), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. Lê Văn Cảm (1997), Học thuyết về Nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở
Liên bang Nga, Nxb Sáng tạo Hội khoa học - Kỹ thuật Việt Nam tại Liên
bang Nga, Mát-xcơ-va.
12. Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp (2002), Triết học pháp quyền của Hêghen,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153
13. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập III, Khoa mục chí,
Quốc dụng chí, Hình Luật chí, Nxb Sử học, Hà Nội.
14. Vũ Hoàng Công (Chủ biên) (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
15. Hà Hùng Cường (2009), "Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, (139 + 140), tr.7-9.
16. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
18. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền (Sách chuyên khảo), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Nguyễn Sĩ Dũng, Hoàng Minh Hiếu (2010), "Việc tổ chức thực hiện pháp luật
trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta", Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, (13), tr.21-24.
20. Nguyễn Chí D ũng (2009), Cơ ch ế pháp lý giám sát ho ạt động tư pháp ở
Việt Nam, Luận án ti ến sĩ Luật học, Học viện Chính tr ị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Ch ấp
hành Trung ương Khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
154
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quy ết Hội nghị lần thứ 3 Ban Ch ấp
hành Trung ương Khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 2001 -
2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thi ện hệ thống pháp lu ật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qu ốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đặng Xuân Đào (2002), "Về quyền hạn của Tòa án khi gi ải quyết một vụ án
hành chính cụ thể", Tập san Người bảo vệ công lý, (6), tr.23-27.
36. Đêvít Âuxbót và Tét Gheblơ (1997), Đổi mới hoạt động của Chính phủ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Minh Đoan (2002), Hiệu quả pháp luật những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Minh Đoan (2009), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Nguyễn Minh Đoan (2009), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Động (2005), "V ề mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở
Việt Nam", Tạp chí Luật học, (5), tr.7-11.
155
41. Nguyễn Văn Động (2008), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, dùng
cho đào tạo luật học và sau đại học luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Trương Thanh Đức (2010), "Luật tốt, dân không ngại đến tòa", Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, (21), tr.12-14.
43. Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân
công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Trần Ngọc Đường, Nguyễn Văn Mạnh (Chủ biên) (1999), Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Trần Ngọc Đường (2004), "Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật - Nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân", Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, 7(195), tr.15-19.
46. Trần Ngọc Đường (2010), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân", Báo Nhân dân, ngày 30/8.
47. Trần Ng ọc Đường (2011), Bàn về quy ền con ng ười quyền công dân trong
xây dựng Nhà nước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính tr ị quốc
gia, Hà Nội.
48. Trần Ngọc Đường (Chủ biên) (2011), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền
lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Gorshunov D.N. (2006), "Những yếu tố tâm lý xã hội trong thực thi pháp luật",
Nghiên cứu lập pháp, (79), tr.9-10.
50. G.W.F. Heghel (1934), Toàn tập, tập VII, Nxb Kinh tế - xã hội, Mátxcơva.
51. G.W.F. Heghel (2010), Các nguyên lý của triết học pháp quyền (Grundlinien
Der philosophie des rechts), Bùi Văn Nam Sơn (dịch và chú giải), Nxb Tri
thức, Hà Nội.
52. Trần Quang Hiển (2013), Cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành
chính ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
53. Vũ Đình Hòe (2005), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
156
54. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Quyền con
người (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
55. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật (2007),
Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật, tập 1, (Tái bản lần thứ ba), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
56. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình Luật hành chính và tài phán hành
chính Việt Nam, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
57. Học viện Hành chính (2010), Giáo trình Hành chính công, Nxb Khoa học kỹ
thuật, Hà Nội.
58. Học viện Hành chính quốc gia (2012), Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta,
Hà Nội.
59. Lê Văn Hưu (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
60. Quốc hội (2014), Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013 và Nghị
quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Phạm Khiêm Ích, Hoàng V ăn Hảo (1995), Quyền con ng ười trong th ế gi ới
hiện đại - nghiên cứu và thông tin, Tài liệu tham khảo nội bộ, Hà Nội.
62. Jean - Jacques Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
63. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số
quốc gia trên thế giới, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
64. Phan Huy Lê (2010), Lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
65. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm) (2006), Cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống
các thủ tục tư pháp, nâng cao hi ệu quả và hi ệu lực xét xử của Tòa án
trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa
học cấp Nhà nước, Hà Nội.
66. Nguyễn Văn Mạnh (2005), Nhận thức và thực tiễn vận dụng quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi
mới (từ 1986 đến nay), Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
157
67. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và Pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (1985), Về công tác tư tưởng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
69. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Đinh Văn Minh (1995), Tài phán hành chính so sánh , Nxb Chính tr ị quốc
gia, Hà Nội.
71. Montesquieu S.L (1967), Tinh thần pháp lu ật, Nxb Sài Gòn, Thành ph ố Hồ
Chí Minh.
72. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
73. Phạm Duy Nghĩa (2004), Pháp luật và những nhân tố tích cực của Nho giáo,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995), Tìm hiểu về xét xử hành chính ở một
số nước và lãnh thổ trên thế giới, Hà Nội.
75. Nhà xuất bản Chính tr ị quốc gia (2000), Quyền con ng ười trong qu ản lý tư
pháp, Hà Nội.
76. Nhà xuất bản Pháp lý (1992), Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền, Hà Nội.
77. Nguyễn Như Phát, Nguyễn Thị Việt Hương (Đồng chủ biên) (2010), Tài phán
hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quy ền và hội nhập
quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
78. Hoàng Phê (Chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm
Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
79. Hàn Phi (2001), Hàn Phi Tử (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
80. Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường (1992), Xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội.
81. Pierre Jacquet, Roland Hureaux, Vincent Denby - Wilkes (2004), Báo cáo
tổng kết: Vì một sự tăng trưởng và một xã hội công bằng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
82. Phạm Hồng Quang (2005), "Luật kiện tụng hành chính ở Nhật Bản và một số
vấn đề cải cách tố tụng hành chính ở Nhật Bản hiện nay", Tạp chí Luật
học, (3), tr.8-9.
158
83. Phạm Hồng Quang (2009), Hoàn thiện chế định tài phán hành chính Việt Nam
trong tiến trình hội nhập và phát triển: một vài kinh nghiệm từ hệ thống
luật Châu âu lục địa, Nhật Bản và Trung Quốc, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
84. Hoàng Thị Kim Qu ế (Ch ủ biên) (2007), Giáo trình Lý lu ận chung về Nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
85. Nguyễn Thế Quyền (2005), "Một số vấn đề về hoàn thiện cơ chế giải quyết
khiếu kiện của công dân", Tạp chí Luật học, (3), tr.12-15.
86. Hoàng Văn Sao (2005), "Cần làm rõ khái ni ệm khiếu nại, khiếu kiện để giải
quyết các quyền ấy của cá nhân cho đúng", Tạp chí Luật học, (3), tr.6-8.
87. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (1996), Tài phán hành chính ở Việt Nam,
Nxb thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
88. Phạm Hồng Thái (Ch ủ biên) (2001), Quyết định hành chính, hành vi hành
chính - Đối tượng xét x ử của Tòa án, Nxb Thành ph ố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh.
89. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb
Giao thông vận tải, Hà Nội.
90. Thanh tra Chính phủ (2010), Báo cáo số 2280/BC-TTCP ngày 04/8 tổng kết
việc thi hành Lu ật khi ếu nại, tố cáo (t ừ năm 2005 đến tháng 6/2009) ,
Hà Nội.
91. Thanh tra Nhà nước (1996), Việc giải quyết khiếu nại của công dân trong hệ
thống các cơ quan hành chính Nhà nước sau khi tòa án hành chính được
thành lập, Hà Nội.
92. Nguyễn Văn Thanh, Đinh Văn Minh (2004), Một số vấn đề về đổi mới cơ
chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
93. Vũ Viết Thiệu (2007), "M ối quan hệ giữa xây dựng pháp lu ật và th ực hiện
pháp luật", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (107), tr.21-23.
94. Lê Minh Thông (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
159
95. Ngô Mạnh Toan (2008), Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học,
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
96. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 1998 và phương hướng nhiệm vụ năm 1999, Hà Nội.
97. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 1999 và phương hướng nhiệm vụ năm 2000, Hà Nội.
98. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ năm 2001, Hà Nội.
99. Tòa án nhân dân t ối cao (2005), Một số giải pháp nâng cao hi ệu quả, chất
lượng giải quyết khiếu kiện hành chính tại tòa án nhân dân theo tinh thần
cải cách tư pháp, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.
100. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009, Hà Nội.
101. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010, Hà Nội.
102. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết thực tiễn 12 năm hoạt động
giải quyết vụ án hành chính của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
103. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011, Hà Nội.
104. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012, Hà Nội.
105. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013, Hà Nội.
106. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014, Hà Nội.
107. Nguyễn Phú Tr ọng (2011), Phát huy dân ch ủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
108. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp
luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
160
109. Nguyễn Danh Tú (2013), Giải quyết khiếu kiện hành chính trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
110. Nguyễn Văn Tú (2006), Mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính ở một
số nước trên thế giới và việc vận dụng vào điều kiện Việt Nam, luận văn
thạc sỹ, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
111. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
112. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
113. Đào Trí Úc (2000), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việ Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Đào Trí Úc (Ch ủ biên) (2005), Xây dựng nhà nước pháp quy ền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2007), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
116. Đào Trí Úc, Ph ạm Hữu Nghị (Chủ biên) (2009), Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
117. Đào Trí Úc (Ch ủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt
động của bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
118. UNDP (2007), Báo cáo phát tri ển con ng ười 2007 - 2012, tại trang
http://www.undp.org/content/vietnam/vi/home/presscenter/articles/2013/0
7/03/global-report-praises-viet-nam-s-progress-on-human-
development.html, [truy cập ngày 12/4/2013].
119. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
120. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
121. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
122. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
161
123. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
124. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 53, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
125. Võ Khánh Vinh (2003), Quyền tư pháp trong Nhà n ước pháp quy ền xã hội
chủ ngh ĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta, Nxb Khoa h ọc xã h ội,
Hà Nội.
126. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2010), Quyền con ng ười, tiếp cận đa ngành và
liên ngành luật học. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
127. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
128. Viện Sử học (2012), Quốc triều hình luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
129. Nguyễn Nh ư Ý (Ch ủ biên) (1998), Đại từ điển Ti ếng Vi ệt, Nxb V ăn hóa
Thông tin, Hà Nội.
130. Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Tài liệu tiếng Anh
131. Adriaan Bedner (2001), Administrative Courts in Indonesia: A Socio-legal
Study, Martinus Nijhoff Publishers.
132. AM Polinsky (1980), Private Versus Public Enforcement of Fines , Journal
of Legal.
133. Canadian Judicial Council (2005) , Ethical Principles for Judges, tại trang
https://www.cjc-ccm.gc.ca/cmslib/general/news_pub_judicialconduct_
Principles_en.pdf, [truy cập ngày 26/8/2015]
134. Ellen Wratten (1995), Conceptualizing Urban Povety Enviroment and
Urbanization. Vol.7.No 1. April.
135. Gillian Bull, John Seargean (1996), The various methods of providing legal
services, Policy Studies Institute Publishers, London.
136. I.Ehrlich, The Optimum, Enforcement of Laws and the Concept of Justice ,
http://www.idea.repec.org.
137. Internatinal Criminal Court (2005), Code of Judicial Ethics of Internatinal
Criminal Court, ICC-BD/02-01-05 , tại trang https://www.icc-
cpi.int/NR/rdonlyres/A62EBC0F-D534-438F-A128-D3AC4CFDD644
/140141/ICCBD020105_En.pdf, [truy cập ngày 25/8/2015].
162
138. Joh T.Johnsen, (1978), Innovations in the Legal Services. OG &H Publishers,
Germany.
139. Joseph S. Nye, Philip Zelikow, David C. King (1997), Why People Don't Trust
Government, Harvard University Press.
140. Kaban Galing, (2001), Promoting excellence in urban governace.
141. Lionel Neville Brown, John Bell (1998), French Administrative Law, Oxford
University Press.
142. Melvin Urofsky, Individual Freedom and Bill of Rights , P. 64. U.S.
Department of State Bureau of international information programs;
http://usinfo.state.gov.
143. Richard C.Schroeder (1990), An outline of American Government , a
publication of the U.S. Information Agency
144. S.Shavell, Specific Versus general Economic Enforcement of Law ,
http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstractact_id=851689.
145. Susan Rose-Ackerman, Peter L. Lindseth, (2010), Comparative Administrative
Law, Edward Elgar Publishing.
146. U.S.Court (2004), Judicial Code of Conduct for United States Judges , tại
trang http://www.uscourts.gov/judges-judgeships/code-conduct-united-
states-judges, [truy cập ngày 27/8/2015].