BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK - 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

MÃ SỐ: 8 38 01 02

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Văn Dương

ĐẮK LẮK - 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình

nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính

xác, tin cậy và trung thực.

TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Hồng Nhung

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và luận văn này, tác giả đã nhận được

sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của Quý thầy cô tại Học viện Hành

chính Quốc gia. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô tại Học

viện Hành chính Quốc gia, Ban Quản lý đào tạo sau Đại học đã tạo điều kiện tốt

nhất về cơ sở vật chất và đảm bảo chất lượng giảng viên giảng dạy trong suốt

thời gian học tập tại trường.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Người hướng dẫn khoa học TS.

Đỗ Văn Dương đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu,

cung cấp tài liệu giúp tác giả hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tuy đã có nhiều cố gắng và tận tâm trong quá trình nghiên cứu luận văn

không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý

kiến quý báu của Quý Thầy Cô và các bạn.

Để đáp lại tấm chân tình đó, tôi sẽ cố gắng vận dụng các kiến thức mà mình

đã được trang bị vào thực tiễn công việc một cách có hiệu quả nhất nhằm đem lại

lợi ích cho mình và cộng đồng.

Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI

DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ....... 12 1.1. Khái niệm, đặc điểm của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại

Toà án nhân dân cấp tỉnh ............................................................................................... 12

1.2. Các nguyên tắc bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động

xét xử của Toà án nhân dân ............................................................................................ 26

1.3. Nội dung quy định của pháp luật bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ........................................................................... 30

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ............................................................................................ 41

Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18

TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

........................................................................................................................................ 48 2.1. Tổng quan về các vụ án xâm phạm người bị hại dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk .......................................................................................................................... 48

2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét

xử của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ........................................................................... 51

2.3. Đánh giá chung thực tiễn bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong

hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk .................................................... 64

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI

BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK ................................................................................................ 75 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ........................................................................... 75 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét

xử tại Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ............................................................................. 82

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 107

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự

CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng

THTT Tiến hành tố tụng

TTHS Tố tụng hình sự

TAND Tòa án nhân dân

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

VAHS Vụ án hình sự

DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Tên bảng Trang

Nội dung Thống kê tình hình các tội xâm phạm quyền lợi

người dưới 18 tuổi xét theo tội danh căn cứ vào số Bảng 2.1 54

liệu của TAND tỉnh Đắk Lắk

Bảng 2.2 Phương thức, thủ đoạn phạm tội 56

Độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các

vụ án xâm hại trẻ em trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai Bảng 2.3 56

đoạn 2018 – 2022

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền

công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,

bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 14 Hiến pháp năm 2013

được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013).

Quyền con người cũng là một trong những nội dung và mục tiêu của xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta. Xây

dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công

dân; Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc

xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều

ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân

trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; Hoàn thiện chế độ

bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó

có việc bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của

tòa án nhân dân (TAND) là hết sức quan trọng. Bởi lẽ, người dưới 18 tuổi là

nhóm người đang trong quá trình phát triển cả về tâm lý, sinh lý và ý thức, với

kinh nghiệm cuộc sống còn ít ỏi, khả năng nhận thức và hiểu biết pháp luật còn

có những hạn chế. Người dưới 18 tuổi khó tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình khi tham gia vào một số quan hệ pháp luật nhất định, trong đó có quan

hệ pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Do đó, khi tham gia vào hoạt động TTHS

với tư cách người bị hại, người dưới 18 tuổi là chủ thể đặc biệt, rất cần những cơ

chế đặc thù để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Nhận thức được tầm quan trọng của quyền con người, nhất là quyền của

1

người bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử của toà án. Trong những năm

qua hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk luôn xác định bảo đảm quyền con

người nhất là bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử phải

được đặt lên hàng đầu, đã có những bước tiến rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những

thành tựu đạt được, thực tiễn quá trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm quyền

của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án nhân của tỉnh

Đắk Lắk vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết và bất cập. Cơ chế đảm bảo quyền

của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án chưa rõ ràng, còn nhiều yếu kém

nhất định như quá trình giải quyết vụ án hình sự có dấu hiệu quá tải, các cơ quan

THTT vẫn còn một số thiếu sót nhất định; bị hại là người dưới 18 tuổi trong các

vụ án hình sự chưa có nhận thức đúng đắn về việc tự bảo vệ mình trước sự pháp

luật,…. Những hạn chế trong bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong

hoạt động xét xử của TAND của tỉnh Đắk Lắk do những nguyên nhân khách

quan và chủ quan của quá trình thực thi và áp dụng pháp luật của nhận thức và ý

thức trách nhiệm của CQTHTT, người THTT. Vì vậy, cần nghiên cứu để có

những giải pháp căn cơ, góp phần bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi

trong hoạt động xét xử của TAND là cần thiết và cấp bách.

Chính xuất phát từ những lý do trên, nên tác giả chọn nghiên cứu đề tài:

“Bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của

Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật Hiến pháp

và Luật hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con

người trong TTHS nói chung và bảo đảm quyền con người của người chưa thành

2

niên trong TTHS nói riêng, trong đó có quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi.

Về cơ bản, các công trình này có thể được chia thành hai nhóm sau:

2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong

tố tụng hình sự. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:

- Vũ Công Giao (2013)[14], Chế định quyền con người, quyền công dân

trong Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, tác giả đã phân

tích một số điểm mới về chế định quyền con người trong đó có một số quyền liên

quan đến hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo

đảm quyền con người như quyền bình đẳng trước pháp luật; cấm tra tấn, bạo lực,

truy bức, nhục hình; quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị

kết án hai lần cho cùng một tội; quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa...

- Đào Trí Úc (2013), Bảo đảm quyền con người trong TTHS theo Hiến pháp

năm 2013 của đã phân tích cơ sở lý luận, nội dung, các quan điểm khác nhau về

nguyên tắc suy đoán vô tội trên thế giới và trong luật hình sự quốc tế. Trên cơ sở

đó, tác giả bình luận nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013 và

trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành [60].

- Vũ Hồng Anh (2013), Những vấn đề đặt ra đối với việc thực thi các bảo

đảm tố tụng với bị can, bị cáo theo Hiến pháp năm 2013 của thì cho rằng, để triển

khai thi hành Hiến pháp về các biện pháp bảo đảm quyền của bị can, bị cáo cần

chú ý làm sáng tỏ nhiều vấn đề như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh

tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án.

- Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị

cáo trong TTHS Việt Nam của tác giả đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận

về quyền con người và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo trong TTHS. Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh

3

[59].

- Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Bảo đảm quyền con người, quyền

công dân – tư tưởng xuyên suốt trong Bộ luật TTHS năm 2015”, Nxb Chính trị

quốc gia, tr.40. Sách chuyên khảo [5].

- Nguyễn Huy Hoàn Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở

Việt Nam hiện nay của đã nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện

về vấn đề đảm bảo quyền con người trong đó có quyền của bị cáo trong hoạt động

tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm và

nội dung của những đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp trong đó

đề cập đến bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự

của TAND; khái quát thực trạng đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư

pháp ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp tiếp

tục bảo đảm quyền con người (trong đó có quyền của bị cáo) trong hoạt động tư

pháp ở Việt Nam hiện nay [21].

Ngoài ra còn có các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ như: Bảo đảm quyền

của bị can, bị cáo là người; chưa thành niên trong TTHS, của Phan Thị Thanh

Tâm (2017), Luận án tiến sĩ luật học, HVKHXH; Bùi Bảo Trâm (2008), Nguyên

tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị; tạm giữ, bị can, bị cáo, Luận văn

thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội; Ngô Thị Thanh (2013), Bảo đảm

quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, Đại học quốc gia Hà Nội;

Võ Thị Khánh Hoài (2015), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố

tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

Các công trình này tập trung phân tích cơ chế bảo đảm quyền con người của

các chủ thể khác nhau trong các hoạt động khác nhau của TTHS. Trong các công

trình này, việc bảo đảm quyền của người chưa thành niên nói chung và bị hại là

4

người chưa thành niên nói riêng mới chỉ được đề cập ở mức khái lược, mang tính

chất giới thiệu chung chứ chưa khảo cứu sâu hơn.

2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền của người bị hại

dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án. Có thể kể đến một số công

trình tiêu biểu như:

- Nguyễn Thị Loan, Trần Thị Thanh Hằng (2021) Thủ tục tố tụng hình sự

đối với người dưới 18 tuổi [18]. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả trình

bày, phân tích các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về thủ tục tố tụng đối

với người dưới 18 tuổi và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề

này. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần,

là những người đang ở độ tuổi phát triển, đang trong quá trình hoàn thiện về thể

chất, tâm sinh lý cũng như nhân cách sống. Trong tiến trình cải cách tư pháp tại

Việt Nam, việc hoàn thiện các quy định về tố tụng đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội rất cấp thiết, không chỉ là để tiệm cận gần hơn các quy định của luật

pháp quốc tế mà còn nhằm đảm bảo tốt nhất quyền con người, đặc biệt là quyền

của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.

- Nguyễn Xuân Hà (2016), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên,

trong “Những nội dung mới trong Bộ luật TTHS năm 2015”, Nxb Chính trị quốc

gia, tr.352 [16].

- Nguyễn Thị Lộc (2019) [28]. Quyền riêng tư của người bị hại dưới 18

tuổi trong TTHS. Bài viết nghiên cứu về người bị hại dưới 18 tuổi, quy định về

quyền riêng tư và các quy định bảo vệ quyền riêng tư của người bị hại dưới 18

tuổi theo quy định của pháp luật quốc tế và một số luật chuyên ngành của Việt

Nam. Từ đó đối chiếu với thực tế xâm hại quyền riêng tư của người bị hại dưới

5

18 tuổi hiện nay và đưa ra một số kiến nghị. Tạp chí Khoa học Kiểm sát số

4/2021.

- Phan Thị Thanh Mai (2015), Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định

của Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Quy

định của Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi

đã có những bổ sung, thay đổi đáng kể nhằm khắc phục những bất cập trong quy

định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục này nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất

định. Những hạn chế đó không chỉ không bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người

dưới 18 tuổi mà còn làm cho việc giải quyết vụ án khó đạt hiệu quả cao [29].

- Vũ Duy Linh (2920), Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về bị

hại trong TTHS Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện. Bài báo tập trung làm rõ sự

hình thành và phát triển của các quy định về bị hại trong hệ thống pháp luật Việt

Nam qua các giai đoạn khác nhau. Trong mỗi giai đoạn, bị hại đều có những đặc

trưng riêng về khái niệm cũng như địa vị pháp lý của họ [27] .

- Nguyễn Thanh Hương (2020), Nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai

bị hại trong các vụ án mua bán người của Kiểm sát viên. Trong các vụ án mua

bán người, lời khai của bị hại được coi là nguồn chứng cứ phổ biến, gần như là

điểm xuất phát, cơ sở để các cơ quan THTT tiến hành điều tra, xác minh, thu

thập các nguồn chứng cứ liên quan khác. Bài viết tập trung phân tích một số khó

khăn, thách thức trong hoạt động lấy lời khai người bị hại trong các vụ án mua

bán người, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này

[17].

- Trương Minh Hiếu (2018), Bào chữa chỉ định theo pháp luật TTHS Việt

Nam cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh,

Luận văn thạc sĩ Luật học, HVKHXH [20].

6

- Trần Thu Hạnh (2018), “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử

vụ án hình sự theo Bộ luật TTHS năm 2015”, Tạp chí Khoa học đại học quốc gia

Hà Nội: Luật học, số 3, tr 54 – 59 [174].

- Nguyễn Hải Ninh (2019) “Pháp luật TTHS đối với việc bảo đảm quyền con

người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 08

[31].

- Nguyễn Thị Bích Vân (2016), Bảo đảm quyền con người của người chưa

thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn

Hà Giang), Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội [61].

- Vũ Xuân Tuân (2018), Bảo vệ quyền trẻ em bị xâm hại tình dục tại các tỉnh

Tây Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh [57].

- Nguyễn Chí Tâm (2018), Phòng, chống xâm hại trẻ em của công an huyện

Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ luật hoc, Học viện quốc gia Hồ Chí

Minh [44].

- Nguyễn Hữu Thịnh (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là người dân tộc

thiểu số trong điều tra các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Thanh

Hóa, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh [46]. Ngoài ra còn có các bài tạp tạp chí nghiên cứu khoa học như:

“Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Trà Vinh – thực

trạng và dự báo”, của tác giả Diệp Huyền Thảo (2015), Tạp chí nhà nước và pháp

luật, số 06, tr. 23 – 29.

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, nghiên cứu đến nhiều góc độ khác

nhau và có những đóng góp nhất định vào lý luận và thực tiễn trong việc bảo vệ

quyền con người nói chung và bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi

7

trong hoạt động xét xử của tòa án nói riêng ở nước ta hiện nay. Các công trình đã

phân tích một cách hệ thống và tương đối toàn diện về vấn đề bảo vệ quyền con

người nói chung và bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt

động TTHS. Tuy nhiên, đến nay, dưới góc độ chuyên ngành Luật Hiến pháp và

luật hành chính, chưa có một công trình nào nghiên cứu về "Bảo đảm quyền của

người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk". Vì

vậy, đây là đề tài nghiên cứu không trùng lắp, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn,

góp phần bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử

của TAND tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của

người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND, đánh giá đúng thực

trạng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của

TAND tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền của người bị hại

dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi

trong hoạt động xét xử của TAND cấp tỉnh.

- Phân tích, đánh giá thực trạng về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18

tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những ưu điểm, hạn

chế cũng như nguyên nhân của thực trạng này.

- Phân tích, luận chứng các quan điểm và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm

bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND

tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.

8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của

người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk dưới

góc độ của chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài

- Phạm vi về nội dung: Với mục đích nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề,

luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của

người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.

- Phạm vi về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu bảo đảm quyền của

người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.

- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2018 đến năm 2022.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về Nhà nước và pháp luật và quan điểm của Đảng về Nhà ta về xây dựng

Nhà nước pháp quyền.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ

thể như:

Chương 1: Sử dụng những phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để

làm rõ hơn phần lý luận của đề tài.

Chương 2: Sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh để đánh giá

thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt

động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.

9

Chương 3: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để đề xuất giải pháp

nhằm bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại

Tòa TAND tỉnh Đắk Lắk.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Về mặt lý luận, đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về quyền con

người trong TTHS của đối tượng bị hại là người dưới 18 tuổi, góp phần làm rõ

những thuật ngữ, khái niệm có liên quan, phân tích, làm rõ những quy định của

pháp luật Việt Nam hiện hành.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Qua nghiên cứu luận văn giúp phân tích, làm rõ thực trạng bảo đảm quyền

của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.

Xác định rõ vai trò trách nhiệm của Toà án trong việc đảm bảo quyền con người;

nhận diện việc vi phạm quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự, đánh

giá thực trạng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét

xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.

Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành

cho cong tác nghiên cứu, giảng dạy pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn

còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực

tiễn đang công tác tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách

quan, có căn cứ và đúng pháp luật;

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi

10

trong hoạt động xét xử của TAND

Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong

hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk

Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18

tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk thời gian tới.

11

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18

TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1.1. Các khái niệm liên quan

1.1.1.1. Khái niệm Bị hại

Bộ luật TTHS 2015, tại Khoản 1, Điều 62 quy định khái niệm bị hại thay

cho người bị hại, theo đó "Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh

thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm

gây ra hoặc đe dọa gây ra" [36].

Theo quy định này, bị hại bao gồm cả cá nhân và cơ quan, tổ chức; thiệt hại

do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể

chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Tuy

nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng hậu quả của sự thiệt hại của bị hại không phải là

điều kiện bắt buộc trong mọi trường hợp. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra

cho bị hại phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra

cho bị hại. Đây là điều kiện rất quan trọng giúp chúng ta phân biệt giữa bị hại

với nguyên đơn dân sự trong các vụ án hình sự. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức,

doanh nghiệp bị thiệt hại chỉ được tham gia vào quá trình tố tụng với tư cách là

bị hại chỉ khi được các cơ quan THTT thừa nhận.

Như vậy, dưới góc độ pháp luật hình sự (luật hình sự và TTHS), khái niệm

bị hại được hiểu như sau: "Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh

thần tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm

12

gây ra hoặc đe dọa gây ra". Trường hợp bị thiệt hại do vi phạm hành chính hoặc

vi phạm pháp luật dân sự gây ra thì thông thường không gọi là bị hại mà dùng

khái niệm "người bị thiệt hại".

- Đặc điểm tố tụng của bị hại trong điều tra vụ án trộm cắp tài sản:

+ Thứ nhất, bị hại khi tham gia vào TTHS để bảo vệ quyền và lợi ích của

bản thân liên quan đến vụ án.

Đặc điểm này được hiểu một khi bị hại tham gia vào quan hệ TTHS họ chỉ

xem trọng và đặt vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân. Bởi vì, bị hại là

người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất so với

những người tham gia vào tố tụng khác và cũng vì quyền và lợi ích của bản thân

bị thiệt hại nên có thể bị ảnh hưởng nhiều đến việc cung cấp lời khai của họ, việc

đưa ra đồ vật, tài liệu và yêu cầu có liên quan đến vụ án trong đó làm sao trong

quá trình giải quyết vụ án phải đảm bảo được quyền, lợi ích của bản thân như họ

muốn. Trong những trường hợp vì quyền và lợi ích bị tội phạm xâm hại nên bị

hại tham gia tố tụng với mong muốn vụ án được giải quyết kịp thời nhằm bù đắp

lại những thiệt hại mà họ đã và đang phải gánh chịu.

+ Thứ hai, việc khai báo vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của bị hại.

Đây cũng là điểm khác biệt so với những chủ thể khác tham gia TTHS để

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân liên quan đến vụ án. Bị hại

có quyền khai báo vào bất cứ thời gian nào và ở bất cứ đâu trong suốt quá trình

tiến hành tố tụng, nhưng họ phải chịu trách nhiệm về lời khai của mình. Quyền

khai báo ở đây là cho phép bị hại được lựa chọn cách bảo vệ quyền và lợi ích của

mình trong điều kiện tốt nhất trước những thiệt hại, còn những nghĩa vụ chịu

trách nhiệm trong việc khai báo đòi hỏi bị hại phải khai báo trung thực, đúng đắn

trước những thiệt hại đã xảy ra trong vụ án. Như vậy, ở đây có thể xem bị hại

13

đồng thời là người làm chứng trong trách nhiệm khai báo.

+ Thứ ba, bị hại được quyền khiếu nại quyết định và hành vi tố tụng của cơ

quan THTT cũng như, đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng,

người giám định, người định giá tài sản theo quy định của pháp luật.

Theo đặc điểm này thì cơ quan THTT cho phép bị hại được khiếu nại các

quyết định hoặc hành vi tố tụng mà thấy chưa thỏa đáng hoặc thay đổi người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định khi thấy quyền và lợi ích của

mình chưa được đảm bảo hoặc có những vi phạm tố tụng ảnh hưởng tới quyền

và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc điểm này cũng lý giải phần nào mong muốn của

bị hại là nhanh chóng, kịp thời xử lý nghiêm minh tội phạm, những thiệt hại của

họ được bồi thường xứng đáng và thỏa đáng.

1.1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt

động xét xử

Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng định nghĩa quyền là: “điều mà pháp

luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [266,

tr.63]. Quyền cơ bản của mỗi công dân được quy định trong Hiến pháp nước

cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Quyền của người tham gia

TTHS, đặc biệt là bị hại được quy định trong chính sách hình sự của quốc gia đó.

Cũng theo từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” là: “Làm cho chắc chắn thực hiện

được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [26, tr. 23].

Theo quy định tại điều 62 BLTTHS năm 2015 về bị hại thì: “Bị hại là cá

nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức

bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. [39]

Bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của

tòa án là thành tố quan trọng để vụ án được xét xử khách quan, công bằng thông

14

qua đó góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, thượng tôn công lý trong xã

hội toà án. Bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được thể

hiện trên ba phương diện, đó là:

Thứ nhất, hình thành hệ thống pháp luật quốc gia trên cơ sở các tiêu chí

quốc tế về quyền con người;

Thứ hai, có các biện pháp bảo đảm thực thi có hiệu quả pháp luật về quyền

con người;

Thứ ba, có cơ chế giám sát thực thi quyền con người. Bảo đảm quyền của

người bị hại trong xét xử gắn với phương thức sống của cá nhân, các mối quan

hệ xã hội và các hoạt động sống của con người trong xã hội. Những quyền cần

thiết và cơ bản để con người tham gia vào quá trình sống và được nhà nước công

nhân đó là: quyền được sống, quyền được tôn trọng danh dự nhân phẩm, quyền

bất khả xâm phạm về thân thể…

Bảo vệ chăm sóc giáo dục người dưới dưới 18 tuổi là vấn đề được Đảng và

Nhà nước ta quan tâm trong suốt sự nghiệp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam để phù hợp với pháp luật quốc tế và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi là bị hại trong các VAHS thể hiện

ở sự thống nhất trong những quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư

pháp, về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền của người dưới 18 tuổi

theo những tính chất, đặc thù vốn có.

Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bảo đảm quyền của bị hại

là người dưới 18 tuổi trong xét xử của tòa án như sau: “Bảo đảm quyền của bị

hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án là tổng thể các tiền đề , điều

kiện nhằm thực hiện hoá quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong thực tế”.

1.1.2. Đặc điểm về bảo đảm quyền của người bị hại dưới dưới 18 tuổi

15

trong hoạt động xét xử tạị tòa án nhân dân:

Bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tạị tòa án cấp

tỉnh được thể hiện thông qua những đặc điểm sau đây:

Theo khoa học về y học, độ tuổi chưa thành niên là độ tuổi khá nhạy cảm.

Vì ở lứa tuổi này, các em chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, do bộ

não của các em đang trong quá trình hoàn thiện, cơ thể và tâm sinh lý của các em

có những sự thay đổi mạnh mẽ. Chính vì sự chưa hoàn thiện của hệ thống não bộ

dẫn đến người dưới 18 tuổi có những sự khác biệt so với người đã thành niên về

trạng thái tâm lý, ý thức, như: đặc điểm về thể chất, nhu cầu và nhận thức.

1.1.2.1. Đặc điểm về thể chất của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động

xét xử

Ở người dưới 18 tuổi, sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình

trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc. Sự phát triển không cân bằng của hệ

tim và mạch, tim phát triển nhanh hơn các mạch máu đã dẫn đến sự thiếu máu

trong từng bộ phận trên vỏ não và đôi khi còn làm rối loạn chức năng trong hoạt

động của hệ tim mạch, dẫn đến sự rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim

mạch. Do đó, các em thường có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, dễ bị

kích động, nổi nóng. Đồng thời, tuyến nội tiết ở các em hoạt động mạnh gây ra

sự mất cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương, dễ dẫn đến phát

sinh những hành vi bất thường, nhiều em đã không làm chủ được bản thân,

không kiềm chế được xúc động mạnh nên đã có những hành vi bồng bột, sai lầm.

1.1.2.2. Đặc điểm về nhu cầu của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động

xét xử

Sự phát triển của trẻ em trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, ở từng độ tuổi

khác nhau, nhưng tựu chung lại có những nhu cầu cơ bản như: nhu cầu được yêu

16

thương, đồng cảm; nhu cầu an toàn; nhu cầu khẳng định bản thân; nhu cầu giao

lưu; nhu cầu tự do, độc lập, thích khám phá. Đối với những trường hợp trẻ em

được sống trong môi trường giáo dục tốt, có sự định hướng thì những nhu cầu

này được đảm bảo để họ phát triển và hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, đối với

những trường hợp không được bảo đảm những nhu cầu trên như: Không nhận

được sự yêu thương, đồng cảm của cha mẹ, thầy cô, những việc làm của họ

không nhận được sự tôn trọng của những người xung quanh hoặc sống trong gia

đình có cha mẹ thường xuyên cãi nhau, gia đình không có cấu trúc hoàn chỉnh

hoặc những mối quan hệ, giao lưu của các em không được định hướng, chọn lọc

thì nguy cơ bị xâm hại cao hơn bình thường.

1.1.2.3. Đặc điểm về nhận thức của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt

động xét xử

Người bị hại dưới 18 tuổi là tất cả những người ở mọi độ tuổi dưới 18 mà

không phải chỉ ở độ tuổi 14 – 18 như đối với người bị buộc tội. Người dưới 18

tuổi dễ bị tội phạm xâm hại, dễ bị đưa đến nguy cơ nạn nhân hóa do sức khỏe,

khả năng tự bảo vệ bản thân còn hạn chế, do ngây thơ, cả tin, thiếu hiểu biết xã

hội. Khi bị tội phạm xâm hại, họ có nguy cơ bị tổn thương cao hơn (cho rằng tổn

thất mình phải gánh chịu là quá lớn, xã hội quá bất công, cuộc đời quá bất hạnh,

người lớn quá vô tâm, một số bị hại dưới 18 tuổi lại có diễn biến tâm lý tiêu cực

theo chiều hướng tự đổ lỗi cho bản thân, tự oán trách bản thân) hoặc ngược lại

chưa ý thức được về tổn thất mà mình đã trải qua hoặc những hậu quả mà mình

sẽ phải gánh chịu trong những giai đoạn sắp tới của cuộc đời.

Thực tiễn cho thấy, những người dưới 18 tuổi còn rất non nớt về nhân sinh

quan nên nhận thức của họ thường một chiều và ở một vài khía cạnh chưa đầy

đủ. Do chưa phát triển hoàn thiện về thể lực, trí tuệ, chưa có khả năng nhận thức

17

đầy đủ về những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày. Đồng thời, các

em chưa có nhận thức đầy đủ về pháp luật nên trong nhiều trường hợp không

biết hành vi của người phạm tội là nguy hiểm cho bản thân và xã hội. Cùng với

những nhu cầu của cá nhân, dẫn đến các em thường dễ mắc sai lầm, dễ bị các đối

tượng phạm tội lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội.

Từ những sự khác biệt trong trạng trái thể chất, tâm sinh lý và đặc điểm về

nhu cầu, nhận thức mà người dưới 18 tuổi trở thành chủ thể đặc biệt trong các

mối quan hệ xã hội, đặc biệt trong quan hệ pháp lý. Trong mối quan hệ pháp luật

hình sự, người dưới 18 tuổi là người bị hại phải chịu những tác động mạnh mẽ

nhất từ hành vi phạm tội, dẫn đến có những đặc điểm tâm sinh lý sau:

Khi bị tội phạm xâm hại, người bị hại thường có trạng thái tâm lý không ổn

định, tinh thần hoảng loạn, thậm chí mất khả năng điều khiển hành vi của mình.

Đặc biệt, đối với bị hại là người dưới 18 tuổi, những đối tượng còn non nớt về

tâm lý, tinh thần, sự ảnh hưởng đến tâm lý càng trở nên sâu sắc hơn. Trong một

số vụ án, đặc biệt là án xâm hại tình dục trẻ em, mua bán trẻ em, các em do bị

tổn thương nghiêm trọng về tâm lý, lo lắng, sợ hãi khi sự việc xảy ra, không

muốn tiết lộ hoặc để cho người khác biết được bí mật đời tư của mình và những

hậu quả mà các em đã phải gánh chịu. Thậm chí, trong những vụ án người bị hại

chưa thành niên có mối quan hệ với người phạm tội (quan hệ tình cảm, quan hệ

huyết thống…) nên có thể từ chối khai báo hoặc che giấu hành vi phạm tội cho

người thân. Trong một số trường hợp, do người bị hại chưa thành niên bị đe dọa,

cưỡng ép hoặc bị mua chuộc bằng vật chất nên đã không tố giác, không hợp tác

với các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT), từ chối khai báo, từ chối giám

định gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, do ở thời điểm

này, tâm lý của các em còn non nớt nên khi bị xâm hại sẽ để lại những hậu quả

18

rất nặng nề, không chỉ gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm thậm chí là tính

mạng và sức khỏe của các em, mà còn tác động tiêu cực đến tâm lý, tình cảm, để

lại dư chấn mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bình thường của các em

sau này.

Từ những đặc điểm của bị hại là người dưới 18 tuổi cho thấy, do có sự phát

triển chưa hoàn thiện về tâm, sinh lý của lứa tuổi, người dưới 18 tuổicó thái độ,

nhận thức chưa hoàn chỉnh trong giao tiếp xã hội, đòi hỏi xã hội phải dành cho

họ những đối xử phù hợp với lứa tuổi. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết

phải có cơ chế riêng biệt trong TTHS khi xét xử các vụ án có bị hại là người

dưới 18 tuổi.

1.1.2.4. Chủ thể bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt

động xét xử

Cho dù là loại quan hệ pháp luật nào, chủ thể tiến hành tố tụng luôn đóng

một vai trò quan trọng trong việc đưa các quy định của pháp luật vào thực tiễn.

Trong TTHS, nhất là đối với những vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là

người dưới 18 tuổi, việc đòi hỏi đội ngũ những người tiến hành tố tụng có đầy đủ

các phẩm chất, năng lực, giữ công tâm và mực thước trong vai trò cầm cân nảy

mực là một đòi hỏi thể hiện sự “khắt khe" trong việc lựa chọn người tiến hành tố

tụng. Điều 415 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “Người tiến hành tố tụng đối

với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh

nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu

biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18

tuổi”. Ngoài ra, để thống nhất trong việc áp dụng, Thông tư liên tịch số

06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 26/12/2018

quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người

19

có thẩm quyền THTT và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong

việc thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người

tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi cũng có đề cập về vấn đề này. Tuy nhiên,

theo các tác giả, quy định này cần được hướng dẫn chi tiết và cụ thể hơn để bảo

đảm đồng bộ, thống nhất trong việc áp dụng. Bởi lẽ, nội dung của Điều 415 Bộ

luật TTHS năm 2015 quy định một cách chung chung về người tiến hành tố

tụng; cụ thể: “được đào tạo” hoặc “có kinh nghiệm”, “có hiểu biết cần thiết”,

trong thực tiễn tố tụng, rất khó để xác định các vấn đề này.

1.1.2.5. Về đối tượng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong

hoạt động xét xử của TAND

Bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án về xâm hại sức, khỏe về bạo

hành, về bị xâm hại tình dục....có đầy đủ các quyền như bị hại là người chưa

thành niên. Bên cạnh đó họ còn được bảo đảm những quyền đặc thù để có thể

bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình đó là: Quyền bất khả xâm phạm về

tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người nói chung trong đó có

quyền của người dưới 18 tuổi. Đây là quyền hiến định. Do đó, bị hại là người

chưa thành niên khi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán sẽ được

giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời.

Quyền được điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với tâm lý, lứa tuổi. Hiện nay

người chưa thành niên đặc biệt là bị hại trong các vụ án hình sự đã được các cơ

quan THTT đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình như việc thành

lập Tòa gia đình và người chưa thành niên đây là bước tiến lớn trong việc xây

dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho hoạt động tố tụng phù hợp với tâm lí của người

chưa thành niên như phòng lấy lời khai, phòng xử án thân thiện được quy định

tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án. Các cơ quan

20

THTT không chỉ đứng dưới góc độ pháp luật mà còn phải đứng dưới góc độ

chuyên môn như tâm lý học và giáo dục học để làm sáng tỏ nguyên nhân và bối

cảnh giải quyết của vụ việc. Việc xây dựng hệ thống tư pháp thân thiện với

người dưới 18 tuổi là một trong những giải pháp bảo đảm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi trong các vụ án hình sự, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế

về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được thể hiện trong Công ước của

Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn bản mà Việt Nam đã tham gia và cam

kết thực hiện được thể hiện trong các văn bản pháp luật hình sự, TTHS, hàng

loạt các chế định mang tính cá biệt nhằm đảm bảo quyền của bị hại là người dưới

18 tuổi.

Quyền ưu tiên được đảm bảo giữ bí mật thông tin cá nhân của người dưới

18 tuổi. Mọi hoạt động tố tụng liên quan đến người dưới 18 tuổi cần được tiến

hành trong môi trường thuận tiện cho việc đảm bảo bí mật đời tư, danh dự, nhân

phẩm của họ.

Quyền có sự hiện diện bắt buộc của những người THTT và người tham gia

tố tụng có hiểu biết về người dưới 18 tuổi đó là người đại diện, người bào chữa,

người bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đại diện Nhà trường, Đoàn thanh niên

và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải có mặt và tham gia đầy đủ các

hoạt động tố tụng theo quyết định hoặc theo yêu cầu của cơ quan THTT, người

có thẩm quyền THTT. Người có thẩm quyền THTT là Điều tra viên, Cán bộ điều

tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi được phân công tiến hành tố tụng, hội thẩm

nhân dân phải nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi

đây là những người phải có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lí, đã được tập huấn,

đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có sự tham gia của

người dưới 18 tuổi.

21

1.1.3. Ý nghĩa bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động

xét xử của Tòa án nhân dân

1.1.3.1. Thể hiện sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các

Công ước quốc tế về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét

xử của TAND

Ở Việt Nam, việc tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế nói chung, trong

đó có các điều ước quốc tế về quyền con người được quy định cụ thể trong Luật

Điều ước quốc tế năm 2016. Theo Điều 76, Luật Điều ước quốc tế: "Thủ tướng

Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, phê duyệt kế hoạch thực hiện,

quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành hoặc biện pháp khác để thực hiện điều

ước quốc tế”.

Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á, thứ hai trên thế giới phê chuẩn

công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Việc phê

chuẩn Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em là cam kết chính trị mạnh mẽ

của nước ta đảm bảo cho trẻ em có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Việc vận dụng các giá trị, tư tưởng tiến bộ của nhân loại về bảo đảm quyền

của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các VAHS là một nỗ lực lớn của Đảng và

Nhà nước, mặt khác đó là một thành tích được cộng đồng quốc tế ghi nhận và

đánh giá cao. Việc tham gia công ước này thể hiện quyết tâm cao độ của Việt

Nam trong việc thúc đẩy và tôn trọng các nhân quyền cũng như các quy định của

pháp luật quốc tế về nhân quyền. Việc vận dụng, phát triển các quan điểm chung

của cộng đồng quốc tế có tính đến bối cảnh đặc thù về dân tộc, lịch sử, văn hóa,

chính trị của nước toà án nhằm bảo vệ đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương trong

22

xã hội. Việt Nam đã xây dựng Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới luật phù hợp

với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.

Phát triển quan điểm của các quốc gia có nghĩa vụ hàng đầu trong việc bảo

đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi, Việt Nam đã đẩy mạnh nghiên cứu

nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ của các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước như: Quốc

hội, Chính Phủ, TAND, VKSND, chính quyền địa phương, cán bộ, công chức,

viên chức nhà nước và trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội, nghề nghiệp;

trách nhiệm của thiết chế truyền thông, báo chí trong định hướng dư luận xã hội

liên quan đến vấn đề này.

Đảng và Nhà nước đã nghiên cứu để giám sát và ngăn ngừa tình trạng vi

phạm quyền con người, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm quyền con

người, quyền công dân trên các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt trong tư pháp

hình sự, bảo vệ quyền của người tham gia tố tụng là bị hại dưới 18 tuổi trong các

vụ án hình sự và có sự hỗ trợ kịp thời đối với nạn nhân khi xảy ra vụ việc. Mặt

khác, đã hướng tới xây dựng cơ quan chuyên trách về quyền con người, phù hợp

với chuẩn mực pháp lý quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam.

Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã chủ động tham gia vào các diễn

đàn và hoạt động quyền con người khu vực cũng như toàn cầu. Đảng toà án luôn

khẳng định, việc bảo đảm quyền con người là một mục tiêu, động lực của cách

mạng, là trách nhiệm lớn của Đảng và Nhà nước.

1.1.3.2. Góp phần thực thi hiệu quả quyền của người bị hại dưới 18 tuổi bị

xâm hại tình dục trong hoạt động xét xử của TAND

Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý,

là những đối tượng dễ bị tổn thương, vì vậy trong quá trình giải quyết các vụ án

hình sự đối với người dưới 18 tuổi cần phải bảo đảm quyền và lợi ích của họ

23

theo quy định pháp luật. Xuất phát từ ý nghĩa nhân văn, BLTTHS năm 2015 đã

dành hẳn một chương với tên gọi "Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi"

nằm trong phần thứ bảy "Thủ tục tố tụng đặc biệt" với nhiều nội dung mới được

sửa đổi, bổ sung. Dù tham gia với tư cách nào thì người chưa thành niên cũng

được hưởng sự bảo vệ đặc biệt:

Một là, sự bảo vệ chung như những người tham gia tố tụng khác;

Hai là, sự bảo vệ đặc biệt dành riêng cho người chưa thành niên, đặc biệt là

trẻ em tham gia TTHS. Các chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước toà án

đối với người dưới 18 tuổi đã và đang làm hài hòa các văn kiện quốc tế về người

chưa thành niên mà Việt Nam là thành viên như Công ước quyền trẻ em và các

chuẩn mực quốc tế khác có liên quan, như Nghị định thư không bắt buộc của

Công ước quyền trẻ em về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em, Quy tắc chuẩn tối

thiểu của Liên Hợp quốc về quản lý tư pháp người chưa thành niên.

Thực tiễn hiện nay cho thấy những vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi

ngày càng diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm về bạo hành về xâm hại tình dục

về quy mô và cách thức thực hiện. Đây là vấn nạn trên toàn Việt Nam, hậu quả

mà các em gánh chịu là những tổn thất về sức khỏe thể chất và tinh thần, làm

giảm khả năng học tập, hòa nhập xã hội và thậm chí có thể hủy hoại tương lai

của các em. Trong nhiều năm qua, Nhà nước và các cơ quan ban ngành đã có

nhiều biện pháp để phòng chống, giảm thiểu và đẩy lùi hiện tượng bạo hành và

xâm hại trẻ em này.

1.1.3.3. Góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay

Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Thực hiện quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013;

24

gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội, Đảng, Nhà nước có

cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công

dân theo phương hướng: Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện

của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của

con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà

nước toà án ký kết” [3].

Hiện nay, sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa và hội nhập quốc tế đến công tác bảo đảm quyền con người, nhất là bảo

đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án, vẫn chuyển biến theo cả

hướng tích cực lẫn tiêu cực. Trong điều kiện như vậy, công tác này đã đạt được

những thành tựu rất quan trọng. Để có được điều đó là do các chủ thể có nghĩa

vụ bảo đảm quyền con người, trước hết và chủ yếu là Nhà nước và các tổ chức

chính trị - xã hội, đã tích cực và chủ động thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con

người; hệ thống thiết chế và thiết chế bảo đảm quyền con người được xây dựng

theo hướng hoàn thiện; sự tham gia tích cực của con người và các tổ chức xã hội

vào công tác bảo đảm quyền con người.

Việc bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử

của TAND trên thực tế còn tồn tại nhiều bất cập về tổ chức, hoạt động của một

số thể chế liên quan đến quyền con người. Chính việc nhìn nhận những mặt tích

cực và tiêu cực như vậy sẽ cho phát huy được những mặt tích cực, đồng thời đề

ra được những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người ở Việt

Nam hiện nay, nhất là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt

động xét xử của TAND.

25

1.2. CÁC NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI

DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN

DÂN

Trách nhiệm của CQTHTT nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng trong

quá trình điều tra, truy tố, xét xử VAHS có người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi

là phải bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tiến hành TTHS đối với người dưới 18

tuổi.

Các nguyên tắc THTT đối với người dưới 18 tuổi được quy định trong

BLTTHS năm 2015 là những nội dung hoàn toàn mới mà định hướng của nó

xuyên suốt toàn bộ các quy định của pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi.

Bằng việc quy định các nguyên tắc này, BLTTHS đã góp phần hoàn thiện cơ chế

tố tụng để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi;

khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn xử lý các vụ án có người dưới

18 tuổi tham gia tố tụng, đồng thời bảo đảm sự tương thích với Công ước quốc tế

về quyền trẻ em, đồng bộ với Luật Trẻ em. Các nguyên tắc THTT đối với người

dưới 18 tuổi được quy định tại Điều 414 chương XXXII, Phần thứ bảy: Thủ tục

đặc biệt của BLTTHS năm 2015. Điều luật này đã quy định đầy đủ, toàn diện 07

nguyên tắc mà cơ quan, người THTT phải quán triệt,tôn trọng và nghiêm túc

thực hiện khi THTT đối với những vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, trong

đó, có 06 nguyên tắc cần được bảo đảm áp dụng trong hoạt động xét xử các

VAHS có người dưới 18 tuổi là người bị hại [39]. Các nguyên tắc đó gồm:

1.2.1. Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi,

mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm

quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất

của người dưới 18 tuổi

26

Khi THTT, cơ quan Tòa án nói riêng và các cơ quan tố tụng nói chung phải

tuân thủ các quy định về thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi sao cho bảo

đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho họ. Các quy định về thủ tục tố tụng cần

bảo đảm sự thân thiện, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi của người

dưới 18 tuổi. Như vậy, khi áp dụng quy định của pháp luật về các thủ tục TTHS,

ngoài việc cần bảo đảm thực thi công lý, thì việc xử lý người phạm tội của các

cơ quan có thẩm quyền THTT phải chú trọng đến việc bảo vệ lợi ích tốt nhất cho

đối tượng bị xâm hại là người dưới 18 tuổi, người phạm tội phải bị nghiêm trị để

mang lại công lý, niềm tin cho người dưới 18 tuổi.

1.2.2. Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi

Nguyên tắc này được dựa trên quy định của chuẩn mực quốc tế: “Mọi điều

riêng tư của trẻ em phải được hoàn toàn tôn trọng trong mọi giai đoạn tố

tụng” và “Quyền riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng trong

tất cả các giai đoạn tố tụng, nhằm tránh những tổn hại gây ra do sự công khai

hóa quá mức hay do sự quy chụp”1. Thực tiễn cho thấy, việc giữ bí mật cá nhân

cho người dưới 18 tuổi là người bị hại rất quan trọng, bởi họ đang ở độ tuổi phát

triển, cần được bảo vệ nhân cách và phẩm giá cũng như sự an toàn và phúc lợi

của họ. Việc để lộ thông tin về người bị hại là người dưới 18 tuổi ra công luận có

thể gây ra những hậu quả hết sức nặng nề.

Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ

bản được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng

được đặc biệt chú trọng vì trẻ em thuộc nhóm yếu thế, chưa phát triển đầy đủ về

nhận thức, thể chất để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại

đến mình.

27

Điều 21 Luật Trẻ em năm 2016 đã quy định: “1. Trẻ em có quyền bất khả

xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt

nhất của trẻ em. 2.Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí

mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác;

được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư”.

Để đảm bảo thực thi các chính sách về trẻ em, Chính phủ đã ban hành Nghị định

số 56/2017/NĐ-CP ngày 9/5/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em.

Trong đó, Điều 33 của Nghị định giải thích rõ thông tin bí mật đời sống riêng tư,

bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá

nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh

cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình; người chăm sóc trẻ em; tài

sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê

quán…Do đó, bảo đảm giữ bí mật cho người dưới 18 tuổi trong các VAHS

không những là trách nhiệm của người có thẩm quyền THTT, mà còn là trách

nhiệm của các cơ quan, tổ chức khi tham gia THTT, trong đó có cơ quan Tòa án.

1.2.3. Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người

dưới 18 tuổi, nhà trường, Đoàn Thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết

về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và

sinh hoạt

Việc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án của các cá nhân, tổ chức xã

hội…sẽ bảo đảm cho người dưới 18 tuổi được hỗ trợ về mặt tinh thần (có thể cả

về pháp lý), ổn định về tâm sinh lý cho người dưới 18 tuổi, bảo đảm các quyền

và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời có thể hạn chế được sự lạm quyền hoặc vi

phạm pháp luật của những người THTT.

28

1.2.4. Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới

18 tuổi

Nguyên tắc này được dựa trên quy tắc tối thiểu của Liên Hiệp Quốc. Đó

là: “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình

thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm

đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được

coi trọng một cách thích đáng…”. Với mục đích đó, người dưới 18 tuổi phải

được đặc biệt trao cơ hội để nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố

tụng nào có liên quan đến họ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay

một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp. Và mặc dù người dưới 18 tuổi

đã có người bào chữa và người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho

họ nhưng khi THTT, những người THTT, cụ thể ở đây là Hội đồng xét xử cần

phải tôn trọng những ý kiến của họ về các thủ tục tố tụng.

1.2.5. Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người

dưới 18 tuổi

Quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý là những quyền đặc biệt của

người dưới 18 tuổi. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, sự nhận thức của người

dưới 18 tuổi về mặt pháp luật còn hạn chế, người dưới 18 tuổi có quyền nhờ luật

sư, người đại diện, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định tại Điều 84 BLTTHS năm 2015. Do

vậy, Tòa án (Hội đồng xét xử) cần phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo quyền

bào chữa cho người dưới 18 tuổi là người bị hại. Tôn trọng và bảo đảm quyền

bào chữa có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng xét xử và việc xác định sự thật

khách quan của vụ án.

29

1.2.6. Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan

đến người dưới 18 tuổi

Việc giải quyết các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi là người bị hại

cần được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, điều này vừa nhằm mục đích bảo

đảm các quyền lợi tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, đồng thời bảo đảm bảo vệ bí

mật đời tư của người bị hại là người dưới 18 tuổi bị các hành vi phạm tội xâm

hại.

1.3. NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN

CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ

ÁN NHÂN DÂN

1.3.1. Quy định về việc tham gia tố tụng của luật sư, người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là người dưới 18 tuổi

Quyền được bào chữa, được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi là yêu

cầu bắt buộc. Quyền này được quy định trong Hiến pháp, Luật Trẻ em,

BLTTHS, Luật Trợ giúp pháp lý…Cụ thể hóa quy định bảo đảm việc tham gia tố

tụng của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người

dưới 18 tuổi, Điều 10Thông tư liên tịch số 06/2018 đã quy định: “Cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông

báo cho người bị hại dưới 18 tuổi, người đại diện hoặc người thân thích của họ

về việc mời người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho họ khi tham gia tố tụng”; trường hợp những

người này không mời thì tùy trường hợp CQTHTT giải quyết như sau: Chỉ định

người bào chữa nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015;

Yêu cầu Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cử người thực hiện trợ giúp pháp

lý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của Thông tư này; Yêu cầu cơ quan,

30

tổ chức có người bị hại là thành viên cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho họ.

Người dưới 18 tuổi là nhóm người đang trong quá trình phát triển cả về tâm

lý, sinh lý và ý thức, với kinh nghiệm cuộc sống còn ít ỏi, khả năng nhận thức và

hiểu biết pháp luật còn có những hạn chế. Người dưới 18 tuổi khó tự bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia vào một số quan hệ pháp luật

nhất định, trong đó có quan hệ pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Do đó, khi

tham gia vào hoạt động TTHS với tư cách người bị hại, người dưới 18 tuổi là

chủ thể đặc biệt, rất cần những cơ chế đặc thù để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi

ích hợp pháp của mình.

Vì vậy, pháp luật TTHS đã dành những quy định riêng về thủ tục tố tụng

đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi là bị hại nhằm tránh làm tổn thương, giảm

thiểu những hậu quả tiêu cực mà quá trình tố tụng có thể gây ra cho họ, tạo điều

kiện để người bị hại là người dưới 18 tuổi có thể nhanh chóng trở lại cuộc sống

bình thường sau khi tham gia quá trình TTHS. BLTTHS năm 2015 đã quy định 1

chương riêng (Chương XXVIII) gồm 18 điều, từ Điều 413 đến Điều 430 quy

định về “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” nhằm giải quyết những

VAHS có liên quan đến người tham gia tố tụng là NCTN.

Các cơ quan chức năng đã ban hành 03 Thông tư quy định về vấn đề này,

đó là:

- Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án

TANDTC quy định về phòng xử án (sau đây gọi là Thông tư số 01/2017/TT-

TANDTC);

- Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của Chánh án án

TANDTC “Quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng

31

là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa án gia đình và người chưa thành

niên”(sau đây gọi là Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC);

- Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-

BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKSNDTC, án TANDTC, Bộ Công an, Bộ Tư

pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định về thủ tục tố tụng nhằm

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi (sau đây gọi là Thông tư

liên tịch số 06/2018).

Theo quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn nói trên,

thì khi tiến

1.3.2. Quy đinh về phân công người tiến hành tố tụng

Đối với các VAHS có người dưới 18 tuổi là người bị hại, quy định người

THTT có những sự khác biệt nhất định so với vụ án không có người dưới 18

tuổi. Việc phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử VAHS có bị hại là

người dưới 18 tuổi phải đáp ứng điều kiện của BLTTHS quy định về người

THTT các VAHS có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (Điều 415),

phải là “người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ

án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo

dục đối với người dưới 18 tuổi”. Điều này được cụ thể hóa tại Thông tư liên tịch

số 06/2018và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định chi tiết việc xét xử

VAHS có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của

Tòa Gia đình và người chưa thành niên (Tòa GĐ&NCTN) thì Thẩm phán khi

được phân công giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi phải đảm bảo có ít nhất

một trong các điều kiện sau:

- Có kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi;

32

- Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án

hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi;

1.3.3. Quy định về việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi

Để có căn cứ áp dụng đúng chính sách về trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội thì việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi là một yêu cầu bắt

buộc trong giai đoạn nghiên cứu hồ sơ vụ án.

Theo Điều 417 BLTTHS năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch số

06/2018, việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong

các giấy tờ, tài liệu sau:

a) Giấy chứng sinh;

b) Giấy khai sinh;

c) Chứng minh nhân dân;

d) Thẻ căn cước công dân;

e) Sổ hộ khẩu;

f) Hộ chiếu.

Trường hợp các giấy tờ, tài liệu này có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc

không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm

quyền THTT phải phối hợp với gia đình, người đại diện người thân thích, nhà

trường, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có

liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy

lời khai, xác minh làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị

chứng minh về tuổi của người đó.

Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được

khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì

tùy từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2 Điều 417 BLTTHS năm 2015 để

33

xác định tuổi của họ: Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định

được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh; Trường hợp xác

định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng

của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh; Trường hợp xác định

được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối

cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh; Trường hợp

xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối

cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.

Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để

xác định tuổi (khoản 3 Điều 417 BLTTHS năm 2015).

Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ xác định được khoảng độ tuổi của

người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền THTT lấy

tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi của họ. Ví

dụ: Kết luận giám định A có độ tuổi trong khoảng từ 13 tuổi 06 tháng đến 14

tuổi 02 tháng thì xác định tuổi của A là 13 tuổi 06 tháng.

1.3.4. Quy định về việc tham gia tố tụng của đại diện, nhà trường và

các tổ chức chính trị - xã hội

Việc tham gia của người đại diện, nhà trường và tổ chức của người dưới 18

tuổi là rất quan trọng để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới

18 tuổi, cũng như trợ giúp cho người dưới 18 tuổi về tâm lý, đồng thời cũng có

thể giám sát được hoạt động của những người có thẩm quyền THTT. Người đại

diện nói chung và người đại diện của người dưới 18 tuổi nói riêng là người tham

gia tố tụng theo quy định tại khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015. Đây là điểm

mới của BLTTHS năm 2015, vì trước đây BLTTHS năm 2003 không quy định

người đại diện là người tham gia tố tụng. Khoản 1 Điều 420 BLTTHS năm 2015

34

quy định: “Người đại diện của người dưới 18 tuổi là thầy giáo, cô giáo, đại diện

của nhà trường, Đoàn Thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập,

lao động và sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của

Tòa án”. BLTTHS năm 2015 không quy định cụ thể về người đại diện của người

dưới 18 tuổi gồm có những ai. Do đó, khoản 1 Điều 3Thông tư liên tịch số

06/2018 đã hướng dẫn như sau: “Người đại diện của người tham gia tố tụng là

người dưới 18 tuổi là người từđủ 18 tuổi trở lên, cóđủ năng lực pháp luật, năng

lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại các

điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự.

Người đại diện của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi được xác

định theo thứ tự sau đây:

a) Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi;

b) Người giám hộ;

c) Người do Tòa án chỉ định”.

Người giám hộ của người dưới 18 tuổi là người giám hộ đương nhiên hoặc

người được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 8 tuổi cư trú hoặc Tòa án chỉ

định theo quy định tại các Điều 46, 47, 48 và 54 Mục 4 Chương III của Bộ luật

Dân sự. Người giám hộ đương nhiên của người bị hại dưới 18 tuổi: theo quy

định tại điểm a,b Điều 47 BLDS năm 2015 thì trường hợp người chưa thành

niênkhông còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha mẹ; người chưa thành

niêncó cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có

khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực

hành vi dân sự; cha,mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha,

mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ

thì có người giám hộ đương nhiên, Người giám hộ đương nhiên của người chưa

35

thành niênđược xác định theo quy định tại Điều 52 BLDS năm 2015. Cụ thể là

việc xác định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niêntheo thứ tự

sau đây:

- Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả

hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột

tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột

khác làm người giám hộ;

- Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì

ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này

thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ;

- Trường hợp không có người giám hộ như hai trường hợp trên thì bác ruột,

chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.

Ngoài ra, người giám hộ của người bị hại chưa thành niên được Ủy ban

nhân dân cấp xã cử được thực hiện theo Điều 54 của BLDS năm 2015 hoặc

người giám hộ, người đại diện do Tòa án chỉ định khi có tranh chấp giữa những

người giám hộ quy định tại Điều 52, 53 của BLDS; tranh chấp về việc cử người

giám hộ theo Điều 54 của BLDS.

Về quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho người bị hại là người dưới 18

tuổitham gia tố tụng theo quyết định của Tòa án được quy định trong nhiều điều

khoản khác nhau của BLTTHS năm 2015: Điều 331, 338, 418, 420, 421, 422,

423, 469, 470.

Người đại diện tham gia phiên tòa được quy định bao gồm: Người đại diện

của người dưới 18 tuổi; Đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người dưới 18 tuổi lao

động, sinh hoạt. Trường hợp vắng vì lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan

lần thứ nhất, lần thứ hai thì Tòa án phải hoãn phiên tòa. Trường hợp những

36

người này vắng mặt lần thứ hai không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở

ngại khách quan nhưng để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi thì

Tòa án cũng có thể hoãn phiên tòa3. Những người này phải có mặt tại phiên tòa

theo quyết định của Tòa án.

1.3.5. Quy định về cách thức tổ chức phiên tòa xét xử có người bị hại là

người dưới 18 tuổi

- Về thẩm quyền: Trong giai đoạn xét xử, thực hiện nguyên tắc của

BLTTHS: bảo đảm xét xử thân thiện, TAND tối cao đã ban hành Thông tư số

01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án và Thông tư số 02/2018/TT-

TANDTC ngày 21/9/2018 quy định chi tiết việc xét xử VAHS có người tham gia

tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa Gia đình và người chưa

thành niên. Theo các quy định này, thẩm quyền xét xử các VAHS có bị hại là

người dưới 18 tuổi được xác định như sau:

+ Đối với Tòa án đã thành lập Tòa GĐ&NCTN, các“Vụ án hình sự mà bị

cáo là người đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn

thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do

không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi

khác”4 thì xét xử tại Phòng xử án hình sự của Tòa GĐ&NCTN.

+ Đối với Tòa án chưa thành lập Tòa GĐ&NCTN, thì khi xét xử các VAHS

nói trên “phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho

người dưới 18 tuổi”.

+ Đối với các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo các Điều 141,

142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS được hướng dẫn theo Nghị quyết số

06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao: Xét xử tại Phòng

xét xử thân thiện.

37

- Cách bố trí phòng xử án:

+ Phòng xét xử của Tòa GĐ&NCTN: Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC

quy định về Phòng xét xử của Tòa GĐ&NCTN khác hoàn toàn so với các phòng

xét xử khác. Trong phòng xử án, vị trí của những người THTT, người tham gia

tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được “bố trí trên

cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án

có màu xanh”. Bàn, ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn,

ghế văn phòng. Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh

người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Việc bố trí phòng xử án theo không gian mới như trên sẽ tác động tâm lý tốt tới

người dưới 18 tuổi, không làm họ hoảng sợ. Việc tổ chức phiên tòa theo hình

thức này sẽ tốt hơn việc xét xử vụ án tại hội trường thông thường.

+ Phòng xét xử bố trí thân thiện: Đối với các Tòa án chưa có Phòng xét xử

thân thiện thì khi xét xử các vụ án quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số

02/2018/TT-TANDTC, phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích

tốt nhất cho người dưới 18 tuổi.

- Về trang phục: Khi xét xử những vụ án có bị hại dưới 18 tuổi tham gia tố

tụng được thực hiện theo Quyết định số 1738/QĐ-TANDTC ngày 23/11/2017

Ban hành quy chế cấp phát, sử dụng quản lý trang phục, giấy chứng minh Thẩm

phán, giấy chứng nhận chức danh tư pháp, giấy chứng nhận TAND, trang phục

khi xét xử các VAHS có bị hại là người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng thì Thẩm

phán mặc trang phục làm việc hành chính của TAND: áo trắng, quần tối màu

(không mặc áo choàng)6.

- Quy định về xét xử các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo các

Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS năm 2015:

38

+ Đối với những vụ án có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị

bạo hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử kín; đối với những vụ án khác

có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để giữ bí mật đời

tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể xử kín nhưng phải tuyên án

công khai. Khi tuyên án, Hội đồng xét xử chỉ đọc phần quyết định trong bản án.

+ Tòa án cần hạn chế triệu tập bị hại đến phiên tòa nếu vẫn giải quyết được

vụ án bằng việc áp dụng các biện pháp thay thế khác (ví dụ: sử dụng lời khai của

họ ở giai đoạn điều tra, truy tố; mời họ đến Tòa án hoặc địa điểm hợp pháp khác

để lấy lời khai trước bằng văn bản, bằng ghi âm, ghi hình có âm thanh…);

+ Trường hợp phải triệu tập bị hại đến phiên tòa, Tòa án cần tạo điều kiện

để họ làm quen, tiếp xúc với môi trường Tòa án, với quy trình và thủ tục xét xử;

bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử (ví dụ: micro,

loa, ti vi, camera…) để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của họ khi họ khai báo,

tham gia tố tụng tại phiên tòa; trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để

họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo

và khoảng cách giữa Hội đồng xét xử với người bị hại không quá 03 mét. Trong

các vụ án xâm hại tình dục đối với trẻ em, Tòa án cần bố trí khu vực riêng cho

người bị hại, tránh để bị tiếp xúc với bị cáo làm ảnh hưởng đến tâm lý của bị hại

trong quá trình xét xử và về sau, đồng thời cũng đảm bảo lời khai khách quan

của các bị hại;

+ Câu hỏi đối với bị hại là người dưới 18 tuổi phải phù hợp với lứa tuổi,

mức độ phát triển, trình độ văn hóa, hiểu biết của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, rõ

ràng, đơn giản, dễ hiểu; không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc; chỉ đặt câu hỏi

làm rõ tình tiết vụ án; không đặt câu hỏi chỉ để tranh luận. Câu hỏi đối với bị hại

39

dưới 10 tuổi không quá 10 từ và thời gian hỏi không liên tục quá 01 giờ. Tránh

việc yêu cầu bị hại tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội;

+ Sử dụng sơ đồ hoặc mô hình cơ thể có đánh số thứ tự các bộ phận để

người bị hại là người dưới 18 tuổi xác định các bộ phận bị xâm hại. Không được

xác định bộ phận xâm hại bằng cách để bị hại chỉ trực tiếp vào bộ phận cơ thể

của mình hoặc của người khác;

+ Khi bị cáo đề nghị được hỏi bị hại là người dưới 18 tuổi, thì phải chuyển

câu hỏi cho người bào chữa hoặc Hội đồng xét xử hỏi. Không được để bị hại và

bị cáo đối chất tại phiên tòa;

+ Tòa án phải xem xét và đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng

các biện pháp bảo vệ phù hợp theo quy định tại Chương XXXIV BLTTHS khi bị

hại, người thân thích của bị hại yêu cầu hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

kiến nghị bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi

ích hợp pháp của bị hại và người thân thích của họ.

Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật nói chung và chính sách pháp luật hình sự

đã cơ bản hoàn thiện, các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và đặc biệt là

các quyền trẻ em. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 đã có

sự điều chỉnh mạnh mẽ về tư pháp người dưới 18 tuổi nói chung; trong đó cùng

với việc tiếp tục bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi với những quy

định hết sức cụ thể. Mặc dù vậy, chính sách hình sự mới chỉ tập trung điều chỉnh

các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội, còn trong trường hợp người dưới

18 tuổi là người bị xâm hại thì vẫn còn thiếu những quy định chuyên biệt, cần

tiếp tục được các nhà làm luật nghiên cứu, bổ sung.

40

1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ HẠI

DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN

DÂN

1.4.1. Chất lượng của hệ thống pháp luật

Chất lượng của hệ thống pháp luật là một trong những cơ sở để bảo đảm

cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn,

chất lượng pháp luật càng tốt thì việc bảo đảm quyền con người nói chung và

bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án hình sự nói riêng được tốt hơn.

Ngược lại nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì việc thực hiện

chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, khi đó quyền của con người không được bảo

đảm, có thể bị xâm hại trực tiếp đến quyền của con người.

Có nhiều tiêu chí để xác định chất lượng của hệ thống pháp luật trong đó

có các tiêu chí cơ bản là: Tính toàn diện, đồng bộ; tính thống nhất, tính phù hợp,

ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật và tính khả thi của hệ thống pháp luật.

1.4.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng và tổ chức, hoạt động

của các cơ quan tố tụng

Nhằm đảm bảo vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật

tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của

con người. Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối đối mới, cải cách

toàn diện hệ thống chính trị theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, nâng cao năng lực,

tăng cường trách nhiệm, trong đó cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp với

trọng điểm là 03 cơ quan: Công an - Viện kiểm sát - Tòa án.

Về cơ quan điều tra: Cơ quan điều tra chủ yếu thuộc cơ quan hành pháp nên

chưa bảo đảm tính độc lập trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm. Không có cơ

quan được giao trách nhiệm đầu mối quản lý toàn bộ tố giác, tin báo về tội phạm.

41

Việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm chỉ giao cho Cơ quan điều tra và Viện

kiểm sát là chưa phù hợp. Hầu hết cơ quan điều tra nước ta không độc lập như

các nước mà tổ chức bên trong bộ máy hành chính và phụ thuộc vào bộ máy

hành chính. Thủ trưởng cơ quan điều tra vừa là người THTT đồng thời vừa là

người lãnh đạo bộ máy hành chính nên trong nhiều trường hợp không có sự tách

bạch rành mạch giữa quan hệ hành chính với tính chất là “quyền uy - phục tùng”

với quan hệ tố tụng tư pháp có tính chất là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Quy định về việc phân công THTT giữa Thủ trưởng với Phó Thủ trưởng Cơ

quan điều tra, giữa Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, giữa Chánh

án và Phó Chánh án Toà án (các Điều 34, Điều 36 và Điều 38 BLTTHS) còn

chưa cụ thể, rõ ràng. Trong mọi trường hợp, việc THTT của cấp Phó đều là thực

hiện thay cấp Trưởng, theo sự phân công của cấp Trưởng. Việc cấp Phó ký thay

cấp Trưởng đã dẫn đến vướng mắc khi cấp Trưởng thay đổi, huỷ bỏ các quyết

định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của cấp Phó gặp nhiều khó khăn.

Về cơ quan Viện kiểm sát: Bộ luật TTHS năm 2003 chưa có quy định đề

cập trực tiếp đến việc tranh tụng; cơ chế để bảo đảm thực hiện việc tranh tụng

cũng chưa được quy định trong Bộ luật này. Về thực tiễn, đội ngũ kiểm sát viên,

luật sư và các chức danh tư pháp khác chưa được chuẩn bị đầy đủ về kỹ năng

tranh tụng; chưa có kinh nghiệm thực tiễn về tranh tụng nên việc tranh luận, đối

đáp tại phiên tòa giữa các bên chưa đi vào trọng tâm các vấn đề cần giải quyết

trong vụ án, làm hạn chế chất lượng, hiệu quả hoạt động tranh tụng; các chủ thể

tranh tụng còn chịu ảnh hưởng của thói quen và kinh nghiệm tham gia phiên tòa

theo quy định cũ. Bên cạnh đó, số vụ án có luật sư tham gia chiếm tỷ lệ thấp; vẫn

còn xảy ra tình trạng vắng mặt luật sư tại phiên tòa, dẫn đến Tòa án phải hoãn

phiên tòa, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

42

Về cơ quan Tòa án: Hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu ở hoạt

động xét xử của tòa án. Trên thực tế, công tác xét xử vẫn còn xảy ra tình trạng

một số bản án phải cải sửa, hoặc tính thuyết phục chưa cao, gây xôn xao dư luận.

Nguyên nhân chính, ngoại trừ các yếu tố về tính công tâm, trách nhiệm, trình độ

chuyên môn của đội ngũ thẩm phán, phải kể đến vai trò tham gia tố tụng của đội

ngũ luật sư. Điều này được thể hiện, vẫn còn những lời bào chữa, tranh tụng của

luật sư chưa thuyết phục, chưa sắc sảo, chỉ mang tính thủ tục, hình thức.

Tòa án là cơ quan xét xử nhưng lại đang được pháp luật giao thực hiện một

số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử, ảnh hưởng đến yêu cầu bảo

đảm sự khách quan trong TTHS như: Bộ luật TTHS quy định cho Tòa án được

xét xử về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (Điều

196) là không phù hợp vì Viện kiểm sát không truy tố thì Hội đồng xét xử không

có căn cứ để xét xử bị cáo, mặt khác ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền bào

chữa của bị cáo.

Thẩm quyền xét xử của Toà án trong một số trường hợp chưa được Bộ luật

điều chỉnh, Điều 171 Bộ luật TTHS chỉ quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án

theo lãnh thổ đối với bị cáo phạm tội ở nước ngoài, còn đối với trường hợp vụ án

có người bị hại là người nước ngoài, hoặc tài sản có liên quan đến người nước

ngoài hoặc có nhiều bị cáo là người nước ngoài thì chưa quy định. Điều luật

cũng chưa dự liệu Tòa án nào có thẩm quyền xét xử đối với trường hợp một bị

can, bị cáo nhưng thực hiện tội phạm ở nhiều địa phương khác nhau.

Tình trạng ngân sách không đủ cho hoạt động tòa án lại khá cao. Cụ thể,

nhiều tòa án không đủ ngân sách để trả phí luật sư tham gia các vụ án bào chữa

chỉ định, không đủ chi phí xét xử lưu động. Không những thế, cơ chế “khoán

chi” đối với các hoạt động hành chính của tòa án cũng được áp dụng phổ biến

43

ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử. Thực tế, cơ chế khoán chi chỉ phù

hợp với hoạt động hành chính bởi các hoạt động đó có thể dự liệu trước do tính

đơn giản và lặp lại của chúng. Ngược lại, các hoạt động tư pháp phụ thuộc rất

nhiều vào mức độ phức tạp, tính chất của từng loại vụ án nên khó có thể áp dụng

cơ chế khoán [369]

Vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân chưa cao chủ yếu là do kiêm

nhiệm, cơ cấu Hội thẩm theo từng lĩnh vực (như giáo dục, y tế, khoa học công

nghệ, tài chính, hưu trí…). Mặc dù đã có quy định trách nhiệm của hội thẩm

nhân dân nhưng những quy định thực chất là hình thức và thiếu tính thực tiễn.

Hội thẩm nhân dân không phải chịu trách nhiệm hành chính nào liên quan đến

chất lượng xét xử. Vì thế, dù luôn chiếm đa số trong Hội đồng xét xử và các

phán quyết của Hội đồng xét xử được quyết định theo đa số, nhưng trên thực tế

không tránh khỏi khi xét xử các hội thẩm bị phụ thuộc vào ý kiến của thẩm

phán.

1.4.3. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp

Trong quá trình thực hiện việc thi hành án, tổ chức thi hành án, một số hạn

chế xuất phát từ một số quy định của pháp luật, cụ thể như: Việc ghi nhận cơ

quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục bị án bị xử phạt tù nhưng cho

hưởng án treo là nơi người đó thường trú (Khoản 2 Điều 60 BLHS) là chưa phù

hợp với bối cảnh hiện nay, nhất là đối với các trường hợp người bị kết án có chỗ

ở không ổn định, thường xuyên di chuyển, gây khó khăn, trở ngại ảnh hưởng đến

quyền sinh sống, quyền cư trú của họ.

Công tác giám định tư pháp còn bất cập như không ra quyết định kịp thời,

nội dung của quyết định trưng cầu giám định chưa đầy đủ, còn yêu cầu cơ quan

giám định giải đáp, kết luận các vấn đề mang tính pháp lý; một số cơ quan được

44

trưng cầu giám định từ chối, né tránh; thời gian giám định còn dài, nhiều kết luận

giám định chưa rõ ràng, chính xác, dẫn đến phải giám định lại hoặc giám định bổ

sung, ảnh hưởng đến tiến độ điều tra, xử lý vụ án, thậm chí phải tạm đình chỉ

hoặc không xử lý được.

Nhiều lĩnh vực chuyên môn chưa có cơ quan giám định chuyên trách và

người giám định thuộc chuyên môn đó nên các cơ quan tố tụng lúng túng trong

việc trưng cầu giám định. Quy định diện người bào chữa còn hẹp, không bao

gồm Trợ giúp viên pháp lý, người thân thích của bị can, bị cáo có khả năng bào

chữa, trong khi đó quy định về bào chữa viên nhân dân chưa cụ thể nên hầu như

không được áp dụng trong thực tiễn; quy định về người đại diện hợp pháp của

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không cụ thể, rõ ràng nên thực tiễn áp dụng

không thống nhất. Quy định cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa theo từng

giai đoạn tố tụng là không cần thiết, rườm rà về thủ tục, lãng phí thời gian, giấy

tờ (Điều 56 BLTTHS).

1.4.4. Cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tư pháp

Công tác phối hợp giữa các cơ quan Tư pháp được tiến hành thường xuyên,

chặt chẽ, kịp thời và nghiêm túc trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật. Sự phố hợp hoạt động giữa các cơ

quan tư pháp giúp đem lại những kết quả, ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao

chất lượng công tác tư pháp. Cụ thể, về các cơ quan có hoạt động tư pháp đã

thường xuyên phối hợp xây dựng và tham gia nhiều dự án luật, pháp lệnh, đặc

biệt là các dự án luật liên quan đến hoạt động của cơ quan tư pháp như Bộ luật

hình sự, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước… Các dự án luật đều được

xây dựng bảo đảm tiến độ, chất lượng và sự thống nhất cao của các CQTHTT.

Các cơ quan đã chú trọng phối hợp trong công tác ban hành văn bản hướng dẫn

45

áp dụng thống nhất pháp luật, qua đó tháo gỡ nhiều vướng mắc trong áp dụng

pháp luật của các CQTHTT, thi hành án địa phương, đảm bảo áp dụng đúng và

thống nhất các quy định của pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và

thi hành án. Sự phố hợp chặt chẽ hoạt động giữa các cơ quan tư pháp giúp hạn

chế tối đa những trường hợp bị oan sai, không bỏ lọt tội phạm và đảm bảo cho

việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

1.4.5. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động xét xử

Thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, cùng với

việc nâng cao chất lượng đội ngũ, đổi mới tác phong công tác, ngành Toà án tỉnh

cũng chú trọng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động

chuyên môn.

Nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử, một trong những yêu cầu của

Nghị quyết là phải bảo đảm tính trang trọng, nghiêm minh của phiên xét xử và

tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đến dự phiên toà. Muốn vậy, ngoài tác

phong, thái độ của các đối tượng tham gia tố tụng, điều kiện cơ sở vật chất mà

chủ yếu là hội trường xét xử đóng vai trò không nhỏ. Việc đầu tư kinh phí cải tạo

trụ sở làm việc với đầy đủ các phòng chức năng: Hội trường xét xử, phòng nghị

án, phòng lấy lời khai đương sự, phòng làm việc cho cán bộ, thẩm phán… Hội

trường xét xử nhìn chung đảm bảo về diện tích và được bài trí sắp xếp theo quy

định: Khu vực làm việc của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Luật sư và những

người tham gia tố tụng khác được bố trí riêng biệt, hợp lý; nhân dân đến dự

phiên toà được bố trí ghế ngồi… Trong điều kiện nguồn kinh phí của TAND Tối

cao có hạn, ngành cũng rất cần sự quan tâm đầu tư của chính quyền các địa

phương để đồng bộ hoá trụ sở làm việc của TAND theo quy chuẩn.

46

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận văn đã khái quát cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của

người bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử của tại TAND, trong đó nêu bật các khái

niệm công cụ về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động

xét xử của TAND; đặc điểm, ý nghĩa bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18

tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án; nội dung quy định của pháp luật về bảo

đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án.

Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về quyền con người và bảo đảm

quyền của người bị hại dưới 18 tuổi qua thực tiễn xét xử ở TAND tỉnh Đắk Lắk;

những tồn tại, hạn chế bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt

động xét xử của TAND cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế

đó.

Những cơ sở lý luận tại Chương 1 sẽ làm tiền đề để phân tích, đánh giá thực

trạng thực trạng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động

xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk tại Chương 2.

47

Chương 2

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI

TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

2.1. TỔNG QUAN VỀ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM NGƯỜI BỊ HẠI

DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK

2.1.1. Khái quát về Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

Hệ thống TAND của tỉnh Đắk Lắk được thành lập ngay sau khi giải phóng

tỉnh Đắk Lắk vào tháng 3 năm 1975 để xét xử các vụ án chống đối chính quyền

cách mạng, các vụ án về kinh tế và trật tự, an toàn xã hội góp phần ổn định tình

hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Đến cuối năm

1976, TAND tỉnh và hệ thống TAND cấp huyện được chính thức thành lập. Khi

mới thành lập có Tòa án tỉnh và 5 đơn vị Tòa án cấp huyện, sau đó tăng dần lên

18 đơn vị. Ngày 01/01/2004 tỉnh Đắk Lắk được chia tách thành hai tỉnh Đắk Lắk

và Đắk Nông theo Nghị Quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội

khóa XI - kỳ họp thứ 4. Hiện nay, Cơ cấu của TAND tỉnh Đắk Lắk có TAND

cấp tỉnh và 15 đơn vị TAND cấp huyện, thị xã và thành phố [56].

Trong những năm qua, mặc dù nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, là một trong

những địa phương có số lượng các vụ việc phải giải quyết hàng năm khá lớn

(Gần 9.000 nghìn vụ án/năm). Đơn cử, theo thống kê, trong giai đoạn 2018-

2022, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý 48.411 vụ, việc các loại; đã giải

quyết 45.450 vụ, việc; đạt tỷ lệ 93,88%. (Trong đó các Tòa chuyên trách thuộc

TAND tỉnh thụ lý 5.357 vụ, việc; giải quyết 5.240 vụ, việc đạt tỷ lệ 97,81%.

TAND cấp huyện thụ lý 43.054 vụ, việc các loại; đã giải quyết 40.210 vụ, việc

đạt tỷ lệ 93,39%). Số lượng, tính chất các loại vụ án ngày càng phức tạp, đặc biệt

48

là những vụ án trọng điểm gây nhiều bức xúc trong nhân dân ngày càng nhiều.

Bên cạnh đó, thẩm quyền của Tòa án được mở rộng; các yêu cầu công tác theo

các Nghị quyết của Quốc hội tiếp tục được bổ sung với chỉ tiêu cao; việc tổ chức

triển khai thi hành Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014 với nhiều

nội dung quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của TAND, đòi hỏi việc

triển khai phải đảm bảo phù hợp quy định của Hiến pháp và tinh thần cải cách tư

pháp.

Về phân bổ biên chế Tòa án cấp huyện thì đơn vị cấp huyện có nhiều biên

chế là TAND thành phố Buôn Ma Thuột 51 biên chế; đơn vị Tòa án cấp huyện

có ít biên chế là TAND huyện Krông Bông là 09 biên chế. TAND hai cấp tỉnh

Đắk Lắk được giao tổng chỉ tiêu biên chế là 330 người nhưng hiện nay số biên

chế của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk mới có 321 người (bao gồm cấp huyện, thị

xã và thành phố Buôn Ma Thuột là 244 người; cấp tỉnh là 77 người), trong đó:

công chức nữ có 157 người chiếm 48,90%, số công chức là người dân tộc thiểu

số chiếm 6,54%, 90 Thẩm phán sơ cấp, 39 Thẩm phán trung cấp, Thẩm tra viên

và Thư ký Tòa án 192 người; 247 Đảng viên. Về trình độ chuyên môn 100%

Thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký có trình độ cử nhân luật trở lên. Tòa án hai cấp

hiện có 46 cán bộ, công chức là Thạc sĩ luật học và nhiều người đang học cao

học Luật;

Về bộ máy TAND tỉnh Đắk Lắk: TAND tỉnh Đắk Lắk gồm 05 Tòa chuyên

trách; Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa hành chính, Tòa lao động và 03

phòng nghiệp vụ gồm: Văn phòng, Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án,

Phòng tổ chức cán bộ và thi đua khen thưởng [56].

Về tổ chức, biên chế TAND tỉnh Đắk Lắk: TAND tỉnh Đắk Lắk hiện có 85

công chức, người lao động trong biên chế, trong đó có 23 Thẩm phán, 48 Thư

49

ký, 06 Thẩm tra viên và 08 chức danh khác.

Ngày 07/12/2018, TAND tỉnh Đắk Lắk đã công bố Quyết định số

1865/QĐ-TCCB của Chánh án TANDTC về việc tổ chức các Tòa chuyên trách

tại TAND các cấp tỉnh Đắk Lắk. Căn cứ vào Quyết định số 1865/QĐ-TCCB,

TAND tỉnh Đắk Lắk đã thành lập Tòa Gia đình và người chưa thành niên, bố trí

các chức danh tư pháp và bổ nhiệm chức vụ quản lý như sau: Ông Nguyễn Duy

Thuấn – Chánh tòa; Bà Nguyễn Thị Hằng – Phó Chánh tòa; Ông Trần Anh Tuấn

– Thẩm phán; Ông Hoàng Văn Nam, bà Vũ Thị Hồng Phúc, ông Nguyễn Duy

Nguyên và bà Lại Thị Minh Hiền – Thư ký Tòa án. Về thẩm quyền của Tòa Gia

đình và người chưa thành niên: Giải quyết các vụ án hình sự mà bị cáo là người

dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên

nhưng người bị hại dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần

sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường Gia đình lành mạnh

như những người dưới 18 tuổi khác; xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp

xử lý hành chính tại TAND đối với người chưa thành niên; giải quyết các vụ,

việc hôn nhân Gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Sự đổi mới này

cho phép trẻ em, Gia đình và các chuyên gia có trình độ chuyên môn tham gia

đầy đủ hơn vào quá trình tố tụng, bên cạnh đó các thủ tục tố tụng được tiến hành

thân thiện, phù hợp với từng lứa tuổi. Đội ngũ Thẩm phán, Thư ký chuyên trách

được lựa chọn làm việc tại Tòa Gia đình và người chưa thành niên phải có kiến

thức về tâm lý học, từ đó đảm bảo đưa ra những phán quyết đúng đắn, vì lợi ích

tốt nhất cho trẻ em.

50

2.2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18

TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH

ĐẮK LẮK

2.2.1. Tình hình xét xử các vụ án xâm phạm quyền lợi ích của người bị

hại dưới 18 tuổi của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk từ năm 2018 - 2022

Tình hình giải quyết các VAHS nói chung và các VAHS bảo vệ quyền của

người dưới 18 tuổi nói riêng được thể hiện rõ nét trong báo cáo tổng kết của các

cơ quan THTT và TAND tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 2018 - 2022, trong 5

năm, các cơ quan tố tụng tỉnh Đắk Lắk đã khởi tố 214 vụ/229 bị can; truy tố 203

vụ/228 bị can; xét xử 175 vụ/220 bị cáo về các tội xâm hại trẻ em. Điều này cho

thấy tình tình các tội xâm phạm trẻ em có những diễn biến phức tạp, số lượng

các vụ án có chiều hướng tăng, giảm thất thường. Sự tăng giảm không đồng đều

của tình hình các tội xâm phạm quyền lợi của người bị hại dưới 18 tuổi cũng cho

thấy được sự diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, ẩn chứa những nguy cơ

gia tăng nhóm tội phạm này trong thời gian tới. Tình hình giải quyết các vụ án

hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm quyền của người bị hại dưới 18 nói

riêng của TAND được thể hiện rõ nét trong báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Đắk

Lắk trong giai đoạn 2015 - 2019 cụ thể như sau:

Năm 2018, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý tổng cộng 5.927 vụ (cũ

264 vụ, mới 5.663 vụ); đã giải quyết: 5.677 vụ; còn lại 250 vụ (có 01 vụ quá

hạn), tỷ lệ giải quyết đạt: 95,78%. Trong đó số vụ án xâm phạm quyền của người

bị hại dưới 18 được giải quyết là 53 vụ với 65 bị cáo [51].

Năm 2019, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết 1.711/1.717 vụ thụ

lý, đạt tỷ lệ 99,65%; so với cùng kỳ năm 2015, thụ lý tăng 67 vụ, giải quyết tăng

68 vụ, tỷ lệ giải quyết giảm 0,05%; có 15 bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ

51

quan, chiếm tỷ lệ 0,87%. Trong đó số vụ án xâm phạm quyền của người bị hại

dưới 18 được giải quyết là 43 vụ với 54 bị cáo [53].

Năm 2020, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết 1.675/1679 vụ thụ

lý, đạt tỷ lệ 99,76%; so với cùng kỳ năm 2019, thụ lý giảm 38 vụ, giải quyết

giảm 36 vụ, tỷ lệ giải quyết tăng 0,11%; có 05 bản án, quyết định bị hủy do lỗi

chủ quan, chiếm tỷ lệ 0,30%. TAND cấp huyện đã giải quyết 6.729/6.743 vụ thụ

lý, đạt tỷ lệ 99,79%; so với cùng kỳ năm 2015, thụ lý giảm 308 vụ, giải quyết

giảm 300 vụ, tỷ lệ giải quyết tăng 0,13%; có 25 bản án, quyết định bị hủy do lỗi

chủ quan, chiếm tỷ lệ 0,37%. TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử lưu động 32 vụ với 40

bị cáo. Trong đó, số vụ án xâm phạm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi đã

được giải quyết là 49 vụ với 52 bị cáo[54],

Năm 2021, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk thụ lý 8.328 vụ việc các loại (Thụ

lý cũ: 2.859 vụ việc, thụ lý mới: 5.469 vụ việc), đã chuyển thẩm quyền 278 vụ

việc, còn lại phải giải quyết là 8.050 vụ việc; đã giải quyết 4.090 vụ việc, đạt tỷ

lệ 50,81%; còn lại 3.960 vụ việc chưa giải quyết, trong đó có 2.822 vụ việc đang

tạm đình chỉ, 01 vụ việc quá hạn luật định. So với năm công tác 2017, tổng

lượng án thụ lý tăng 979 vụ việc, giải quyết giảm 197 vụ việc, tỷ lệ giải quyết

giảm 9,18%. Trong đó, số vụ án xâm phạm quyền của người bị hại dưới 18 đã

được giải quyết là 39 vụ với 47 bị cáo [55].

Năm 2022, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk thụ lý 9.850 vụ việc các loại, giải

quyết 5.057 vụ việc, đạt tỷ lệ 51,34%; còn lại 4.793 vụ việc chưa giải quyết,

trong đó có 3.031 vụ việc đang tạm đình chỉ, 08 vụ việc quá hạn luật định chưa

được giải quyết. So với năm 2017, tổng lượng án thụ lý tăng 312 vụ việc, giải

quyết giảm 112 vụ việc, tỷ lệ giải quyết tăng 0,53%. Trong đó, số vụ án xâm

52

phạm quyền của người bị hại dưới 18 được giải quyết là 37 vụ với 41 bị cáo

[56].

Tình hình các tội xâm phạm quyền lợi của người bị hại dưới 18 tuổi trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2018 - 2022 cao nhất qua các năm là năm là năm 2018

với 49 vụ, thấp nhất là năm 2022 với 37 vụ. Tình hình các tội xâm phạm quyền

lợi của người bị hại dưới 18 tuổi có xu hướng diễn biến phức tạp. Trong đó tội

hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142) cao nhất là năm 2018, 2020 với 37 vụ

chiếm tỉ lệ lần lượt là 69,8% và 75,5 thấp nhất là năm 2022 với 26 vụ chiếm tỉ lệ

70,3%; Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi cao nhất là năm

2018 với 14 vụ, chiếm tỉ lệ 26,4%, thấp nhất là năm 2021 với 3 vụ chiểm tỉ lệ

7,7%; Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13

tuổi đến dưới 16 tuổi cao nhất là năm 2020, 2021 với 3 vụ mỗi năm và chiếm tỉ

lệ là 15,8% và 9,7%. Trong khi đó tội dâm ô người 16 tuổi chiểm tỷ lệ cao nhất

là năm 2019 với 3 vụ chiếm tỉ lệ 9,7%; thấp nhất là năm 2021 với 3 vụ chiểm tỉ

lệ 7,7% . Tội làm nhục người khác (Điều 155) xảy ra ít trong năm 2021 là 2 vụ

và năm 2022 là 1 vụ điều này được thể hiện qua bảng 2.1.

Hậu quả, có 8 trường hợp tử vong, 163 trường hợp bị tổn thương bộ phận

sinh dục, 13 trường hợp có thai, 7 trường hợp phải bỏ học và 160 trường hợp

bị tác động mạnh, mang thương tật về thể chất, tinh thần, thường xuyên có

thái độ lo sợ, tự ti, từ đó làm suy giảm nhận thức và mất năng lực giao tiếp xã

hội. Trong 6 tháng đầu năm 2022, Cơ quan cảnh sát điều tra hai cấp tỉnh Đắk

Lắk giải quyết 17 tố giác, tin báo tội phạm và khởi tố 16 vụ/16 bị can về các

tội xâm phạm tình dục trẻ em. Có thể nói, đây chỉ là số vụ việc đã được xử lý,

thông tin, do người bị hại trình báo với cơ quan chức năng. Trên thực tế, có

nhiều trẻ em đã bị xâm hại mà gia đình cũng như người bị hại chưa dám lên

53

tiếng vì tâm lý e ngại, sợ xấu hổ với bà con hàng xóm hay sợ ảnh hưởng đến

cuộc sống tương lai của con em mình sau này. Trong khi đó, công tác điều tra,

làm rõ hành vi phạm tội của những đối tượng xâm hại trẻ em tại những địa bàn

vùng sâu, vùng xa của cơ quan chức năng còn gặp rất nhiều khó khăn.

Bảng 2.1: Thống kê tình hình các tội xâm phạm quyền lợi người dưới 18

tuổi xét theo tội danh căn cứ vào số liệu của TAND tỉnh Đắk Lắk

Tổng số vụ

Điều 142

Điều 144 Điều 145 Điều 151 Điều 155

Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số

Năm

Số Tỉ lệ 100% 49

Số 37 69,8% 14 26,4% 1

1,9%

Tỉ Số lệ 1 1,9% 0

2018

Tỉ lệ 0%

100%

29 67,4% 11 25,6% 2

3,5%

1 3,5% 0

2019

43

0%

100%

37 75,5% 7 14,3% 3

6,1%

2 4,1% 0

2020

46

0%

100%

28 71,8% 3

7,7%

3

7,7%

3

7,7

2 5,1%

2021

39

100%

26 70,3% 6 16,2% 2

5,4%

2 5,4% 1 2,7%

2022

37

Tổng

221

100%

157 71% 41 18,6% 11 4,9%

9

4,07

3

1,43

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND tỉnh Đắk Lắk giai đoạn

2018 - 2022) [ 51,52,53,54,55].

Các vụ án xâm hại trẻ em thường tập trung nhiều ở những địa bàn vùng

núi, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, nơi có nhiều phòng trọ, gia đình

thiếu sự quan tâm đến con cái. Qua nghiên cứu các vụ án cho thấy đối tượng

phạm tội trong nhà nạn nhân chiếm tỉ lệ khá cao với 57/221 vụ chiếm tỉ lệ

25,79% [55]. Chúng ta có thể thấy rằng nguyên nhân này xuất phát từ việc gia

đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái. Điển hình như vụ án Hiếp

dâm của 2 bị cáo Phan Phi Long và Nguyễn Đình Vũ, cụ thể: chiều 23/9/2021,

Long, Vũ và một số người bạn, trong đó có cháu gái cùng tổ chức ăn nhậu tại

một khu rẫy ở thôn 1C, xã Ea Wy, huyện Ea H’leo. Quá trình ăn nhậu, Long

nảy sinh quan hệ tình dục với cháu gái nên nói với Vũ. Đến khoảng 18 giờ

54

cùng ngày, sau khi nhậu xong, Vũ điều khiển xe máy chở cháu gái đi về, còn

Long điều khiển xe máy đi theo sau. Khi đi qua một căn nhà hoang ở thôn 1C,

xã Ea Wy thì cả 2 dừng xe rồi đưa cháu gái vào trong nhà để quan hệ tình dục.

Tại đây, cháu gái đòi đi về nhưng 2 bị cáo không cho. Sau đó, cả 2 đã tìm cách

để thực hiện hành vi thú tính mặc cho nạn nhân vùng vẫy, la hét, chống cự.

Trong lúc các đối tượng đang thực hiện hành vi đồi bại thì có tiếng xe máy

cày đi ngang qua. Lúc này, sợ bị phát hiện nên Long và Vũ đã dừng lại rồi chở

cháu gái đi về. Khi về đến nhà, cháu gái đã kể lại toàn bộ sự việc cho gia đình

nghe và gia đình đã trình báo đến Công an huyện Ea H’leo.Tại thời điểm Long

và Vũ thực hiện hành vi phạm tội thì cháu gái mới được 14 tuổi 3 tháng. Ngày

31/3, TAND tỉnh Đắk Lắk đã đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và tuyên phạt bị cáo

Phan Phi Long 19 năm tù và Nguyễn Đình Vũ 13 năm tù cùng về tội hiếp dâm

người dưới 16 tuổi. Sau đó, 2 bị cáo đã có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình

phạt. (Trích bản án số 16/2021/HSST ngày 14/01/2021 của TAND tỉnh Đắk

Lắk).

Nhiều vụ án xâm hại tình dục xảy ra do xuất phát từ việc gia đình không

quan tâm trong việc quản lý, chăm sóc các em trong cuộc sống hàng ngày;

trong khi đó, các trẻ em gái hoặc các trẻ bị bệnh tâm thần hoặc hạn chế khả

năng nhận thức và điều khiển hành vi là những đối tượng non nớt về kinh

nghiệm sống và thiếu khả năng tự bảo vệ mình trước các cạm bẫy của xã hội,

rất dễ trở thành đối tượng bị xâm hại tình dục.

Về phương thức, thủ đoạn phạm tội đa phần các bị cáo sử dụng dùng vật

chất để dụ dỗ bị hại chiếm 94/221 vụ với tỉ lệ 42,53%; các đối tượng sử dụng vũ

lực để gây án chiến tỉ lệ 32,13% (71/221 vụ) và những thủ đoạn khác như lợi

55

dụng sự kém hiểu biết của trẻ, trẻ còn quá nhỏ tuổi, trẻ bị thiểu năng trí tuệ…

chiếm tỉ lệ 25,34% (56/221 vụ).

Bảng 2.2. Phương thức, thủ đoạn phạm tội

Tổng số vụ án

221 100% Dùng vật chất để dụ dỗ 94 42,53 Sử dụng vũ lực để gây án 71 32,13 Những thủ đoạn khác 56 25,34

(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2018 - 2022) [54]

Về độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án qua bảng số

liệu của toà án có thể thấy bị hại từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm tỉ lệ cao

nhất với 38,46%; kế đến là độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chiếm tỉ lệ

26,7%, tiếp theo là từ đủ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi chiếm tỉ lệ 25,34% và thấp nhất

là độ tuổi dưới 6 tuổi chiếm tỉ lệ 9,5%.

Bảng 2.3. Độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm hại

trẻ em trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2018 – 2022

Bị hại Dưới 6 tuổi Từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi

221 100% 21 9,5% Từ đủ 6 đến dưới 13 tuổi 56 25,34% Từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 85 38,46% 59 26,7%

(Nguồn: Bản án xét xử sơ thẩm cuả TAND tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2018- 2022)

2.2.2. Bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét

xử của tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

2.2.2.1. Bảo đảm phối hợp trong giai đoạn xét xử các vụ án bảo đảm quyền

của người bị hại dưới 18 tuổi

Trong giai đoạn từ 2018 đến năm 2022, TAND tỉnh Đắk Lắk đã làm tốt

công tác phối hợp giữa TAND với các cơ quan TTHS, trong các VAHS có bị hại

56

dưới 18 tuổi. Thực trạng xét xử các vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi trong

giai đoạn 2018 – 2022, cho thấy TAND tỉnh Đắk Lắk đã phối hợp chặt chẽ với

CQĐT, VKS cùng cấp tronng các hoạt động điều tra, truy tố để giải quyết kịp

thời, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội và áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối

với những hành vi xâm hại trẻ em, nhất là hành vi xâm hại người dưới 18 tuổi.

Phối hợp chuyển, nhận hồ sơ vụ án và bản cáo trạng: Viện kiểm sát bàn

giao hồ sơ vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi và bản cáo trạng cho Tòa án để

xét xử sơ thẩm theo quy định tại Điều 244 và Điều 276 của Bộ luật TTHS, thông

tin cho Tòa án để bố trí, sắp xếp thời gian, tiếp nhận hồ sơ nhanh chóng, kịp thời.

Khi bàn giao hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát chuẩn bị đầy đủ các tài liệu chứng cứ,

hoàn thiện các thủ tục tố tụng để bàn giao hồ sơ cho Tòa án. Nếu hồ sơ vụ án

chưa đầy đủ (như chưa giao được cáo trạng cho bị can, chưa có bản thống kê vật

chứng, thiếu danh sách những người cần triệu tập đến phiên tòa) hoặc sắp xếp tài

liệu không đúng trình tự so với bảng kê tài liệu, vật chứng; đánh số bút lục nhầm

lẫn, thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung, khắc phục ngay.

Phối hợp trước khi mở phiên tòa: Tòa án ghi rõ trong quyết định đưa vụ

án ra xét xử hình thức tổ chức phiên tòa tại phòng xử án hình sự thông thường

hay phòng xử án giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên để

Kiểm sát viên chuẩn bị trang phục phù hợp khi tham gia phiên tòa; Trường hợp

Viện kiểm sát đề nghị triệu tập bị hại đến phiên tòa thì Tòa án xem xét quyết

định việc triệu tập đến phiên tòa. Nếu buộc phải triệu tập bị hại có mặt tại phiên

tòa thì bố trí phòng xử án phù hợp hoặc phải có màn che ngăn cách với khu vực

của bị cáo tại phiên tòa; xem xét, đề nghị bác sĩ, chuyên gia tâm lý hỗ trợ bị hại,

áp dụng các biện pháp bảo vệ bị hại tại phiên tòa; Trường hợp Viện kiểm sát cần

đề nghị nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoặc công

57

khai một số tài liệu, chứng cứ bằng dữ liệu điện tử tại phiên tòa trong vụ án có bị

hại là người dưới 18 tuổi thì phải trao đổi với Tòa án để bố trí phương tiện, kỹ

thuật phục vụ tại phiên tòa phù hợp với điều kiện thực tế của Tòa án.

Phối hợp khi xét xử sơ thẩm tại phiên tòa: Người THTT và người tham gia

tố tụng khi tham gia phiên tòa phải thực hiện theo quy định của Thông tư số

02/2018/TT-TANDTC ngày 21/09/2018 của Chánh án TANDTC quy định chi

tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi

thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên (sau đây viết tắt là

Thông tư số 02/2018), Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của

Chánh án TANDTC quy định về phòng xử án. Trường hợp thấy cần thiết phải

công bố công khai tại phiên tòa các chứng cứ, tài liệu là dữ liệu điện tử, công bố

lời khai đã được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình giải quyết vụ

án thì Kiểm sát viên phối hợp với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện việc

công bố. Việc công bố tài liệu, chứng cứ công khai tại phiên tòa được thực hiện

khách quan, đúng pháp luật…Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch này còn quy định

về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng; trung cầu

giám định và trong giai đoạn điều tra, truy tố…

Đối với các vụ án mà bị hại cần được trợ giúp pháp lý, Tòa án đã chủ động

liên lạc với các cơ quan trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

các đương sự. Trước tình hình các tội xâm phạm người dưới 18 tuổi ngày càng

phức tạp TA đã có những bước tiến mới trong việc bảo đảm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi trong các vụ án như sau:

- Về tòa gia đình và người chưa thành niên. Tòa gia đình và người chưa

thành niên TAND tỉnh Đắk Lắk được thành lập ngày 07/12/2018. Đây là Tòa gia

đình và người chưa thành niên trên cả nước với thẩm quyền chuyên biệt xét xử

58

các vụ án hôn nhân và gia đình, các vụ án dân sự, hình sự liên quan đến người

chưa thành niên, đặc biệt là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong

các vụ án trẻ em. Đây là bước tiến quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp,

triển khai có hiệu quả các chủ trương và quan điểm của Đảng và Nhà nước nhằm

bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và xử lý người chưa thành niên phạm tội;

đồng thời chứng tỏ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền

trẻ em, đặc biệt là hoạt động tư pháp, thông qua việc xây dựng một hệ thống tư

pháp toàn diện mà Tòa gia đình và người chưa thành niên là trung tâm, với sự

tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đây là

phương thức thực hiện tinh thần khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 về

nguyên tắc xét xử kín. Theo báo cáo tổng kết công tác hoạt động của Tòa gia

đình và người chưa thành niên giai đoạn 2018 – 2022, Tòa gồm có 7 biên chế

(trong đó có 5 Thẩm phán và 2 thư ký); có 01 chánh tòa và 01 phó chánh Tòa

[53].

2.2.2.2. Bảo đảm việc phân công người THTT bảo đảm quyền của người bị

hại dưới 18 tuổi trong các vụ án

Căn cứ Thông tư liên tịch số 06/2018 và Thông tư số 02/2018/TT-

TANDTC Thông tư số 02/2018 của TANDTC. Khi có quyết định xét xử các vụ

án xâm pham trẻ em, Chánh án TAND tỉnh lựa chọn phân công các Thẩm phán

chủ tọa phiên tòa xét xử VAHS có bị hại là người dưới 18 tuổi luôn đáp ứng điều

kiện của BLTTHS quy định về người THTT các VAHS có người tham gia tố

tụng là người dưới 18 tuổi (Điều 415). TAND tỉnh luôn cử các Thẩm phán có

kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi là người có thâm niên công tác

trong lĩnh vực tư pháp; quản lý, đào tạo, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người

59

dưới 18 tuổi; người được đào tạo về giáo dục thanh, thiếu niên, nhi đồng hoặc

những người khác có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.

Về thành phần tham gia xử án: Theo báo cáo tổng kết công tác hoạt động

của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong giai đoạn 2016 – 2019, thì tổng

số cán bộ công chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên là 38 người gồm

18 thầm phán và 20 thư ký [53]. Để đáp ứng yêu cầu xét xử hiện nay, dội ngũ

nhân sự phải nắm chắc quy định của pháp luật về người chưa thành niên, về hôn

nhân gia đình. Trình độ ngoại ngữ của các Thẩm phán còn hạn chế. Vì vậy,

nhiều trường hợp còn khó khăn khi giải quyết các vụ án đòi hỏi nghiên cứu, xem

xét các tài liệu bằng tiếng nước ngoài. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được TAND tối

cao hướng dẫn theo

Công văn số 226/TANDTC-TCCB: Những người được chủ tịch nước bổ

nhiệm chức danh Thẩm phán (lần đầu) có nhiệm kỳ là 05 năm; những người

được chủ tịch nước bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán hoặc bổ nhiệm lại vào

ngạch thẩm phán (thông qua thi nâng ngạch) có nhiệm kỳ là 10 năm, hết nhiệm

kỳ, Thẩm phán sẽ được xem xét và bổ nhiệm lại. Với quy định gắt gao hiện nay,

nếu trong nhiệm kỳ gặp sai sót dẫn đến hủy án, Thẩm phán có thể không được

xem xét bổ nhiệm lại, hoặc thông qua thi nâng ngạch không đạt yêu cầu đồng

nghĩa với việc trở lại làm Thư ký. Quy định như vậy, có tác dụng thúc đẩy Thẩm

phán có trách nhiệm hơn trong công tác xét xử, không để tình trạng án tồn, án

hủy xảy ra.

Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập: Việc quy định nhiệm kỳ đối với một

chức danh Thẩm phán là quá ngắn, đối với tình hình kinh tế ngày càng phát triển

như hiện nay, số vụ án ngày càng đa dạng và gia tăng về số lượng, hàng năm mỗi

Thẩm phán trung bình phải giải quyết hàng chục vụ án mỗi lĩnh vực, đồng thời

60

phải bảo đảm không có án tồn, án hủy, điều này khiến Thẩm phán không yên

tâm với công việc, không kiên quyết, mạnh dạn trong việc giải quyết án vì tâm lý

e ngại án bị hủy không được tái bổ nhiệm dẫn đến tình trạng vụ án giải quyết bị

kéo dài hoặc án giải quyết bị quá hạn, Thẩm phán không còn chuyên tâm vào

từng vụ án mà chỉ quan tâm đến số lượng giải quyết, nhiều trường hợp đến hạn

báo cáo cuối năm, các Thẩm phán phải cố dồn án giải quyết cho kịp chỉ tiêu và

tiến độ. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các đương sự, cũng như

không thể bảo đảm chất lượng xét xử. Trong tình trạng các vụ án xâm phạm

người dưới 18 tuổi diễn biến phức tạp và đa dạng, việc có một đội ngũ bảo đảm

về số lượng, chất lượng chuyên sâu, am hiểu và có kinh nghiệm xét xử về lĩnh

vực này, đặc biệt là thật sự có trách nhiệm với công tác của mình sẽ thuận lợi

hơn rất nhiều trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

Quy trình tuyển chọn, cử Hội thẩm nhân dân và năng lực trình độ của Hội

thẩm nhân dân trong giai đoạn hiện nay còn nhiều hạn chế. Hội thẩm nhân dân

đóng vai trò quan trọng trong công tác xét xử. Nhưng hiện nay, Hội thẩm nhân

dân chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm hoặc công chức Nhà nước đã nghỉ hưu nên rất

ít người được đào tạo chính quy có trình độ đại học hoặc trên đại học về luật mà

chủ yếu chỉ có trình độ trung cấp về luật. Điều này gây trở ngại không nhỏ trong

công tác xét xử những vụ án liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm trẻ em. Trên thực tế rất ít Hội

thẩm thực hiện đúng trách nhiệm và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho mình,

chế định Hội thẩm tham gia xét xử còn mang nặng tính hình thức.

2.2.2.3. Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới

18 tuổi, nhà trường, Đoàn Thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm

lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt

61

Việc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án của các cá nhân, tổ chức xã

hội…sẽ bảo đảm cho người dưới 18 tuổi được hỗ trợ về mặt tinh thần (có thể cả

về pháp lý), ổn định về tâm sinh lý cho người dưới 18 tuổi, bảo đảm các quyền

và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời có thể hạn chế được sự lạm quyền hoặc vi

phạm pháp luật của những người THTT.

Cùng với việc phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, TAND tỉnh lựa

chọn mời Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử giải quyết vụ án. Hội

thẩm nhân dân phải là “giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi” (khoản 2

Điều 6 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC.

Việc tham gia của người đại diện, nhà trường và tổ chức của người dưới 18

tuổi là rất quan trọng để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới

18 tuổi, cũng như trợ giúp cho người dưới 18 tuổi về tâm lý, đồng thời cũng có

thể giám sát được hoạt động của những người có thẩm quyền THTT. Người đại

diện nói chung và người đại diện của người dưới 18 tuổi nói riêng là người tham

gia tố tụng theo quy định tại khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015.

2.2.2.4. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tiến hành TTHS đối với người

dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk

Trách nhiệm Tòa án trong quá trình xét xử VAHS có người tham gia tố

tụng dưới 18 tuổi là phải bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tiến hành TTHS đối

với người dưới 18 tuổi. Trong giai đoạn từ 2018-2022. TAND tỉnh Đắk Lắk luôn

bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng

thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.

62

Tòa án tuân thủ các quy định về thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi

sao cho bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho họ. Các quy định về thủ tục tố

tụng cần bảo đảm sự thân thiện, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi của

người dưới 18 tuổi. Khi áp dụng quy định của pháp luật về các thủ tục TTHS,

ngoài việc cần bảo đảm thực thi công lý, thì việc xử lý người phạm tội của các

cơ quan có thẩm quyền THTT phải chú trọng đến việc bảo vệ lợi ích tốt nhất cho

đối tượng bị xâm hại là người dưới 18 tuổi, người phạm tội phải bị nghiêm trị để

mang lại công lý, niềm tin cho người dưới 18 tuổi.

Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ

bản được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng

được đặc biệt chú trọng vì trẻ em thuộc nhóm yếu thế, chưa phát triển đầy đủ về

nhận thức, thể chất để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại

đến mình.

2.2.2.5. Cách thức tổ chức phiên tòa xét xử vụ án có người bị hại là người

dưới 18 tuổi

Phòng xử án hình sự của Tòa gia đình và người chưa thành niên không có

vành móng ngựa, bị cáo là người chưa thành niên được tiếp xúc với người đại

diện hợp pháp, người giám hộ, người thân, người bào chữa. Trong các vụ án

hình sự có bị hại là người dưới 18 tuổi, đặc biệt là các vụ án xâm phạm trẻ em,

Tòa gia đình và người chưa thành niên đã sắp xếp riêng cho bị hại, tránh để bị

hại tiếp xúc với bị cáo làm ảnh hưởng đến tâm lý của bị hại trong quá trình xét

xử. Việc cách ly cũng bảo đảm lời khai của bị hại được khách quan. Tuy nhiên

trụ sở làm việc của Tòa gia đình và người chưa thành niên chưa đáp ứng được

yêu cầu đòi hỏi vì chỉ có 02 phòng xử án, 01 phòng hòa giải nên thiếu phòng

cách ly, phòng xử án, phòng hòa giải. Các phòng xử án, hòa giải có diện tích

63

nhỏ, trong trường hợp có nhiều đương sự thì không đủ sức chứa, người dự khán

phải ngồi tràn ra ngoài phòng [53]. Vấn đề thiếu phòng chức năng là Phòng cách

ly bị hại là trẻ em là vấn đề khó khăn đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA

NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

2.3.1. Ưu điểm trong bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi

trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

Một là, Trong quá trình xét xử, giải quyết các vụ án mà nạn nhân là người

dưới 18 tuổi, có thể nói rằng TAND tỉnh Đắk Lắk đã luôn bám sát các nguyên

tắc về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, bảo vệ quyền

và lợi ích của người dưới 18 tuổi nói riêng, được quy định trong các văn bản

pháp luật hình sự; pháp luật hôn nhân và gia đình; pháp luật về phòng, chống bạo

lực gia đình, đó là: chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dưới 18

tuổi; hành vi bạo lực nói chung và bạo lực về tình dục nói riêng phải được phát

hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật; nạn nhân bị bạo

lực được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và

điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của người dưới 18 tuổi, đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia

đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực nói chung và bạo

lực đối với người dưới 18 tuổi nói riêng.

Hai là, Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự và xét xử các vụ án mà nạn

nhân là người dưới 18 tuổi, TAND tỉnh đã chủ động phối hợp với các cơ quan

THTT theo đúng các quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án,

đặc biệt là các vụ án lớn, trọng điểm được dư luận xã hội quan tâm. Đến nay,

64

TAND tỉnh đã xây dựng được quy chế phối hợp giữa các CQTHTT, định kỳ trao

đổi, thống nhất những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về đánh giá chứng cứ và

áp dụng pháp luật, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án, tránh tình trạng trả hồ sơ

yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần giữa các CQTHTT, đảm bảo việc giải quyết

vụ án đúng hạn luật định.

Ba là, TAND tỉnh Đắk Lắk luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc Thông

tư liên tịch số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của TANDTC quy định chi

tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi;

Công văn số 68/TANDTC ngày 08/4/2019 của TANDTC hướng dẫn xét xử tội

phạm xâm phạm tình dục và bạo hành trẻ em; Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP

ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số

quy định tại các Điều 141,142,143,144,145,146,147 của Bộ luật hình sự và việc

xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.

Bốn là, Thực hiện ý kiến chỉ đạo của TANDTC, trong thời gian qua TAND

tỉnh Đắk Lắk đã khẩn trương nghiên cứu hồ sơ để đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm

minh các vụ án mà nạn nhân là người dưới 18 tuổi, đáp ứng yêu cầu chính trị của

các địa phương.

Năm là, Công tác tổ chức các phiên toà xét xử các vụ án hình sự mà nạn

nhân là người dưới 18 tuổi đều được TAND tỉnh Đắk Lắk cân nhắc kỹ lưỡng,

đảm bảo vừa làm rõ các tình tiết của vụ án, đồng thời đảm bảo thuần phong mỹ

tục, các yếu tố văn hoá; bảo vệ danh dự, phẩm giá của con người và không gây

tác động tiêu cực đến tâm lý của người bị hại, đặc biệt là người dưới 18 tuổi.

Hình phạt mà các Tòa án áp dụng đối với các bị cáo phạm tội liên quan đến bạo

lực đối với người dưới 18 tuổi về cơ bản đảm bảo nghiêm minh, đúng quy định,

tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đáp ứng được yêu

65

cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về bạo lực đối với

người dưới 18 tuổi nói riêng trong tình hình hiện nay. TAND tỉnh Đắk Lắk cũng

đã chú trọng việc phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở trung ương và

địa phương để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật và tinh

thần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm về bạo lực người

dưới 18 tuổi nói riêng trong nhân dân, góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật

nâng cao nhận thức của người dân trong việc xây dựng gia đình văn hóa, xã hội

văn minh, bảo vệ quyền và lợi ích cũng như danh dự, nhân phẩm của trẻ em gái.

Tại phiên tòa, bên cạnh việc xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo, xác

định sự thật của vụ án, Hội đồng xét xử luôn chú trọng công tác giáo dục pháp

luật thông qua việc giải thích pháp luật, phân tích cho các bị cáo và những người

tham dự phiên tòa hiểu rõ về hậu quả và những hệ lụy phát sinh từ hành vi bạo

lực đối với người dưới 18 tuổi.

2.3.2. Hạn chế trong bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi

trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk

Xuất phát từ đặc trưng của các vụ án đối với người dưới 18 tuổi là các vụ án

xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, trong quá

trình giải quyết các vụ án bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong

hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk còn gặp một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, Các tội liên quan đến bạo lực đối với người bị hại dưới 18

tuổi xảy ra chủ yếu tập trung ở các tội: Cố ý gây thương tích, hiếp dâm, hiếp dâm

người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi, dâm ô với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; đặc biệt còn có tội giết

người mà nạn nhân là người dưới 18 tuổi...các đối tượng phạm tội đa số là nam

giới, ở nhiều độ tuổi khác nhau, thường sử dụng bạo lực như đe dọa, đánh đập,

66

giam giữ nạn nhân, ép nạn nhân phải thực hiện theo yêu cầu của mình, một số

trường hợp có hành vi dụ dỗ và dọa nạt, lợi dụng nạn nhân thiếu hiểu biết nhận

thức hoặc không có khả năng tự bảo vệ nên không dám tố cáo hành vi của mình.

Nạn nhân là người dưới 18 tuổi ở các lứa tuổi khác nhau; có hoàn cảnh khó khăn

về kinh tế, thiếu sự quan tâm, chăm sóc của người lớn, thiếu sự hiểu biết. Có nạn

nhân mới chỉ 08 - 09 tuổi, chưa có khả năng nhận biết về các hành vi đồi bại mà

các em đang phải hứng chịu từ chính những người có quen biết hoặc người thân

trong gia đình.

Thứ hai, Trong một số vụ án việc xác định tuổi của người bị hại gặp nhiều

khó khăn, các cơ quan THTT đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng không xác định

được chính xác tuổi của người bị hại để xác định người bị hại có phải là người

dưới 13, 16 hoặc dưới 18 tuổi hay không. Có trường hợp bị hại không có giấy

khai sinh gốc, hoặc có giấy khai sinh nhưng ngày, tháng, năm sinh không chính

xác hoặc giấy khai sinh chỉ ghi năm sinh. Có vụ án cha mẹ người bị hại nhớ

nhầm ngày sinh của người bị hại (ngày âm lịch, ngày dương lịch) nên cấp phúc

thẩm phải hủy án của cấp sơ thẩm. Cũng có trường hợp lời khai của bố, mẹ bị

hại và giấy tờ, lý lịch trong hồ sơ về ngày, tháng, năm sinh giống nhau nhưng cơ

quan THTT lại thu được những chứng cứ khác với tài liệu kể trên.

Có trường hợp không xác định được năm sinh của người bị hại, cơ quan

THTT đã làm các thủ tục để tiến hành giám định tuổi của họ nhưng kết quả giám

định của các cơ quan chuyên môn lại khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với tài liệu

điều tra khác nên gây khó khăn cho CQTHTT, trong đó có Tòa án trong việc

đánh giá, sử dụng tài liệu chứng cứ.

Thứ ba, Khi xảy ra hành vi xâm hại tình dục đối với người dưới 18 tuổi, để

có căn cứ khởi tố, truy tố và xét xử đối tượng về tội danh gì trong các tội xâm hại

67

tình dục người dưới 18 tuổi, thì cần phải có kết luận giám định pháp y và những

vật chứng có liên quan để làm căn cứ, khẳng định ai là người thực hiện hành vi

phạm tội. Trên thực tế, có nhiều vụ xâm hại tình dục đối với người dưới 18 tuổi

nhưng không đủ cơ sở để đưa người phạm tội ra trước pháp luật. Có nhiều

trường hợp người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, gia đình biết nhưng lưỡng lự

trong cách giải quyết do lo sợ ảnh hưởng đến tương lai của các em, dẫn đến trình

báo muộn, không biết cách thu giữ vật chứng cần thiết để giao nộp cho cơ quan

chức năng, nên đã vô tình tạo điều kiện để người thực hiện hành vi phạm tội có

đủ thời gian xóa hết dấu vết. Có một số trường hợp, sau khi bị xâm hại tình dục

suốt một thời gian dài, người bị hại mới tố cáo hành vi của người phạm tội do sợ

danh dự, nhân phẩm của bản thân và gia đình bị ảnh hưởng. Do đó, việc thu thập

chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp nhiều khó khăn (vùng kín bị hóa sẹo, không thu

được tinh dịch…) nên rất khó để xác định người bị hại có bị hiếp dâm hay không

và ai là người thực hiện hành vi.

Thứ tư, Đặc trưng cơ bản của hành vi bạo lực gia đình là hành vi của các

thành viên trong gia đình gây tổn hại cho nhau. Do đó, khi xảy ra các vụ việc có

dấu hiệu vi phạm pháp luật về bạo lực đối với người dưới 18 tuổi thì thường

được hòa giải hoặc giải quyết nội bộ trong gia đình, chứ không có đơn trình báo

tới các cơ quan chức năng để xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự. Vì

vậy rất khó khăn cho công tác nắm tin báo, tố giác về tội phạm.

Thứ năm, Về phía các nạn nhân bị bạo lực là người dưới 18 tuổi do không

nhận thức được đầy đủ quyền của mình nên không dám đấu tranh mà cam chịu

bạo lực dẫn đến quá trình đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội của các bị can gặp

khó khăn (bị can không nhận tội, bị hại không hợp tác điều tra); vụ án xảy ra ở

68

nơi vắng vẻ, chỉ có đối tượng và nạn nhân tại hiện trường, không có nhân chứng

trực tiếp. Do vậy, việc thu thập chứng cứ gặp nhiều khó khăn.

Thứ sáu, Người có hành vi phạm tội và người bị hại thường có quan hệ thân

thích hoặc quan hệ phụ thuộc, như: Vợ - chồng, cha - con, con nợ - chủ nợ…mà

người bị hại vì quan hệ tình cảm hoặc vì bị đe dọa trả thù mà không dám đứng ra

tố cáo người có hành vi phạm tội hoặc không hợp tác với cơ quan điều tra để lấy

lời khai, không đi giám định thương tích …

Thứ bảy, Về sử dụng kết quả giám định: Công tác giám định tư pháp đóng

vai trò rất quan trọng trong việc xử lý vụ án hình sự. Kết luận giám định là

chứng cứ (điểm d Điều 87 BLTTHS năm 2015) để xác định có hay không có

hành vi phạm tội, cơ chế hình thành dấu vết, tính chất và mức độ thiệt hại do

hành vi phạm tội gây ra; những tình tiết liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm

hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và những tình tiết khác có ý

nghĩa trong việc giải quyết vụ án, để đảm bảo việc xử lý vụ án được chính xác,

khách quan và đúng pháp luật. Trong thực tế điều tra, truy tố, xét xử còn có khó

khăn, vướng mắc trong giải quyết vụ án về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe

của con người. Khi giám định lại thì cơ quan THTT sử dụng kết quả giám định

nào (kết quả giám định lần đầu; kết quả giám định lại lần thứ nhất hay kết quả

giám định lại lần thứ hai…) để làm căn cứ truy tố và xét xử đối với hành vi phạm

tội?

Thứ tám, Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại khoản 1 Điều 142

Bộ luật hình sự:

“a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự

vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan

hệ tình dục khác với người từ tủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;

69

b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới

13 tuổi”. …Khoản 3 Điều 142 quy định… c) Đối với người dưới 10 tuổi.

Như vậy, điều luật chưa quy định hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực

hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác

giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 10 tuổi

đến dưới 13 tuổi. Tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và tội

dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 145, 146 Bộ luật hình

sự năm 2015 mới chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với người đủ 18

tuổi. Như vậy, nếu một người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mà giao cấu với trẻ

em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trong giai đoạn hiện nay một bộ phận không nhỏ ở độ tuổi từ 16 đến dưới 18

tuổi có hành vi phạm tội này. Đây là điểm hạn chế trong công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm này. Tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự có đề cập đến

việc công khai xin lỗi người bị hại. Tuy nhiên, thủ tục công khai việc xin lỗi như

thế nào thì hiện nay chưa được giải thích cụ thể nên khó áp dụng trong thực tiễn,

đặc biệt là trong thực tiễn xét xử các vụ án về xâm hại người dưới 18 tuổi.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong việc bảo đảm quyền của người

bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk

Qua thực tiễn, tác giả nhận thấy nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

trong việc bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử

của TAND được thể hiện:

Thứ nhất, nguyên nhân về các quy định của pháp luật. Chưa thống nhất

trong quy định có liên quan đến xâm hại trẻ em và bảo đảm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm hại trẻ em. Khái niệm về trẻ em và độ

tuổi của trẻ em hiện nay được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới luật,

70

nhưng không có sự thống nhất, rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau về độ tuổi

của trẻ em. Việc quy định không thống nhất, rõ ràng về độ tuổi của trẻ em đã gây

khó khăn, bất cập trong công tác bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi

trong các vụ xâm hại trẻ em.

- Thiếu những quy định xử lý các cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố giác

hành vi xâm hại người dưới 18 tuổi; không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ

trách nhiệm bảo vệ người dưới 18 tuổi bị xâm hại.

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước toà án khá nhiều và cồng

kềnh. Ngoài Luật còn có những văn bản hướng dẫn chi tiết như: nghị định, thông

tư, nghị quyết... Các văn bản dưới luật này lại rải rác, được ban hành có tính hệ

thống không cao gây khó khăn cho việc áp dụng, thực thi trên thực tế. Thêm vào

đó, phương pháp liệt kê được sử dụng phổ biến trong quá trình xây dựng pháp

luật giúp các cơ quan THTT dễ dàng áp dụng để giải quyết án xâm phạm người

bị hại dưới 18 tuổi nhưng tính dự báo sẽ không cao, sẽ là trở ngại cho công tác

điều tra, truy tố, xét xử khi có những tình tiết mới phát sinh mà pháp luật chưa

dự liệu được và không có cơ sở để giải quyết.

Thứ hai, nguyên nhân từ phía các CQTHTT. Theo yêu cầu công tác thì đội

ngũ cơ quan THTT phải nắm chắc các quy định của pháp luật về tư pháp người

chưa thành niên, về hôn nhân gia đình. Vấn đề năng lực trình độ của điều tra

viên, kiểm sát viên, thẩm phán xét xử còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được sự

đòi hỏi của thực tế. Nhiều cán bộ còn chưa nắm vững khái niệm và trình tự hoạt

động giải quyết án thuộc thẩm quyền. Trình độ ngoại ngữ của các cán bộ tại Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn hạn chế. Vì vậy, nhiều trường hợp còn

khó khăn khi giải quyết các vụ án đòi hỏi phải xem xét, nghiên cứu các tài liệu

bằng tiếng nước ngoài.

71

Thứ ba, nhận thức về pháp luật của bản thân bị hại và gia đình còn hạn chế

Trong nhiều vụ án mặc dù tại Cơ quan điều tra và trong hồ sơ vụ án đã thể hiện

quan điểm rõ ràng và khẳng định hành vi của bị cáo là đối với họ. Nhưng do

trongquá trình xét xử gia đình bị cáo và bi hại đã thỏa thuận, thống nhất với nhau

và thậm chí do sự tác động nào đó (có thể bị đe dọa hoặc hứa hẹn) nên tại phiên

tòa bị hại thay đổi lời khai, phủ nhận lời khai trước và một mực bảo vệ bị cáo,

cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi xâm phạm đối với họ như trong hồ sơ

vụ án đã thể hiện... qua đó gây nhiều khó khăn cho Hội đồng xét xử trong quá

trình giải quyết vụ án đó.

Trong các vụ án xâm hại người dưới 18 tuổi, bị hại và gia đình của bị hại

thường có tâm lý e ngại, lo sợ ảnh hưởng đến danh dự, cuộc sống nên nhiều gia

đình chưa dám lên tiếng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Khi xảy

ra vụ việc, họ thường không trình báo với cơ quan có thẩm quyền mà dấu diếm,

bỏ qua hoặc tự thỏa thuận với người có hành vi phạm tội và gia đình của người

phạm tội gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình giải

quyết vụ án, do thời gian xảy ra lâu, sự hợp tác không chặt chẽ của người phạm

tội, người bị hại nên việc giám định của cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn,

cũng ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.

Có trường hợp bị hại quan hệ tình dục, bị bạo hành khủng bố học đường với

nhiều người trong thời gian dài, nên khi cơ quan tiến hành điều tra thì không có

chứng cứ buộc tội tất cả các đối tượng. Cũng như có trường hợp biết sự việc thì

gia đình bị cáo và bị hại tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường, sau đó không

thống nhất được mức bồi thường nên bị hại mới tố cáo hành vi của người phạm

tội, nhưng việc khai báo không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án

72

nên việc điều tra và nhận định các chứng cứ gặp nhiều khó khăn, kéo dài thời

gian giải quyết vụ án.

Bên cạnh đó, một số loại tội liên quan đến người dưới 18 tuổi xảy ra trông

nội bộ gia đình, như bạo lực gia đình nên việc phát hiện, tố giác và xử lý gặp

nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính là do nhận thức của người bị xâm hại còn

hạn chế, không tố giác kịp thời các hành vi này. Trong các trường hợp này bị hại

có thái độ cam chịu hoặc không hợp tác với chính quyền địa phương, đoàn thể có

biện pháp kịp thời mà âm thầm chịu đựng cho đến khi không thể chịu đựng được

nữa mới gửi đơn tố cáo hành vi xâm hại. Khi Tòa án yêu cầu cung cấp chứng cứ

thì không cung cấp được chứng cứ chứng minh là có hành vi xâm hại gây khó

khăn cho TA trong việc giải quyết, xét xử vụ án.

Nhận thức pháp luật của một số người dân còn nhiều hạn chế. Nhiều người

chưa nhận thức được hành vi của họ thực hiện là hành vi vi phạm pháp luật hoặc

danh dự, nhân phẩm của họ đã bị xâm hại, phổ biến nhất là hành vi giao cấu với

trẻ em, quaasay rối tình dục, bạo lực gia đình... Thông thường giữa bị cáo và bị

hại có quan hệ tình cảm, thậm chí có trường hợp gia đình bị hại còn tổ chức đám

cưới cho hai người tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện hành vi giao cấu với bị hại.

Do đó, việc xử lý, phát hiện hành vi phạm tội chưa triệt để, một số trường hợp

còn che dấu, không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án.

73

Tiểu kết chương 2

Chương 2 của luận văn trên cơ sở những quy định của pháp luật về đảm bảo

quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong họat động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk, đã

làm rõ những nội dung như sau:

Thứ nhất, tác giả đã khái quát những nội dung liên quan đến các vụ án hình

sựu có bị hại là người dưới 18 tuổi trong họat động xét xử tại TAND tỉnh Đắk

Lắk thông qua những nội dung sau: khái quát chung về các đặc điểm kinh tế, xã

hội của trong họat động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk; tình hình các vụ án

hình sự có người bị hai dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk

Lắk; đặc điểm các vụ án có người bị hại dưới 18 tuổi trong họat động xét xử tại

TAND tỉnh Đắk Lắk.

Thứ hai, thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong họat động

xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk thông qua những nội dung: thực trang bảo đảm

quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn tiền khởi tố và khởi tố; giai đoạn

điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử.

Thứ ba, Luận văn chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế trong đảm bảo

quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong họat động xét xử của TAND tỉnh

Đắk Lắk.

74

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI

DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN

DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

3.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18

TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH

ĐẮK LẮK

3.1.1. Bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử của tòa án

nhân dân cần quán triệt quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền

con người, quyền công dân

Bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền không chỉ là nội dung,

bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền.

TTHS là một lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến quyền con người. Quyền con người

đặc biệt là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong xét xử của tòa án

được ghi nhận và bảo vệ trong hoạt động TTHS bằng các phương tiện, biện pháp

khác nhau. Trong đó, các biện pháp quan trọng nhất là quy định đúng đắn, hợp lý,

khả thi trong pháp luật TTHS và bảo đảm thực hiện quy định đó trên thực tế. Việt

Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công

ước quốc tế về quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 02 năm 1990. Quan điểm của Đảng,

Nhà nước Việt Nam là chăm lo con người, tôn trọng, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người,

quyền công dân có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đó sẽ là những tư tưởng chỉ đạo với

75

hoạt động cụ thể trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng -

an ninh, ngoại giao... Có thể khái quát hệ thống quan điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người. Trong

quá trình hình thành và phát triển, quyền con người là sản phẩm của sự thống nhất

của tính phổ biến và tính đặc thù. Vì vậy, muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn

những vấn đề thực tiễn cụ thể về quyền con người cần quán triệt quan điểm kết hợp

tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người. Tính phổ biến của quyền con

người là thuộc tính, theo đó quyền con người bao hàm những nguyên tắc, những

quyền được áp dụng phổ biến ở khắp nơi, cho mọi đối tượng. Còn tính đặc thù của

quyền con người là thuộc tính, theo đó cho phép quyền con người ở mỗi quốc gia,

mỗi lãnh thổ do trình độ phát triển kinh tế - xã hội và truyền thống dân tộc khác nhau

mà có những đặc trưng riêng, có mức độ thỏa mãn riêng phù hợp với điều kiện quốc

gia, lãnh thổ đó. Vì vậy, trong quá trình giải quyết thực tiễn về quyền con người nhất

thiết phải tuân theo sự thống nhất giữa tính phổ biến và tính đặc thù đó, không thể

đối lập tính phổ biến với tính đặc thù và ngược lại.

Thứ hai, quyền con người có tính giai cấp. Con người sinh ra vốn dĩ đã có

quyền, quyền đó tồn tại dưới dạng những nhu cầu bức thiết, những yêu sách hợp lý.

Nhưng, để trở thành quyền thực sự cần đến yếu tố pháp luật thiết định. Pháp luật,

như chúng ta đều biết, là pháp luật của các chế độ chính trị khác nhau, nội dung của

nó được ghi nhận trong khuôn khổ đảm bảo trước hết lợi ích của giai cấp thống trị xã

hội. Do vậy, quyền con người mang tính chất giai cấp sâu sắc.

Thứ ba, quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất.

Ở nước ta, truyền thống cộng đồng, truyền thống dựng nước và giữ nước cũng

như kinh nghiệm cách mạng Việt Nam cho thấy, những “vong quốc nô” thì không

thể có quyền con người. Nói cách khác, nước Việt Nam có độc lập thì dân tộc Việt

76

Nam mới có tự do. Quá trình giải quyết vấn đề quyền con người là thông qua quá

trình giải phóng dân tộc, quyền con người chỉ có trong độc lập dân tộc. Ở đây,

không thể có cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, chỉ có sự thống nhất giữa

nhân quyền và chủ quyền quốc gia.

Hiến pháp xác định quyền, đồng thời cũng xác định nghĩa vụ của công dân đối

với Nhà nước và xã hội “quyền công dân đi đôi với nghĩa vụ của công dân”. Vì vậy,

việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ có thể là đúng khi đặt nó trong quan hệ

với người khác, với dân tộc, bởi vì “chỉ trong cộng đồng thì mỗi cá nhân, mới có

những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, chỉ trong

cộng đồng thì mới có thể có cá nhân tự do” (Các Mác).

Thứ tư, quyền con người phụ thuộc vào sự phát triển và truyền thống dân tộc.

Quyền con người là nhu cầu vốn có của con người, nhưng trạng thái thực hiện và

mức độ thỏa mãn lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và

truyền thống dân tộc của mỗi quốc gia. Quyền con người phụ thuộc vào trình độ

phát triển kinh tế, rằng: “Việc thực hiện quyền tự do của con người tùy thuộc vào

lực lượng sản xuất và trong phạm vi cho phép của lực lượng sản xuất, chứ không

phải tùy thuộc ở điều người ta mong muốn” (Các Mác). Tuy nhiên, việc thực hiện

quyền con người tốt hay xấu, rộng hay hẹp còn phụ thuộc vào những yếu tố khác

như bản chất của chế độ xã hội, vai trò của Nhà nước và các thể chế chính trị, ý

thức dân chủ và sự trưởng thành của cá nhân và cộng đồng. “Quyền không thể cao

hơn trình độ phát triển kinh tế” là định hướng quan trọng cho việc giải quyết đúng

đắn vấn đề quyền con người trong đời sống hiện thực, vừa tránh được chủ quan duy

ý chí trong xây dựng pháp luật vừa tránh được tình trạng lạc hậu của pháp luật so

với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ quản lý theo cơ chế tập trung

quan liêu bao cấp, pháp luật Việt Nam đã quy định nhiều quyền, trong đó có cả

77

quyền “đi học không mất tiền”, “chữa bệnh không mất tiền”. Đó là những quy định

đúng với bản chất của chế độ ta, nhưng do trình độ kinh tế thấp nên pháp luật đã

không đi vào cuộc sống được.

Về văn hóa, dân trí là điều quan trọng để xác lập và thực hiện quyền con

người. Điều này đòi hỏi con người có sự hiểu biết nhất định về dân chủ, pháp luật

và ý thức về quyền của công dân mới có thể đảm bảo thực hiện quyền trong thực tế.

Bởi quyền của con người là kết quả do đấu tranh mới giành được, chứ không thể là

sự ban ơn, bố thí của bất kỳ ai. Như vậy, pháp luật quy định quyền con người,

quyền công dân phải gắn và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước

trong mỗi thời kỳ lịch sử, đồng thời quá trình xây dựng pháp luật về quyền con

người, quyền công dân phải giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc.

Thứ năm, quyền con người, quyền công dân phải được chế độ pháp luật bảo

vệ. Đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các

quyền con người, quyền công dân được thực hiện. Khi trở thành quyền pháp định,

quyền con người, quyền công dân là ý chí chung của toàn xã hội, được xã hội phục

tùng, được quyền lực nhà nước bảo vệ. Quyền con người, quyền công dân khi được

Hiến pháp, pháp luật ghi nhận trở thành độc lập đối với bất kỳ quyền uy nào, kể cả

các cơ quan, viên chức nhà nước cao nhất.

Hiện nay, trên lĩnh vực pháp luật bảo vệ quyền con người, Nhà nước ta đã ban

hành Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật TTHS, Luật Tổ chức TAND, Luật

Tổ chức VKSND, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân,

Luật Lao động, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học,

Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, Luật Báo chí, Pháp lệnh về tổ chức luật sư,

Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại

của người nước ngoài ở Việt Nam... Có thể khẳng định rằng, Hiến pháp và pháp

78

luật Việt Nam hiện nay đã thể hiện đầy đủ các quyền cơ bản, phổ biến của con

người.

Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Đảng ta

chủ trương “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền

Việt Nam”, đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật,

chắc chắn sẽ mở rộng hơn nữa phạm vi quyền con người, quyền công dân theo đà

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

3.1.2. Bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử cần phát huy

vai trò của Tòa án nhân dân và các cơ quan tham gia tố tụng khác trong bảo

đảm quyền con người trong hoạt động xét xử

Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất được Hiến pháp và pháp luật trao chức

năng xét xử. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Để quyền con người không bị xâm phạm trong hoạt động tư pháp mà trọng

tâm là hoạt động xét xử, TAND cần bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc sau:

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc xét xử công khai; Nguyên tắc

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án;

Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Nguyên tắc bảo đảm

quyền bào chữa; Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án và Giám

đốc việc xét xử.[34]

Xác định rõ Tòa án là cơ quan thực hiện quyền Tư pháp đồng thời đảm bảo

những điều kiện để Tòa án thực hiện quyền Tư pháp trong thực tế, đặc biệt là

phải nâng cao chế độ lương, phụ cấp, công tác phí để cán bộ công chức Tòa án

có thể đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình ở mức trung bình, yên tâm

79

công tác mà không phải lo về “cơm, áo, gạo, tiền”. Các chế độ của cán bộ, công

chức Tòa án hiện nay còn thấp. Trong khi đó, việc mở các phiên tòa lưu động

tuy có ý nghĩa tích cực trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm nhưng cũng

làm tiêu tốn một số kinh phí nhất định, ảnh hưởng đến ngân sách đơn vị. Do đó

cần phải có những đảm bảo về tài chính nhất định để Tòa án thực hiện nhiệm vụ

của mình.

Ngoài ra, để Thẩm phán yên tâm làm việc và làm việc có hiệu quả thì cần

phải quy định lại nhiệm kỳ của Thẩm phán. Hiện nay, nhiệm kỳ của Thẩm phán

là 05 năm trong khi đó thủ tục bổ nhiệm, tái bổ nhiệm chặt chẽ, nhiều quy trình,

mất nhiều thời gian; nếu có vi phạm thì có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Do đó,

nên quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán là 10 năm hoặc là vô thời hạn. Đáp ứng

yêu cầu trên, hiện nay Luật tổ chức tòa án đã quy định nhiệm kỳ thứ hai trở đi

khi bổ nhiệm lại đối với chức danh thẩm phán là 10 năm.

Vai trò của các cơ quan tố tụng khác, Đẩy mạnh tiến độ thành lập và đi vào

hoạt động mô hình Viện kiểm sát và Tòa án khu vực trên toàn quốc để bảo đảm

độc lập xét xử [33].

Trong mối quan hệ giữa các CQTHTT, cần xác định rõ mối quan hệ “chế

ước”, chứ không chỉ là “phối hợp” để tránh sự bao che lẫn nhau, dẫn đến tình

trạng “sai một ly, đi một dặm”. Tăng cường đào tạo lực lượng Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán theo hướng đủ về số lượng và cao về chất lượng. Đặc

biệt phải đào tạo kiến thức về quyền con người cho đội ngũ này. Trang bị cơ sở

vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc hiện đại, hiệu quả.

3.1.3. Nâng cao trình độ nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng về

bảo đảm quyền của người bị hai trong hoạt động xét xử vụ của tòa án nhân

dân

80

Chủ thể THTT trong hoạt động xét xử vụ án hình sự được hiểu là những

người trong Hội đồng xét xử các vụ án hình sự (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân).

Nhiệm vụ lớn nhất của giai đoạn xét xử là ra được bản án, quyết định tố tụng

theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để ra được một bản án hoàn chỉnh và

chính xác thì nhất thiết phải có hoạt động nhận thức trước đó.

Hoạt động nhận thức ở giai đoạn này được thực hiện bởi các thành viên của

Hội đồng xét xử nhằm kiểm tra lại tính đúng đắn của các thông tin thu thập được

trong giai đoạn điều tra thông qua hồ sơ và lời khai của những người tham gia tố

tụng. Hoạt động nhận thức mang tính chủ động, ít căng thẳng hơn so với hoạt

động nhận thức ở giai đoạn điều tra do chủ thể nhận thức đã được tiếp cận với

lượng thông tin ít hơn, cô đọng hơn và được sàng lọc ở giai đoạn điều tra.

Trong hoạt động xét xử, quá trình xét hỏi về các tình tiết của vụ án là giai

đoạn trung tâm, là giai đoạn độc lập để xác định sự thật của vụ án. Đây chính là

yếu tố tìm kiếm của hoạt động nhận thức.

Ví dụ trong những trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu cung cấp

thêm những tài liệu mới, mời thêm người làm chứng trước đây chưa được hỏi để

có thể xét hỏi hoặc tạm hoãn phiên tòa.

Do quá trình nhận thức chứng cứ của Tòa án thông qua hình thức gián tiếp

nên các thành viên của Hội đồng xét xử ít bị ảnh hưởng hơn nhiều bởi yếu tố xúc

cảm so với điều tra viên. Mặt khác, thời gian nhận thức của chủ tọa phiên tòa

ngắn hơn điều tra viên nên đòi hỏi phải phân phối đều hơn về tinh thần và trí lực.

Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (Điều 49 BLTTHS). Từ góc độ áp

dụng các biện pháp cưỡng chế thì bị can có thể bị tạm giam hoặc các biện pháp

ngăn chặn khác, bị can bị hỏi cung…Từ góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của con người, bị can có nguy cơ bị xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ,

81

nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm.

Do đó cần nâng cao nhận thức của bị can trong hoạt động xét xử các vụ án hình

để bị can nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình. Cụ thể, pháp luật quy định

quyền của bị can nhiều hơn là trách nhiệm làm cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình, bác bỏ việc buộc tội hoặc bảo vệ mình trước khả

năng xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp trong quá trình TTHS giải quyết các

vụ án hình sự.

Cũng như bị can, bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc

tội và đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 50 BLTTHS). Vì vậy,

địa vị pháp lý, tình trạng của bị cáo cũng giống như bị can; có nghĩa là bị cáo

cũng có khả năng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế do BLTTHS quy định, có

nguy cơ bị xâm phạm các quyền con người cao, đã có sự buộc tội chính thức nên

cần có các quyền tương ứng để bào chữa, cho nên các biện pháp bảo đảm quyền

con người đối với bị can, bị cáo cơ bản là giống nhau. Do đó, việc nâng cao trình

độ nhận thức của bị can, bị cáo về quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án

hình sự là rất cần thiết, để hạn chế tối đa tình trạng oan sai và để bảo vệ tối đa

quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.

3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18

TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH

ĐẮK LẮK

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền của

người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại tòa án nhân dân

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng các biện pháp tuyên

truyền, giáo dục ý thức cảnh giác, phát hiện sớm, tự phòng ngừa các hoạt động

xâm hại trẻ em và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết là một biện pháp cần làm.

82

Khi bị xâm hại tình dục, nạn nhân và gia đình phải trình báo ngay cho cơ

quan Công an để được hỗ trợ tư vấn, giải quyết tránh để lọt tội phạm. Quan trọng

nhất, gia đình cùng nhà trường cần giáo dục, trang bị kỹ năng sống cho các em;

phổ biến những kiến thức về giới tính một cách khéo léo, lành mạnh; góp phần

phòng chống việc lạm dụng tình dục trong cuộc sống.

Nhìn chung, Việt Nam đã có một hệ thống khung pháp luật tương đối toàn

diện và đầy đủ để bảo đảm và bảo vệ các quyền con người nói chung, trong đó

có quyền của người dưới 18 tuổi nói riêng. Bộ luật hình sự năm 2015, BLTTHS

năm 2015, Nghị định số 06/2019... ban hành là bước tiến mới trong việc đảm bảo

quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử của tòa án. Tuy

nhiên, các quy định bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong c trong

giai đoạn xét xử của tòa án còn tản mạn, chưa tập trung theo lĩnh vưc; trong đó

có một số quy định còn chung chung, khó thực hiện. Theo đó, thời gian tới cần

phải rà soát, hệ thống hóa các quy định này trên cơ sở đó ban hành mới hoặc sửa

đổi, bổ sung theo hướng tổng thể, toàn diện.

Trẻ em là thế hệ mầm non - tương lai của đất nước, cần được chăm sóc bảo

vệ, giáo dục, trong những điều kiện tốt nhất bởi nhà trường và xã hội. Pháp luật

Việt Nam luôn dành sự quan tâm đến trẻ em, xem trẻ em là nguồn hạnh phúc của

gia đình của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc,

đồng thời trang bị hành trang pháp luật để bảo vệ người dưới 18 tuổi bị xâm hại.

Trong thời gian tới để hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề

bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử thì trong

thời gian tới, Quốc hội nên phê chuẩn tăng tuổi nghỉ hưu đối với một số chức

danh nhằm tận dụng uy tín, phẩm chất, kinh nghiệm... của các cán bộ này. Trong

quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán thủ tục còn quá rườm rà, cần đơn

83

giản hóa thủ tục bổ nhiệm. Đối với những trường hợp bổ nhiệm lại, cần đơn giản

hóa thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán. Điều này giúp cho hoạt động của Thẩm

phán ít bị gián đoạn hơn, góp phần làm giảm thiểu tình trạng thiếu Thẩm phán

hiện nay.

Bổ sung vào BLTTHS 01 điều luật để quy định về xác định tuổi của người

bị hại là người dưới 18 tuổi nhằm khắc phục những điều không có lợi cho người

bị buộc tội, theo hướng: “Điều... Xác định tuổi của người bị hại là người dưới

18 tuổi. Việc xác định tuổi của người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ quan

THTT thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các biện

pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của

họ thì tuổi của họ được xác định như sau:

a) Trường hợp xác định tháng sinh cụ thể, nhưng không xác định được

ngày sinh trong tháng đó thì lấy ngày mùng một của tháng đó làm ngày sinh;

b) Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định

được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mùng một của tháng đầu của quý

đó làm ngày sinh;

c) Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm,

nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối

năm đó thì lấy ngày mùng một tháng Giêng hoặc ngày mùng một tháng Bảy

tương ứng của năm đó làm ngày sinh;

d) Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được

ngày tháng sinh thì lấy ngày mùng một tháng Giêng của năm đó làm ngày sinh.

Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để

xác định tuổi”. Trên cơ sở sửa đổi Điều 417 BLTTHS, Cơ quan có thẩm quyền

84

sửa đổi, bổ sung Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018 ngày 21/12/2018 cho

thống nhất, phù hợp.

Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS theo hướng dân chủ hóa hoạt

động tố tụng, phải xem việc tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của bị hại dưới 18 tuổi vào quá trình TTHS là sự giám sát tốt nhất đối với

các hoạt động của cơ quan THTT và trên tinh thần tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm

quyền con người, quyền công dân đã được hiến định. Bên cạnh việc làm rõ chức

năng buộc tội, chức năng xét xử thì cần phải chú ý đến chức năng bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi của những người tham gia tố tụng là

luật sư, bào chữa viên nhân dân, đại diện hợp pháp hay trợ giúp viên pháp lý khi

họ tham gia tố tụng. Cần tăng cường các quyền cho người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của bị hại để bảo đảm quyền bình đẳng với các chủ thể khác nhằm

phát huy vai trò, vị trí của họ trong quá trình tham gia tố tụng. Khi tăng cường

các quyền cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi

đồng nghĩa với việc các CQTHTT, người có thẩm quyền THTT phải có trách

nhiệm tạo điều kiện để người bảo vệ thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của

mình. Quy định rõ trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng từ phía các cơ

quan THTT và các chủ thể tố tụng khác khi giải quyết vụ án hình sự. Khi tham

gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi cần

được tạo điều kiện để tranh tụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Việc tranh

tụng không chỉ bó hẹp ở giai đoạn xét xử mà xuyên suốt các giai đoạn tiền tố

tụng, điều tra, truy tố, xét xử. Quy định chế tài đối với người có thẩm quyền

THTT trong trường hợp họ có những hành vi, việc làm gây khó khăn, cản trở

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi khi họ thực thi

nhiệm vụ, làm xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi.

85

3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến các giai

đoạn khởi tố, điều tra, truy tố nhằm bảo đảm quyền lợi của người bị bại

dưới 18 tuổi

Để giải quyết các vụ án xâm phạm tới quyền của người bị hại dưới 18 tuổi

hiện nay nhanh chóng, kịp thời. Hiện nay các cơ quan có thẩm quyền cần ban

hành hướng dẫn cụ thể quy định về giám định khẩn cấp đối với những trường

hợp tố giác tội phạm. Cơ quan có thẩm quyền cần chủ động phối hợp với cơ

quan chuyên môn xây dựng quy trình giải quyết theo hướng khi tiếp nhận tin

báo, tố giác tội phạm nhanh chóng, kịp thời thực hiện các hoạt động: kịp thời thu

giữ dấu vết đặc biệt là lông, tóc, sợi, dịch, máu, quần áo, công cụ trong các vụ án

xâm phạm tình dục, tội cố ý gấy thương tích. hạo hành trẻ em...có bị hại là người

dưới 18 tuổi; phối hợp với Bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý, bác sĩ chuyên khoa

phụ sản, cán bộ đã được đào tạo chuyên môn về quản lý chăm sóc, giáo dục trẻ

en xử lý thông tin ban đầu, thăm khám, thu thập dấu vết, vật chứng có liên quan

trên thân thể nạn nhân để tiến hành giám định pháp y trong thời gian nhanh nhất

nhằm kết luận có hay không có dấu hiệu xâm phạm tình dục, tội cố ý gấy thương

tích. hạo hành trẻ em; công tác khám nghiệm hiện trường cần kịp thời, tỉ mỉ, toàn

diện để đánh giá lời khai của bị hại là có căn cứ hay không, để làm căn cứ đấu

tranh với bị can vì đây là những chứng cứ quan trọng để truy nguyên đối tượng.

Cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn hoặc có văn bản hướng dẫn về vấn đề

khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu

trong vấn đề quy định cụ thể về nội dung, hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình

sự cho phù hợp với thực tiễn hơn. Về vấn đề đơn tố cáo, tố giác tội phạm theo

tác giả nên xác định là một trong những nội dung của yêu cầu khởi tố sau khi

kiểm tra, xác minh vì trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội.

86

Quy định như vậy sẽ thống nhất trong nhận thức của cơ quan THTT trong việc

xác định đơn tố cáo có phải là yêu cầu khởi tố hay không, làm giảm bớt thời

gian, chi phí tố tụng, tránh làm cho bị hại phải gánh chịu thêm những thiệt hại về

tinh thần, uy tín, danh dự do việc khởi tố vụ án gây ra mà vẫn đạt được mục đích

cuối cùng là giáo dục người phạm tội. Cần có hướng dẫn cụ thể trong việc thay

đổi quyết định khởi tố trong trường hợp phát sinh các tình huống phức tạp hay

đưa ra các án lệ, các thông báo rút kinh nghiệm để bị hại có thể dễ dàng hơn

trong việc rút yêu cầu khởi tố.

- Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định giai đoạn điều tra, về vấn đề lấy

lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án hình sự nên có quy định

cụ thể trong việc mời chuyên gia tâm lý tham gia cùng. Trong trường hợp không

mời được cần tập huấn cho các cán bộ các kĩ năng như là quan sát thái độ, cử chỉ

hành động của các em, cần sử dụng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu mà ở nhà

ông bà, bố mẹ hay dùng trao đổi với bị hại… Tự nhiên có tiền hoặc quà, phát

ngôn những từ ngữ mới, vẽ hình ảnh bất thường về tình dục, có phương pháp

tình dục không phù hợp, … để có phương pháp tiếp cận trẻ phù hợp với lời khai

của bị hại là người dưới 18 tuổi.

Về xác định độ tuổi của bị hại quy định tại Điều 417 BLTTHS năm 2015.

Cần có hướng dẫn cụ thể căn cứ xác định tuổi, cách thức xác định tuổi của bị hại

là người dưới 18 tuổi trong trường hợp không có giấy tờ hoặc giấy tờ, tài liệu về

xác định tuổi của họ có mấu thuấn, không rõ rảng. Theo đó, quy định rõ căn cứ

để xác định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi gồm: giấy chứng sinh, giấy khai

sinh, giấy chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, sổ hộ khẩu, lời khai của

cha mẹ, người thân thích, người biết việc, người đại diện, người bảo vệ quyền lợi

của người dưới 18 tuổi và các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi

87

của người đó. Trường hợp không có giấy tờ, tài liệu hoặc giấy tờ, tài liệu xác

định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi có mâu thuẫn, không rõ ràng có thể xác

định chính xác ngày, tháng, năm sinh cho người dưới 18 tuổi thì cơ quan THTT

phải phối hợp với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà trường, đoàn

thanh niên nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động sinh hoạt để lấy lời khai, áp

dụng biện pháp xác minh để xác định chính xác tuổi của người dưới 18 tuổi.

Trường hợp đã áp dụng biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được khoảng

thời gian tháng, quý, nửa năm của năm sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể thì

căn cứ vào khoản 2 Điều 417 của BLTTHS. Trường hợp kết quả giám định tuổi

chỉ xác định được khoảng độ tuổi thì cơ quan THTT lấy tuổi thấp nhất trong

khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi.

- Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan đến giai đoạn truy tố

Về vấn đề trích dẫn cáo trạng, hiện nay việc trích dẫn điều luật trong cáo

trạng là chưa thống nhất, trong thực tế tuy không làm ảnh hưởng đến quyết định

truy tố của Viện kiểm sát. Nhưng theo tác giả để bảo đảm tính nghiêm minh và

thống nhất thì cần phải xem xét vấn đề này trước hết cần tuân thủ đầy đủ và đúng

quy định tại Điều 243 và Điều 461 BLTTHS năm 2015. Bám sát mẫu hướng dẫn

số 144/HS (Ban hành kèm theo quyết định số 15/QĐ – VKSTC ngày 09 tháng

01 năm 2017 của Viện trưởng VKSNDTC. Nghiên cứu kỹ và vận dụng có hiệu

quả Thông báo rút kinh nghiệm số: 811/TB – VKSTC – V1C ngày 18 tháng 11

năm 2014 của VKSNDTC về rút kinh nghiệm một số tồn tại, hạn chế về báo cáo,

chỉ thị ban hành Cáo trạng của VKSND các tỉnh miền trung; Thông tư liên tịch

số 04/2018/TTLT – VKSNDTC – BCA – BQP ngày 19 tháng 10 năm 2018 của

VKSNDTC– Bộ Công an – Bộ Quốc phòng về quy định phối hợp giữa Cơ quan

điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS. Đề

88

xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành một văn bản hướng dẫn chính thức về

“trích dẫn điều luật” trong cáo trạng hoặc là phải thống nhất vận dụng công văn

số 1044/VKSTC – V4 ngày 29/03/2017 của Vụ 4 – VKSNDTC. Theo tác giả

cách tính thời hạn trả hồ sơ để điều tra bổ sung cần có hướng dẫn cụ thể căn cứ

vào khoản 2 điều 174 của BLTTHS năm 2015 và quy định rõ ràng như sau: khi

TA trả hồ sơ điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung là không quá 01 tháng

là giai đoạn thẩm quyền của Tòa trả cho Viện kiểm sát, còn nếu Viện kiểm sát tự

bổ sung được thì trong thời hạn 01 tháng phải tiếp tục truy tố và chuyển hồ sơ

cho TA. Trong trường hợp Viện kiểm sát không thể tự bổ sung thì phải trả hồ sơ

cho Cơ quan điều tra thì lúc này thời hạn phải tính 02 tháng, bởi vì, thời điểm

này hồ sơ vụ án đang trong giai đoạn truy tố thì Viện kiểm sát có quyền quyết

định việc trả hồ sơ và phải tính thời hạn 02 tháng để đủ thời gian thu thập chứng

cứ đối với vụ án được nhập vào.

3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật sâu rộng

trong toàn xã hội về hình sự, hôn nhân gia đình, pháp luật về chăm sóc, giáo

dục, bảo vệ trẻ em và pháp luật về phòng bạo lực gia đình, học đường, xâm

phạm tình dục...

Cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền Luật phòng,

chống bạo lực gia đình; Luật bình đẳng giới; Luật hôn nhân và gia đình; Luật

bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em...nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp

nhân dân về bạo lực gia đình. Giáo dục bình đẳng giới phải được thực hiện ngay

từ trong gia đình đến nhà trường và xã hội để định hình nhận thức; phải nâng cao

nhận thức của cả hai giới về quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với các

thành viên trong gia đình. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về

giới, về tình dục về quyền của trẻ em, một cách sâu rộng có trọng tâm, trọng

89

điểm để bị hại và gia đình của họ nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của

mình trong đấu tranh phòng chống xâm phạm tới quyền lợi, sức khỏe, danh dự,

nhân phẩm của trẻ em. Đề xuất với Bộ giáo dục và đào tạo đưa môn giáo dục

công dân, giáo dục giới tính, giáo dục quyền con người vào chương trình giáo

dục bắt buộc đối với học sinh, sinh viên ngay từ sớm nhằm nâng cao nhận thức

và khả năng tự vệ từ chính đối tượng có nguy cơ bị xâm phạm, bị bạo lực học

đường. Thường xuyên phổ biến những phương thức, thủ đoạn phạm tội và các vụ

việc xảy ra để người dân và tự bản thân trẻ em nâng cao ý thức phòng ngừa;

hướng dẫn cho người dưới 18 tuổi một số biện pháp phòng chống các tội phạm

thường xảu ra ở lứa tuổi chưa thành niên. Thiết lập các đường dây "nóng", hòm

thư tố giác tội phạm để tiếp nhận mọi thông tin, tài liệu liên quan đến các vụ việc

xâm phạm trẻ em. UBND tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Lễ phát động Tháng hành

động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm

2022 với chủ đề: "Đảm bảo an sinh xã hội, tăng quyền năng cho trẻ em gái nhằm

thực hiện bình đẳng giới và xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới". Theo đó, UBND tỉnh

kêu gọi các cấp, các ngành tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ, tự

phòng ngừa xâm hại cho trẻ em; tìm kiếm sự trợ giúp trong trường hợp bị bạo

lực; xử lý nghiêm các vi phạm về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với

bạo lực trên cơ sở giới…Tuy nhiên, trước hết và trên hết, ngay chính trong các

gia đình, những người cha, người mẹ phải luôn quan tâm quản lý, giáo dục,

hướng dẫn con em đừng để trở thành nạn nhân bị xâm hại. Mặt khác, các cấp

chính quyền, ngành chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức

cảnh giác, cung cấp cho trẻ em kiến thức và kỹ năng tự bảo vệ mình, lên án các

hành vi xâm hại tình dục.

90

Trong công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho người

dưới tuổi cần thông tin về tình trạng các tội thường xảy ra xâm phạm trẻ em,

nguyên nhân, hậu quả và những biện pháp phòng, chống tội xâm phạm trẻ em.

Đồng thời, tuyên truyền những vấn đề liên quan đến bổn phận và quyền trẻ em

được quy định trong Luật trẻ em; tuyên truyền, giáo dục cho các em những kiến

thức về sức khỏe, giới tính và các kỹ năng cần thiết chống bị xâm hại và lạm

dụng tình dục, giới thiệu về quy tắc "4 vòng tròn, 5 ngón tay", "vùng cấm trên cơ

thể"; tư vấn pháp luật và tâm lý, cảnh báo đến người dưới 18 tuổi những chiêu

thức mà thủ phạm thường sử dụng. Qua đó giúp người dưới 18 tuổi có thể bảo vệ

mình trước các nguy cơ bị xâm hại

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hình sự,

hôn nhân gia đình, pháp luật về chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em và pháp luật

về phòng, chống xâm phạm người dưới 18 tuổi cho đồng bào dân tộc thiểu số,

vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh hơn

nữa công tác thông tin, tuyên truyền Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai

đoạn 2011 - 2020. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải có kế hoạch,

chương trình ngắn hạn, dài hạn cụ thể trong đó chủ động chú trọng đến việc lồng

ghép nội dung tuyên truyền phòng, chống xâm hại trẻ em vào trong sinh hoạt

thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh hoạt ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt

chuyên đề của tổ chức, đoàn thể các cấp. Hơn ai hết để bảo vệ con em mình

trước nguy cơ bị xâm hại cần nâng cao vai trách nhiệm của cha mẹ và người thân

để tránh những sự việc đau lòng do tội phạm gây nên, cha mẹ cần thường xuyên

quan tâm, chia sẻ với con mình để nhận thấy những thay đổi tâm sinh lý cần

thiết.

91

3.2.4. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất

đạo đức cho Thẩm phán trong bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18

tuổi trong hoạt động xét xử

Đắk Lắk là địa phương ở trên cao nguyên nhưng nằm trong “tốp 5” địa

phương có nhiều án nhất cả nước. TANDTC tập trung làm tốt hơn nữa công tác

tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân; thường xuyên tổ chức việc trao đổi, rút kinh nghiệm công tác xét xử,

đặc biệt là kinh nghiệm xét xử, giải quyết các vụ án về bạo lực đối với người

dưới 18 tuổitrong toàn hệ thống Tòa án.

- Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán: Trước tình hình nêu

trên, một trong những nhiệm vụ trọng tâm công tác được TAND tỉnh Đắk Lắk

xác định, phải xây dựng đội Thẩm phán Tòa án trong sạch vững mạnh, trong đó

việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị, phẩm chất

đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm trong công tác cho Thẩm phán Tòa án

các hai cấp tỉnh Đắk Lắk.

Với yêu cầu đặt ra như trên, TAND tỉnh Đắk Lắk đã và đang tích cực triển

khai thực hiện nhiều giải pháp, trong đó có việc đẩy mạnh việc nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước

ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển

nền kinh tế thị trường, nhiều tội phạm mới trong các lĩnh vực đã xuất hiện. Do

đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xét xử các vụ án hình sự trong các lĩnh

vực của đời sống xã hội, nhất là các tội phạm tham nhũng, chứng khoán, công

nghệ thông tin, tài chính ngân hàng…Ngoài ra cần thường xuyên tổ chức tập

huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức hội thảo, trao đổi, nghiệp vụ

cho Thẩm phán. Mặt khác, ngoài vấn đề về chuyên môn cần tổ chức đào tạo, bồi

92

dưỡng trình độ quản lý, kỹ năng thực hiện công tác dân vận, ngoại ngữ, tin

học...

- Về phẩm chất đạo đức đối với người Thẩm phán: Thẩm phán là công chức

Nhà nước cho nên phải có những phẩm chất cơ bản của cán bộ, công chức nói

chung: “Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

trong hoạt động công vụ” (Điều 15 Luật cán bộ, công chức năm 2008). Thẩm

phán không được làm những Điều quy định tại Điều 77 của Luật Tổ chức TAND

năm 2014 thì mới được coi là có phẩm chất đạo đức. Thẩm phán là chức danh tư

pháp, chuyên làm công tác xét xử nên phải có những tiêu chuẩn đạo đức riêng

(theo khoản 1 Điều 67 Luật tổ chức TAND năm 2014) quy định: có phẩm chất

đạo đức tốt, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và

trung thực”. Người Thẩm phán với lẽ sống cao đẹp, luôn phấn đấu để cố gắng

làm giảm bớt và tiến tới loại bỏ nỗi đau khổ hoặc bất hạnh ra khỏi đời sống con

người, sẽ có khả năng vượt qua khó khăn, sẵn lòng hy sinh lợi ích cá nhân, khắc

phục mất mát trong nghề nghiệp, thì sẽ tất yếu vươn lên trong cuộc sống, vươn

lên trong sự nghiệp và góp phần tạo nên vẻ đẹp cao quý của người thẩm phán.

Người Thẩm phán có trung thực thì mới có dũng cảm để bảo vệ lẽ phải, có trung

thực thì mới không bảo thủ cứng nhắc trong giải quyết công việc được giao.

3.2.5. Đào tạo về trình độ tâm lý học, khoa học giáo dục cho cán bộ điều

tra, kiểm sát viên, thẩm phán

Về phía các cơ quan THTT cần sớm có kế hoạch để giải quyết các vụ án

liên quan đến người dưới 18 tuổi trong đó có nhóm tội xam phạm về nhân phẩm

sức khỏe, danh dự...; thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm trong công tác điều

tra, truy tố, xét xử các vụ án này. Đồng thời, quan tâm sắp xếp các cán bộ theo

hướng chuyên sâu, có tính ổn định theo từng lĩnh vực công tác. Tăng cường việc

93

đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức bổ

trợ. Công tác này được đổi mới và tăng cường với các hình thức đào tạo cần

phong phú, toàn diện như: kết hợp đào tạo trong nước và nước ngoài, đào tạo tập

trung với đào tạo tại đơn vị công tác để tạo nguồn nhân lực có chất lượng. Để đội

ngũ cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đáp ứng yêu cầu trong công

tác giải quyết án hiện nay cần có một kế hoạch cụ thể để chuẩn hóa đào tạo, bồi

dưỡng. Chú trọng đào tạo chuyên sâu và sau đại học để xây dựng đội ngũ cán bộ

giỏi trên từng lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Phối hợp liên kết với

các trường đại học, trung tâm đào tạo khác cùng chuyên ngành để đa dạng hóa

các loại hình đào tạo, bồi dưỡng.

Tăng cường công tác đào tạo, tự đào tạo qua hoạt động thực tiễn như: các

phiên tòa rút kinh nghiệm… Đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào

tạo, bồi dưỡng thẩm phán phù hợp với chuyên môn, công việc và từng ngạch

thẩm phán. Chú trọng truyền đạt các nội dung: kiến thức pháp luật mới, kỹ năng

nghiệp vụ mới, kỹ năng nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận chính trị, pháp luật

quốc tế, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng dân vận… Bảo đảm nội dung kiến thức

truyền đạt vừa rộng, vừa chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn,

lý thuyết và thực hành, giúp thẩm phán nắm vững kiến thức, thành thạo kỹ năng,

ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn. Đồng thời, bảo đảm các Điều tra viên,

Kiểm sát viên, Thẩm phán phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông

nghiệp vụ và thật sự chí công vô tư vì nếu không có một đội ngũ cán bộ vừa giỏi

lý luận vừa giàu kinh nghiệm thực tiễn, có bản lĩnh nghề nghiệp thì không thể

nâng cao chất lượng xét xử được.

Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải thường xuyên tự giác cập

nhập hệ thống văn bản pháp luật trong nước, các văn bản quy định tập quán và

94

thông lệ quốc tế có liên quan đến việc giải quyết án mà có bị hại là người dưới

18 tuổi để áp dụng một cách linh hoạt, hợp lý và chủ động khi giải quyết một vụ

án cụ thể. Nâng cao năng lực cho Hội thẩm nhân dân, Thư ký, Thẩm tra viên,

Điều tra viên, Kiểm sát viên tham gia các vụ việc liên quan đến trẻ em ở cấp

Trung ương và cấp tỉnh với các tài liệu và các lớp tập huấn về điều tra thân thiện

với trẻ em do UNICEF xây dựng và tổ chức.

Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét

xử. Trong phân công nhiệm vụ ở từng bộ phận cũng cần tiêu chuẩn hóa cả về

tiêu chuẩn chuyên môn và tiêu chuẩn ngoại ngữ. Bên cạnh trình độ chuyên môn

nghiệp vụ thì kỹ năng sử dụng tin học cũng giúp cho cán bộ làm công tác điều

tra, truy tố, xét xử nhanh chóng giải quyết công việc, trình bày văn bản khoa học

và đúng quy định. Do vậy, cần chú trọng công tác đào tạo tin học cho cán bộ.

Chú trọng công tác bồi dưỡng lý luận chính trị và đạo đức nghề nghiệp thông

qua việc tuyển chọn, giáo dục và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ.

Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với

việc khắc phục những tồn tại, hạn chế; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển

hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh việc tuyên truyền phong trào thi đua yêu nước,

gương người tốt, các tập thể, điển hình tiên tiến. Tiếp tục bám sát chủ đề “Phụng

công thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân,

học dân” gắn với việc thực hiện “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong

cách Hồ Chí Minh” trong đạo đức, lối sống của cán bộ làm công tác điều tra,

truy tố, xét xử. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ xét xử, các lớp

phổ biến các quy định pháp luật mới ban hành liên quan đến hoạt động giải

quyết án cho cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử. Tăng cường trao đổi,

95

rút kinh nghiệm về án có người bị hại dưới 18 tuổi giữa Cơ quan điều tra,

VKSND, TAND.

Chú trọng hơn nữa công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán

bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử. Tạo điều kiện để các điều tra viên, kiểm

sát viên, thẩm phán tham gia các lớp/khóa tập huấn, đào tạo và đào tạo lại để

nâng cao năng lực cũng như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Các cơ quan

THTT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới nên tổ chức nhiều buổi tọa

đàm về văn hóa pháp đình với sự tham gia của nhiều chuyên gia pháp lý trên các

lĩnh vực như Thẩm phán, Kiểm sát viên, luật sư, giảng viên trường Đại học luật,

nhà báo… để rút ra được nhiều kinh nghiệm trong công tác xét xử đồng thời tự

bản thân các cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử điều chỉnh, tu dưỡng,

rèn luyện bản thân.

Tòa chuyên trách chuyên giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa

thành niên, cán bộ nhất là Thẩm phán Tòa gia đình và người chưa thành niên

phải có kiến thức chuyên môn theo quy định, phải có kiến thức về tâm sinh lý,

kỹ năng sư phạm, làm việc với người dưới 18 tuổi. Hay nói cách khác họ phải

được chuyên môn hóa cao. Cần triển khai ngay việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho

các bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử những kiến thức cơ bản về giáo dục,

tâm lý học, đồng thời bồi dưỡng kỹ năng THTT trong các vụ án có bị hại là

người dưới 18 tuổi, đặc biệt là các vụ án về xâm phạm tình dục, bạo hành trẻ

em...

3.2.6. Chủ động phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án nhân dân với Cơ quan

điều tra, Viện kiểm sát trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các tội

xâm phạm quyền lợi ích của người bị hại dưới 18 tuổi

96

Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ THTT trong việc điều tra, truy tố

và xét xử. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, Tòa án cần thường xuyên trao

đổi, thống nhất nhận thức về các quy định của pháp luật cũng như những vấn đề

còn có ý kiến khác nhau về đánh giá chứng cứ, các tình tiết khách quan của vụ

án, nhất là những vụ án phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm

Để có thể kịp thời nắm bắt được diễn biến của vụ án lên kế hoạch xét xử,

bảo đảm kịp thời giải quyết các vụ có người bị hại dưới 18 tuổi. Cần nâng cao

hiệu quả điều tra, xử lý tội phạm xâm phạm người bị hại dưới 18 tuổi, cần xử lý

nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật, kiên quyết đấu tranh không để lọt tội

phạm. Trong công tác tổ chức các phiên tòa xét xử các vụ án đối với người dưới

18 tuổi, các tòa án cần cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm vừa làm rõ tình tiết của vụ

án, đồng thời bảo đảm thuần phong mỹ tục, các yếu tố văn hóa, bảo vệ danh dự,

nhân phẩm của người dưới 18 tuổi. Hình phạt áp dụng đối với các tội xâm phạm

quyền lợi ích của người dưới 18 tuổi cần phải bảo đảm quy định của pháp luật,

nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đáp

ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các vụ án xâm

phạm quyền lợi ích của người dưới 18 nói riêng.

3.2.7. Nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số lượng

Kiểm sát viên, Luật sư

Một trong những biện pháp bảo đảm quyền con người trong quá trình tố

tụng là có sự đóng góp quan trọng từ Kiểm sát viên và Luật sư. Do đó, cần phải

tăng cường nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số lượng

Kiểm sát viên, Luật sư.

- Đối với Kiểm sát viên: Trong những năm qua, VKSNDTC đã chỉ đạo toàn

ngành tổng kết về lý luận và thực tiễn 50 năm xây dựng và hoạt động của ngành,

97

rút ra những bài học thiết thực về hoàn thiện tổ chức bộ máy, đào tạo cán bộ để

nâng cao chất lượng thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành.

Để nâng cao năng lực tranh tụng của kiểm sát viên, trước hết cần tiếp tục

đào tạo, bồi dưỡng kiểm sát viên: Đào tạo, bỗi dưỡng kiểm sát viên phải được

tiến hành thường xuyên nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ kiểm sát viên trong sạch,

vững mạnh, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN. Nghị quyết số

49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung,

phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư

pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật những kiến thức mới về chính

trị, pháp luật, kinh tế xã hội; có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm

chất đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế

XHCN”.[16] Phải căn cứ vào quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng, nếu mặt nào chưa

đạt tiêu chuẩn theo quy định thì có kế hoạch tiếp tục đưa đi đào tạo, bồi dưỡng

về mặt đó; lựa chọn những kiểm sát viên có triển vọng và khả năng phát triển để

đưa đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu, đào tạo sau đại học. Phải sử dụng hợp lý

nhiều hình thức khác nhau và kết hợp giữa các hình thức với nhau trong đào tạo,

bồi dưỡng kiểm sát viên. Những kiểm sát viên trẻ, có triển vọng, trong quy

hoạch lâu dài cần đưa đi đào tạo chính quy tập trung; đối với kiểm sát viên trên

40 tuổi chủ yếu áp dụng các hình thức bồi dưỡng với thời gian ngắn.

Việc bồi dưỡng kiểm sát viên cần thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng

ngắn hạn với nội dung chủ yếu nhằm bổ sung những kiến thức mới, chuyên sâu,

những kỹ năng nghiệp vụ về các lĩnh vực hình sự, dân sự… như kỹ năng tranh

tụng tai phiên tòa, kỹ năng viết cáo trạng và luận tội,…về công tác quản lý, chỉ

đạo điều hành, kinh nghiệm giải quyết các vụ việc phức tạp của các đơn vị, địa

98

phương trong toàn quốc; những vấn đề có vướng mắc trong thực tiễn áp dụng

pháp luật.

Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, cần động viên,

khuyến khích cán bộ, kiểm sát viên theo học các lớp cao học luật, cao cấp lý luận

chính trị, quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ… để không ngừng nâng cao kiến

thức, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược

Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ tầm quan trọng của việc đào tạo,

bồi dưỡng Luật sư: “Đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, có phẩm

chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn”. Một trong những định hướng

quan trọng được nêu lên trong Nghị quyết số 49 là “phát triển đội ngũ Luật sư đủ

về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn nhằm đáp

ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của

Luật sư, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế”.

Là một địa bàn vùng sâu, xa như tỉnh Đắk Lắk, đoàn Luật sư tỉnh chỉ có 56

người thì không thể đáp ứng được yêu cầu tranh tụng trong quá trình giải quyết

vụ án, bảo đảm được quyền của bị can, bị cáo. Đồng thời với việc tăng cường số

lượng cần quan tâm đến chất lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi

tuyển phải bảo đảm các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật

sư; chế độ miễn cho những người THTT (Thẩm phán, Kiểm sát viên, điều tra

viên và các đối tượng khác) cũng phải có tiêu chí cụ thể chứ không phải ai cũng

được miễn như quy định hiện nay. Cần có quy định bảo vệ Luật sư khi hành

nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi phạm pháp luật và đạo đức

nghề nghiệp.

99

3.2.8. Nâng cao sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ

chức thành viên, cơ quan báo chí đối với hoạt động xét xử các vụ án hình sự

xâm phạm quyền lợi của người chưa thành niên

Theo khoản 1 Điều 26 Luật mặt trận tổ quốc Việt Nam năm 2015 thì “Đối

tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan nhà nước, tổ chức, đại

biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức”. Ngoài ra, Mặt trận tổ quốc Việt Nam

còn tham gia việc “Tiếp công dân, tham gia công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,

đặc xá, cử bào chữa viên nhân dân” (Điều 18), Tham gia việc tuyển chọn thẩm

phán (Điều 20). Do đó, việc tăng cường giám sát cảu Mặt trận tổ quốc Việt Nam

và các tổ chức thành viên đối với hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét

xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng là rất quan trọng. Thông qua việc giám

sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động xét xử các vụ án hình

sự nhằm xử lý kịp thời đúng pháp luật đối với người có hành vi vi phạm pháp

luật, không để xảy ra tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm, xâm phạm nghiêm

trọng đến quyền con người của bị can, bị cáo.

Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Bộ Chính trị đã giải mật Nghị

quyết 49 về chiến lược Cải cách tư pháp. Các thảo luận cải cách đã đi đến nhận

thức mới về vai trò của báo chí và tháng 8-2014, Ban Chỉ đạo đã ban hành Kế

hoạch 38 đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, nhiệm vụ Cải

cách tư pháp và hoạt động tư pháp.

Thời gian qua báo chí đóng góp phần quan trọng đối với quá trình cải cách

tư pháp nước nhà. Nước ta tuy có hệ thống giám sát, kiểm sát hoạt động tư pháp

nhưng thường thì những việc báo chí điều tra kỹ lưỡng, phân tích sâu sắc, phản

biện mạnh mẽ sẽ được quan tâm chỉ đạo làm rõ hơn. Báo chí tạo áp lực, thúc ép

các cơ quan chức năng vào cuộc. Thông qua việc phản ánh, phân tích những vụ

100

án oan ấy, báo chí còn giúp cơ quan tố tụng và cơ quan giám sát kịp thời phát

hiện lỗ hổng pháp luật để bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện nền tố tụng tiệm cận

với công lý…

3.2.9. Đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động của Thẩm phán

và cán bộ tòa án

Về điều kiện làm việc của Thẩm phán: Hiện nay nhiều địa phương Thẩm

phán làm việc trong điều kiện khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Để đảm bảo

được hoạt động của Thẩm phán, trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa cơ

sở vật chất cho ngành Tòa án. Cụ thể như xây dựng mới, sửa chữa các trụ sở làm

việc đã quá cũ, xuống cấp; đảm bảo phòng làm việc cho Thẩm phán và các

phương tiện phục vụ cho hoạt động của Thẩm phán như máy vi tính, bàn làm

việc... Ngoài ra, cần bố trí hội trường xét xử rộng rãi, được trang trí thể hiện tính

trang nghiêm của phiên tòa. Cần có các thiết bị phục vụ cho việc xét xử tại phiên

tòa như loa, đài, micrô, hệ thống ghi âm, ghi hình, truyền thanh và truyền hình

cho đông đảo nhân dân theo dõi.

Về tiền lương đối với Thẩm phán: Chế độ tiền lương đối với cán bộ, công

chức ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng còn chưa thực sự tương

xứng với tính chất công việc đặc thù của ngành Tòa án. Chế độ tiền lương đối

với Thẩm phán còn thấp nên chưa thể hiện đúng sự quan tâm của Đảng và Nhà

nước đối với hoạt động xét xử và yêu cầu công tác phòng chống tham nhũng và

cải cách tư pháp; chưa có tác dụng khuyến khích, động viên cán bộ, công chức

Tòa án yên tâm công tác, tận tụy với nghề, nâng cao tinh thần trách nhiệm và

thái độ phục vụ nhân dân, phấn đấu rèn luyện tu dưỡng đạo đức; chưa phải là

bảo đảm hữu hiệu để Tòa án thực hiện nguyên tắc "Khi xét xử, Thẩm phán và

Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Chính vì vậy, việc đổi mới chế độ

101

tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức

ngành TAND cần được cải tiến nhằm khuyến khích Thẩm phán, cán bộ, công

chức ngành TAND tận tâm, tận lực, yên tâm, gắn bó với ngành và hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tham

nhũng.

- Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc phát sinh từ việc áp dụng các quy

định của pháp luật hình sự trong giải quyết, xét xử các tội phạm bạo lực đối với

người dưới 18 tuổi, cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi quy định về các tội phạm

xâm hại tình dục trong Bộ luật hình sự theo hướng sau đây:

+ Đề nghị bổ sung thêm "Tội quấy rối tình dục” vào Chương XIV Bộ luật

hình sự năm 2015 “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự

của con người” nhằm xử lý, ngăn chặn các hành vi quấy rối tình dục.

+ Bổ xung thêm hành vi hiếp dâm với người từ đủ 10 tuổi đến dưới 13

tuổi quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự.

+ Nghiên cứu, bổ xung thêm quy định người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi

phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi

đến dưới 16 tuổi (Tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và tội

Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 145, Điểu 146 Bộ luật

hình sự)

+ Bổ xung thêm trình tự, thủ tục công khai việc xin lỗi người bị hại quy

định tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015.

102

Tiểu kết chương 3

Ở Việt Nam vấn đề bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi được xác

định tại Điều 37 Hiến pháp năm 2013, Luật trẻ em năm 2016, BLHS năm 2015

(sửa đổi, bổ sung 2017) quy định tại chương XII với tên gọi: “Những quy định

đối với người bị hại dưới 18 tuổi” (từ điều 90 đến điều 107), BLTTHS năm 2015

quy định.

Đảm bảo quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại tòa án là

một nhu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay các vụ án xâm phạm quyền lợi ích

của người dưới 18 tuổi đang gây bức xúc trong dư luận xã hội. Tác giả đã trình

bày những nội dung như sau:

Thứ nhất, tác giả đã trình bày những quan điểm liên quan đến vấn đề bảo

đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm quyền lợi ích của

người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND thể hiện sự nỗ lực của

Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện đảm bảo quyền con người nói chung và

bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm quyền

lợi ích của người dưới 18 tuổi nói riêng.

Thứ hai, trên cơ sở thực trạng luận văn đã đề xuất những giải pháp hoàn

thiện các quy định của pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền của bị hại dưới 18

tuổi trong hoạt động xét xử, đồng thời đề ra những giải pháp tăng cường nhận

thức về bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong trong hoạt động

xét xử tại tòa án. Đây là những giải pháp dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã

được đánh giá trong chương 2.

103

KẾT LUẬN

Bảo vệ chăm sóc giáo dục người dưới dưới 18 tuổi là vấn đề được Đảng và

Nhà nước ta quan tâm trong suốt sự nghiệp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam để phù hợp với pháp luật quốc tế và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền

trong giai đoạn hiện nay. Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi là bị hại

trong các vụ án thể hiện ở sự thống nhất trong những quy định của pháp luật

hình sự về các biện pháp tư pháp, về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện

quyền của người dưới 18 tuổi theo những tính chất, đặc thù vốn có.

Trong thời gian qua, tình trạng tội phạm xâm phạm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi tuổi diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng, nhiều vụ việc

nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận xã hội như các tội xâm phạm tình dục,

bạo lực gia đình, xâm phạm sức khỏe, danh dự uy tín nhân phẩm của người dưới

18 tuổi. Bên cạnh đó việc triển khai các quy định của BLHS, BLTTHS, các đạo

luật có liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng gặp một số khó khăn,

vướng mắc nhất định.

Đắk Lắk là một tỉnh vùng cao là trung tâm kinh tế của vung Tây

Nguyên,trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu về mặt kinh tế - xã hội

đucợ sựu quan tâm của Đảng, Nhà nước, Đắk Lắk vẫn gặp phải không ít khó

khăn, thách thức do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, mà đáng chú ý

là sự gia tăng tỷ lệ tội phạm, trong đó có các tội xâm phạm tới quyền lợi ích hợp

pháp của người dưới 18 tuổi cần phải bảo vệ nghiêm minh. Điều này đặt ra áp

lực không nhỏ đối với các CQTHTT trong việc bảo đảm quyền con người, đặc

biệt là đảm bảo quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử tại tóa án nhân dân

104

tỉnh. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả đã nghiên cứu những nội dung như

sau:

Trong Chương 1, luận văn đã hệ thống hóa phân tích các khái niệm công

cụ, chỉ rõ đặc điểm, ý nghĩa của việc cần phải bảo đảm quyền lợi cho người bị

hại dưới 18 tuổi trong xét xử. Làm rõ những quy định của BLTTHS Việt Nam về

bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tới quyền lợi

ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi thông qua những nội dung: quy định của

BLTTHS Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn

tiền khởi tố và khởi tố; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử của

TAND.

Chương 2, luận văn đã làm rõ thực trạng thông qua: khái quát những nội

dung liên quan đến các vụ án xâm phạm tới quyền lợi ích hợp pháp của người

dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, thực trạng bảo đảm quyền của bị hại là

người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thông qua

những nội dung và đúc kết những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong

đảm bảo quyền của người bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của

TAND tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3, luận văn đã luân cứ các quan điểm liên quan đến vấn đề bảo đảm

quyền của bị hại dưới 18 tuổi các vụ án xâm phạm tới sức khỏe, danh dự...trong

hoạt động xét xử của TAND, thể hiện sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong

việc thực hiện đảm bảo quyền con người nói chung và bảo đảm quyền của bị hại

là người dưới 18 tuổi trong các vụ án hình sự nói riêng. Trên cơ sở thực trạng

luận văn đã đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về

vấn đề bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử

của TAND tỉnh Đắk Lắk, đồng thời đề ra những giải pháp tăng cường nhận thức

105

về bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của

TAND tỉnh Đắk Lắk thời gian tới.

106

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Huỳnh Thị Kim Ánh (2020), “Bàn về nội dung và phương hướng hoàn

thiện chính sách pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội”, Tạp chí An ninh nhân dân, Số 96, 5/2020.

2.Hồng Anh (2013), Những vấn đề đặt ra đối với việc thực thi các bảo đảm

tố tụng với bị can, bị cáo theo Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

3.Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2010 về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định

hướng năm 2020, Hà Nội.

4.Trương Hòa Bình (2013), “Một số nội dung đổi mới thủ tục hành tư

pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.

5. Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Bảo đảm quyền con người, quyền

công dân – tư tưởng xuyên suốt trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trong”,

Nxb Chính trị quốc gia.

6.Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

7. Lê Văn Cảm (2014), “Về quyền tư pháp và các nguyên tắc cải cách tư

pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”, Tạp chí

Tòa án nhân dân, Hà Nội.

8. Lê Văn Cảm, Hoàng Tám Thi (2017), “Chính sách pháp luật Tố tụng

hình sự và chế định các nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Ấn

phẩm An ninh xã hội của Tạp chí Công an nhân dân, số 10/2017, trang 61.

9.Đỗ Tiến Dũng (2014), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn

tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt

107

Nam, Hà Nội.

10. Đinh Văn Đoàn (2017), “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi

trong pháp luật tố tụng Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2017.

11.Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền

dân sự chính trị.

12.Đại Hội đồng Liên hiệp quốc (1989), Công ước quốc tế của Liên hiệp

quốc về Quyền trẻ em, theo Nghị quyết 44-25 ngày 20/11/1989 của Đại Hội

đồng Liên hiệp quốc, Việt Nam phê chuẩn ngày 20/2/1990.

13. Đại Hội đồng Liên hiệp quốc (1989), Công ước quốc tế về Quyền trẻ

em, điểm VII khoản 2 Điều 40 và Liên Hiệp Quốc 1985, Các quy tắc tiêu chuẩn

tối thiểu của Liên Hiệp Quốc về hoạt động Tư pháp đối với người chưa thành

niên.

14. Vũ Công Giao (2013), Chế định quyền con người, quyền công dân

trong Hiến pháp năm 2013.

15. Nguyễn Sơn Hà (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là trẻ em trong

điều tra các vụ án xâm hại tình dục của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an

quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Pháp luật về quyền con

người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

16. Nguyễn Xuân Hà (2016), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành

niên, trong “Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”,

17. Trần Thu Hạnh (2018), “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động

xét xử vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa

học, Đại học quốc gia Hà Nội: Luật học, số 3, tr 54 – 59;

18. Nguyễn Thị Loan, Trần Thị Thanh Hằng (2021) Thủ tục tố tụng hình

sự đối với người dưới 18 tuổi, 02/11/2021, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học

108

Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

19. Nguyễn Quang Hiền (2009), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng

hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

20. Trương Minh Hiếu (2018), Bào chữa chỉ định theo pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ

Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, HVKHXH.

21. Nguyễn Huy Hoàn (2015), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động

tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

22.Hội đồng thẩm phán TANDTC (2019), Nghị quyết số 06/NQ-HĐTP

ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một

số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 Bộ luật hình sự và

việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.

23. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình cao cấp

lý luận chính trị: Lý luận pháp luật về quyền con người, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

24. Phạm Mạnh Hùng (2002), Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình

sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại

học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

25. Nguyễn Thanh Hương (2020), “Nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời

khai bị hại trong các vụ án mua bán người của Kiểm sát viên”, Tạp chí Khoa

học Kiểm sát, số 02/2020.

26. Phạm Lê Liên (2015), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Hồng Đức,

Hà Nội.

27. Vũ Duy Linh (2020), “Lịch sử hình thành và phát triển các quy định

109

về bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí

Khoa học Kiểm sát số 02/2020. Số chuyên đề tháng 4/2020.

28. Nguyễn Thị Lộc (2019), Quyền riêng tư của người bị hại dưới 18 tuổi

trong tố tụng hình sự. Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

29. Phan Thị Thanh Mai (2015), “Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy

định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người

dưới 18 tuổi”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02/2020.

30. Trương Thị Hương Mai (2008), Bảo đảm quyền trẻ em trong kiểm sát

điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ Luật

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

31. Nguyễn Hải Ninh (2019) “Pháp luật tố tụng hình sự đối với việc bảo

đảm quyền con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi”, Tạp chí nghiên cứu

lập pháp, số 08.

32.Đỗ Thị Phượng (2008), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên

trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

33. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Công báo/số 1003 +

1004/ngày 29/12/2013, Hà Nội.

34. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

35. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội;

36. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội;

37. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hành chính, NXB Tư pháp, Hà

Nội

38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110

39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

Tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Quốc hội (2016), Luật trẻ em 102/2016/QH13, Hà Nội.

41.Quốc hội (2020), Báo cáo số 69/BC-ĐGS ngày 19/5/2020 của Đoàn

giám sát Quốc hội khóa XIV về báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính

sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em”;

42. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về

cải cách hệ thống tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp

quyền, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

43. Nguyễn Văn Tám (2013), Vị trí, vai trò của TAND trong thể chế Nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

44. Nguyễn Chí Tâm (2018), Phòng, chống xâm hại trẻ em của Công an

huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

45. Diệp Huyền Thảo (2015), ''Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

trên địa bàn tỉnh Trà Vinh - thực trạng và dự báo'', Tạp chí nhà nước và pháp

luật,(6) tr.23-29.

46. Nguyễn Hữu Thịnh (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là người dân

tộc thiểu số trong điều tra các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

47. Tòa án nhân dân

tối cao (2017), Thông tư số 01/2017/TT-

TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về

phòng xử án.

111

48. Tòa án nhân dân tối cao (2018) Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC

ngày 21/9/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Quy định chi tiết việc

xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc

thẩm quyền của Tòa án gia đình và người chưa thành niên.

49. Tòa án nhân dân tối cao (2018) Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-

VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKSNDTC,

Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động- Thương binh

và Xã hội quy định về thủ tục tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

người dưới 18 tuổi.

50.Tòa án nhân dân tối cao (2002, 2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao

động, Hà Nội.

51.Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2018), Quyết định số 379/QĐ-TA ngày

17/12/2018 của Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc phân công Chánh án và

các Phó Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk/

52.Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2018) Báo cáo tổng kết công tác năm

2018 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2019 của các tòa án nhân dân hai

cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

53. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm

2019 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2020 của các tòa án nhân dân hai

cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

54. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm

2020 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2021 của các tòa án nhân dân hai

cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

55. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2021), Báo cáo tổng kết công tác năm

2021 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2022 của các tòa án nhân dân hai

112

cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

56. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2022), Báo cáo tổng kết công tác năm

2022 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 của các tòa án nhân dân hai

cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.

57. Vũ Xuân Tuân (2018), Bảo vệ quyền trẻ em bị xâm hại tình dục tại các

tỉnh Tây Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

58. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận chung về nhà

nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

59. Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ,

bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học luật

Thành phố Hồ Chí Minh.

60. Đào Trí Úc (2013), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

theo Hiến pháp năm 2013.

61. Nguyễn Thị Bích Vân (2016), Bảo đảm quyền con người của người

chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại

địa bàn Hà Giang), Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà

Nội.

62. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình lý luận chung về định tội danh,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

63. Võ Khánh Vinh (2015), Giáo trình quyền con người, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

64. Đặng Bá Vinh (2018), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm

giam trong điều tra các tội phạm về ma túy của Công an tỉnh Bắc Giang, Luận

văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí

113

Minh.

114