BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK - 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
MÃ SỐ: 8 38 01 02
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Văn Dương
ĐẮK LẮK - 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực.
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Hồng Nhung
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và luận văn này, tác giả đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của Quý thầy cô tại Học viện Hành
chính Quốc gia. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô tại Học
viện Hành chính Quốc gia, Ban Quản lý đào tạo sau Đại học đã tạo điều kiện tốt
nhất về cơ sở vật chất và đảm bảo chất lượng giảng viên giảng dạy trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Người hướng dẫn khoa học TS.
Đỗ Văn Dương đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu,
cung cấp tài liệu giúp tác giả hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tuy đã có nhiều cố gắng và tận tâm trong quá trình nghiên cứu luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến quý báu của Quý Thầy Cô và các bạn.
Để đáp lại tấm chân tình đó, tôi sẽ cố gắng vận dụng các kiến thức mà mình
đã được trang bị vào thực tiễn công việc một cách có hiệu quả nhất nhằm đem lại
lợi ích cho mình và cộng đồng.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ....... 12 1.1. Khái niệm, đặc điểm của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại
Toà án nhân dân cấp tỉnh ............................................................................................... 12
1.2. Các nguyên tắc bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động
xét xử của Toà án nhân dân ............................................................................................ 26
1.3. Nội dung quy định của pháp luật bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ........................................................................... 30
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân ............................................................................................ 41
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
........................................................................................................................................ 48 2.1. Tổng quan về các vụ án xâm phạm người bị hại dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk .......................................................................................................................... 48
2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét
xử của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ........................................................................... 51
2.3. Đánh giá chung thực tiễn bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong
hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk .................................................... 64
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI
BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK ................................................................................................ 75 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ........................................................................... 75 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét
xử tại Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ............................................................................. 82
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 107
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng
THTT Tiến hành tố tụng
TTHS Tố tụng hình sự
TAND Tòa án nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
VAHS Vụ án hình sự
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Tên bảng Trang
Nội dung Thống kê tình hình các tội xâm phạm quyền lợi
người dưới 18 tuổi xét theo tội danh căn cứ vào số Bảng 2.1 54
liệu của TAND tỉnh Đắk Lắk
Bảng 2.2 Phương thức, thủ đoạn phạm tội 56
Độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các
vụ án xâm hại trẻ em trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai Bảng 2.3 56
đoạn 2018 – 2022
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 14 Hiến pháp năm 2013
được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013).
Quyền con người cũng là một trong những nội dung và mục tiêu của xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta. Xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân; Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc
xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân
trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; Hoàn thiện chế độ
bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó
có việc bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của
tòa án nhân dân (TAND) là hết sức quan trọng. Bởi lẽ, người dưới 18 tuổi là
nhóm người đang trong quá trình phát triển cả về tâm lý, sinh lý và ý thức, với
kinh nghiệm cuộc sống còn ít ỏi, khả năng nhận thức và hiểu biết pháp luật còn
có những hạn chế. Người dưới 18 tuổi khó tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình khi tham gia vào một số quan hệ pháp luật nhất định, trong đó có quan
hệ pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Do đó, khi tham gia vào hoạt động TTHS
với tư cách người bị hại, người dưới 18 tuổi là chủ thể đặc biệt, rất cần những cơ
chế đặc thù để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của quyền con người, nhất là quyền của
1
người bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử của toà án. Trong những năm
qua hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk luôn xác định bảo đảm quyền con
người nhất là bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử phải
được đặt lên hàng đầu, đã có những bước tiến rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đạt được, thực tiễn quá trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm quyền
của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án nhân của tỉnh
Đắk Lắk vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết và bất cập. Cơ chế đảm bảo quyền
của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án chưa rõ ràng, còn nhiều yếu kém
nhất định như quá trình giải quyết vụ án hình sự có dấu hiệu quá tải, các cơ quan
THTT vẫn còn một số thiếu sót nhất định; bị hại là người dưới 18 tuổi trong các
vụ án hình sự chưa có nhận thức đúng đắn về việc tự bảo vệ mình trước sự pháp
luật,…. Những hạn chế trong bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong
hoạt động xét xử của TAND của tỉnh Đắk Lắk do những nguyên nhân khách
quan và chủ quan của quá trình thực thi và áp dụng pháp luật của nhận thức và ý
thức trách nhiệm của CQTHTT, người THTT. Vì vậy, cần nghiên cứu để có
những giải pháp căn cơ, góp phần bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi
trong hoạt động xét xử của TAND là cần thiết và cấp bách.
Chính xuất phát từ những lý do trên, nên tác giả chọn nghiên cứu đề tài:
“Bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật Hiến pháp
và Luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con
người trong TTHS nói chung và bảo đảm quyền con người của người chưa thành
2
niên trong TTHS nói riêng, trong đó có quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi.
Về cơ bản, các công trình này có thể được chia thành hai nhóm sau:
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong
tố tụng hình sự. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
- Vũ Công Giao (2013)[14], Chế định quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, tác giả đã phân
tích một số điểm mới về chế định quyền con người trong đó có một số quyền liên
quan đến hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo
đảm quyền con người như quyền bình đẳng trước pháp luật; cấm tra tấn, bạo lực,
truy bức, nhục hình; quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị
kết án hai lần cho cùng một tội; quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa...
- Đào Trí Úc (2013), Bảo đảm quyền con người trong TTHS theo Hiến pháp
năm 2013 của đã phân tích cơ sở lý luận, nội dung, các quan điểm khác nhau về
nguyên tắc suy đoán vô tội trên thế giới và trong luật hình sự quốc tế. Trên cơ sở
đó, tác giả bình luận nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013 và
trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành [60].
- Vũ Hồng Anh (2013), Những vấn đề đặt ra đối với việc thực thi các bảo
đảm tố tụng với bị can, bị cáo theo Hiến pháp năm 2013 của thì cho rằng, để triển
khai thi hành Hiến pháp về các biện pháp bảo đảm quyền của bị can, bị cáo cần
chú ý làm sáng tỏ nhiều vấn đề như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh
tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án.
- Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
cáo trong TTHS Việt Nam của tác giả đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận
về quyền con người và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong TTHS. Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh
3
[59].
- Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Bảo đảm quyền con người, quyền
công dân – tư tưởng xuyên suốt trong Bộ luật TTHS năm 2015”, Nxb Chính trị
quốc gia, tr.40. Sách chuyên khảo [5].
- Nguyễn Huy Hoàn Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở
Việt Nam hiện nay của đã nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện
về vấn đề đảm bảo quyền con người trong đó có quyền của bị cáo trong hoạt động
tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm và
nội dung của những đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp trong đó
đề cập đến bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự
của TAND; khái quát thực trạng đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư
pháp ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm, giải pháp tiếp
tục bảo đảm quyền con người (trong đó có quyền của bị cáo) trong hoạt động tư
pháp ở Việt Nam hiện nay [21].
Ngoài ra còn có các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ như: Bảo đảm quyền
của bị can, bị cáo là người; chưa thành niên trong TTHS, của Phan Thị Thanh
Tâm (2017), Luận án tiến sĩ luật học, HVKHXH; Bùi Bảo Trâm (2008), Nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị; tạm giữ, bị can, bị cáo, Luận văn
thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội; Ngô Thị Thanh (2013), Bảo đảm
quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, Đại học quốc gia Hà Nội;
Võ Thị Khánh Hoài (2015), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
Các công trình này tập trung phân tích cơ chế bảo đảm quyền con người của
các chủ thể khác nhau trong các hoạt động khác nhau của TTHS. Trong các công
trình này, việc bảo đảm quyền của người chưa thành niên nói chung và bị hại là
4
người chưa thành niên nói riêng mới chỉ được đề cập ở mức khái lược, mang tính
chất giới thiệu chung chứ chưa khảo cứu sâu hơn.
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền của người bị hại
dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án. Có thể kể đến một số công
trình tiêu biểu như:
- Nguyễn Thị Loan, Trần Thị Thanh Hằng (2021) Thủ tục tố tụng hình sự
đối với người dưới 18 tuổi [18]. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả trình
bày, phân tích các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề
này. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần,
là những người đang ở độ tuổi phát triển, đang trong quá trình hoàn thiện về thể
chất, tâm sinh lý cũng như nhân cách sống. Trong tiến trình cải cách tư pháp tại
Việt Nam, việc hoàn thiện các quy định về tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội rất cấp thiết, không chỉ là để tiệm cận gần hơn các quy định của luật
pháp quốc tế mà còn nhằm đảm bảo tốt nhất quyền con người, đặc biệt là quyền
của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
- Nguyễn Xuân Hà (2016), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên,
trong “Những nội dung mới trong Bộ luật TTHS năm 2015”, Nxb Chính trị quốc
gia, tr.352 [16].
- Nguyễn Thị Lộc (2019) [28]. Quyền riêng tư của người bị hại dưới 18
tuổi trong TTHS. Bài viết nghiên cứu về người bị hại dưới 18 tuổi, quy định về
quyền riêng tư và các quy định bảo vệ quyền riêng tư của người bị hại dưới 18
tuổi theo quy định của pháp luật quốc tế và một số luật chuyên ngành của Việt
Nam. Từ đó đối chiếu với thực tế xâm hại quyền riêng tư của người bị hại dưới
5
18 tuổi hiện nay và đưa ra một số kiến nghị. Tạp chí Khoa học Kiểm sát số
4/2021.
- Phan Thị Thanh Mai (2015), Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định
của Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Quy
định của Bộ luật TTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
đã có những bổ sung, thay đổi đáng kể nhằm khắc phục những bất cập trong quy
định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục này nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất
định. Những hạn chế đó không chỉ không bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người
dưới 18 tuổi mà còn làm cho việc giải quyết vụ án khó đạt hiệu quả cao [29].
- Vũ Duy Linh (2920), Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về bị
hại trong TTHS Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện. Bài báo tập trung làm rõ sự
hình thành và phát triển của các quy định về bị hại trong hệ thống pháp luật Việt
Nam qua các giai đoạn khác nhau. Trong mỗi giai đoạn, bị hại đều có những đặc
trưng riêng về khái niệm cũng như địa vị pháp lý của họ [27] .
- Nguyễn Thanh Hương (2020), Nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai
bị hại trong các vụ án mua bán người của Kiểm sát viên. Trong các vụ án mua
bán người, lời khai của bị hại được coi là nguồn chứng cứ phổ biến, gần như là
điểm xuất phát, cơ sở để các cơ quan THTT tiến hành điều tra, xác minh, thu
thập các nguồn chứng cứ liên quan khác. Bài viết tập trung phân tích một số khó
khăn, thách thức trong hoạt động lấy lời khai người bị hại trong các vụ án mua
bán người, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này
[17].
- Trương Minh Hiếu (2018), Bào chữa chỉ định theo pháp luật TTHS Việt
Nam cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn thạc sĩ Luật học, HVKHXH [20].
6
- Trần Thu Hạnh (2018), “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự theo Bộ luật TTHS năm 2015”, Tạp chí Khoa học đại học quốc gia
Hà Nội: Luật học, số 3, tr 54 – 59 [174].
- Nguyễn Hải Ninh (2019) “Pháp luật TTHS đối với việc bảo đảm quyền con
người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 08
[31].
- Nguyễn Thị Bích Vân (2016), Bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn
Hà Giang), Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội [61].
- Vũ Xuân Tuân (2018), Bảo vệ quyền trẻ em bị xâm hại tình dục tại các tỉnh
Tây Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh [57].
- Nguyễn Chí Tâm (2018), Phòng, chống xâm hại trẻ em của công an huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ luật hoc, Học viện quốc gia Hồ Chí
Minh [44].
- Nguyễn Hữu Thịnh (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là người dân tộc
thiểu số trong điều tra các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh [46]. Ngoài ra còn có các bài tạp tạp chí nghiên cứu khoa học như:
“Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Trà Vinh – thực
trạng và dự báo”, của tác giả Diệp Huyền Thảo (2015), Tạp chí nhà nước và pháp
luật, số 06, tr. 23 – 29.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, nghiên cứu đến nhiều góc độ khác
nhau và có những đóng góp nhất định vào lý luận và thực tiễn trong việc bảo vệ
quyền con người nói chung và bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi
7
trong hoạt động xét xử của tòa án nói riêng ở nước ta hiện nay. Các công trình đã
phân tích một cách hệ thống và tương đối toàn diện về vấn đề bảo vệ quyền con
người nói chung và bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt
động TTHS. Tuy nhiên, đến nay, dưới góc độ chuyên ngành Luật Hiến pháp và
luật hành chính, chưa có một công trình nào nghiên cứu về "Bảo đảm quyền của
người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk". Vì
vậy, đây là đề tài nghiên cứu không trùng lắp, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn,
góp phần bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử
của TAND tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của
người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND, đánh giá đúng thực
trạng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của
TAND tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền của người bị hại
dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi
trong hoạt động xét xử của TAND cấp tỉnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18
tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những ưu điểm, hạn
chế cũng như nguyên nhân của thực trạng này.
- Phân tích, luận chứng các quan điểm và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm
bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND
tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của
người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk dưới
góc độ của chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Phạm vi về nội dung: Với mục đích nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề,
luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền của
người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu bảo đảm quyền của
người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2018 đến năm 2022.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật và quan điểm của Đảng về Nhà ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ
thể như:
Chương 1: Sử dụng những phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để
làm rõ hơn phần lý luận của đề tài.
Chương 2: Sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh để đánh giá
thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt
động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.
9
Chương 3: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để đề xuất giải pháp
nhằm bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại
Tòa TAND tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Về mặt lý luận, đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về quyền con
người trong TTHS của đối tượng bị hại là người dưới 18 tuổi, góp phần làm rõ
những thuật ngữ, khái niệm có liên quan, phân tích, làm rõ những quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu luận văn giúp phân tích, làm rõ thực trạng bảo đảm quyền
của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.
Xác định rõ vai trò trách nhiệm của Toà án trong việc đảm bảo quyền con người;
nhận diện việc vi phạm quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự, đánh
giá thực trạng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét
xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành
cho cong tác nghiên cứu, giảng dạy pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn
còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực
tiễn đang công tác tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật;
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi
10
trong hoạt động xét xử của TAND
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong
hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18
tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk thời gian tới.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm Bị hại
Bộ luật TTHS 2015, tại Khoản 1, Điều 62 quy định khái niệm bị hại thay
cho người bị hại, theo đó "Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm
gây ra hoặc đe dọa gây ra" [36].
Theo quy định này, bị hại bao gồm cả cá nhân và cơ quan, tổ chức; thiệt hại
do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Tuy
nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng hậu quả của sự thiệt hại của bị hại không phải là
điều kiện bắt buộc trong mọi trường hợp. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
cho bị hại phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra
cho bị hại. Đây là điều kiện rất quan trọng giúp chúng ta phân biệt giữa bị hại
với nguyên đơn dân sự trong các vụ án hình sự. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp bị thiệt hại chỉ được tham gia vào quá trình tố tụng với tư cách là
bị hại chỉ khi được các cơ quan THTT thừa nhận.
Như vậy, dưới góc độ pháp luật hình sự (luật hình sự và TTHS), khái niệm
bị hại được hiểu như sau: "Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm
12
gây ra hoặc đe dọa gây ra". Trường hợp bị thiệt hại do vi phạm hành chính hoặc
vi phạm pháp luật dân sự gây ra thì thông thường không gọi là bị hại mà dùng
khái niệm "người bị thiệt hại".
- Đặc điểm tố tụng của bị hại trong điều tra vụ án trộm cắp tài sản:
+ Thứ nhất, bị hại khi tham gia vào TTHS để bảo vệ quyền và lợi ích của
bản thân liên quan đến vụ án.
Đặc điểm này được hiểu một khi bị hại tham gia vào quan hệ TTHS họ chỉ
xem trọng và đặt vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân. Bởi vì, bị hại là
người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất so với
những người tham gia vào tố tụng khác và cũng vì quyền và lợi ích của bản thân
bị thiệt hại nên có thể bị ảnh hưởng nhiều đến việc cung cấp lời khai của họ, việc
đưa ra đồ vật, tài liệu và yêu cầu có liên quan đến vụ án trong đó làm sao trong
quá trình giải quyết vụ án phải đảm bảo được quyền, lợi ích của bản thân như họ
muốn. Trong những trường hợp vì quyền và lợi ích bị tội phạm xâm hại nên bị
hại tham gia tố tụng với mong muốn vụ án được giải quyết kịp thời nhằm bù đắp
lại những thiệt hại mà họ đã và đang phải gánh chịu.
+ Thứ hai, việc khai báo vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của bị hại.
Đây cũng là điểm khác biệt so với những chủ thể khác tham gia TTHS để
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân liên quan đến vụ án. Bị hại
có quyền khai báo vào bất cứ thời gian nào và ở bất cứ đâu trong suốt quá trình
tiến hành tố tụng, nhưng họ phải chịu trách nhiệm về lời khai của mình. Quyền
khai báo ở đây là cho phép bị hại được lựa chọn cách bảo vệ quyền và lợi ích của
mình trong điều kiện tốt nhất trước những thiệt hại, còn những nghĩa vụ chịu
trách nhiệm trong việc khai báo đòi hỏi bị hại phải khai báo trung thực, đúng đắn
trước những thiệt hại đã xảy ra trong vụ án. Như vậy, ở đây có thể xem bị hại
13
đồng thời là người làm chứng trong trách nhiệm khai báo.
+ Thứ ba, bị hại được quyền khiếu nại quyết định và hành vi tố tụng của cơ
quan THTT cũng như, đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người giám định, người định giá tài sản theo quy định của pháp luật.
Theo đặc điểm này thì cơ quan THTT cho phép bị hại được khiếu nại các
quyết định hoặc hành vi tố tụng mà thấy chưa thỏa đáng hoặc thay đổi người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định khi thấy quyền và lợi ích của
mình chưa được đảm bảo hoặc có những vi phạm tố tụng ảnh hưởng tới quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc điểm này cũng lý giải phần nào mong muốn của
bị hại là nhanh chóng, kịp thời xử lý nghiêm minh tội phạm, những thiệt hại của
họ được bồi thường xứng đáng và thỏa đáng.
1.1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt
động xét xử
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng định nghĩa quyền là: “điều mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [266,
tr.63]. Quyền cơ bản của mỗi công dân được quy định trong Hiến pháp nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Quyền của người tham gia
TTHS, đặc biệt là bị hại được quy định trong chính sách hình sự của quốc gia đó.
Cũng theo từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” là: “Làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [26, tr. 23].
Theo quy định tại điều 62 BLTTHS năm 2015 về bị hại thì: “Bị hại là cá
nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức
bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. [39]
Bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của
tòa án là thành tố quan trọng để vụ án được xét xử khách quan, công bằng thông
14
qua đó góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, thượng tôn công lý trong xã
hội toà án. Bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được thể
hiện trên ba phương diện, đó là:
Thứ nhất, hình thành hệ thống pháp luật quốc gia trên cơ sở các tiêu chí
quốc tế về quyền con người;
Thứ hai, có các biện pháp bảo đảm thực thi có hiệu quả pháp luật về quyền
con người;
Thứ ba, có cơ chế giám sát thực thi quyền con người. Bảo đảm quyền của
người bị hại trong xét xử gắn với phương thức sống của cá nhân, các mối quan
hệ xã hội và các hoạt động sống của con người trong xã hội. Những quyền cần
thiết và cơ bản để con người tham gia vào quá trình sống và được nhà nước công
nhân đó là: quyền được sống, quyền được tôn trọng danh dự nhân phẩm, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể…
Bảo vệ chăm sóc giáo dục người dưới dưới 18 tuổi là vấn đề được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm trong suốt sự nghiệp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam để phù hợp với pháp luật quốc tế và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi là bị hại trong các VAHS thể hiện
ở sự thống nhất trong những quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư
pháp, về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền của người dưới 18 tuổi
theo những tính chất, đặc thù vốn có.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bảo đảm quyền của bị hại
là người dưới 18 tuổi trong xét xử của tòa án như sau: “Bảo đảm quyền của bị
hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án là tổng thể các tiền đề , điều
kiện nhằm thực hiện hoá quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong thực tế”.
1.1.2. Đặc điểm về bảo đảm quyền của người bị hại dưới dưới 18 tuổi
15
trong hoạt động xét xử tạị tòa án nhân dân:
Bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tạị tòa án cấp
tỉnh được thể hiện thông qua những đặc điểm sau đây:
Theo khoa học về y học, độ tuổi chưa thành niên là độ tuổi khá nhạy cảm.
Vì ở lứa tuổi này, các em chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, do bộ
não của các em đang trong quá trình hoàn thiện, cơ thể và tâm sinh lý của các em
có những sự thay đổi mạnh mẽ. Chính vì sự chưa hoàn thiện của hệ thống não bộ
dẫn đến người dưới 18 tuổi có những sự khác biệt so với người đã thành niên về
trạng thái tâm lý, ý thức, như: đặc điểm về thể chất, nhu cầu và nhận thức.
1.1.2.1. Đặc điểm về thể chất của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động
xét xử
Ở người dưới 18 tuổi, sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình
trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc. Sự phát triển không cân bằng của hệ
tim và mạch, tim phát triển nhanh hơn các mạch máu đã dẫn đến sự thiếu máu
trong từng bộ phận trên vỏ não và đôi khi còn làm rối loạn chức năng trong hoạt
động của hệ tim mạch, dẫn đến sự rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim
mạch. Do đó, các em thường có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, dễ bị
kích động, nổi nóng. Đồng thời, tuyến nội tiết ở các em hoạt động mạnh gây ra
sự mất cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương, dễ dẫn đến phát
sinh những hành vi bất thường, nhiều em đã không làm chủ được bản thân,
không kiềm chế được xúc động mạnh nên đã có những hành vi bồng bột, sai lầm.
1.1.2.2. Đặc điểm về nhu cầu của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động
xét xử
Sự phát triển của trẻ em trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, ở từng độ tuổi
khác nhau, nhưng tựu chung lại có những nhu cầu cơ bản như: nhu cầu được yêu
16
thương, đồng cảm; nhu cầu an toàn; nhu cầu khẳng định bản thân; nhu cầu giao
lưu; nhu cầu tự do, độc lập, thích khám phá. Đối với những trường hợp trẻ em
được sống trong môi trường giáo dục tốt, có sự định hướng thì những nhu cầu
này được đảm bảo để họ phát triển và hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, đối với
những trường hợp không được bảo đảm những nhu cầu trên như: Không nhận
được sự yêu thương, đồng cảm của cha mẹ, thầy cô, những việc làm của họ
không nhận được sự tôn trọng của những người xung quanh hoặc sống trong gia
đình có cha mẹ thường xuyên cãi nhau, gia đình không có cấu trúc hoàn chỉnh
hoặc những mối quan hệ, giao lưu của các em không được định hướng, chọn lọc
thì nguy cơ bị xâm hại cao hơn bình thường.
1.1.2.3. Đặc điểm về nhận thức của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt
động xét xử
Người bị hại dưới 18 tuổi là tất cả những người ở mọi độ tuổi dưới 18 mà
không phải chỉ ở độ tuổi 14 – 18 như đối với người bị buộc tội. Người dưới 18
tuổi dễ bị tội phạm xâm hại, dễ bị đưa đến nguy cơ nạn nhân hóa do sức khỏe,
khả năng tự bảo vệ bản thân còn hạn chế, do ngây thơ, cả tin, thiếu hiểu biết xã
hội. Khi bị tội phạm xâm hại, họ có nguy cơ bị tổn thương cao hơn (cho rằng tổn
thất mình phải gánh chịu là quá lớn, xã hội quá bất công, cuộc đời quá bất hạnh,
người lớn quá vô tâm, một số bị hại dưới 18 tuổi lại có diễn biến tâm lý tiêu cực
theo chiều hướng tự đổ lỗi cho bản thân, tự oán trách bản thân) hoặc ngược lại
chưa ý thức được về tổn thất mà mình đã trải qua hoặc những hậu quả mà mình
sẽ phải gánh chịu trong những giai đoạn sắp tới của cuộc đời.
Thực tiễn cho thấy, những người dưới 18 tuổi còn rất non nớt về nhân sinh
quan nên nhận thức của họ thường một chiều và ở một vài khía cạnh chưa đầy
đủ. Do chưa phát triển hoàn thiện về thể lực, trí tuệ, chưa có khả năng nhận thức
17
đầy đủ về những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày. Đồng thời, các
em chưa có nhận thức đầy đủ về pháp luật nên trong nhiều trường hợp không
biết hành vi của người phạm tội là nguy hiểm cho bản thân và xã hội. Cùng với
những nhu cầu của cá nhân, dẫn đến các em thường dễ mắc sai lầm, dễ bị các đối
tượng phạm tội lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Từ những sự khác biệt trong trạng trái thể chất, tâm sinh lý và đặc điểm về
nhu cầu, nhận thức mà người dưới 18 tuổi trở thành chủ thể đặc biệt trong các
mối quan hệ xã hội, đặc biệt trong quan hệ pháp lý. Trong mối quan hệ pháp luật
hình sự, người dưới 18 tuổi là người bị hại phải chịu những tác động mạnh mẽ
nhất từ hành vi phạm tội, dẫn đến có những đặc điểm tâm sinh lý sau:
Khi bị tội phạm xâm hại, người bị hại thường có trạng thái tâm lý không ổn
định, tinh thần hoảng loạn, thậm chí mất khả năng điều khiển hành vi của mình.
Đặc biệt, đối với bị hại là người dưới 18 tuổi, những đối tượng còn non nớt về
tâm lý, tinh thần, sự ảnh hưởng đến tâm lý càng trở nên sâu sắc hơn. Trong một
số vụ án, đặc biệt là án xâm hại tình dục trẻ em, mua bán trẻ em, các em do bị
tổn thương nghiêm trọng về tâm lý, lo lắng, sợ hãi khi sự việc xảy ra, không
muốn tiết lộ hoặc để cho người khác biết được bí mật đời tư của mình và những
hậu quả mà các em đã phải gánh chịu. Thậm chí, trong những vụ án người bị hại
chưa thành niên có mối quan hệ với người phạm tội (quan hệ tình cảm, quan hệ
huyết thống…) nên có thể từ chối khai báo hoặc che giấu hành vi phạm tội cho
người thân. Trong một số trường hợp, do người bị hại chưa thành niên bị đe dọa,
cưỡng ép hoặc bị mua chuộc bằng vật chất nên đã không tố giác, không hợp tác
với các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT), từ chối khai báo, từ chối giám
định gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, do ở thời điểm
này, tâm lý của các em còn non nớt nên khi bị xâm hại sẽ để lại những hậu quả
18
rất nặng nề, không chỉ gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm thậm chí là tính
mạng và sức khỏe của các em, mà còn tác động tiêu cực đến tâm lý, tình cảm, để
lại dư chấn mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bình thường của các em
sau này.
Từ những đặc điểm của bị hại là người dưới 18 tuổi cho thấy, do có sự phát
triển chưa hoàn thiện về tâm, sinh lý của lứa tuổi, người dưới 18 tuổicó thái độ,
nhận thức chưa hoàn chỉnh trong giao tiếp xã hội, đòi hỏi xã hội phải dành cho
họ những đối xử phù hợp với lứa tuổi. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết
phải có cơ chế riêng biệt trong TTHS khi xét xử các vụ án có bị hại là người
dưới 18 tuổi.
1.1.2.4. Chủ thể bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt
động xét xử
Cho dù là loại quan hệ pháp luật nào, chủ thể tiến hành tố tụng luôn đóng
một vai trò quan trọng trong việc đưa các quy định của pháp luật vào thực tiễn.
Trong TTHS, nhất là đối với những vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi, việc đòi hỏi đội ngũ những người tiến hành tố tụng có đầy đủ
các phẩm chất, năng lực, giữ công tâm và mực thước trong vai trò cầm cân nảy
mực là một đòi hỏi thể hiện sự “khắt khe" trong việc lựa chọn người tiến hành tố
tụng. Điều 415 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “Người tiến hành tố tụng đối
với vụ án có người dưới 18 tuổi phải là người đã được đào tạo hoặc có kinh
nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu
biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18
tuổi”. Ngoài ra, để thống nhất trong việc áp dụng, Thông tư liên tịch số
06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 26/12/2018
quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người
19
có thẩm quyền THTT và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong
việc thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người
tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi cũng có đề cập về vấn đề này. Tuy nhiên,
theo các tác giả, quy định này cần được hướng dẫn chi tiết và cụ thể hơn để bảo
đảm đồng bộ, thống nhất trong việc áp dụng. Bởi lẽ, nội dung của Điều 415 Bộ
luật TTHS năm 2015 quy định một cách chung chung về người tiến hành tố
tụng; cụ thể: “được đào tạo” hoặc “có kinh nghiệm”, “có hiểu biết cần thiết”,
trong thực tiễn tố tụng, rất khó để xác định các vấn đề này.
1.1.2.5. Về đối tượng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong
hoạt động xét xử của TAND
Bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án về xâm hại sức, khỏe về bạo
hành, về bị xâm hại tình dục....có đầy đủ các quyền như bị hại là người chưa
thành niên. Bên cạnh đó họ còn được bảo đảm những quyền đặc thù để có thể
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình đó là: Quyền bất khả xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người nói chung trong đó có
quyền của người dưới 18 tuổi. Đây là quyền hiến định. Do đó, bị hại là người
chưa thành niên khi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán sẽ được
giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời.
Quyền được điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với tâm lý, lứa tuổi. Hiện nay
người chưa thành niên đặc biệt là bị hại trong các vụ án hình sự đã được các cơ
quan THTT đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình như việc thành
lập Tòa gia đình và người chưa thành niên đây là bước tiến lớn trong việc xây
dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho hoạt động tố tụng phù hợp với tâm lí của người
chưa thành niên như phòng lấy lời khai, phòng xử án thân thiện được quy định
tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án. Các cơ quan
20
THTT không chỉ đứng dưới góc độ pháp luật mà còn phải đứng dưới góc độ
chuyên môn như tâm lý học và giáo dục học để làm sáng tỏ nguyên nhân và bối
cảnh giải quyết của vụ việc. Việc xây dựng hệ thống tư pháp thân thiện với
người dưới 18 tuổi là một trong những giải pháp bảo đảm quyền của bị hại là
người dưới 18 tuổi trong các vụ án hình sự, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế
về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được thể hiện trong Công ước của
Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn bản mà Việt Nam đã tham gia và cam
kết thực hiện được thể hiện trong các văn bản pháp luật hình sự, TTHS, hàng
loạt các chế định mang tính cá biệt nhằm đảm bảo quyền của bị hại là người dưới
18 tuổi.
Quyền ưu tiên được đảm bảo giữ bí mật thông tin cá nhân của người dưới
18 tuổi. Mọi hoạt động tố tụng liên quan đến người dưới 18 tuổi cần được tiến
hành trong môi trường thuận tiện cho việc đảm bảo bí mật đời tư, danh dự, nhân
phẩm của họ.
Quyền có sự hiện diện bắt buộc của những người THTT và người tham gia
tố tụng có hiểu biết về người dưới 18 tuổi đó là người đại diện, người bào chữa,
người bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đại diện Nhà trường, Đoàn thanh niên
và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải có mặt và tham gia đầy đủ các
hoạt động tố tụng theo quyết định hoặc theo yêu cầu của cơ quan THTT, người
có thẩm quyền THTT. Người có thẩm quyền THTT là Điều tra viên, Cán bộ điều
tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi được phân công tiến hành tố tụng, hội thẩm
nhân dân phải nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi
đây là những người phải có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lí, đã được tập huấn,
đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có sự tham gia của
người dưới 18 tuổi.
21
1.1.3. Ý nghĩa bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân
1.1.3.1. Thể hiện sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các
Công ước quốc tế về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét
xử của TAND
Ở Việt Nam, việc tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế nói chung, trong
đó có các điều ước quốc tế về quyền con người được quy định cụ thể trong Luật
Điều ước quốc tế năm 2016. Theo Điều 76, Luật Điều ước quốc tế: "Thủ tướng
Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, phê duyệt kế hoạch thực hiện,
quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành hoặc biện pháp khác để thực hiện điều
ước quốc tế”.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á, thứ hai trên thế giới phê chuẩn
công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Việc phê
chuẩn Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em là cam kết chính trị mạnh mẽ
của nước ta đảm bảo cho trẻ em có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Việc vận dụng các giá trị, tư tưởng tiến bộ của nhân loại về bảo đảm quyền
của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các VAHS là một nỗ lực lớn của Đảng và
Nhà nước, mặt khác đó là một thành tích được cộng đồng quốc tế ghi nhận và
đánh giá cao. Việc tham gia công ước này thể hiện quyết tâm cao độ của Việt
Nam trong việc thúc đẩy và tôn trọng các nhân quyền cũng như các quy định của
pháp luật quốc tế về nhân quyền. Việc vận dụng, phát triển các quan điểm chung
của cộng đồng quốc tế có tính đến bối cảnh đặc thù về dân tộc, lịch sử, văn hóa,
chính trị của nước toà án nhằm bảo vệ đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương trong
22
xã hội. Việt Nam đã xây dựng Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới luật phù hợp
với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Phát triển quan điểm của các quốc gia có nghĩa vụ hàng đầu trong việc bảo
đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi, Việt Nam đã đẩy mạnh nghiên cứu
nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ của các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước như: Quốc
hội, Chính Phủ, TAND, VKSND, chính quyền địa phương, cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước và trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội, nghề nghiệp;
trách nhiệm của thiết chế truyền thông, báo chí trong định hướng dư luận xã hội
liên quan đến vấn đề này.
Đảng và Nhà nước đã nghiên cứu để giám sát và ngăn ngừa tình trạng vi
phạm quyền con người, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm quyền con
người, quyền công dân trên các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt trong tư pháp
hình sự, bảo vệ quyền của người tham gia tố tụng là bị hại dưới 18 tuổi trong các
vụ án hình sự và có sự hỗ trợ kịp thời đối với nạn nhân khi xảy ra vụ việc. Mặt
khác, đã hướng tới xây dựng cơ quan chuyên trách về quyền con người, phù hợp
với chuẩn mực pháp lý quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam.
Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã chủ động tham gia vào các diễn
đàn và hoạt động quyền con người khu vực cũng như toàn cầu. Đảng toà án luôn
khẳng định, việc bảo đảm quyền con người là một mục tiêu, động lực của cách
mạng, là trách nhiệm lớn của Đảng và Nhà nước.
1.1.3.2. Góp phần thực thi hiệu quả quyền của người bị hại dưới 18 tuổi bị
xâm hại tình dục trong hoạt động xét xử của TAND
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý,
là những đối tượng dễ bị tổn thương, vì vậy trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự đối với người dưới 18 tuổi cần phải bảo đảm quyền và lợi ích của họ
23
theo quy định pháp luật. Xuất phát từ ý nghĩa nhân văn, BLTTHS năm 2015 đã
dành hẳn một chương với tên gọi "Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi"
nằm trong phần thứ bảy "Thủ tục tố tụng đặc biệt" với nhiều nội dung mới được
sửa đổi, bổ sung. Dù tham gia với tư cách nào thì người chưa thành niên cũng
được hưởng sự bảo vệ đặc biệt:
Một là, sự bảo vệ chung như những người tham gia tố tụng khác;
Hai là, sự bảo vệ đặc biệt dành riêng cho người chưa thành niên, đặc biệt là
trẻ em tham gia TTHS. Các chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước toà án
đối với người dưới 18 tuổi đã và đang làm hài hòa các văn kiện quốc tế về người
chưa thành niên mà Việt Nam là thành viên như Công ước quyền trẻ em và các
chuẩn mực quốc tế khác có liên quan, như Nghị định thư không bắt buộc của
Công ước quyền trẻ em về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em, Quy tắc chuẩn tối
thiểu của Liên Hợp quốc về quản lý tư pháp người chưa thành niên.
Thực tiễn hiện nay cho thấy những vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi
ngày càng diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm về bạo hành về xâm hại tình dục
về quy mô và cách thức thực hiện. Đây là vấn nạn trên toàn Việt Nam, hậu quả
mà các em gánh chịu là những tổn thất về sức khỏe thể chất và tinh thần, làm
giảm khả năng học tập, hòa nhập xã hội và thậm chí có thể hủy hoại tương lai
của các em. Trong nhiều năm qua, Nhà nước và các cơ quan ban ngành đã có
nhiều biện pháp để phòng chống, giảm thiểu và đẩy lùi hiện tượng bạo hành và
xâm hại trẻ em này.
1.1.3.3. Góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Thực hiện quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013;
24
gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội, Đảng, Nhà nước có
cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công
dân theo phương hướng: Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện
của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà
nước toà án ký kết” [3].
Hiện nay, sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế đến công tác bảo đảm quyền con người, nhất là bảo
đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án, vẫn chuyển biến theo cả
hướng tích cực lẫn tiêu cực. Trong điều kiện như vậy, công tác này đã đạt được
những thành tựu rất quan trọng. Để có được điều đó là do các chủ thể có nghĩa
vụ bảo đảm quyền con người, trước hết và chủ yếu là Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội, đã tích cực và chủ động thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền con
người; hệ thống thiết chế và thiết chế bảo đảm quyền con người được xây dựng
theo hướng hoàn thiện; sự tham gia tích cực của con người và các tổ chức xã hội
vào công tác bảo đảm quyền con người.
Việc bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử
của TAND trên thực tế còn tồn tại nhiều bất cập về tổ chức, hoạt động của một
số thể chế liên quan đến quyền con người. Chính việc nhìn nhận những mặt tích
cực và tiêu cực như vậy sẽ cho phát huy được những mặt tích cực, đồng thời đề
ra được những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam hiện nay, nhất là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt
động xét xử của TAND.
25
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN
Trách nhiệm của CQTHTT nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử VAHS có người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi
là phải bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tiến hành TTHS đối với người dưới 18
tuổi.
Các nguyên tắc THTT đối với người dưới 18 tuổi được quy định trong
BLTTHS năm 2015 là những nội dung hoàn toàn mới mà định hướng của nó
xuyên suốt toàn bộ các quy định của pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi.
Bằng việc quy định các nguyên tắc này, BLTTHS đã góp phần hoàn thiện cơ chế
tố tụng để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi;
khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn xử lý các vụ án có người dưới
18 tuổi tham gia tố tụng, đồng thời bảo đảm sự tương thích với Công ước quốc tế
về quyền trẻ em, đồng bộ với Luật Trẻ em. Các nguyên tắc THTT đối với người
dưới 18 tuổi được quy định tại Điều 414 chương XXXII, Phần thứ bảy: Thủ tục
đặc biệt của BLTTHS năm 2015. Điều luật này đã quy định đầy đủ, toàn diện 07
nguyên tắc mà cơ quan, người THTT phải quán triệt,tôn trọng và nghiêm túc
thực hiện khi THTT đối với những vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, trong
đó, có 06 nguyên tắc cần được bảo đảm áp dụng trong hoạt động xét xử các
VAHS có người dưới 18 tuổi là người bị hại [39]. Các nguyên tắc đó gồm:
1.2.1. Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi,
mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất
của người dưới 18 tuổi
26
Khi THTT, cơ quan Tòa án nói riêng và các cơ quan tố tụng nói chung phải
tuân thủ các quy định về thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi sao cho bảo
đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho họ. Các quy định về thủ tục tố tụng cần
bảo đảm sự thân thiện, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi của người
dưới 18 tuổi. Như vậy, khi áp dụng quy định của pháp luật về các thủ tục TTHS,
ngoài việc cần bảo đảm thực thi công lý, thì việc xử lý người phạm tội của các
cơ quan có thẩm quyền THTT phải chú trọng đến việc bảo vệ lợi ích tốt nhất cho
đối tượng bị xâm hại là người dưới 18 tuổi, người phạm tội phải bị nghiêm trị để
mang lại công lý, niềm tin cho người dưới 18 tuổi.
1.2.2. Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi
Nguyên tắc này được dựa trên quy định của chuẩn mực quốc tế: “Mọi điều
riêng tư của trẻ em phải được hoàn toàn tôn trọng trong mọi giai đoạn tố
tụng” và “Quyền riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng trong
tất cả các giai đoạn tố tụng, nhằm tránh những tổn hại gây ra do sự công khai
hóa quá mức hay do sự quy chụp”1. Thực tiễn cho thấy, việc giữ bí mật cá nhân
cho người dưới 18 tuổi là người bị hại rất quan trọng, bởi họ đang ở độ tuổi phát
triển, cần được bảo vệ nhân cách và phẩm giá cũng như sự an toàn và phúc lợi
của họ. Việc để lộ thông tin về người bị hại là người dưới 18 tuổi ra công luận có
thể gây ra những hậu quả hết sức nặng nề.
Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ
bản được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng
được đặc biệt chú trọng vì trẻ em thuộc nhóm yếu thế, chưa phát triển đầy đủ về
nhận thức, thể chất để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại
đến mình.
27
Điều 21 Luật Trẻ em năm 2016 đã quy định: “1. Trẻ em có quyền bất khả
xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt
nhất của trẻ em. 2.Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí
mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác;
được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư”.
Để đảm bảo thực thi các chính sách về trẻ em, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 56/2017/NĐ-CP ngày 9/5/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em.
Trong đó, Điều 33 của Nghị định giải thích rõ thông tin bí mật đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá
nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh
cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình; người chăm sóc trẻ em; tài
sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê
quán…Do đó, bảo đảm giữ bí mật cho người dưới 18 tuổi trong các VAHS
không những là trách nhiệm của người có thẩm quyền THTT, mà còn là trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức khi tham gia THTT, trong đó có cơ quan Tòa án.
1.2.3. Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người
dưới 18 tuổi, nhà trường, Đoàn Thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết
về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và
sinh hoạt
Việc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án của các cá nhân, tổ chức xã
hội…sẽ bảo đảm cho người dưới 18 tuổi được hỗ trợ về mặt tinh thần (có thể cả
về pháp lý), ổn định về tâm sinh lý cho người dưới 18 tuổi, bảo đảm các quyền
và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời có thể hạn chế được sự lạm quyền hoặc vi
phạm pháp luật của những người THTT.
28
1.2.4. Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới
18 tuổi
Nguyên tắc này được dựa trên quy tắc tối thiểu của Liên Hiệp Quốc. Đó
là: “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình
thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm
đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được
coi trọng một cách thích đáng…”. Với mục đích đó, người dưới 18 tuổi phải
được đặc biệt trao cơ hội để nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố
tụng nào có liên quan đến họ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay
một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp. Và mặc dù người dưới 18 tuổi
đã có người bào chữa và người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho
họ nhưng khi THTT, những người THTT, cụ thể ở đây là Hội đồng xét xử cần
phải tôn trọng những ý kiến của họ về các thủ tục tố tụng.
1.2.5. Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người
dưới 18 tuổi
Quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý là những quyền đặc biệt của
người dưới 18 tuổi. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, sự nhận thức của người
dưới 18 tuổi về mặt pháp luật còn hạn chế, người dưới 18 tuổi có quyền nhờ luật
sư, người đại diện, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định tại Điều 84 BLTTHS năm 2015. Do
vậy, Tòa án (Hội đồng xét xử) cần phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo quyền
bào chữa cho người dưới 18 tuổi là người bị hại. Tôn trọng và bảo đảm quyền
bào chữa có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng xét xử và việc xác định sự thật
khách quan của vụ án.
29
1.2.6. Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan
đến người dưới 18 tuổi
Việc giải quyết các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi là người bị hại
cần được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, điều này vừa nhằm mục đích bảo
đảm các quyền lợi tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, đồng thời bảo đảm bảo vệ bí
mật đời tư của người bị hại là người dưới 18 tuổi bị các hành vi phạm tội xâm
hại.
1.3. NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ
ÁN NHÂN DÂN
1.3.1. Quy định về việc tham gia tố tụng của luật sư, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là người dưới 18 tuổi
Quyền được bào chữa, được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi là yêu
cầu bắt buộc. Quyền này được quy định trong Hiến pháp, Luật Trẻ em,
BLTTHS, Luật Trợ giúp pháp lý…Cụ thể hóa quy định bảo đảm việc tham gia tố
tụng của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
dưới 18 tuổi, Điều 10Thông tư liên tịch số 06/2018 đã quy định: “Cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông
báo cho người bị hại dưới 18 tuổi, người đại diện hoặc người thân thích của họ
về việc mời người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ khi tham gia tố tụng”; trường hợp những
người này không mời thì tùy trường hợp CQTHTT giải quyết như sau: Chỉ định
người bào chữa nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015;
Yêu cầu Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cử người thực hiện trợ giúp pháp
lý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của Thông tư này; Yêu cầu cơ quan,
30
tổ chức có người bị hại là thành viên cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho họ.
Người dưới 18 tuổi là nhóm người đang trong quá trình phát triển cả về tâm
lý, sinh lý và ý thức, với kinh nghiệm cuộc sống còn ít ỏi, khả năng nhận thức và
hiểu biết pháp luật còn có những hạn chế. Người dưới 18 tuổi khó tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia vào một số quan hệ pháp luật
nhất định, trong đó có quan hệ pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Do đó, khi
tham gia vào hoạt động TTHS với tư cách người bị hại, người dưới 18 tuổi là
chủ thể đặc biệt, rất cần những cơ chế đặc thù để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Vì vậy, pháp luật TTHS đã dành những quy định riêng về thủ tục tố tụng
đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi là bị hại nhằm tránh làm tổn thương, giảm
thiểu những hậu quả tiêu cực mà quá trình tố tụng có thể gây ra cho họ, tạo điều
kiện để người bị hại là người dưới 18 tuổi có thể nhanh chóng trở lại cuộc sống
bình thường sau khi tham gia quá trình TTHS. BLTTHS năm 2015 đã quy định 1
chương riêng (Chương XXVIII) gồm 18 điều, từ Điều 413 đến Điều 430 quy
định về “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” nhằm giải quyết những
VAHS có liên quan đến người tham gia tố tụng là NCTN.
Các cơ quan chức năng đã ban hành 03 Thông tư quy định về vấn đề này,
đó là:
- Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án
TANDTC quy định về phòng xử án (sau đây gọi là Thông tư số 01/2017/TT-
TANDTC);
- Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của Chánh án án
TANDTC “Quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng
31
là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa án gia đình và người chưa thành
niên”(sau đây gọi là Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC);
- Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-
BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKSNDTC, án TANDTC, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định về thủ tục tố tụng nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi (sau đây gọi là Thông tư
liên tịch số 06/2018).
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn nói trên,
thì khi tiến
1.3.2. Quy đinh về phân công người tiến hành tố tụng
Đối với các VAHS có người dưới 18 tuổi là người bị hại, quy định người
THTT có những sự khác biệt nhất định so với vụ án không có người dưới 18
tuổi. Việc phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử VAHS có bị hại là
người dưới 18 tuổi phải đáp ứng điều kiện của BLTTHS quy định về người
THTT các VAHS có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (Điều 415),
phải là “người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ
án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo
dục đối với người dưới 18 tuổi”. Điều này được cụ thể hóa tại Thông tư liên tịch
số 06/2018và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định chi tiết việc xét xử
VAHS có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của
Tòa Gia đình và người chưa thành niên (Tòa GĐ&NCTN) thì Thẩm phán khi
được phân công giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi phải đảm bảo có ít nhất
một trong các điều kiện sau:
- Có kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi;
32
- Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án
hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi;
1.3.3. Quy định về việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi
Để có căn cứ áp dụng đúng chính sách về trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội thì việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi là một yêu cầu bắt
buộc trong giai đoạn nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Theo Điều 417 BLTTHS năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch số
06/2018, việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong
các giấy tờ, tài liệu sau:
a) Giấy chứng sinh;
b) Giấy khai sinh;
c) Chứng minh nhân dân;
d) Thẻ căn cước công dân;
e) Sổ hộ khẩu;
f) Hộ chiếu.
Trường hợp các giấy tờ, tài liệu này có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc
không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm
quyền THTT phải phối hợp với gia đình, người đại diện người thân thích, nhà
trường, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có
liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy
lời khai, xác minh làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị
chứng minh về tuổi của người đó.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được
khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì
tùy từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2 Điều 417 BLTTHS năm 2015 để
33
xác định tuổi của họ: Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định
được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh; Trường hợp xác
định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng
của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh; Trường hợp xác định
được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối
cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh; Trường hợp
xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối
cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để
xác định tuổi (khoản 3 Điều 417 BLTTHS năm 2015).
Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ xác định được khoảng độ tuổi của
người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền THTT lấy
tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi của họ. Ví
dụ: Kết luận giám định A có độ tuổi trong khoảng từ 13 tuổi 06 tháng đến 14
tuổi 02 tháng thì xác định tuổi của A là 13 tuổi 06 tháng.
1.3.4. Quy định về việc tham gia tố tụng của đại diện, nhà trường và
các tổ chức chính trị - xã hội
Việc tham gia của người đại diện, nhà trường và tổ chức của người dưới 18
tuổi là rất quan trọng để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới
18 tuổi, cũng như trợ giúp cho người dưới 18 tuổi về tâm lý, đồng thời cũng có
thể giám sát được hoạt động của những người có thẩm quyền THTT. Người đại
diện nói chung và người đại diện của người dưới 18 tuổi nói riêng là người tham
gia tố tụng theo quy định tại khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015. Đây là điểm
mới của BLTTHS năm 2015, vì trước đây BLTTHS năm 2003 không quy định
người đại diện là người tham gia tố tụng. Khoản 1 Điều 420 BLTTHS năm 2015
34
quy định: “Người đại diện của người dưới 18 tuổi là thầy giáo, cô giáo, đại diện
của nhà trường, Đoàn Thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập,
lao động và sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của
Tòa án”. BLTTHS năm 2015 không quy định cụ thể về người đại diện của người
dưới 18 tuổi gồm có những ai. Do đó, khoản 1 Điều 3Thông tư liên tịch số
06/2018 đã hướng dẫn như sau: “Người đại diện của người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi là người từđủ 18 tuổi trở lên, cóđủ năng lực pháp luật, năng
lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại các
điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự.
Người đại diện của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi được xác
định theo thứ tự sau đây:
a) Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi;
b) Người giám hộ;
c) Người do Tòa án chỉ định”.
Người giám hộ của người dưới 18 tuổi là người giám hộ đương nhiên hoặc
người được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 8 tuổi cư trú hoặc Tòa án chỉ
định theo quy định tại các Điều 46, 47, 48 và 54 Mục 4 Chương III của Bộ luật
Dân sự. Người giám hộ đương nhiên của người bị hại dưới 18 tuổi: theo quy
định tại điểm a,b Điều 47 BLDS năm 2015 thì trường hợp người chưa thành
niênkhông còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha mẹ; người chưa thành
niêncó cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự; cha,mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha,
mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ
thì có người giám hộ đương nhiên, Người giám hộ đương nhiên của người chưa
35
thành niênđược xác định theo quy định tại Điều 52 BLDS năm 2015. Cụ thể là
việc xác định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niêntheo thứ tự
sau đây:
- Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả
hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột
tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột
khác làm người giám hộ;
- Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này
thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ;
- Trường hợp không có người giám hộ như hai trường hợp trên thì bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
Ngoài ra, người giám hộ của người bị hại chưa thành niên được Ủy ban
nhân dân cấp xã cử được thực hiện theo Điều 54 của BLDS năm 2015 hoặc
người giám hộ, người đại diện do Tòa án chỉ định khi có tranh chấp giữa những
người giám hộ quy định tại Điều 52, 53 của BLDS; tranh chấp về việc cử người
giám hộ theo Điều 54 của BLDS.
Về quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho người bị hại là người dưới 18
tuổitham gia tố tụng theo quyết định của Tòa án được quy định trong nhiều điều
khoản khác nhau của BLTTHS năm 2015: Điều 331, 338, 418, 420, 421, 422,
423, 469, 470.
Người đại diện tham gia phiên tòa được quy định bao gồm: Người đại diện
của người dưới 18 tuổi; Đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người dưới 18 tuổi lao
động, sinh hoạt. Trường hợp vắng vì lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan
lần thứ nhất, lần thứ hai thì Tòa án phải hoãn phiên tòa. Trường hợp những
36
người này vắng mặt lần thứ hai không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở
ngại khách quan nhưng để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi thì
Tòa án cũng có thể hoãn phiên tòa3. Những người này phải có mặt tại phiên tòa
theo quyết định của Tòa án.
1.3.5. Quy định về cách thức tổ chức phiên tòa xét xử có người bị hại là
người dưới 18 tuổi
- Về thẩm quyền: Trong giai đoạn xét xử, thực hiện nguyên tắc của
BLTTHS: bảo đảm xét xử thân thiện, TAND tối cao đã ban hành Thông tư số
01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án và Thông tư số 02/2018/TT-
TANDTC ngày 21/9/2018 quy định chi tiết việc xét xử VAHS có người tham gia
tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa Gia đình và người chưa
thành niên. Theo các quy định này, thẩm quyền xét xử các VAHS có bị hại là
người dưới 18 tuổi được xác định như sau:
+ Đối với Tòa án đã thành lập Tòa GĐ&NCTN, các“Vụ án hình sự mà bị
cáo là người đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn
thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do
không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi
khác”4 thì xét xử tại Phòng xử án hình sự của Tòa GĐ&NCTN.
+ Đối với Tòa án chưa thành lập Tòa GĐ&NCTN, thì khi xét xử các VAHS
nói trên “phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho
người dưới 18 tuổi”.
+ Đối với các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo các Điều 141,
142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS được hướng dẫn theo Nghị quyết số
06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao: Xét xử tại Phòng
xét xử thân thiện.
37
- Cách bố trí phòng xử án:
+ Phòng xét xử của Tòa GĐ&NCTN: Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC
quy định về Phòng xét xử của Tòa GĐ&NCTN khác hoàn toàn so với các phòng
xét xử khác. Trong phòng xử án, vị trí của những người THTT, người tham gia
tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được “bố trí trên
cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án
có màu xanh”. Bàn, ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn,
ghế văn phòng. Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh
người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Việc bố trí phòng xử án theo không gian mới như trên sẽ tác động tâm lý tốt tới
người dưới 18 tuổi, không làm họ hoảng sợ. Việc tổ chức phiên tòa theo hình
thức này sẽ tốt hơn việc xét xử vụ án tại hội trường thông thường.
+ Phòng xét xử bố trí thân thiện: Đối với các Tòa án chưa có Phòng xét xử
thân thiện thì khi xét xử các vụ án quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số
02/2018/TT-TANDTC, phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích
tốt nhất cho người dưới 18 tuổi.
- Về trang phục: Khi xét xử những vụ án có bị hại dưới 18 tuổi tham gia tố
tụng được thực hiện theo Quyết định số 1738/QĐ-TANDTC ngày 23/11/2017
Ban hành quy chế cấp phát, sử dụng quản lý trang phục, giấy chứng minh Thẩm
phán, giấy chứng nhận chức danh tư pháp, giấy chứng nhận TAND, trang phục
khi xét xử các VAHS có bị hại là người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng thì Thẩm
phán mặc trang phục làm việc hành chính của TAND: áo trắng, quần tối màu
(không mặc áo choàng)6.
- Quy định về xét xử các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo các
Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS năm 2015:
38
+ Đối với những vụ án có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị
bạo hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử kín; đối với những vụ án khác
có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để giữ bí mật đời
tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể xử kín nhưng phải tuyên án
công khai. Khi tuyên án, Hội đồng xét xử chỉ đọc phần quyết định trong bản án.
+ Tòa án cần hạn chế triệu tập bị hại đến phiên tòa nếu vẫn giải quyết được
vụ án bằng việc áp dụng các biện pháp thay thế khác (ví dụ: sử dụng lời khai của
họ ở giai đoạn điều tra, truy tố; mời họ đến Tòa án hoặc địa điểm hợp pháp khác
để lấy lời khai trước bằng văn bản, bằng ghi âm, ghi hình có âm thanh…);
+ Trường hợp phải triệu tập bị hại đến phiên tòa, Tòa án cần tạo điều kiện
để họ làm quen, tiếp xúc với môi trường Tòa án, với quy trình và thủ tục xét xử;
bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử (ví dụ: micro,
loa, ti vi, camera…) để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của họ khi họ khai báo,
tham gia tố tụng tại phiên tòa; trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để
họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo
và khoảng cách giữa Hội đồng xét xử với người bị hại không quá 03 mét. Trong
các vụ án xâm hại tình dục đối với trẻ em, Tòa án cần bố trí khu vực riêng cho
người bị hại, tránh để bị tiếp xúc với bị cáo làm ảnh hưởng đến tâm lý của bị hại
trong quá trình xét xử và về sau, đồng thời cũng đảm bảo lời khai khách quan
của các bị hại;
+ Câu hỏi đối với bị hại là người dưới 18 tuổi phải phù hợp với lứa tuổi,
mức độ phát triển, trình độ văn hóa, hiểu biết của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, rõ
ràng, đơn giản, dễ hiểu; không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc; chỉ đặt câu hỏi
làm rõ tình tiết vụ án; không đặt câu hỏi chỉ để tranh luận. Câu hỏi đối với bị hại
39
dưới 10 tuổi không quá 10 từ và thời gian hỏi không liên tục quá 01 giờ. Tránh
việc yêu cầu bị hại tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội;
+ Sử dụng sơ đồ hoặc mô hình cơ thể có đánh số thứ tự các bộ phận để
người bị hại là người dưới 18 tuổi xác định các bộ phận bị xâm hại. Không được
xác định bộ phận xâm hại bằng cách để bị hại chỉ trực tiếp vào bộ phận cơ thể
của mình hoặc của người khác;
+ Khi bị cáo đề nghị được hỏi bị hại là người dưới 18 tuổi, thì phải chuyển
câu hỏi cho người bào chữa hoặc Hội đồng xét xử hỏi. Không được để bị hại và
bị cáo đối chất tại phiên tòa;
+ Tòa án phải xem xét và đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp bảo vệ phù hợp theo quy định tại Chương XXXIV BLTTHS khi bị
hại, người thân thích của bị hại yêu cầu hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
kiến nghị bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại và người thân thích của họ.
Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật nói chung và chính sách pháp luật hình sự
đã cơ bản hoàn thiện, các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và đặc biệt là
các quyền trẻ em. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 đã có
sự điều chỉnh mạnh mẽ về tư pháp người dưới 18 tuổi nói chung; trong đó cùng
với việc tiếp tục bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi với những quy
định hết sức cụ thể. Mặc dù vậy, chính sách hình sự mới chỉ tập trung điều chỉnh
các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội, còn trong trường hợp người dưới
18 tuổi là người bị xâm hại thì vẫn còn thiếu những quy định chuyên biệt, cần
tiếp tục được các nhà làm luật nghiên cứu, bổ sung.
40
1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ HẠI
DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN
1.4.1. Chất lượng của hệ thống pháp luật
Chất lượng của hệ thống pháp luật là một trong những cơ sở để bảo đảm
cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn,
chất lượng pháp luật càng tốt thì việc bảo đảm quyền con người nói chung và
bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án hình sự nói riêng được tốt hơn.
Ngược lại nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì việc thực hiện
chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, khi đó quyền của con người không được bảo
đảm, có thể bị xâm hại trực tiếp đến quyền của con người.
Có nhiều tiêu chí để xác định chất lượng của hệ thống pháp luật trong đó
có các tiêu chí cơ bản là: Tính toàn diện, đồng bộ; tính thống nhất, tính phù hợp,
ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật và tính khả thi của hệ thống pháp luật.
1.4.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng và tổ chức, hoạt động
của các cơ quan tố tụng
Nhằm đảm bảo vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
con người. Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương, đường lối đối mới, cải cách
toàn diện hệ thống chính trị theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, nâng cao năng lực,
tăng cường trách nhiệm, trong đó cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp với
trọng điểm là 03 cơ quan: Công an - Viện kiểm sát - Tòa án.
Về cơ quan điều tra: Cơ quan điều tra chủ yếu thuộc cơ quan hành pháp nên
chưa bảo đảm tính độc lập trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm. Không có cơ
quan được giao trách nhiệm đầu mối quản lý toàn bộ tố giác, tin báo về tội phạm.
41
Việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm chỉ giao cho Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát là chưa phù hợp. Hầu hết cơ quan điều tra nước ta không độc lập như
các nước mà tổ chức bên trong bộ máy hành chính và phụ thuộc vào bộ máy
hành chính. Thủ trưởng cơ quan điều tra vừa là người THTT đồng thời vừa là
người lãnh đạo bộ máy hành chính nên trong nhiều trường hợp không có sự tách
bạch rành mạch giữa quan hệ hành chính với tính chất là “quyền uy - phục tùng”
với quan hệ tố tụng tư pháp có tính chất là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Quy định về việc phân công THTT giữa Thủ trưởng với Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, giữa Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, giữa Chánh
án và Phó Chánh án Toà án (các Điều 34, Điều 36 và Điều 38 BLTTHS) còn
chưa cụ thể, rõ ràng. Trong mọi trường hợp, việc THTT của cấp Phó đều là thực
hiện thay cấp Trưởng, theo sự phân công của cấp Trưởng. Việc cấp Phó ký thay
cấp Trưởng đã dẫn đến vướng mắc khi cấp Trưởng thay đổi, huỷ bỏ các quyết
định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của cấp Phó gặp nhiều khó khăn.
Về cơ quan Viện kiểm sát: Bộ luật TTHS năm 2003 chưa có quy định đề
cập trực tiếp đến việc tranh tụng; cơ chế để bảo đảm thực hiện việc tranh tụng
cũng chưa được quy định trong Bộ luật này. Về thực tiễn, đội ngũ kiểm sát viên,
luật sư và các chức danh tư pháp khác chưa được chuẩn bị đầy đủ về kỹ năng
tranh tụng; chưa có kinh nghiệm thực tiễn về tranh tụng nên việc tranh luận, đối
đáp tại phiên tòa giữa các bên chưa đi vào trọng tâm các vấn đề cần giải quyết
trong vụ án, làm hạn chế chất lượng, hiệu quả hoạt động tranh tụng; các chủ thể
tranh tụng còn chịu ảnh hưởng của thói quen và kinh nghiệm tham gia phiên tòa
theo quy định cũ. Bên cạnh đó, số vụ án có luật sư tham gia chiếm tỷ lệ thấp; vẫn
còn xảy ra tình trạng vắng mặt luật sư tại phiên tòa, dẫn đến Tòa án phải hoãn
phiên tòa, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
42
Về cơ quan Tòa án: Hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu ở hoạt
động xét xử của tòa án. Trên thực tế, công tác xét xử vẫn còn xảy ra tình trạng
một số bản án phải cải sửa, hoặc tính thuyết phục chưa cao, gây xôn xao dư luận.
Nguyên nhân chính, ngoại trừ các yếu tố về tính công tâm, trách nhiệm, trình độ
chuyên môn của đội ngũ thẩm phán, phải kể đến vai trò tham gia tố tụng của đội
ngũ luật sư. Điều này được thể hiện, vẫn còn những lời bào chữa, tranh tụng của
luật sư chưa thuyết phục, chưa sắc sảo, chỉ mang tính thủ tục, hình thức.
Tòa án là cơ quan xét xử nhưng lại đang được pháp luật giao thực hiện một
số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử, ảnh hưởng đến yêu cầu bảo
đảm sự khách quan trong TTHS như: Bộ luật TTHS quy định cho Tòa án được
xét xử về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (Điều
196) là không phù hợp vì Viện kiểm sát không truy tố thì Hội đồng xét xử không
có căn cứ để xét xử bị cáo, mặt khác ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền bào
chữa của bị cáo.
Thẩm quyền xét xử của Toà án trong một số trường hợp chưa được Bộ luật
điều chỉnh, Điều 171 Bộ luật TTHS chỉ quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án
theo lãnh thổ đối với bị cáo phạm tội ở nước ngoài, còn đối với trường hợp vụ án
có người bị hại là người nước ngoài, hoặc tài sản có liên quan đến người nước
ngoài hoặc có nhiều bị cáo là người nước ngoài thì chưa quy định. Điều luật
cũng chưa dự liệu Tòa án nào có thẩm quyền xét xử đối với trường hợp một bị
can, bị cáo nhưng thực hiện tội phạm ở nhiều địa phương khác nhau.
Tình trạng ngân sách không đủ cho hoạt động tòa án lại khá cao. Cụ thể,
nhiều tòa án không đủ ngân sách để trả phí luật sư tham gia các vụ án bào chữa
chỉ định, không đủ chi phí xét xử lưu động. Không những thế, cơ chế “khoán
chi” đối với các hoạt động hành chính của tòa án cũng được áp dụng phổ biến
43
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử. Thực tế, cơ chế khoán chi chỉ phù
hợp với hoạt động hành chính bởi các hoạt động đó có thể dự liệu trước do tính
đơn giản và lặp lại của chúng. Ngược lại, các hoạt động tư pháp phụ thuộc rất
nhiều vào mức độ phức tạp, tính chất của từng loại vụ án nên khó có thể áp dụng
cơ chế khoán [369]
Vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân chưa cao chủ yếu là do kiêm
nhiệm, cơ cấu Hội thẩm theo từng lĩnh vực (như giáo dục, y tế, khoa học công
nghệ, tài chính, hưu trí…). Mặc dù đã có quy định trách nhiệm của hội thẩm
nhân dân nhưng những quy định thực chất là hình thức và thiếu tính thực tiễn.
Hội thẩm nhân dân không phải chịu trách nhiệm hành chính nào liên quan đến
chất lượng xét xử. Vì thế, dù luôn chiếm đa số trong Hội đồng xét xử và các
phán quyết của Hội đồng xét xử được quyết định theo đa số, nhưng trên thực tế
không tránh khỏi khi xét xử các hội thẩm bị phụ thuộc vào ý kiến của thẩm
phán.
1.4.3. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp
Trong quá trình thực hiện việc thi hành án, tổ chức thi hành án, một số hạn
chế xuất phát từ một số quy định của pháp luật, cụ thể như: Việc ghi nhận cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục bị án bị xử phạt tù nhưng cho
hưởng án treo là nơi người đó thường trú (Khoản 2 Điều 60 BLHS) là chưa phù
hợp với bối cảnh hiện nay, nhất là đối với các trường hợp người bị kết án có chỗ
ở không ổn định, thường xuyên di chuyển, gây khó khăn, trở ngại ảnh hưởng đến
quyền sinh sống, quyền cư trú của họ.
Công tác giám định tư pháp còn bất cập như không ra quyết định kịp thời,
nội dung của quyết định trưng cầu giám định chưa đầy đủ, còn yêu cầu cơ quan
giám định giải đáp, kết luận các vấn đề mang tính pháp lý; một số cơ quan được
44
trưng cầu giám định từ chối, né tránh; thời gian giám định còn dài, nhiều kết luận
giám định chưa rõ ràng, chính xác, dẫn đến phải giám định lại hoặc giám định bổ
sung, ảnh hưởng đến tiến độ điều tra, xử lý vụ án, thậm chí phải tạm đình chỉ
hoặc không xử lý được.
Nhiều lĩnh vực chuyên môn chưa có cơ quan giám định chuyên trách và
người giám định thuộc chuyên môn đó nên các cơ quan tố tụng lúng túng trong
việc trưng cầu giám định. Quy định diện người bào chữa còn hẹp, không bao
gồm Trợ giúp viên pháp lý, người thân thích của bị can, bị cáo có khả năng bào
chữa, trong khi đó quy định về bào chữa viên nhân dân chưa cụ thể nên hầu như
không được áp dụng trong thực tiễn; quy định về người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không cụ thể, rõ ràng nên thực tiễn áp dụng
không thống nhất. Quy định cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa theo từng
giai đoạn tố tụng là không cần thiết, rườm rà về thủ tục, lãng phí thời gian, giấy
tờ (Điều 56 BLTTHS).
1.4.4. Cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tư pháp
Công tác phối hợp giữa các cơ quan Tư pháp được tiến hành thường xuyên,
chặt chẽ, kịp thời và nghiêm túc trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật. Sự phố hợp hoạt động giữa các cơ
quan tư pháp giúp đem lại những kết quả, ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao
chất lượng công tác tư pháp. Cụ thể, về các cơ quan có hoạt động tư pháp đã
thường xuyên phối hợp xây dựng và tham gia nhiều dự án luật, pháp lệnh, đặc
biệt là các dự án luật liên quan đến hoạt động của cơ quan tư pháp như Bộ luật
hình sự, Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước… Các dự án luật đều được
xây dựng bảo đảm tiến độ, chất lượng và sự thống nhất cao của các CQTHTT.
Các cơ quan đã chú trọng phối hợp trong công tác ban hành văn bản hướng dẫn
45
áp dụng thống nhất pháp luật, qua đó tháo gỡ nhiều vướng mắc trong áp dụng
pháp luật của các CQTHTT, thi hành án địa phương, đảm bảo áp dụng đúng và
thống nhất các quy định của pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án. Sự phố hợp chặt chẽ hoạt động giữa các cơ quan tư pháp giúp hạn
chế tối đa những trường hợp bị oan sai, không bỏ lọt tội phạm và đảm bảo cho
việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.4.5. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động xét xử
Thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, cùng với
việc nâng cao chất lượng đội ngũ, đổi mới tác phong công tác, ngành Toà án tỉnh
cũng chú trọng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động
chuyên môn.
Nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử, một trong những yêu cầu của
Nghị quyết là phải bảo đảm tính trang trọng, nghiêm minh của phiên xét xử và
tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đến dự phiên toà. Muốn vậy, ngoài tác
phong, thái độ của các đối tượng tham gia tố tụng, điều kiện cơ sở vật chất mà
chủ yếu là hội trường xét xử đóng vai trò không nhỏ. Việc đầu tư kinh phí cải tạo
trụ sở làm việc với đầy đủ các phòng chức năng: Hội trường xét xử, phòng nghị
án, phòng lấy lời khai đương sự, phòng làm việc cho cán bộ, thẩm phán… Hội
trường xét xử nhìn chung đảm bảo về diện tích và được bài trí sắp xếp theo quy
định: Khu vực làm việc của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Luật sư và những
người tham gia tố tụng khác được bố trí riêng biệt, hợp lý; nhân dân đến dự
phiên toà được bố trí ghế ngồi… Trong điều kiện nguồn kinh phí của TAND Tối
cao có hạn, ngành cũng rất cần sự quan tâm đầu tư của chính quyền các địa
phương để đồng bộ hoá trụ sở làm việc của TAND theo quy chuẩn.
46
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn đã khái quát cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của
người bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử của tại TAND, trong đó nêu bật các khái
niệm công cụ về bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động
xét xử của TAND; đặc điểm, ý nghĩa bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18
tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án; nội dung quy định của pháp luật về bảo
đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của tòa án.
Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về quyền con người và bảo đảm
quyền của người bị hại dưới 18 tuổi qua thực tiễn xét xử ở TAND tỉnh Đắk Lắk;
những tồn tại, hạn chế bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt
động xét xử của TAND cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế
đó.
Những cơ sở lý luận tại Chương 1 sẽ làm tiền đề để phân tích, đánh giá thực
trạng thực trạng bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động
xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk tại Chương 2.
47
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. TỔNG QUAN VỀ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM NGƯỜI BỊ HẠI
DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1.1. Khái quát về Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Hệ thống TAND của tỉnh Đắk Lắk được thành lập ngay sau khi giải phóng
tỉnh Đắk Lắk vào tháng 3 năm 1975 để xét xử các vụ án chống đối chính quyền
cách mạng, các vụ án về kinh tế và trật tự, an toàn xã hội góp phần ổn định tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Đến cuối năm
1976, TAND tỉnh và hệ thống TAND cấp huyện được chính thức thành lập. Khi
mới thành lập có Tòa án tỉnh và 5 đơn vị Tòa án cấp huyện, sau đó tăng dần lên
18 đơn vị. Ngày 01/01/2004 tỉnh Đắk Lắk được chia tách thành hai tỉnh Đắk Lắk
và Đắk Nông theo Nghị Quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội
khóa XI - kỳ họp thứ 4. Hiện nay, Cơ cấu của TAND tỉnh Đắk Lắk có TAND
cấp tỉnh và 15 đơn vị TAND cấp huyện, thị xã và thành phố [56].
Trong những năm qua, mặc dù nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, là một trong
những địa phương có số lượng các vụ việc phải giải quyết hàng năm khá lớn
(Gần 9.000 nghìn vụ án/năm). Đơn cử, theo thống kê, trong giai đoạn 2018-
2022, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý 48.411 vụ, việc các loại; đã giải
quyết 45.450 vụ, việc; đạt tỷ lệ 93,88%. (Trong đó các Tòa chuyên trách thuộc
TAND tỉnh thụ lý 5.357 vụ, việc; giải quyết 5.240 vụ, việc đạt tỷ lệ 97,81%.
TAND cấp huyện thụ lý 43.054 vụ, việc các loại; đã giải quyết 40.210 vụ, việc
đạt tỷ lệ 93,39%). Số lượng, tính chất các loại vụ án ngày càng phức tạp, đặc biệt
48
là những vụ án trọng điểm gây nhiều bức xúc trong nhân dân ngày càng nhiều.
Bên cạnh đó, thẩm quyền của Tòa án được mở rộng; các yêu cầu công tác theo
các Nghị quyết của Quốc hội tiếp tục được bổ sung với chỉ tiêu cao; việc tổ chức
triển khai thi hành Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014 với nhiều
nội dung quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của TAND, đòi hỏi việc
triển khai phải đảm bảo phù hợp quy định của Hiến pháp và tinh thần cải cách tư
pháp.
Về phân bổ biên chế Tòa án cấp huyện thì đơn vị cấp huyện có nhiều biên
chế là TAND thành phố Buôn Ma Thuột 51 biên chế; đơn vị Tòa án cấp huyện
có ít biên chế là TAND huyện Krông Bông là 09 biên chế. TAND hai cấp tỉnh
Đắk Lắk được giao tổng chỉ tiêu biên chế là 330 người nhưng hiện nay số biên
chế của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk mới có 321 người (bao gồm cấp huyện, thị
xã và thành phố Buôn Ma Thuột là 244 người; cấp tỉnh là 77 người), trong đó:
công chức nữ có 157 người chiếm 48,90%, số công chức là người dân tộc thiểu
số chiếm 6,54%, 90 Thẩm phán sơ cấp, 39 Thẩm phán trung cấp, Thẩm tra viên
và Thư ký Tòa án 192 người; 247 Đảng viên. Về trình độ chuyên môn 100%
Thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký có trình độ cử nhân luật trở lên. Tòa án hai cấp
hiện có 46 cán bộ, công chức là Thạc sĩ luật học và nhiều người đang học cao
học Luật;
Về bộ máy TAND tỉnh Đắk Lắk: TAND tỉnh Đắk Lắk gồm 05 Tòa chuyên
trách; Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa hành chính, Tòa lao động và 03
phòng nghiệp vụ gồm: Văn phòng, Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án,
Phòng tổ chức cán bộ và thi đua khen thưởng [56].
Về tổ chức, biên chế TAND tỉnh Đắk Lắk: TAND tỉnh Đắk Lắk hiện có 85
công chức, người lao động trong biên chế, trong đó có 23 Thẩm phán, 48 Thư
49
ký, 06 Thẩm tra viên và 08 chức danh khác.
Ngày 07/12/2018, TAND tỉnh Đắk Lắk đã công bố Quyết định số
1865/QĐ-TCCB của Chánh án TANDTC về việc tổ chức các Tòa chuyên trách
tại TAND các cấp tỉnh Đắk Lắk. Căn cứ vào Quyết định số 1865/QĐ-TCCB,
TAND tỉnh Đắk Lắk đã thành lập Tòa Gia đình và người chưa thành niên, bố trí
các chức danh tư pháp và bổ nhiệm chức vụ quản lý như sau: Ông Nguyễn Duy
Thuấn – Chánh tòa; Bà Nguyễn Thị Hằng – Phó Chánh tòa; Ông Trần Anh Tuấn
– Thẩm phán; Ông Hoàng Văn Nam, bà Vũ Thị Hồng Phúc, ông Nguyễn Duy
Nguyên và bà Lại Thị Minh Hiền – Thư ký Tòa án. Về thẩm quyền của Tòa Gia
đình và người chưa thành niên: Giải quyết các vụ án hình sự mà bị cáo là người
dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên
nhưng người bị hại dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần
sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường Gia đình lành mạnh
như những người dưới 18 tuổi khác; xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính tại TAND đối với người chưa thành niên; giải quyết các vụ,
việc hôn nhân Gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Sự đổi mới này
cho phép trẻ em, Gia đình và các chuyên gia có trình độ chuyên môn tham gia
đầy đủ hơn vào quá trình tố tụng, bên cạnh đó các thủ tục tố tụng được tiến hành
thân thiện, phù hợp với từng lứa tuổi. Đội ngũ Thẩm phán, Thư ký chuyên trách
được lựa chọn làm việc tại Tòa Gia đình và người chưa thành niên phải có kiến
thức về tâm lý học, từ đó đảm bảo đưa ra những phán quyết đúng đắn, vì lợi ích
tốt nhất cho trẻ em.
50
2.2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH
ĐẮK LẮK
2.2.1. Tình hình xét xử các vụ án xâm phạm quyền lợi ích của người bị
hại dưới 18 tuổi của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk từ năm 2018 - 2022
Tình hình giải quyết các VAHS nói chung và các VAHS bảo vệ quyền của
người dưới 18 tuổi nói riêng được thể hiện rõ nét trong báo cáo tổng kết của các
cơ quan THTT và TAND tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 2018 - 2022, trong 5
năm, các cơ quan tố tụng tỉnh Đắk Lắk đã khởi tố 214 vụ/229 bị can; truy tố 203
vụ/228 bị can; xét xử 175 vụ/220 bị cáo về các tội xâm hại trẻ em. Điều này cho
thấy tình tình các tội xâm phạm trẻ em có những diễn biến phức tạp, số lượng
các vụ án có chiều hướng tăng, giảm thất thường. Sự tăng giảm không đồng đều
của tình hình các tội xâm phạm quyền lợi của người bị hại dưới 18 tuổi cũng cho
thấy được sự diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, ẩn chứa những nguy cơ
gia tăng nhóm tội phạm này trong thời gian tới. Tình hình giải quyết các vụ án
hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm quyền của người bị hại dưới 18 nói
riêng của TAND được thể hiện rõ nét trong báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Đắk
Lắk trong giai đoạn 2015 - 2019 cụ thể như sau:
Năm 2018, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý tổng cộng 5.927 vụ (cũ
264 vụ, mới 5.663 vụ); đã giải quyết: 5.677 vụ; còn lại 250 vụ (có 01 vụ quá
hạn), tỷ lệ giải quyết đạt: 95,78%. Trong đó số vụ án xâm phạm quyền của người
bị hại dưới 18 được giải quyết là 53 vụ với 65 bị cáo [51].
Năm 2019, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết 1.711/1.717 vụ thụ
lý, đạt tỷ lệ 99,65%; so với cùng kỳ năm 2015, thụ lý tăng 67 vụ, giải quyết tăng
68 vụ, tỷ lệ giải quyết giảm 0,05%; có 15 bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ
51
quan, chiếm tỷ lệ 0,87%. Trong đó số vụ án xâm phạm quyền của người bị hại
dưới 18 được giải quyết là 43 vụ với 54 bị cáo [53].
Năm 2020, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết 1.675/1679 vụ thụ
lý, đạt tỷ lệ 99,76%; so với cùng kỳ năm 2019, thụ lý giảm 38 vụ, giải quyết
giảm 36 vụ, tỷ lệ giải quyết tăng 0,11%; có 05 bản án, quyết định bị hủy do lỗi
chủ quan, chiếm tỷ lệ 0,30%. TAND cấp huyện đã giải quyết 6.729/6.743 vụ thụ
lý, đạt tỷ lệ 99,79%; so với cùng kỳ năm 2015, thụ lý giảm 308 vụ, giải quyết
giảm 300 vụ, tỷ lệ giải quyết tăng 0,13%; có 25 bản án, quyết định bị hủy do lỗi
chủ quan, chiếm tỷ lệ 0,37%. TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử lưu động 32 vụ với 40
bị cáo. Trong đó, số vụ án xâm phạm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi đã
được giải quyết là 49 vụ với 52 bị cáo[54],
Năm 2021, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk thụ lý 8.328 vụ việc các loại (Thụ
lý cũ: 2.859 vụ việc, thụ lý mới: 5.469 vụ việc), đã chuyển thẩm quyền 278 vụ
việc, còn lại phải giải quyết là 8.050 vụ việc; đã giải quyết 4.090 vụ việc, đạt tỷ
lệ 50,81%; còn lại 3.960 vụ việc chưa giải quyết, trong đó có 2.822 vụ việc đang
tạm đình chỉ, 01 vụ việc quá hạn luật định. So với năm công tác 2017, tổng
lượng án thụ lý tăng 979 vụ việc, giải quyết giảm 197 vụ việc, tỷ lệ giải quyết
giảm 9,18%. Trong đó, số vụ án xâm phạm quyền của người bị hại dưới 18 đã
được giải quyết là 39 vụ với 47 bị cáo [55].
Năm 2022, TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk thụ lý 9.850 vụ việc các loại, giải
quyết 5.057 vụ việc, đạt tỷ lệ 51,34%; còn lại 4.793 vụ việc chưa giải quyết,
trong đó có 3.031 vụ việc đang tạm đình chỉ, 08 vụ việc quá hạn luật định chưa
được giải quyết. So với năm 2017, tổng lượng án thụ lý tăng 312 vụ việc, giải
quyết giảm 112 vụ việc, tỷ lệ giải quyết tăng 0,53%. Trong đó, số vụ án xâm
52
phạm quyền của người bị hại dưới 18 được giải quyết là 37 vụ với 41 bị cáo
[56].
Tình hình các tội xâm phạm quyền lợi của người bị hại dưới 18 tuổi trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2018 - 2022 cao nhất qua các năm là năm là năm 2018
với 49 vụ, thấp nhất là năm 2022 với 37 vụ. Tình hình các tội xâm phạm quyền
lợi của người bị hại dưới 18 tuổi có xu hướng diễn biến phức tạp. Trong đó tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142) cao nhất là năm 2018, 2020 với 37 vụ
chiếm tỉ lệ lần lượt là 69,8% và 75,5 thấp nhất là năm 2022 với 26 vụ chiếm tỉ lệ
70,3%; Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi cao nhất là năm
2018 với 14 vụ, chiếm tỉ lệ 26,4%, thấp nhất là năm 2021 với 3 vụ chiểm tỉ lệ
7,7%; Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi cao nhất là năm 2020, 2021 với 3 vụ mỗi năm và chiếm tỉ
lệ là 15,8% và 9,7%. Trong khi đó tội dâm ô người 16 tuổi chiểm tỷ lệ cao nhất
là năm 2019 với 3 vụ chiếm tỉ lệ 9,7%; thấp nhất là năm 2021 với 3 vụ chiểm tỉ
lệ 7,7% . Tội làm nhục người khác (Điều 155) xảy ra ít trong năm 2021 là 2 vụ
và năm 2022 là 1 vụ điều này được thể hiện qua bảng 2.1.
Hậu quả, có 8 trường hợp tử vong, 163 trường hợp bị tổn thương bộ phận
sinh dục, 13 trường hợp có thai, 7 trường hợp phải bỏ học và 160 trường hợp
bị tác động mạnh, mang thương tật về thể chất, tinh thần, thường xuyên có
thái độ lo sợ, tự ti, từ đó làm suy giảm nhận thức và mất năng lực giao tiếp xã
hội. Trong 6 tháng đầu năm 2022, Cơ quan cảnh sát điều tra hai cấp tỉnh Đắk
Lắk giải quyết 17 tố giác, tin báo tội phạm và khởi tố 16 vụ/16 bị can về các
tội xâm phạm tình dục trẻ em. Có thể nói, đây chỉ là số vụ việc đã được xử lý,
thông tin, do người bị hại trình báo với cơ quan chức năng. Trên thực tế, có
nhiều trẻ em đã bị xâm hại mà gia đình cũng như người bị hại chưa dám lên
53
tiếng vì tâm lý e ngại, sợ xấu hổ với bà con hàng xóm hay sợ ảnh hưởng đến
cuộc sống tương lai của con em mình sau này. Trong khi đó, công tác điều tra,
làm rõ hành vi phạm tội của những đối tượng xâm hại trẻ em tại những địa bàn
vùng sâu, vùng xa của cơ quan chức năng còn gặp rất nhiều khó khăn.
Bảng 2.1: Thống kê tình hình các tội xâm phạm quyền lợi người dưới 18
tuổi xét theo tội danh căn cứ vào số liệu của TAND tỉnh Đắk Lắk
Tổng số vụ
Điều 142
Điều 144 Điều 145 Điều 151 Điều 155
Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số
Năm
Số Tỉ lệ 100% 49
Số 37 69,8% 14 26,4% 1
1,9%
Tỉ Số lệ 1 1,9% 0
2018
Tỉ lệ 0%
100%
29 67,4% 11 25,6% 2
3,5%
1 3,5% 0
2019
43
0%
100%
37 75,5% 7 14,3% 3
6,1%
2 4,1% 0
2020
46
0%
100%
28 71,8% 3
7,7%
3
7,7%
3
7,7
2 5,1%
2021
39
100%
26 70,3% 6 16,2% 2
5,4%
2 5,4% 1 2,7%
2022
37
Tổng
221
100%
157 71% 41 18,6% 11 4,9%
9
4,07
3
1,43
(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của TAND tỉnh Đắk Lắk giai đoạn
2018 - 2022) [ 51,52,53,54,55].
Các vụ án xâm hại trẻ em thường tập trung nhiều ở những địa bàn vùng
núi, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, nơi có nhiều phòng trọ, gia đình
thiếu sự quan tâm đến con cái. Qua nghiên cứu các vụ án cho thấy đối tượng
phạm tội trong nhà nạn nhân chiếm tỉ lệ khá cao với 57/221 vụ chiếm tỉ lệ
25,79% [55]. Chúng ta có thể thấy rằng nguyên nhân này xuất phát từ việc gia
đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái. Điển hình như vụ án Hiếp
dâm của 2 bị cáo Phan Phi Long và Nguyễn Đình Vũ, cụ thể: chiều 23/9/2021,
Long, Vũ và một số người bạn, trong đó có cháu gái cùng tổ chức ăn nhậu tại
một khu rẫy ở thôn 1C, xã Ea Wy, huyện Ea H’leo. Quá trình ăn nhậu, Long
nảy sinh quan hệ tình dục với cháu gái nên nói với Vũ. Đến khoảng 18 giờ
54
cùng ngày, sau khi nhậu xong, Vũ điều khiển xe máy chở cháu gái đi về, còn
Long điều khiển xe máy đi theo sau. Khi đi qua một căn nhà hoang ở thôn 1C,
xã Ea Wy thì cả 2 dừng xe rồi đưa cháu gái vào trong nhà để quan hệ tình dục.
Tại đây, cháu gái đòi đi về nhưng 2 bị cáo không cho. Sau đó, cả 2 đã tìm cách
để thực hiện hành vi thú tính mặc cho nạn nhân vùng vẫy, la hét, chống cự.
Trong lúc các đối tượng đang thực hiện hành vi đồi bại thì có tiếng xe máy
cày đi ngang qua. Lúc này, sợ bị phát hiện nên Long và Vũ đã dừng lại rồi chở
cháu gái đi về. Khi về đến nhà, cháu gái đã kể lại toàn bộ sự việc cho gia đình
nghe và gia đình đã trình báo đến Công an huyện Ea H’leo.Tại thời điểm Long
và Vũ thực hiện hành vi phạm tội thì cháu gái mới được 14 tuổi 3 tháng. Ngày
31/3, TAND tỉnh Đắk Lắk đã đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và tuyên phạt bị cáo
Phan Phi Long 19 năm tù và Nguyễn Đình Vũ 13 năm tù cùng về tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi. Sau đó, 2 bị cáo đã có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt. (Trích bản án số 16/2021/HSST ngày 14/01/2021 của TAND tỉnh Đắk
Lắk).
Nhiều vụ án xâm hại tình dục xảy ra do xuất phát từ việc gia đình không
quan tâm trong việc quản lý, chăm sóc các em trong cuộc sống hàng ngày;
trong khi đó, các trẻ em gái hoặc các trẻ bị bệnh tâm thần hoặc hạn chế khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi là những đối tượng non nớt về kinh
nghiệm sống và thiếu khả năng tự bảo vệ mình trước các cạm bẫy của xã hội,
rất dễ trở thành đối tượng bị xâm hại tình dục.
Về phương thức, thủ đoạn phạm tội đa phần các bị cáo sử dụng dùng vật
chất để dụ dỗ bị hại chiếm 94/221 vụ với tỉ lệ 42,53%; các đối tượng sử dụng vũ
lực để gây án chiến tỉ lệ 32,13% (71/221 vụ) và những thủ đoạn khác như lợi
55
dụng sự kém hiểu biết của trẻ, trẻ còn quá nhỏ tuổi, trẻ bị thiểu năng trí tuệ…
chiếm tỉ lệ 25,34% (56/221 vụ).
Bảng 2.2. Phương thức, thủ đoạn phạm tội
Tổng số vụ án
221 100% Dùng vật chất để dụ dỗ 94 42,53 Sử dụng vũ lực để gây án 71 32,13 Những thủ đoạn khác 56 25,34
(Nguồn: Số liệu thống kê của TAND tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2018 - 2022) [54]
Về độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án qua bảng số
liệu của toà án có thể thấy bị hại từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm tỉ lệ cao
nhất với 38,46%; kế đến là độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chiếm tỉ lệ
26,7%, tiếp theo là từ đủ 6 tuổi đến dưới 13 tuổi chiếm tỉ lệ 25,34% và thấp nhất
là độ tuổi dưới 6 tuổi chiếm tỉ lệ 9,5%.
Bảng 2.3. Độ tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm hại
trẻ em trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2018 – 2022
Bị hại Dưới 6 tuổi Từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi
221 100% 21 9,5% Từ đủ 6 đến dưới 13 tuổi 56 25,34% Từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi 85 38,46% 59 26,7%
(Nguồn: Bản án xét xử sơ thẩm cuả TAND tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2018- 2022)
2.2.2. Bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét
xử của tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
2.2.2.1. Bảo đảm phối hợp trong giai đoạn xét xử các vụ án bảo đảm quyền
của người bị hại dưới 18 tuổi
Trong giai đoạn từ 2018 đến năm 2022, TAND tỉnh Đắk Lắk đã làm tốt
công tác phối hợp giữa TAND với các cơ quan TTHS, trong các VAHS có bị hại
56
dưới 18 tuổi. Thực trạng xét xử các vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi trong
giai đoạn 2018 – 2022, cho thấy TAND tỉnh Đắk Lắk đã phối hợp chặt chẽ với
CQĐT, VKS cùng cấp tronng các hoạt động điều tra, truy tố để giải quyết kịp
thời, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội và áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối
với những hành vi xâm hại trẻ em, nhất là hành vi xâm hại người dưới 18 tuổi.
Phối hợp chuyển, nhận hồ sơ vụ án và bản cáo trạng: Viện kiểm sát bàn
giao hồ sơ vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi và bản cáo trạng cho Tòa án để
xét xử sơ thẩm theo quy định tại Điều 244 và Điều 276 của Bộ luật TTHS, thông
tin cho Tòa án để bố trí, sắp xếp thời gian, tiếp nhận hồ sơ nhanh chóng, kịp thời.
Khi bàn giao hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát chuẩn bị đầy đủ các tài liệu chứng cứ,
hoàn thiện các thủ tục tố tụng để bàn giao hồ sơ cho Tòa án. Nếu hồ sơ vụ án
chưa đầy đủ (như chưa giao được cáo trạng cho bị can, chưa có bản thống kê vật
chứng, thiếu danh sách những người cần triệu tập đến phiên tòa) hoặc sắp xếp tài
liệu không đúng trình tự so với bảng kê tài liệu, vật chứng; đánh số bút lục nhầm
lẫn, thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung, khắc phục ngay.
Phối hợp trước khi mở phiên tòa: Tòa án ghi rõ trong quyết định đưa vụ
án ra xét xử hình thức tổ chức phiên tòa tại phòng xử án hình sự thông thường
hay phòng xử án giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên để
Kiểm sát viên chuẩn bị trang phục phù hợp khi tham gia phiên tòa; Trường hợp
Viện kiểm sát đề nghị triệu tập bị hại đến phiên tòa thì Tòa án xem xét quyết
định việc triệu tập đến phiên tòa. Nếu buộc phải triệu tập bị hại có mặt tại phiên
tòa thì bố trí phòng xử án phù hợp hoặc phải có màn che ngăn cách với khu vực
của bị cáo tại phiên tòa; xem xét, đề nghị bác sĩ, chuyên gia tâm lý hỗ trợ bị hại,
áp dụng các biện pháp bảo vệ bị hại tại phiên tòa; Trường hợp Viện kiểm sát cần
đề nghị nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoặc công
57
khai một số tài liệu, chứng cứ bằng dữ liệu điện tử tại phiên tòa trong vụ án có bị
hại là người dưới 18 tuổi thì phải trao đổi với Tòa án để bố trí phương tiện, kỹ
thuật phục vụ tại phiên tòa phù hợp với điều kiện thực tế của Tòa án.
Phối hợp khi xét xử sơ thẩm tại phiên tòa: Người THTT và người tham gia
tố tụng khi tham gia phiên tòa phải thực hiện theo quy định của Thông tư số
02/2018/TT-TANDTC ngày 21/09/2018 của Chánh án TANDTC quy định chi
tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi
thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên (sau đây viết tắt là
Thông tư số 02/2018), Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của
Chánh án TANDTC quy định về phòng xử án. Trường hợp thấy cần thiết phải
công bố công khai tại phiên tòa các chứng cứ, tài liệu là dữ liệu điện tử, công bố
lời khai đã được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình giải quyết vụ
án thì Kiểm sát viên phối hợp với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện việc
công bố. Việc công bố tài liệu, chứng cứ công khai tại phiên tòa được thực hiện
khách quan, đúng pháp luật…Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch này còn quy định
về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng; trung cầu
giám định và trong giai đoạn điều tra, truy tố…
Đối với các vụ án mà bị hại cần được trợ giúp pháp lý, Tòa án đã chủ động
liên lạc với các cơ quan trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự. Trước tình hình các tội xâm phạm người dưới 18 tuổi ngày càng
phức tạp TA đã có những bước tiến mới trong việc bảo đảm quyền của bị hại là
người dưới 18 tuổi trong các vụ án như sau:
- Về tòa gia đình và người chưa thành niên. Tòa gia đình và người chưa
thành niên TAND tỉnh Đắk Lắk được thành lập ngày 07/12/2018. Đây là Tòa gia
đình và người chưa thành niên trên cả nước với thẩm quyền chuyên biệt xét xử
58
các vụ án hôn nhân và gia đình, các vụ án dân sự, hình sự liên quan đến người
chưa thành niên, đặc biệt là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong
các vụ án trẻ em. Đây là bước tiến quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp,
triển khai có hiệu quả các chủ trương và quan điểm của Đảng và Nhà nước nhằm
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và xử lý người chưa thành niên phạm tội;
đồng thời chứng tỏ cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền
trẻ em, đặc biệt là hoạt động tư pháp, thông qua việc xây dựng một hệ thống tư
pháp toàn diện mà Tòa gia đình và người chưa thành niên là trung tâm, với sự
tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đây là
phương thức thực hiện tinh thần khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 về
nguyên tắc xét xử kín. Theo báo cáo tổng kết công tác hoạt động của Tòa gia
đình và người chưa thành niên giai đoạn 2018 – 2022, Tòa gồm có 7 biên chế
(trong đó có 5 Thẩm phán và 2 thư ký); có 01 chánh tòa và 01 phó chánh Tòa
[53].
2.2.2.2. Bảo đảm việc phân công người THTT bảo đảm quyền của người bị
hại dưới 18 tuổi trong các vụ án
Căn cứ Thông tư liên tịch số 06/2018 và Thông tư số 02/2018/TT-
TANDTC Thông tư số 02/2018 của TANDTC. Khi có quyết định xét xử các vụ
án xâm pham trẻ em, Chánh án TAND tỉnh lựa chọn phân công các Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa xét xử VAHS có bị hại là người dưới 18 tuổi luôn đáp ứng điều
kiện của BLTTHS quy định về người THTT các VAHS có người tham gia tố
tụng là người dưới 18 tuổi (Điều 415). TAND tỉnh luôn cử các Thẩm phán có
kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi là người có thâm niên công tác
trong lĩnh vực tư pháp; quản lý, đào tạo, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người
59
dưới 18 tuổi; người được đào tạo về giáo dục thanh, thiếu niên, nhi đồng hoặc
những người khác có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.
Về thành phần tham gia xử án: Theo báo cáo tổng kết công tác hoạt động
của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong giai đoạn 2016 – 2019, thì tổng
số cán bộ công chức của Tòa gia đình và người chưa thành niên là 38 người gồm
18 thầm phán và 20 thư ký [53]. Để đáp ứng yêu cầu xét xử hiện nay, dội ngũ
nhân sự phải nắm chắc quy định của pháp luật về người chưa thành niên, về hôn
nhân gia đình. Trình độ ngoại ngữ của các Thẩm phán còn hạn chế. Vì vậy,
nhiều trường hợp còn khó khăn khi giải quyết các vụ án đòi hỏi nghiên cứu, xem
xét các tài liệu bằng tiếng nước ngoài. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được TAND tối
cao hướng dẫn theo
Công văn số 226/TANDTC-TCCB: Những người được chủ tịch nước bổ
nhiệm chức danh Thẩm phán (lần đầu) có nhiệm kỳ là 05 năm; những người
được chủ tịch nước bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán hoặc bổ nhiệm lại vào
ngạch thẩm phán (thông qua thi nâng ngạch) có nhiệm kỳ là 10 năm, hết nhiệm
kỳ, Thẩm phán sẽ được xem xét và bổ nhiệm lại. Với quy định gắt gao hiện nay,
nếu trong nhiệm kỳ gặp sai sót dẫn đến hủy án, Thẩm phán có thể không được
xem xét bổ nhiệm lại, hoặc thông qua thi nâng ngạch không đạt yêu cầu đồng
nghĩa với việc trở lại làm Thư ký. Quy định như vậy, có tác dụng thúc đẩy Thẩm
phán có trách nhiệm hơn trong công tác xét xử, không để tình trạng án tồn, án
hủy xảy ra.
Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập: Việc quy định nhiệm kỳ đối với một
chức danh Thẩm phán là quá ngắn, đối với tình hình kinh tế ngày càng phát triển
như hiện nay, số vụ án ngày càng đa dạng và gia tăng về số lượng, hàng năm mỗi
Thẩm phán trung bình phải giải quyết hàng chục vụ án mỗi lĩnh vực, đồng thời
60
phải bảo đảm không có án tồn, án hủy, điều này khiến Thẩm phán không yên
tâm với công việc, không kiên quyết, mạnh dạn trong việc giải quyết án vì tâm lý
e ngại án bị hủy không được tái bổ nhiệm dẫn đến tình trạng vụ án giải quyết bị
kéo dài hoặc án giải quyết bị quá hạn, Thẩm phán không còn chuyên tâm vào
từng vụ án mà chỉ quan tâm đến số lượng giải quyết, nhiều trường hợp đến hạn
báo cáo cuối năm, các Thẩm phán phải cố dồn án giải quyết cho kịp chỉ tiêu và
tiến độ. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các đương sự, cũng như
không thể bảo đảm chất lượng xét xử. Trong tình trạng các vụ án xâm phạm
người dưới 18 tuổi diễn biến phức tạp và đa dạng, việc có một đội ngũ bảo đảm
về số lượng, chất lượng chuyên sâu, am hiểu và có kinh nghiệm xét xử về lĩnh
vực này, đặc biệt là thật sự có trách nhiệm với công tác của mình sẽ thuận lợi
hơn rất nhiều trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
Quy trình tuyển chọn, cử Hội thẩm nhân dân và năng lực trình độ của Hội
thẩm nhân dân trong giai đoạn hiện nay còn nhiều hạn chế. Hội thẩm nhân dân
đóng vai trò quan trọng trong công tác xét xử. Nhưng hiện nay, Hội thẩm nhân
dân chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm hoặc công chức Nhà nước đã nghỉ hưu nên rất
ít người được đào tạo chính quy có trình độ đại học hoặc trên đại học về luật mà
chủ yếu chỉ có trình độ trung cấp về luật. Điều này gây trở ngại không nhỏ trong
công tác xét xử những vụ án liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền của bị hại là
người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm trẻ em. Trên thực tế rất ít Hội
thẩm thực hiện đúng trách nhiệm và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho mình,
chế định Hội thẩm tham gia xét xử còn mang nặng tính hình thức.
2.2.2.3. Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới
18 tuổi, nhà trường, Đoàn Thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm
lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt
61
Việc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án của các cá nhân, tổ chức xã
hội…sẽ bảo đảm cho người dưới 18 tuổi được hỗ trợ về mặt tinh thần (có thể cả
về pháp lý), ổn định về tâm sinh lý cho người dưới 18 tuổi, bảo đảm các quyền
và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời có thể hạn chế được sự lạm quyền hoặc vi
phạm pháp luật của những người THTT.
Cùng với việc phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, TAND tỉnh lựa
chọn mời Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử giải quyết vụ án. Hội
thẩm nhân dân phải là “giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi” (khoản 2
Điều 6 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC.
Việc tham gia của người đại diện, nhà trường và tổ chức của người dưới 18
tuổi là rất quan trọng để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới
18 tuổi, cũng như trợ giúp cho người dưới 18 tuổi về tâm lý, đồng thời cũng có
thể giám sát được hoạt động của những người có thẩm quyền THTT. Người đại
diện nói chung và người đại diện của người dưới 18 tuổi nói riêng là người tham
gia tố tụng theo quy định tại khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015.
2.2.2.4. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tiến hành TTHS đối với người
dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk
Trách nhiệm Tòa án trong quá trình xét xử VAHS có người tham gia tố
tụng dưới 18 tuổi là phải bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tiến hành TTHS đối
với người dưới 18 tuổi. Trong giai đoạn từ 2018-2022. TAND tỉnh Đắk Lắk luôn
bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng
thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.
62
Tòa án tuân thủ các quy định về thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi
sao cho bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho họ. Các quy định về thủ tục tố
tụng cần bảo đảm sự thân thiện, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi của
người dưới 18 tuổi. Khi áp dụng quy định của pháp luật về các thủ tục TTHS,
ngoài việc cần bảo đảm thực thi công lý, thì việc xử lý người phạm tội của các
cơ quan có thẩm quyền THTT phải chú trọng đến việc bảo vệ lợi ích tốt nhất cho
đối tượng bị xâm hại là người dưới 18 tuổi, người phạm tội phải bị nghiêm trị để
mang lại công lý, niềm tin cho người dưới 18 tuổi.
Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ
bản được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng
được đặc biệt chú trọng vì trẻ em thuộc nhóm yếu thế, chưa phát triển đầy đủ về
nhận thức, thể chất để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại
đến mình.
2.2.2.5. Cách thức tổ chức phiên tòa xét xử vụ án có người bị hại là người
dưới 18 tuổi
Phòng xử án hình sự của Tòa gia đình và người chưa thành niên không có
vành móng ngựa, bị cáo là người chưa thành niên được tiếp xúc với người đại
diện hợp pháp, người giám hộ, người thân, người bào chữa. Trong các vụ án
hình sự có bị hại là người dưới 18 tuổi, đặc biệt là các vụ án xâm phạm trẻ em,
Tòa gia đình và người chưa thành niên đã sắp xếp riêng cho bị hại, tránh để bị
hại tiếp xúc với bị cáo làm ảnh hưởng đến tâm lý của bị hại trong quá trình xét
xử. Việc cách ly cũng bảo đảm lời khai của bị hại được khách quan. Tuy nhiên
trụ sở làm việc của Tòa gia đình và người chưa thành niên chưa đáp ứng được
yêu cầu đòi hỏi vì chỉ có 02 phòng xử án, 01 phòng hòa giải nên thiếu phòng
cách ly, phòng xử án, phòng hòa giải. Các phòng xử án, hòa giải có diện tích
63
nhỏ, trong trường hợp có nhiều đương sự thì không đủ sức chứa, người dự khán
phải ngồi tràn ra ngoài phòng [53]. Vấn đề thiếu phòng chức năng là Phòng cách
ly bị hại là trẻ em là vấn đề khó khăn đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
2.3.1. Ưu điểm trong bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi
trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Một là, Trong quá trình xét xử, giải quyết các vụ án mà nạn nhân là người
dưới 18 tuổi, có thể nói rằng TAND tỉnh Đắk Lắk đã luôn bám sát các nguyên
tắc về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, bảo vệ quyền
và lợi ích của người dưới 18 tuổi nói riêng, được quy định trong các văn bản
pháp luật hình sự; pháp luật hôn nhân và gia đình; pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình, đó là: chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dưới 18
tuổi; hành vi bạo lực nói chung và bạo lực về tình dục nói riêng phải được phát
hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật; nạn nhân bị bạo
lực được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người dưới 18 tuổi, đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia
đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực nói chung và bạo
lực đối với người dưới 18 tuổi nói riêng.
Hai là, Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự và xét xử các vụ án mà nạn
nhân là người dưới 18 tuổi, TAND tỉnh đã chủ động phối hợp với các cơ quan
THTT theo đúng các quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án,
đặc biệt là các vụ án lớn, trọng điểm được dư luận xã hội quan tâm. Đến nay,
64
TAND tỉnh đã xây dựng được quy chế phối hợp giữa các CQTHTT, định kỳ trao
đổi, thống nhất những vấn đề còn có ý kiến khác nhau về đánh giá chứng cứ và
áp dụng pháp luật, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án, tránh tình trạng trả hồ sơ
yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần giữa các CQTHTT, đảm bảo việc giải quyết
vụ án đúng hạn luật định.
Ba là, TAND tỉnh Đắk Lắk luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc Thông
tư liên tịch số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của TANDTC quy định chi
tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi;
Công văn số 68/TANDTC ngày 08/4/2019 của TANDTC hướng dẫn xét xử tội
phạm xâm phạm tình dục và bạo hành trẻ em; Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP
ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số
quy định tại các Điều 141,142,143,144,145,146,147 của Bộ luật hình sự và việc
xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.
Bốn là, Thực hiện ý kiến chỉ đạo của TANDTC, trong thời gian qua TAND
tỉnh Đắk Lắk đã khẩn trương nghiên cứu hồ sơ để đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm
minh các vụ án mà nạn nhân là người dưới 18 tuổi, đáp ứng yêu cầu chính trị của
các địa phương.
Năm là, Công tác tổ chức các phiên toà xét xử các vụ án hình sự mà nạn
nhân là người dưới 18 tuổi đều được TAND tỉnh Đắk Lắk cân nhắc kỹ lưỡng,
đảm bảo vừa làm rõ các tình tiết của vụ án, đồng thời đảm bảo thuần phong mỹ
tục, các yếu tố văn hoá; bảo vệ danh dự, phẩm giá của con người và không gây
tác động tiêu cực đến tâm lý của người bị hại, đặc biệt là người dưới 18 tuổi.
Hình phạt mà các Tòa án áp dụng đối với các bị cáo phạm tội liên quan đến bạo
lực đối với người dưới 18 tuổi về cơ bản đảm bảo nghiêm minh, đúng quy định,
tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đáp ứng được yêu
65
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về bạo lực đối với
người dưới 18 tuổi nói riêng trong tình hình hiện nay. TAND tỉnh Đắk Lắk cũng
đã chú trọng việc phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở trung ương và
địa phương để làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật và tinh
thần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm về bạo lực người
dưới 18 tuổi nói riêng trong nhân dân, góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật
nâng cao nhận thức của người dân trong việc xây dựng gia đình văn hóa, xã hội
văn minh, bảo vệ quyền và lợi ích cũng như danh dự, nhân phẩm của trẻ em gái.
Tại phiên tòa, bên cạnh việc xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo, xác
định sự thật của vụ án, Hội đồng xét xử luôn chú trọng công tác giáo dục pháp
luật thông qua việc giải thích pháp luật, phân tích cho các bị cáo và những người
tham dự phiên tòa hiểu rõ về hậu quả và những hệ lụy phát sinh từ hành vi bạo
lực đối với người dưới 18 tuổi.
2.3.2. Hạn chế trong bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi
trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk
Xuất phát từ đặc trưng của các vụ án đối với người dưới 18 tuổi là các vụ án
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, trong quá
trình giải quyết các vụ án bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong
hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk còn gặp một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, Các tội liên quan đến bạo lực đối với người bị hại dưới 18
tuổi xảy ra chủ yếu tập trung ở các tội: Cố ý gây thương tích, hiếp dâm, hiếp dâm
người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi, dâm ô với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; đặc biệt còn có tội giết
người mà nạn nhân là người dưới 18 tuổi...các đối tượng phạm tội đa số là nam
giới, ở nhiều độ tuổi khác nhau, thường sử dụng bạo lực như đe dọa, đánh đập,
66
giam giữ nạn nhân, ép nạn nhân phải thực hiện theo yêu cầu của mình, một số
trường hợp có hành vi dụ dỗ và dọa nạt, lợi dụng nạn nhân thiếu hiểu biết nhận
thức hoặc không có khả năng tự bảo vệ nên không dám tố cáo hành vi của mình.
Nạn nhân là người dưới 18 tuổi ở các lứa tuổi khác nhau; có hoàn cảnh khó khăn
về kinh tế, thiếu sự quan tâm, chăm sóc của người lớn, thiếu sự hiểu biết. Có nạn
nhân mới chỉ 08 - 09 tuổi, chưa có khả năng nhận biết về các hành vi đồi bại mà
các em đang phải hứng chịu từ chính những người có quen biết hoặc người thân
trong gia đình.
Thứ hai, Trong một số vụ án việc xác định tuổi của người bị hại gặp nhiều
khó khăn, các cơ quan THTT đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng không xác định
được chính xác tuổi của người bị hại để xác định người bị hại có phải là người
dưới 13, 16 hoặc dưới 18 tuổi hay không. Có trường hợp bị hại không có giấy
khai sinh gốc, hoặc có giấy khai sinh nhưng ngày, tháng, năm sinh không chính
xác hoặc giấy khai sinh chỉ ghi năm sinh. Có vụ án cha mẹ người bị hại nhớ
nhầm ngày sinh của người bị hại (ngày âm lịch, ngày dương lịch) nên cấp phúc
thẩm phải hủy án của cấp sơ thẩm. Cũng có trường hợp lời khai của bố, mẹ bị
hại và giấy tờ, lý lịch trong hồ sơ về ngày, tháng, năm sinh giống nhau nhưng cơ
quan THTT lại thu được những chứng cứ khác với tài liệu kể trên.
Có trường hợp không xác định được năm sinh của người bị hại, cơ quan
THTT đã làm các thủ tục để tiến hành giám định tuổi của họ nhưng kết quả giám
định của các cơ quan chuyên môn lại khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với tài liệu
điều tra khác nên gây khó khăn cho CQTHTT, trong đó có Tòa án trong việc
đánh giá, sử dụng tài liệu chứng cứ.
Thứ ba, Khi xảy ra hành vi xâm hại tình dục đối với người dưới 18 tuổi, để
có căn cứ khởi tố, truy tố và xét xử đối tượng về tội danh gì trong các tội xâm hại
67
tình dục người dưới 18 tuổi, thì cần phải có kết luận giám định pháp y và những
vật chứng có liên quan để làm căn cứ, khẳng định ai là người thực hiện hành vi
phạm tội. Trên thực tế, có nhiều vụ xâm hại tình dục đối với người dưới 18 tuổi
nhưng không đủ cơ sở để đưa người phạm tội ra trước pháp luật. Có nhiều
trường hợp người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, gia đình biết nhưng lưỡng lự
trong cách giải quyết do lo sợ ảnh hưởng đến tương lai của các em, dẫn đến trình
báo muộn, không biết cách thu giữ vật chứng cần thiết để giao nộp cho cơ quan
chức năng, nên đã vô tình tạo điều kiện để người thực hiện hành vi phạm tội có
đủ thời gian xóa hết dấu vết. Có một số trường hợp, sau khi bị xâm hại tình dục
suốt một thời gian dài, người bị hại mới tố cáo hành vi của người phạm tội do sợ
danh dự, nhân phẩm của bản thân và gia đình bị ảnh hưởng. Do đó, việc thu thập
chứng cứ đầy đủ, chính xác gặp nhiều khó khăn (vùng kín bị hóa sẹo, không thu
được tinh dịch…) nên rất khó để xác định người bị hại có bị hiếp dâm hay không
và ai là người thực hiện hành vi.
Thứ tư, Đặc trưng cơ bản của hành vi bạo lực gia đình là hành vi của các
thành viên trong gia đình gây tổn hại cho nhau. Do đó, khi xảy ra các vụ việc có
dấu hiệu vi phạm pháp luật về bạo lực đối với người dưới 18 tuổi thì thường
được hòa giải hoặc giải quyết nội bộ trong gia đình, chứ không có đơn trình báo
tới các cơ quan chức năng để xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự. Vì
vậy rất khó khăn cho công tác nắm tin báo, tố giác về tội phạm.
Thứ năm, Về phía các nạn nhân bị bạo lực là người dưới 18 tuổi do không
nhận thức được đầy đủ quyền của mình nên không dám đấu tranh mà cam chịu
bạo lực dẫn đến quá trình đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội của các bị can gặp
khó khăn (bị can không nhận tội, bị hại không hợp tác điều tra); vụ án xảy ra ở
68
nơi vắng vẻ, chỉ có đối tượng và nạn nhân tại hiện trường, không có nhân chứng
trực tiếp. Do vậy, việc thu thập chứng cứ gặp nhiều khó khăn.
Thứ sáu, Người có hành vi phạm tội và người bị hại thường có quan hệ thân
thích hoặc quan hệ phụ thuộc, như: Vợ - chồng, cha - con, con nợ - chủ nợ…mà
người bị hại vì quan hệ tình cảm hoặc vì bị đe dọa trả thù mà không dám đứng ra
tố cáo người có hành vi phạm tội hoặc không hợp tác với cơ quan điều tra để lấy
lời khai, không đi giám định thương tích …
Thứ bảy, Về sử dụng kết quả giám định: Công tác giám định tư pháp đóng
vai trò rất quan trọng trong việc xử lý vụ án hình sự. Kết luận giám định là
chứng cứ (điểm d Điều 87 BLTTHS năm 2015) để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, cơ chế hình thành dấu vết, tính chất và mức độ thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra; những tình tiết liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và những tình tiết khác có ý
nghĩa trong việc giải quyết vụ án, để đảm bảo việc xử lý vụ án được chính xác,
khách quan và đúng pháp luật. Trong thực tế điều tra, truy tố, xét xử còn có khó
khăn, vướng mắc trong giải quyết vụ án về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người. Khi giám định lại thì cơ quan THTT sử dụng kết quả giám định
nào (kết quả giám định lần đầu; kết quả giám định lại lần thứ nhất hay kết quả
giám định lại lần thứ hai…) để làm căn cứ truy tố và xét xử đối với hành vi phạm
tội?
Thứ tám, Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại khoản 1 Điều 142
Bộ luật hình sự:
“a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự
vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác với người từ tủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
69
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới
13 tuổi”. …Khoản 3 Điều 142 quy định… c) Đối với người dưới 10 tuổi.
Như vậy, điều luật chưa quy định hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 10 tuổi
đến dưới 13 tuổi. Tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 145, 146 Bộ luật hình
sự năm 2015 mới chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với người đủ 18
tuổi. Như vậy, nếu một người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mà giao cấu với trẻ
em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong giai đoạn hiện nay một bộ phận không nhỏ ở độ tuổi từ 16 đến dưới 18
tuổi có hành vi phạm tội này. Đây là điểm hạn chế trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm này. Tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự có đề cập đến
việc công khai xin lỗi người bị hại. Tuy nhiên, thủ tục công khai việc xin lỗi như
thế nào thì hiện nay chưa được giải thích cụ thể nên khó áp dụng trong thực tiễn,
đặc biệt là trong thực tiễn xét xử các vụ án về xâm hại người dưới 18 tuổi.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế trong việc bảo đảm quyền của người
bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk
Qua thực tiễn, tác giả nhận thấy nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
trong việc bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử
của TAND được thể hiện:
Thứ nhất, nguyên nhân về các quy định của pháp luật. Chưa thống nhất
trong quy định có liên quan đến xâm hại trẻ em và bảo đảm quyền của bị hại là
người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm hại trẻ em. Khái niệm về trẻ em và độ
tuổi của trẻ em hiện nay được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới luật,
70
nhưng không có sự thống nhất, rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau về độ tuổi
của trẻ em. Việc quy định không thống nhất, rõ ràng về độ tuổi của trẻ em đã gây
khó khăn, bất cập trong công tác bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi
trong các vụ xâm hại trẻ em.
- Thiếu những quy định xử lý các cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố giác
hành vi xâm hại người dưới 18 tuổi; không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ
trách nhiệm bảo vệ người dưới 18 tuổi bị xâm hại.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước toà án khá nhiều và cồng
kềnh. Ngoài Luật còn có những văn bản hướng dẫn chi tiết như: nghị định, thông
tư, nghị quyết... Các văn bản dưới luật này lại rải rác, được ban hành có tính hệ
thống không cao gây khó khăn cho việc áp dụng, thực thi trên thực tế. Thêm vào
đó, phương pháp liệt kê được sử dụng phổ biến trong quá trình xây dựng pháp
luật giúp các cơ quan THTT dễ dàng áp dụng để giải quyết án xâm phạm người
bị hại dưới 18 tuổi nhưng tính dự báo sẽ không cao, sẽ là trở ngại cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử khi có những tình tiết mới phát sinh mà pháp luật chưa
dự liệu được và không có cơ sở để giải quyết.
Thứ hai, nguyên nhân từ phía các CQTHTT. Theo yêu cầu công tác thì đội
ngũ cơ quan THTT phải nắm chắc các quy định của pháp luật về tư pháp người
chưa thành niên, về hôn nhân gia đình. Vấn đề năng lực trình độ của điều tra
viên, kiểm sát viên, thẩm phán xét xử còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được sự
đòi hỏi của thực tế. Nhiều cán bộ còn chưa nắm vững khái niệm và trình tự hoạt
động giải quyết án thuộc thẩm quyền. Trình độ ngoại ngữ của các cán bộ tại Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn hạn chế. Vì vậy, nhiều trường hợp còn
khó khăn khi giải quyết các vụ án đòi hỏi phải xem xét, nghiên cứu các tài liệu
bằng tiếng nước ngoài.
71
Thứ ba, nhận thức về pháp luật của bản thân bị hại và gia đình còn hạn chế
Trong nhiều vụ án mặc dù tại Cơ quan điều tra và trong hồ sơ vụ án đã thể hiện
quan điểm rõ ràng và khẳng định hành vi của bị cáo là đối với họ. Nhưng do
trongquá trình xét xử gia đình bị cáo và bi hại đã thỏa thuận, thống nhất với nhau
và thậm chí do sự tác động nào đó (có thể bị đe dọa hoặc hứa hẹn) nên tại phiên
tòa bị hại thay đổi lời khai, phủ nhận lời khai trước và một mực bảo vệ bị cáo,
cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi xâm phạm đối với họ như trong hồ sơ
vụ án đã thể hiện... qua đó gây nhiều khó khăn cho Hội đồng xét xử trong quá
trình giải quyết vụ án đó.
Trong các vụ án xâm hại người dưới 18 tuổi, bị hại và gia đình của bị hại
thường có tâm lý e ngại, lo sợ ảnh hưởng đến danh dự, cuộc sống nên nhiều gia
đình chưa dám lên tiếng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Khi xảy
ra vụ việc, họ thường không trình báo với cơ quan có thẩm quyền mà dấu diếm,
bỏ qua hoặc tự thỏa thuận với người có hành vi phạm tội và gia đình của người
phạm tội gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình giải
quyết vụ án, do thời gian xảy ra lâu, sự hợp tác không chặt chẽ của người phạm
tội, người bị hại nên việc giám định của cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn,
cũng ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Có trường hợp bị hại quan hệ tình dục, bị bạo hành khủng bố học đường với
nhiều người trong thời gian dài, nên khi cơ quan tiến hành điều tra thì không có
chứng cứ buộc tội tất cả các đối tượng. Cũng như có trường hợp biết sự việc thì
gia đình bị cáo và bị hại tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường, sau đó không
thống nhất được mức bồi thường nên bị hại mới tố cáo hành vi của người phạm
tội, nhưng việc khai báo không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án
72
nên việc điều tra và nhận định các chứng cứ gặp nhiều khó khăn, kéo dài thời
gian giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, một số loại tội liên quan đến người dưới 18 tuổi xảy ra trông
nội bộ gia đình, như bạo lực gia đình nên việc phát hiện, tố giác và xử lý gặp
nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính là do nhận thức của người bị xâm hại còn
hạn chế, không tố giác kịp thời các hành vi này. Trong các trường hợp này bị hại
có thái độ cam chịu hoặc không hợp tác với chính quyền địa phương, đoàn thể có
biện pháp kịp thời mà âm thầm chịu đựng cho đến khi không thể chịu đựng được
nữa mới gửi đơn tố cáo hành vi xâm hại. Khi Tòa án yêu cầu cung cấp chứng cứ
thì không cung cấp được chứng cứ chứng minh là có hành vi xâm hại gây khó
khăn cho TA trong việc giải quyết, xét xử vụ án.
Nhận thức pháp luật của một số người dân còn nhiều hạn chế. Nhiều người
chưa nhận thức được hành vi của họ thực hiện là hành vi vi phạm pháp luật hoặc
danh dự, nhân phẩm của họ đã bị xâm hại, phổ biến nhất là hành vi giao cấu với
trẻ em, quaasay rối tình dục, bạo lực gia đình... Thông thường giữa bị cáo và bị
hại có quan hệ tình cảm, thậm chí có trường hợp gia đình bị hại còn tổ chức đám
cưới cho hai người tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện hành vi giao cấu với bị hại.
Do đó, việc xử lý, phát hiện hành vi phạm tội chưa triệt để, một số trường hợp
còn che dấu, không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án.
73
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn trên cơ sở những quy định của pháp luật về đảm bảo
quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong họat động xét xử tại TAND tỉnh Đắk Lắk, đã
làm rõ những nội dung như sau:
Thứ nhất, tác giả đã khái quát những nội dung liên quan đến các vụ án hình
sựu có bị hại là người dưới 18 tuổi trong họat động xét xử tại TAND tỉnh Đắk
Lắk thông qua những nội dung sau: khái quát chung về các đặc điểm kinh tế, xã
hội của trong họat động xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk; tình hình các vụ án
hình sự có người bị hai dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND tỉnh Đắk
Lắk; đặc điểm các vụ án có người bị hại dưới 18 tuổi trong họat động xét xử tại
TAND tỉnh Đắk Lắk.
Thứ hai, thực trạng bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong họat động
xét xử của TAND tỉnh Đắk Lắk thông qua những nội dung: thực trang bảo đảm
quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn tiền khởi tố và khởi tố; giai đoạn
điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử.
Thứ ba, Luận văn chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế trong đảm bảo
quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong họat động xét xử của TAND tỉnh
Đắk Lắk.
74
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
DƯỚI 18 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH
ĐẮK LẮK
3.1.1. Bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử của tòa án
nhân dân cần quán triệt quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền
con người, quyền công dân
Bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền không chỉ là nội dung,
bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền.
TTHS là một lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến quyền con người. Quyền con người
đặc biệt là bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong xét xử của tòa án
được ghi nhận và bảo vệ trong hoạt động TTHS bằng các phương tiện, biện pháp
khác nhau. Trong đó, các biện pháp quan trọng nhất là quy định đúng đắn, hợp lý,
khả thi trong pháp luật TTHS và bảo đảm thực hiện quy định đó trên thực tế. Việt
Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước quốc tế về quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 02 năm 1990. Quan điểm của Đảng,
Nhà nước Việt Nam là chăm lo con người, tôn trọng, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người,
quyền công dân có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đó sẽ là những tư tưởng chỉ đạo với
75
hoạt động cụ thể trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng -
an ninh, ngoại giao... Có thể khái quát hệ thống quan điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người. Trong
quá trình hình thành và phát triển, quyền con người là sản phẩm của sự thống nhất
của tính phổ biến và tính đặc thù. Vì vậy, muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn
những vấn đề thực tiễn cụ thể về quyền con người cần quán triệt quan điểm kết hợp
tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người. Tính phổ biến của quyền con
người là thuộc tính, theo đó quyền con người bao hàm những nguyên tắc, những
quyền được áp dụng phổ biến ở khắp nơi, cho mọi đối tượng. Còn tính đặc thù của
quyền con người là thuộc tính, theo đó cho phép quyền con người ở mỗi quốc gia,
mỗi lãnh thổ do trình độ phát triển kinh tế - xã hội và truyền thống dân tộc khác nhau
mà có những đặc trưng riêng, có mức độ thỏa mãn riêng phù hợp với điều kiện quốc
gia, lãnh thổ đó. Vì vậy, trong quá trình giải quyết thực tiễn về quyền con người nhất
thiết phải tuân theo sự thống nhất giữa tính phổ biến và tính đặc thù đó, không thể
đối lập tính phổ biến với tính đặc thù và ngược lại.
Thứ hai, quyền con người có tính giai cấp. Con người sinh ra vốn dĩ đã có
quyền, quyền đó tồn tại dưới dạng những nhu cầu bức thiết, những yêu sách hợp lý.
Nhưng, để trở thành quyền thực sự cần đến yếu tố pháp luật thiết định. Pháp luật,
như chúng ta đều biết, là pháp luật của các chế độ chính trị khác nhau, nội dung của
nó được ghi nhận trong khuôn khổ đảm bảo trước hết lợi ích của giai cấp thống trị xã
hội. Do vậy, quyền con người mang tính chất giai cấp sâu sắc.
Thứ ba, quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất.
Ở nước ta, truyền thống cộng đồng, truyền thống dựng nước và giữ nước cũng
như kinh nghiệm cách mạng Việt Nam cho thấy, những “vong quốc nô” thì không
thể có quyền con người. Nói cách khác, nước Việt Nam có độc lập thì dân tộc Việt
76
Nam mới có tự do. Quá trình giải quyết vấn đề quyền con người là thông qua quá
trình giải phóng dân tộc, quyền con người chỉ có trong độc lập dân tộc. Ở đây,
không thể có cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, chỉ có sự thống nhất giữa
nhân quyền và chủ quyền quốc gia.
Hiến pháp xác định quyền, đồng thời cũng xác định nghĩa vụ của công dân đối
với Nhà nước và xã hội “quyền công dân đi đôi với nghĩa vụ của công dân”. Vì vậy,
việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ có thể là đúng khi đặt nó trong quan hệ
với người khác, với dân tộc, bởi vì “chỉ trong cộng đồng thì mỗi cá nhân, mới có
những phương tiện để phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, chỉ trong
cộng đồng thì mới có thể có cá nhân tự do” (Các Mác).
Thứ tư, quyền con người phụ thuộc vào sự phát triển và truyền thống dân tộc.
Quyền con người là nhu cầu vốn có của con người, nhưng trạng thái thực hiện và
mức độ thỏa mãn lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và
truyền thống dân tộc của mỗi quốc gia. Quyền con người phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế, rằng: “Việc thực hiện quyền tự do của con người tùy thuộc vào
lực lượng sản xuất và trong phạm vi cho phép của lực lượng sản xuất, chứ không
phải tùy thuộc ở điều người ta mong muốn” (Các Mác). Tuy nhiên, việc thực hiện
quyền con người tốt hay xấu, rộng hay hẹp còn phụ thuộc vào những yếu tố khác
như bản chất của chế độ xã hội, vai trò của Nhà nước và các thể chế chính trị, ý
thức dân chủ và sự trưởng thành của cá nhân và cộng đồng. “Quyền không thể cao
hơn trình độ phát triển kinh tế” là định hướng quan trọng cho việc giải quyết đúng
đắn vấn đề quyền con người trong đời sống hiện thực, vừa tránh được chủ quan duy
ý chí trong xây dựng pháp luật vừa tránh được tình trạng lạc hậu của pháp luật so
với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ quản lý theo cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, pháp luật Việt Nam đã quy định nhiều quyền, trong đó có cả
77
quyền “đi học không mất tiền”, “chữa bệnh không mất tiền”. Đó là những quy định
đúng với bản chất của chế độ ta, nhưng do trình độ kinh tế thấp nên pháp luật đã
không đi vào cuộc sống được.
Về văn hóa, dân trí là điều quan trọng để xác lập và thực hiện quyền con
người. Điều này đòi hỏi con người có sự hiểu biết nhất định về dân chủ, pháp luật
và ý thức về quyền của công dân mới có thể đảm bảo thực hiện quyền trong thực tế.
Bởi quyền của con người là kết quả do đấu tranh mới giành được, chứ không thể là
sự ban ơn, bố thí của bất kỳ ai. Như vậy, pháp luật quy định quyền con người,
quyền công dân phải gắn và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước
trong mỗi thời kỳ lịch sử, đồng thời quá trình xây dựng pháp luật về quyền con
người, quyền công dân phải giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc.
Thứ năm, quyền con người, quyền công dân phải được chế độ pháp luật bảo
vệ. Đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các
quyền con người, quyền công dân được thực hiện. Khi trở thành quyền pháp định,
quyền con người, quyền công dân là ý chí chung của toàn xã hội, được xã hội phục
tùng, được quyền lực nhà nước bảo vệ. Quyền con người, quyền công dân khi được
Hiến pháp, pháp luật ghi nhận trở thành độc lập đối với bất kỳ quyền uy nào, kể cả
các cơ quan, viên chức nhà nước cao nhất.
Hiện nay, trên lĩnh vực pháp luật bảo vệ quyền con người, Nhà nước ta đã ban
hành Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật TTHS, Luật Tổ chức TAND, Luật
Tổ chức VKSND, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân,
Luật Lao động, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học,
Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, Luật Báo chí, Pháp lệnh về tổ chức luật sư,
Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại
của người nước ngoài ở Việt Nam... Có thể khẳng định rằng, Hiến pháp và pháp
78
luật Việt Nam hiện nay đã thể hiện đầy đủ các quyền cơ bản, phổ biến của con
người.
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Đảng ta
chủ trương “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền
Việt Nam”, đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật,
chắc chắn sẽ mở rộng hơn nữa phạm vi quyền con người, quyền công dân theo đà
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3.1.2. Bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử cần phát huy
vai trò của Tòa án nhân dân và các cơ quan tham gia tố tụng khác trong bảo
đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất được Hiến pháp và pháp luật trao chức
năng xét xử. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Để quyền con người không bị xâm phạm trong hoạt động tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử, TAND cần bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc xét xử công khai; Nguyên tắc
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án;
Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa; Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án và Giám
đốc việc xét xử.[34]
Xác định rõ Tòa án là cơ quan thực hiện quyền Tư pháp đồng thời đảm bảo
những điều kiện để Tòa án thực hiện quyền Tư pháp trong thực tế, đặc biệt là
phải nâng cao chế độ lương, phụ cấp, công tác phí để cán bộ công chức Tòa án
có thể đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình ở mức trung bình, yên tâm
79
công tác mà không phải lo về “cơm, áo, gạo, tiền”. Các chế độ của cán bộ, công
chức Tòa án hiện nay còn thấp. Trong khi đó, việc mở các phiên tòa lưu động
tuy có ý nghĩa tích cực trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm nhưng cũng
làm tiêu tốn một số kinh phí nhất định, ảnh hưởng đến ngân sách đơn vị. Do đó
cần phải có những đảm bảo về tài chính nhất định để Tòa án thực hiện nhiệm vụ
của mình.
Ngoài ra, để Thẩm phán yên tâm làm việc và làm việc có hiệu quả thì cần
phải quy định lại nhiệm kỳ của Thẩm phán. Hiện nay, nhiệm kỳ của Thẩm phán
là 05 năm trong khi đó thủ tục bổ nhiệm, tái bổ nhiệm chặt chẽ, nhiều quy trình,
mất nhiều thời gian; nếu có vi phạm thì có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Do đó,
nên quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán là 10 năm hoặc là vô thời hạn. Đáp ứng
yêu cầu trên, hiện nay Luật tổ chức tòa án đã quy định nhiệm kỳ thứ hai trở đi
khi bổ nhiệm lại đối với chức danh thẩm phán là 10 năm.
Vai trò của các cơ quan tố tụng khác, Đẩy mạnh tiến độ thành lập và đi vào
hoạt động mô hình Viện kiểm sát và Tòa án khu vực trên toàn quốc để bảo đảm
độc lập xét xử [33].
Trong mối quan hệ giữa các CQTHTT, cần xác định rõ mối quan hệ “chế
ước”, chứ không chỉ là “phối hợp” để tránh sự bao che lẫn nhau, dẫn đến tình
trạng “sai một ly, đi một dặm”. Tăng cường đào tạo lực lượng Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán theo hướng đủ về số lượng và cao về chất lượng. Đặc
biệt phải đào tạo kiến thức về quyền con người cho đội ngũ này. Trang bị cơ sở
vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc hiện đại, hiệu quả.
3.1.3. Nâng cao trình độ nhận thức của các chủ thể tiến hành tố tụng về
bảo đảm quyền của người bị hai trong hoạt động xét xử vụ của tòa án nhân
dân
80
Chủ thể THTT trong hoạt động xét xử vụ án hình sự được hiểu là những
người trong Hội đồng xét xử các vụ án hình sự (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân).
Nhiệm vụ lớn nhất của giai đoạn xét xử là ra được bản án, quyết định tố tụng
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để ra được một bản án hoàn chỉnh và
chính xác thì nhất thiết phải có hoạt động nhận thức trước đó.
Hoạt động nhận thức ở giai đoạn này được thực hiện bởi các thành viên của
Hội đồng xét xử nhằm kiểm tra lại tính đúng đắn của các thông tin thu thập được
trong giai đoạn điều tra thông qua hồ sơ và lời khai của những người tham gia tố
tụng. Hoạt động nhận thức mang tính chủ động, ít căng thẳng hơn so với hoạt
động nhận thức ở giai đoạn điều tra do chủ thể nhận thức đã được tiếp cận với
lượng thông tin ít hơn, cô đọng hơn và được sàng lọc ở giai đoạn điều tra.
Trong hoạt động xét xử, quá trình xét hỏi về các tình tiết của vụ án là giai
đoạn trung tâm, là giai đoạn độc lập để xác định sự thật của vụ án. Đây chính là
yếu tố tìm kiếm của hoạt động nhận thức.
Ví dụ trong những trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu cung cấp
thêm những tài liệu mới, mời thêm người làm chứng trước đây chưa được hỏi để
có thể xét hỏi hoặc tạm hoãn phiên tòa.
Do quá trình nhận thức chứng cứ của Tòa án thông qua hình thức gián tiếp
nên các thành viên của Hội đồng xét xử ít bị ảnh hưởng hơn nhiều bởi yếu tố xúc
cảm so với điều tra viên. Mặt khác, thời gian nhận thức của chủ tọa phiên tòa
ngắn hơn điều tra viên nên đòi hỏi phải phân phối đều hơn về tinh thần và trí lực.
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (Điều 49 BLTTHS). Từ góc độ áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thì bị can có thể bị tạm giam hoặc các biện pháp
ngăn chặn khác, bị can bị hỏi cung…Từ góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con người, bị can có nguy cơ bị xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ,
81
nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm.
Do đó cần nâng cao nhận thức của bị can trong hoạt động xét xử các vụ án hình
để bị can nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình. Cụ thể, pháp luật quy định
quyền của bị can nhiều hơn là trách nhiệm làm cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, bác bỏ việc buộc tội hoặc bảo vệ mình trước khả
năng xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp trong quá trình TTHS giải quyết các
vụ án hình sự.
Cũng như bị can, bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc
tội và đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 50 BLTTHS). Vì vậy,
địa vị pháp lý, tình trạng của bị cáo cũng giống như bị can; có nghĩa là bị cáo
cũng có khả năng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế do BLTTHS quy định, có
nguy cơ bị xâm phạm các quyền con người cao, đã có sự buộc tội chính thức nên
cần có các quyền tương ứng để bào chữa, cho nên các biện pháp bảo đảm quyền
con người đối với bị can, bị cáo cơ bản là giống nhau. Do đó, việc nâng cao trình
độ nhận thức của bị can, bị cáo về quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án
hình sự là rất cần thiết, để hạn chế tối đa tình trạng oan sai và để bảo vệ tối đa
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI DƯỚI 18
TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH
ĐẮK LẮK
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền của
người bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại tòa án nhân dân
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo vệ trẻ em bằng các biện pháp tuyên
truyền, giáo dục ý thức cảnh giác, phát hiện sớm, tự phòng ngừa các hoạt động
xâm hại trẻ em và hỗ trợ tư vấn pháp lý khi cần thiết là một biện pháp cần làm.
82
Khi bị xâm hại tình dục, nạn nhân và gia đình phải trình báo ngay cho cơ
quan Công an để được hỗ trợ tư vấn, giải quyết tránh để lọt tội phạm. Quan trọng
nhất, gia đình cùng nhà trường cần giáo dục, trang bị kỹ năng sống cho các em;
phổ biến những kiến thức về giới tính một cách khéo léo, lành mạnh; góp phần
phòng chống việc lạm dụng tình dục trong cuộc sống.
Nhìn chung, Việt Nam đã có một hệ thống khung pháp luật tương đối toàn
diện và đầy đủ để bảo đảm và bảo vệ các quyền con người nói chung, trong đó
có quyền của người dưới 18 tuổi nói riêng. Bộ luật hình sự năm 2015, BLTTHS
năm 2015, Nghị định số 06/2019... ban hành là bước tiến mới trong việc đảm bảo
quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử của tòa án. Tuy
nhiên, các quy định bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong c trong
giai đoạn xét xử của tòa án còn tản mạn, chưa tập trung theo lĩnh vưc; trong đó
có một số quy định còn chung chung, khó thực hiện. Theo đó, thời gian tới cần
phải rà soát, hệ thống hóa các quy định này trên cơ sở đó ban hành mới hoặc sửa
đổi, bổ sung theo hướng tổng thể, toàn diện.
Trẻ em là thế hệ mầm non - tương lai của đất nước, cần được chăm sóc bảo
vệ, giáo dục, trong những điều kiện tốt nhất bởi nhà trường và xã hội. Pháp luật
Việt Nam luôn dành sự quan tâm đến trẻ em, xem trẻ em là nguồn hạnh phúc của
gia đình của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
đồng thời trang bị hành trang pháp luật để bảo vệ người dưới 18 tuổi bị xâm hại.
Trong thời gian tới để hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề
bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử thì trong
thời gian tới, Quốc hội nên phê chuẩn tăng tuổi nghỉ hưu đối với một số chức
danh nhằm tận dụng uy tín, phẩm chất, kinh nghiệm... của các cán bộ này. Trong
quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán thủ tục còn quá rườm rà, cần đơn
83
giản hóa thủ tục bổ nhiệm. Đối với những trường hợp bổ nhiệm lại, cần đơn giản
hóa thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán. Điều này giúp cho hoạt động của Thẩm
phán ít bị gián đoạn hơn, góp phần làm giảm thiểu tình trạng thiếu Thẩm phán
hiện nay.
Bổ sung vào BLTTHS 01 điều luật để quy định về xác định tuổi của người
bị hại là người dưới 18 tuổi nhằm khắc phục những điều không có lợi cho người
bị buộc tội, theo hướng: “Điều... Xác định tuổi của người bị hại là người dưới
18 tuổi. Việc xác định tuổi của người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ quan
THTT thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các biện
pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của
họ thì tuổi của họ được xác định như sau:
a) Trường hợp xác định tháng sinh cụ thể, nhưng không xác định được
ngày sinh trong tháng đó thì lấy ngày mùng một của tháng đó làm ngày sinh;
b) Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định
được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mùng một của tháng đầu của quý
đó làm ngày sinh;
c) Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm,
nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối
năm đó thì lấy ngày mùng một tháng Giêng hoặc ngày mùng một tháng Bảy
tương ứng của năm đó làm ngày sinh;
d) Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được
ngày tháng sinh thì lấy ngày mùng một tháng Giêng của năm đó làm ngày sinh.
Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để
xác định tuổi”. Trên cơ sở sửa đổi Điều 417 BLTTHS, Cơ quan có thẩm quyền
84
sửa đổi, bổ sung Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018 ngày 21/12/2018 cho
thống nhất, phù hợp.
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS theo hướng dân chủ hóa hoạt
động tố tụng, phải xem việc tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại dưới 18 tuổi vào quá trình TTHS là sự giám sát tốt nhất đối với
các hoạt động của cơ quan THTT và trên tinh thần tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân đã được hiến định. Bên cạnh việc làm rõ chức
năng buộc tội, chức năng xét xử thì cần phải chú ý đến chức năng bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi của những người tham gia tố tụng là
luật sư, bào chữa viên nhân dân, đại diện hợp pháp hay trợ giúp viên pháp lý khi
họ tham gia tố tụng. Cần tăng cường các quyền cho người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại để bảo đảm quyền bình đẳng với các chủ thể khác nhằm
phát huy vai trò, vị trí của họ trong quá trình tham gia tố tụng. Khi tăng cường
các quyền cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi
đồng nghĩa với việc các CQTHTT, người có thẩm quyền THTT phải có trách
nhiệm tạo điều kiện để người bảo vệ thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình. Quy định rõ trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng từ phía các cơ
quan THTT và các chủ thể tố tụng khác khi giải quyết vụ án hình sự. Khi tham
gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi cần
được tạo điều kiện để tranh tụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Việc tranh
tụng không chỉ bó hẹp ở giai đoạn xét xử mà xuyên suốt các giai đoạn tiền tố
tụng, điều tra, truy tố, xét xử. Quy định chế tài đối với người có thẩm quyền
THTT trong trường hợp họ có những hành vi, việc làm gây khó khăn, cản trở
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi khi họ thực thi
nhiệm vụ, làm xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của bị hại dưới 18 tuổi.
85
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến các giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố nhằm bảo đảm quyền lợi của người bị bại
dưới 18 tuổi
Để giải quyết các vụ án xâm phạm tới quyền của người bị hại dưới 18 tuổi
hiện nay nhanh chóng, kịp thời. Hiện nay các cơ quan có thẩm quyền cần ban
hành hướng dẫn cụ thể quy định về giám định khẩn cấp đối với những trường
hợp tố giác tội phạm. Cơ quan có thẩm quyền cần chủ động phối hợp với cơ
quan chuyên môn xây dựng quy trình giải quyết theo hướng khi tiếp nhận tin
báo, tố giác tội phạm nhanh chóng, kịp thời thực hiện các hoạt động: kịp thời thu
giữ dấu vết đặc biệt là lông, tóc, sợi, dịch, máu, quần áo, công cụ trong các vụ án
xâm phạm tình dục, tội cố ý gấy thương tích. hạo hành trẻ em...có bị hại là người
dưới 18 tuổi; phối hợp với Bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý, bác sĩ chuyên khoa
phụ sản, cán bộ đã được đào tạo chuyên môn về quản lý chăm sóc, giáo dục trẻ
en xử lý thông tin ban đầu, thăm khám, thu thập dấu vết, vật chứng có liên quan
trên thân thể nạn nhân để tiến hành giám định pháp y trong thời gian nhanh nhất
nhằm kết luận có hay không có dấu hiệu xâm phạm tình dục, tội cố ý gấy thương
tích. hạo hành trẻ em; công tác khám nghiệm hiện trường cần kịp thời, tỉ mỉ, toàn
diện để đánh giá lời khai của bị hại là có căn cứ hay không, để làm căn cứ đấu
tranh với bị can vì đây là những chứng cứ quan trọng để truy nguyên đối tượng.
Cần quy định cụ thể, rõ ràng hơn hoặc có văn bản hướng dẫn về vấn đề
khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu
trong vấn đề quy định cụ thể về nội dung, hình thức yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự cho phù hợp với thực tiễn hơn. Về vấn đề đơn tố cáo, tố giác tội phạm theo
tác giả nên xác định là một trong những nội dung của yêu cầu khởi tố sau khi
kiểm tra, xác minh vì trong nội dung chứa đựng yêu cầu xử lý người phạm tội.
86
Quy định như vậy sẽ thống nhất trong nhận thức của cơ quan THTT trong việc
xác định đơn tố cáo có phải là yêu cầu khởi tố hay không, làm giảm bớt thời
gian, chi phí tố tụng, tránh làm cho bị hại phải gánh chịu thêm những thiệt hại về
tinh thần, uy tín, danh dự do việc khởi tố vụ án gây ra mà vẫn đạt được mục đích
cuối cùng là giáo dục người phạm tội. Cần có hướng dẫn cụ thể trong việc thay
đổi quyết định khởi tố trong trường hợp phát sinh các tình huống phức tạp hay
đưa ra các án lệ, các thông báo rút kinh nghiệm để bị hại có thể dễ dàng hơn
trong việc rút yêu cầu khởi tố.
- Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định giai đoạn điều tra, về vấn đề lấy
lời khai của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án hình sự nên có quy định
cụ thể trong việc mời chuyên gia tâm lý tham gia cùng. Trong trường hợp không
mời được cần tập huấn cho các cán bộ các kĩ năng như là quan sát thái độ, cử chỉ
hành động của các em, cần sử dụng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu mà ở nhà
ông bà, bố mẹ hay dùng trao đổi với bị hại… Tự nhiên có tiền hoặc quà, phát
ngôn những từ ngữ mới, vẽ hình ảnh bất thường về tình dục, có phương pháp
tình dục không phù hợp, … để có phương pháp tiếp cận trẻ phù hợp với lời khai
của bị hại là người dưới 18 tuổi.
Về xác định độ tuổi của bị hại quy định tại Điều 417 BLTTHS năm 2015.
Cần có hướng dẫn cụ thể căn cứ xác định tuổi, cách thức xác định tuổi của bị hại
là người dưới 18 tuổi trong trường hợp không có giấy tờ hoặc giấy tờ, tài liệu về
xác định tuổi của họ có mấu thuấn, không rõ rảng. Theo đó, quy định rõ căn cứ
để xác định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi gồm: giấy chứng sinh, giấy khai
sinh, giấy chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, sổ hộ khẩu, lời khai của
cha mẹ, người thân thích, người biết việc, người đại diện, người bảo vệ quyền lợi
của người dưới 18 tuổi và các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi
87
của người đó. Trường hợp không có giấy tờ, tài liệu hoặc giấy tờ, tài liệu xác
định tuổi của bị hại là người dưới 18 tuổi có mâu thuẫn, không rõ ràng có thể xác
định chính xác ngày, tháng, năm sinh cho người dưới 18 tuổi thì cơ quan THTT
phải phối hợp với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà trường, đoàn
thanh niên nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động sinh hoạt để lấy lời khai, áp
dụng biện pháp xác minh để xác định chính xác tuổi của người dưới 18 tuổi.
Trường hợp đã áp dụng biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được khoảng
thời gian tháng, quý, nửa năm của năm sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể thì
căn cứ vào khoản 2 Điều 417 của BLTTHS. Trường hợp kết quả giám định tuổi
chỉ xác định được khoảng độ tuổi thì cơ quan THTT lấy tuổi thấp nhất trong
khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi.
- Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định liên quan đến giai đoạn truy tố
Về vấn đề trích dẫn cáo trạng, hiện nay việc trích dẫn điều luật trong cáo
trạng là chưa thống nhất, trong thực tế tuy không làm ảnh hưởng đến quyết định
truy tố của Viện kiểm sát. Nhưng theo tác giả để bảo đảm tính nghiêm minh và
thống nhất thì cần phải xem xét vấn đề này trước hết cần tuân thủ đầy đủ và đúng
quy định tại Điều 243 và Điều 461 BLTTHS năm 2015. Bám sát mẫu hướng dẫn
số 144/HS (Ban hành kèm theo quyết định số 15/QĐ – VKSTC ngày 09 tháng
01 năm 2017 của Viện trưởng VKSNDTC. Nghiên cứu kỹ và vận dụng có hiệu
quả Thông báo rút kinh nghiệm số: 811/TB – VKSTC – V1C ngày 18 tháng 11
năm 2014 của VKSNDTC về rút kinh nghiệm một số tồn tại, hạn chế về báo cáo,
chỉ thị ban hành Cáo trạng của VKSND các tỉnh miền trung; Thông tư liên tịch
số 04/2018/TTLT – VKSNDTC – BCA – BQP ngày 19 tháng 10 năm 2018 của
VKSNDTC– Bộ Công an – Bộ Quốc phòng về quy định phối hợp giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS. Đề
88
xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành một văn bản hướng dẫn chính thức về
“trích dẫn điều luật” trong cáo trạng hoặc là phải thống nhất vận dụng công văn
số 1044/VKSTC – V4 ngày 29/03/2017 của Vụ 4 – VKSNDTC. Theo tác giả
cách tính thời hạn trả hồ sơ để điều tra bổ sung cần có hướng dẫn cụ thể căn cứ
vào khoản 2 điều 174 của BLTTHS năm 2015 và quy định rõ ràng như sau: khi
TA trả hồ sơ điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung là không quá 01 tháng
là giai đoạn thẩm quyền của Tòa trả cho Viện kiểm sát, còn nếu Viện kiểm sát tự
bổ sung được thì trong thời hạn 01 tháng phải tiếp tục truy tố và chuyển hồ sơ
cho TA. Trong trường hợp Viện kiểm sát không thể tự bổ sung thì phải trả hồ sơ
cho Cơ quan điều tra thì lúc này thời hạn phải tính 02 tháng, bởi vì, thời điểm
này hồ sơ vụ án đang trong giai đoạn truy tố thì Viện kiểm sát có quyền quyết
định việc trả hồ sơ và phải tính thời hạn 02 tháng để đủ thời gian thu thập chứng
cứ đối với vụ án được nhập vào.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật sâu rộng
trong toàn xã hội về hình sự, hôn nhân gia đình, pháp luật về chăm sóc, giáo
dục, bảo vệ trẻ em và pháp luật về phòng bạo lực gia đình, học đường, xâm
phạm tình dục...
Cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền Luật phòng,
chống bạo lực gia đình; Luật bình đẳng giới; Luật hôn nhân và gia đình; Luật
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em...nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp
nhân dân về bạo lực gia đình. Giáo dục bình đẳng giới phải được thực hiện ngay
từ trong gia đình đến nhà trường và xã hội để định hình nhận thức; phải nâng cao
nhận thức của cả hai giới về quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với các
thành viên trong gia đình. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về
giới, về tình dục về quyền của trẻ em, một cách sâu rộng có trọng tâm, trọng
89
điểm để bị hại và gia đình của họ nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của
mình trong đấu tranh phòng chống xâm phạm tới quyền lợi, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của trẻ em. Đề xuất với Bộ giáo dục và đào tạo đưa môn giáo dục
công dân, giáo dục giới tính, giáo dục quyền con người vào chương trình giáo
dục bắt buộc đối với học sinh, sinh viên ngay từ sớm nhằm nâng cao nhận thức
và khả năng tự vệ từ chính đối tượng có nguy cơ bị xâm phạm, bị bạo lực học
đường. Thường xuyên phổ biến những phương thức, thủ đoạn phạm tội và các vụ
việc xảy ra để người dân và tự bản thân trẻ em nâng cao ý thức phòng ngừa;
hướng dẫn cho người dưới 18 tuổi một số biện pháp phòng chống các tội phạm
thường xảu ra ở lứa tuổi chưa thành niên. Thiết lập các đường dây "nóng", hòm
thư tố giác tội phạm để tiếp nhận mọi thông tin, tài liệu liên quan đến các vụ việc
xâm phạm trẻ em. UBND tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Lễ phát động Tháng hành
động vì bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm
2022 với chủ đề: "Đảm bảo an sinh xã hội, tăng quyền năng cho trẻ em gái nhằm
thực hiện bình đẳng giới và xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới". Theo đó, UBND tỉnh
kêu gọi các cấp, các ngành tăng cường giáo dục kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ, tự
phòng ngừa xâm hại cho trẻ em; tìm kiếm sự trợ giúp trong trường hợp bị bạo
lực; xử lý nghiêm các vi phạm về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với
bạo lực trên cơ sở giới…Tuy nhiên, trước hết và trên hết, ngay chính trong các
gia đình, những người cha, người mẹ phải luôn quan tâm quản lý, giáo dục,
hướng dẫn con em đừng để trở thành nạn nhân bị xâm hại. Mặt khác, các cấp
chính quyền, ngành chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức
cảnh giác, cung cấp cho trẻ em kiến thức và kỹ năng tự bảo vệ mình, lên án các
hành vi xâm hại tình dục.
90
Trong công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho người
dưới tuổi cần thông tin về tình trạng các tội thường xảy ra xâm phạm trẻ em,
nguyên nhân, hậu quả và những biện pháp phòng, chống tội xâm phạm trẻ em.
Đồng thời, tuyên truyền những vấn đề liên quan đến bổn phận và quyền trẻ em
được quy định trong Luật trẻ em; tuyên truyền, giáo dục cho các em những kiến
thức về sức khỏe, giới tính và các kỹ năng cần thiết chống bị xâm hại và lạm
dụng tình dục, giới thiệu về quy tắc "4 vòng tròn, 5 ngón tay", "vùng cấm trên cơ
thể"; tư vấn pháp luật và tâm lý, cảnh báo đến người dưới 18 tuổi những chiêu
thức mà thủ phạm thường sử dụng. Qua đó giúp người dưới 18 tuổi có thể bảo vệ
mình trước các nguy cơ bị xâm hại
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hình sự,
hôn nhân gia đình, pháp luật về chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em và pháp luật
về phòng, chống xâm phạm người dưới 18 tuổi cho đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh hơn
nữa công tác thông tin, tuyên truyền Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011 - 2020. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải có kế hoạch,
chương trình ngắn hạn, dài hạn cụ thể trong đó chủ động chú trọng đến việc lồng
ghép nội dung tuyên truyền phòng, chống xâm hại trẻ em vào trong sinh hoạt
thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh hoạt ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt
chuyên đề của tổ chức, đoàn thể các cấp. Hơn ai hết để bảo vệ con em mình
trước nguy cơ bị xâm hại cần nâng cao vai trách nhiệm của cha mẹ và người thân
để tránh những sự việc đau lòng do tội phạm gây nên, cha mẹ cần thường xuyên
quan tâm, chia sẻ với con mình để nhận thấy những thay đổi tâm sinh lý cần
thiết.
91
3.2.4. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất
đạo đức cho Thẩm phán trong bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18
tuổi trong hoạt động xét xử
Đắk Lắk là địa phương ở trên cao nguyên nhưng nằm trong “tốp 5” địa
phương có nhiều án nhất cả nước. TANDTC tập trung làm tốt hơn nữa công tác
tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân; thường xuyên tổ chức việc trao đổi, rút kinh nghiệm công tác xét xử,
đặc biệt là kinh nghiệm xét xử, giải quyết các vụ án về bạo lực đối với người
dưới 18 tuổitrong toàn hệ thống Tòa án.
- Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán: Trước tình hình nêu
trên, một trong những nhiệm vụ trọng tâm công tác được TAND tỉnh Đắk Lắk
xác định, phải xây dựng đội Thẩm phán Tòa án trong sạch vững mạnh, trong đó
việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm trong công tác cho Thẩm phán Tòa án
các hai cấp tỉnh Đắk Lắk.
Với yêu cầu đặt ra như trên, TAND tỉnh Đắk Lắk đã và đang tích cực triển
khai thực hiện nhiều giải pháp, trong đó có việc đẩy mạnh việc nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước
ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển
nền kinh tế thị trường, nhiều tội phạm mới trong các lĩnh vực đã xuất hiện. Do
đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xét xử các vụ án hình sự trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội, nhất là các tội phạm tham nhũng, chứng khoán, công
nghệ thông tin, tài chính ngân hàng…Ngoài ra cần thường xuyên tổ chức tập
huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức hội thảo, trao đổi, nghiệp vụ
cho Thẩm phán. Mặt khác, ngoài vấn đề về chuyên môn cần tổ chức đào tạo, bồi
92
dưỡng trình độ quản lý, kỹ năng thực hiện công tác dân vận, ngoại ngữ, tin
học...
- Về phẩm chất đạo đức đối với người Thẩm phán: Thẩm phán là công chức
Nhà nước cho nên phải có những phẩm chất cơ bản của cán bộ, công chức nói
chung: “Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
trong hoạt động công vụ” (Điều 15 Luật cán bộ, công chức năm 2008). Thẩm
phán không được làm những Điều quy định tại Điều 77 của Luật Tổ chức TAND
năm 2014 thì mới được coi là có phẩm chất đạo đức. Thẩm phán là chức danh tư
pháp, chuyên làm công tác xét xử nên phải có những tiêu chuẩn đạo đức riêng
(theo khoản 1 Điều 67 Luật tổ chức TAND năm 2014) quy định: có phẩm chất
đạo đức tốt, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và
trung thực”. Người Thẩm phán với lẽ sống cao đẹp, luôn phấn đấu để cố gắng
làm giảm bớt và tiến tới loại bỏ nỗi đau khổ hoặc bất hạnh ra khỏi đời sống con
người, sẽ có khả năng vượt qua khó khăn, sẵn lòng hy sinh lợi ích cá nhân, khắc
phục mất mát trong nghề nghiệp, thì sẽ tất yếu vươn lên trong cuộc sống, vươn
lên trong sự nghiệp và góp phần tạo nên vẻ đẹp cao quý của người thẩm phán.
Người Thẩm phán có trung thực thì mới có dũng cảm để bảo vệ lẽ phải, có trung
thực thì mới không bảo thủ cứng nhắc trong giải quyết công việc được giao.
3.2.5. Đào tạo về trình độ tâm lý học, khoa học giáo dục cho cán bộ điều
tra, kiểm sát viên, thẩm phán
Về phía các cơ quan THTT cần sớm có kế hoạch để giải quyết các vụ án
liên quan đến người dưới 18 tuổi trong đó có nhóm tội xam phạm về nhân phẩm
sức khỏe, danh dự...; thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm trong công tác điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án này. Đồng thời, quan tâm sắp xếp các cán bộ theo
hướng chuyên sâu, có tính ổn định theo từng lĩnh vực công tác. Tăng cường việc
93
đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức bổ
trợ. Công tác này được đổi mới và tăng cường với các hình thức đào tạo cần
phong phú, toàn diện như: kết hợp đào tạo trong nước và nước ngoài, đào tạo tập
trung với đào tạo tại đơn vị công tác để tạo nguồn nhân lực có chất lượng. Để đội
ngũ cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đáp ứng yêu cầu trong công
tác giải quyết án hiện nay cần có một kế hoạch cụ thể để chuẩn hóa đào tạo, bồi
dưỡng. Chú trọng đào tạo chuyên sâu và sau đại học để xây dựng đội ngũ cán bộ
giỏi trên từng lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Phối hợp liên kết với
các trường đại học, trung tâm đào tạo khác cùng chuyên ngành để đa dạng hóa
các loại hình đào tạo, bồi dưỡng.
Tăng cường công tác đào tạo, tự đào tạo qua hoạt động thực tiễn như: các
phiên tòa rút kinh nghiệm… Đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào
tạo, bồi dưỡng thẩm phán phù hợp với chuyên môn, công việc và từng ngạch
thẩm phán. Chú trọng truyền đạt các nội dung: kiến thức pháp luật mới, kỹ năng
nghiệp vụ mới, kỹ năng nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận chính trị, pháp luật
quốc tế, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng dân vận… Bảo đảm nội dung kiến thức
truyền đạt vừa rộng, vừa chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn,
lý thuyết và thực hành, giúp thẩm phán nắm vững kiến thức, thành thạo kỹ năng,
ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn. Đồng thời, bảo đảm các Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông
nghiệp vụ và thật sự chí công vô tư vì nếu không có một đội ngũ cán bộ vừa giỏi
lý luận vừa giàu kinh nghiệm thực tiễn, có bản lĩnh nghề nghiệp thì không thể
nâng cao chất lượng xét xử được.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải thường xuyên tự giác cập
nhập hệ thống văn bản pháp luật trong nước, các văn bản quy định tập quán và
94
thông lệ quốc tế có liên quan đến việc giải quyết án mà có bị hại là người dưới
18 tuổi để áp dụng một cách linh hoạt, hợp lý và chủ động khi giải quyết một vụ
án cụ thể. Nâng cao năng lực cho Hội thẩm nhân dân, Thư ký, Thẩm tra viên,
Điều tra viên, Kiểm sát viên tham gia các vụ việc liên quan đến trẻ em ở cấp
Trung ương và cấp tỉnh với các tài liệu và các lớp tập huấn về điều tra thân thiện
với trẻ em do UNICEF xây dựng và tổ chức.
Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét
xử. Trong phân công nhiệm vụ ở từng bộ phận cũng cần tiêu chuẩn hóa cả về
tiêu chuẩn chuyên môn và tiêu chuẩn ngoại ngữ. Bên cạnh trình độ chuyên môn
nghiệp vụ thì kỹ năng sử dụng tin học cũng giúp cho cán bộ làm công tác điều
tra, truy tố, xét xử nhanh chóng giải quyết công việc, trình bày văn bản khoa học
và đúng quy định. Do vậy, cần chú trọng công tác đào tạo tin học cho cán bộ.
Chú trọng công tác bồi dưỡng lý luận chính trị và đạo đức nghề nghiệp thông
qua việc tuyển chọn, giáo dục và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ.
Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với
việc khắc phục những tồn tại, hạn chế; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh việc tuyên truyền phong trào thi đua yêu nước,
gương người tốt, các tập thể, điển hình tiên tiến. Tiếp tục bám sát chủ đề “Phụng
công thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân,
học dân” gắn với việc thực hiện “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong
cách Hồ Chí Minh” trong đạo đức, lối sống của cán bộ làm công tác điều tra,
truy tố, xét xử. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ xét xử, các lớp
phổ biến các quy định pháp luật mới ban hành liên quan đến hoạt động giải
quyết án cho cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử. Tăng cường trao đổi,
95
rút kinh nghiệm về án có người bị hại dưới 18 tuổi giữa Cơ quan điều tra,
VKSND, TAND.
Chú trọng hơn nữa công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán
bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử. Tạo điều kiện để các điều tra viên, kiểm
sát viên, thẩm phán tham gia các lớp/khóa tập huấn, đào tạo và đào tạo lại để
nâng cao năng lực cũng như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Các cơ quan
THTT trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới nên tổ chức nhiều buổi tọa
đàm về văn hóa pháp đình với sự tham gia của nhiều chuyên gia pháp lý trên các
lĩnh vực như Thẩm phán, Kiểm sát viên, luật sư, giảng viên trường Đại học luật,
nhà báo… để rút ra được nhiều kinh nghiệm trong công tác xét xử đồng thời tự
bản thân các cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử điều chỉnh, tu dưỡng,
rèn luyện bản thân.
Tòa chuyên trách chuyên giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa
thành niên, cán bộ nhất là Thẩm phán Tòa gia đình và người chưa thành niên
phải có kiến thức chuyên môn theo quy định, phải có kiến thức về tâm sinh lý,
kỹ năng sư phạm, làm việc với người dưới 18 tuổi. Hay nói cách khác họ phải
được chuyên môn hóa cao. Cần triển khai ngay việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho
các bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử những kiến thức cơ bản về giáo dục,
tâm lý học, đồng thời bồi dưỡng kỹ năng THTT trong các vụ án có bị hại là
người dưới 18 tuổi, đặc biệt là các vụ án về xâm phạm tình dục, bạo hành trẻ
em...
3.2.6. Chủ động phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án nhân dân với Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các tội
xâm phạm quyền lợi ích của người bị hại dưới 18 tuổi
96
Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ THTT trong việc điều tra, truy tố
và xét xử. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, Tòa án cần thường xuyên trao
đổi, thống nhất nhận thức về các quy định của pháp luật cũng như những vấn đề
còn có ý kiến khác nhau về đánh giá chứng cứ, các tình tiết khách quan của vụ
án, nhất là những vụ án phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm
Để có thể kịp thời nắm bắt được diễn biến của vụ án lên kế hoạch xét xử,
bảo đảm kịp thời giải quyết các vụ có người bị hại dưới 18 tuổi. Cần nâng cao
hiệu quả điều tra, xử lý tội phạm xâm phạm người bị hại dưới 18 tuổi, cần xử lý
nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật, kiên quyết đấu tranh không để lọt tội
phạm. Trong công tác tổ chức các phiên tòa xét xử các vụ án đối với người dưới
18 tuổi, các tòa án cần cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm vừa làm rõ tình tiết của vụ
án, đồng thời bảo đảm thuần phong mỹ tục, các yếu tố văn hóa, bảo vệ danh dự,
nhân phẩm của người dưới 18 tuổi. Hình phạt áp dụng đối với các tội xâm phạm
quyền lợi ích của người dưới 18 tuổi cần phải bảo đảm quy định của pháp luật,
nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các vụ án xâm
phạm quyền lợi ích của người dưới 18 nói riêng.
3.2.7. Nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số lượng
Kiểm sát viên, Luật sư
Một trong những biện pháp bảo đảm quyền con người trong quá trình tố
tụng là có sự đóng góp quan trọng từ Kiểm sát viên và Luật sư. Do đó, cần phải
tăng cường nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số lượng
Kiểm sát viên, Luật sư.
- Đối với Kiểm sát viên: Trong những năm qua, VKSNDTC đã chỉ đạo toàn
ngành tổng kết về lý luận và thực tiễn 50 năm xây dựng và hoạt động của ngành,
97
rút ra những bài học thiết thực về hoàn thiện tổ chức bộ máy, đào tạo cán bộ để
nâng cao chất lượng thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành.
Để nâng cao năng lực tranh tụng của kiểm sát viên, trước hết cần tiếp tục
đào tạo, bồi dưỡng kiểm sát viên: Đào tạo, bỗi dưỡng kiểm sát viên phải được
tiến hành thường xuyên nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ kiểm sát viên trong sạch,
vững mạnh, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN. Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung,
phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư
pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật những kiến thức mới về chính
trị, pháp luật, kinh tế xã hội; có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm
chất đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế
XHCN”.[16] Phải căn cứ vào quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng, nếu mặt nào chưa
đạt tiêu chuẩn theo quy định thì có kế hoạch tiếp tục đưa đi đào tạo, bồi dưỡng
về mặt đó; lựa chọn những kiểm sát viên có triển vọng và khả năng phát triển để
đưa đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu, đào tạo sau đại học. Phải sử dụng hợp lý
nhiều hình thức khác nhau và kết hợp giữa các hình thức với nhau trong đào tạo,
bồi dưỡng kiểm sát viên. Những kiểm sát viên trẻ, có triển vọng, trong quy
hoạch lâu dài cần đưa đi đào tạo chính quy tập trung; đối với kiểm sát viên trên
40 tuổi chủ yếu áp dụng các hình thức bồi dưỡng với thời gian ngắn.
Việc bồi dưỡng kiểm sát viên cần thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng
ngắn hạn với nội dung chủ yếu nhằm bổ sung những kiến thức mới, chuyên sâu,
những kỹ năng nghiệp vụ về các lĩnh vực hình sự, dân sự… như kỹ năng tranh
tụng tai phiên tòa, kỹ năng viết cáo trạng và luận tội,…về công tác quản lý, chỉ
đạo điều hành, kinh nghiệm giải quyết các vụ việc phức tạp của các đơn vị, địa
98
phương trong toàn quốc; những vấn đề có vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
pháp luật.
Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, cần động viên,
khuyến khích cán bộ, kiểm sát viên theo học các lớp cao học luật, cao cấp lý luận
chính trị, quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ… để không ngừng nâng cao kiến
thức, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ tầm quan trọng của việc đào tạo,
bồi dưỡng Luật sư: “Đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn”. Một trong những định hướng
quan trọng được nêu lên trong Nghị quyết số 49 là “phát triển đội ngũ Luật sư đủ
về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn nhằm đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của
Luật sư, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế”.
Là một địa bàn vùng sâu, xa như tỉnh Đắk Lắk, đoàn Luật sư tỉnh chỉ có 56
người thì không thể đáp ứng được yêu cầu tranh tụng trong quá trình giải quyết
vụ án, bảo đảm được quyền của bị can, bị cáo. Đồng thời với việc tăng cường số
lượng cần quan tâm đến chất lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi
tuyển phải bảo đảm các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật
sư; chế độ miễn cho những người THTT (Thẩm phán, Kiểm sát viên, điều tra
viên và các đối tượng khác) cũng phải có tiêu chí cụ thể chứ không phải ai cũng
được miễn như quy định hiện nay. Cần có quy định bảo vệ Luật sư khi hành
nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi phạm pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp.
99
3.2.8. Nâng cao sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên, cơ quan báo chí đối với hoạt động xét xử các vụ án hình sự
xâm phạm quyền lợi của người chưa thành niên
Theo khoản 1 Điều 26 Luật mặt trận tổ quốc Việt Nam năm 2015 thì “Đối
tượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan nhà nước, tổ chức, đại
biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức”. Ngoài ra, Mặt trận tổ quốc Việt Nam
còn tham gia việc “Tiếp công dân, tham gia công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,
đặc xá, cử bào chữa viên nhân dân” (Điều 18), Tham gia việc tuyển chọn thẩm
phán (Điều 20). Do đó, việc tăng cường giám sát cảu Mặt trận tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên đối với hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng là rất quan trọng. Thông qua việc giám
sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động xét xử các vụ án hình
sự nhằm xử lý kịp thời đúng pháp luật đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật, không để xảy ra tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm, xâm phạm nghiêm
trọng đến quyền con người của bị can, bị cáo.
Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Bộ Chính trị đã giải mật Nghị
quyết 49 về chiến lược Cải cách tư pháp. Các thảo luận cải cách đã đi đến nhận
thức mới về vai trò của báo chí và tháng 8-2014, Ban Chỉ đạo đã ban hành Kế
hoạch 38 đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, nhiệm vụ Cải
cách tư pháp và hoạt động tư pháp.
Thời gian qua báo chí đóng góp phần quan trọng đối với quá trình cải cách
tư pháp nước nhà. Nước ta tuy có hệ thống giám sát, kiểm sát hoạt động tư pháp
nhưng thường thì những việc báo chí điều tra kỹ lưỡng, phân tích sâu sắc, phản
biện mạnh mẽ sẽ được quan tâm chỉ đạo làm rõ hơn. Báo chí tạo áp lực, thúc ép
các cơ quan chức năng vào cuộc. Thông qua việc phản ánh, phân tích những vụ
100
án oan ấy, báo chí còn giúp cơ quan tố tụng và cơ quan giám sát kịp thời phát
hiện lỗ hổng pháp luật để bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện nền tố tụng tiệm cận
với công lý…
3.2.9. Đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động của Thẩm phán
và cán bộ tòa án
Về điều kiện làm việc của Thẩm phán: Hiện nay nhiều địa phương Thẩm
phán làm việc trong điều kiện khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Để đảm bảo
được hoạt động của Thẩm phán, trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa cơ
sở vật chất cho ngành Tòa án. Cụ thể như xây dựng mới, sửa chữa các trụ sở làm
việc đã quá cũ, xuống cấp; đảm bảo phòng làm việc cho Thẩm phán và các
phương tiện phục vụ cho hoạt động của Thẩm phán như máy vi tính, bàn làm
việc... Ngoài ra, cần bố trí hội trường xét xử rộng rãi, được trang trí thể hiện tính
trang nghiêm của phiên tòa. Cần có các thiết bị phục vụ cho việc xét xử tại phiên
tòa như loa, đài, micrô, hệ thống ghi âm, ghi hình, truyền thanh và truyền hình
cho đông đảo nhân dân theo dõi.
Về tiền lương đối với Thẩm phán: Chế độ tiền lương đối với cán bộ, công
chức ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng còn chưa thực sự tương
xứng với tính chất công việc đặc thù của ngành Tòa án. Chế độ tiền lương đối
với Thẩm phán còn thấp nên chưa thể hiện đúng sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước đối với hoạt động xét xử và yêu cầu công tác phòng chống tham nhũng và
cải cách tư pháp; chưa có tác dụng khuyến khích, động viên cán bộ, công chức
Tòa án yên tâm công tác, tận tụy với nghề, nâng cao tinh thần trách nhiệm và
thái độ phục vụ nhân dân, phấn đấu rèn luyện tu dưỡng đạo đức; chưa phải là
bảo đảm hữu hiệu để Tòa án thực hiện nguyên tắc "Khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Chính vì vậy, việc đổi mới chế độ
101
tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức
ngành TAND cần được cải tiến nhằm khuyến khích Thẩm phán, cán bộ, công
chức ngành TAND tận tâm, tận lực, yên tâm, gắn bó với ngành và hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tham
nhũng.
- Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc phát sinh từ việc áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự trong giải quyết, xét xử các tội phạm bạo lực đối với
người dưới 18 tuổi, cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi quy định về các tội phạm
xâm hại tình dục trong Bộ luật hình sự theo hướng sau đây:
+ Đề nghị bổ sung thêm "Tội quấy rối tình dục” vào Chương XIV Bộ luật
hình sự năm 2015 “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người” nhằm xử lý, ngăn chặn các hành vi quấy rối tình dục.
+ Bổ xung thêm hành vi hiếp dâm với người từ đủ 10 tuổi đến dưới 13
tuổi quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự.
+ Nghiên cứu, bổ xung thêm quy định người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi (Tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và tội
Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 145, Điểu 146 Bộ luật
hình sự)
+ Bổ xung thêm trình tự, thủ tục công khai việc xin lỗi người bị hại quy
định tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015.
102
Tiểu kết chương 3
Ở Việt Nam vấn đề bảo đảm quyền của người bị hại dưới 18 tuổi được xác
định tại Điều 37 Hiến pháp năm 2013, Luật trẻ em năm 2016, BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung 2017) quy định tại chương XII với tên gọi: “Những quy định
đối với người bị hại dưới 18 tuổi” (từ điều 90 đến điều 107), BLTTHS năm 2015
quy định.
Đảm bảo quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử tại tòa án là
một nhu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay các vụ án xâm phạm quyền lợi ích
của người dưới 18 tuổi đang gây bức xúc trong dư luận xã hội. Tác giả đã trình
bày những nội dung như sau:
Thứ nhất, tác giả đã trình bày những quan điểm liên quan đến vấn đề bảo
đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm quyền lợi ích của
người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của TAND thể hiện sự nỗ lực của
Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện đảm bảo quyền con người nói chung và
bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm quyền
lợi ích của người dưới 18 tuổi nói riêng.
Thứ hai, trên cơ sở thực trạng luận văn đã đề xuất những giải pháp hoàn
thiện các quy định của pháp luật về vấn đề bảo đảm quyền của bị hại dưới 18
tuổi trong hoạt động xét xử, đồng thời đề ra những giải pháp tăng cường nhận
thức về bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong trong hoạt động
xét xử tại tòa án. Đây là những giải pháp dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã
được đánh giá trong chương 2.
103
KẾT LUẬN
Bảo vệ chăm sóc giáo dục người dưới dưới 18 tuổi là vấn đề được Đảng và
Nhà nước ta quan tâm trong suốt sự nghiệp lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam để phù hợp với pháp luật quốc tế và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong giai đoạn hiện nay. Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi là bị hại
trong các vụ án thể hiện ở sự thống nhất trong những quy định của pháp luật
hình sự về các biện pháp tư pháp, về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện
quyền của người dưới 18 tuổi theo những tính chất, đặc thù vốn có.
Trong thời gian qua, tình trạng tội phạm xâm phạm quyền của bị hại là
người dưới 18 tuổi tuổi diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng, nhiều vụ việc
nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận xã hội như các tội xâm phạm tình dục,
bạo lực gia đình, xâm phạm sức khỏe, danh dự uy tín nhân phẩm của người dưới
18 tuổi. Bên cạnh đó việc triển khai các quy định của BLHS, BLTTHS, các đạo
luật có liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng gặp một số khó khăn,
vướng mắc nhất định.
Đắk Lắk là một tỉnh vùng cao là trung tâm kinh tế của vung Tây
Nguyên,trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu về mặt kinh tế - xã hội
đucợ sựu quan tâm của Đảng, Nhà nước, Đắk Lắk vẫn gặp phải không ít khó
khăn, thách thức do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, mà đáng chú ý
là sự gia tăng tỷ lệ tội phạm, trong đó có các tội xâm phạm tới quyền lợi ích hợp
pháp của người dưới 18 tuổi cần phải bảo vệ nghiêm minh. Điều này đặt ra áp
lực không nhỏ đối với các CQTHTT trong việc bảo đảm quyền con người, đặc
biệt là đảm bảo quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong xét xử tại tóa án nhân dân
104
tỉnh. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả đã nghiên cứu những nội dung như
sau:
Trong Chương 1, luận văn đã hệ thống hóa phân tích các khái niệm công
cụ, chỉ rõ đặc điểm, ý nghĩa của việc cần phải bảo đảm quyền lợi cho người bị
hại dưới 18 tuổi trong xét xử. Làm rõ những quy định của BLTTHS Việt Nam về
bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong các vụ án xâm phạm tới quyền lợi
ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi thông qua những nội dung: quy định của
BLTTHS Việt Nam về bảo đảm quyền của bị hại dưới 18 tuổi trong giai đoạn
tiền khởi tố và khởi tố; giai đoạn điều tra; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử của
TAND.
Chương 2, luận văn đã làm rõ thực trạng thông qua: khái quát những nội
dung liên quan đến các vụ án xâm phạm tới quyền lợi ích hợp pháp của người
dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, thực trạng bảo đảm quyền của bị hại là
người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thông qua
những nội dung và đúc kết những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong
đảm bảo quyền của người bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của
TAND tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3, luận văn đã luân cứ các quan điểm liên quan đến vấn đề bảo đảm
quyền của bị hại dưới 18 tuổi các vụ án xâm phạm tới sức khỏe, danh dự...trong
hoạt động xét xử của TAND, thể hiện sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong
việc thực hiện đảm bảo quyền con người nói chung và bảo đảm quyền của bị hại
là người dưới 18 tuổi trong các vụ án hình sự nói riêng. Trên cơ sở thực trạng
luận văn đã đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
vấn đề bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử
của TAND tỉnh Đắk Lắk, đồng thời đề ra những giải pháp tăng cường nhận thức
105
về bảo đảm quyền của bị hại là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử của
TAND tỉnh Đắk Lắk thời gian tới.
106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Huỳnh Thị Kim Ánh (2020), “Bàn về nội dung và phương hướng hoàn
thiện chính sách pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội”, Tạp chí An ninh nhân dân, Số 96, 5/2020.
2.Hồng Anh (2013), Những vấn đề đặt ra đối với việc thực thi các bảo đảm
tố tụng với bị can, bị cáo theo Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
3.Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2010 về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng năm 2020, Hà Nội.
4.Trương Hòa Bình (2013), “Một số nội dung đổi mới thủ tục hành tư
pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.
5. Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Bảo đảm quyền con người, quyền
công dân – tư tưởng xuyên suốt trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trong”,
Nxb Chính trị quốc gia.
6.Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
7. Lê Văn Cảm (2014), “Về quyền tư pháp và các nguyên tắc cải cách tư
pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”, Tạp chí
Tòa án nhân dân, Hà Nội.
8. Lê Văn Cảm, Hoàng Tám Thi (2017), “Chính sách pháp luật Tố tụng
hình sự và chế định các nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Ấn
phẩm An ninh xã hội của Tạp chí Công an nhân dân, số 10/2017, trang 61.
9.Đỗ Tiến Dũng (2014), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn
tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt
107
Nam, Hà Nội.
10. Đinh Văn Đoàn (2017), “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi
trong pháp luật tố tụng Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2017.
11.Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền
dân sự chính trị.
12.Đại Hội đồng Liên hiệp quốc (1989), Công ước quốc tế của Liên hiệp
quốc về Quyền trẻ em, theo Nghị quyết 44-25 ngày 20/11/1989 của Đại Hội
đồng Liên hiệp quốc, Việt Nam phê chuẩn ngày 20/2/1990.
13. Đại Hội đồng Liên hiệp quốc (1989), Công ước quốc tế về Quyền trẻ
em, điểm VII khoản 2 Điều 40 và Liên Hiệp Quốc 1985, Các quy tắc tiêu chuẩn
tối thiểu của Liên Hiệp Quốc về hoạt động Tư pháp đối với người chưa thành
niên.
14. Vũ Công Giao (2013), Chế định quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp năm 2013.
15. Nguyễn Sơn Hà (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là trẻ em trong
điều tra các vụ án xâm hại tình dục của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Pháp luật về quyền con
người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Nguyễn Xuân Hà (2016), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên, trong “Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”,
17. Trần Thu Hạnh (2018), “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động
xét xử vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa
học, Đại học quốc gia Hà Nội: Luật học, số 3, tr 54 – 59;
18. Nguyễn Thị Loan, Trần Thị Thanh Hằng (2021) Thủ tục tố tụng hình
sự đối với người dưới 18 tuổi, 02/11/2021, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học
108
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
19. Nguyễn Quang Hiền (2009), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
20. Trương Minh Hiếu (2018), Bào chữa chỉ định theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam cho người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, HVKHXH.
21. Nguyễn Huy Hoàn (2015), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động
tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
22.Hội đồng thẩm phán TANDTC (2019), Nghị quyết số 06/NQ-HĐTP
ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một
số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 Bộ luật hình sự và
việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.
23. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình cao cấp
lý luận chính trị: Lý luận pháp luật về quyền con người, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
24. Phạm Mạnh Hùng (2002), Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Thanh Hương (2020), “Nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời
khai bị hại trong các vụ án mua bán người của Kiểm sát viên”, Tạp chí Khoa
học Kiểm sát, số 02/2020.
26. Phạm Lê Liên (2015), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Hồng Đức,
Hà Nội.
27. Vũ Duy Linh (2020), “Lịch sử hình thành và phát triển các quy định
109
về bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí
Khoa học Kiểm sát số 02/2020. Số chuyên đề tháng 4/2020.
28. Nguyễn Thị Lộc (2019), Quyền riêng tư của người bị hại dưới 18 tuổi
trong tố tụng hình sự. Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
29. Phan Thị Thanh Mai (2015), “Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02/2020.
30. Trương Thị Hương Mai (2008), Bảo đảm quyền trẻ em trong kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
31. Nguyễn Hải Ninh (2019) “Pháp luật tố tụng hình sự đối với việc bảo
đảm quyền con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi”, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp, số 08.
32.Đỗ Thị Phượng (2008), Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Công báo/số 1003 +
1004/ngày 29/12/2013, Hà Nội.
34. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
35. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự, NXB Tư pháp, Hà Nội;
36. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội;
37. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hành chính, NXB Tư pháp, Hà
Nội
38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật
Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110
39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật
Tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Quốc hội (2016), Luật trẻ em 102/2016/QH13, Hà Nội.
41.Quốc hội (2020), Báo cáo số 69/BC-ĐGS ngày 19/5/2020 của Đoàn
giám sát Quốc hội khóa XIV về báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính
sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em”;
42. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về
cải cách hệ thống tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Tám (2013), Vị trí, vai trò của TAND trong thể chế Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
44. Nguyễn Chí Tâm (2018), Phòng, chống xâm hại trẻ em của Công an
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Diệp Huyền Thảo (2015), ''Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên địa bàn tỉnh Trà Vinh - thực trạng và dự báo'', Tạp chí nhà nước và pháp
luật,(6) tr.23-29.
46. Nguyễn Hữu Thịnh (2018), Bảo đảm quyền của bị hại là người dân
tộc thiểu số trong điều tra các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
47. Tòa án nhân dân
tối cao (2017), Thông tư số 01/2017/TT-
TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về
phòng xử án.
111
48. Tòa án nhân dân tối cao (2018) Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC
ngày 21/9/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Quy định chi tiết việc
xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc
thẩm quyền của Tòa án gia đình và người chưa thành niên.
49. Tòa án nhân dân tối cao (2018) Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKSNDTC,
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động- Thương binh
và Xã hội quy định về thủ tục tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người dưới 18 tuổi.
50.Tòa án nhân dân tối cao (2002, 2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao
động, Hà Nội.
51.Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2018), Quyết định số 379/QĐ-TA ngày
17/12/2018 của Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc phân công Chánh án và
các Phó Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk/
52.Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2018) Báo cáo tổng kết công tác năm
2018 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2019 của các tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
53. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm
2019 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2020 của các tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
54. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm
2020 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2021 của các tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
55. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2021), Báo cáo tổng kết công tác năm
2021 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2022 của các tòa án nhân dân hai
112
cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
56. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2022), Báo cáo tổng kết công tác năm
2022 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 của các tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Đắk Lắk, Đắk Lắk.
57. Vũ Xuân Tuân (2018), Bảo vệ quyền trẻ em bị xâm hại tình dục tại các
tỉnh Tây Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
58. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
59. Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ,
bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Đào Trí Úc (2013), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
theo Hiến pháp năm 2013.
61. Nguyễn Thị Bích Vân (2016), Bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại
địa bàn Hà Giang), Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
62. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình lý luận chung về định tội danh,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
63. Võ Khánh Vinh (2015), Giáo trình quyền con người, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
64. Đặng Bá Vinh (2018), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giam trong điều tra các tội phạm về ma túy của Công an tỉnh Bắc Giang, Luận
văn thạc sĩ pháp luật về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
113
Minh.
114