BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÙNG NGỌC TUYẾT
BẢO HIỂM KHẢ NĂNG PHỤC HỒI VÀ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG THÔNG QUA CÁC NHÓM TÔN GIÁO
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TRÊN CÁC HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÙNG NGỌC TUYẾT
BẢO HIỂM KHẢ NĂNG PHỤC HỒI VÀ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG THÔNG QUA CÁC NHÓM TÔN GIÁO
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TRÊN CÁC HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN HOÀNG BẢO
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn "BẢO HIỂM KHẢ NĂNG PHỤC HỒI VÀ MỨC
ĐỘ HÀI LÒNG THÔNG QUA CÁC NHÓM TÔN GIÁO - NGHIÊN CỨU
THỰC NGHIỆM TRÊN CÁC HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN VIỆT NAM'' là
nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung
thực và chính xác trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính trung thực của đề tài nghiên
cứu này.
Học viên thực hiện Luận văn
Phùng Ngọc Tuyết
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình
Danh sách các chữ viết tắt
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU ..................................................................................... 1
1.1 Đặt vấn đề ........................................................................................................ 1
1.2 Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 5
1.3 Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 5
1.3.1 Mục tiêu tổng quát ........................................................................................ 5
1.3.2 Mục tiêu cụ thể .............................................................................................. 5
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6
1.5 Cấu trúc của bài viết ......................................................................................... 6
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ........................................................... 8
2.1 Ba giả thiết cơ bản ............................................................................................ 8
2.2 Một số lý thuyết về khả năng phục hồi ............................................................ 9
2.3 Các lý thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa khả năng phục hồi, tiết kiệm và
tôn giáo
............................................................................................................. 10
2.3.1 Khả năng phục hồi và tiết kiệm .................................................................. 10
2.3.2 Tiết kiệm và tôn giáo................................................................................... 11
2.4 Một số lý thuyết về mức độ hữu dụng của mỗi cá nhân ................................ 13
2.5 Các lý thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa mức độ hài lòng và tôn giáo . 18
2.6 Một số nghiên cứu thực nghiệm có liên quan ................................................ 19
CHƯƠNG 3 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ............................................................ 24
3.1 Mô hình lý thuyết ........................................................................................... 24
3.1.1 Mô hình về tiết kiệm dự phòng ................................................................... 24
3.1.2 Mô hình về khả năng phục hồi .................................................................... 26
3.1.3 Mô hình về mức độ hài lòng ....................................................................... 27
3.2 Mô hình thực nghiệm ..................................................................................... 29
3.2.1 Tác động của tôn giáo đến mức tiết kiệm của các hộ ................................. 29
3.2.2 Tác động của tiết kiệm đến khả năng phục hồi sau các cú sốc của hộ ....... 30
3.2.3 Tác động của tôn giáo đến sự hài lòng ........................................................ 31
3.3 Dữ liệu ............................................................................................................ 33
3.4 Các biến số trong mô hình ............................................................................. 34
3.4.1 Các biến phụ thuộc ...................................................................................... 34
3.4.2 Các biến kiểm soát ...................................................................................... 37
3.4.3 Các biến độc lập .......................................................................................... 41
3.4.4 Các biến công cụ ......................................................................................... 43
3.5 Phương pháp ước lượng ................................................................................. 45
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ ....................................................................................... 51
4.1 Tổng quan tình hình tôn giáo tại Việt Nam ................................................... 51
4.2 Thống kê mô tả ............................................................................................... 54
4.3 Kết quả ước lượng .......................................................................................... 56
4.3.1 Kiểm định các kết quả hồi quy .................................................................... 56
4.3.1.1 Kiểm định đa cộng tuyến ......................................................................... 56
4.3.1.2 Kiểm định phương sai thay đổi ................................................................ 57
4.3.1.3 Kiểm định tỉ lệ khả dĩ ............................................................................... 57
4.3.1.4 Kiểm định về tính độc lập của các lựa chọn thay thế không liên quan .... 57
4.3.1.5 Kiểm định quan hệ nội sinh ..................................................................... 57
4.3.2 Tác động của tôn giáo đến khả năng phục hồi sau các cú sốc của hộ ........ 58
4.3.3 Tác động của tôn giáo đến mức độ hài lòng của cá nhân ........................... 61
4.3.4 Tác động của của các biến kiểm soát và các biến độc lập đến khả năng phục
hồi của hộ ............................................................................................................. 64
4.3.5 Tác động của của các biến kiểm soát và các biến độc lập đến mức độ hài
lòng của cá nhân ................................................................................................... 67
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN ..................................................................................... 70
5.1 Kết luận .......................................................................................................... 70
5.2 Gợi ý chính sách ............................................................................................. 71
5.2.1 Về phía chính phủ ....................................................................................... 71
5.2.2 Về phía các cá nhân/hộ gia đình nghèo ....................................................... 72
5.3 Hạn chế của đề tài .......................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
PHỤ LỤC 4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1: Các tôn giáo tại Việt Nam ................................................................... 54
Bảng 4.2: Một số tôn giáo lớn tại Việt Nam, 1/4/2009 ........................................ 56
Bảng 4.3 Thay đổi mức độ phục hồi sau các cú sốc thu nhập ............................. 56
Bảng 4.4 Thay đổi mức độ hài lòng sau các cú sốc thu nhập .............................. 57
DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1: Mô hình về khả năng phục hồi của các hộ gia đình ............................. 44
Hình 3.2: Mô hình về mức độ hài lòng của các cá nhân ...................................... 45
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt
Tên tiếng Anh
Tên tiếng Việt
LPM
Linear Probability Model Mô hình Xác suất tuyến tính
OLS
Ordinary least square
Phương pháp ước lượng bình
phương nhỏ nhất
thông
thường
VARHS
The Vietnam Access
to
Điều tra hộ gia đình tiếp cận
Resources
Household
nguồn lực và đánh giá tác
Survey
động chương trình hỗ trợ
ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn
1
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Nhu cầu về an sinh xã hội của từng người dân, nhất là người nghèo, có hoàn cảnh khó
khăn, luôn là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
An sinh xã hội giúp đảm bảo cho từng người dân về mức sống vật chất và tinh thần
tối thiểu, khi họ lâm vào tình trạng ngừng, giảm hoặc mất thu nhập do những nguyên
nhân tự nhiên, kinh tế, xã hội nhằm đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội của quốc gia.
Thế nhưng, khả năng đáp ứng của mỗi nhà nước lại rất khác nhau, nhất là quốc gia
đang phát triển như Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu rộng, rủi ro trong đời sống của người lao động cũng đồng thời gia tăng về qui mô,
tốc độ. Người nông dân là tầng lớp dễ bị tổn thương nhất, không phải chỉ do kinh tế
bất ổn mà còn do thiên nhiên, khí hậu biến đổi, môi trường sinh thái suy thoái.
Tại Việt Nam, nhiều tổ chức đã được thành lập để phục vụ cho hệ thống An sinh xã
hội như định chế “Ngân hàng chính sách xã hội” chuyên cung cấp tín dụng cho người
nghèo để họ thoát nghèo, “Quỹ bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân”, “Quỹ bảo
hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân”, “Quỹ trợ giúp xã hội cho nông dân” theo Nghị
định 67/2007/NĐ-CP, Quỹ đào tạo nghề cho 1 triệu nông dân/ năm, Chương trình
xóa đói giảm nghèo của chính phủ, như trương trình 133 năm 1998, chương trình 135
năm 1998, chương trình 143 năm 2001 và đặc biệt ngày 21/5/2002 Thủ tướng chính
phủ đã phê duyệt “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo”. Luật
Bảo hiểm xã hội được thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007
(Tarp 2012). Tuy nhiên, việc triển khai bảo hiểm đến sâu rộng người nông dân lại
đang gặp phải nhiều vấn đề lớn.
Thứ nhất, đó là tình trạng mong manh của nguồn quỹ Bảo hiểm. Dưới tác động của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, trong thời gian gần đây mức chi
và tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội nhìn chung không ngừng tăng, tiệm cận
mức 20% tổng chi thường xuyên của ngân sách nhà nước, tương đương gần 4% GDP.
Theo dự báo, đến khoảng năm 2030, thu chi Quỹ Bảo hiểm xã hội sẽ bắt đầu mất cân
2
đối do dân số Việt Nam bắt đầu già và vì thế mà số đối tượng hưởng Bảo hiểm sẽ
tăng nhanh. Trong giai đoạn 1999-2009, số người già chỉ tǎng 1,4%/nǎm, dự báo
trong giai đoạn 2009-2019, số lượng người già sẽ tǎng nhanh gần 5%/nǎm và vào
khoảng nǎm 2014-2015, tỷ lệ người già là hơn 10% dân số cả nước. Giai đoạn tiếp
theo 2019-2029, tỷ lệ người già tiếp tục tǎng ở mức cao 5%/nǎm, đến nǎm 2029 sẽ
có 16,8 triệu người già (chiếm 17,8% dân số). Bắt đầu từ năm 2024 số chi Quỹ hưu
trí- tử tuất sẽ vượt số thu. Đến năm 2037, không những chi vượt thu khá lớn mà các
khoản như tiền tồn quỹ năm trước chuyển sang, lãi đầu tư trong năm, tồn quỹ đến
cuối năm cũng đều là số âm. Tính bền vững của Quỹ hưu trí-tử tuất sẽ bị đe dọa. (Đỗ
Văn Sinh, 2011)
Thứ hai, đó là sự mất cân đối trong việc phân phối các trợ cấp an sinh xã hội, kéo
theo khoảng cách khác biệt lớn giữa nông thôn và thành thị cũng như giữa khu vực
chính thức và phi chính thức. Theo nghiên cứu vào năm 2007 của của UNDP –
Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc, tỷ lệ được hưởng trợ cấp an sinh ở nhóm
20% người giàu nhất ở Việt Nam hiện nay cao gấp sáu lần nhóm 20% người nghèo
nhất. Trong khi nhóm giàu nhất nhận được 45% hỗ trợ y tế và 35% hỗ trợ giáo dục
thì nhóm nghèo chỉ nhận được tương ứng là 7% và 15%. Tỷ lệ bao phủ của Trợ giúp
xã hội còn thấp, mới chiếm khoảng 1,5% dân số và 9,22% diện đối tượng yếu thế, dễ
bị tổn thương trong xã hội cần trợ giúp, như hộ nông dân mất đất sản xuất do đô thị
hoá hoặc côngnghiệp hoá, không thể chuyển đổi ngành nghề, phải di cư ra thành phố
tìm kiếm việc làm (Cục Bảo trợ xã hội, 2010)
Thứ ba, đó là tình trạng không mặn mà của người nông dân đến việc tham gia bảo
hiểm. Khu vực kinh tế không chính thức thu hút một tỷ lệ khá lớn lực lượng lao động,
góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và tạo thu nhập cho người dân nông thôn. Tuy
nhiên, tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc chỉ
đạt khoảng 15%, chủ yếu là trong lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn. Đối với Bảo
hiểm Y tế tự nguyện, mặc dù nhà nước đã hỗ trợ kinh phí tham gia tới 50% mức phí
3
và nhiều địa phương hỗ trợ thêm 30% mức phí nữa, nhưng sự tham gia vẫn đạt tỷ lệ
thấp. Một số nguyên nhân bao gồm:
1. Mức đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện quy định còn cao so với đại bộ phận
người dân ở khu vực nông thôn và lao động tự do có thu nhập hàng tháng thấp, không
ổn định, theo đánh giá của Bộ trưởng Bộ Lao Động Thương Binh Xã hội Phạm Thị
Hải Chuyền ở dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội 20141.
2. Giả thuyết về tỷ lệ khấu trừ trong tương lai cao: người nông dân đánh giá hôm nay
cao hơn tương lai. Vì thế, mặc dù có sự trợ cấp lớn cho các mức phí bảo hiểm, những
người nông dân nhìn chung vẫn không muốn mất tiền ngày hôm nay để mua bảo hiểm
cho các rủi ro tiềm năng trong tương lai (Carol và cộng sự 2012).
3. Việc chủ quan trong dự đoán xác suất xảy ra rủi ro. Giả thuyết này được ủng hộ
bởi kết quả của cuộc nghiên cứu về Thái độ của nông dân đối với rủi ro lũ lụt tại Việt
Nam của Phạm Khánh Nam (2013). Kết quả bài nghiên cứu cho thấy nông dân có xu
hướng hành xử trung tính hoặc ít ưa thích với rủi ro lũ lụt. Thế nhưng, tỷ lệ tham gia
bảo hiểm vẫn thấp vì dự đoán chủ quan về mực nước khi xác suất lũ lụt được đánh
giá thấp một cách hệ thống.
Như hệ quả của một vòng lẩn quẩn, rất ít hộ tiếp cận với bảo hiểm nông nghiệp để
đối phó với các rủi ro do thiên tai gây ra và do đó có khoảng trống đáng kể để phát
triển các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp nhằm giảm các thiệt hại về thu nhập của
nông dân đang sống tại các vùng dễ bị tổn thương, và giảm chi phí của các chương
trình hỗ trợ của chính phủ đối với các hộ này
Từ những khó khăn trên, việc tìm kiếm nhiều giải pháp khác nhau nhằm thay thế cho
bảo hiểm mà vẫn đạt được hiệu quả bảo đảm an sinh đang được đặt ra. Kinh nghiệm
cho thấy, để có thể quản lý các biến đổi xã hội và đối phó với các rủi ro nhất là ở
nông thôn hiệu quả, nhà nước phải chú trọng tính liên tục xã hội, vận dụng các hình
1 Xem thêm Tờ trình số 28/TTr-CP ngày 07-2-2014 của Chính phủ về Dự án Luật Bảo hiểm xã hội tại http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=771&TabIn dex=2&TaiLieuID=1466
4
thức truyền thống. Bên cạnh hệ thống đảm bảo chính thức của nhà nước, ở nông thôn
tồn tại rất vững chắc và sinh động cả một mạng lưới giúp đỡ xã hội có hiệu quả cao
như gia đình, họ hàng, xóm giềng, các tổ chức nông dân (Bùi Thế Cường 1990).
Trong số các mạng lưới đó, các hội đoàn tôn giáo đang thu hút được nhiều sự quan
tâm và nghiên cứu của các học giả.
Vai trò thay thế bảo hiểm của tôn giáo dựa trên ba giả thiết của Scheve và Stasavage
(2006), có bổ sung giả thiết về những hỗ trợ vật chất mang lại từ tôn giáo, dựa trên
các nghiên cứu của Dehejia (2007), Guiso và cộng sự (2003, 2006), Klaubert (2010),
Renneboog và Spaenjers (2012) Dolphin (2009), Egli (2013), Dlamini và các cộng
sự (2014). Giả thiết thứ nhất là khi một cú sốc rủi ro diễn ra, nó không chỉ gây thiệt
hại về phương diện vật chất (được tính chung bằng những chi phí tổn thất bằng tiền
phát sinh từ rủi ro) mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tinh thần (thể hiện bằng những chi
phí tinh thần như suy giảm lòng tự tôn, căng thẳng, suy giảm mức độ hạnh phúc). Giả
thiết thứ hai là tôn giáo tạo nên những lợi ích về tinh thần tương tự như khi cá nhân
đang ở trong trạng thái hài lòng khi có sức khoẻ tốt, một công việc tốt hay mức lương
hưu ổn định; bên cạnh đó tôn giáo cũng mang lại những hỗ trợ vật chất cho cá nhân
khi gặp những rủi ro bất ngờ. Giả thiết cuối cùng là hàm hữu dụng của mỗi cá nhân
bao hàm chi phí bằng hiện kim và chi phí tinh thần thì không thể phân tách độc lập
bằng cách cộng dồn (additively separable) (Cervellati và cộng sự 2004). Một trường
hợp cụ thể của giả thuyết này là giả định lợi ích tinh thần của tôn giáo mang lại sẽ lớn
hơn đối với những người có thu nhập thấp.
Nghiên cứu về sự liên hệ giữa tôn giáo và bảo hiểm xã hội, Scheve và Stasavage
(2006) đã kết luận các cá nhân tham gia các hoạt động tôn giáo được dự đoán sẽ đòi
hỏi thấp hơn về các trợ cấp bảo hiểm xã hội so với những người vô thần. Tôn giáo
cũng giúp các cá nhân chống lại sự suy giảm hạnh phúc từ các cú sốc cá nhân như
suy giảm thu nhập, thất nghiệp, sụt giảm địa vị xã hội (Clark 2005, Dehejia và cộng
sự 2007). Về khả năng phục hồi sau khi các cú sốc thu nhập đã xảy ra, mối quan hệ
giữa tôn giáo và khả năng phục hồi chưa được đề cập đến trong các bài nghiên cứu
5
trước. Kết quả từ các bài nghiên cứu hiện tại chỉ ra mối liên hệ của khả năng phục hồi
sau các cú sốc và các yếu tố nguồn lực sẵn có như sinh kế, các nguồn vốn tự nhiên và
nguồn vốn xã hội (Janssen and Scheffer, 2004). Trong đó, tiết kiệm được đánh giá là
một trong những nguồn tự bảo hiểm quan trọng giúp tăng cường khả năng tự phục
hồi (Dolphin 2009, Egli 2013, Dlamini và các cộng sự 2014).
1.2 Câu hỏi nghiên cứu
Bài nghiên cứu này xem xét cụ thể tác động của tôn giáo ở 3 khía cạnh sau:
1.Cú sốc rủi ro khi xảy ra có gây thiệt hại đến vật chất và tinh thần của các hộ gia
đình/cá nhân hay không?
2a.Tôn giáo có đóng vai trò thay thế bảo hiểm đến khả năng phục hồi của hộ gia đình?
2b.Tôn giáo có giúp chống lại mức suy giảm hạnh phúc sau các cú sốc thu nhập của
các các nhân?
3.Lợi ích tinh thần mà tôn giáo mang lại có lớn hơn đối với những hộ/người có thu
nhập thấp hay không?
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1 Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của luận văn là tập trung nghiên cứu mối vai trò của tôn giáo đến các hộ gia
đình nông thôn Việt Nam sau các cú sốc như thế nào. Chính vì vậy, mục tiêu cụ thể
của luận văn gồm các mục sau:
1.3.2 Mục tiêu cụ thể
(1) Hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về tác động của tôn giáo đến tiết kiệm, tiết kiệm đến
khả năng phục hồi và tôn giáo đến mức độ hài lòng của các cá nhân từ đó xây dựng
khung phân tích lý thuyết.
(2) Xác định mức độ ảnh hưởng của các cú sốc thu nhập đến mức độ phục hồi và
hạnh phúc của các hộ gia đình/cá nhân.
6
(3) Xác định mức độ ảnh hưởng của tôn giáo đến khả năng phục hồi của các hộ sau
khi trải qua các cú sốc. Mối quan hệ giữa tôn giáo và khả năng phục hồi được xem
xét dưới tác động gián tiếp thông qua biến trung gian là tiết kiệm. Việc tham gia các
tổ chức tôn giáo có thể mang lại tác động dương đến tỉ lệ tiết kiệm (Guiso và cộng sự
2003, Klaubert 2010, Renneboog và Spaenjers 2012, León 2013) và mức tiết kiệm
giúp các hộ đương đầu tốt hơn với các cú sốc rủi ro bất ngờ (Dolphin 2009).
(4) Xác định mức độ ảnh hưởng của tôn giáo đến mức độ hài lòng của các cá nhân
sau khi trải qua các cú sốc. Tham gia các hoạt động tôn giáo giúp các nhân hạnh phúc
hơn khi có tình trạng thay đổi kinh tế diễn ra (Popova 2010).
(5) Xác định mức độ ảnh hưởng của tôn giáo ở các nhóm thu nhập khác nhau. Lợi ích
tinh thần của tôn giáo mang lại sẽ lớn hơn đối với những người có thu nhập thấp
(Scheve 2006)
(6) Mô tả tình hình hoạt động tôn giáo tại khu vực nông thôn Việt Nam
(7) Lập luận và đưa ra các khuyến nghị chính sách phù hợp với thực tiễn tình hình
nghiên cứu nhằm giúp các nhà quản lý chính sách công tham khảo và ứng dụng vào
thực tiễn quản lý và giúp các hộ gia đình tự bảo hiểm tốt hơn cho chính mình.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài viết nghiên cứu những ảnh hưởng của tôn giáo đến khả năng phục hồi sau các cú
sốc rủi ro tại các hộ gia đình nông thôn Việt Nam, và những ảnh hưởng của tôn giáo
đến mức độ hài lòng cuộc sống của các cá nhân đại diện cho mỗi hộ. Các hộ được
nghiên cứu thuộc khu vực nông thôn của 12 tỉnh: Hà Tây, Lào Cai, Phú Thọ, Lai
Châu, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hoà, Dak Lak, Dak Nông, Lâm
Đồng, Long An. Thời gian nghiên cứu là giai đoạn từ năm 2010 – 2012
1.5 Cấu trúc của bài viết
Bài viết được trình bày qua 5 chương. Chương 1 giới thiệu về tình hình bảo hiểm
chung tại các vùng nông thôn Việt Nam hiện và vai trò tiềm năng thay thể bảo hiểm
7
của tôn giáo, câu hỏi nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng - phạm vị thực hiện
nghiên cứu và cấu trúc của bài viết. Chương 2 trình bày tổng quan lý thuyết và các
nghiên cứu thực nghiệm. Chương 3 trình bày các mô hình kinh tế trong các nghiên
cứu có liên quan và mô hình thực nghiệm của đề tài, sau đó là phương pháp nghiên
cứu, dữ liệu nghiên cứu và mô tả các biến. Chương 4 trình bày tổng quan tình hình
tôn giáo tại Việt Nam, thống kê mô tả về dữ liệu nghiên cứu, phân tích hồi quy, các
bước kiểm định và kết quả nghiên cứu. Chương 5 trình bày những kết luận đã đạt
được cũng như đưa ra các chính sách kiến nghị từ kết quả đồng thời nhận xét các mặt
còn hạn chế, các hướng nghiên cứu mới có liên quan trong tương lai.
8
CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
2.1 Ba giả thiết cơ bản
Việc tham gia bảo hiểm mang lại những chi phí và lợi ích mà các cá nhân phải cân
nhắc trước khi lựa chọn. Tương tự, khi các cá nhân tham gia một hội nhóm tôn giáo,
chi phí bỏ ra và những lợi ích mà tôn giáo mang lại cũng được các cá nhân hành động
duy lý cân nhắc tính toán kỹ thiệt hơn. Nếu một cá nhân chấp nhận tôn giáo và bảo
hiểm có mối liên quan với nhau, với những lợi ích và chi phí riêng của mỗi bên, khi
một cá nhân mở rộng việc tự bảo hiểm cho bản thân bằng hình thức gia tăng hoạt
động trong các hội nhóm tôn giáo thì hệ quả logic sẽ là giảm việc tham gia vào các
hình thức bảo hiểm khác.
Vai trò thay thế bảo hiểm của tôn giáo được xem xét trên ba giả thiết cơ bản của
Scheve và Stasavage (2006). Giả thiết thứ nhất là một cú sốc rủi ro khi xảy ra không
chỉ gây thiệt hại về chi phí vật chất mà còn có cả chi phí tinh thần. Chi phí vật chất
được quy đổi thành hiện kim và chi phí tinh thần có thể bao gồm sự suy giảm lòng tự
tôn, căng thẳng quá độ hay suy giảm hạnh phúc (Clark và Oswald 1994, Di Tella và
cộng sự 2003, Popova 2010).
Giả thiết thứ hai là tôn giáo mang lại những lợi ích về vật chất và tinh thần cho các
cá nhân khi có các cú sốc rủi ro bất ngờ xảy đến. Lợi ích về vật chất có thể là việc
giảm bớt tác động tiêu cực đến tiêu dùng khi có các cú sốc làm thay đổi thu nhập
(Dehejia 2007), tăng cường hành vi tiết kiệm (Guiso và cộng sự 2003 2006, Klaubert
2010, Renneboog và Spaenjers 2012) qua đó nâng cao khả năng phục hồi sau khi các
cú sốc đi qua (Dolphin 2009, Egli 2013, Dlamini và các cộng sự 2014). Lợi ích về
tinh thần có thể là lòng tự tôn được giữ vững, cá nhân xem các rủi ro bất ngờ là những
thử thách cho đức tin và mục tiêu cuộc đời của họ, và họ xem những rủi ro này như
một bài học tôi luyện cho sức mạnh ý chí tinh thần thêm lớn mạnh (Scheve và
Stasavage 2006). Niềm tin tôn giáo cũng có tác động quan trọng đến việc hình thành
tính cách con người, qua đó quyết định đến việc nhận thức của cá nhân về mức độ tự
hài lòng khi đương đầu với những sự kiện rủi ro ngoài ý muốn (Folkman và cộng sự
9
1986). Nhiều kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mối tương quan tích cực giữa mức
độ hạnh phúc của cá nhân và tôn giáo (Ellison 1991, Dehejia 2007).
Giả thiết thứ ba là hàm hữu dụng của mỗi cá nhân bao hàm chi phí bằng hiện kim và
chi phí tinh thần thì không thể phân tách độc lập bằng cách cộng dồn (Cervellati và
cộng sự 2004). Cụ thể hơn, vai trò của tôn giáo thay thế bảo hiểm có hiệu quả nhất là
khi các cá nhân không có điều kiện tiếp cận với bảo hiểm chính thức có thể tìm thấy
lợi ích lớn hơn từ tôn giáo so với các cá nhân khác có điều kiện thu nhập cao hơn.
Giả thiết thứ ba giả định rằng các lợi ích tinh thần mang lại từ tôn giáo sẽ lớn hơn đối
với các cá nhân có thu nhập thấp. Giả thiết này phù hợp với nhiều nghiên cứu thực
nghiệm trước đây (Pargament 1997, Dehejia 2007).
Nếu ba giả thiết được thoả mãn, vai trò thay thế bảo hiểm của tôn giáo sẽ được chứng
minh là có ý nghĩa cả về mặt lý thuyết và thống kê. Để chứng minh cho giả thiết về
thiệt hại đồng thời đến vật chất và tinh thần do một cú sốc gây ra, ảnh hưởng từ tổn
thất rủi ro đến khả năng phục hồi và mức độ hạnh phúc phải thể hiện tương quan âm.
Để chứng minh cho giả thiết về lợi ích vật chất và tinh thần mà tôn giáo mang lại khi
có các cú sốc bất ngờ xảy đến, tác động của tôn giáo đến khả năng phục hồi và mức
độ hạnh phúc phải là tác động tích cực. Do tác động trực tiếp từ tôn giáo đến khả
năng phục hồi không có mối liên hệ trong lý thuyết, mức tiết kiệm sẽ được xem xét
như một biến trung gian giữa hai biến này. Với giả thiết về tác động lớn hơn của tôn
giáo ở các nhóm hộ có thu nhập thấp, các mẫu nghiên cứu sẽ được chia thành từng
mẫu nhỏ theo nhóm thu nhập để xem xét giả thiết này.
2.2 Một số lý thuyết về khả năng phục hồi
Các lý thuyết về khả năng phục hồi được nghiên cứu nhiều trên khía cạnh vi mô của
toàn bộ nền kinh tế. Theo Martin-Breen & Anderies (2011), khả năng phục hồi của
một nền kinh tế có thể được chia theo các hình thức cân bằng sau cú sốc. Thứ nhất,
đó là khả năng phục hồi kỹ thuật, thể hiện ở khả năng làm dừng các ảnh hưởng bên
ngoài và đẩy nhanh tốc độ phục hồi trở lại trạng thái trước khi diễn ra cú sốc, trở về
với trạng thái cân bằng ban đầu (Holling, 1973; Pimm, 1984; Walker và cộng sự,
10
2006). Nhưng một nền kinh tế rất ít khi cần trở về trạng thái cân bằng ban đầu bởi xu
hướng phát triển đi lên của nó (Martin, 2010), do đó loại khả năng phục hồi thứ hai
ra đời. Thứ hai, đó là khả năng phục hồi sinh thái, khả năng học hỏi từ quy mô của
các cuộc khủng hoảng rủi ro trước khi nó bị mất cân bằng và đưa về một trạng thái
cân bằng mới, có thể là xa vị trí cân bằng cũ (Holling, 1973, 1996, 2001; McGlade,
2006; McGlade và cộng sự 2006; Walker và cộng sự 2006). Các nhà kinh tế học lúc
này bàn nhiều hơn về tính tích cực của các cú sốc và quan tâm nhiều hơn đến tỉ lệ
tăng trưởng tăng vọt sau mỗi giai đoạn hậu rủi ro khi đã đạt được trạng thái cân bằng
mới, vì thế khái niệm thứ ba, khả năng phục hồi thích nghi được phát triển. Đó là khả
năng trải qua một cuộc tái cấu trúc đã được tiên liệu trước hoặc là kết quả của việc
phản ứng lại để giảm thiểu các tác động tiêu cực từ các cú sốc gây mất ổn định cân
bằng (Martin và Sunley, 2007)
Khả năng phục hồi theo cấp độ vi mô ở mỗi hộ gia đình hay cá nhân còn rất ít những
nghiên cứu đề cập tới. Kofinas & F. Stuart Chapin (2009) đã định nghĩa chung cho
khả năng phục hồi là nguồn lực của một hệ thống có thể phản ứng lại và hình thành
những sự thay đổi thích nghi cho sự tiếp tục và phát triển bền vững. Các nguồn lực
này bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có thể kể đến như sinh kế và các nguồn vốn tự
nhiên và xã hội, hình thành nên những khía cạnh khác nhau cho sự phát triển bền
vững lâu dài (Janssen and Scheffer, 2004).
2.3 Các lý thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa khả năng phục hồi, tiết kiệm
và tôn giáo
2.3.1 Khả năng phục hồi và tiết kiệm
Hành vi tiết kiệm của cá nhân hay hộ gia đình đã được nghiên cứu rất nhiều từ các
nhà kinh tế học (Deaton 1991, 1992, Fafchamps và cộng sự 1998, Wainwright và
Newman 2011). Trong đó, Gersovitz (1988) chia tiết kiệm thành 4 nhóm: (1) tiết
kiệm theo vòng đời, là khi các hộ gia đình xem xét mối quan hệ giữa tuổi và thu nhập
như một động cơ tiết kiệm, đặc biệt là để đảm bảo phúc lợi trước khi về hưu; (2) tiết
kiệm phòng ngừa, là khi các hộ gia đình tiết kiệm để bảo vệ chính mình trước các rủi
11
ro có thể xảy ra; (3) tiết kiệm để đầu tư, là khi tiền tiết kiệm được dùng để sinh lời
hay đầu tư vào các cơ hội tài chính; (4) tiết kiệm vì nhiệm vụ, là khi các hộ gia đình
tiết kiệm cho tương lai của những người thân của mình. Tiết kiệm phòng ngừa đặc
biệt quan trọng tại các nước đang phát triển như Việt Nam khi thu nhập còn bấp bênh
và các cơ chế hỗ trợ tín dụng khi có rủi ro xảy ra còn nhiều hạn chế.
Hoạt động tiết kiệm được nhiều nghiên cứu cho thấy đã góp phần nâng cao khả năng
phục hồi của nhiều hộ gia đình. Dolphin (2009) lý giải cho mối liên hệ này từ đặc
điểm tự bảo hiểm của khoản tiết kiệm có thể giúp hộ gia đình đương đầu tốt hơn với
các cú sốc rủi ro bất ngờ. Tiết kiệm cũng là một trong 3 hình thức chuẩn bị, ngoài
việc học những kỹ năng mới và thiết lập một mạng lưới quan hệ xã hội rộng để tìm
được việc làm tốt hơn, theo Egli (2013) , góp phần nâng cao khả năng tự phục hồi
của cá nhân. Mở rộng nghiên cứu trên tiết kiệm nhóm tại Izandla Ziyagezana Nam
Phi, Dlamini và các cộng sự (2014) đã chứng minh nhóm tiết kiệm giúp tăng cường
sự gắn kết xã hội và đóng góp cho chiến lược sinh kế của những người nghèo, qua đó
giúp tăng cường khả năng phục hồi của họ.
2.3.2 Tiết kiệm và tôn giáo
Một trong số các yếu tố tác động đến tiết kiệm chính là vốn xã hội, đóng vai trò như
một tổ chức thay thế cho tổ chức tín dụng chính thức khi vai trò và tác động của các
tổ chức này còn yếu (Fafchamps 2006). Bowles và Gintis (2002) nhấn mạnh kết quả
nghiên cứu cho thấy cộng đồng nào sở hữu nhiều nguồn thông tin riêng mà thị trường
cũng như chính phủ không thể tiếp cận được thì có khả năng khắc phục được các
khuyết tật của thị trường càng cao thông qua các cấu trúc xã hội hiện hữu. Đặc biệt
các tổ chức xã hội này sẽ tạo điều kiện để mọi người chia sẻ thông tin, loại bỏ việc
bất cân xứng thông tin thông qua các chuẩn mực xã hội. Giải quyết được bất cân xứng
thông tin là mấu chốt quan trọng để tăng tiết kiệm chính thức. Đối với các nguồn tiết
kiệm phi chính thức, lý thuyết về tiết kiệm cũng chỉ ra rằng sự chia đều rủi ro giữa
các nhóm xã hội thông qua một hệ thống lưu chuyển tín dụng và vay nợ là một mắt
xích quan trọng cho việc đương đầu với rủi ro trong cộng đồng người nghèo (Coate
12
và Ravallion 1993, Townsend 1994, Udry 1994, Foster và Rosenzweig 2001, Ligon
và cộng sự 2002). Các hoạt động chia sẻ rủi ro phi chính thức này thường xảy ra dưới
hình thức tiết kiệm phi chính thức và tín dụng nhóm, có liên quan trực tiếp đến thị
trường chính thức. Vai trò tiềm năng của vốn xã hội trong việc lưu chuyển thông tin
cũng như chia sẻ rủi ro này đã tác động đến hành vi tiết kiệm của các hộ. Đây là khái
niệm về vốn xã hội sẽ được sử dụng trong bài nghiên cứu này.
Tham gia các tổ chức tôn giáo là một trong những hình thức của vốn xã hội. Nhiều
nghiên cứu cũng đã xem xét tác động trực tiếp từ tôn giáo đến hành vi tiết kiệm của
các cá nhân nhưng kết quả trái ngược nhau, chưa thống nhất đủ để kết luận thành một
xu hướng chung. Carroll (1994) so sánh giữa hành vi tiết kiệm của những người nhập
cư tại Canada từ nhiều nền văn hoá khác nhau đã cho thấy chưa có một bằng chứng
nào thể hiện tôn giáo hay các yếu tố văn hoá có ảnh hưởng đến các hành vi tiết kiệm.
Renneboog và Spaenjers (2009) không tìm thấy bằng chứng cho thấy mối quan hệ
giữa tôn giáo và tỉ lệ tiết kiệm của các cá nhân. Guiso và cộng sự (2003, 2006) trong
bài nghiên cứu của mình lại cho thấy tác động dương của niềm tin tôn giáo đến tỉ lệ
tiết kiệm. Anja (2010) từ kết quả nghiên cứu tại Hoa Kỳ cũng tìm thấy bằng chứng
về sự tác động của tôn giáo đến tiết kiệm, và không có sự khác biệt đáng kể nào giữa
các nhóm tôn giáo của Đạo Cơ Đốc giáo với nhau. Renneboog và Spaenjers (2012)
phân tích tác động của các tổ chức tôn giáo đến hành vi kinh tế của các cá nhân, ví
dụ tiết kiệm và rủi ro, và hành vi đầu tư tại Hà Lan. Họ đã tìm thấy mối quan hệ thuận
giữa hoạt động tham gia các tổ chức tôn giáo với quyết định tiết kiệm của mỗi cá
nhân. (León 2013) dựa trên kết quả thực nghiệm từ nămg 2003 đến 2009 tại Mỹ, đã
cho thấy những người có tôn giáo tiết kiệm nhiều hơn những người vô thần.
Giải thích về mối quan hệ giữa tôn giáo và tiết kiệm, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng
có hai kênh chính để niềm tin tôn giáo có thể tác động đến việc tích luỹ vốn. Thứ
nhất, những nội dung cốt lõi của mỗi tôn giáo khác nhau tác động đến hành vi tiết
kiệm cũng khác nhau (Stets và Burke, 2000). Một số tôn giáo có thể nhấn mạnh vào
tầm quan trọng của các nỗ lực sản xuất hiệu quả, bao gồm như làm việc chăm chỉ và
13
tiết kiệm để cầu mong sự tha thứ từ các đấng thần linh trong khi một số tôn giáo khác
lại chú trọng đến việc tiết kiệm như một phương tiện để bố thí cho người hoặc cúng
dường đến các nhà sư (McCleary, 2007).
Thứ hai, việc tham gia vào các đoàn hội tôn giáo có thể làm thay đổi cơ hội và sở
thích tiết kiệm của một cá nhân. Vì niềm tin tôn giáo của những người tham gia
thường xuyên được tăng cường, họ thường đầu tư nhiều hơn thời gian và tiền bạc tiết
kiệm được cho “vốn tôn giáo con người” (Iannaccone, 1998). Hơn nữa, tham gia vào
đoàn hội tôn giáo thường xuyên sẽ tạo nên các mối quan hệ xã hội (Glaeser và
Sacerdote, 2008; Guiso và cộng sự., 2003, 2006), giúp thu thập các thông tin quan
trọng và cần thiết để thực hiện các quyết định tiết kiệm phù hợp với các chiến lược
đầu tư từ những người đồng tham dự.
Trong các nghiên cứu khác, tôn giáo ảnh hưởng đến tiết kiệm thông qua các kênh
khác như phát triển kinh tế (Weber, 1905; Samuelsson, 1993; Iannaccone, 1998), từ
đó tác động đến thu nhập và tỉ lệ tiết kiệm.
2.4 Một số lý thuyết về mức độ hữu dụng - hài lòng của mỗi cá nhân
Lý thuyết về hữu dụng là một trong những lý thuyết nền tảng của kinh tế học, được
ứng dụng rộng rãi, nhất là các lý thuyết về hành vi người tiêu dùng. Đặt nền tảng cho
thuyết hữu dụng chính là Bentham trong tác phẩm Introduction to the Principles of
Morals and Legislation - 1789 (Stigler 1950), người đã định nghĩa hữu dụng là xu
hướng mang lại sự hài lòng (pleasure) hay đau khổ (pain) cho mọi người và người ta
đang hành động duy lý để ước muốn thứ sẽ làm tối đa hoa hữu dụng của họ. Học
thuyết của Bentham tập trung ở 2 giả thuyết: mức tốt hay xấu của kinh nghiệm có thể
định lượng được và mức định lượng ở mỗi cá nhân đó có thể cộng dồn lại giữa nhiều
người với nhau. Ở giả thuyết thứ nhất, nếu chúng ta nhân cường độ với quãng thời
gian trải qua thoải mái hay đau khổ, chúng ta sẽ có được giá trị hữu dụng của một cá
nhân. Giả thuyết thứ 2 cho thấy ta có thể cộng dồn các mức định lượng giá trị ở mỗi
cá nhân để đạt được mức tổng định lượng, nhằm tối đa hoá độ hữu dụng và được
dùng làm thang đo cho các hàng hoá xã hội.
14
Học thuyết của Bentham đã có ảnh hưởng sâu rộng đến các nhà kinh tế học cùng và
sau thời của ông, điển hình là các nhà kinh tế học cổ điển như Gossen (1810 -1858),
Jevon (1835-1882), Marshall (1842-1924) và Edgeworth (1845-1926). Jevon (1988)
đã xem kinh tế như một phép tính tổng của sự hài lòng và nỗi đau. Tuy nhiên, trong
các lý thuyết về sau này, các nhà kinh tế chỉ xem sự hài lòng và đau khổ như một nền
tảng siêu hình của kinh tế học thực dụng, các phương pháp được áp dụng để nghiên
cứu không xem việc đo lường hay sự tồn tại của 2 khái niệm này là trung tâm. Các
nhà kinh tế chỉ tập trung vào độ thoả dụng biên, là sự hài lòng hay nỗi đau từ một đơn
vị tăng thêm của một hàng hoá hay hành động (Stigler 1950, Gossen 1950). Chính vì
những lý do không đáng tin cậy trong thang đo và không còn cần thiết để phát triển,
nền tảng cho thuyết hữu dụng đã bị chối bỏ, mặc dù tên gọi vẫn được sử dụng để
tham khảo khi xem xét. Những lý do rất vững chắc kèm sự thay thế rất tiềm năng từ
học thuyết hữu dụng biên đã thuyết phục được các nhà kinh tế học ở nửa sau thế kỷ
19.
Lý thuyết của Bentham vì thế bị bỏ ngỏ vì không còn cần thiết để đo lường, hoặc
thậm chí không còn cần phát triển thêm về lý thuyết tổng hài lòng hay nỗi đau. Tuy
nhiên, lý thuyết về tổng hữu dụng biên không cho chúng ta biết được tổng hữu dụng
là bao nhiêu. Hơn nữa, hữu dụng biên giữa các hàng hoá khác nhau thì không độc lập
với nhau. Edegworth giải quyết vấn đề này bằng giả thuyết cho rằng tổng hữu dụng
biên là hàm số của tất cả các giỏ hàng hoặc cơ hội của người tiêu dùng: 𝑈 =
𝑈(𝑥1,𝑥2𝑥3,𝑥𝑛,). Pareto đề xuất nếu chúng ta thể hiện tất cả các hàng hoá lên đường
đẳng dụng của Edgeworh, chúng ta sẽ lý giải được mọi điều về phân tích kinh tế.
Bằng việc so sánh giữa tất cả các giỏ hàng hoá, chúng ta có thể vẽ một đường đẳng
dụng hoàn thiện về hữu dụng của các cá nhân.
Hàm hữu dụng gốc này đã rẽ một hướng hoàn toàn khác đối với lý thuyết của
Bentham. Thứ nhất, hữu dụng không còn bất kỳ một liên hệ nào với mức độ hạnh
phúc. Thứ hai, các hàng hoá hay sở thích trong giỏ hàng không thể được cộng dồn
giữa các cá nhân với nhau. Thứ ba, sự khác biệt giữa các con số định lượng này là
15
không thể so sánh được. Các nhà kinh tế học giai đoạn sau với niềm tin rằng sự hài
lòng của mỗi cá nhân thực sự có vai trò trung tâm trong kinh tế, và họ đã hiện thực
hoá việc đo lường hữu dụng từ học thuyết của Bentham. Lý thuyết về hữu dụng kinh
nghiệm (experienced utility) được Kahneman, Wakker và Sarin phát triển từ những
năm 1997 đánh dấu cho sự trở lại của học thuyết Bentham. Lý thuyết này dựa trên lý
luận rằng có một hàng hoá có thể định lượng được và tách rời với những lựa chọn mà
cá nhân quyết định. Các cơ sở của lý thuyết này được nêu ra dưới đây. Đầu tiên, tại
mỗi khoảng khắc chúng ta đang trải qua hữu dụng, có nghĩa là thoái mái hay đau khổ,
điều này được gọi là hữu dụng tức thời. Thứ hai, hữu dụng này có số lượng và giá trị,
với một điểm trung lập trên ranh giới, phân chia ước muốn và không ước muốn, giữa
hài lòng và đau khổ. Thứ ba, theo cốt lõi của học thuyết từ Bentham, các hữu dụng
này sẽ làm cho một kinh nghiệm trở thành tốt hay xấu. Thứ tư, tập hợp tất cả các hữu
dụng tức thời trong một quãng thời gian chúng ta sẽ có được tổng hữu dụng của các
thời gian đó. Thứ năm, một quyết định tối ưu là quyết định có thể tối đa hoá tổng hữu
dụng (hoặc tổng hữu dụng được mong đợi). Cuối cùng, để lý thuyết này có tính khả
thi, hữu dụng tức thời phải đo lường được, ít nhất là tại điểm ban đầu và điểm kết
thúc của một thang đo tỉ lệ. Thang đo của hữu dụng tức thời có thể cộng các hữu dụng
đó lại mà không cần quan tâm nội dung tức thời của nó là gì, nghĩa là không cần quan
tâm đến sự phụ thuộc lẫn nhau của các nội dung hữu dụng. Sự phát triển của lý thuyết
hữu dụng kinh nghiệm mang sự hài lòng về đúng vai trò của nó trong định nghĩa về
mức độ hữu dụng của mỗi cá nhân. Ngày nay, mức độ hài lòng được sử dụng nhiều
trong nghiên cứu thực nghiệm để đo lường hữu dụng cá nhân, đúng như định nghĩa
ban đầu mà các nhà kinh tế học như Batheman đã từng xây dựng ở những thập niên
của thế kỷ 19.
Các bài nghiên cứu tiếp theo sau đã được nghiên cứu mở rộng ra trong nhiều lĩnh vực
hơn, về các khía cạnh khác nhau của sự hài lòng và các yếu tố tác động ảnh hưởng
đến nó. Diener (1993) định nghĩa sự hài lòng dựa trên 3 cơ sở. Thứ nhất, đó là cảm
xúc chủ quan của mỗi cá nhân. Thứ hai, sự hài lòng được đo lường không chỉ trên sự
vắng mặt của cảm xúc tiêu cực mà còn có cả cảm xúc tích cực. Thứ ba, sự hài lòng
16
bao gồm cả đánh giá toàn cầu về cuộc sống như một tổng thể. Veenhoven (1984) thì
định nghĩa sự hài lòng chủ quan là đánh giá tổng thể của một cá nhân tự xem xét đối
với cuộc sống của người đó. Andrews và Withey (1976) đã mô tả hạnh phúc chủ quan
là kết quả sự đánh giá nhận thức kết hợp với mức độ các cảm xúc tích cực và tiêu cực
của tâm trạng hiện tại.
(Lee-Ann Fenge 2012) đã thực hiện bài nghiên cứu tổng quan và cho rằng sự hài lòng
của cá nhân chịu tác động từ việc quản lý một nguồn kết hợp phức tạp giữa các khả
năng và tài sản, bao gồm cả nguồn lực về vật chất và tinh thần.
Nếu phân chia theo mức độ quan trọng, các yếu tố căn bản của sự hài lòng bao gồm
những nhu cầu căn bản của con người, như không khí sạch, nước và nguồn cung thức
ăn đầy đủ. Nếu thiếu vắng những nguồn cung này, cá nhân sẽ bị mắc kẹt với việc duy
trì sự sống trong tình trạng nghèo đói, bệnh tật và các bất ổn về xã hội. Diener và
Seligman (2004) trong bài nghiên cứu của mình đã cho thấy: dưới mức thu nhập bình
quân đầu người 10.000USD một năm, có một sự tương quan chặt chẽ giữa của cải
của các quốc gia và mức độ hạnh phúc của người dân. Kết quả nghiên cứu theo số
liệu từng quốc gia cũng có kết luận tương tự. Tuy nhiên, không có sự tăng lên đáng
kể nào trong mức thang hạnh phúc khi những nhu cầu của một cá nhân đã được thoả
mãn (Easterlin 2001). Khi các cá nhân đạt được mức của cải nhiều hơn, họ khao khát
có được nhiều tài sản hơn nữa, nhưng điều đó dường như lại làm giảm đi mức độ
hạnh phúc và tổng hài lòng chung của họ. Lúc này, các yếu tố khác đóng vai trò quan
trọng hơn trong việc tác động đến sự hài lòng của các cá nhân này bao gồm chất lượng
của các mối quan hệ xã hội hay cảm giác được kiểm soát cuộc sống, số phận của
mình.
Cao hơn các yếu tố căn bản quyết định đến sự hài lòng chính là yếu tố cảm thấy an
toàn. Nếu rủi ro dễ xảy đến từ nghèo đói, bệnh tật, xung đột, khủng hoảng kinh tế,
hoặc các thảm hoạ thiên nhiên sẽ có tác động đến tất cả mọi mặt của đời sống cá nhân.
Một hệ thống phúc lợi bền vững là một trong những yếu tốt quyết định quan trọng
nhất đến sự an toàn của mỗi cá nhân. Những gia đình với thu nhập không ổn định để
17
mua thực phẩm và không có mảnh đất phù hợp để trồng trọt dễ bị tổn thương hơn các
hộ khác khi đối mặt với các rủi ro về thu nhập. Bên cạnh các bài nghiên cứu trước
đây về rủi ro tự nhiên đến tính dễ bị tổn thương của các hộ thu nhập thấp, nhiều nhà
kinh tế học gần đây cũng đã bắt đầu chú ý đến an toàn sinh kế và xem đây là một yếu
tố quyết định to lớn đến tính dễ tổn thương cũng như khả năng phục hồi của hộ (Sen
1981, Adger 2006).
Các mối quan hệ xã hội liên quan đến sự gắn kết xã hội, tôn trọng và bình đẳng với
nhau, sự cân bằng về giới, những mối liên kết gia đình mạnh mẽ, khả năng giúp đỡ
người khác, khả năng được thể hiện và trải nghiệm những giá trị thẩm mỹ, tinh thần
và các giá trị văn hoá khác. Tháp nhu cầu của Maslow (1943) cũng đưa ra những
nhận định tương tự. Các cá nhân và tổ chức tương tác với nhau thông qua mạng xã
hội, các mối tương tác này hình thành nên mối quan hệ giữa các cá nhân, các hộ gia
đình và các tổ chức thông qua không gian và thời gian. Vì thế, sự hài lòng của mỗi cá
nhân không chỉ được đánh giá qua mỗi điều kiện của từng các nhân mà phải dựa trên
cả những mối quan hệ xã hội xung quanh (Lansing 2006).
Mối quan hệ giữa sự hài lòng và các yếu tố khác cũng thu hút được nhiều quan tâm
của các nhà kinh tế học, như mối quan hệ với thu nhập tương đối, sự bất bình đẳng
trong thu nhập, tôn giáo, tình trạng thất nghiệp, vai trò của dân chủ, tội phạm, sức
khoẻ giáo dục, tình trạng đô thị, lạm phát, GDP và tỉ lệ tăng trưởng GDP, biến đổi
khí hậu và các vấn đề về ô nhiễm môi trường (Alesina 2004, Clark và Oswald 1994,
Di Tella 2001 và 2003, Dynan và Ravina 2007, Easterlin 1995 và 2001, Ellison 1999,
Ferreri-Carbonell 2005, Frey và Stutzer 2000, Gerdtham và Johannesson 2001,
Hadaway 1978, Luttmer 2005, Michalos và Zumbo 2000, Morawetz 1997,
Powdthavee 2005, Rehdanz và Maddison 2005,Welsch 2007,Winkelmann và
Winkelmann 1998).
Các bài nghiên cứu cũng cho thấy mức độ hài lòng với cuộc sống bị ảnh hưởng tiêu
cực với các cú sốc về kinh tế như lạm phát cao, thu nhập bất ổn định và chất lượng
chính phủ nghèo nàn tại các quốc gia đang chuyển đổi (Sanfey và Teksoz 2007), sự
18
sụt giảm GDP bình quân đầu người trong suốt quá trình chuyển đổi (Easterlin 2009),
sự mất cân bằng kinh tế vĩ mô cao, hiệu quả của các sản phẩm hàng hoá công kém và
vốn con người giảm tại các nước đang phát triển (Guriev, Zhuravskaya 2009). Các
kết quả từ những nước phát triển cũng thể hiện tương tự về mối quan hệ giữa mức độ
hài lòng và các cú sốc bất ổn định của nền kinh tế (Clark, Oswalld 1994, Di Tella và
cộng sự 2001).
2.5 Các lý thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa mức độ hài lòng và tôn giáo
Về vai trò tác động của tôn giáo, một trong những mô hình nghiên cứu đầu tiên là của
Azzi và Ehrenberg (1975), người đã xây dựng một hệ thống tối đa hoá hữu dụng ở
nhiều giai đoạn khác nhau trong trường hợp một hộ gia đình phải quyết định giữa
công việc, thời gian nghỉ ngơi và các hoạt động phi thị trường như tham gia vào một
tổ chức tín ngưỡng tôn giáo. Tác giả cũng phân tích về các yếu tố quyết định đến việc
tham gia thực hành tôn giáo và những lý do để các cá nhân trở thành một tín đồ. Đầu
tiên, như tác giả chỉ ra, một cá nhân tin rằng thực hành các hoạt động tín ngưỡng giúp
mang lại cho họ sự hài lòng về một thế giới bên kia. Thứ hai, hệ thống mạng xã hội
của cá nhân sẽ được mở rộng cùng với những người chung đạo. Thứ ba, một cá nhân
có thể tham gia một tổ chức tôn giáo vì các áp lực xã hội khi cộng đồng xung quanh
đều tham gia.
Sau Azzi và Ehrenberg (1975), các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm hơn về sự hài
lòng và tôn giáo. Một trong những nghiên cứu tiên phong là của Ellison (1991), người
đã xem xét các khía cạnh khác nhau của các hoạt động tôn giáo. Tác giả cho thấy tác
động gián tiếp của việc đến nhà thờ đến mức độ hạnh phúc của cá nhân. Kết quả
tương tự ở các nghiên cứu của Clark và Lelkes (2006), Dehejia và cộng sự (2007).
Clark và Lelkes (2006) cũng nhấn mạnh đến vai trò bảo hiểm của tôn giáo khi cho
rằng niềm tin tôn giáo giúp bảo hiểm lại các sự kiện có đặc trưng riêng như thất
nghiệp hay ly hôn, mặc dù tác động này là khác nhau theo các giáo phái khác nhau.
Tác giả giải thích vai trò của bảo hiểm khi gặp các biến cố của cuộc sống sẽ phát huy
vai trò hỗ trợ cá nhân từ những sự giúp đỡ của những người đồng đạo, hay từ chính
19
bản thân niềm tin tôn giáo cũng đóng vai trò thay thế cho các hỗ trợ xã hội. Dehejia
(2007) đã bàn rộng ra hơn về vai trò bảo hiểm này. Các tác giả sử dụng số liệu tại
Hoà Kỳ để cho thấy việc tham gia các hoạt động tôn giáo như đóng góp cho tổ chức
hay thường xuyên tham gia lễ, sẽ có tác động đến việc bảo hiểm tiêu dùng và mức độ
hài lòng khi các cá nhân gặp phải những bất trắc trong cuộc sống. Các tác giả nhấn
mạnh rằng kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng đến các chính sách an sinh xã hội:
khi người ta có niềm tin tôn giáo mạnh hơn, các cá nhân đó sẽ ít cần đến các bảo hiểm
từ nhà nước hơn.
Tuy nhiên, các tác động ngược từ tôn giáo cũng được nhiều nghiên cứu đề cập tới.
Mookerjee và Beron (2005) sử dụng dữ liệu chéo của 60 quốc gia phát triển và đang
phát triển để đi đến kết luận cho rằng càng có sự phân hoá đa dạng của các nhóm tôn
giáo trong một nước thì mức độ hạnh phúc lại càng giảm. Kết quả này cho thấy các
quốc gia có sự đồng nhất về tôn giáo sẽ có mức hạnh phúc trung bình cao hơn các
quốc gia đa tôn giáo.
2.6 Một số nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
Một trong những bài báo nghiên cứu về vai trò của tôn giáo như một bước đệm bảo
hiểm là của Scheve và Stasavage (2006). Scheve và Stasavage kết luận các cá nhân
theo tôn giáo có thể đồng ý với mức bảo hiểm xã hội thấp hơn những cá nhân vô thần.
Và chính sách kinh tế được đề nghị cho các nước với tỉ lệ dân chúng theo đạo cao có
thể là giảm mức chi tiêu công cho phúc lợi xã hội. Giả thuyết của Scheve và Stasavage
đưa ra đã phần nào lý giải được sự khác biệt lớn cả trong hệ thống an sinh xã hội và
tôn giáo của Hoa Kỳ và nhiều nước Châu Âu khác.
Giả thuyết mà Scheve và Stasavage đưa ra là tầm quan trọng của các nhóm tôn giáo
càng lớn thì càng ảnh hưởng đến chế độ chính trị của quốc gia đó, và những tổ chức
chính trị này đến lượt mình sẽ ảnh hưởng lại các chính sách phúc lợi theo những cách
rất khác nhau. Tại các nước Châu Âu, chính sách phúc lợi bị ảnh hưởng bởi các tổ
chức Dân chủ Cơ đốc giáo sẽ khác nhau rõ rệt theo hệ thống so với các chính sách
của các tổ chức Dân chủ Xã hội (Esping-Anderson 1990).
20
Scheve và Stasavage (2006) lý giải về tác động bảo hiểm của tôn giáo và nhấn mạnh,
tôn giáo có thể giúp hạn chế các chi phí về tâm linh tinh thần khi đối phó với các biến
cố rủi ro trong cuộc sống. Ví dụ, nếu chi phí tinh thần của việc thất nghiệp bao gồm
mất mát về lòng tự trọng, tôn giáo có thể giúp cá nhân bảo hiểm trước rủi ro này, vì
lòng tự trọng có liên quan mật thiết đến các đức tin tôn giáo. Tương tự , đối với rủi
ro bệnh tật hay gặp một cú sốc thu nhập sau khi về hưu, tôn giáo có thể bảo hiểm cho
các chi phí tinh thần đó, bên cạch đó là các khoản hỗ trợ vật chất mà các cá nhân nhận
được trực tiếp từ cộng đồng tôn giáo của họ. Hungerman (2005), Chen và Lind
(2005), Dehejia và cộng sự (2005) bằng số liệu tại Hoa Kỳ đã cho thấy các thành viên
của tổ chức tôn giáo sẽ được hưởng một khoản bảo hiểm hiện kim từ nguồn quỹ của
các giáo dân đã đóng góp. Hungerman (2005) cho thấy đối với thành viên của các
nhà thờ tại Mỹ, có sự tương quan nghịch giữa việc đóng góp quỹ từ thiện và mức chi
tiêu phúc lợi công, đồng thời, các tác động đến tiêu dùng từ những cú sốc sẽ giảm
(Dehejia và cộng sự 2005).
Một lý do khác mà Scheve và Stasavage (2006) giải thích cho vai trò bảo hiểm của
tôn giáo là tôn giáo giúp cho các cá nhân tin tưởng hơn vào các kết quả cụ thể về cách
thức hoạt động của nền kinh tế. Ví dụ, các cá nhân có theo đạo thường tin vào nỗ lực
chăm chỉ sẽ được một mức thu nhập cao, và các yếu tố ngoại sinh như hoàn cảnh gia
đình không phải là trở ngại thật để đạt đến thành công. Kết quả là họ sẽ ít cần hơn
các khoản bảo hiểm xã hội. Piketty (1995) lập luận rằng niềm tin khác nhau về mức
độ thu nhập phụ thuộc vào nỗ lực cá nhân sẽ dẫn đến những thái độ khác nhau ở mỗi
cá nhân liên quan đến tái phân phối thu nhập.
Kết luận lại, Scheve và Stasavage (2006) cho rằng việc nhận được lợi ích vừa cả vật
chất và tinh thần từ tôn giáo và chi phí phải đóng thông qua thuế cho các khoản an
sinh xã hội đã khiến nhiều giáo dân không hài lòng khi phải mất tiền vào thuế nhưng
không thật sự cần thụ hưởng những lợi ích mà nó mang lại.
Đối với những nhóm có thu nhập thấp, các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy lòng
mộ đạo càng cao nói chung và các đối phó cùng với đức tin với các cú sốc rủi ro nói
21
riêng thuộc nhóm những người nghèo, người lớn tuổi, dân tộc thiểu số và phụ nữ (
Pargament 1997). Dehejia và cộng sự (2005) nghiên cứu dựa trên các số liệu từ Hoa
Kỳ đã cho thấy việc tham gia vào các tổ chức tôn giáo thường xảy ra ở các cá nhân
thu nhập thấp hơn thu nhập cao nhằm làm giảm các tác động xấu của các cú sốc đến
hạnh phúc ở mỗi cá nhân.
Chen (2003) đã thực hiện một nghiên cứu trên 8.140 hộ gia đình Indonesia, khai thác
số liệu về những cú sốc thương mại gây ra bởi cuộc khủng hoảng tài chính tại
Indonesian, nhằm trả lời câu hỏi có hay không một mối quan hệ nhân quả giữa khủng
hoảng kinh tế và cường độ tôn giáo. Nghiên cứu cho thấy sự suy giảm $ 1 bình quân
đầu người trong chi tiêu các mặt hàng phi thực phẩm sẽ dẫn đến gia tăng 2% việc học
kinh Koran và 1% khả năng chuyển đổi một đứa trẻ đến trường Hồi giáo. Một kết quả
khác cho thấy vai trò của tôn giáo như hậu bảo hiểm xã hội: tín dụng có sẵn làm giảm
ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế lên cường độ tôn giáo bằng khoảng 80%. Các hộ
gia đình tăng sự tham gia việc học kinh Koran trong suốt cuộc khủng hoảng thì giảm
50% khả năng hạn chế tín dụng ba tháng sau đó, trong khi các hộ gia đình giảm sự
tham gia sẽ giảm 20%, đối với những người không tham gia, con số này chỉ là 5%.
Kết quả cho thấy các hộ gia đình nào bị ảnh hưởng nhiều hơn từ cuộc khủng hoảng
tài chính sẽ tăng đáng kể cường độ tôn giáo. Những người phải chịu đựng ít hơn từ
cuộc khủng hoảng sẽ giảm đáng kể cường độ tôn giáo
Lelkes (2006) đã đưa ra kết luận rằng càng nhiều tự do kinh tế sau quá trình chuyển
đổi tại các quốc gia sẽ làm tăng hạnh phúc của các doanh nghiệp, nhưng không tác
động đến hạnh phúc của những người theo đạo. Tuy nhiên, những người theo một tín
ngưỡng tôn giáo trung bình lại hạnh phúc hơn những người vô thần, và họ ít bị ảnh
hưởng bởi những thay đổi trong thu nhập cá nhân vì với họ, tiền không phải là một
trong những nguồn lực chính làm nên hạnh phúc. Clark và Lelkes (2009) thì tìm ra
mối quan hệ giữa mức sùng tín cá nhân và mức tham gia bảo hiểm chung của một
vùng (tỉ lệ phần trăm số người theo đạo tại vùng đó) là tương quan thuận với mức hài
lòng trong cuộc sống. Kết quả của nghiên cứu cho thấy cả những người theo đạo và
22
những người vô thần đều cảm thấy hạnh phúc hơn ở những vùng có hoạt động tôn
giáo tín ngưỡng mạnh.
Popova (2010) trong bài nghiên cứu của mình đã cho thấy tôn giáo có thể bảo hiểm
chống lại các cú sốc tiêu cực đến hạnh phúc và giảm các tác động thương tổn đến
hạnh phúc trong trường hợp các cú sốc tích cực. Tác giả cũng tìm thấy bằng chứng
ủng hộ cho việc những người ở các nước có tôn giáo phát triển thì cảm thấy hài lòng
với cuộc sống, chế độ chính trị và tình hình kinh tế của quốc gia hơn. Niềm mộ đạo
càng cao (tăng 1%) càng tương quan mạnh đến sự tăng tỉ lệ cảm thấy hài lòng (25.1%)
và rất hài lòng với cuộc sống (8.9%). Vai trò bảo hiểm của tôn giáo được chứng minh
trong bài nghiên cứu khi tại các nước đang chuyển đổi có tỉ lệ những người theo đạo
cao thì trải qua các cú sốc với ít sự thương tổn đến hạnh phúc hơn.
Graham (2014) nghiên cứu dữ liệu ở cấp độ đa quốc gia đã tìm thấy mối tương quan
thuận giữa tôn giáo và phúc lợi tự đánh giá, đặc biệt mối tương quan này quan trọng
hơn đối với những người có mức tự do lựa chọn các quyết định trong cuộc sống của
mình thấp. Tham gia tôn giáo giúp gia tăng thời gian tham gia các hoạt động xã hội
và điều này có ý nghĩa nhất đối với nhóm người có ít các hoạt động xã hội nhất. Trong
khi đó, nhóm những người hạnh phúc nhất tìm đến tôn giáo vì các mục đích xã hội
và nhóm người nghèo nhất tìm kiếm các phúc lợi về bảo hiểm xã hội khi đến với tôn
giáo.
Tuy nhiên, các bài nghiên cứu trong lý thuyết trước đây chưa quan tâm nhiều đến mối
quan hệ nội sinh tiềm ẩn giữa biến hạnh phúc và tôn giáo. Một trong những lý do để
người ta theo đạo là được mở rộng các mối quan hệ xã hội và được thoả mãn đức tin
về một thế giới sau khi chết, và nhiều đặc điểm riêng không đổi và không quan sát
được của mỗi cá nhân, như lạc quan và bi quan, yêu thích các hoạt động xã hội hoá,
lòng trung thực, có thể vừa ảnh hưởng đến mức hài lòng về cuộc sống và cả với niềm
tin mộ đạo của mỗi cá nhân. Mối quan hệ nội sinh giữa mức độ hài lòng và tôn giáo
thể hiện ở việc: trong khi đối mặt với các biến cố làm giảm mức hài lòng cá nhân,
con người ta có thể hướng về đạo nhiều hơn để giúp họ có thêm nghị lực tinh thần tự
23
vượt qua trong giai đoạn khó khăn đó. Gruber (2005) trong bài nghiên cứu về mối
quan hệ của việc tham gia các tổ chức tôn giáo với các đặc điểm kinh tế và xã hội
khác như giáo dục, thu nhập, tình trạng khuyết tật, kết hôn và ly hôn, đã sử dụng biến
mật độ trong quá khứ của một vùng như là biến công cụ thay cho mật độ tôn giáo, là
lượng người trong một khu vực xác định có chung tín ngưỡng tôn giáo với người
được phỏng vấn. Biến công cụ này đã thay vai trò của biến mật độ tôn giáo rất hiệu
quả: mật độ tôn giáo dự báo có quan hệ tương quan rất mạnh với sự tham gia vào các
tổ chức tôn giáo. Bettendorf và Dijkgraaf (2010) đã áp dụng phương pháp hệ phương
trình đồng thời để hiệu chỉnh tính nội sinh của tôn giáo trong khi nghiên cứu tác động
của tôn giáo đến thu nhập. Popova (2010) đề xuất sử dụng biến xu hướng tôn giáo
lịch sử để thay cho biến tôn giáo của mỗi cá nhân. Biến xu hướng tôn giáo lịch sử
được đo tại một quốc gia xác định, là số người của một tôn giáo xác định tại một quốc
gia xác định vào đầu thế kỷ 20.
24
CHƯƠNG 3 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình lý thuyết
3.1.1 Mô hình về tiết kiệm dự phòng
Mô hình phân tích hành vi tiết kiệm của hộ gia đình dựa trên nền tảng lý thuyết về
hành vi tiết kiệm trước các cú sốc rủi ro bằng mô hình phân bổ liên thời gian tiêu
chuẩn, khi tại mỗi giai đoạn, mỗi hộ phải quyết định sử dụng bao nhiêu cho tiêu dùng
và bao nhiêu cho tiết kiệm (Deaton 1991, 1992 và Fafchamps và cộng sự 1998,
Wainwright và Newman, 2011). Giả sử nguồn lực của mỗi hộ là có giới hạn, phương
trình hữu dụng chiết khấu kỳ vọng có dạng:
] + 𝑢𝑖
với 𝛿 là tỉ lệ thời gian ưa thích, 𝑈𝑖(𝐶𝑖𝑡) là hàm hữu dụng. Giả sử các hộ gia đình là ′(𝐶_𝑖𝑡 ) >
𝑇 𝑈𝑖 = 𝐸𝑖 [∑ 𝛿𝑡𝑈𝑖(𝐶𝑖𝑡) 𝑡=1
ngại rủi ro, có nghĩa là 𝑈𝑖
0. Giả thuyết đầu đảm bảo rằng hàm hữu dụng là hàm lõm, thể hiện thái độ ngại rủi
ro. Giả thuyết thứ hai đảm bảo rằng hàm hữu dụng cận biên là hàm lồi, thể hiện sự
không chắc chắn hay rủi ro càng cao thì mức tiết kiệm càng tăng.
Tại mỗi giai đoạn, mỗi hộ nhận được một lượng thu nhập ngẫu nhiên 𝑦𝑖𝑡(𝑠𝑖𝑡), phụ
thuộc vào các điều kiện tự nhiên bên ngoài 𝑠𝑖𝑡 ở giai đoạn t. Điều kiện tự nhiên bao
gồm tất cả các cú sốc ngoại sinh tác động tới thu nhập. Vì ngại rủi ro, mỗi hộ gia đình
sẽ tích luỹ tài sản tiết kiệm như một hình thức để chống lại các cú sốc tiêu cực đến
thu nhập. Tổng tài sản (có tính thanh khoản) của một hộ tại thời gian t được ký hiệu
là 𝐴𝑖𝑡 với tỉ suất lợi nhuận 𝑟𝑖𝑡. Phương trình Bellman với thời gian liên tục tương ứng
với hành vi tối ưu hoá giữa tiêu dùng và tiết kiệm của mỗi hộ có dạng:
𝑈𝑖(𝑋𝑖𝑡 − 𝐴𝑖𝑡+1) + 𝛿𝑖𝐸𝑉𝑖[𝑦𝑖(𝑠𝑖𝑡) + (1 + 𝑟𝑖𝑡+1)𝐴𝑖𝑡+1|𝑠𝑖𝑡+1]
𝑉𝑖(𝑋𝑖𝑡, 𝑠𝑖𝑡) = max 𝐴𝑖𝑡+1
′′(𝐶𝑖𝑡) < 0, và có các khoản tiết kiệm dự phòng 𝑈𝑖
25
𝑋𝑖𝑡 = 𝐴𝑡 + 𝑦𝑡 là tiền mặt có trong tay với 𝐴𝑖𝑡+1> 0, có nghĩa là không vay mượn thêm
từ bên ngoài. Mô hình cho phép việc tích luỹ và bán đi các tài sản có tính thanh khoản
là hành vi tự bảo hiểm trước các cú sốc về thu nhập.
Theo Fafchamps và cộng sự (1998), sự phân phối của các tài sản tích luỹ phụ thuộc
vào mức độ và các thành phần của tài sản 𝐴𝑖𝑡. Để mô hình được đơn giản, bài nghiên
cứu đã giả sử việc tích luỹ tài sản là biện pháp duy nhất cho các hộ gia đình đối phó
với các tổn thất về thu nhập do các cú sốc. Các biện pháp khác như mua bảo hiểm,
vay mượn,.là không thể thực hiện được. Các hình thức khác nhau của tiết kiệm được
chấp nhận như tiết kiệm tiền, vàng và các trang sức nữ trang, các hình thức tiết kiệm
phi chính thức như hụi họ và các hình thức tiết kiệm chính thức tại các ngân hàng của
nhà nước hay tư nhân. Các tác giả cũng giả sử rằng tiết kiệm là hàm theo biến thông ′(𝐼𝑖𝑡) > 0. Mức độ tin tiếp cận được tới các hộ gia đình, nghĩa là 𝑟𝑖𝑡 = 𝑟𝑖(𝐼𝑖𝑡) với 𝑟𝑖 chắc chắn sẽ phụ thuộc vào độ tốt của lượng thông tin được tiếp cận. Thông tin này
được trao đổi thông qua các hội nhóm xã hội mà các hộ có tham gia.
Giải bài toán tối ưu hoá này sẽ cho ta biết mức độ của tiết kiệm tại các hộ gia đình.
Theo Fafchamps và cộng sự (1998), giả sử hàm hữu dụng với số mũ âm và mức tiêu
dùng trong tương lai có phân phối chuẩn, các tác giả đã ước lượng phương sai trung
bình của hàm giá trị kỳ vọng, vì vậy các hộ sẽ lựa chọn mức tài sản tiết kiệm 𝐴𝑖𝑡 sao
cho tối đa hoá được mức độ hữu dụng:
{
}
𝑦𝑖̅(𝑠𝑖𝑡) + (1 + 𝑟𝑖̅(𝐼𝑖𝑡))𝐴𝑖𝑡+1 2 2 (𝑠𝑖𝑡) + 𝜎𝐴𝑖 2 (𝐼𝑖𝑡)𝐴𝑖𝑡+1 𝜎𝑦𝑖
]
−
max 𝐴𝑖𝑡+1
𝑅𝑖 [
1 2
+2𝜌𝑖𝑦𝐴(𝑠𝑖𝑡)𝜎𝑦𝑖(𝑠𝑖𝑡)𝜎𝐴𝑖(𝐼𝑖𝑡)𝐴𝑖𝑡+1
với 𝑅𝑖 là hệ số ngại rủi ro tuyệt đối Arrow–Pratt, được định nghĩa bằng công thức 𝑅𝑖 = −[𝑈𝑖′′(𝐶𝑖𝑡)/𝑈𝑖′(𝐶𝑖𝑡)]. Giá trị kỳ vọng của thu nhập là 𝐸[𝑦𝑖(𝑠𝑖𝑡+1|𝑠𝑖𝑡)] = 𝑦𝑖̅(𝑠𝑖𝑡) 2 (𝑠𝑖𝑡). Giá trị kỳ vọng về lãi suất của các khoản và phương sai 𝑉[𝑦𝑖(𝑠𝑖𝑡+1|𝑠𝑖𝑡)] = 𝜎𝑦𝑖
tiết kiệm là 𝐸[1 + 𝑟𝑖(𝐼𝑖𝑡+1|𝐼𝑖𝑡)] = 1 + 𝑟𝑖̅(𝐼𝑖𝑡) và phương sai là 𝑉[1 + 𝑟𝑖(𝐼𝑖𝑡+1|𝐼𝑖𝑡)] = 2 ′(𝐼𝑖𝑡) < 0 thể hiện rằng thông tin sẽ giúp làm giảm phương sai của lãi 2 (𝐼𝑖𝑡), với 𝜎𝐴𝑖 𝜎𝐴𝑖 suất từ tiết kiệm và giả sử rằng chi phí của tiết kiệm không ảnh hưởng đến phương
26
sai của lãi suất. 𝜌𝑖𝑦𝐹(𝑠𝑖𝑡) Là tương quan giữa thu nhập và lợi suất từ tiết kiệm. Giả sử
rằng mức lợi nhuận này là độc lập với các cú sốc thu nhập.
Giải bài toán tối đa hoá sẽ được kết quả như sau:
𝐴𝑖𝑡+1
1 + 𝑟𝑖̅(𝐼𝑖𝑡) 2 (𝐼𝑖𝑡) 𝑅𝑖𝜎𝐴𝑖
∗ =
sẽ là hàm tăng theo tỉ suất lợi nhuận
∗
cũng là hàm giảm theo phương sai lợi nhuận của các khoản tiết kiệm
∗
Mô hình thể hiện mức tiết kiệm dự báo 𝐴𝑖𝑡+1 𝑟𝑖̅(𝐼𝑖𝑡). 𝐴𝑖𝑡+1 𝜎𝐴𝑖 quan trọng, quyết định đến mức độ tiết kiệm. Vì các tác giả đã giả sử rằng lợi nhuận
từ tiết kiệm và các cú sốc không liên quan với nhau nên 𝜌𝑖𝑦𝐴(𝑠𝑖𝑡)=0, dẫn đến
−𝑅𝑖(𝜌𝑖𝑦𝐴(𝑠𝑖𝑡)𝜎𝑦𝑖(𝑠𝑖𝑡)𝜎𝐴𝑖(𝐼𝑖𝑡)𝐴𝑖𝑡+1) cũng bằng không
2 (𝐼𝑖𝑡) và mức độ ngại rủi ro 𝑅𝑖. Mô hình cũng cho thấy vai trò của thông tin rất
3.1.2 Mô hình về khả năng phục hồi
Mô hình về khả năng phục hồi DROP (Disaster Resilience of Place), đề xuất bởi
Cutter và cộng sự (2008), được đánh giá là đáng chú ý nhất (Akter và Mallick 2013).
Mô hình này bao gồm các điều kiện tiền rủi ro của một cộng đồng hay hộ gia đình,
dưới hình thức các tổn thương sẵn có, và các quá trình sau rủi ro. Các điều kiện tiền
rủi ro là một lát cắt ngang tĩnh của các đặc điểm hộ gia đình theo các điều kiện cơ
bản của cộng đồng xã hội (chủng tộc, dân tộc, tuổi, tình trạng kinh tế,.), các điều kiện
về kết cấu (vật liệu xây nhà, sự sẵn có của các cơ sở hạ tầng huyết mạch như bệnh
viện, trường học, nơi tránh bão và nhà máy cung cấp điện,.), điều kiện về môi trường
(vùng lũ lụt hay hạn hán, lượng nước có ở sông suối hồ ao,.). Các chỉ số kết cấu đo
lường độ nhạy cảm của một hộ gia đình trong khi các chỉ số môi trường thể hiện mức
tiếp cận. Các chỉ số xã hội (tuổi, chủng tộc) đo lượng độ nhạy cảm và khả năng phản
hồi/thích nghi của hộ.
Các quá trình hậu rủi ro thể hiện sự linh hoạt của khả năng phục hồi ở các hộ, thông
qua việc xem xét các yếu tố như các kế hoạch cảnh báo sớm và các kế hoạch phản
ứng khẩn cấp.
27
Mô hình “4R” (risk recognition, resistance, redundancy và rapidity) được Forgette và
Boening (2010) đề xuất nhằm đo lường khả năng phục hồi thông qua đánh giá năng
lực của các hộ gia đình bằng sự nhận biết rủi ro, sức đề kháng, sự dự phòng và tính
nhanh nhẹn trong phản ứng. Nhận biết rủi ro là mức độ một hộ gia đình nhận biết
trước các mối nguy từ thảm hoạ thiên nhiên. Sức đề kháng thể hiện độ vững vàng của
hộ để chịu đựng được sự gián đoạn trong cuộc sống khi rủi ro xảy ra. Sự dự phòng
thể hiện mức độ mà các điều kiện về kết cấu, môi trường và các đặc điểm kinh tế-xã
hội có thể được thay thế và thay thế bao nhiêu hoặc các nguồn lực dự trữ thay thế cho
các hàng hoá và dịch vu thiết yếu (thức ăn, nước uống, thuốc men, tín dụng). Tính
nhanh nhẹn là lượng thời gian cần để các cá nhân hay hộ gia đình tiếp cận với các
nguồn hỗ trợ cả từ nội lực bên trong lẫn từ sự giúp đỡ bên ngoài.
Dựa trên mô hình của Westoby và cộng sự (1989), Akter và Mallick (2013) đã phát
triển thêm để xem xét độ phủ rộng hơn ở các mặt của khả năng phục hồi. Các tác giả
đã giả sử các hộ gia đình đang sống gần trạng thái cân bằng ở thời điểm t (tiền rủi ro).
Các cú sốc ngoại sinh xảy ra gây thiệt hại và phá vỡ tình trạng cân bằng ở thời điểm
tiền rủi ro. Quá trình tác động này khiến cho các hộ phải phản ứng, chuyển đổi và nếu
các hộ thay đổi vượt quá ngưỡng tới hạn, các hộ gia đình sẽ di chuyển đến một trạng
thái cân bằng mới. Các tác giả đã chia quá trình này thành 5 giai đoạn: trạng thái cân
bằng tiền rủi ro, giai đoạn thích nghi, giai đoạn đề kháng, giai đoạn phục hồi và trạng
thái cân bằng hậu rủi ro. Trạng thái cân bằng tiền rủi ro là tổng hoà các đặc điểm kinh
tế-xã hội của hộ gia đình, năng lực phản hồi trước các cú sốc bất ngờ. Các yếu tố ảnh
hưởng đến sự thích nghi, đề kháng và phục hồi có thể được đo lường bằng việc chuẩn
bị các nguồn lực để đối phó với rủi ro như tích luỹ tiết kiệm, mở rộng vốn xã hội,
Giai đoạn cân bằng hậu rủi ro sẽ được đo lường bằng mức khả năng phục hồi của các
hộ sau những cú sốc rủi ro.
3.1.3 Mô hình về mức độ hài lòng
Dựa theo lý thuyết về hữu dụng kinh nghiệm của Kahneman (1997), tập hợp tất cả
các hữu dụng tức thời trong một quãng thời gian sẽ thể hiện tổng hữu dụng của một
28
cá nhân tại thời điểm đó. Do hạn chế về số liệu đo lường các hữu dụng tức thời của
mỗi cá nhân, van Praag (2001) đã đặt ra hai giả định. Thứ nhất, các tác giả giả định
rằng các câu trả lời của những cá nhân khác nhau có thể so sánh liên cá nhân được
với nhau theo thứ tự. Nói cách khác, các cá nhân khác nhau khi trả lời tương tự nhau
về mức độ hài lòng, sẽ được giả định là đang trải qua mức độ hài lòng như nhau, có
nghĩa là thang đo của mỗi người là như nhau. Ủng hộ giả thuyết này là các nghiên
cứu của Diener và Lucas (1999) và Van Praag (1991, 1994) cho thấy mức độ hài lòng
của mỗi cá nhân có thể được so sánh liên các cá nhân với nhau trong cùng một nhóm
cộng đồng ngôn ngữ. Giả thuyết thứ hai cho rằng, có sự tương ứng giữa giữa kết quả
đo lường và các khái niệm về mức độ hài lòng vô hình mà các tác giả đang quan tâm.
Do sự hài lòng không phải là một hiện tượng sự vật hữu hình nên không thể dễ dàng
quan sát và đo lường được. Tuy nhiên, có một mối quan hệ tương quan thuận rất lớn
giữa các cảm xúc được thể hiện như cười, cau mày, động não với các câu trả lời về
mức độ hài lòng của bản thân (Shizgal 1999; Fernández – Dols và Ruiz- Belda 1995;
Sandvik và cộng sự 1993). Mức độ hài lòng cũng được dự đoán được trong các trường
hợp mà cá nhân không muốn tiếp tục các hoạt động mang lại ít độ hài lòng. Mô hình
mức độ hài lòng tổng quát là sự tổng hợp của các khía cạnh hài lòng khác nhau, có
dạng:
𝐺𝑆 = 𝐺𝑆(𝐷𝑆1, , 𝐷𝑆2)
với GS (general satisfaction) thể hiện mức độ hài lòng chung và 𝐷𝑆1, , 𝐷𝑆2 (domain
satisfactions) thể hiện cho các khía cạnh hài lòng khác nhau (tình trạng nghề nghiệp,
tình hình tài chính, nhà ở, sức khoẻ, các mối quan hệ xã hội).
Để xem xét tác động nội sinh giữa mức độ hài lòng và tôn giáo, hệ phương trình cấu
trúc được thiết lập dựa theo các biến ẩn. Dựa trên giả định rằng các hộ gia đình có
hoàn toàn tự do để lựa chọn nhưng các nhà nghiên cứu chỉ có thể quan sát được các
lựa chọn như những biến rời rạc (Blundell và Smith 1994), Hệ phương trình cấu trúc
với các biến ẩn (𝑦1
hội (𝑥1, 𝑥2 ) có dạng:
∗) và các vector thể hiện cho các biến kiểm soát về kinh tế-xã ∗ , 𝑦2
29
∗ > 0, = 0 với các trường hợp còn lại ∗ + 𝛽1 ∗ = 𝛼1𝑦2𝑖 𝑦1𝑖 ′𝑥1𝑖 + 𝑢1𝑖 với 𝑦1𝑖 = 1 nếu 𝑦1𝑖
∞, 𝑗 = 1𝐽
∗ ≤ 𝜇𝑗 , 𝜇𝑜 = −∞ 𝑣à 𝜇𝑚 = ∗ + 𝛽2 ∗ = 𝛼2𝑦1𝑖 𝑦2𝑖 ′ 𝑥2𝑖 + 𝑢2𝑖 với 𝑦2𝑖 = 𝑗 𝑛ế𝑢 𝜇𝑗−1 < 𝑦2𝑖
Phương trình mức độ hài lòng bao gồm J + 1 mức dừng 𝜇𝑗 . Biến ẩn 𝑦2
có giá trị đến vô cùng 𝜇𝑜 = −∞ 𝑣à 𝜇𝑚 = ∞.
Mô hình trên không thể được ước lượng trực tiếp, vì thế mô hình rút gọn với
D = (1-𝛼1𝛼2) được viết lại như sau:
∗ được giả định
′ 𝑥2𝑖)/𝐷 và 𝑣1𝑖 = (𝑢1𝑖 + 𝛼1𝑢2𝑖)/𝐷 ′̅̅̅𝑥𝑖 = (𝛽1 ′𝑥1𝑖 + 𝛼1𝛽2 ∗ = 𝛽1 𝑦1𝑖 ′̅̅̅𝑥𝑖 + 𝑣1𝑖 , 𝛽1
với 𝑥𝑖 = 𝑥1𝑖 ∪ 𝑥2𝑖. Biến nào xuất hiện ở cả hai phương trình sẽ có hệ số lần lượt là
(𝛽1 + 𝛼1𝛽2)/𝐷 và (𝛼2𝛽1 + 𝛽2)/𝐷 ở mỗi phương trình trong mô hình rút gọn. Hệ
phương trình cấu trúc xác định được khi 𝑥1 bao gồm ít nhất một biến không thuộc 𝑥2
và ngược lại. Phân dư 𝑣𝑘 trong hệ phương trình rút gọn được giả định là có phân phối
chuẩn với giá trị trung bình bằng 0, phương sai bằng 1, và hiệp phương sai ρ.
′ 𝑥2𝑖)/𝐷 và 𝑣2𝑖 = (𝛼2𝑢1𝑖 + 𝑢2𝑖)/𝐷 ′̅̅̅𝑥𝑖 = (𝛼2𝛽1 ′𝑥1𝑖 + 𝛽2 ∗ = 𝛽2 𝑦2𝑖 ′̅̅̅𝑥𝑖 + 𝑣2𝑖 , 𝛽2
3.2 Mô hình thực nghiệm
3.2.1 Tác động của tôn giáo đến mức tiết kiệm của các hộ
Mô hình hồi quy thể hiện tác động của tôn giáo đến hành vi tự bảo hiểm của hộ dựa
theo mô hình của (Carol Newman 2014). Bài nghiên cứu không xem xét tách rời vai
trò của tiết kiệm chính thức và phi chính thức, đồng thời mở rộng thêm mô hình bằng
việc thêm biến 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 – đóng vai trò đo lường vốn xã hội, thuộc một trong số những
biến kiểm soát về các đặc điểm kinh tế-xã hội của chủ hộ – để nghiên cứu các tác
động của tôn giáo đến hành vi tiết kiệm của hộ gia đình. Từ mô hình lý thuyết, xét tại
một giai đoạn thời gian nhất định, mô hình tiết kiệm dưới dạng rút gọn được thể hiện
như sau:
30
𝑙𝑛𝑠𝑎𝑣𝑖𝑛𝑔𝑖 = 𝛼1𝑖 + 𝛼2𝑖𝑙𝑛𝑠𝑡𝑜𝑐𝑘𝑠𝑎𝑣𝑖𝑛𝑔𝑖 + ∑ 𝛼𝑡𝑖𝑠𝑜𝑐𝑒𝑐𝑜𝑛𝑡𝑖
+ 𝛼12𝑖𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛𝑖
11
+ 𝛼13𝑖𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠𝑖 + 𝑢𝑖
i: thể hiện cho chủ hộ đại diện của các hộ
𝑙𝑛𝑠𝑎𝑣𝑖𝑛𝑔: tổng lượng tiền tiết kiệm, được tính theo hàm ln(x)
𝑙𝑛𝑠𝑡𝑜𝑐𝑘𝑠𝑎𝑣𝑖𝑛𝑔: là lượng tiền tiết kiệm được cách đây 12 tháng (số dư đầu kỳ)
𝑠𝑜𝑐𝑒𝑐𝑜𝑛: là 9 biến về đặc điểm kinh tế-xã hội của của hộ hoặc chủ hộ, bao gồm thu
nhập bình quân đầu người, số năm đi học tại trường, giới tính, tuổi, số lần tham dự
đám cưới, số trẻ em từ 3 – 12 tuổi trong gia đình, số ngày nghỉ bệnh trong năm, tình
trạng hôn nhân goá bụa, tình trạng hôn nhân ly dị/ly thân/độc thân, tình trạng việc
làm.
𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛: biến giả thể hiện việc có tham gia tổ chức tín ngưỡng của chủ hộ
𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠: biến thể hiện tổng thu nhập bị mất đi của hộ sau các cú sốc, được tính
theo hàm ln(x)
Tổng lượng tiền tiết kiệm được và lượng tiền tiết kiệm được cách đây 12 tháng đều
thể hiện cho dạng tài sản có đặc trưng thanh khoản cao, không tính đến các loại tài
sản khác của hộ gia đình. Đây cũng là một trong những hạn chế của bài nghiên cứu
này.
𝑡=3
3.2.2 Tác động của tiết kiệm đến khả năng phục hồi sau các cú sốc của hộ
Bài nghiên cứu xem xét tác động của tôn giáo, thông qua biến trung gian là mức tiết
kiệm của hộ, đến khả năng tự phục hồi sau các cú sốc của mỗi hộ gia đình. Từ mô
hình lý thuyết của Akter và Mallick (2013), mô hình thực nghiệm xem xét các tác
động của khả năng hồi phục sau một cú sốc với các hành vi tiết kiệm của hộ được
trình bày như sau:
31
𝑟𝑒𝑠𝑖𝑙𝑖𝑒𝑛𝑐𝑒𝑖 = 𝛼1𝑖 + ∑ 𝛼𝑡𝑖𝑠ℎ𝑜𝑐𝑘𝑡𝑖
+ 𝛼4𝑖𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠𝑖 + ∑ 𝛼𝑡𝑖𝑠𝑜𝑐𝑒𝑐𝑜𝑛𝑡𝑖
13 3
𝑡=5 𝑡=2
+ ∑ 𝛼𝑡𝑖𝑟𝑒𝑎𝑐𝑡𝑡𝑖
+ 𝛼17𝑖𝑙𝑛𝑠𝑎𝑣𝑖𝑛𝑔𝑖 + 𝑢𝑖
16
𝑟𝑒𝑠𝑖𝑙𝑖𝑒𝑛𝑐𝑒: thể hiện mức độ đã vượt qua được các cú sốc của hộ (𝑦1: hầu như chưa
được phục hồi, 𝑦2: đã phục hồi một phần, 𝑦3: đã phục hồi hoàn toàn )
𝑠ℎ𝑜𝑐𝑘: là 2 biến giả thể hiện cho 3 loại cú sốc: (1) các cú sốc về thiên tai dịch bệnh ;
(2) các cú sốc về mặt kinh tế; và (3) các rủi ro đối với các thành viên của hộ.
𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠: biến thể hiện tổng thu nhập bị mất đi của hộ sau các cú sốc, được tính
theo hàm ln(x)
𝑠𝑜𝑐𝑒𝑐𝑜𝑛: là 9 biến về đặc điểm kinh tế-xã hội của của hộ hoặc chủ hộ, bao gồm thu
nhập bình quân đầu người, số năm đi học tại trường, giới tính, tuổi, số lần tham dự
đám cưới, số trẻ em từ 3 – 12 tuổi trong gia đình, số ngày nghỉ bệnh trong năm, tình
trạng hôn nhân goá bụa, tình trạng hôn nhân ly dị/ly thân/độc thân, tình trạng việc
làm.
𝑟𝑒𝑎𝑐𝑡 là 3 biến giả thể hiện các hoạt động hộ đã làm để đối phó với các cú sốc về thu
nhập bao gồm: (1) không làm gì; (2) sử dụng các nguồn lực sẵn có, (3) được hỗ trợ ;
(4) vay mượn.
𝑡=14
3.2.3 Tác động của tôn giáo đến sự hài lòng
Mối quan hệ giữa hài lòng và thu nhập đã được (L. Bettendorf 2008) nghiên cứu xem
xét trong hệ thống các phương trình cấu trúc, trong đó hai biến này được xem như
các biến ẩn. Mô hình hồi quy dựa theo mô hình của Popova (2010), với biến thu nhập
được đổi sang biến mức độ hài lòng, tương đương một trong nhiều biến nội sinh từ
hệ phương trình. Hệ phương trình cấu trúc, dựa trên mô hình lý thuyết về mức độ hài
lòng, với phương trình mở rộng thứ hai về tác động nội sinh từ biến 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛, được
thể hiện như sau:
32
10
ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠𝑖 = 𝛼0𝑖 + 𝛼1𝑖𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛𝑖 + 𝛼2𝑖𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠𝑖 + ∑ 𝛿𝑡𝑖𝑠𝑜𝑐𝑒𝑐𝑜𝑛𝑡𝑖 + 𝑢𝑖
𝑡=1
𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛𝑖 = 𝑏0𝑖 + 𝑏1𝑖ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠𝑖 + 𝑏2𝑖𝑙𝑛𝑟𝑒𝑣𝑖𝑙𝑙𝑎𝑔𝑒 + 𝑏3𝑖𝑙𝑛𝑟𝑒𝑣𝑖𝑙𝑙𝑎𝑔𝑒 ∗ 𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠
10
+ ∑ 𝜏𝑡𝑖𝑠𝑜𝑐𝑒𝑐𝑜𝑛𝑡𝑖 + 𝑣𝑖
{
𝑡=1
Trong đó: ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠 thể hiện mức độ hài lòng về cuộc sống của các nhân (𝑦1: không
hài lòng, 𝑦2: bình thường, 𝑦3: hài lòng, 𝑦4: rất hài lòng)
religion: biến giả thể hiện việc có tham gia tổ chức tín ngưỡng của chủ hộ
Để đo lường tác động trực tiếp của các cú sốc và tôn giáo, biến tổng tổn thất
𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠 và tôn giáo 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 được xem xét đến trong phương trình đầu tiên của
hệ với biến phục thuộc là mức độ hài lòng của các cá nhân.
Biến công cụ 𝑙𝑛𝑟𝑒𝑣𝑖𝑙𝑙𝑎𝑔𝑒 thể hiện số thôn tôn giáo trong xã, tính theo hàm ln(x), và
𝑙𝑛𝑟𝑒𝑣𝑖𝑙𝑙𝑎𝑔𝑒 ∗ 𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠 thể hiện mối quan hệ tương tác giữa biến công cụ số thôn
tôn giáo trong xã và tổng tổn thất sau rủi ro. Hai biến công cụ này được đưa vào
phương trình thứ hai để thay thế cho biến nội sinh 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 và giúp cho hệ phương
trình được xác định. Phụ lục 1 giúp giải thích rõ hơn về các biến số trong các mô hình
đã trình bày.
Hệ phương trình cấu trúc giúp cho việc phân tích các tác động của mỗi phương trình
trong hệ một cách đồng thời, thông qua việc xem xét tác động qua lại giữa các sai số
ở mỗi phương trình, và điều chỉnh đồng thời các hệ số hồi quy từ các phương trình
theo ma trận hiệp phương sai của các sai số đó. Kết quả ước lượng sẽ chính xác hơn
khi so sánh với phương pháp hồi quy từng phương trình riêng lẻ, do đã bỏ qua sự
tương quan giữa các sai số với nhau.
33
3.3 Dữ liệu
Bộ dữ liệu Điều tra hộ gia đình tiếp cận nguồn lực và đánh giá tác động chương trình
hỗ trợ ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn (VARHS 2012)2 được thực hiện tại
các khu vực nông thôn của 12 tỉnh ( Hà Tây, Lào Cai, Phú Thọ, Lai Châu, Điện Biên,
Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hoà, Dak Lak, Dak Nông, Lâm Đồng, Long An) ở
Việt Nam giữa tháng Sáu và Tháng Tám năm 2012. VARHS phỏng vấn lại các hộ
gia đình nông thôn về mô hình thu nhập và chi tiêu, những hộ này đã được lấy mẫu
từ cuộc điều tra của các năm trước trong bộ dữ liệu Điều tra mức sống hộ gia đình
việt Nam (VHLSS), có bổ sung thêm một số hộ mới. Các tỉnh được lựa chọn để tạo
thuận lợi cho việc sử dụng khảo sát như một công cụ đánh giá cho các chương trình
do Danida tài trợ tại Việt Nam. VARHS đã được thực hiện vào năm 2002, 2006, 2008
và 2010 , nhưng đến năm 2012, câu hỏi về mức độ hài lòng trong cuộc sống mới được
điều tra khảo sát.
Các câu hỏi về sự hài lòng được trả lời bởi một người trong mỗi hộ gia đình, thường
là chủ hộ. Các đặc điểm về kinh tế xã hội của từng cá nhân (như thu nhập, giới tính,
tuổi tác, trình độ học vấn, tôn giáo) cũng được mô tả rất chi tiết trong bộ dữ liệu. Sau
khi dữ liệu đã được tổng hợp từ bộ VARHS, mẫu được chọn lọc lại theo các gia đình
đã trải qua các cú sốc rủi ro và các cú sốc này có ảnh hưởng âm đến thu nhập của hộ.
Vai trò thay thế bảo hiểm của tôn giáo sẽ được nghiên cứu trên các hộ này.
Bộ dữ liệu cũng có thêm kết quả điều tra trên đơn vị xã. Biến công cụ xác định số
lượng thôn có tồn tại các nhóm tôn giáo trong một xã được tính toán dựa trên nguồn
kết quả này ra.
Kết quả thống kê mẫu cho thấy biến thất nghiệp chỉ chiếm 0,44% toàn bộ mẫu có dữ
liệu về tôn giáo - khả năng phục hồi, gồm 905 quan sát, biến số này gần như là một
hằng số. Để ước lượng được chính xác, các phân tích hồi quy về sau sẽ loại bỏ 4 quan
2 Bộ dữ liệu VARHS 2012 có tại http://www.ciem.org.vn/en/hoptacquocte/duanciem/tabid/303/articletype/ArticleView/articleId/1233/default. aspx
34
sát có biến thất nghiệp nhận giá trị là 1. Toàn bộ mẫu hồi quy được xét trên tất cả
những người không bị thất nghiệp. Trung bình số hộ theo một nhóm tôn giáo tín
ngưỡng cũng rất thấp, chiếm khoảng 1,89% toàn mẫu, ít hơn rất nhiều khi so với các
bộ số liệu có nghiên cứu về tôn giáo trước đó, với khoảng 40% số người theo tôn giáo
(Iannaccone 1998, Dehejia 2007)
Kết quả thống kê mẫu có dữ liệu về tôn giáo - mức độ hài lòng, biến thất nghiệp nhận
giá trị 0 cho toàn bộ mẫu gồm 1047 quan sát, các hồi quy về sau sẽ loại bỏ biến thất
nghiệp ra và mẫu hồi quy sẽ được xem xét trên tất cả những người không bị thất
nghiệp. Trung bình số hộ có tham gia tổ chức tôn giáo cũng rất thấp, chỉ chiếm khoảng
2.01% toàn mẫu.
3.4 Các biến số trong mô hình
3.4.1 Các biến phụ thuộc
Tiết kiệm: Tôn giáo được kỳ vọng sẽ có tác động dương đến mức tiết kiệm do việc
tham gia đoàn hội tôn giáo có thể gia tăng cơ hội đầu tư và sở thích tiết kiệm của các
nhân, mặc dù chiều hướng tác động vẫn chưa rõ ràng ở các nghiên cứu lý thuyết
(Renneboog và Spaenjers 2009; Guiso và cộng sự 2003, 2006; Anja 2010; Renneboog
và Spaenjers 2012; León 2013).
Mức tiết kiệm được đo bằng tổng số tiền tiết kiệm được trong 12 tháng qua, kể từ
tháng 7 năm 2012 và được thể hiện dưới hàm số ln(x)
Khả năng phục hồi: Mức tiết kiệm được kỳ vọng sẽ có tác động cùng chiều với khả
năng phục hồi của hộ, như kết quả từ các nghiên cứu của Dolphin (2009) ; Egli (2013)
và Dlamini và các cộng sự (2014).
Khả năng phục hồi được đo bằng mức độ đã phục hồi sau khi trải qua các cú sốc rủi
ro, với 3 mức độ tương ứng với 3 câu trả lời “1. Đã khắc phục được hoàn toàn”, “2.
Khắc phục được một phần”, “3. Hầu như chưa khắc phục được” của câu hỏi “Hiện
tại gia đình đã khắc phục được thiệt hại này ở mức độ nào?”
35
Mức độ hài lòng về cuộc sống: Mức độ hài lòng được kỳ vọng sẽ bị tác động bởi các
đặc điểm kinh tế xã hội của các cá nhân, các cú sốc rủi ro xảy ra với hộ và việc tham
gia nhóm tín ngưỡng tôn giáo (Popova 2010; Graham 2014)
Phương pháp thường xuyên được sử dụng nhất để đo lường mức độ hài lòng là thông
qua khảo sát. Các dạng câu hỏi thường có hai đặc điểm chính. Thứ nhất, trong bản
câu hỏi, một câu hỏi chung sẽ được dành để hỏi về đánh giá chung của người được
phỏng vấn về mức độ hài lòng cuộc sống. Trong khi đó, những câu hỏi khác sẽ tập
trung thu thập thông tin về những trải nghiệm cảm xúc tích cực và tiêu cực của người
được hỏi trong thời gian gần đây. Thứ hai, sự hài lòng có thể được đo lường thông
qua một câu hỏi chung (thang đo đơn biến), hoặc bằng chỉ số của các câu trả lời cho
những câu hỏi về sự hài lòng chủ quan, ví dụ như nghề nghiệp hay tình trạng hôn
nhân (thang đo đa biến). Phương pháp không tự đánh giá cũng được sử dụng nhiều,
đặc biệt bởi các nhà tâm lý học. Phương pháp này thu thập thông tin từ gia đình, bạn
bè và thông tin từ phòng thí nghiệm bao gồm những biểu hiện trên khuôn mặt, nụ
cười chân thành và thanh âm giọng nói. Có một sự tương quan chặt chẽ giữa phương
pháp đo lường không tự đánh giá và tự đánh giá về sự hài lòng chủ quan này (Costa
và McCrae 1988, Sandvik và cộng sự 1993). Kết quả này cho thấy cả hai loại phương
pháp đều có giá trị trong việc đo lường cảm giác hài lòng của mỗi cá nhân.
Phương pháp không tự đánh giá thường cho câu trả lời chính xác hơn do được đánh
giá từ các chuyên gia, không phải theo hướng chủ quan từ người được phỏng vấn.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này chính là sử dụng nhiều nguồn lực nên
chi phí cao và mẫu không nhiều. Phương pháp được áp dụng trong bài nghiên cứu
này là phương pháp tự đánh giá với câu hỏi chung là “Ông/bà có hài lòng với cuộc
sống không?”, với các câu trả lời lần lượt là 1 Rất hài lòng; 2 Hài lòng; 3 Bình thường
và 4 Không hài lòng (Thứ tự các câu trả lời được sắp xếp lại theo thứ tự tăng dần khi
thực hiện hồi quy: 1 Không hài lòng, 2 Bình thường, 3 Hài lòng, 4 Rất hài lòng).
Dạng câu hỏi này rất gần với dạng câu hỏi mà Gurin đã phát triển và sử dụng vào
những năm 1960 để đánh giá sự hài lòng tinh thần tại nước Mỹ. Phương pháp này
36
khiếm khuyết những ưu điểm từ phương pháp không tự đánh giá, nhưng lại có kết
quả tương quan chặt chẽ với nhau và tiết kiệm được nhiều nguồn lực, mở rộng được
mẫu điều tra.
Như đã đề cập ở tổng quan lý thuyết, việc đo lường hữu dụng hay mức độ hài lòng
về cuộc sống vẫn chưa có phương pháp tối ưu và còn vướng phải nhiều nghi ngờ lo
ngại từ các nhà kinh tế vì tính chính xác của nó. Tiếp nối công trình của Kahneman,
Frey và Stutzer (2002) đề xuất các đặc điểm chính cho biến happiness phải được thoả
mãn nếu muốn sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: tính xác thực, giá trị, nhất quán
và khả năng so sánh giữa các đối tượng. Tính xác thực thể hiện ở các kết quả có tương
quan bền vững khi đo bằng các thang đo mức độ hài lòng khác nhau (Di Tella và
cộng sự 2003, Blanchflower và Oswald 2004, Know và Earley, 2007). Tính giá trị
thể hiện ở sự tự nhận ra và so sánh các mức độ hài lòng khác nhau của chính cá nhân
mà không có sai số. Tính nhất quán chỉ ra rằng không chỉ cá nhân tự đánh giá mức
độ hạnh phúc của mình mà các mối quan hệ xã hội xung quanh cũng xác nhận về mức
hạnh phúc đó. Tuy nhiên, mức độ hạnh phúc không thể so sánh giữa các cá nhân với
nhau vì việc tự đánh giá này căn cứ trên các thang đo giá trị của riêng mỗi cá nhân,
nên kết quả cũng không thống nhất với nhau. Tuy nhiên, đa số các bài nghiên cứu về
mức độ hài lòng là xem xét các tác động khác nhau đến hạnh phúc, không có mục
đích chính là đo lường chính xác mức độ hạnh phúc ở mỗi cá nhân. Vì lý do đó, như
Frey và Stutzer (2002) đã nhận định, dữ liệu tự đánh giá về mức độ hài lòng của cá
nhân là tương đối phù hợp.
Tôn giáo: Tôn giáo có tác động đến mức độ hài lòng theo chiều hướng tích cực (Azzi
và Ehrenberg 1975, Ellison 1991; Clark và Lelkes 2006, Dehejia và cộng sự 2007),
tuy nhiên quan hệ giữa tôn giáo và mức độ hài lòng có thể xảy ra hiện tượng nội sinh
(Gruber 2005; Popova 2010).
Biến tôn giáo được đo lường bằng câu hỏi “Thành viên tham gia tổ chức nào sau
đây?” và nhận giá trị 1 nếu câu trả lời là “Nhóm tôn giáo” và 0 nếu là trường hợp
khác.
37
3.4.2 Các biến kiểm soát
Các biến kiểm soát như thu nhập, giáo dục, sức khoẻ, số trẻ em trong hộ, giới tính,
tuổi, tình trạng việc làm, tình trạng hôn nhân, các mối quan hệ xã hội được sử dụng
trong các nghiên cứu về hành vi tiết kiệm (Carol Newman 2014) và khả năng phục
hồi của hộ (Newman và các cộng sự 2012; Akter và Mallick 2013)
Thu nhập: Mối quan hệ giữa thu nhập đến sự hài lòng đã được các nhà kinh tế học
nghiên cứu rất nhiều nhưng vẫn còn nhiều kết luận không thống nhất được đưa ra.
Liệu thu nhập tương đối hay thu nhập tuyệt đối mới thực sự có ảnh hưởng đến sự hài
lòng ở mỗi cá nhân. Easterlin (1974) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa thu nhập và
sự hài lòng giữa các quốc gia trong các vùng khác nhau của thế giới. Tuy nhiên, đến
dữ liệu cho từng quốc gia, kết quả nghiên cứu không ủng hộ giả thuyết này. Các kết
quả trái ngược này được gọi là nghịch lý Easterlin. Hagerty và Veenhoven (2003),
Stevenson và Wolfers (2008) thì lại tìm thấy kết quả thực nghiệm chứng minh cho
mối quan hệ giữa thu nhập của mỗi cá nhân, và ngay cả thu nhập ở mỗi quốc gia đều
có sự tương quan chặt chẽ đến sự hài lòng. Deaton (2008) sử dụng dữ liệu thu thập
từ 121 quốc gia cũng có cùng kết luận về sự tương quan thuận chặt chẽ giữa thu nhập
quốc gia và mức hạnh phúc trung bình. Các nghiên cứu dựa trên dữ liệu chéo nhìn
chung đều có chung kết luận về mối quan hệ tương quan thuận giữa thu nhập và sự
hài lòng. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu thu nhập trên cấp độ quốc gia dựa trên
dữa liệu thời gian thì không phải lúc nào cũng có cùng kết luận về mối quan hệ chặt
chẽ này. Ví dụ, Blanchflower và Oswald trong bài nghiên cứu của mình vào năm
2004, đã cho thấy mức độ hài lòng chủ quan của người dân Hoa Kỳ đã giảm trong ba
thập kỷ qua mặc dù thu nhập bình quân đầu người vẫn gia tăng trong thời gian đó.
Veenhoven (1991), Veenhoven và Ehrhardt (1995) đặt ra giả thuyết giải thích rằng
sự gia tăng trong thu nhập chỉ tác động đến sự hài lòng chủ quan tại các nước đang
phát triển, tại những nơi mà các nhu cầu căn bản chưa được thoả mãn như thực phẩm,
quần áo, thuốc men. Diener và Oishi (2000) đã sử dụng dữ liệu từ 22 nước phát triển
và đang phát triển để điều tra sự khác biệt về mức độ cảm nhận hạnh phúc của nhóm
38
nghèo nhất và giàu nhất trong xã hội, và tìm ra kết quả rằng thu nhập chỉ thật sự giải
thích được một phần sự thay đổi trong hạnh phúc giữa các cá nhân.
Dữ liệu về thu nhập được thu thập rất chi tiết trong bộ dữ liệu VARHS 2012. Tổng
thu nhập của một hộ được tính tổng từ các nguồn thu: tiền lương của các thành viên
trong hộ, các hoạt động sản xuất nông – lâm - ngư nghiệp, các hoạt động khai thác và
đánh bắt tự nhiên, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp không được trả công, thu
nhập từ hoạt động cho thuê, bán tài sản, các khoản chuyển nhượng/hỗ trợ từ cá nhân,
các khoản chuyển nhượng/hỗ trợ từ chính phủ và các tổ chức xã hội, lãi tiền gửi, lợi
tức từ đóng góp cổ phần Thu nhập sẽ được tính bình quân đầu người theo hộ, theo
hàm số ln(x). Mức thu nhập trung vị của mẫu sẽ được xem xét khi thực hiện so sánh,
đối chiếu do phản ánh chính xác hơn tình hình thu nhập chung mẫu, không bị tác
động bởi các nhân tố ngoại lai, dị biệt như mức thu nhập trung bình.
Giáo dục: Nhìn chung các nghiên cứu đều cho thấy mối tương quan thuận giữa giáo
dục và mức độ hài lòng trong cuộc sống của các cá nhân (Layard năm 2005; Becchetti
và cộng sự 2006; Hayo và Seifert 2003). Lý giải cho mối quan hệ này, giáo dục được
cho là đã tác động đến sự hài lòng thông qua nhiều kênh khác nhau, ví dụ như một
công việc thú vị hơn (Blanchflower và Oswald 1994); giúp cá nhân sống khoẻ mạnh
và có cơ hội hôn nhân tốt đẹp hơn (Hartog và Oosterbeek 1998). Bên cạnh đó, cũng
có nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò của giáo dục là không đáng kể (Inglehart và
Klingemann 2000). Clark và Oswald (1996) lại tìm thấy một mối quan hệ hoàn toàn
trái ngược, được lý giải rằng những người có học vấn cao có những đòi hỏi và nguyện
vọng cho công việc cũng cao hơn và khó được đáp ứng.
Giáo dục được đo lường bằng số năm đi học, theo hàm ln(x+1)
Sức khoẻ: Tình trạng sức khoẻ là một trong những biến chỉ báo hiệu quả nhất cho
mức độ hài lòng về cuộc sống của các nhân, theo nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy.
Mehnert và cộng sự (1990) đã chỉ ra kết quả nghiên cứu của họ rằng những người bị
các khuyết tật về cơ thể có mức độ hài lòng thấp hơn đáng kể so với những người có
điều kiện sức khoẻ bình thường trong nhóm kiểm soát. Tương tự Helliwell và cộng
39
sự (2012) đã cho thấy có một mối quan hệ tương quan thuận bền chặt giữa một sức
khoẻ tốt và mức độ hạnh phúc trong cuộc sống, kết quả có được dựa theo phân tích
dữ liệu panel. Tuy nhiên, sức khoẻ thường được đo lường một cách chủ quan, có thể
dẫn đến sai lệch có tính hệ thống khi những người kém hạnh phúc tự đánh giá về tình
trạng sức khoẻ kém của mình tệ hơn mức hiện thực và ngược lại (Helliwell và cộng
sự 2012)
Tình trạng sức khoẻ trong bài nghiên cứu này sẽ được đo bằng số ngày nghỉ làm do
ốm trong năm trước đó và được thể hiện bằng hàm số ln(x+1)
Số trẻ em trong hộ: Số trẻ em trong hộ tác động đến mức độ hài lòng của các nhân
theo nhiều xu hướng khác nhau, gây ra các tác động thuận nghịch khác nhau.
Khanemann và Deaton (2010) tìm ra bằng chứng cho thấy tác động của số trẻ em lên
mức độ hạnh phúc của các gia đình ở Hoa Kỳ là tác động âm, và lý giải rằng số trẻ
em sẽ tăng lên tại nhà cũng đồng nghĩa với các mức độ stress và lo lắng cũng tăng
theo trong quá trình chăm sóc. Kết quả tương tự với các cuộc điều tra tại Châu Âu và
Hoa Kỳ của Layard (2006), Clark và cộng sự (2008); Blanchflower và Oswald
(2008). Một số nghiên cứu khác lại chỉ ra sự khác biệt nằm ở độ tuổi của các em. Trẻ
em trong độ tuổi từ 3 – 12 sẽ làm cho các cá nhân cảm thấy hạnh phúc hơn trong khi
các bé nhỏ hơn hay nằm trong độ tuổi mới lớn sẽ làm giảm cảm giác hạnh phúc
(Myrskylä và Margolis, 2012; Helliwell and Wang, 2012).
Thang đo số trẻ em trong hộ sẽ tính tổng số trẻ em từ 3 – 12 tuổi trong mỗi một hộ
Giới tính: Đây là biến kiểm soát cơ bản thuộc một trong số các đặc điểm riêng của
cá nhân, vì có những sự khác nhau rõ ràng được quan sát thấy giữa nam và nữ trong
việc cảm nhận mức độ hạnh phúc.
Biến giả giới tính nhận giá trị 1 nếu là Nam và 0 cho các trường hợp còn lại.
Tuổi: Biến Tuổi cũng là một trong những biến cơ bản trong lý thuyết về sự hài lòng.
Hạnh phúc đã được nghiên cứu là có hình dạng chữ U theo biến tuổi tác (Popova
2010)
40
Biến tuổi được tính bằng năm 2012 trừ đi cho số năm sinh.
Tuổi bình phương/1000: Thể hiện sự suy giảm mức độ hạnh phúc theo thời gian và
trở lại mức hạnh phúc cao khi đã về già. Biến này được tính theo như tên gọi. Các lý
thuyết về hữu dụng cho thấy mức hữu dụng có dạng hình chữ U theo độ tuổi (Popova
2010)
Biến này được tính bằng cách lấy biến Tuổi bình phương và chia cho 10000
Tình trạng việc làm: Những người thất nghiệp thường có xu hướng suy giảm mức
độ hài lòng về cuộc sống hơn (Popova 2010).
Biến giả nhận giá trị là 1 nếu người được phỏng vấn đang thất nghiệp và 0 cho các
trường hợp khác.
Tình trạng hôn nhân: Các lý thuyết về mức độ hài lòng cho thấy một sự tương quan
thuận với tình trạng hôn nhân. Knight và Gunatilaka (2010) đã thu thập dữ liệu từ các
hộ gia đình tại Trung Quốc và tìm ra rằng kết hôn là yếu tố tác động mạnh mẽ và tích
cực đến mức độ hạnh phúc trong các hộ gia đình nông thôn, trong khi đó ly hôn và
goá bụa lại có tác động tiêu cực rất rõ rệt. Helliwell, Layard và Sachs (2012) trong
nghiên cứu tổng quan lý thuyết đã chỉ ra rằng đa số các bài nghiên cứu từng được
thực hiện ở Châu Âu, Hoa Kỳ, Châu Á, Nga và Mỹ Latinh đều cho thấy kết quả chung
là những người đã kết hôn thường hạnh phúc hơn những người ly dị, độc thân hay
goá bụa.
Tình trạng hôn nhân của chủ hộ được chia làm 3 nhóm, bao gồm (1) Đang có
vợ/chồng, (2) vợ/chồng đã mất và (3) độc thân/ly dị/ly thân. Tập hợp biến chỉ tình
trạng hôn nhân gồm 2 biến giả. Biến giả Goá bụa nhận giá trị 1 nếu vợ/chồng đã mất
và 0 cho các trường hợp khác. Biến giả Độc thân/ly dị/ly thân giá trị 1 nếu người
được phỏng vấn đang ở trong tình trạng như trên và 0 cho các trường hợp khác
Các mối quan hệ xã hội: Powdthavee (2008) dựa trên dữ liệu thu thập từ Vương
Quốc Anh đã cho thấy việc thường xuyên tham gia các hoạt động xã hội hoá như các
buổi sự kiện văn hoá hay hội nhóm và thường xuyên gặp gỡ bạn bè, gia đình sẽ có
41
một tác động tích cực đến mức độ hài lòng cuộc sống. Việc thiếu vắng các mối quan
hệ xã hội có thể giải thích cho nguyên do vì sao những người di cư thường cảm thấy
ít hạnh phúc hơn những người khác (Nguyen và Benet‐Martínez, 2012)
Để đo lường mức độ gắn kết của các mối quan hệ xã hội, biến độc lập số lượng đám
cưới mà cá nhân đã tham dự, bao gồm đám cưới của các thành viên trong hộ, bạn bè
và họ hàng được sử dụng, theo hàm ln(x+1). Dựa trên giả thuyết là các hộ gia đình
càng có mối quan hệ xã hội rộng và thường tham dự nhiều đám cưới hơn. Trung bình,
các hộ gia đình tại Việt Nam tham dự nhiều đám cưới hơn so với ở các nước phương
Tây.
3.4.3 Các biến độc lập
Các cú sốc rủi ro: Các cú sốc rủi ro là nguyên nhân gây ra tình trạng mất cân bằng
theo chiều hướng tiêu cực, trực tiếp tác động đến khả năng phục hồi của hộ (Kofinas
& F. Stuart Chapin 2009)
Bài nghiên cứu phân chia các loại cú sốc thành 3 loại cú sốc: (1) các cú sốc về thiên
tai dịch bệnh (lũ lụt; hạn hán; bão và các thiên tai khác; sâu bệnh, dịch bệnh đối với
vật nuôi và cây trồng; cúm gia cầm); (2) các cú sốc về mặt kinh tế (biến động giá sản
phẩm trên thị trường; thiếu hoặc biến động giá cả thị trường đối với nguyên vật liệu/
dịch vụ đầu vào; biến động giá lương thực hoặc các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; thất
nghiệp; đầu tư không hiệu quả; mất đất; mất trộm bị cướp); và (3) các rủi ro đối với
các thành viên của hộ (ly hôn bất hoà hoặc xung đột trong gia đình hoặc với các gia
đình khác; thành viên trong hộ ốm nặng/bị thương/qua đời). Các cú sốc khác không
được xem xét trong mô hình. Các cú sốc được chọn nghiên cứu là những cú sốc có
tác động nghiêm trọng nhất đến với mỗi hộ gia đình trong 2 năm qua, giai đoạn từ
1/7/2010 đến 1/7/2012.
Tổng thiệt hại: Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy tác động tiêu cực rất rõ ràng
giữa mức độ hài
lòng và các cú sốc rủi ro (Jahoda 1981; Frey và
Stutzer, 2000; Di Tella và cộng sự 2001). Tuy nhiên, các tác động tổng thể của các
42
thay đổi liên quan đến sự phát triển trong môi trường rủi ro thì rất khó để dự đoán
trước. Một vài nghiên cứu cho rằng, mỗi cá nhân đều có một điểm cố định của mức
độ hài lòng, điều này làm cho các cá nhân có thể dễ dàng thích nghi trở lại sau khi
trải qua mỗi cú sốc trong cuộc sống (Lykken 1999). Tuy nhiên, các tác giả khác thì
cho rằng một vài cú sốc không thể thích nghi được như cái chết của một người thân
hoặc biến cố ly dị (Easterlin 2003). Ở tầm vĩ mô, Di Tella và cộng sự (2001) tìm thấy
chứng cứ cho rằng lạm phát và thất nghiệp sẽ có tác động đến mức hạnh phúc, dữ
liệu được nghiên cứu trên 11 nước Châu Âu.
Tổng thiệt hại gây ra từ các cú sốc rủi ro sẽ được dùng để đo lường tác động của các
cú sốc đến mức độ hài lòng của các cá nhân. Tổng thiệt hại được đo bằng số tiền đã
bị mất đi khi gia đình đối mặt với các rủi ro, giai đoạn từ 1/7/2010 đến 1/7/2012, được
tính theo hàm ln(x)
Các hoạt động đối phó: Các hoạt động đối phó là cách mà hộ đã sử dụng để thích
ứng với các rủi ro xảy ra (Holling, 1973; Pimm, 1984; Walker và cộng sự, 2006) trực
tiếp tác động đến khả năng thích ứng của hộ.
Bài nghiên cứu xem xét các hoạt động quan trọng nhất hộ đã làm để đối phó với các
cú sốc về thu nhập bao gồm: (1) không làm gì; (2) sử dụng các nguồn lực sẵn có
(giảm chi tiêu, bán đất, vật nuôi, tài sản khác; sử dụng tiền tiết kiệm, tìm thêm việc),
(3) được hỗ trợ (từ họ hàng hoặc bạn bè, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, được
hoãn trả tiền vay, được hỗ trợ bảo hiểm) ; (4) vay mượn (ngân hàng và các nguồn
khác). Các hoạt động đối phó với các cú sốc khác không được xem xét trong mô hình.
Các hoạt động đối phó này là những biện pháp quan trọng nhất mà hộ đã sử dụng để
thích ứng với các cú sốc có tác động nghiêm trọng nhất đã xảy ra.
Lượng tiền tiết kiệm tại đầu kỳ: Lượng tiền tiết kiệm tại đầu kỳ được kỳ vọng có
mối quan hệ tương quan dương đến mức tiết kiệm của hộ (Carol Newman 2014).
Trong mô hình, lượng tiền tiết kiệm tại đầu kỳ được đo lường bằng giá trị của khoản
tiết kiệm cách đây 12 tháng (kể từ ngày 1/7/2012) của các hộ gia đình, được tính theo
43
hàm ln(x+1). Tuy lượng tiền tiết kiệm tại đầu kỳ không thực sự phản ánh đầy đủ
thông tin về tài sản tiết kiệm của hộ, bao gồm các tài sản có tính thanh khoản chậm
khác, nhưng do thông tin về tổng tài sản của hộ không được cập nhật đầy đủ nên tổng
lượng tiết kiệm bằng tiền được thay thế để tính toán trong mô hình, đây là một hạn
chế của bài nghiên cứu này.
3.4.4 Các biến công cụ
Do biến tôn giáo có quan hệ nội sinh với các đặc điểm kinh tế - xã hội và mức độ
hạnh phúc của từng cá nhân nên cần sử dụng một biến công cụ. Biến công cụ được
sử dụng trong bài nghiên cứu này là biến số lượng số lượng thôn có hoạt động các
nhóm tín ngưỡng tôn giáo trong xã, được tính theo hàm ln(x+1). Tỉ lệ của việc tham
gia nhóm tôn giáo của hộ tỉ lệ thuận với số nhóm tôn giáo trong các thôn của xã và
các hộ gia đình có xu hướng tham gia, thực hành các hoạt động tôn giáo nhiều hơn
theo hoạt động chung của cộng đồng đang sinh sống. Nghiên cứu của Clark và Lelks
(2009) đã chỉ ra sự liên quan giữa hộ theo các nhóm tôn giáo và khu vực dân cư đang
sinh sống xung quanh là cả hai nhóm người theo tôn giáo và những người vô thần
đều được hạnh phúc hơn trong khu vực tôn giáo.
Trong khi đó, biến công cụ này lại không tương quan với các đặc điểm giới tính, các
hoạt động cá nhân, hoàn cảnh của cuộc sống, các vấn đề về môi trường và địa lý hiện
sinh, tình trạng cuộc sống và lịch sử của mỗi cá nhân, là các yếu tố có ảnh hưởng đến
mức độ hạnh phúc của mỗi cá nhân (Lyubomirsky và cộng sự 2005). Vì thế, mức độ
hạnh phúc sẽ không bị tác động bởi số lượng thôn có cá nhóm tín ngưỡng tôn giáo
trong xã. Biến công cụ cũng không tương quan với những đặc điểm riêng không quan
sát được của các yếu tố ảnh hưởng đến mức hạnh phúc cá nhân.
Một số biến khác như thu nhập, sức khoẻ hay tình trạng hôn nhân có thể bị tác động
nội sinh với biến hạnh phúc, nhưng bài nghiên cứu này không cố gắng công cụ hoá
các biến này, nhưng sẽ chú ý đến tác động nội sinh này. Nhiều bài nghiên cứu trước
đây sử dụng dạng dữ liệu panel đã ghi nhận tác động nguyên nhân hệ quả từ các biến
44
này đến mức độ hài
lòng của các cá nhân
(Helliwell, Layard và
Sachs, 2012; Blanchflower và Oswald, 2000; Clark và Oswald, 1994).
Biến công cụ được sử dụng trong bài nghiên cứu này là biến số lượng số lượng thôn
có hoạt động các nhóm tín ngưỡng tôn giáo trong xã, được tính theo hàm ln(x+1).
Từ những phân tích trên ta có thể tóm tắt sự ảnh hưởng của các biến độc lập đến biến
phụ thuộc qua sơ đồ khung phân tích sau:
Hình 3.1 Mô hình về khả năng phục hồi của các hộ gia đình
Nguồn: Carol và cộng sự (2014), Akter và Mallick (2013)
45
Hình 3.2 Mô hình về mức độ hài lòng của các cá nhân
Nguồn: Popova (2010)
3.5 Phương pháp ước lượng
Để xem xét tác động của tôn giáo đến khả năng phục hồi sau cú sốc của hộ, thông
qua biến trung gian là tổng mức tiết kiệm, hai mô hình hồi quy lần lượt được thực
hiện. Mô hình thứ nhất hồi quy mức tiết kiệm theo biến tôn giáo, với quy mô mẫu lần
lượt là tổng mẫu; nhóm hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 6.000.000VND/ năm
trở xuống (theo Quyết định số 09/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận
nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015)3 – nhóm thu nhập 1; nhóm hộ có thu nhập
bình quân đầu người từ 6.000.001VND/năm đến mức thu nhập trung vị của nhóm hộ
có thu nhập bình quân đầu người trên 6.000.000VND/năm là 13.560.630VND/năm –
nhóm thu nhập 2; và nhóm hộ có thu nhập bình quân đầu người cao hơn
13.560.630VND/năm trở lên – nhóm thu nhập 3. Mô hình hồi quy sử dụng phương
pháp ước lượng OLS - Ordinary least square. Mô hình được kiểm định tính đa cộng
3 Xem thêm Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg tại http://baodientu.chinhphu.vn/Uploaded_VGP/hoangtrongdien/20110130/0900001.pdf
46
tuyến và phương sai không đổi khi hồi quy để đảm bảo ước lượng hiệu quả, vững và
không bị chệch.
Mô hình thứ hai hồi quy khả năng phục hồi của hộ thông qua mức tiết kiệm, với quy
mô mẫu hồi quy tương tự như mô hình thứ nhất, lần lượt là: tổng mẫu, nhóm thu nhập
1, nhóm thu nhập 2 và nhóm thu nhập 3. Mô hình hồi quy sử dụng phương pháp ước
lượng Ordered Logit cho biến phụ thuộc là biến định tính có thứ bậc. Mô hình do đã
được đảm bảo tính đa cộng tuyến từ kiểm định ở mô hình thứ nhất, nên sẽ được bỏ
qua kiểm định này. Mô hình cần được kiểm định Perform Brant - kiểm định đặc trưng
của mô hình Ordered Lobit về giả định của tỉ lệ khả dĩ (proportional odds assumption)
hay giả định hồi quy song song (parallel regression assumption); giả định này cho
rằng các hệ số mô tả mối quan hệ giữa nhóm 1 – chưa phục hồi - với 2 nhóm còn lại
(2 - phục hồi một phần và 3 – đã phục hồi hoàn toàn) cũng tương tự như mối quan hệ
giữa nhóm 2 với 2 nhóm (1 và 3). Để kiểm định giả định phương sai không đổi, mô
hình được hồi quy lại với lệnh ROBUST trong phần mềm STATA, nhằm khắc phục
phương sai thay đổi do lỗi về dạng mô hình. Nếu kết quả hồi quy là tương tự nhau,
mô hình không vi phạm giả thuyết về phương sai thay đổi. Nếu kết quả hồi quy bị sai
lệch nhiều, mô hình đã được điều chỉnh phương sai thay đổi sẽ được chọn.
Trong trường hợp giả định về tỉ lệ khả dĩ bị vi phạm, phương pháp ước lượng tốt hơn
để thay thế là Multinomial Logit. Phương pháp này áp dụng cho mô hình có các biến
phụ thuộc là định tính nhiều lựa chọn nhưng các lựa chọn này không theo thứ tự (vì
giả định tỉ lệ khả dĩ bị vi phạm). Các phương trình ước lượng đồng thời sẽ so sánh
từng nhóm với một nhóm cơ bản được lựa chọn trước. Các mẫu ước lượng bao gồm
tổng mẫu, nhóm thu nhập 1, 2 và 3 như đã đề cập ở trên. Sau khi hồi quy, mô hình
cần được kiểm định về tính độc lập của các lựa chọn thay thế không liên quan
(Independence of Irrelevant Alternatives IIA). Giả định này nhằm đảm bảo phương
sai giữa các sai số là không tương quan với nhau, kết quả xảy ra khả năng phục hồi
này không phụ thuộc vào các khả năng phục hồi khác. Kiểm định về phương sai
không đổi tương tự như với ước lượng Ordered Logit.
47
Để kiểm nghiệm tính ổn định của các mô hình đã lựa chọn, biến phụ thuộc khả năng
phục hồi sẽ được điều chỉnh thành thang đo 0/1 (Chưa phục hồi/Đã phục hồi) và được
ước lượng lại bằng phương pháp Xác suất tuyến tính LPM. Mô hình được ước lượng
với tổng mẫu, các hộ thuộc nhóm thu nhập 1, nhóm thu nhập 2 và nhóm thu nhập 3
như đã mô tả ở trên.
Để xét xem sai số của hai phương trình độc lập có thật sự tương quan với nhau, mô
hình đồng thời bao gồm hai phương trình tiết kiệm – tôn giáo và khả năng phục hồi -
tiết kiệm được thành lập. Nếu kết quả sai khác với các phân tích ở trên, kết quả hồi
quy từ phương trình đồng thời sẽ được chọn vì phản ánh chính xác hơn quan hệ giữa
các biến, thông qua việc điều chỉnh các hệ số hồi quy bằng ma trận hiệp phương sai
của sai số. Nếu kết quả tương tự như các kết quả hồi quy theo phương pháp độc lập,
các kết quả phân tích như trên sẽ được giữ lại do đã phù hợp.
Kiểm định về mối quan hệ trung gian giữa biến tôn giáo và biến phụ thuộc khả năng
phục hồi, biến tôn giáo đóng vai trò đo lường vốn xã hội của hộ gia đình, thực hiện
hồi quy trực tiếp biến tôn giáo trong mô hình ordered logit và multinomial logit (nếu
kết quả kiểm định tỉ lệ khả dĩ bị vi phạm) với biến phụ thuộc là khả năng phục hồi.
Nếu tôn giáo không có ý nghĩa thống kê, cho thấy biến tôn giáo không có tác động
trực tiếp đến khả năng phục hồi. Ngược lại, tác động trực tiếp này sẽ bác bỏ giả thuyết
về mối quan hệ trung gian giữa biến tôn giáo và khả năng phục hồi sau các cú sốc của
các hộ gia đình.
Mối quan hệ giữa tôn giáo và mức độ hài lòng của cá nhân được xem xét thông qua
hệ phương trình đồng thời với hai biến nội sinh là tôn giáo và mức độ hài lòng.
Phương trình đầu tiên trong hệ phương trình cấu trúc là phương trình chính về mức
độ hài lòng, không kiểm soát đến vấn đề nội sinh từ 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 và có xét đến tác động
của tổng tổn thất từ các cú sốc đến mức độ hạnh phúc của mỗi cá nhân. Phương trình
này được dự đoán sẽ mang lại các ước lượng tham số bị chệch và không vững. Nguyên
nhân chính của khả năng bị chệch là các phương sai không đổi của mỗi cá nhân không
quan sát được và xảy ra đồng thời với nhau. Các nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng tôn
48
giáo có ảnh hưởng đến hạnh phúc. Tuy nhiên, tác động của hạnh phúc cũng ảnh hưởng
ngược lại với tôn giáo: những người cảm thấy đau khổ và bất hạnh thường tìm đến
tôn giáo nhiều hơn, đặc biệt khi gặp các cú sốc tác động đến hạnh phúc trong đời
sống. Chính điều này đã gây ra tác động nghịch và dẫn đến ước lượng bị chệch khi
không kiểm soát vấn đề nội sinh. Bên cạnh đó, các đặc điểm cá nhân không quan sát
được không thay đổi theo thời gian, thể hiện trong sai số 𝑢 có thể dẫn đến một ước
lượng chệch vì mối tương quan với 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛. Sự đa dạng của các đặc điểm tâm lý
của mỗi cá nhân cũng đồng thời tác động lên cả tôn giáo và hạnh phúc với các mức
độ khác nhau. Vì thế dấu và độ lớn của các mối tương quan không còn đáng tin cậy.
Thực hiện ước lượng phương trình đầu tiên này theo hình thức Ordered Probit trong
điều kiện không có biến công cụ để so sánh với các kết quả khác
Để khắc phục vấn đề nội sinh của 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛, biến công cụ được sử dụng để thay thế
và không có mối tương quan với các đặc điểm riêng của mỗi cá nhân. Biến công cụ
thay thế là 𝑟𝑒𝑙𝑣𝑖𝑙𝑙 - số lượng thôn có hoạt động các nhóm tín ngưỡng tôn giáo trong
xã tại nơi cá nhân đang sinh sống. Một biến công cụ đạt chuẩn khi có mối tương quan
chặt với các đặc điểm tôn giáo của các nhân (cov(𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛, 𝑟𝑒𝑙𝑣𝑖𝑙𝑙) ≠ 0) nhưng
không thể hiện sự tương quan với các đặc điểm ảnh hưởng hạnh phúc cá nhân không
quan sát được (cov(𝑟𝑒𝑙𝑣𝑖𝑙𝑙, 𝑢) = 0). Vì thế, phương trình thứ hai của hệ cấu trúc sẽ
là phương trình tôn giáo, thể hiện sự tác động ngược của mức độ hài lòng đến tôn
giáo, có thêm sự giải thích từ biến công cụ 𝑟𝑒𝑙𝑣𝑖𝑙𝑙 và biến 𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠 được thay thế
bằng 𝑙𝑛𝑟𝑒𝑙𝑣𝑖𝑙𝑙 𝑋 𝑙𝑛𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙𝑙𝑜𝑠𝑠 để giúp mô hình xác định được.
Hệ phương trình cấu trúc với các biến ẩn (ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠* và religion*) và các vector
thể hiện cho các biến kiểm soát về kinh tế-xã hội và mức độ tổn thất rủi ro (𝑥1, 𝑥2, 𝑥3 ),
lúc này có dạng :
{
ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠 = 𝑎0 + 𝑎1𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 + 𝑎2𝑥1 + 𝑎3𝑥2 + 𝑒1 (1) 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 = 𝑏0 + 𝑏1ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠 + 𝑏2𝑥1 + 𝑏3𝑥3 + 𝑒2 (2)
Hệ phương trình rút gọn có dạng
49
{
ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠 = 𝑑0 + 𝑑1𝑥1 + 𝑑2𝑥2 + 𝑑3𝑥3 + 𝑢1 (1′) 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 = 𝑓0 + 𝑓1𝑥1 + 𝑓2𝑥2 + 𝑓3𝑥3 + 𝑢1 (2′)
Phương pháp ước lượng của mô hình tôn giáo - mức độ hài lòng sẽ được thực hiện
ước lượng qua 3 giai đoạn.
1.Từ hệ mô hình rút gọn, ước lượng các biến nội sinh bằng tất cả các biến độc lập và
tính giá trị ước lượng của biến nội sinh bằng phương pháp ước lượng Ordered Probit
với phương trình (1’) và phương pháp ước lượng Probit với phương trình (2’)
2. Ước lượng từng phương trình (1) và (2) trong hệ phương trình gốc bằng các biến
nội sinh 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛̂ và ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠̂ vừa được ước lượng, tính giá trị phần dư của mỗi
phương trình trong hệ và từ đó tính ma trận hiệp phương sai của các sai số ngẫu nhiên
đối với từng phương trình trong hệ.
3. Biến đổi và ước lượng lại các biến số của mô hình gốc bằng ma trận hiệp phương
sai với các biến nội sinh 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛̂ và ℎ𝑎𝑝𝑝𝑖𝑛𝑒𝑠𝑠̂ .
Do tính phức tạp của mô hình nên việc phân chia nhóm thu nhập theo 3 nhóm như
trên không thể thực hiện được do mẫu bị phân quá nhỏ. Vì vậy, ước lượng được hồi
quy sẽ được thực hiện theo mẫu tổng thể; mẫu của các hộ có thu nhập bình quân đầu
người nhỏ hơn 55% tổng mẫu, tức là từ 11.842.510VND/người trở xuống – nhóm thu
nhập (1’) và mẫu của các hộ có thu nhập bình quân đầu người lớn hơn 55% tổng mẫu,
tức là lớn hơn 11.842.510VND/người – nhóm thu nhập (2’) (không phân chia mẫu
theo trung vị của thu nhập bình quân đầu người vì cách chia này cũng không chạy
được kết quả hồi quy)
Việc thực hiện kiểm định giá trị của biến công cụ được thực hiện với biến nội sinh
𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛. Vì không thể kiểm định tính giá trị của biến công cụ trong một trường hợp
cụ thể xác định ( Cameron và Trivedi, 2005), chúng ta giả sử việc chọn biến công cụ
này là phù hợp với hệ phương trình cấu trúc và ước lượng để được kết quả trước. Để
kiểm tra tính chính xác của việc lựa chọn biến công cụ này, kiểm định Hausman về
vấn đề nội sinh cho biến 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 bằng cách thực hiện ước lượng 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 với tất cả
50
các biến ngoại sinh và biến công cụ, tính toán phần dư, đưa phần dư này vào phương
trình hạnh phúc, ngoài các biến giải thích có sẵn và kiểm tra mức ý nghĩa. Giả thiết
Ho cho rằng: tôn giáo và các mối quan hệ tương tác với nó là ngoại sinh và giả thiết
đối, có ít nhất một biến là nội sinh. Nếu các tham số của phần dư là có ý nghĩa, giả
thiết Ho về biến ngoại sinh 𝑟𝑒𝑙𝑖𝑔𝑖𝑜𝑛 sẽ bị bác bỏ. Nếu giả thuyết Ho được chấp nhận,
chứng tỏ biến công cụ yếu, phương trình hồi quy không có biến công cụ sẽ được lựa
chọn do có phương sai nhỏ hơn phương trình hồi quy với biến công cụ.
Để kiểm nghiệm tính ổn định của các mô hình đã lựa chọn, biến phụ thuộc mức độ
hài lòng sẽ được điều chỉnh thành thang đo 0/1 (Không hài lòng/hài lòng). Phương
trình thứ nhất của hệ sẽ được ước lượng lại lần lượt theo phương pháp Probit và Xác
suất tuyến tính LPM (trong điều kiện không có biến công cụ) và so sánh với các kết
quả khác.
Hệ mô hình với biến công cụ sẽ được ước lượng lại bằng phương pháp Probit ở các
phương trình (1) (1’) (2) và (2’) và được so sánh kết quả với các mô hình khác
Hệ mô hình với biến công cụ cũng được ước lượng lại bằng phương pháp 3 stage
least squares cho phương trình (1) và (2) và được so sánh kết quả với các mô hình
còn lại.
Do dữ liệu từ mẫu không đủ đa dạng, hệ phương trình chỉ hồi quy đồng thời phương
trình hài lòng – tôn giáo theo phương pháp ordered probit và phương trình tôn giáo –
hài lòng theo phương pháp probit và các phương pháp ít phức tạp hơn. Phương pháp
multinomial probit không áp dụng được cho phương trình hài lòng – tôn giáo khi hồi
quy theo hệ phương trình. Đây là một trong những hạn chế của đề tài.
51
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ
4.1 Tổng quan tình hình tôn giáo tại Việt Nam
Nền tôn giáo tại Việt Nam là một sự tổng hợp đa dạng từ nhiều tín ngưỡng tâm linh
và các tôn giáo bản địa rất khác nhau. Người Việt Nam không tự tách biệt mình để
thực hành một cách trọn vẹn và nguyên thuỷ một nền tôn giáo chính tông nào (Roszko
2012). Oscar Salemink (2008) đã chỉ ra rằng nền tôn giáo tại Việt Nam là sự kết nối
chặt chẽ và tác động đa chiều qua lại lẫn nhau giữa các truyền thống tôn giáo lớn,
thông qua một loạt các nghi lễ tôn giáo và nhận thức luận đan xen nhau được ảnh
hưởng từ Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo; được xây dựng trên nền tảng tín ngưỡng
thờ cúng ông bà tổ tiên. Tín ngưỡng thờ ông bà là một dòng chảy chính xuyên suốt
chiều dài tâm linh của người Việt từ rất lâu đời, bắt rễ sâu trong tiềm thức của mỗi
người dân. Đó là truyền thống tôn kính những người đã qua đời, là những người đã
có công gầy dựng gia đình, có công với địa phương hay đất nước, hoặc có thể, là
những người đã dũng cảm phá bỏ những lề lối định kiến cũ hay lặp lại trật tự xã hội
để mang đến cho người dân cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người đó đều được người
đang sống rất tôn trọng và hết lòng thờ cúng.
Theo nhận định của Keyes (1994), luận định về hiện đại hoá và tái cơ cấu xã hội ở
các nước Châu Á sẽ dẫn đến sự vô thần của người dân, tôn giáo sẽ tự biến mất một
cách tự nhiên khi các phương tiện sản xuất được hiện đại hoá và xã hội hoá, theo dự
đoán của Marx, là không thành công. Sự phát triển của lĩnh vực tôn giáo, cùng với
quá trình hiện đại hoá xã hội, càng đóng vai trò quan trọng hơn. Đặc biệt là sau thời
kỳ Đổi Mới năm 1986, các tín ngưỡng tâm linh truyền thống và thần thoại được phục
hồi, có pha trộn thêm nhiều yếu tố hiện đại hoá từ cuộc sống, trong cảnh hội nhập
kinh tế toàn cầu . Chính phủ trước những thay đổi gay gắt từ xã hội, đã ra Nghị quyết
Trung Ương 5, được thông qua vào năm 19984, về việc xây dựng một nền văn hoá
4 Xem thêm Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) tại http://thuvienphapluat.vn/archive/Nghi-quyet-03-NQ-TW-nam-1998-ve-xay-dung-va-phat-trien-nen-van- hoa-Viet-Nam-tien-vb130939.aspx
52
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết là cơ sở để xác định các tín
ngưỡng tôn giáo, phong tục và nghi lễ được lựa chọn như là một phần của nền văn
hoá quốc gia, từ đó giúp bảo tổn và phát huy các giá trị văn hoá đó.
Theo các số liệu thống kê chính thức, có khoảng 81,7% người dân Việt Nam là vô
thần.
Bảng 4.1: Các tôn giáo tại Việt Nam
Tôn giáo
% dân số
Phật giáo
Đại Thừa
10
Tiểu thừa
1.2
Công giáo
7
Hoà Hảo
1.5 đến 3
Cao Đài
2.5 đến 4
Tin Lành
1 đến 2
Hồi giáo
0.1
Baha'i
0.07
Vô thần
81.7
Nguồn: United States Department of State, “International Religious Freedom Report
for 2011:Vietnam”
Tại Việt Nam, Đạo Phật là tôn giáo lớn nhất , với tỉ lệ 11,2% tín đồ trên dân số cả
nước theo thống kê từ International Religious Freedom Report for 2011:Vietnam.
Với bề dày lịch sử lâu đời và các triết lý tương đối gần gũi với đạo thờ ông bà về một
cuộc sống sau khi chết, Đạo Phật đã có lúc trở thành quốc giáo vào thời nhà Lý, được
vua tôi trên dưới đồng lòng thực hành theo như nền tảng đạo đức căn bản để trị nước.
Phật giáo đi vào lòng dân rộng rãi và có sức ảnh hưởng lớn tới đời sống xã hội, để lại
53
nhiều dấu ấn trong lĩnh vực văn hoá, kiến trúc (Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại San
Francisco)5
Tuy vậy, việc thực hành hay tham gia các tổ chức tôn giáo một cách thường xuyên
chưa thật sự phát triển mạnh ở các địa phương hiện nay, nhất là tại các vùng nông
thôn Việt Nam. Số người chính thức tham gia vào các tổ chức tổ giáo, ngay cả tôn
giáo lớn nhất là Phật giáo, chỉ chiếm hơn 6,8 triệu người trên tổng số hơn 80 triệu
dân, theo thống kê từ Tổng Cục thống kê vào năm 2009. Giải thích cho hiện tượng
này có thể xem xét đến hai lý do. Thứ nhất, việc thờ cúng tổ tiên ông bà – tín ngưỡng
cổ truyền của người Việt - hay có niềm tin và thực hành theo một số đức tin từ Đạo
Phật - một trong những tôn giáo đã được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ 2 sau
Công Nguyên – là diễn ra phổ quát ở nhiều gia đình. Tuy nhiên việc người dân tự
nhận mình là tín đồ của một tôn giáo nào đó còn thấp, có thể nguyên nhân bắt nguồn
từ tâm lý thích giản tiện, không thích rắc rối phiền hà trong việc khai báo các thông
tin trong việc làm giấy tờ của cá nhân. Vì tính chất vô cùng quan trọng của các loại
giấy tờ này, những thông tin cần thiết nhất luôn được người dân cẩn trọng kê khai
nhằm tránh sai sót và phiền hà về sau. Các thông tin phụ như tôn giáo được người
dân giản tiện bằng cách trả lời “Không” để giảm xác suất xảy ra sai sót cần sửa chữa.
Thứ hai, lý thuyết về tháp nhu cầu của Maslow (1943) đã đưa ra giả thuyết mức đáy
nhu cầu căn bản của con người bao gồm: không khí sạch, nước và nguồn cung thức
ăn đầy đủ,Với mức thu nhập chung còn khá thấp ở các hộ nông thôn Việt Nam hiện
nay, các nhu cầu cơ bản được người dân ưu tiên hàng đầu hơn so với các nhu cầu về
tâm linh và mở rộng mạng lưới quan hệ xã hội như tham gia vào các hội nhóm tôn
giáo
5 Tổng LSQ Việt Nam tại San Francisco http://www.vietnamconsulate-sf.org/tim-hieu-viet- nam/ton-giao-va-tin-nguong/
54
Bảng 4.2: Một số tôn giáo lớn tại Việt Nam, 1/4/2009
Đơn vị tính: Người
STT
Tên Tôn Giáo
Tổng (người) Nam (người) Nữ (người)
Cả nước
15.651.467
7.509.832
8.141.635
1
Phật Giáo
6.812.318
3.172.576
3.629.742
2
Công Giáo
5.677.086
2.783.619
2.893.167
3
Hòa Hảo
1.433.252
717.191
716.061
4
Hồi Giáo
75.268
34.445
37.823
5
Cao Đài
807.915
384.204
423.711
6
Minh Sư Đạo
709
328
381
Nguồn: Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 - Tổng Cục thống kê
4.2 Thống kê mô tả
Bảng 4.3 cho thấy nhóm hộ phục hồi hoàn toàn sau các cú sốc thu nhập chiếm 33.3%,
số hộ đã phục hồi một phần chiếm 30.52% và nhóm hộ hầu như chưa phục hồi chiếm
36.18%. Điều này cho thấy đời sống người dân sau khi trải qua các cú sốc rủi ro mà
không nhận được những hỗ trợ từ bảo hiểm chính thức thật sự rất khó khăn, và tình
trạng này chiếm tỉ lệ đa số.
Bảng 4.3 Thay đổi mức độ phục hồi sau các cú sốc thu nhập
Mức độ phục hồi Số lượng (hộ)
Hầu như chưa phục hồi Đã phục hồi một phần Đã phục hồi hoàn toàn Tổng
326 275 300 901
Tỉ lệ (%) 36.18 30.52 33.30 100.00
Nguồn: Tác giả tự tính toán
Mức tiết kiệm của các hộ gia đình được phân tổ theo 3 nhóm, các nhóm này tương
ứng với 3 phân vị và sẽ thay đổi theo từng quy mô mẫu. Từ kết quả ở Phụ lục 2.4, tác
động của biến tôn giáo lên biến phục thuộc mức tiết kiệm không có ý nghĩa thống kê
ở quy mô tổng mẫu, các hộ thuộc nhóm thu nhập 1 và các hộ thuộc nhóm thu nhập 2.
55
Tuy nhiên, biến tôn giáo lại có ý nghĩa ở mức 1% trong tác động tạo thành xu hướng
lên biến mức tiết kiệm, và chiều hướng này là dương ở nhóm thu nhập 3. Điều này
cho thấy các hộ có mức thu nhập trung bình đầu người cao hơn 13.560.630VND/năm
sẽ có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn.
Phụ lục 2.5 trình bày tỉ lệ phân phối của khả năng phục hồi theo các biến độc lập, ứng
với mỗi giá trị định danh của biến nếu đó là biến định tính và ứng với mỗi phân vị
của biến nếu đó là biến định lượng. Từ kết quả thống kê cho thấy, mức tiết kiệm của
các hộ có tác động dương đến khả năng phục hồi của hộ khi xem xét ở quy mô tổng
mẫu và tác động này chịu ảnh hưởng lớn từ nhóm thu nhập 2. Nhóm thu nhập 1 và
đặc biệt là nhóm thu nhập 3 – nhóm với biến tôn giáo có ý nghĩa tác động đến mức
tiết kiệm - chưa tìm thấy bằng chứng thống kê ủng hộ tác động của tiết kiệm đến khả
năng phục hồi của hộ.
Bảng 4.4 Thay đổi mức độ hài lòng sau các cú sốc thu nhập
Mức độ hài lòng
Số lượng (hộ)
Tỉ lệ (%)
Không hài lòng Bình thường Hài lòng Rất hài lòng Tổng
84 476 444 43 1047
8.02 45.46 42.41 4.11 100.00
Nguồn: Tác giả tự tính toán
Bảng 4.4 cho thấy nhóm cá nhân có mức độ hài lòng với cuộc sống cao nhất “rất hài
lòng” chiếm tỉ lệ thấp nhất là 4.11%, các cá nhân cảm thấy “hài lòng” là 42.41%, các
cá nhân cảm thấy “bình thường” chiếm đa số với 45.46% và các cá nhân có mức hạnh
phúc ít nhất “không hài lòng” chiếm tỉ lệ 8.02%. Kết quả này cho thấy đối với các cá
nhân đã trải qua các cú sốc rủi ro trong cuộc sống, mức độ hài lòng dưới mức trung
bình nhìn chung vẫn chiếm đa số, cho thấy các rủi ro không chỉ gây tổn thất về mặt
vật chất mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần của các cá nhân. Kết luận này được
củng cố bởi yếu tố “tổng tổn thất” (Phụ lục 2.6) có tác động ngược chiều với mức độ
cảm thấy hạnh phúc ở mức ý nghĩa 2.4% cho toàn mẫu.
56
Phụ lục 2.6 cho thấy xu hướng tác động cùng chiều giữa tôn giáo và mức độ hạnh
phúc, mức độ hạnh phúc càng tăng thì số hộ có tham gia thực hành tín ngưỡng tôn
giáo cũng tăng theo. Xu hướng này phù hợp các kết quả thực nghiệm lẫn lý thuyết từ
nhiều nghiên cứu trước. Tuy nhiên, tác động dương này không có ý nghĩa thống kê
trên tất cả các quy mô mẫu.
4.3 Kết quả ước lượng
4.3.1 Kiểm định các kết quả hồi quy
4.3.1.1 Kiểm định đa cộng tuyến
Phụ lục 3.1 thể hiện mối tương quan giữa các biến trong mô hình tổng hợp tôn giáo -
khả năng phục hồi. - Đa cộng tuyến gây ra cho biến trẻ em bị sai dấu trong mô hình
hồi quy tôn giáo - tiết kiệm (Bảng 5) nhưng mức ý nghĩa vẫn rất cao (1%), điều này
càng củng cố thêm mức ý nghĩa của biến trẻ em trong mô hình (do đa cộng tuyến
thường làm cho các biến giảm mức ý nghĩa đi). Kiểm tra lại mức độ tương quan giữa
biến trẻ em và biến phụ thuộc ln(tiết kiệm), mức ý nghĩa 1% cho biết tương quan
nghịch giữa hai biến này là xu hướng không thể bác bỏ. Vì vậy, độ lớn của ước lượng
cho tham số của biến trẻ em trong mô hình không còn chính xác.
Phụ lục 3.3 thể hiện hệ số phóng đại phương sai VIF của các biến trong mô hình tổng
hợp tôn giáo - khả năng phục hồi. Các hệ số này đều nhỏ hơn 2.5, tương ứng với R2
nhỏ hơn 0.60 trong các mô hình hồi quy từng biến độc lập với tất cả các biến còn lại
trong mô hình, nên hiện tượng đa cộng tuyến giữa một biến độc lập với tất cả các
biến còn lại trong mô hình là không nghiêm trọng.
Phụ lục 3.2 và 3.4 thể hiện kết quả kiểm định đa cộng tuyến của mô hình tôn giáo -
mức độ hài lòng. Cặp biến Tuổi & Tuổi^2/1000 và ln(số thôn tôn giáo+1) & ln(thôn
tôn giáo+1)*ln(tổn thất) thể hiện sự đa cộng tuyến rất cao do có quan hệ mật thiết
với nhau. Đây là các biến kiểm soát và các biến công cụ, không cần khắc phục hiện
tượng đa cộng tuyến. Các biến cần quan tâm trong mô hình như tôn giáo, ln(tổn thất),
ln(thu nhập/ người) có hệ số VIF vẫn trong ngưỡng chấp nhận được.
57
4.3.1.2 Kiểm định phương sai thay đổi
Kiểm định white cho các ước lượng trong mô hình tôn giáo - mức tiết kiệm đều thể
hiện kết quả là chưa tìm thấy bằng chứng thống kê cho thấy mô hình có phương sai
thay đổi
Kiểm định phương sai thay đổi cho các mô hình ước lượng theo phương pháp
maximum likelihook bằng lựa chọn ROBUST khi hồi quy bằng phần mềm thống kê
STATA, kết quả là chưa tìm thấy bằng chứng thống kê cho thấy mô hình có phương
sai thay đổi.
4.3.1.3 Kiểm định tỉ lệ khả dĩ
Kiểm định Brant Test về tỉ lệ khả dĩ của mô hình khả năng phục hồi – tiết kiệm ước
lượng theo phương pháp ORDERD LOGIT, kết quả cho thấy có sự vi phạm về giả
định hồi quy song song. Ước lượng theo phương pháp ORDERD LOGIT là không
vững và hiệu quả. Phương pháp ước lượng thay thế là MULTINOMIAL LOGIT.
Kiểm định Brant Test về tỉ lệ khả dĩ của mô hình hài lòng – tôn giáo ước lượng theo
phương pháp ORDERD PROBIT chưa thực hiện được do hạn chế của phần mềm tính
toán. Đây là một trong những hạn chế của mô hình, cần được kiểm định thêm.
4.3.1.4 Kiểm định về tính độc lập của các lựa chọn thay thế không liên quan
Kiểm định Hausman tests, suest-based Hausman tests và Small-Hsiao tests về tính
độc lập của các lựa chọn thay thế không liên quan trong mô hình tôn giáo - mức độ
hài lòng ước lượng theo phương pháp MULTINOMIAL LOGIT, kết quả cho thấy giả
định về tính độc lập không hề vi phạm ở tất cả các mẫu hồi quy.
4.3.1.5 Kiểm định quan hệ nội sinh
Kiểm định tính nội sinh của biến tôn giáo được thực hiện qua phương pháp hồi quy
phần dư Durbin-Wu-Hausman Test, và được thể hiện sau mỗi phương trình hồi quy
có sử dụng biến công cụ. Hồi quy biến nội sinh theo biến công cụ và tất cả các biến
ngoại sinh. Sau kết quả hồi quy phần dư của biến tôn giáo vừa tính được từ các
58
phương trình tương ứng phía trước, cho thấy các hệ số của phần dư đều không có ý
nghĩa, cho thấy mức tác động của tôn giáo lên biến mức độ hài lòng chưa đủ lớn để
gây ra hiện tượng nội sinh.
4.3.2 Tác động của tôn giáo đến khả năng phục hồi sau các cú sốc của hộ
Các kết quả ước lượng được thể hiện ở Phụ lục 4.1 đến Phụ lục 4.7. Phụ lục 4.1 thể
hiện tác động của tôn giáo đến mức tiết kiệm và hồi quy theo phương pháp Ordinary
least squares. Phụ lục 4.2 thể hiện kết quả tác động của các yếu tố đến khả năng phục
hồi sau các cú sốc rủi ro của hộ, lần lượt theo phương pháp Ordered Logit, và
Multinomial Logit. Phụ lục 4.3 là tác động biên của tác biến độc lập đến biến phụ
thuộc khả năng phục hồi theo phương pháp Multinomial Logit. Phụ lục 4.4 trình bày
kết quả hồi quy theo phương pháp Xác xuất tuyến tính với biến phụ thuộc là khả năng
phục hồi đã được điều chỉnh thàng thang đo 0/1 để kiểm tra tính ổn định của mô hình.
Với mỗi mô hình hồi quy, quy mô mẫu lần lượt là tổng mẫu, nhóm thu nhập 1, nhóm
thu nhập 2 và nhóm thu nhập 3.
Ở Phụ lục 4.1, tại hồi quy 2, do biến giả Goá bụa với giá trị 1 chỉ chiếm 0,42% nhóm
thu nhập 1 nên gần như là hằng số và bị loại ra khỏi mô hình. Biến tôn giáo không có
ý nghĩa ở 3 hồi quy đầu nhưng lại có ý nghĩa ở mức 10% với hồi quy 4, nhóm các hộ
có thu nhập bình quân đầu người lớn hơn 13.560.630VND/năm. Kết quả này phù hợp
với mô tả thống kê từ mẫu. Theo kết quả hồi quy, chênh lệch mức tiết kiệm giữa
nhóm hộ có tham gia các hoạt động tôn giáo và các hộ không tham gia trong nhóm
thu nhập 3 là 82.3%.
Vai trò của tôn giáo đến tiết kiệm tuy không thực sự có ý nghĩa cao nhưng cũng chứng
minh được tác động tích cực của mình ở các hộ có thu nhập cao. Lý giải cho điều này
có thể luận từ các nguyên nhân sau. Thứ nhất, về ý nghĩa không cao của biến tôn giáo
ở đa số các quy mô mẫu, có thể đó là hạn chế của dữ liệu tôn giáo trong bộ VARHS.
Với câu hỏi “Ông/bà có tham gia một nhóm tôn giáo nào không” kèm các câu hỏi chi
tiết về mức độ thường xuyên, thời gian bắt đầu tham gia, chức vụ kiêm nhiệm đã hạn
chế một số lượng lớn thông tin về những người có mến mộ và tin yêu một tôn giáo
59
nào đó, nhưng không có mức độ cam kết tham gia bền chặt. Kết quả thống kê mẫu
chỉ có từ 1.89%-2.01% các hộ có tham gia một nhóm tín ngưỡng/tôn giáo, rất thấp so
với khoảng 40% mẫu từ các nghiên cứu trước (Iannaccone 1998, Dehejia 2007).
Những cá nhân này hoàn toàn có thể thực hành tiết kiệm vì đức tin trong tôn giáo
(Guiso và cộng sự 2003) mà không cần phải chịu tác động từ các mạng lưới xã hội
xung quanh khi tham gia hội nhóm tôn giáo thường xuyên mới có thể nâng cao mức
tiết kiệm. Thứ hai, về vai trò tác động đến các hộ có thu nhập cao của tôn giáo, theo
lý thuyết Maslow (1943) về tháp nhu cầu, khi các nhu cầu vật chất đã tương đối đầy
đủ, các cá nhân có nhu cầu cao hơn về tinh thần, một trong số đó là nhu cầu tâm linh.
Việc tham gia thường xuyên các tổ chức tôn giáo giúp củng cố đức tin một cách
thường xuyên và vững chắc, giúp các cá nhân tin tưởng vào kết quả tốt đẹp nếu làm
việc chăm chỉ; hay tiết kiệm sẽ giúp họ thực hành từ thiện, là một kênh đầu tư cho
cuộc sống sau cái chết theo đức tin tôn giáo (McCleary, 2007).
Phụ lục 4.2 cho thấy kết quả của các biến tác động đến khả năng phục hồi của hộ. Tại
hồi quy 2, 6 và 10, do biến giả Goá bụa với giá trị 1 chỉ chiếm 0,4% nhóm thu nhập
1 nên gần như là hằng số và bị loại ra khỏi mô hình. Thực hiện loại bỏ biến tương tự
tại hồi quy 2 và 6 ở Phụ lục 4.3. Nhìn chung, mức tiết kiệm có tác động tích cực đến
khả năng phục hồi của các hộ ở đa số các mẫu, ngoại trừ nhóm thu nhập 1. Đối với
các hộ thuộc nhóm thu nhập 3, tiết kiệm có ý nghĩa ở mức 10% đối với khả năng phục
hồi của các hộ, theo phương pháp hồi quy Ordered Probit. Điều này cho thấy biến tôn
giáo đã có tác động đến khả năng phục hồi thông qua biến trung gian là mức tiết kiệm,
với các hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trên 13.560.630VND/năm. Tuy
nhiên, kết quả kiểm định tỉ lệ khả dĩ cho mô hình Ordered Logit bị vi phạm, ngoài ra
kết quả này cũng không phù hợp với thống kê mô tả, khi kết quả này cho thấy tiết
kiệm gia tăng ở các hộ gia đình thuộc nhóm thu nhập 3 không có ý nghĩa tác động
đến khả năng phục hồi sau các cú sốc của hộ. Phương pháp hồi quy Multinomial
Logit được thực hiện để xem xét tác động chính xác hơn của các biến giải thích đến
khả năng phục hồi (Phụ lục 4.2) và tác động biên của các yếu tố này (Phụ lục 4.3)
60
Kết quả hồi quy Multinomial Logit cho thấy có sự sai khác đáng kể giữa độ lớn và
mức ý nghĩa của các tham số được hồi quy giữa hai nhóm so sánh với nhóm tham
chiếu. Trong mô hình Multinomial Logit, kết quả cho thấy nếu tăng 1% tổng mức tiết
kiệm tại giá trị trung bình sẽ làm giảm 4.2% xác suất hầu như chưa phục hồi, khi xem
xét với quy mô tổng mẫu. Kết quả lần lượt là giảm 5.7% và 2.3% với quy mô mẫu là
các hộ thu nhập nhóm 2 và các hộ thu nhập nhóm 3. Tuy nhiên, mức tăng của tiết
kiệm lại không có ý nghĩa tác động tới tới xác suất đã phục hồi một phần sau cú sốc
của các hộ, ở tất cả các quy mô mẫu. Kết quả này cho thấy tác động bảo hiểm của tôn
giáo chỉ có tác động gián tiếp thông qua tác động làm gia tăng tiết kiệm ở nhóm có
thu nhập cao của mẫu và mức tiết kiệm gia tăng này làm giảm cách biệt giữa khả
năng hầu như chưa phục hồi sau cú sốc gần hơn với khả năng phục hồi hoàn toàn.
Tuy nhiên, kết luận này không đúng với những quy mô mẫu theo các nhóm thu nhập
khác và không đúng khi so sánh giữa các nhóm hộ phục hồi một phần với các nhóm
hộ đã phục hồi hoàn toàn.
Kết quả kiểm tra lại mô hình hồi quy bằng phương pháp xác xuất tuyến tính một lần
nữa cho thấy tiết kiệm có ý nghĩa ở tất cả các quy mô mẫu hồi quy. Kết hợp với mức
ý nghĩa rất cao của tiết kiệm ở cả hai phương pháp Ordered Logit và Multinomial
Logit với đa số quy mô mẫu (trừ nhóm thu nhập 1), tác động tích cực của tiết kiệm
đến khả năng phục hồi của hộ đã ủng hộ các lý thuyết và các kết quả của nhiều bài
nghiên cứu trước đó (Guiso và cộng sự 2003, Anja 2010, Renneboog và Spaenjers
2012, León 2013).
Tiết kiệm tuy có mức ý nghĩa rất cao nhưng lại không có vai trò tác động đến các hộ
ở nhóm thu nhập 1, cả trong mô hình Ordered Logit và Multinomial Logit. Điều này
có thể phản ánh thực tế rằng những hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới ngưỡng
nghèo rất khó khăn trong việc tiết kiệm và số tiền tiết kiệm được không thể hoặc chỉ
giúp họ phục hồi một phần sau các cú sốc rủi ro xảy ra.
Do dữ liệu từ mẫu không đủ đa dạng, hệ phương trình chỉ hồi quy đồng thời phương
trình phục hồi - tiết kiệm theo phương pháp ordered probit và phương trình tiết kiệm
61
– tôn giáo theo phương pháp ordinary least square (Phụ lục 4.8). Phương pháp
multinomial probit không áp dụng được cho phương trình phục hồi - tiết kiệm khi hồi
quy theo hệ phương trình đồng thời. Đây cũng là một hạn chế của đề tài. Tuy nhiên,
do giả thuyết tỉ lệ khả dĩ bị vi phạm ở phương pháp ordered probit, kết quả từ hệ
phương trình đồng thời là không chính xác nên không thể căn cứ vào hệ để giải thích
các ý nghĩa tác động từ các biến.
Kết quả hồi quy trực tiếp biến tôn giáo trong mô hình ordered logit (Phụ lục 4.9) có
biến phụ thuộc là khả năng phục hồi đã cho thấy sự tác động này là không có ý nghĩa
ở tất cả các quy mô mẫu, trừ nhóm thu nhập dưới ngưỡng nghèo, tác động này là tiêu
cực và có ý nghĩa ở mức 10%. Những hộ gia đình có tham gia tôn giáo càng tăng sẽ
giảm mức phục hồi sau các cú sốc thu nhập càng nhiều. Tuy nhiên, kết quả kiểm định
tỉ lệ khả dĩ bị vi phạm ở tất cả các quy mô mẫu, kết quả hồi quy không chính xác nên
cần được ước lượng lại bằng phương pháp multinomial logit.
Kết quả quy trực tiếp biến tôn giáo trong mô hình multinomial logit có biến phụ thuộc
là khả năng phục hồi đã cho thấy sự tác động này là không có ý nghĩa ở tất cả các quy
mô mẫu. Kiểm định về tính độc lập của các lựa chọn thay thế không liên quan cho
thấy mô hình multinomial logit là phù hợp. Kết luận này củng cố mối quan hệ trung
gian giữa tôn giáo và khả năng phục hồi, thông qua biến trung gian là tiết kiệm.
4.3.3 Tác động của tôn giáo đến mức độ hài lòng của cá nhân
Kết quả ước lượng được thể hiện qua Phụ lục 4.5 đến 4.7. Bảng 10 thể hiện tác động
của tôn giáo và các biến giải thích khác đến mức độ hài lòng của cá nhân qua phương
pháp Ordered Probit, Ordered Probit với biến công cụ và tác động biên của các biến
độc lập. Với biến phụ thuộc là mức độ hài lòng đã được điều chỉnh thàng thang đo
0/1 để kiểm tra tính ổn định của mô hình, bảng 11 và 12 lần lượt trình bày kết quả hồi
quy theo phương pháp Probit - Probit với biến công cụ và phương pháp Xác suất
tuyến tính. Với mỗi phương pháp hồi quy, quy mô mẫu lần lượt là tổng mẫu, nhóm
thu nhập 1 và nhóm thu nhập 2. Kiểm định tính nội sinh của biến tôn giáo được thực
62
hiện qua phương pháp hồi quy phần dư Durbin-Wu-Hausman Test, và được thể hiện
sau mỗi phương trình hồi quy có sử dụng biến công cụ.
Theo kết quả hồi quy từ Phụ lục 4.5, mô hình hồi quy theo phương pháp Ordered
Probit cho thấy biến tôn giáo có tác động tiêu cực đến mức độ hài lòng ở mỗi cá nhân
ở quy mô tổng mẫu và nhóm thu nhập bình quân đầu người trên ngưỡng 55% phân
vị của toàn mẫu. Tác động của tôn giáo đến mức độ hài lòng ở nhóm thu nhập 1 mang
dấu dương, cho thấy những cá nhân có mức thu nhập dưới ngưỡng 55% phân vị sẽ
cảm thấy hài lòng hơn về cuộc sống khi họ càng tham gia vào các nhóm tôn giáo tín
ngưỡng, kết quả này phù hợp với các lý thuyết trước đây. Tuy nhiên, tác động của
tôn giáo đến mức độ hài lòng lại không có ý nghĩa ở toàn bộ các quy mô mẫu.
Kết quả hồi quy khi có biến công cụ cũng cho thấy mối liên hệ giữa tôn giáo và mức
độ hài lòng là không có ý nghĩa. Tuy tại hồi quy (6) sự tác động có ý nghĩa thống kê
ở mức 10% của tôn giáo đến biến phụ thuộc là theo chiều hướng dương nhưng kết
quả hồi quy này không chính xác. Nguyên nhân do kết quả kiểm định biến ngoại sinh
tôn giáo cho thấy giả thuyết biến ngoại sinh không thể bác bỏ theo số liệu thống kê.
Vì vậy, kết quả hồi quy của biến tôn giáo được xem xét lại theo hồi quy (1), (2) và
(3), do các mô hình này có phương sai nhỏ hơn mô hình có biến công cụ.
Với biến phụ thuộc được điều chỉnh thành 0/1, xét trên hai nhóm thu nhập phân biệt,
kết quả hồi quy cũng tương thích với kết quả đã phân tích ở trên, dù theo phương
pháp Probit (Phụ lục 4.6) hay phương pháp xác suất tuyến tính tại (Phụ lục 4.7). Tuy
nhiên, kết quả này không đúng trên quy mô tổng mẫu, tôn giáo đã có tác động tích
cực đến mức độ hài lòng của các cá nhân, thay cho tác động tiêu cực như đã phân tích
ở trên. Kết quả chung cho thấy tôn giáo tuy có tác động tích cực đến các hộ có thu
nhập thấp theo như giả thiết thứ 3 đã đưa ra, nhưng lại không có ý nghĩa thống kê ở
tất cả các quy mô mẫu khi hồi quy theo các mô hình không có biến công cụ. Bên cạnh
đó, hiện tượng nội sinh của biến tôn giáo không xảy ra ở tất cả các quy mô mẫu, kết
quả từ các mô hình hồi quy có biến công cụ đều thiếu chính xác hơn so với mô hình
ban đầu nên không được đưa vào phân tích.
63
Kết quả thú vị về tính ngoại sinh của tôn giáo với mức độ hài lòng cho thấy đặc trưng
tôn giáo rất khác biệt tại Việt Nam, trái ngược với các lý thuyết nội sinh trước đây về
mối quan hệ này ở nhiều nghiên cứu trước tại các quốc gia khác. Các đặc điểm cá
nhân chưa quan quan sát được không tác động nhiều đến khả năng tham gia hội nhóm
tôn giáo của các cá nhân, quyết định tham gia phụ thuộc vào truyền thống gia đình là
chủ yếu: 65,17% số người tham gia nhóm tôn giáo từ bộ dữ liệu VARHS 2012 có các
thành viên trong gia đình đồng là thành viên trong nhóm tôn giáo với nhau. Số liệu
thống kê từ VARHS 2012 còn cho thấy các cá nhân đã tham gia vào nhóm tôn giáo
với thời gian trước đó khá lâu, số người tham gia từ năm 1951 đến 2010 chiếm
98,88% và duy nhất chỉ một người tham gia nhóm tôn giáo vào năm khảo sát 2012.
Hạn chế của dữ liệu là đã không cho thấy sự biến động trong một năm của biến tôn
giáo trong khi mức độ hài lòng về cuộc sống khi có cú sốc rủi ro thay đổi rất nhanh
theo các biến độc lập khác. Kết quả là trong ngắn hạn, sự tác động ngược lại từ biến
hạnh phúc đến tôn giáo chưa có tác động kịp hoặc tác động chưa được ghi nhận từ
những hạn chế ở câu hỏi khảo sát. Như đã phân tích ở trên, số người mến mộ và tin
vào triết lý tôn giáo nhiều hơn số người tham gia thực hành thường xuyên tôn giáo
tại một tổ chức cụ thể. Khi các rủi ro bất ngờ trong cuộc sống xảy ra, các triết lý niềm
tin này có thể giúp cá nhân vượt qua đau khổ. Hoặc ngược lại, từ đau khổ, các cá
nhân tìm đến một nơi nương tựa tâm linh để trả lời cho các câu hỏi mà họ không tìm
được lời giải trong cuộc sống, giúp họ cảm thấy hài lòng hơn. Quá trình này có thể
diễn ra một cách rất có ý nghĩa nhưng không cần thông qua việc có tham gia một tổ
chức tôn giáo chính thức nào hay không. Để đo lường lòng tin vào tôn giáo, các bảng
câu hỏi thường bắt đầu bằng câu hỏi chung “Bạn có tin vào Chúa/Trời/.hay không?”
hoặc chi tiết hơn là đưa ra thang đo từ 1 đến 10 cho mức độ quan trọng của Chúa/Trời
đối với người trả lời (Scheve 2006). Để đo lường mức độ chính xác hơn, tránh độ chủ
quan duy ý chí của người trả lời, một số nghiên cứu đo lường lòng tin vào tôn giáo
của cá nhân thông qua thực nghiệm bằng các trò chơi và các câu hỏi tâm lý, ẩn đi
mục đích chính của cuộc nghiên cứu là gì (Ali Ahmed 2011). Các câu hỏi về tôn giáo
cũng phân chia nhóm tín ngưỡng của người trả lời vì mỗi nhóm tôn giáo có hệ thống
64
tin ngưỡng và những đức tin riêng, nhiều khi là trái ngược nhau trong việc nhìn nhận
về hạnh phúc cuộc sống (Popova 2010). Xem xét tác động ngược của mức độ hài
lòng đến tôn giáo cũng cần được mở rộng theo thời gian qua các năm để nghiên cứu
tác động ảnh hưởng lâu dài giữa hai biến này, tuy nhiên một hạn chế nữa của dữ liệu
VARHS là biến đo lường hài lòng của các cá nhân chỉ lần đầu được điều tra vào năm
2012, các năm trước không có cuộc khảo sát với dữ liệu đầy đủ nào có thể ứng dụng
vào phân tích cùng với bộ dữ liệu VARHS. Kết quả nghiên cứu dữ liệu cắt ngang đã
cho thấy tác động giữa hai biến này trong ngắn hạn là ngoại sinh và không có ý nghĩa
về mặt thống kê.
4.3.4 Tác động của của các biến kiểm soát và các biến độc lập đến khả năng phục
hồi của hộ
Kết quả từ các mô hình hồi quy cho thấy nhiếu điều đặc biệt về các yếu tố tác động
đến khả năng phục hồi sau các cú sốc thu nhập ở Việt nam nói riêng và các nước đang
phát triển nói chung.
Các cú sốc rủi ro: Các cú sốc thu nhập do nguyên nhân từ kinh tế gây ra nhìn chung
không có tác động đến khả năng phục hồi, ngoại trừ ở các hộ thuộc nhóm thu nhập 3.
Các cú sốc do kinh tế gây ra sẽ gia tăng tỉ số giữa khả năng hầu như chưa phục hồi
và phục hồi hoàn
toàn ở các hộ có
thu nhập đầu người cao
trên
13.560.630VND/người/năm. Thiệt hại thu nhập mà các cú sốc về các thành viên trong
hộ mang lại sẽ kéo theo tỉ lệ cách biệt càng tăng không chỉ giữa nhóm hầu như chưa
phục hồi mà còn đối với nhóm đã phục hồi một phần so với nhóm cơ sở.
Các kết quả trên cho thấy với các hộ thu nhập càng cao, các cú sốc rủi ro ít có tác
động đến đời sống bền vững của hộ. Tuy nhiên, đối với các hộ thuộc nhóm thu nhập
cao nhất trong mẫu nghiên cứu, với nguồn thu nhập chính yếu từ các hoạt động kinh
tế, ảnh hưởng từ các cú sốc kinh tế trên diện rộng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cuộc sống, và mất mát về thu nhập mà các hộ này phải gánh chịu có thể lớn hơn so
với các nhóm
thu nhập khác. Đối với các hộ có
thu nhập dưới
6.000.000VND/người/năm, cú sốc ảnh hưởng đến giá trị sống bền vững của hộ nhất
65
là do các thành viên trong hộ gây ra. Với nguồn tài chính hạn hẹp, nguồn vốn con
người là tài sản quan trọng nhất đối với các hộ nghèo này. Những tổn thất do các rủi
ro từ các thành viên trong hộ mang lại sẽ gia tăng cách biệt giữa khả năng hầu như
chưa phục hồi với phục hồi hoàn toàn, cũng như cách biệt giữa khả năng phục hồi
một phần với phục hồi hoàn toàn.
Tổng thiệt hại: Tổng thiệt hại mà hộ phải gánh chịu có ý nghĩa giải thích rất lớn đối
với khả năng phục hồi của hộ nhìn chung ở tất cả các quy mô mẫu và ở cả 2 nhóm
phục hồi so với nhóm cơ sở, ngoại trừ kết quả không có ý nghĩa thống kê ở nhóm
phục hồi một phần so với nhóm cơ sở phục hồi hoàn toàn tại hồi quy 10 phục lục 4.2.
Kết quả này cho thấy, tổng thiệt hại càng tăng thì tỉ lệ phục hồi của các hộ gia đình
sau cú sốc rủi ro càng giảm. Điều này góp phần củng cố giả thiết 1 là các cú sốc rủi
ro tạo ra các chi phí thiệt hại không mong muốn đến các hộ gia đình.
Tình trạng hôn nhân: Tình trạng hôn nhân nhìn chung không có tác động đến khả
năng phục hồi sau các cú sốc ở các hộ. Tuy nhiên, đối với các hộ có thu nhập dưới
ngưỡng nghèo, tình trạng độc thân/ly dị/ly thân sẽ giúp chủ hộ dễ dàng vượt qua các
cú sốc và giảm cách biệt giữa khả năng hầu như chưa phục hồi so với khả năng phục
hồi hoàn toàn.
Số trẻ em từ 3-12 tuổi: Tác động tích cực từ số trẻ em từ 3-12 tuổi trong gia đình sẽ
làm giảm tăng khả năng phục hồi ở đa số các quy mô mẫu. Kết quả này phù hợp với
các nghiên cứu thực nghiệm từ những nghiên cứu trước. Tuy nhiên, đối với các hộ có
thu nhập trên ngưỡng nghèo, số trẻ em từ 3-12 tuổi trong gia đình tuy có tác động
tích cực đến khả năng phục hồi nhưng lại không có ý nghĩa thống kê.
Giới tính: Với chủ hộ là nam giới ở các hộ gia đình có thu nhập dưới ngưỡng nghèo,
cách biệt giữa khả năng hầu như chưa phục hồi và phục hồi hoàn toàn sẽ giảm. Ngoài
ra, ở các nhóm hộ thu nhập khác, khác biệt giữa nam giới và nữ giới là không có ý
nghĩa. Kết quả này cho thấy chủ hộ là nam giới giữ vai trò quan trọng trong nguồn
sinh kế ở các hộ nghèo khi thu nhập của họ chủ yếu dựa vào các công việc vất vả
nặng nhọc.
66
Tuổi: Những gia đình có chủ hộ có tuổi đời càng tăng thì khả năng vượt qua các cú
sốc thu nhập và phục hồi càng lớn. Đối với các nhóm hộ có thu nhập trên ngưỡng
nghèo nhưng dưới mức thu nhập trung vị, tuổi đời của chủ hộ càng lớn càng giúp thu
hẹp khoảng cách giữa khả năng phục hồi một phần và phục hồi hoàn toàn. Đối với
các hộ có thu nhập trên mức trung vị, tuổi đời của chủ hộ sẽ có tác động tích cực đến
khoảng cách giữa khả năng hầu như chưa phục hồi và khả năng phục hồi hoàn toàn.
Tuổi đời càng tăng tương ứng với kinh nghiệm và khả năng ứng phó với các cú sốc
rủi ro càng nhiều là một trong những nguyên nhân giải thích cho tác động tích cực
của biến tuổi này.
Số ngày bị bệnh trong năm: Kết quả bất ngờ từ nhóm hộ có thu nhập dưới ngưỡng
nghèo cho thấy số ngày bị bệnh trong năm càng tăng thì càng thu hẹp tỉ số giữa khả
năng phục hồi hoàn toàn và khả năng hầu như chưa phục hồi. Ngược lại, đối với các
hộ thuộc nhóm thu nhập 2, tình trạng sức khoẻ của chủ hộ càng xấu thì càng nâng tỉ
lệ so sánh giữa khả năng phục hồi một phần và khả năng phục hồi hoàn toàn lên cao.
Số năm đi học: trình độ học vấn của chủ hộ không có ý nghĩa giải thích đến khả năng
phục hồi sau các cú sốc rủi ro của hộ. Trình độ học vấn chỉ có tác động đến khả năng
phục hồi ở các hộ thuộc nhóm thu nhập 2, giúp làm giảm tỉ lệ chênh lệch giữa nhóm
hầu như chưa phục hồi và nhóm đã phục hồi hoàn toàn.
Thu nhập bình quân đầu người: Mức thu nhập trung bình của mỗi cá nhân trong hộ
đặc biệt có ý nghĩa giải thích đến khả năng phục hồi của hộ ở quy mô toàn mẫu. Thu
nhập bình quân càng tăng thì khả năng phục hồi sau các cú sốc càng cao. Tuy nhiên
tác động này không thể hiện rõ ràng khi xem xét ở từng nhóm thu nhập.
Số lần tham dự đám cưới: yếu tố nguồn vốn xã hội không có ý nghĩa giải thích đến
khả năng phục hồi
Các hoạt động đối phó: Trong các hoạt động đối phó thích ứng với rủi ro, sử dụng
các nguồn lực sẵn có tại hộ gia đình bao gồm nhân lực và vật lực là biện pháp có hiệu
quả duy nhất đối với các hộ thuộc nhóm thu nhập 3. Biện pháp này cũng tác động
67
mạnh đến hiệu quả chung của toàn quy mô mẫu, giúp giảm tỉ lệ khả năng hầu như
chưa phục hồi đối với khả năng đã phục hồi hoàn toàn. Trong khi đó, biện pháp vay
mượn mang lại hiệu quả cao nhất cho quy mô toàn mẫu trong việc kéo giảm tỉ lệ giữa
khả năng hầu như chưa phục hồi về gần hơn với tỉ lệ của khả năng đã phục hồi. Tuy
nhiên khi phân chia theo các nhóm thu nhập, biện pháp này lại không có ý nghĩa giải
thích trong từng nhóm nhỏ.
Đối với các hộ thuộc nhóm thu nhập 2, nhận được hỗ trợ từ bên ngoài lại là biện pháp
đối phó với rủi ro mang lại tác dụng ngược ở mức ý nghĩa 10%. Càng nhận được
nhiều hỗ trợ từ bên ngoài thì khả năng phục hồi hoàn toàn càng ít và khả năng phục
hồi một phần sẽ tăng lên.
4.3.5 Tác động của của các biến kiểm soát và các biến độc lập đến mức độ hài
lòng của cá nhân.
Tổng tổn thất: Tổn thất từ các cú sốc rủi ro không ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc
của các nhân ở tất cả các quy mô mẫu. Kết quả này trái với kết quả tìm được ở phần
thống kê mô tả. Thực hiện kiểm tra sự tương quan giữa cặp biến tổn thất và mức độ
hài lòng cũng không tìm thấy ý nghĩa thống kê. Như vậy, mẫu đang nghiên cứu không
thoả mãn giả thiết 1 về tác động tiêu cực đến tinh thần khi một cú sốc rủi ro xảy ra.
Nguyên nhân có thể được giải thích từ lý thuyết hữu dụng kinh nghiệm của Kahneman
(1997): khi cá nhân đã quen với các rủi ro mất mát, kinh nghiệm từ sự đau khổ này
sẽ có tác động ít hoặc không có tác động đến mức độ hữu dụng về cuộc sống của cá
nhân đó.
Số lần tham dự đám cưới: Vốn xã hội một lần nữa cho thấy không có ý nghĩa tác
động ở cả hai mô hình hồi quy. Việc có mối quan hệ rộng không đồng nghĩa với mức
độ tự đánh giá về hài lòng của mỗi cá nhân tăng lên.
Thu nhập bình quân đầu người: Tác động của thu nhập rất mạnh và có ý nghĩa rất
cao đến mức độ tự hài lòng về cuộc sống của mỗi cá nhân. Trên tất cả các quy mô
mẫu, biến thu nhập bình quân đầu người đều có tác động tích cực đến biến phụ thuộc.
68
Số năm đi học: Trình độ học vấn không có ý nghĩa giải thích đối với mức độ hài
lòng.
Số trẻ em từ 3-12 tuổi: Số trẻ em thuộc độ tuổi thiếu niên và nhi đồng trong gia đình
không đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định mức độ hài lòng của các các
nhân. Kết quả này trái ngược với các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về vai trò
của trẻ em trong gia đình đến mức độ hạnh phúc của các cá nhân.
Giới tính: Tác động của biến Nam giới có tác động tích cực đến biến phụ thuộc, tuy
nhiên tác động này chỉ có ý nghĩa ở quy mô tổng mẫu và nhóm thu nhập thấp. Kết
quả này có thể ảnh hưởng từ những quan niệm truyền thống về rất nhiều những trách
nhiệm gia đình và xã hội mà phụ nữ phải đảm nhận kèm theo tình trạng thấp bé về
vai vế và tiếng nói trong gia đình Việt Nam truyền thống. Ở các hộ có thu nhập cao,
tác động của giới tính đến mức độ hài lòng không được phân biệt một cách có ý nghĩa.
Nhìn chung khi phụ nữ có thu nhập tăng cao thì cũng nâng cao được vai trò chủ động,
ít bị phụ thuộc vào người đàn ông và khả năng tự định đoạt quyết định cao hơn, có
thể dẫn đến mức độ hài lòng cao hơn trong cuộc sống, không phân biệt với nam giới.
Tuổi: Nhìn chung trên bình diện toàn mẫu, các cá nhân có tuổi đời càng cao thì càng
ít hạnh phúc hơn. Và tác động này chịu ảnh hưởng lớn từ nhóm có thu nhập cao, với
mức ý nghĩa 10%.
Tuổi bình phương: Kết quả hồi quy cho thấy biến tuổi có tác động đến mức hạnh
phúc theo hình dạng chữ U, mặc dù kết quả này chỉ có ý nghĩa ở nhóm hộ có thu nhập
cao. Mối quan hệ giữa biến tuổi bình phương và mức độ hài lòng theo hình dạng U
đã được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm trước đây (Blanchflower và
cộng sự 2008)
Số ngày bị bệnh trong năm: Tình trạng sức khoẻ có ảnh hưởng lớn đến mức độ hài
lòng, xét trên quy mô toàn mẫu và các hộ có thu nhập thấp. Kết quả hồi quy cho thấy
số ngày bị bệnh trong năm tăng lên đồng nghĩa với mức độ hài lòng về cuộc sống ở
mỗi cá nhân giảm đi.
69
Tình trạng hôn nhân: Đa số các cá nhân đang sống chung với người bạn đời thường
cảm thấy hạnh phúc hơn, mặc dù tác động này chỉ có ý nghĩa ở các nhóm hộ có mức
thu nhập trên mức trung vị 55% toàn mẫu. Kết quả này phản ánh những giá trị truyền
thống, hướng đến gia đình trong cách suy nghĩ của người Việt Nam, xem gia đình là
nền tảng cho cuộc sống.
70
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN
5.1 Kết luận
Các nhà kinh tế học đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến vai trò bảo hiểm của tôn giáo
đến các cú sốc rủi ro mà hộ gia đình gặp phải . Trong bài nghiên cứu này, vai trò bảo
hiểm của tôn giáo đến các hộ gia đình nông thôn Việt Nam được xem xét ở ba khía
cạnh lớn: (1) cú sốc rủi ro khi xảy ra có gây thiệt hại đến vật chất và tinh thần của các
hộ gia đình/cá nhân hay không, (2) tôn giáo có đóng vai trò như một bước đệm bảo
hiểm đến khả năng phục hồi và mức độ hài lòng về cuộc sống của các cá nhân trước
các cú sốc tiêu cực hay không, (3) tôn giáo có mang lại lợi ích tinh thần lớn hơn cho
các các nhân có thu nhập thấp hay không.
Tác động của tôn giáo đến khả năng phục hồi được xem xét qua biến trung gian mức
tiết kiệm của hộ trong 1 năm qua. Kết quả cho thấy tôn giáo không có ý nghĩa tác
động đến mức tiết kiệm ở tổng mẫu, nhóm hộ có thu nhập đầu người từ
6.000.000VND/năm
trở xuống, nhóm hộ có
thu nhập đầu người
trên
6.000.000VND/năm và dưới 13.560.630VND/năm; nhưng lại có ý nghĩa ở mức 10%
với các hộ có mức thu nhập đầu người trên 13.560.630VND/năm. Đặc biệt, mức tiết
kiệm lại rất có ý nghĩa với khả năng phục hồi của hộ ở quy mô toàn mẫu. Đây là một
trong những yếu tố cơ bản trong lý thuyết nghiên cứu về khả năng phục hồi của cá
nhân nói riêng và nền kinh tế nói chung. Mức tiết kiệm như một hình thức tự bảo
hiểm, bảo đảm cho khả năng phục hồi của hộ cao hơn. Tuy nhiên, tương ứng các
nhóm hộ có mức thu nhập đầu người trên 13.560.630VND/năm, vai trò tác động của
mức tiết kiệm đến khả năng phục hồi chỉ có ý nghĩa khi so sánh giữa các nhóm hộ
hầu như phục hồi và các nhóm hộ đã phục hồi hoàn toàn sau các cú sốc.
Tác động của tôn giáo như một bước đệm bảo hiểm cho mức độ hài lòng của mỗi cá
nhân trước các cú sốc rủi ro đã được nghiên cứu bởi nhiều nhà kinh tế học khác nhau
(Clark và Lelkes 2006; Lelkes 2006; Dehejia 2007, Scheve 2006, Popova 2010). Bài
nghiên cứu này xem xét tác động nội sinh trong phương trình mức độ hài lòng và xem
xét tổn thất từ các rủi ro có ảnh hưởng như thế nào đến mức độ hài lòng của mỗi cá
71
nhân. Trong kết luận của các nghiên cứu trước đây, không ít mô hình bị chệch do
không xử lý được vấn đề nội sinh của biến tôn giáo. Vì thế, bài nghiên cứu giải quyết
vấn đề nội sinh của tôn giáo thông qua biến công cụ là số thôn có các nhóm hoạt động
tôn giáo trong xã, được xem là có tác động dương đến mức độ tham gia tôn giáo của
các hộ gia đình sống trong xã. Tác động của tôn giáo đến mức độ hài lòng của cá
nhân chưa tìm thấy ý nghĩa thống kê trong bài nghiên cứu này. Tác động nội sinh của
biến tôn giáo đến hài lòng được đưa vào phân tích thông qua biến công cụ là số thôn
có nhóm tôn giáo trong xã cũng không có ý nghĩa thống kê ở tất cả các quy mô mẫu.
Nguyên nhân có thể từ hạn chế của bộ dữ liệu ở số liệu tôn giáo đã phản ánh chưa
đầy đủ độ lớn và mức độ thay đổi theo thời gian của biến này.
Nhìn chung, vai trò bảo hiểm của tôn giáo ở mức độ vật chất còn hạn chế trong nhóm
thu nhập cao và hoàn toàn chưa có bằng chứng thống kê ở mức độ tinh thần. Khả
năng bảo hiểm cho các hộ có thu nhập thấp cũng chưa đạt được như trong giả thiết
ban đầu đã đề ra. Ba giả thiết cơ bản về vai trò bảo hiểm của tôn giáo đã không được
thoả mãn.
Tổn thất từ các rủi ro lại cho thấy kết quả không tác động đến mức độ hài lòng của
mỗi các nhân. Lý thuyết hữu dụng kinh nghiệm của Kahneman (1997) có thể được
ứng dụng để giải thích hiện tượng này như sau: khi cá nhân đã quen với các rủi ro
mất mát, ảnh hưởng từ sự đau khổ này sẽ có tác động ít hoặc không có tác động đến
mức độ hài lòng về cuộc sống của cá nhân đó.
5.2 Gợi ý chính sách
Tác động có của các biến đến khả năng phục hồi của các hộ và mức độ hài lòng của
mỗi cá nhân sau các cú sốc thu nhập có ý nghĩa tham khảo rất quan trọng đối với bản
thân người dân và các nhà hoạch định chính sách kinh tế
5.2.1 Về phía chính phủ
Khuyến khích tiết kiệm trong nhân dân vì đây là một trong những nguồn lực tự bảo
hiểm quan trọng và có ý nghĩa nhất đối với người dân.
72
Khuyến khích sự tham gia các hội nhóm tôn giáo trong nhân dân để nâng cao khả
năng tự bảo hiểm trước các cú sốc rủi ro bất ngờ, đặc biệt đối với nhóm các hộ có thu
nhập cao.
Đối với nhóm hộ có thu nhập dưới ngưỡng nghèo:
Đây là những hộ đặc biệt nhạy cảm và dễ bị tổn thương nhất khi có các cú sốc rủi ro
xảy ra, các nhà hoạch định chính sách cần quan tâm đến đời sống gia đình của người
dân hơn, giúp đỡ cần thiết để giúp họ giảm thiểu những rủi ro mất mát đặc biệt liên
quan đến các thành viên của hộ gia đình, có tác động tiêu cực đến hộ.
Trẻ em từ 3-12 tuổi có ý nghĩa tác động đến khả năng phục hồi sau các cú sốc ở các
gia đình nghèo, chính phủ cần mở rộng các chính sách chăm sóc trẻ em toàn diện để
tác động tích cực đến các hộ gia đình có mức thu nhập bình quân dưới ngưỡng nghèo
này.
Trong mục tiêu nâng cao mức độ hài lòng của người dân nghèo đối với cuộc sống,
chính phủ cần quan tâm đến các chính sách giúp tăng thêm thu nhập cho người dân.
Chính phủ cũng nên quan tâm đến các chương trình chăm lo sức khoẻ thể chất cho
người dân nghèo, vì tỉ lệ bệnh tật gia tăng có tác động ảnh hưởng tiêu cực đến sức
khoẻ tinh thần của người dân.
Phụ nữ là những đối tượng dễ bị tổn thương và khó phục hồi sau các cú sốc cả về mặt
vật chất và tinh thần hơn nam giới, xét trong phạm vi các hộ nghèo. Chính phủ cũng
nên có các chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho nữ giới tại các vùng nông thôn.
5.2.2 Về phía các cá nhân/hộ gia đình nghèo
Để có thể tự bảo hiểm cho gia đình và chính bản thân trước các cú sốc tiêu cực bất
ngờ trong cuộc sống, các hộ gia đình nghèo có thể quan tâm hơn đến các yếu tố sau
đây:
- Hạn chế những rủi ro liên quan đến các thành viên của hộ
- Nâng cao mức thu nhập.
73
- Chăm lo sức khoẻ bản thân.
5.3 Hạn chế của đề tài
Hạn chế của bài nghiên cứu này là chưa tính đến tổng tiết kiệm và dự trữ tiết kiệm từ
các nguồn tài sản có tính thanh khoản chậm. Trong phân tích hồi quy, chưa thực hiện
kiểm tra được mối tương quan giữa các sai số của hai phương trình độc lập tiết kiệm
– tôn giáo và khả năng phục hồi – tôn giáo theo phương pháp hồi quy OLS -
multinomial Probit và chưa kiểm định được tỉ lệ khả dĩ của mô hình Ordered Probit
trong hồi quy hệ phương trình. Bài nghiên cứu cũng có hạn chế về số liệu các hộ tham
gia nhóm tôn giáo, dữ liệu vẫn chưa phản ánh đúng tình hình thực tế tại các hộ nông
thôn Việt Nam. Các nghiên cứu tiếp theo cần khai thác số liệu chính xác và hiệu quả
hơn (có thể bằng cách thực hiện khảo sát và lấy mẫu trực tiếp để) thông qua bộ câu
hỏi phản ánh đúng hơn tình trạng tôn giáo của người dân. Số liệu cũng cần được cập
nhật rõ ràng hơn các nhóm tôn giáo cụ thể của mỗi cá nhân, điều này giúp giải thích
các hành vi của cá nhân căn cứ trên tôn giáo của họ. Phương pháp nghiên cứu dữ liệu
cắt ngang cũng chưa phản ánh đầy đủ các yếu tố thay đổi theo thời gian. Đây cũng là
một hướng cần cải thiện và phát triển thêm từ bài viết này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tiếng Việt
Carol Newman, L.V.N.K. Fiona Wainwright Lưu Đức Khải Nguyễn Lê Hoa Bùi Thị Uyên,
2012. Các cú sốc thu nhập và Các chiến lược thích ứng với rủi ro của hộ gia đình:
Vai trò của bảo hiểm chính thức ở nông thôn Việt Nam, Đại sứ quán Hoàng gia Đan
Mạch tại Việt Nam - Chương trình Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn (ARD).
Bùi Thế Cường, 1990. Vấn đề tổ chức lại hệ thống đảm bảo xã hội ở nông thôn trong quá
trình đổi mới kinh tế, Viện Xã hội học.
Mai Ngọc Cường, 2013. Về phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020.
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 192 tháng 6/2013.
Đỗ Ngọc Huỳnh, 2011. Cải cách tài chính an sinh xã hội hướng đến mục tiêu phát triển
bền vững ở Việt Nam. Hội thảo Kinh tế Việt Nam: Những vấn đề đặt ra trong trung
và dài hạn tại Cần Thơ.
Trần Tiến Khai, 2014. Việc làm phi nông nghiệp. In Tập bài giảng chuyển đổi nông thôn.
Vũ Trọng Khải, 2013. Vài ý kiến về vấn đề nông dân và an sinh xã hội: Định hướng
nghiên cứu, Viện Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp Miền Nam.
Phạm Khánh Nam, 2013. Thái độ của nông dân đối với rủi ro lũ lụt tại Việt Nam: gợi ý cho
ngành bảo hiểm. In Seminar Trao đổi học thuật tại trường Đại học Mở TPHCM.
Ngô Thị Phượng, 2013. Tiếp cận hệ thống an sinh xã hội: Sự chênh lệch giữa cư dân khu
vực thành thị và nông thôn ở Việt nam hiện nay. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 1 (2013), pp.27–34.
Nguyễn Tuấn Sơn, 2008. Nghiên cứu vận dụng phương pháp chỉ số trong bảo hiểm nông
nghiệp Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Phát triển, Tập VI năm 2008, số 4, pp.367–
374.
Tarp, A.M.& F., 2012. Biến động phúc lợi ở nông thôn Việt Nam 2006 đến 2010, Viện
nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương - Tóm tắt chính sách tháng 3 của năm 2012.
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2011. Giảm nghèo ở Việt Nam: Thành tựu và Thách
thức, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Tổng cục Thống kê, 2010. Niên giám thống kê 2010. Hà Nội:Nhà xuất bản Thống kê.
Danh mục tài liệu tiếng Anh
(CARRI), C.& R.R.I., 2013. Definitions of community resilience: an analysis, Community
& Regional Resilience Institute (CARRI).
Adger, W. N. (2006). Vulnerability. Global Environmental Change 16. 268-281
Akter, S., Mallick, B. (2013) The poverty-vulnerability-resilience nexus: Evidence from
Bangladesh. Ecological Economics 96: 114–124
Alesina, A., Di Tella, R., MacCulloch, R., 2004. Inequality and Happiness: Are Europeans
and Americans Different? The Journal of Public Economics, 88, 2009-2042.
Ali Ahmed, M.H., 2011. The effect of subtle religious representations on cooperation.
International Journal of Social Economics, Vol. 38 No. 11, pp.900–910.
Aloys Wijngaards, E.-M.S., 2012. Meaning of Life: Exploring the Relation between
Economics and Religion. Review Of Social Economy, Vol. LXX, No. 1, pp.109–
130.
Lee-Ann Fenge, S.E. Sarah Hean BSc MSc PhD PGCert Louise Worswick Charlie
Wilkinson Stella Fearnley, 2012. The impact of the economic recession on well-
being and quality of life of older people. Health and Social Care in the Community,
Vol. 20(6), pp.617–624.
Azzi, C. & Ehrenberg, R. G. (1975). Household allocation of time and church attendance
[Electronic version]. Journal of Political Economy 83(1), 27-56.
L. Bettendorf, E. Dijkgraaf., 2008. Religion and Income, Tinbergen Institute.
Becchetti, L., Castriota, S., and Giuntella, O. (2006). The Effects of Age and Job
Protection on the Welfare Costs of Inflation and Unemployment: a Source of ECB
Anti-inflation Bias? European Journal of Political Economy, 26: 137-46.
Blanchflower, D.G. and Andrew J. Oswald (1994), "Estimating a wage curve for Britain,
1973-1990", Economic Journal, 104, pp. 1025-1043.
Blanchflower, David G. & Oswald, Andrew J., 2004. Well-being over Time in Britain and
the USA. The Journal of Pucblic Economics, 88, 1359-1386.
Blanchflower, David G. & Oswald, Andrew J., 2008. "Is well-being U-shaped over the life
cycle?," Social Science & Medicine, Elsevier, vol. 66(8), pages 1733-1749,
Bowles, S. and H. Gintis, , 2002. Social Capital and Community Governance, Economic
Journal, 112, 419–36
Brouwer, R., Akter, S., Brander, L., Haque, E., 2008. Economic valuation of flood risk
exposure and reduction in a severely flood prone developing country. Environment and
Development Economics 14: 397–417.
Cameron, A., Trivedi, P. 2005. Microeconometrics: Methods and Applications.
Cambridge: Cambridge University Press.
Carol Newman, F.T. & Broeck, K.V.D., Social capital and savings behavior: Evidence
from Vietnam.
Carol Newman, K.V.D.B. Finn Tarp, 2014. Social Capital, Network effects, and savings in
rural Vietnam. Review of Income and Wealth, Series 60, Number 1, pp.79–99.
Carroll, Christopher Rhee Byung-Kun Rhee Changyong. 1994. “Are there cultural effects
on saving? Some cross-sectional evidence.” Quarterly Journal of Economics.
109(3): 685–699
Cervellati, Matteo, Joan Esteban, and Laurence Kranich. 2004. Redistributive Taxation
with Endogenous Sentiments. Mimeo, Pompeu Fabra, Barcelona.
Chen, D.L., 2003. Economic Distress and Religious Intensity: Evidence from Islamic
Resurgence During the Indonesian Financial Crisis. MIT.
Chen, Daniel. 2004. “Club Goods and Group Identity: Evidence from Islamic Resurgence
During the Indonesian Financial Crisis.” Mimeo, University of Chicago.
Chen, Daniel, and Jo T. Lind. 2005. “The Political Economy of Beliefs: Why Fiscal and
Social Conser- vatives/Liberals Come Hand-in-Hand.” Mimeo, University of
Chicago.
Clark, A, O.Lelkes., 2005. Deliver us from evil: religion as insurance. Paris-Jourdan
Sciences Economiques, Working Paper N° 2005 – 43.
Clark, A, O.Lelkes., 2009. Let Us Pray: Religious Interactions in Life Satisfaction. Paris
School of Economics Working Paper # 2009-01
Clark, A. and Oswald, A., 1994. Unhappiness and Unemployment. Economic Journal 104:
648–59.
Clark, A.E., and Oswald, A.J. (1996). Satisfaction and Comparison Income. Journal
of Public Economics, 61: 359-81
Cutter, L., S., Lindsey Barnes, Melissa Berry, Christopher Burton, Elijah Evans, Eric Tate,
Jennifer Webb, 2008. A place-based model for understanding community resilience
to natural disasters. Global Environmental Change. Volume 18, Issue 4, October
2008, Pages 598–606.
Coate, S. and M. Ravallion, 1993. “Reciprocity Without Commitment: Characterization
and Performance of Informal Insurance Arrangements,” Journal of Development
Economics, 40, 1–24
Costa, P.T., and McCrae, R.R. (1988). From Catalog to Classification: Murray’s Needs and
the Five-Factor Model. Journal of Personality and Social Psychology, 55(2): 258-
65
D.Dixon, H., 1997. Controversy economics and happiness. The Economics Journal, 107,
pp.1812–1814.
Daniel J. Benjamin, G.W.F. James J. Choi, 2010. Religious Identity And Economic
Behavior. NBER Working Paper Series, No. 15925.
Deaton, A., 1991. “Saving and Liquidity Constraints,” Econometrica, 59, 1221–48.
Deaton, A. 2008. Income, Health and Wellbeing around the World: Evidence from the
Gallup World Poll. The Journal of Economic Perspectives, 22(2): 53-72.
Dehejia, Rajeev,Thomas DeLeire, Erzo F. P. Luttmer, and Roberta Gatti. 2007. “Insuring
Consumption and Happiness through Religious Organizations.” Journal of Public
Economics 91 (2007) 259–279.
Deirdre Shaw, J.T., 2013. Consuming spirituality: the pleasure of uncertainty. European
Journal of Marketing, Vol. 47 No. 3/4, pp.557–573.
Denney, S., 2006. Religion and Dissent in Vietnam. Journal of Interdisciplinary Studies,
vol. 18, pp.136–152.
Di Tella, R., MacCulloch, R., Oswald, A. (2001). Preferences over Inflation and
Unemployment: Evidence from Surveys of Happiness. The American Economic
Review, 91, 335-341.
Di Tella, R., MacCulloch, R., Oswald, A. (2003). The Macroeconomics of Happiness. The
Review of Economics and Statistics, 89(2): 221-233.
Diener, E., & Oishi, S. (2000). Money and happiness: Income and subjective well-being
across nations. In E. Diener & E. M. Suh (Eds.). Culture and subjective well-being
(pp. 185-218). Cambridge, MA: MIT Press.
Diener, E., & Seligman, M. E. P. (2004). Beyond money: Toward an economy of well-
being. Psychological Science in the Public Interest, 5, 1-31.
Dlamini, T., Lewis., L., and Matjomane M., 2014. The Role of Microfinance Groups to
Build Women’s Empowerment and Strengthen Community Resilience. Community
resilience and vulnerability in South Africa The State of Local Governance
Publication (2014)
Dolphin, T., 2009. Saving and Asset-Building in Low-Income Households. The Institute
for Public Policy Research
Dynan, K., Ravina, E., 2007. Increasing Income Inequality, External Habits, and Self-
Reported Happiness. The American Economic Review, 97(2), 226-231.
Easterlin, R., 1994. Does Economic Growth Improve the Human Lot? Some Empirical
Evidence. In Nations and Households in Economic Growth: Essays in Honor of
Moses Abramovitz. P. David and M.Reder, eds. New York and London: Academic
Press, 98-125.
Easterlin, R., 1995. Will Raising the Incomes of All Increase the Happiness of All? The
Journal of Economic Behavior and Organization, 27, 35-47.
Easterlin, R., (2001). Income and Happiness: Towards a Unified Theory. The Economic
Journal Volume 111, Issue 473, pages 465–484, July 2001
Easterlin, R. (2003). Explaining Happiness. PNAS, 100(19): 11176-83
Easterlin, R., 2009. Lost in Transition: Life Satisfaction on the Road to Capitalism. The
Journal of Economic Behavior and Organization, 71, 130-145.
Eglin, R., 2013. Addressing Woundedness, Resilience and Development through
Networked Healing Spaces. Community resilience and vulnerability in South Africa
The State of Local Governance Publication (2014)
Ellison, C. (1991). Religious Involvement and Subjective Well-Being. The Journal of
Health and Social Behavior, 32(1), 80-99
Esping-Anderson, Gosta. 1990. The Three Worlds of Welfare Capitalism. Princeton, NJ:
Princeton University Press.
Fafchamps, M., C. R. Udry, and K. Czukas, “Drought and Saving in West Africa: Are
Livestock a Buffer Stock?” Journal of Development Economics, 55, 273–305,
1998.
Fafchamps, M., 2006, “Development and Social Capital,” Journal of Development Studies,
42, 118–98,
Ferrer-i-Carbonell, A.,, 2005. Income and Well-being: an Empirical Analysis of the
Comparison Income Effect. The Journal of Pucblic Economics, 89, 997-1019.
Fishburn, P.C., 1970. Utility Theory for Decision Making, Research Analysis Corporation
(RAC),.
Folkman, Susan; Lazarus, Richard S.; Dunkel-Schetter, Christine; DeLongis, Anita; Gruen,
Rand J (1986). Dynamics of a stressful encounter: Cognitive appraisal, coping, and
encounter outcomes. Journal of Personality and Social Psychology, Vol 50(5), May
1986, 992-1003
Forgette, R., Boening, M.V., 2010. Assessing Community Socio-Economic Resilience to
Natural Disasters. SERP Research Report
Foster, A. D. and M. Rosenzweig, 2001. “Imperfect Commitment, Altruism and the
Family: Evidence from Transfer Behaviour in Low-Income Rural Areas,” Review
of Economics and Statistics, 83, 389–407,
Frey, B., Stutzer, A., 2000. Happiness, Economy and Institutions. The Economic Journal,
110(446), 918-938.
Gerdtham, U., Johannesson, M., 2001. The Relationship between Happiness, Health, and
Socio-Economic Factors: Results Based on Swedish Microdata. The Journal of
Socio-Economics, 30, 553-557.
Glaeser, Edward L., and Bruce I. Sacerdote. 2008. Education and Religion. Journal of
Human Capital. 2: 188-215.
Gill, A. & Lundsgaarde, E., 2004. State Welfare Spending and Religiosity : A Cross-
National Analysis. Rationality and Society, Vol. 16(4), pp.399–436.
Graham, C., & Crown, S., (2014). Religion and wellbeing around the world: Social
purpose, social time, or social insurance? International Journal of Wellbeing, 4(1),
1-27. doi:10.5502/ijw.v4i1.1
Gruber, J., 2005. Religious Market Structure, Religious Participation, and Outcomes: Is
Religion Good for You? Advances in Economic Analysis and Policy, 5(1), 1454-
Guriev, S., Zhuravskaya, E., 2009. (Un)Happiness in Transition. The Journal of Economic
Perspectives, 23(2), 204-221.
Hadaway, C., 1978. Life Satisfaction and Religion: A Re-analysis. Social Forces, 57(2),
636-643.
Hagerty, M R. & Veenhoven, R. (2003). Wealth and happiness revisited: Growing national
income does go with greater happiness. Social Indicators Research, vol. 64, pp. 1-
27
Hasan, Mohammad Monirul. Climate Change Induced Marginality: Households’
Vulnerability in the Meal Consumption Frequencies. American Journal of
Environmental Protection. Vol. 3, No. 3, 2014, pp. 103-112. doi:
10.11648/j.ajep.20140303.11
Hausken, K., 1996. Self-interest and sympathy in economic behaviour. International
Journal of Social Economics, Vol. 23.7, pp.4–24.
Hartog, J., and Oosterbeek, H. (1998). Health, Wealth and Happiness: Why Pursue
a Higher Education? Economics of Education Review, 17(3): 245-56.
Hayo, B., and Seifert, W. (2003). Subjective Economic Well-being in Eastern Europe.
Journal of Economic Psychology, 24: 329-348.
Helliwell, J., Layard, R., and Sachs, J. (2012). World Happiness Report. Colombia: Earth
Institute
Hevia, C., On the Allocation of Time to Spirituality: Health, the Value of Life and other
results.
Hungerman, Daniel M. 2005. Are Church and State Substitutes? Evidence from the 1996
Welfare Reform. Journal of Public Economics 89: 2245-2267.
Holling, C. S. (1973) Resilience and stability of ecological systems. Annual Review of
Ecology and Systematics, 4: 1–23.
Holling, C. S. (1996) Engineering resilience versus ecological resilience. In P. Schulze
(ed.) Engineering within Ecological Constraints, pp. 31–44. Washington, DC:
National Academy Press.
Holling, C. S. (2001) Understanding the complexity of economic, ecological and social
systems. Ecosystems, 4: 390–405.
Hoskins, J.A., What Are Vietnam’s Indigenous Religions? , pp.3–6.
Iannaccone, L. r., 1998. Introduction to the Economics of Religion. Journal of Economic
Literature, Vol. XXXVI, pp.1465–1496.
Iannaccone, L. r., 1995a. Risk, Rationality, and Regilious Portfolios. Economic Inquiry,
Vol. XXXIII, pp.285–295.
Iannaccone, L. r., 1995b. Voodoo Economics? Reviewing the Rational Choice Approach to
Religion. Journal for the Scientific Study of Religion, Vol. 34(I), pp.76–89.
Inglehart, R., and Klingemann, H.D. (2000). Genes, Culture and Happiness. Cambridge,
MA: MIT Press
Jahoda, Marie, 1981. Work, employment, and unemployment: Values, theories, and
approaches in social research. American Psychologist, Vol 36(2), Feb 1981, 184-
191
Janssen, M. A. and M. Scheffer. 2004. Overexploitation of renewable resources by ancient
societies and the role of sunk-cost effects. Ecology and Society 9(1): 6
Jong, E. de, 2008. Religious Values and Economic Growth: A review and assessment of
recent studies. NiCE Working Paper, 08-111.
Keyes, Ch. F., Laurel Kendall & H. Hardacre (Eds.). (1994). Introduction: Contested
visions of community in East and Southeast Asia. In Ch. F. Keyes, L. Kendall & H.
Hardacre (Eds.), Asian Visions of Authority: Religion and the Modern States of East and
Southeast Asia. Honolulu University of Hawaii Press
Helliwell, J., Layard, R., and Sachs, J. (2012). World Happiness Report. Colombia: Earth
Institute.
Khanemann, D., and Deaton, A. (2010). High Income Improves Evaluation of Life
But Not Emotional Well-being. PNAS, 107(38): 16489-93.
Klaubert, A., 2010. Striving for savings: religion and individual economic behavior,
University of Lüneburg Working Paper Series in Economics, No. 162.
Knight, J., and Guntilaka, R. (2010). The Rural-Urban Divide in China: Income but
Not Happiness? The Journal of Development Studies, 46(3): 506-34.
Kofinas, G.P. & F. Stuart Chapin, I., 2009. Sustaining Livelihoods and Human Well-Being
during Social–Ecological Change. Principles of Ecosystem Stewardship, DOI
10.1007/978-0-387-73033-2 3.
Kohei Kubota, F.O. Charles Yuji Horioka Akiko Kamesaka Masao Ogaki, 2011. Cultures,
Worldviews, and Intergenerational Altruism, National Bureau of Economic
Research Japan Project Meeting.
Lansing Stephen J., 2006.Perfect Order. Recognizing Complexity in Bali, Princeton
University Press
Konow, James and Earley, Joseph (2007): The Hedonistic Paradox: Is Homo Economicus
Happier? Published in: Journal of Public Economics , Vol. 92, No. 1-2 (February
2008): pp. 1-33
Latin America, T.E.C. for & Caribbean (ECLAC), 2011. Study on the vulnerability and
resilience of Caribbean Small Island Developing States (SIDS), United Nations.
Layard, R., 2005, Happiness: Lessons from a New Science, Penguin Books, London.
Layard, R. (2006). Happiness and Public Policy: A Challenge to the Profession. The
Economic Journal, 116: 24-33.
Lehrer, E.L., 2008. The role of religion in economic and demographic behavior in the
United States: a review of the recent literature, IZA Discussion Papers, No. 3541.
Lelkes, O., 2006. Tasting Freedom: Happiness, Religion and Economic Transition. The
Journal of Economic Behavior and Organization, 59, 173-194.
León, A.K., 2013. Religion and Economic Outcomes – Household Savings Behavior in the
USA, University of Lüneburg Working Paper Series in Economics.
Liên, C.T.T., 2013. Communist State and Religious Policy in Vietnam: A Historical
Perspective. Hague Journal on the Rule of Law, vol. 5, pp.229–252.
Ligon, E., J. P. Thomas, and T. Worrall, 2002. “Informal Insurance Arrangements with
Limited Commitment: Theory and Evidence from Village Economies,” Review of
Economic Studies, 69, 209–44,
Lino Briguglio & Vella, S., 2008. Economic Vulnerability and Resilience. World Institute
for Development Economics Research, Research Paper No. 2008/55.
Lino Briguglio, N.F. Gordon Cordina Stephanie Bugeja, Conceptualizing and measuring
economic resilience.
Luttmer, E., 2005. Neighbors as Negatives: Relative Earnings and Well-being. The
Quarterly Journal of Ecoomics, 120(3), 963-1002.
Lykken, D. (1999). Happiness: What Studies on Twins Show us About Nature, Nurture,
and the Happiness Set-point. New York: Golden Books
Lyubomirsky, S., Sheldon, K. M., & Schkade, D. (2005). Pursuing happiness: The
architecture of sustainable change. Review of General Psychology, 9, 111-131
Garbero, A., and R. Muttarak. 2013. Impacts of the 2010 droughts and floods on
community welfare in rural Thailand: differential effects of village educational
attainment. Ecology and Society 18(4): 27
Gersovitz, M., “Saving and Development,” in H. Chenery and T. N. Srinivasan (eds),
Handbook of Development Economics, Vol. 2, North-Holland, New York, 1988.
Guiso Luigi, L.Z. Paola Sapienza, 2003. People’s opium? Religion and economic attitudes.
Journal of Monetary Economics, Vol. 50, pp.225–282.
Guiso, Luigi, Paola Sapienza, and Luigi Zingales. 2006. “Does culture affect economic
outcomes?” Journal of Economic Perspectives. 20(2).
Gurin, G., Veroff, J., and Field, S. (1960). Americans View Their Mental Health. New
York: Basic.
M. Mizanur Rahman, “Engaging the Extreme Poor People with Private Sector for
Livelihood Resilience.” American Journal of Rural Development, vol. 2, no. 4
(2014): 59-67. doi: 10.12691/ajrd-2-4-1.
Martin, R. L., Sunley, P. J. (2007) Complexity thinking and evolutionary economic
geography. Journal of Economic Geography, 7: 16–45.
Martin, R., 2012. Regional economic resilience, hysteresis and recessionary shocks.
Journal of Economic Geography, Vol. 12, pp.1–32.
Martin-Breen, P. & Anderies, J.M., 2011. Resilience: A Literature Review, The Bellagio
Initiative The Future of Philanthropy and Development in the Pursuit of Human
Wellbeing.
Maslow, A. H. (1943). A Theory of Human Motivation. Psychological Review, 50(4), 370-
396.
McCleary, Rachel 2007. Salvation, Damnation, and Economic Incentives. Journal of
Contemporary Religion. 22(1): 49–74.
McGlade, J., Murray, R., Baldwin, J., Ridgway, K., Winder, B. (2006) Industrial resilience
and decline: a co-evolutionary framework. In E. Garnsey, J. McGlade (eds)
Complexity and Co-Evolution: Continuity and Change in Socio-economic Systems,
pp. 147–176. Cheltenham: Edward Elgar.
Mehmet Bulut, K.G. K. Ali Akkemik, 2012. An economic research on worlviews, religion
and altruistic economic behavior, Scientific and Technological Research Council
of Turkey - Project no. 110K319.
Mehnert, T., Kraus, H.H., Nadler, R., and Boyd, M. (1990). Correlates of Life Satisfaction
in Those with Disabling Conditions. Rehabilitation Psychology, 35(1): 3-17
Michalos, A., Zumbo, B., 2000. Criminal Victimization and the Quality of Life. Social
Indicators Research, 50(3), 245-295.
Morawetz, D., Atia, E., Bin-Nun, G., Felous, L., Gariplerden, Y., Harris, E., Soustiel, S.,
Tombros, G., Zarfaty, Y., 1997. Income Distribution and Self-Rated Happiness:
Some Empirical Evidence. The Economic Journal, 87(347), 511-522.
Mookerjee, R., Beron, K., 2005. Gender, Religion and Happiness. The Journal of Socio-
Economics, 34, 674-685.
Myrskyla, M. and Margolis, R. (2012). Happiness: before and after the kids. Working
paper, Max Planck Institute for Demographic Research, Rostock, Germany.
Nath, S., 2007. Religion & Economic Growth and Development. Indira Gandhi Institute of
Development Resaerch, No. 8181.
Nguyen, A.-M. D., & Benet-Martínez, V. (2013). Biculturalism and adjustment: A meta-
analysis. Journal of Cross-Cultural Psychology, 44, 122-159
Noland, M., 2005. Religion and Economic Performance. World Development, Vol. 33, No.
8, pp.1215–1232.
Overmyer, K., 2012. Economic Vulnerability and Resilience: Lessons from Eastern
Caribbean Small Island Developing States. Central European University.
Oscar, S., 2008. Spirits of consumption and the capitalist ethic in Vietnam. In P. Kitiarsa
(Eds.) Religious commodifications in Asia: Marketing gods (pp. 147 – 168).
London and New York: Routledge.
Pargament, Kenneth I., (2002). The Bitter and the Sweet: An Evaluation of the Costs and
Benefits of Religiousness. Psychological Inquiry, Vol. 13, No. 3, pp. 168-181.
Piketty, Thomas. 1995. “Social Mobility and Redistributive Politics.” Quarterly Journal of
Economics 110: 551–84.
Pimm, S. L. (1984) The complexity and stability of economic systems. Nature, 307: 321–
326.
Popova, O., 2010. Can religion Insure against Aggregate Shocks to Happiness? The Case
of Transition Countries, Center for Economic Research and Graduate Education -
Charles University, Prague CERGE - EI.
Powdthavee, N., 2005. Unhappiness and Crime: Evidence from South Afirca. Economica,
72, 531-547.
Phạm Quỳnh Phương, C.E., 2009. Mothering and Fathering the Vietnamese: Religion,
Gender, and National Identity. Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, Issue 1,
pp.49–83.
Read, D., 2004. Utility theory from Jeremy Bentham to Daniel Kahneman. Department of
Operational Research - London School of Economics and Political Science,
Working Paper No: LSEOR 04-64.
Rehdanz, K., Maddison, D., 2005. Climate and Happiness. Ecological Economics, 52, 11-
125.
Renneboog, Luc and Spaenjers Christophe . May 2009. “Where angels fear to Trade: The
Role if Religion in Household Finance.” CentER Disscusion Paper No. 2009-34.
Renneboog, Luc and Spaenjers, Christophe, 2012. Religion, Economic Attitudes, and
Household Finance (January 27, 2011). Oxford Economic Papers, Vol. 64, No. 1,
2012.
Robert J. Barro, R.M.M., 2004. Religion and Economic Growth. The Milken Institute
Review, Second Quarter 2004, pp.36–45.
Robert J. Barro, R.M.M., 2003a. Religion And Economic Growth, National Bureau Of
Economic Research.
Robert J. Barro, R.M.M., 2003b. Religion and Economic Growth across Countries.
American Sociological Review, Vol. 68, No. 5, pp.760–781.
Robert J. Barro, R.M.M., 2006. Religion and Economy. Journal of Economic Perspectives,
Volume 20, Number 2, pp.49–72.
Roszko, E., (2012). From Spiritual Homes to National Shrines: Religious Traditions and
Nation-Building in Vietnam. East Asia, vol.29, pp.25–41.
Salemink, O. (2008). Spirits of consumption and the capitalist ethic in Vietnam. In P.
Kitiarsa (Eds. Religious commodifications in Asia: Marketing gods (pp. 147 – 168).
London and New York
Samuelsson, Kurt. (1993). Religion and Economic Action: The Protestant Ethic, the Rise
of Capitalism and the Abuses of Scholarshi, Toronto: U.Toronto Press
Sandvik, E., Diener, E., and Seidlitz, L. (1993). Subjective Well-Being: The
Convergence and Stability of Self-Report and Non-Self-Report Measures. Journal of
Personality, 61(3): 317-42.
Senfey, P., Teksoz, U., 2007. Does Tranistion Make You Happy? The Economics of
Transition, 15(4), 707-731.
Scheve Kenneth , D.Stasavage., (2006). Religion and Preferences for Social Insurance.
QuarterlJournal of Political Science, vol. 1, pp.255–286.
Sen, A. (1981). Famines and poverty. Oxford University Press, London, UK.
Stets, Jan E., Peter J. Burke. Identity Theory and Social Identity Theory. Social Psychology
Quarterly 63 (2000), 224-237.
Stevenson, Betsey & Wolfers, Justin, 2008. Economic Growth and Subjective Well-
Being: Reassessing the Easterlin Paradox, Brookings Papers on Economic Activity,
Economic Studies Program, The Brookings Institution, vol. 39(1 (Spring), pages 1-102
Stigler, G.J., 1950. The Development of Utility Theory. The Journal of Political Economy,
Vol. 58, No. 4, pp.307–327.
Townsend, R. M., 1994. “Risk and Insurance in Village India,” Econometrica, 62, 539–91
Thomas Markussen, N.D.A.T. Maria Fibæk Finn Tarp, 2014. The happy farmer: Self-
employment and subjective well-being in rural Vietnam. World Institute for
Development Economics Research, WIDER Working Paper 2014/108.
Udry, C. R., 1994. “Risk and Insurance in a Rural Credit Market: An Empirical
Investigation in Northern Nigeria,” Review of Economic Studies, 61, 495–526,
United States Department of State, Bureau of Democracy, Human Rights and Labor,
International Religious Freedom Report for 2011: VietNam
van Praag, Bernard M. S.; Frijters, P.; Ferrer-i-Carbonell, Ada (2001) : The Anatomy of
Subjective Well-being, DIW-Diskussionspapiere, No. 265
Veenhoven, R. (1991). Is happiness relative? Social Indicators Research, 24, 1–34.
Veenhoven, R., & Ehrhardt, J. (1995). The cross-national pattern of happiness: Test of
predictions implied in three theories of happiness. Social Indicators Research, 34,
33–68.
Vinci, G.A.& C.P., 2010. Government regulation of religion and investments in human and
physical capital: Religion versus secularism. International Journal of Social
Economics, Vol. 37 No. 2, pp.119–135.
Walker, B., Gunderson, L., Kinzig, A., Folke, C., Carpenter, S., Schultz, L. (2006) A
handful of heuristics and some propositions for understanding resilience in socio-
ecological systems. Ecology and Society, 11.
Wainwright, F. and C. Newman, “Income Shocks and Household Risk Coping Strategies:
Evidence from Vietnam,” Discussion Paper No. 358, IIIS Discussion Paper Series,
2011.
Weber, Max. 1905 [1930]. The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism. London:
Allen & Unwin.
Welsch, H., 2007. Environmental Welfare Analysis: A Life Satisfaction Approach.
Ecological Economics, 62, 544-511.
Westoby, M., Walker, B., Noy-Meir, I., 1989. Opportunistic management for rangelands
not at equilibrium. Journal of Range Management 42(4), 266–274.
Winkelmann, L., Winkelmann, R., 1998. Why are the Unemployed So Unhappy/ Evidence
from Panel Data. Economica, 65(257), 1-15.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Mô tả các biến
Các biến
Mô tả
Cú sốc về thu nhập
Một tập hợp các biến giả để thể hiện cho 3 loại cú sốc: (1) các cú sốc về thiên tai dịch bệnh ; (2) các
(shock)
cú sốc về mặt kinh tế; và (3) các rủi ro đối với các thành viên của hộ. Các cú sốc khác không được
xem xét trong mô hình. Các cú sốc được chọn là những cú sốc có tác động nghiêm trọng nhất đến
với mỗi hộ gia đình trong gia đoạn từ tháng 7/2010 đến tháng 7/2012.
Cú sốc thiên nhiên về
Biến cơ sở thể hiện liệu hộ có bị các cú sốc thu nhập do thiên tai gây ra không. Các cú sốc bao gồm
thiên tai dịch bệnh
lũ lụt; hạn hán; bão và các thiên tai khác; sâu bệnh, dịch bệnh đối với vật nuôi và cây trồng; cúm gia
cầm
Cú sốc về kinh tế
Biến giả thể hiện liệu hộ có bị các cú sốc ngoại sinh về kinh tế hay không. Các cú sốc bao gồm biến
(shock2)
động giá sản phẩm trên thị trường; thiếu hoặc biến động giá cả thị trường đối với nguyên vật liệu/
dịch vụ đầu vào; biến động giá lương thực hoặc các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; thất nghiệp; đầu
tư không hiệu quả; mất đất; mất trộm bị cướp.
Cú sốc đối với các
Biến giả thể hiện liệu hộ có bị các cú sốc đối với các thành viên trong hộ hay không. Các cú sốc bao
thành viên của hộ
gồm ly hôn bất hoà hoặc xung đột trong gia đình hoặc với các gia đình khác; thành viên trong hộ ốm
(shock3)
nặng/bị thương/qua đời.
Thiệt hại (totalloss)
Tổng thiệt hại mà các cú sốc gây ra cho hộ gia đình.
Các hoạt động đối phó
tập hợp các biến giả thể hiện các hoạt động quan trọng nhất hộ đã làm để đối phó với các cú sốc về
với các cú sốc (react)
thu nhập bao gồm: (1) không làm gì; (2) sử dụng các nguồn lực sẵn có, (3) được hỗ trợ ; (4) vay
mượn (ngân hàng và các nguồn khác). Các hoạt động đối phó với các cú sốc khác không được xem
xét trong mô hình. Các hoạt động đối phó này là những biện pháp quan trọng nhất mà hộ đã sử dụng
để thích ứng với các cú sốc có tác động nghiêm trọng nhất đã xảy ra.
Không làm gì Biến cơ sở thể hiện hộ gia đình không thực hiện một hoạt động nào để đối phó với các cú sốc
Sử dụng các nguồn lực
Biến giả (1 sử dụng các nguồn lực sẵn có, 0 các trường hợp khác). Các nguồn lực sẵn có bao gồm
sẵn có (react2)
giảm chi tiêu, bán đất, vật nuôi, tài sản khác; sử dụng tiền tiết kiệm, tìm thêm việc
Được hỗ trợ (react3) Biến giả (1 được hỗ trợ, 0 các trường hợp khác). Các nguồn hỗ trợ bao gồm từ họ hàng hoặc bạn bè,
chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, được hoãn trả tiền vay, được hỗ trợ bảo hiểm
Vay mượn (react4) Biến giả (1 vay mượn, 0 các trường hợp khác). Các nguồn vay mượn bao gồm từ ngân hàng và các
nguồn khác
Đặc điểm kinh tế - xã
Tập hợp các biến thể hiện các đặc điểm về kinh tế - xã hội của cá nhân. Các biến này bao gồm
hội (socecon)
Tổng thu nhập của hộ
Tổng thu nhập của hộ trong năm – bao gồm thu nhập từ tiền lương; các hoạt động nông lâm
(income)
ngư nghiệp; khai thác và đánh bắt tự nhiên; các hoạt động phi nông nghiệp không được trả công;
cho thuê bán; các khoản chuyển nhượng hỗ trợ từ cá nhân, chính phủ và các tổ chức xã hội; các
khoản khác. Thu nhập không tính các khoản được chi trả bởi bảo hiểm.
Thu nhập bình quân đầu
Tổng thu nhập của hộ / Tổng số thành viên trong hộ.
người (income_mem)
Tình trạng hôn nhân
Tập hợp các biến giả thể hiện tình trạng hôn nhân của chủ hộ, bao gồm (1) Đang có vợ/chồng, (2)
(marriage)
vợ/chồng đã mất và (3) các trường hợp khác.
Đang có vợ/chồng Biến cơ sở thể hiện người được phỏng vấn đang sống cùng vợ/chồng
Vợ/chồng đã mất
Biến giả (1 vợ/chồng đã mất, 0 các trường hợp khác)
(marriage2)
Tình trạng hôn nhân
Biến giả (1 độc thân/ly dị/ly thân 0 các trường hợp khác)
khác (marriage3)
Số trẻ em trong gia đình
Số lượng trẻ em dưới trong độ tuổi từ 3-12 trong gia đình.
(chilren312)
Giới tính (gender)
Biến giả (1 Nam, 0 Các trường hợp khác).
Tuổi (age)
Số tuổi = Năm 2012 – Năm sinh.
Tuổi bình phương/1000
Số tuổi2/1000.
(age2)
Số ngày nghỉ lao động
Biến thể hiện tình trạng sức khoẻ của cá nhân. Được đo bằng số ngày nghỉ lao động do bệnh. Giá trị
do bệnh (illday),
biến càng cao cho thấy tình trạng sức khoẻ càng xấu.
Giáo dục (education)
Biến thể hiện số năm đi học
Biến giả thể hiện tình trạng nghề nghiệp (1 không tìm được việc làm, 0 các trường hợp khác).
Thất nghiệp
(unemployed)
Số lần tham dự đám
Số lần tham dự đám cưới của bạn bè hoặc họ hàng của chủ hộ trong 1 năm.
cưới (wedding),
Chủ hộ (head)
Biến giả (1 người được phỏng vấn là chủ hộ, 0 các trường hợp khác)
Đã khắc phục hoàn toàn
Thể hiện mức độ đã vượt qua được các cú sốc của hộ bao gồm (1) hầu như chưa phục hồi, (2) một
phần và (3) phục hồi hoàn toàn. Mức độ phục hồi được xét theo cú sốc gây ảnh hưởng nghiêm trọng
từ các cú sốc
(resilience)
nhất đến hộ
Hạnh phúc (happiness)
Thể hiện mức độ hài lòng với cuộc sống của người được phỏng vấn qua câu hỏi “Ông/bà có hài lòng
với cuộc sống không?”. Biến hạnh phúc có 4 lựa chọn 1 “Không hài lòng”, 2 “Bình thường”, 3 “Hài
lòng”, 4 “Rất hài lòng”.
Hạnh phúc, điều chỉnh
Biến giả = 1 với các câu trả lời “Rất hài lòng” và “Hài lòng”; Biến giả = 0 với các câu trả lời “Bình
thành 0/1 (happiness)
thường” và “Không hài lòng”
Tôn giáo (religion)
Biến giả thể hiện cá nhân có tham gia vào một nhóm tôn giáo nào không (1 Có tham gia, 0 các
trường hợp khác)
Số thôn trong xã có các
Biến công cụ thể hiện số lượng thôn có hoạt động các nhóm tín ngưỡng tôn giáo trong xã.
nhóm tín ngưỡng,
(religion village)
Phụ lục 2: Thống kê mô tả các biến sử dụng trong mô hình hồi quy
Phụ lục 2.1 Mô tả thống kê các biến - mô hình tôn giáo - mức độ hài lòng
Obs
Max
Variable Hài lòng
Mean 2.425979
Std. Dev. Min 0.698273
1047
1
4
Hài lòng, điều chỉnh thành 0/1
1047
0.465139
0.499022
0
1
Tôn giáo
1047
0.020057
0.140263
0
1
Số thôn tôn giáo trong xã, ln(x+1)
1047
0.465105
0.738607
2.995732
0
Tổng tổn thất, ln(x)
1047
8.381355
1.327838
4.60517
12.30138
Số đám cưới tham dự, ln(x+1)
1047
2.450008
0.79241
0
4.867535
1047
9.339967
0.767521
7.122867
11.9506
Thu nhập/người, ln(x)
0
1047
1.742535
0.832998
2.564949
Số năm đi học, ln(x+1)
0
6
1047
0.829035
1.034952
Số trẻ từ 3-12 tuổi
0
1047
0.715377
0.45145
Nam
92
1047
49.76409
13.66664
17
Tuổi
1047
2.663063
1.448306
0.289
8.464
Tuổi^2/1000
0
Ngày nghỉ bênh, ln(x+1)
1047
1.387664
1.450885
5.902633
0
1
1047
0.840497
0.36632
Đã kết hôn
Nguồn: tác giả tự tính toán
Phụ lục 2.2 Mô tả thống kê các biến - mô hình tổng hợp tôn giáo - khả năng
phục hồi
Variable
Obs
Mean
Std. Dev. Min
Max
Phuchoi
895 2.220112
0.73855
1
3
895 0.813408 0.389802
0
1
Phuchoi, 0/1 Tiết kiệm, ln(x+1)
901 8.771175 1.625401 2.833213 13.81551
Số dư tiết kiệm đầu kỳ, ln(x+1)
901 6.698983 3.855391
0 15.89495
Các cú sốc
Kinh tế
901 0.113208 0.317022
0
1
Các thành viên của hộ
901
0.18091 0.385158
0
1
Các hoạt động đối phó
Dùng các nguồn lực sẵn có
901 0.481687 0.499942
0
1
Được hỗ trợ
901 0.082131 0.274717
0
1
Vay mượn
901 0.039956 0.195964
0
1
Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
901 2.434132
0.77344
0 4.867535
Thu nhập bình quân đầu người, ln(x)
901 9.398908 0.750887 7.122867
11.9506
Số năm đi học, ln(x+1)
901 1.740758 0.832423
0 2.564949
Tổng thiệt hại, ln(x)
901 8.410105 1.331167
4.60517 12.30138
Số trẻ em từ 3-12 tuổi
901 0.837958 1.028668
0
5
Nam
901 0.851276 0.356014
0
1
Tuổi
901 50.64817 13.46194
18
92
Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
901 1.439156 1.453831
0 5.902633
Tôn giáo
901 0.018868 0.136134
0
1
Tình trạng hôn nhân
Goá bụa
901 0.011099 0.104823
0
1
Độc thân, ly dị, ly thân.
901 0.143174 0.350445
0
1
Nguồn: tác giả tự tính toán
Phụ lục 2.4 Tỉ lệ phân phối của các mức tiết kiệm được chia theo tam phân vị đến biến tôn giáo, ứng với từng nhóm thu nhập khác nhau
Tổng mẫu
Nhóm thu nhập 1
Nhóm thu nhập 2
Nhóm thu nhập 3
1
2
3
Tổng
1
2
3
Tổng
1
2
3
Tổng
Tổng
1 136
2 110
3 115
Không tham gia tôn giáo
321
272
291
884
57
61
45
163
121
121
118
360
361
Có tham gia tôn giáo
5
3
9
17
1
1
0
2
2
2
4
8
7
0
1
6
Chi2
Pearson chi2(2) =3.1688 Pr = 0.205
Pearson chi2(2) =0.7623 Pr = 0.683
Pearson chi2(2) =1.0474 Pr = 0.592
Pearson chi2(2) =9.2914 Pr = 0.010 Nguồn: tác giả tự tính toán
Phụ lục 2.5 Tỉ lệ phân phối của khả năng phục hồi (PH) theo các biến độc lập, ứng với từng nhóm thu nhập khác nhau
Tổng mẫu
Nhóm thu nhập 1
Nhóm thu nhập 2
Nhóm thu nhập 3
PH1 PH2 PH3 Tổng PH1 PH2 PH3 Tổng PH1 PH2 PH3 Tổng PH1 PH2 PH3 Tổng
83
137
102
322
22
24
11
57
29
53
41
123
59
132
21
52
1
Mức tiết kiệm, ln(x+1)
46
119
108
273
16
30
16
62
25
50
48
123
62
111
16
33
2
38
108
154
300
10
28
7
45
12
49
60
121
60
121
16
45
3
Pearson chi2(4) = 32.3269 Pr = 0.000
Pearson chi2(4) = 6.2073 Pr = 0.184
Pearson chi2(4) = 11.1000 Pr = 0.025
Pearson chi2(4) = 3.5131 Pr = 0.476
Thiên tai
61
27
Các cú sốc
116
257
261
634
39
28
128
50
116
115
281
80
118
225
Kinh tế
20
44
37
101
2
13
5
20
6
11
11
28
21
53
12
20
Người thân
31
63
66
160
7
8
1
16
10
25
23
58
42
86
14
30
Pearson chi2(4) = 0.8925 Pr = 0.926
Pearson chi2(4) = 6.6621 Pr = 0.155
Pearson chi2(4) = 0.3120 Pr = 0.989
Pearson chi2(4) = 5.0795 Pr = 0.279
11
35
17
63
10
53
41
27
117
160
304
72
135
7
80
128
1
Tổng thiệt hại, ln(x)
14
23
10
47
20
47
40
59
124
112
295
43
110
19
59
118
2
3
81
123
92
296
23
24
7
54
36
52
34
122
27
49
42
118
Pearson chi2(4) = 46.3477 Pr = 0.000
Pearson chi2(4) = 9.7807 Pr = 0.044
Pearson chi2(4) = 27.9732 Pr = 0.000
Pearson chi2(4) = 23.7229 Pr = 0.000
Tình trạng hôn nhân
144
310
306
760
42
72
30
144
57
134
122
313
45
104
154
303
Đang có vợ/chồng
Goá bụa
1
3
6
10
1
1
3
5
0
2
3
5
Độc thân/ ly dị/ ly thân.
22
51
52
125
6
10
4
20
8
17
24
49
8
24
24
56
Pearson chi2(4) = 1.7702 Pr = 0.778
Pearson chi2(2) = 0.0100 Pr = 0.995
Pearson chi2(4) = 2.8445 Pr = 0.584
Pearson chi2(4) = 2.4495 Pr = 0.654
80
192
181
453
24
46
12
82
31
76
63
170
35
93
113
241
1
Số trẻ em từ 3-12 tuổi
29
92
92
213
16
23
11
50
14
42
44
100
5
27
41
73
2
58
80
91
229
8
13
11
32
21
34
42
97
13
10
27
50
3
Pearson chi2(4) = 11.5558 Pr = 0.021
Pearson chi2(4) = 6.0414 Pr = 0.196
Pearson chi2(4) = 3.9983 Pr = 0.406
Pearson chi2(4) = 12.7057 Pr = 0.013
Nam
Giới tính
23
51
57
131
6
7
1
14
8
15
27
50
9
29
29
67
Khác
144
313
307
764
42
75
33
150
58
137
122
317
44
101
152
297
Pearson chi2(2) = 0.5186 Pr = 0.772
Pearson chi2(2) = 2.3291 Pr = 0.312
Pearson chi2(2) = 4.5088 Pr = 0.105
Pearson chi2(2) = 2.0743 Pr = 0.354
73
117
116
306
18
33
6
57
25
52
52
129
27
35
64
126
1
Tuổi
47
136
121
304
13
23
21
57
17
61
39
117
16
44
61
121
2
47
111
127
285
17
26
7
50
24
39
58
121
10
51
56
117
3
Pearson chi2(4) = 10.3955 Pr = 0.034
Pearson chi2(4) = 14.2038 Pr = 0.007
Pearson chi2(4) = 10.0232 Pr = 0.040
Pearson chi2(4) = 11.5267 Pr = 0.021
Số ngày bị bệnh, ln(x+1)
73
145
162
380
23
38
12
73
26
52
61
139
24
55
89
168
1
38
105
92
235
13
21
10
44
24
59
63
146
18
39
55
112
2
3
56
114
110
280
12
23
12
47
16
41
25
82
11
36
37
84
Pearson chi2(4) = 3.2563 Pr = 0.516
Pearson chi2(4) = 1.7240 Pr = 0.786
Pearson chi2(4) = 5.0424 Pr = 0.283
Pearson chi2(4) = 2.8601 Pr = 0.582
78
162
123
363
16
29
17
62
34
55
159
18
50
65
133
70
1
Số năm đi học, ln(x+1)
72
153
176
401
17
24
9
50
29
73
169
23
50
73
146
67
2
17
49
65
131
15
29
8
52
3
21
39
12
30
43
85
15
3
Pearson chi2(4) = 14.0066 Pr = 0.007
Pearson chi2(4) = 3.3893 Pr = 0.495
Pearson chi2(4) = 7.2341 Pr = 0.124
Pearson chi2(4) = 0.5087 Pr = 0.973
74
138
88
300
18
27
9
54
21
52
123
21
37
61
119
50
1
Thu nhập/người, ln(x)
50
120
127
297
15
31
9
55
22
44
123
15
48
60
123
57
2
43
106
149
298
15
24
16
55
23
53
121
17
45
60
122
45
3
Pearson chi2(4) = 29.3731 Pr = 0.000
Pearson chi2(4) = 4.1358 Pr = 0.388
Pearson chi2(4) = 2.4843 Pr = 0.647
Pearson chi2(4) = 2.5058 Pr = 0.644
Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
90
179
153
422
15
41
12
68
27
47
51
125
24
54
59
137
1
37
66
75
178
15
18
16
49
25
53
51
129
14
43
64
121
2
40
119
136
18
23
6
14
52
47
15
58
33
3
295 Pearson chi2(4) = 11.2980 Pr = 0.023
47 Pearson chi2(4) = 10.8330 Pr = 0.029
113 Pearson chi2(4) = 4.1007 Pr = 0.393
106 Pearson chi2(4) = 4.7255 Pr = 0.317
Các hoạt động đối phó
76
127
146
349
21
28
17
66
29
51
66
146
26
48
63
137
81
Không làm gì cả Dùng các nguồn lực sẵn có
71
185
176
432
24
47
15
86
29
68
178
18
57
93
168
Được hỗ trợ
14
12
35
27
74
0
3
1
4
6
7
27
6
18
19
43
Vay mượn
6
7
16
13
36
3
4
1
8
2
7
15
2
6
5
13
Pearson chi2(6) = 6.8193 Pr = 0.338
Pearson chi2(6) = 4.7364 Pr = 0.578
Pearson chi2(6) = 6.5168 Pr = 0.368
Pearson chi2(6) = 6.6580 Pr = 0.354
Nguồn: tác giả tự tính toán
Phụ lục 2.6 Tỉ lệ phân phối của mức độ hài lòng theo các biến độc lập, ứng với từng nhóm thu nhập khác nhau
Tổng mẫu Nhóm thu nhập 1 Nhóm thu nhập 2 H1 H2 H3 H4 Tổng H1 H2 H3 H4 Tổng H1 H2 H3 H4 Tổng
Tôn giáo Không tham gia 81 468 434 43 1,026 64 294 191 13 562 17 174 243 30 464 Có tham gia 3 8 10 0 21 2 5 7 0 14 1 3 3 0 7
1 Pearson chi2(3) = 2.3210 Pr = 0.509 16 172 127 Pearson chi2(3) = 2.1681 Pr = 0.538 75 121 232 32 4 Pearson chi2(3) = 2.6606 Pr = 0.447 79 166 71 13 3 350 35 Tổng tổn thất 2 164 163 14 12 86 57 161 2 51 86 9 148 358 6 17 3 140 154 13 22 92 66 183 13 55 81 8 157 339 3 32
1 Pearson chi2(6) = 14.6070 Pr = 0.024 16 231 193 Pearson chi2(6) = 6.2023 Pr = 0.401 59 106 192 25 2 Pearson chi2(6) = 16.7894 Pr = 0.010 86 158 58 7 7 488 48 Số làn tham dự đám cưới 2 154 145 17 26 111 83 67 87 13 175 229 8 343 9 27
3 91 106 10 15 82 56 52 73 10 138 155 3 216 2 9
1 Pearson chi2(6) = 11.7082 Pr = 0.069 6 178 119 Pearson chi2(6) = 7.6464 Pr = 0.265 57 104 192 29 2 Pearson chi2(6) = 3.2243 Pr = 0.780 79 157 64 6 8 349 46 Thu nhập/người 2 167 143 14 20 92 75 57 88 7 157 192 5 349 5 25 3 131 182 23 17 103 66 56 79 15 157 192 7 349 6 13
1 Pearson chi2(6) = 51.3014 Pr = 0.000 15 206 163 Pearson chi2(6) = 8.8896 Pr = 0.180 58 112 197 24 3 Pearson chi2(6) = 5.4359 Pr = 0.489 93 185 75 11 6 424 40 Số năm đi học 2 211 203 21 21 98 75 201 10 65 97 12 184 473 7 38
3 59 78 7 21 89 65 178 2 37 56 7 102 150 3 6
1 Pearson chi2(6) = 11.7340 Pr = 0.068 25 254 223 Pearson chi2(6) = 5.9278 Pr = 0.431 65 136 228 24 3 Pearson chi2(6) = 3.4471 Pr = 0.751 158 118 308 22 10 536 34 Số trẻ em từ 3-12 tuổi 2 105 123 8 33 129 114 285 3 32 58 5 98 250 9 14 3 117 98 10 9 34 19 63 5 27 30 3 65 261 1 36
Nam 38 Pearson chi2(6) = 20.8742 Pr = 0.002 7 136 117 Pearson chi2(6) = 13.0003 Pr = 0.043 40 152 29 82 1 Pearson chi2(6) = 6.1790 Pr = 0.403 77 146 54 9 6 298 Giới tính Khác 46 340 327 36 37 217 158 12 424 9 123 169 24 325 749
Tuổi 1 33 Pearson chi2(3) = 15.7194 Pr = 0.001 15 163 151 Pearson chi2(3) = 16.8716 Pr = 0.001 70 196 97 23 6 Pearson chi2(3) = 4.7655 Pr = 0.190 85 159 12 10 52 362 2 25 155 149 18 19 99 78 69 77 11 162 347 201 5 5
3 26 158 144 10 24 103 50 56 84 7 150 338 179 3 2
Tuổi^2/1000 1 33 Pearson chi2(6) = 3.2005 Pr = 0.783 15 163 151 Pearson chi2(6) = 7.9510 Pr = 0.242 70 196 23 97 6 Pearson chi2(6) = 8.3696 Pr = 0.212 85 159 10 12 52 362
2 25 155 149 18 19 99 78 69 77 11 162 347 201 5 5 3 26 158 144 10 24 103 50 56 84 7 150 338 179 3 2
1 29 Pearson chi2(6) = 3.2005 Pr = 0.783 16 206 214 Pearson chi2(6) = 7.9510 Pr = 0.242 91 130 248 24 3 Pearson chi2(6) = 8.3696 Pr = 0.212 123 217 76 13 5 465 Số ngày bị bệnh 2 14 110 109 9 13 71 59 60 70 7 141 242 147 4 4 3 41 160 121 18 29 98 48 41 53 10 113 340 181 9 6
Đã kết hôn 22 Pearson chi2(6) = 17.9056 Pr = 0.006 3 81 61 Pearson chi2(6) = 12.7089 Pr = 0.048 27 89 15 47 0 Pearson chi2(6) = 11.2915 Pr = 0.080 34 78 34 7 3 167 Tình trạng hôn nhân Khác 62 395 383 40 51 252 171 13 487 11 143 212 27 393 880
Pearson chi2(3) = 11.1769 Pr = 0.011 Pearson chi2(3) = 5.5660 Pr = 0.135 Pearson chi2(3) = 9.6634 Pr = 0.022
Phụ lục 3: Kết quả kiểm định
Phụ lục 3.1 Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến mô hình tổng hợp tôn giáo - khả năng phục hồi
Nam Tuổi Phục hồi Tiết kiệm Kinh tế Vay mượn Tôn giáo Goá bụa Phục hồi, 0/1 Được hỗ trợ Tổng thiệt hại Số năm đi học Các thành viên của hộ Độc thân, ly dị, ly thân. Số dư tiết kiệm đầu kỳ Dùng các nguồn lực sẵn có Số lần tham dự đám cưới Thu nhập bình quân đầu người Số trẻ em từ 3- 12 tuổi Số ngày bị bệnh trong năm Phục hồi 1.00 0.79 1.00 Phục hồi, 0/1 Tiết kiệm 0.21 0.17 1.00 Số dư tiết kiệm đầu kỳ 0.11 0.08 0.44 1.00 Kinh tế 0.06 0.02 1.00 -0.03 -0.01 Các thành viên của hộ 0.00 -0.01 0.03 -0.03 -0.17 1.00 Dùng các nguồn lực sẵn có 0.03 0.06 0.05 0.12 -0.01 -0.07 1.00 Được hỗ trợ -0.01 0.02 0.06 0.03 -0.03 -0.29 1.00 0.39 Vay mượn -0.01 0.00 -0.08 -0.10 -0.02 -0.20 -0.06 1.00 0.13 0.11 0.07 0.27 0.01 -0.03 0.00 0.04 -0.01 0.07 1.00
0.19 0.12 0.58 0.20 0.05 -0.05 0.16 -0.01 0.16 1.00 0.35 Số lần tham dự đám cưới Thu nhập bình quân đầu người Số năm đi học 0.11 0.09 0.28 0.05 -0.04 0.04 0.03 0.00 0.07 0.36 1.00 0.39 Tổng thiệt hại -0.25 -0.21 0.14 0.08 0.03 0.00 0.14 0.13 0.19 0.21 0.07 1.00 0.04 Số trẻ em từ 3-12 tuổi -0.02 -0.05 -0.15 -0.05 -0.01 -0.05 -0.02 -0.10 0.03 -0.21 -0.37 -0.23 -0.02 1.00 Nam -0.02 -0.01 -0.03 0.00 0.00 -0.17 0.05 -0.16 -0.01 -0.01 -0.12 0.08 -0.01 0.14 1.00 Tuổi 0.11 0.10 0.08 0.07 0.07 -0.01 0.01 -0.05 0.19 -0.06 0.17 -0.04 -0.04 -0.33 -0.17 1.00 Số ngày bị bệnh trong năm 0.21 0.01 -0.02 0.01 -0.13 -0.18 -0.02 0.04 0.03 0.02 0.05 -0.10 -0.18 -0.12 0.12 1.00 0.30 Tôn giáo 0.13 0.02 0.05 0.02 -0.02 0.10 -0.02 0.02 -0.03 -0.03 0.06 -0.08 -0.09 0.08 0.00 0.03 1.00 0.09 Goá bụa 0.02 -0.03 -0.04 0.03 -0.02 -0.02 0.05 -0.02 -0.01 0.05 0.04 -0.09 -0.07 -0.23 0.02 -0.01 0.04 0.00 1.00 Độc thân, ly dị, ly thân. 0.01 -0.06 -0.05 -0.01 0.17 -0.08 0.20 -0.02 -0.03 0.04 -0.15 0.02 -0.11 -0.64 0.20 0.06 -0.04 0.01 0.29 1.00
Phụ lục 3.2 Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến mô hình tôn giáo - mức độ hài lòng
Tuổi Tuổi^2/1000 hài lòng Tôn giáo Nam giới hài lòng, 0/1 ln(Làng tôn giáo+1)*ln(Tổn thất) Thu nhập/người, ln(x) Đã kết hôn Tổng tổn thất, ln(x) Số năm đi học, ln(x+1) Số làng tôn giáo, ln(x+1) Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1) Số trẻ em từ 3- 12 tuổi Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
1.00 hài lòng 0.88 1.00 hài lòng, 0/1 -0.02 0.00 1.00 Tôn giáo -0.06 -0.03 0.10 1.00 Số làng tôn giáo, ln(x+1) 0.04 0.07 -0.03 -0.06 1.00 Tổng tổn thất, ln(x)
-0.06 -0.03 0.11 0.98 0.05 1.00 ln(Làng tôn giáo)*ln(Tổn thất)
0.12 0.11 -0.03 -0.06 0.04 -0.05 1.00 Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1) 0.25 0.22 -0.01 -0.02 0.24 0.01 0.35 1.00 Thu nhập/người, ln(x) 0.11 0.12 -0.08 -0.10 0.06 -0.08 0.38 0.31 1.00 Số năm đi học, ln(x+1) -0.08 -0.04 -0.10 0.10 -0.05 0.09 -0.20 -0.38 -0.24 1.00 Số trẻ em từ 3-12 tuổi 0.10 0.06 -0.06 -0.05 0.00 -0.05 -0.10 -0.10 0.07 0.06 1.00 Nam giới 0.01 0.00 0.06 -0.05 -0.01 -0.06 0.11 0.20 -0.05 -0.33 -0.03 1.00 Tuổi 0.01 0.01 0.08 -0.04 -0.03 -0.05 0.08 0.17 -0.06 -0.29 -0.03 0.99 1.00 Tuổi^2/1000
0.27 1.00 -0.08 -0.07 0.04 0.04 0.06 0.04 -0.02 0.07 -0.02 -0.10 -0.09 0.26 Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1) 0.10 0.07 -0.09 -0.02 0.02 -0.02 0.04 -0.03 0.06 0.11 0.39 -0.21 -0.24 -0.17 1.00 Đã kết hôn
Phụ lục 3.3 Kiểm định hệ số phóng đại phương sai mô hình tổng hợp tôn giáo - khả
năng phục hồi
VIF 1/VIF Biến
2.02 0.495344 Ly thân/ly dị/độc thân 2.00 0.500057 Nam giới 2.00 0.500699 ln(thu nhập/người) 1.94 0.515099 ln(tiết kiệm) 1.40 0.712570 Được hỗ trợ 1.38 0.726621 Tuổi
1.37 0.730641 ln(số năm đi học) 1.35 0.738236 số trẻ từ 3-12 tuổi 1.35 0.740196 Sốc thành viên 1.29 0.774428 ln(tiết kiệm đầu kỳ)
1.29 0.775647 Số lần tham dự đám cưới,ln(x+1)
1.20 0.835823 Dùng các nguồn lực 1.16 0.860428 Goá bụa 1.15 0.868972 Số ngày bệnh, ln(x+1) 1.14 0.878551 ln(tổn thất) 1.14 0.879975 Vay mượn 1.06 0.943514 Tôn giáo
1.05 0.953055 Sốc kinh tế
1.40 Mean VIF
Phụ lục 3.4 Kiểm định hệ số phóng đại phương sai mô hình tôn giáo - mức độ hài
lòng
Variable VIF 1/VIF
Tuổi 41.17 0.024290 40.46 0.024716
37.35 0.026771
Tuổi^2/1000 ln(số thôn tôn giáo+1) ln(thôn tôn giáo+1)*ln(tổn thất) 37.35 0.026772
1.52 0.659534
1.43 0.701213
1.40 1.32 0.713603 0.757347
0.762124 0.764642 0.807683 0.904106 0.954355 ln(tổn thất) ln(thu nhập/ người) Số trẻ em từ 3-12 tuổi Đã kết hôn ln(số năm đi học+1) ln(Đám cưới+1) Nam giới số ngày bị bệnh Tôn giáo Mean VIF 1.31 1.31 1.24 1.11 1.05 12.92
Phụ lục 4 Kết quả hồi quy
Phục lục 4.1: Tôn giáo và mức tiết kiệm – Phương pháp OLS
Biến phụ thuộc: Tổng tiết kiệm, ln(x) – Phương pháp OLS
Tổng mẫu (1)
Nhóm thu nhập 1 (2)
Nhóm thu nhập 2 (3)
Nhóm thu nhập 3 (4)
Số dư tiết kiệm đầu kỳ, ln(x+1)
Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
Thu nhập/người, ln(x)
0.135*** 0.146*** 0.109*** 0.151*** (0.011) (0.023) (0.017) (0.017) 0.148** 0.104 0.152* 0.129 (0.058) (0.107) (0.089) (0.101) 0.981*** 1.111*** 1.052*** 0.492* (0.064) (0.292) (0.273) (0.146)
Số năm đi học, ln(x+1)
Tổng thiệt hại, ln(x)
Số trẻ em từ 3-12 tuổi
Nam
0.149*** 0.202** 0.223*** -0.007 (0.055) (0.083) (0.086) (0.114) 0.007 -0.022 -0.036 0.024 (0.031) (0.062) (0.048) (0.052) 0.132*** 0.102 0.091 0.299*** (0.044) (0.066) (0.068) (0.095) -0.170 -0.699* 0.040 -0.132
Tuổi
Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
Goá bụa
Độc thân, l dị, ly thân.
Tôn giáo
Hằng số
(0.157) (0.383) (0.275) (0.227) 0.007** 0.008 0.012** 0.001 (0.003) (0.007) (0.005) (0.006) -0.107*** -0.057 -0.146*** -0.067 (0.030) (0.067) (0.047) (0.047) -0.734* -1.084* -0.177 (0.403) (0.596) (0.608) -0.387** -0.145 -0.233 -0.570** (0.160) (0.351) (0.269) (0.247) 0.362 -0.531 0.221 0.823* (0.294) (0.728) (0.422) (0.495) -2.806*** 2.554 -2.158 -3.109**
0.469
0.215
0.212
0.353
adj. R-sq
165
368
368
901
N t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
Nguồn: tác giả tự tính toán
(0.621) (2.591) (2.506) (1.533)
Phục lục 4.2 Mức tiết kiệm và khả năng phục hồi – Phương pháp Orderd Logit và Multinomial Logit
Biến phụ thuộc: Mức độ phục hồi – Phương pháp Order logit
Biến phụ thuộc: Mức độ phục hồi – Phương pháp Multinomial Logit
Tổng mẫu (1) Nhóm thu nhập 1 (2) Nhóm thu nhập 2 (3) Nhóm thu nhập 3 (4) Tổng mẫu (5) Nhóm thu nhập 1 (6) Nhóm thu nhập 2 (7) Nhóm thu nhập 3 (8) Tổng mẫu (5’) Nhóm thu nhập 1 (6’) Nhóm thu nhập 2 (7’)
Cú sốc về Kinh tế
Nhóm "hầu như chưa phục hồi" so với nhóm cơ sở "phục hồi hoàn toàn" Nhóm thu nhập 3 (8’) Nhóm "phục hồi một phần" so với nhóm cơ sở "phục hồi hoàn toàn" 0.176 -1.032 0.006 0.796* 0.187 0.604 -0.104 0.070 -0.097 0.448 0.035 -0.427
(0.211) (0.480) (0.396) (0.307) (0.333) (0.991) (0.607) (0.469) (0.255) (0.657) (0.477) (0.372)
0.078 -1.183* 0.299 -0.040 -0.020 2.875* -0.446 0.122 -0.212 2.416* -0.210 -0.310
Cú sốc Các thành viên của hộ
(0.198) (0.663) (0.317) (0.293) (0.302) (1.531) (0.513) (0.477) (0.236) (1.461) (0.368) (0.349)
Tổng thiệt hại, ln(x)
-0.494*** -0.478*** -0.503*** -0.486*** 0.771*** 0.753*** 0.872*** 0.704*** 0.326*** 0.226 0.274*** 0.394***
(0.055) (0.137) (0.087) (0.090) (0.090) (0.236) (0.150) (0.152) (0.066) (0.203) (0.102) (0.104)
Goá bụa
0.005 0.106 -0.768 0.279 -11.747 -0.523 -0.497 0.307 0.518
(0.726) (1.101) (0.946) (1.233) (1.516) (727.497) (0.796) (1.349) (1.038)
0.238 1.421* 0.047 0.035 -0.362 -2.634* -0.223 0.249 -0.127 -0.174 -0.073 -0.141
Độc thân, ly dị, ly thân.
(0.267) (0.746) (0.464) (0.390) (0.427) (1.470) (0.798) (0.656) (0.313) (0.974) (0.544) (0.451)
0.201*** 0.279** 0.162 0.334** -0.246** -0.504** -0.152 -0.333 -0.315*** -0.489** -0.288** -0.445**
Số trẻ em từ 3-12 tuổi
(0.073) (0.140) (0.114) (0.159) (0.113) (0.229) (0.186) (0.249) (0.090) (0.202) (0.137) (0.187)
Nam giới
0.147 1.812** -0.641 0.358 -0.219 -3.452* 0.699 -0.143 0.002 -0.952 0.886 -0.465
(0.262) (0.860) (0.488) (0.356) (0.414) (1.771) (0.813) (0.596) (0.306) (1.434) (0.566) (0.410)
Tuổi
0.008 -0.008 0.008 0.012 -0.013 0.009 -0.005 -0.041** -0.009 -0.023 -0.018* 0.013
(0.006) (0.015) (0.009) (0.010) (0.009) (0.024) (0.014) (0.018) (0.007) (0.021) (0.010) (0.012)
-0.012 0.291** -0.064 -0.053 -0.025 -0.545** 0.029 0.045 0.075 -0.327 0.188* 0.059
Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
(0.049) (0.143) (0.080) (0.074) (0.080) (0.243) (0.134) (0.126) (0.058) (0.209) (0.096) (0.085)
0.120 -0.053 0.371** -0.088 -0.195 0.050 -0.584** 0.199 -0.084 0.359 -0.283 0.059
Số năm đi học, ln(x+1)
(0.091) (0.179) (0.149) (0.177) (0.139) (0.298) (0.234) (0.295) (0.111) (0.251) (0.179) (0.210)
0.487*** 0.310 -0.325 0.409 -0.616*** -0.345 0.829 -0.387 -0.659*** -0.550 -0.090 -0.490*
Thu nhập/người, ln(x)
(0.125) (0.642) (0.470) (0.254) (0.194) (0.983) (0.765) (0.415) (0.151) (0.898) (0.566) (0.288)
0.042 -0.240 -0.064 0.292* -0.044 0.374 -0.047 -0.333 -0.101 -0.228 0.218 -0.263
Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
(0.094) (0.227) (0.149) (0.158) (0.149) (0.372) (0.247) (0.256) (0.114) (0.329) (0.178) (0.193)
0.191 0.244 -0.143 0.583** -0.414* -0.421 0.112 -0.953** 0.120 0.319 0.405 -0.370
Dùng các nguồn lực sẵn có
(0.142) (0.333) (0.225) (0.238) (0.223) (0.549) (0.364) (0.393) (0.170) (0.478) (0.267) (0.276)
Được hỗ trợ
0.019 3.402*** -0.533 0.421 -0.256 -19.079 0.750 -0.755 0.509 -2.090 1.098* -0.172
(0.274) (1.180) (0.437) (0.387) (0.445) (995.548) (0.710) (0.658) (0.333) (1.685) (0.566) (0.467)
Vay mượn
0.516 0.500 0.589 0.739 -0.911* -0.685 -1.498 -1.335 0.027 0.069 -0.056 0.107
(0.344) (0.782) (0.551) (0.571) (0.540) (1.396) (1.003) (0.942) (0.418) (1.299) (0.641) (0.688)
0.200*** 0.208 0.306*** 0.133* -0.337*** -0.273 -0.565*** -0.250** -0.041 0.054 -0.152 0.033
Tổng tiết kiệm, ln(x+1)
BIC
1836.6
388.6
799.6
771.3
1922.2
444.4
872.8
844.4
1922.2
444.4
872.8
844.4
N
891
164
366
361
891
164
366
361
891
164
366
361
t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
(0.053) (0.147) (0.088) (0.079) (0.081) (0.262) (0.149) (0.117) (0.064) (0.230) (0.104) (0.092)
Phục lục 4.3 Mức tiết kiệm và khả năng phục hồi – Phương pháp Multinomial Logit – Tác động biên
Biến phụ thuộc: Mức độ phục hồi – Phương pháp Multinomial Logit- Tác động biên
Tổng mẫu (1)
Nhóm thu nhập 1 (2)
Nhóm thu nhập 2 (3)
Tổng mẫu (1’)
Nhóm thu nhập 1 (2’)
Nhóm thu nhập 2 (3’)
Nhóm thu nhập 3 (4) Nhóm "hầu như chưa phục hồi" so với nhóm cơ sở "phục hồi hoàn toàn"
Nhóm thu nhập 3 (4’) Nhóm "phục hồi một phần" so với nhóm cơ sở "phục hồi hoàn toàn"
Cú sốc Kinh tế
0.007
0.083
0.034
0.217
-0.026
-0.020
0.010
-0.169
(0.065)
(0.623)
(0.056)
(2.062)
(0.105)
(0.292)
(0.040)
(2.908)
Cú sốc Các thành viên của hộ
0.012
0.139
-0.036
0.022
-0.050
0.065
-0.028
-0.075
(0.037)
(1.671)
(0.046)
(0.184)
(0.051)
(2.505)
(0.083)
(0.074)
Tổng thiệt hại, ln(x)
0.079***
0.093
0.085***
0.047
0.027*
-0.039
0.015
0.067
(0.010)
(1.352)
(0.014)
(0.380)
(0.014)
(1.195)
(0.023)
(0.242)
Goá bụa
-0.058
0.071
-0.110***
-0.086
-0.135
0.122
(0.106)
(0.235)
(0.020)
(0.175)
(0.281)
(0.259)
-0.036
Độc thân, ly dị, ly thân.
0.029
-0.009
-0.227
-0.021
0.144
-0.005
-0.042
(0.044)
(0.237)
(0.070)
(3.960)
(0.078)
(3.080)
(0.126)
(0.113)
Số trẻ em từ 3-12 tuổi
-0.011
-0.021
-0.000
-0.013
-0.061***
-0.054
-0.062**
-0.092
(0.013)
(0.303)
(0.020)
(0.106)
(0.020)
(0.572)
(0.031)
(0.143)
Nam giới
-0.031
-0.575
0.032
0.006
0.398
0.175
-0.107
0.016
(0.055)
(1.331)
(0.075)
(0.066)
(1.629)
(0.116)
(0.121)
(0.068)
Tuổi
-0.001
0.004
0.000
-0.004
-0.007
-0.004*
0.004
-0.001
(0.001)
(0.033)
(0.064)
(0.002)
(0.033)
(0.002)
(0.011)
(0.002)
-0.008
Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
0.002
-0.047
-0.008
-0.011
0.045**
0.012
0.020
(0.010)
(0.018)
(0.685)
(0.014)
(0.753)
(0.022)
(0.026)
(0.013)
Số năm đi học, ln(x+1)
-0.020
-0.036
-0.051**
0.015
0.079
-0.034
0.007
-0.007
(0.016)
(0.024)
(0.527)
(0.024)
(0.125)
(0.161)
(0.040)
(0.079)
Thu nhập/người, ln(x)
-0.036
0.012
0.102
-0.016
-0.120***
-0.088
-0.073
-0.101
(0.023)
(0.216)
(0.080)
(0.133)
(0.033)
(0.293)
(0.127)
(0.169)
Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
-0.100
0.057
-0.050
-0.022
0.001
0.088
-0.019
-0.019
(0.827)
(0.041)
(0.128)
(0.025)
(0.018)
(1.282)
(0.026)
(0.158)
Dùng các nguồn lực sẵn có
0.127
0.093
-0.052
0.058
-0.063**
-0.108
-0.012
-0.068
(0.946)
(0.060)
(0.313)
(0.038)
(0.026)
(1.526)
(0.038)
(0.552)
Được hỗ trợ
-0.260
0.211*
-0.019
0.143*
-0.061
-0.277***
0.006
-0.048
(0.344)
(0.109)
(0.220)
(0.073)
(0.037)
(0.044)
(0.071)
(0.411)
Vay mượn
0.084
0.042
0.056
0.053
-0.090***
-0.096
-0.105***
-0.073
(0.033)
(1.591)
(0.038)
(0.639)
(0.097)
(1.207)
(0.155)
(0.306)
Tổng tiết kiệm, ln(x)
-0.042***
-0.050
-0.057***
-0.023
0.013
0.046
-0.003
0.017
(0.009)
(0.734)
(0.015)
(0.186)
(0.014)
(0.527)
(0.024)
(0.073)
N
891
164
366
361
891
164
366
361
t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
Phục lục 4.4 Mức tiết kiệm và khả năng phục hồi – Phương pháp Xác suất tuyến tính LPM
Biến phụ thuộc: Mức độ phục hồi – Phương pháp Xác suất tuyến tính LPM
Tổng mẫu (1)
Nhóm thu nhập 1 (2)
Nhóm thu nhập 2 (3)
Nhóm thu nhập 3 (4)
Cú sốc Kinh tế
Cú sốc Các thành viên của hộ
Tổng thiệt hại, ln(x)
Goá bụa
Độc thân, ly dị, ly thân.
Số trẻ em từ 3-12 tuổi
Nam giới
-0.092* (0.054) -0.037 (0.051) -0.054***
Tuổi
(0.015) 0.071 (0.163) -0.018 (0.068) 0.008 (0.026) 0.008 (0.062) 0.005*** -0.008 (0.041) -0.012 (0.038) -0.077*** (0.010) 0.037 (0.127) 0.042 (0.051) 0.007 (0.014) 0.038 (0.050) 0.001 (0.001) 0.151 (0.108) -0.134 (0.138) -0.098*** (0.029) 0.000 (.) 0.318* (0.162) 0.018 (0.030) 0.368** (0.185) -0.004 (0.003) -0.017 (0.073) 0.036 (0.059) -0.086*** (0.015) -0.026 (0.190) 0.024 (0.085) -0.000 (0.021) -0.020 (0.087) -0.001 (0.002) (0.002)
Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
Số năm đi học, ln(x+1)
Thu nhập/người, ln(x)
Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
Dùng các nguồn lực sẵn có
Được hỗ trợ
Vay mượn
Tổng tiết kiệm, ln(x)
Hằng số
0.011 0.046 0.014 -0.001
adj. R-sq N t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
(0.009) 0.020 (0.018) 0.028 (0.023) -0.002 (0.018) 0.066** (0.027) 0.082 (0.053) 0.133** (0.067) 0.044*** (0.010) 0.642*** (0.203) 0.089 891 (0.031) 0.022 (0.039) 0.002 (0.133) -0.093* (0.049) 0.097 (0.073) 0.705*** (0.255) 0.100 (0.173) 0.058* (0.033) 0.863 (1.188) 0.106 164 (0.015) 0.053* (0.027) -0.116 (0.088) 0.018 (0.028) 0.033 (0.042) 0.010 (0.083) 0.174* (0.105) 0.055*** (0.016) 1.989** (0.798) 0.097 366 (0.013) -0.019 (0.031) 0.011 (0.042) 0.028 (0.028) 0.082** (0.040) 0.076 (0.070) 0.162 (0.102) 0.033** (0.013) 0.571 (0.422) 0.066 361
Phục lục 4.5 Tôn giáo và mức độ hài lòng – Mô hình Ordered Probit và Tác động biên
Biến phụ thuộc: Mức độ hài lòng – Mô hình Ordered Probit
Ordered Probit
Ordered Probit với biến công cụ
Tổng mẫu (1)
Tác động biên
Nhóm thu nhập 1’ (2)
Tác động biên
Nhóm thu nhập 2’ (3)
Tác động biên
Tổng mẫu (4)
Tác động biên
Nhóm thu nhập 1’ (5)
Tác động biên
Nhóm thu nhập 2’ (6)
Tác động biên
Tôn giáo
-0.054
0.057
0.007
0.252
-0.040
-0.508
0.469
-0.066
2.375*
-0.442*
0.151
-0.012
Tổng tổn thất, ln(x) Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
(0.272) -0.014 (0.028) 0.063
(0.038) 0.002 (0.004) -0.008
(0.330) 0.011 (0.038) 0.062
(0.042) -0.002 (0.007) -0.011
(0.429) -0.035 (0.041) 0.060
(0.069) 0.003 (0.003) -0.004
(1.901) -0.019 (0.029) 0.062
(0.266) 0.003 (0.004) 0.009
(1.252) 0.017 (0.040) 0.056
(0.233) -0.003 (0.008) -0.010
(2.817) -0.042 (0.044) 0.060
(0.224) 0.003 (0.004) -0.005
Thu nhập/người, ln(x) Số năm đi học, ln(x+1) Số trẻ em từ 3-12 tuổi Nam giới Tuổi Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
(0.050) 0.397*** (0.054) 0.013 (0.047) -0.005 (0.040) 0.271*** (0.086) -0.029* (0.017) -0.057**
(0.007) -0.052*** (0.008) -0.002 (0.006) -0.001 (0.005) -0.039*** (0.014) 0.004* (0.002) 0.007**
(0.065) 0.342*** (0.125) 0.014 (0.055) 0.026 (0.049) 0.447*** (0.119) -0.003 (0.022) -0.063*
(0.012) -0.063*** (0.023) -0.003 (0.010) -0.005 (0.009) -0.093*** (0.028) 0.001 (0.004) 0.012
(0.078) 0.236** (0.106) 0.030 (0.093) -0.105 (0.073) 0.048 (0.129) -0.072** (0.028) -0.061
(0.006) -0.017** (0.008) -0.002 (0.007) 0.008 (0.005) -0.004 (0.010) 0.005** (0.002) 0.004
(0.050) 0.396*** (0.056) 0.016 (0.050) -0.013 (0.047) 0.275*** (0.089) -0.026 (0.018) -0.057**
(0.007) -0.056*** (0.009) -0.002 (.007) 0.002 (0.007) -0.039*** (0.013) 0.004 (0.003) 0.008**
(0.065) 0.289** (0.130) 0.030 (0.057) -0.011 (0.052) 0.462*** (0.120) 0.011 (0.023) -0.070*
(0.013) -0.054** (0.024) -0.001 (0.011) 0.002 (0.010) -0.086*** (0.023) -0.002 (0.004) 0.013*
(0.078) 0.229** (0.112) 0.037 (0.100) -0.117 (0.086) 0.060 (0.139) -0.072** (0.028) -0.061
(0.006) -0.018* (0.009) -0.003 (0.008) 0.009 (0.007) -0.005 (0.011) 0.006** (0.002) 0.005
Tuổi^2/1000 Đã kết hôn
(0.027) 0.260 (0.160) 0.183 (0.112)
(0.004) -0.034 (0.021) -0.026 (0.017)
(0.038) -0.013 (0.215) 0.007 (0.144)
(0.007) 0.002 (0.039) -0.001 (0.027)
(0.038) 0.692*** (0.254) 0.431** (0.174)
(0.003) -0.050*** (0.019) -0.041* (0.022)
(0.027) 0.233 (0.177) 0.194 (0.118)
(0.004) -0.033 (0.025) -0.027 (0.017)
(0.038) -0.165 (0.226) 0.086 (0.156)
(0.007) 0.031 (0.042) -0.016 (0.029)
(0.038) 0.686*** (0.255) 0.431** (0.173)
(0.003) -0.054** (0.022) -0.034** (0.015)
N BIC Tôn giáo Residuals
1047 2206.4
576 1256.2
471 1007.8
1047 2475.0 0.209 (1.686)
576 1447.0 -1.92 (1.428)
471 1151.9 0.034 (2.347)
t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
Phục lục 4.6 Tôn giáo và mức độ hài lòng – Mô hình Probit và Tác động biên
Biến phụ thuộc: Mức độ hài lòng – Mô hình Probit Probit
Tổng mẫu (1) Tác động biên Nhóm thu nhập 1’ (2) Tác động biên Nhóm thu nhập 2’ (3) Tác động biên Tổng mẫu (4) Tác động biên Probit với biến công cụ Nhóm thu nhập 1’ (5) Tác động biên Nhóm thu nhập 2’ (6) Tác động biên
Tôn giáo 0.114 0.045 0.431 0.169 -0.398 -0.158 0.870 0.326 3.064* 1.114* 0.175 0.066
(0.301) 0.023 (0.031) 0.056 (0.120) 0.009 (0.012) 0.022 (0.371) 0.019 (0.045) 0.066 (0.147) 0.007 (0.017) 0.025 (0.489) 0.032 (0.045) 0.046 (0.192) 0.012 (0.017) 0.018 (1.690) 0.025 (0.031) 0.056 (0.633) 0.009 (0.012) 0.021 (1.656) 0.036 (0.046) 0.059 (0.596) 0.013 (0.017) 0.021 (2.197) 0.030 (0.045) 0.047 (0.829) 0.011 (0.017) 0.018
Tổng tổn thất, ln(x) Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1) Thu nhập/người, ln(x) Số năm đi học, ln(x+1) Số trẻ em từ 3-12 tuổi (0.058) 0.379*** (0.063) 0.078 (0.055) 0.036 (0.023) 0.150*** (0.025) 0.031 (0.022) 0.014 (0.079) 0.294* (0.151) 0.073 (0.069) 0.068 (0.030) 0.110* (0.057) 0.027 (0.026) 0.026 (0.088) 0.185 (0.122) 0.112 (0.095) -0.059 (0.034) 0.072 (0.048) 0.044 (0.037) -0.023 (0.058) 0.372*** (0.064) 0.083 (0.057) 0.025 (0.022) 0.139*** (0.023) 0.0312 (0.021) 0.009 (0.079) 0.226 (0.157) 0.093 (0.071) 0.021 (0.029) 0.082 (0.057) 0.034 (0.026) 0.008 (0.087) 0.177 (0.126) 0.118 (0.097) -0.068 (0.033) 0.067 (0.047) 0.045 (0.036) -0.026
(0.045) 0.177* (0.097) -0.035* (0.018) -0.064** (0.018) 0.070* (0.038) -0.014* (0.007) -0.025** (0.055) 0.398*** (0.140) -0.012 (0.024) -0.064 (0.020) 0.143*** (0.048) -0.005 (0.009) -0.024 (0.084) -0.092 (0.145) -0.076** (0.032) -0.075* (0.033) -0.036 (0.056) -0.030** (0.013) -0.029* (0.052) 0.184* (0.099) -0.032* (0.019) -0.065** (0.019) 0.069* (0.037) -0.012* (0.007) -0.024** (0.061) 0.424*** (0.142) 0.004 (0.026) -0.072* (0.022) 0.154*** (0.05) 0.002 (0.009) -0.026* (0.090) -0.084 (0.148) -0.076** (0.032) -0.075* (0.034) -0.032 (0.056) -0.029** (0.012) -0.028*
Nam giới Tuổi Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1) Tuổi^2/1000 Đã kết hôn (0.029) 0.333* (0.171) 0.173 (0.126) (0.011) 0.132* (0.068) 0.068 (0.049) (0.043) 0.090 (0.227) -0.014 (0.173) (0.016) 0.034 (0.085) -0.005 (0.065) (0.040) 0.740** (0.293) 0.408** (0.185) (0.015) 0.288** (0.114) 0.161** (0.073) (0.029) 0.301 (0.184) 0.191 (0.133) (0.011) 0.113 (0.069) 0.072 (0.05) (0.044) -0.090 (0.255) 0.084 (0.193) (0.016) -0.033 (0.093) 0.031 (0.07) (0.040) 0.740** (0.294) 0.408** (0.186) (0.015) 0.279** (0.109) 0.154** (0.069)
N BIC Tôn giáo Residuals 1047 1452.9 576 810.2 471 693.5 1047 1719.2 -0.777 ( 1.745) 576 1000.5 -2.778 (1.740) 471 837.4 -0.636 (2.393) t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
Phục lục 4.7 Tôn giáo và mức độ hài lòng – Mô hình LPM
Biến phụ thuộc: Mức độ hài lòng – Mô hình LPM LPM LPM với biến công cụ
Tổng mẫu (1) Tổng mẫu (4) Nhóm thu nhập 1’ (2) 0.160 Nhóm thu nhập 2’ (3) -0.150 Nhóm thu nhập 1’ (5) -0.565 Nhóm thu nhập 2’ (6) -2.104 0.041 -1.755 Tôn giáo (0.109) (0.146) (0.190) (1.267) (1.944) (1.384)
0.009 0.007 0.012 0.007 -0.005 0.020 Tổng tổn thất, ln(x) (0.012) (0.016) (0.017) (0.013) (0.020) (0.017)
0.021 0.024 0.017 0.021 0.027 0.014 Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1) (0.022) (0.029) (0.034) (0.024) (0.029) (0.036) 0.142*** 0.107** 0.067 0.157*** 0.125* 0.091* Thu nhập/người, ln(x) (0.023) (0.054) (0.044) (0.028) (0.073) (0.055) 0.029 0.026 0.042 0.015 0.020 0.021 Số năm đi học, ln(x+1) (0.020) (0.025) (0.037) (0.025) (0.030) (0.042) 0.013 0.025 -0.023 0.044 0.035 0.011 Số trẻ em từ 3-12 tuổi (0.017) (0.020) (0.032) (0.028) (0.041) (0.042)
0.142*** -0.035 0.138*** -0.065 0.066* 0.046 Nam giới (0.037) (0.048) (0.055) (0.043) (0.051) (0.063)
-0.028** -0.019** -0.013* -0.004 -0.017 -0.025* Tuổi (0.012) (0.009) (0.007) (0.009) (0.016) (0.013)
-0.024** -0.023 -0.028* -0.021* -0.019 -0.028* Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1) (0.016) (0.015) (0.012) (0.011) (0.017) (0.016) 0.274*** 0.190** 0.122* 0.030 0.156 0.258** Tuổi^2/1000 (0.066) (0.084) (0.105) (0.092) (0.168) (0.116) 0.064 -0.007 0.156** 0.028 -0.024 0.158** Đã kết hôn (0.047) (0.060) (0.071) (0.057) (0.096) (0.077) -0.802*** -0.692 0.310 -0.741** -0.449 -0.052 Hằng số (0.266) (0.533) (0.537) (0.304) (0.528) (0.636)
0.061 0.020 0.017 adj. R-sq 1047 576 471 1047 576 471 N
Tôn giáo Residuals 1.763 0.649 1.895
(1.144) (1.931) (0.145)
t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
Phục lục 4.8 Tôn giáo và khả năng phục hồi – Hệ phương trình đồng thời
Biến phụ thuộc: Tiết kiệm – Phương pháp OLS
Biến phụ thuộc: Mức độ phục hồi – Phương pháp Order Probit
Tổng mẫu (1)
Tổng mẫu (1')
Nhóm thu nhập 1 (2)
Nhóm thu nhập 2 (3)
Nhóm thu nhập 3 (4)
Nhóm thu nhập 1 (2')
Nhóm thu nhập 2 (3')
Nhóm thu nhập 3 (4')
Cú sốc về Kinh tế
Số dư tiết kiệm đầu kỳ, ln(x+1)
0.180 0.021 -0.272 0.143*** 0.109*** 0.152*** -0.063 0.135***
(0.124) (0.227) (0.239) (0.180) (0.012) (0.028) (0.020) (0.017)
Cú sốc Các thành viên của hộ
Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
0.033 -0.570 0.153 -0.027 0.148*** 0.092 0.152* 0.129
(0.118) (0.361) (0.200) (0.170) (0.054) (0.096) (0.091) (0.091)
Tổng thiệt hại, ln(x)
Thu nhập/người, ln(x)
-0.293*** -0.274*** -0.306*** -0.281*** 1.053*** 0.487** 0.981*** 1.111***
Goá bụa
(0.033) (0.081) (0.051) (0.054) (0.065) (0.241) (0.284) (0.139)
Số năm đi học, ln(x+1)
0.423 -0.023 0.183 0.149** 0.201** 0.223** -0.007
(0.455) (0.745) (0.435) (0.060) (0.083) (0.093) (0.147)
Độc thân, ly dị, ly thân.
Tổng thiệt hại, ln(x)
0.196 0.897** 0.044 0.071 0.007 -0.023 -0.036 0.024
(0.161) (0.395) (0.260) (0.245) (0.030) (0.062) (0.044) (0.049)
Số trẻ em từ 3- 12 tuổi
Số trẻ em từ 3- 12 tuổi
0.100** 0.122 0.092 0.149 0.133*** 0.111* 0.091 0.299***
Nam giới
Nam
(0.045) (0.083) (0.068) (0.101) (0.041) (0.060) (0.067) (0.085) 0.104 1.303*** -0.393 0.193 -0.172 -0.713* 0.040 -0.134
Tuổi
Tuổi
(0.157) (0.485) (0.278) (0.214) (0.171) (0.432) (0.390) (0.194) 0.004 -0.007 0.004 0.008 0.007** 0.009 0.012** 0.001
(0.004) (0.008) (0.006) (0.006) (0.003) (0.007) (0.005) (0.006)
Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
Số ngày bị bệnh trong năm, ln(x+1)
0.016 0.201** -0.031 -0.008 -0.107*** -0.053 - 0.146*** -0.066
Goá bụa
(0.032) (0.081) (0.055) (0.047) (0.031) (0.070) (0.046) (0.050)
Số năm đi học, ln(x+1)
0.059 -0.096 0.219** -0.050 -0.736** -1.084** -0.178
(0.056) (0.111) (0.095) (0.106) (0.341) (0.504) (0.395)
Độc thân, l dị, ly thân.
Thu nhập/người, ln(x)
0.147 0.024 -0.235 0.096 -0.387** -0.170 -0.233 - 0.570***
Tôn giáo
(0.114) (0.413) (0.346) (0.185) (0.164) (0.371) (0.349) (0.214)
Số lần tham dự đám cưới, ln(x+1)
0.013 -0.173 -0.027 0.156* 0.318 -0.965 0.220 0.780***
(0.055) (0.137) (0.091) (0.088) (0.212) (0.689) (0.288) (0.300)
Dùng các nguồn lực sẵn có
0.107 0.141 -0.076 0.312**
(0.084) (0.175) (0.133) (0.142)
Được hỗ trợ
0.014 1.968*** -0.306 0.223
(0.158) (0.469) (0.262) (0.209)
Vay mượn
0.311 0.342 0.398 0.404
(0.199) (0.396) (0.324) (0.316)
Tổng tiết kiệm, ln(x+1)
0.228*** 0.509*** 0.202 0.173*
BIC
4784.9
893.2
2030.1
2070.8
4784.9
893.2
2030.1
2070.8
N
901
165
368
368
901
165
368
368
t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
(0.075) (0.154) (0.161) (0.102)
Phục lục 4.9 Tôn giáo và khả năng phục hồi – Phương pháp Orderd Logit và Multinomial Logit
Biến phụ thuộc: Mức độ phục hồi – Phương pháp Order logit
Biến phụ thuộc: Mức độ phục hồi – Phương pháp Multinomial Logit
Tổng mẫu (1) Nhóm thu nhập 1 (2) Nhóm thu nhập 2 (3) Nhóm thu nhập 3 (4) Tổng mẫu (5) Nhóm thu nhập 1 (6) Nhóm thu nhập 2 (7) Nhóm thu nhập 3 (8) Tổng mẫu (5’) Nhóm thu nhập 1 (6’) Nhóm thu nhập 2 (7’)
Tôn giáo
Nhóm "hầu như chưa phục hồi" so với nhóm cơ sở "phục hồi hoàn toàn" Nhóm thu nhập 3 (8’) Nhóm "phục hồi một phần" so với nhóm cơ sở "phục hồi hoàn toàn" 0.315 17.792 -12.631 0.175 0.858 16.620 1.133 0.172 -0.487 -3.070* -0.119 -0.332
(0.474) (1.577) (0.693) (0.765) (0.907) (2133.704) (544.371) (1.351) (0.569) (2133.703) (0.865) (0.870)
BIC
389.6 805.5 777.0 1933.4 450.9 879.8 856.1 1933.4 450.9 879.8 856.1 1842.3
N
t statistics in parentheses * p<0.10, **p<0.05, *** p<0.01
891 164 366 361 891 164 366 361 891 164 366 361